‘Chúng ta đã vào không phận Mỹ chưa?’

‘Chúng ta đã vào không phận Mỹ chưa?’
Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

“Chúng ta đã vào không phận Mỹ chưa?” Đó là câu hỏi của Jian, người phụ nữ mang bầu 36 tuần, đi từ tỉnh Đào Viên (Đài Loan) đến Los Angeles (Hoa Kỳ) bằng máy bay của hãng hàng không China Airlines. Khi biết chắc chắn máy bay đã vào vùng trời Alaska rồi, thì bà Jian “vỡ nước ối” và phi công quyết định hạ cánh khẩn cấp xuống phi trường Anchorage để “cứu hai mẹ con.” Máy bay đến Los Angeles trễ ba tiếng đồng hồ.


Nhân viên cơ quan an ninh Mỹ ập vào một một số chung cư ở Rowland Heights
trong cuộc điều tra dịch vụ qua Mỹ sinh con vào Tháng Ba, 2015. (Hình: Mark
Boster/Los Angeles Times via Getty Images)

 

Bà mẹ Đài Loan này đã thành công với ý nguyện có một đứa con mang quốc tịch Mỹ, dù bà phải bồi thường một số tiền lớn cho hãng hàng không vì sự thiệt hại của chuyến bay này. Đứa bé là công dân Hoa Kỳ và 21 năm sau, nó có thể bảo lãnh cha mẹ đến Mỹ, và giấc mơ Mỹ của gia đình họ đã có kết quả.

Cách đây hai năm, hai vợ chồng một người Tàu khác từ Thượng Hải đã xoay xở mua được thị thực vào Mỹ dành cho doanh nhân. Sau đó, người vợ đáp máy bay đến California để chờ ngày sinh con.

Con trai của cặp vợ chồng này đã nhận được visa Mỹ sau khi ra đời được một tháng và họ đang sống ở Thượng Hải để chờ ngày đứa bé trưởng thành để có thể sẽ trở lại Mỹ cho toàn gia đình. Những em bé sinh ra trên đất Mỹ này được báo chí đặt cho cái tên là “em bé mỏ neo!”(bỏ neo tàu để trụ lại đất Mỹ.) Los Angeles hay Irvine là những nơi có rất nhiều “khách sạn sản khoa” chuyên phục vụ cho những dịch vụ này.

“Giấc mơ Mỹ” trở thành một trào lưu: Số trẻ em Trung Quốc sinh ra ở Mỹ vì lý do đi tìm “quốc tịch” đã tăng trong hai năm từ 2012 đến 2014 là từ 10,000 em lên đến 40,000.

Những dịch vụ sinh con ở Mỹ, đã có văn phòng ở khắp Trung Quốc, phí tổn để có thể sinh con ở Mỹ khoảng từ $30,000 đến $40,000. Chi phí này bao gồm vé máy bay, chỗ cư ngụ cho những bà mẹ ở Los Angeles hay bất cứ thành phố nào trên đất Mỹ và chi phí cho việc giấy tờ lấy quốc tịch cho đứa trẻ. Tháng Ba, 2015, Cơ Quan Điều Tra An Ninh Nội Địa Mỹ đã lục soát hơn 30 địa điểm để tìm ra những bà bầu này tại vùng Nam California.

Những người nước ngoài muốn sinh con trên đất Mỹ không phải chỉ có phụ nữ Trung Quốc, nhưng họ luôn chiếm số lượng cao nhất.

Vì sao người ta yêu nước Mỹ đến như thế, trong khi theo truyền thống, các nước Cộng Sản đều chống tư bản Mỹ nhưng vẫn bị thu hút bởi “giấc mơ Mỹ.” Theo điều số 14 của Hiến Pháp Mỹ, bất kể ai được sinh ra trên đất Mỹ sẽ trở thành công dân Mỹ, được vào các trường học công lập, được nhận hỗ trợ học phí đại học, được bầu cử.

Nhà văn kiêm sử gia James Truslow Adams đã có thuật ngữ “Giấc mơ Mỹ” trong cuốn sách xuất bản năm 1931 của ông có tựa đề là Epic of America (Thiên hùng ca Mỹ):

“Giấc mơ Mỹ là giấc mơ của một vùng đất mà ở đó cuộc sống đáng tốt đẹp hơn, giàu có hơn và đầy đủ hơn cho mọi người. Ở đó mỗi người có cơ hội theo khả năng hoặc thành tựu của mình. Đấy là một giấc mơ khó khăn cho tầng lớp thượng lưu Châu Âu diễn giải đầy đủ, và cũng thật khó khăn cho tất cả chính chúng ta những người càng ngày ngờ vực và không tin tưởng vào nó. Nó không phải là một giấc mơ về các loại xe hơi hay đơn thuần là tiền lương cao, nhưng là một giấc mơ về trật tự xã hội mà trong đó mọi người nam và người nữ sẽ có thể đạt được tầm vóc đầy đủ cái khả năng bẩm sinh của mình, và được những người khác công nhận họ vì những gì của chính họ, không phân biệt môi trường hoàn cảnh sinh ra hay địa vị ngẫu nhiên của họ.”*

Nhà viết sử này đã nói rõ, Mỹ không phải là thiên đường của giàu có, lương tiền và tiện nghi cao, hay nhà, xe đẹp mà là “giấc mơ về trật tự xã hội”và “được những người khác công nhận họ vì những gì của chính họ!”Điều sau chính là nhân phẩm con người ở đây được tôn trọng.

Bao nhiêu người đã bỏ thây trên biển hay trong rừng sâu, qua sa mạc để được đến Mỹ. “Giấc mơ Mỹ” không những cho con người có cơm no, áo ấm mà còn có tự do.

Dân Mễ Tây Cơ từ năm 1985 vượt biên sang Mỹ mỗi năm chết vì hơi nóng sa mạc, mất nước khoảng 200 người, nhưng từ năm 1995 trở về sau, số người chết tăng gấp đôi. Bao nhiêu người Việt Nam, sau khi Cộng Sản vào Sài Gòn, đã xuống những con thuyền mong manh để ra đi lánh nạn, mà nước Mỹ vẫn là nơi họ hy vọng tìm đến.

Ngày nay “Giấc mơ Mỹ” vẫn còn là giấc mơ của bao nhiêu người!

Cho con du học Mỹ là nguyện vọng và cũng là “nhiệm vụ hàng đầu” của rất nhiều gia đình giàu có người Trung Hoa và cũng là niềm hãnh diện như trong nhà có một chiếc xe hơi BMW.

“Đánh cho Mỹ cút,”nhưng ngày nay du học Mỹ luôn là niềm mơ ước trở thành trào lưu của giới trẻ hiện nay đang thuộc những gia đình giàu có và có thế lực ở Việt Nam. Theo thống kê, hiện theo học ở Mỹ là 16,098 người trong niên khóa 2012-2013. Con số này cho thấy, Mỹ luôn là lựa chọn hàng đầu của những sinh viên muốn đi học ở ngoại quốc. Hầu hết sinh viên sau khi tốt nghiệp, hay chưa tốt nghiệp cũng chẳng sao, tìm cách ở lại nước Mỹ hợp pháp. Cha mẹ nào cũng trông mong con cái được lập gia đình, kết hôn với công dân Mỹ để có quyền ở lại Mỹ, gây được cơ sở làm ăn và đặt một nhịp cầu cho việc di dân của họ mai sau.

Việt Nam có sinh viên du học ở 36 nước khác nhau, nhưng đông hàng thứ hai là Mỹ, mà Đại Biểu Quốc Hội CSVN Nguyễn Ngọc Hòa đã đặt câu hỏi “vì sao 13 cháu đi du học, 12 cháu không về, và một cháu không biết làm gì, ở đâu?”

Ngày nay chuyện vượt biển đến Mỹ không còn, nhưng hiện nay có bốn thành phần người Việt vào nước Mỹ: Du học, du lịch, công tác, di dân, và toà Lãnh Sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn luôn luôn có đông người chờ chực, chen chúc, nôn nóng. Không ít các viên chức cao cấp của Cộng Sản Hà Nội đã đầu tư, mua nhà, cho con du học Mỹ, vận dụng con cái kết hôn với những người có quốc tịch Mỹ, để tương lai cả gia đình có thể đạt đến “giấc mơ Mỹ.”

Chúng ta, ngày nay không cần phải đặt câu hỏi“Chúng ta đã vào không phận Mỹ chưa?”mà chúng ta đã ở trên đất Mỹ từ lâu. Con cháu chúng ta sinh ra ở đây đều là công dân Mỹ, thứ công dân mà hàng triệu người trên thế giới đều mơ ước trở thành, đã hy sinh tính mạng, của cải, gian khổ để tìm đến nó.

Đối với chúng ta, giấc mơ đã thành sự thật, nhưng cái gì đã có trong tay rồi, chúng ta coi thường, không thấy quý nữa. Đó cũng là tính vô ơn, bội bạc của những con người mau quên.

*Wikipedia

Vụ bắt giữ trái pháp luật với luật sư Trần Vũ Hải, nhớ lại cuộc cách mạng Lybia.

Vụ bắt giữ trái pháp luật với luật sư Trần Vũ Hải, nhớ lại cuộc cách mạng Lybia.

Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2015.

Ls Nguyễn Văn Đài

Tội ác, bất công, sách nhiễu trong các chế độ độc tài chỉ chấm dứt khi chế độ đó được thay đổi. Tức là nếu chúng ta không muốn cho tội ác và bất công tiếp tục xảy ra thì chúng ta phải đứng lên đấu tranh để thay đổi xã hội.

Nhân dịp vụ luật sư Trần Vũ Hải bị bắt giữ trái pháp luật, chúng ta cùng nhìn lại cuộc cách mạng của Nhân dân Lybia.

Cuộc cách mạng của người dân Libya vùng lên đòi lật đổ chế độ Kadhafi khởi phát từ vụ cảnh sát bắt giam Fathi Tirbil, một luật sư quả cảm luôn đứng về phía những người dân oan, đòi công lý và sự thật. Câu chuyện được đặc phái viên của báo Le Monde tại Libya kể lại:

Tất cả bắt đầu vào buổi chiều ngày 15 tháng 2 năm 2011, khi mà 23 nhân viên có vũ trang của lực lượng an ninh Libya ập đến nhà bắt vị luật sư Fathi Tirbil, 38 tuổi tại Benghazi. Trong vòng 18 tiếng đồng hồ sau đó, một số các đồng nghiệp và những nhà họat động nhân quyền biết tin đã kéo đến trụ sở cảnh sát, đòi phải giải thích về sự việc bắt giữ Fathi Tirbil.

Tiếp sau đó hàng trăm người dân khác cũng đổ về trước nơi giam giữ biểu thị tình đoàn kết với vị luật sư vì dân của mình. Qua mạng Facebook, người dân đã kêu gọi tập hợp biểu tình toàn quốc. Chính quyền lo ngại và nghi ngờ anh là người xúi dục dân chúng, nên đã yêu cầu luật sư đứng ra kêu gọi dân chúng ngừng biểu tình. Đe dọa không thành và bị sức ép cuối cùng cảnh sát đành thả Fathi Tirbil vào ngày 16 tháng 2.

Ngày hôm sau đó phong trào bắt đầu lan rộng ra khắp cả nước Libya và kéo dài cho đến khi chế độ Kadhafi bị lật đổ. Tác giả bài báo kết luận, Fathi Tirbil là người đã mở ra con đường mà theo đó phẩm giá của con người được trỗi dậy mạnh mẽ hơn là nỗi sợ hãi.

Đặc phái viên của báo Le Monde cho biết thêm luật sư Fathi là một con người có lý tưởng, một người bình dị nuôi dưỡng bên trong một niềm khát khao vì công lý. Fathi Tirbil đã từng 5 lần bị cảnh sát Libya bắt và đánh đập. Anh suy nghĩ, cách duy nhất để đối mặt với chế độ độc tài này là bằng luật pháp.

Quay trở lại với vụ bắt giữ trái pháp luật đối với luật sư Trần Vũ Hải ngày 12 tháng 11.

Trong những năm qua, luật sư Trần Vũ Hải và một số luật sư khác như Trần Thu Nam và Hà Huy Sơn,…, đã tham gia bảo vệ cho những người hoạt động nhân quyền trong các vụ án chính trị, bảo vệ cho dân oan. Mặc dù tiếng nói của các luật sư chưa thay đổi được các bản án bỏ túi của  hội đồng xét xử, bởi chính hội đồng xét xử cũng không quyền thay đổi. Nhưng các nỗ lực, cố gắng của các luật sư đã được người dân Việt Nam ở trong và ngoài nước, cộng đồng quốc tế ghi nhận. Luật sư Trần Vũ Hải và các đồng nghiệp của ông đã trở thành chỗ dựa pháp lý, tinh thần cho những người hoạt động nhân quyền và các tổ chức XHDS độc lập.

Luật sư Trần Vũ Hải đã nhận được sự yêu mến, ngưỡng mộ và ủng hộ rất lớn từ những người dân bị áp bức, bị bất công trong xã hội. Bởi vậy, khi sự việc bắt giữ trái pháp luật xảy ra với luật sư Trần Vũ Hải. Hàng chục đồng nghiệp của ông đã tới công an phường Xuân La để bày tỏ sự ủng hộ. Tiếp theo là hàng trăm dân oan từ các địa phương cùng với hàng chục nhà hoạt động nhân quyền, hoạt động môi trường và xã hội đã tới để phản đối công an bắt người trái pháp luật, và bảy tỏ sự ủng hộ với luật sư Trần Vũ Hải. Điều này đã khiến lực lượng công an lúng túng và phải trả tự do cho ông.

Những lời kêu gọi mọi người tới ủng hộ luật sư Trần Vũ Hải đã được đưa lên mạng xã hội Facebook. Nếu như Nhân dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, những người đang sử dụng Facebook cũng như các trang mạng xã hội khác ý thức được trách nhiệm của mình với sự thay đổi của đất nước. Khi họ thấy những lời kêu gọi trên Facebook, hàng ngàn người tới cùng tham dự với các luật sư, những người hoạt động nhân quyền và XHDS tại đồn công an Xuân La. Hoặc họ tập hợp để ủng hộ tại địa phương của họ. Tôi tin là đất nước Việt Nam sẽ thay đổi và chuyển mình sang dân chủ chỉ sau một đêm.

Vụ bắt giữ trái pháp luật đối với luật sư Trần Vũ Hải của an ninh Việt Nam giống như vụ bắt giữ trái pháp luật đối với luật sư Fathi Tirbil của an ninh Lybia. Nhưng sự khác nhau là giới luật sư của Lybia, những người hoạt động nhân quyền và Nhân dân Lybia đã tận dụng tốt cơ hội để tiến hành thành công cuộc cách mạng lật đổ chế độ độc tài Kadhafi. Còn giới luật sư, những người hoạt động nhân quyền và Nhân dân Việt Nam chưa làm được điều đó.

Đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn may mắn, nhưng may mắn sẽ không còn đến với họ quá nhiều lần nếu tội ác và bất công vẫn tiếp tục xảy ra trên đất nước vốn đã trải qua quá nhiều đau thương này.

Tất cả chúng ta, những người Việt Nam yêu tự do, dân chủ, hòa bình và công lý hãy chuẩn bị và sẵn sàng cho những sự kiện tới đây để có thể thay đổi đất nước của mình. Cần phải chấm dứt tội ác và bất công, độc tài trên đất nước Việt Nam yêu quí của chúng ta.

Dạy môn “Công dân và Tổ quốc”, nhưng Tổ quốc tên là gì?

Dạy môn “Công dân và Tổ quốc”, nhưng Tổ quốc tên là gì?

Hà Sỹ Phu

21-11-2015

Ảnh: Thí sinh thi Sử, một mình một hội đồng thi! Nguồn: internet

Ảnh: Thí sinh thi Sử, một mình một hội đồng thi! Nguồn: internet

Xuất thân là một thày giáo phổ thông, rồi giảng viên đại học, rồi viết về những vấn đề chính trị xã hội, tôi rất quan tâm đến cuộc tranh luận quyết liệt về xử lý môn học Lịch sử hiện nay.

Phía cơ quan chủ quản tức Bộ Giáo dục thì bảo vệ cho quan điểm cần “tích hợp” môn Lịch sử chung với 2 môn khác thành môn học “Công dân và Tổ quốc”, trong khi hầu hết các trí thức trong nước, ngoài bộ phận chủ quản nói trên, đều nói rằng làm như vậy thì “Thực chất là xoá bỏ môn Lịch sử trong nền giáo dục phổ thông” , đây “là một việc làm không đúng, cần phải kiên quyết loại bỏ. Phải nghiên cứu lại một cách nghiêm túc với sự tham gia trực tiếp của các nhà khoa học”, “chương trình này sẽ dẫn đến hệ lụy làm “teo” môn lịch sử trong trường phổ thông, lớp trẻ không còn biết sự hy sinh của các bậc tổ tiên để có đất nước như ngày hôm nay”…(1)
1/ Ý kiến đã nhiều nhưng nỗi lo chưa hết

Trên công luận thì ý kiến trái chiều với Bộ Giáo dục tỏ ra áp đảo, nhưng đừng vội mừng, kinh nghiệm cho biết trong cơ chế vận hành hiện nay những ý kiến “trái chiều” dù có tình có lý rõ ràng, dù có lợi cho dân cho nước cũng “không là cái đinh gì” khi “Trên” đã quyết định, khi đã là chủ trương lớn của ĐCSVN, (và người ta có lý do để nghi ngờ, nếu điều này có bàn tay của Trung quốc thì thật khó thoát ra như cái gông 16 chữ vàng rất êm ả mà tai quái). Vậy tuy đã có rất nhiều lời phân tích xác đáng song mối lo ngại bị “teo” dần môn Sử Việt vẫn không được phép nguôi ngoai, cho tới khi nào nguyện vọng chính đáng của nhân dân, mà đại diện là giới trí thức độc lập, được thành hiện thực.

2/ Ý nghĩa đặc biệt của môn Sử Việt và môn Sử Đảng:

Ý nghĩa chung thì đã rõ, mỗi dân tộc đều “lớn lên thành người” theo một quá trình riêng của dân tộc mình, quên cái quá khứ cụ thể ấy là lấy đi cái nền phát sinh sinh của con người, thì dân tộc ấy như người bị chặt cụt 2 chân, chỉ ngồi trên xe lăn để người ta đưa đẩy đi đâu cũng được. Không còn biết mình là ai thì mất hết sức mạnh tự thân.

Không ít người ngộ nhận, tưởng đang cùng thế giới chia sẻ những giá trị văn minh kỹ thuật hiện đại như nhau thì có nghĩa mọi dân tộc đã ngang hàng với nhau. Thực ra, cái tầm vóc NGƯỜI , đẳng cấp NGƯỜI tức cái hồn NGƯỜI bên trong vẫn có thể khác nhau nhiều lắm. Tầm vóc NGƯỜI là kết quả được tạo ra từ một quá trình lịch sử lâu dài và gắn chặt với một cộng đồng xác định gọi là Dân tộc.

Vậy trong trường hợp cộng đồng dân tộc Việt Nam, đặc điểm lịch sử quan trọng nhất là gì?

– Trong QUÁ KHỨ , VN là một dân tộc thuần hậu, đã còn nhiều lạc hậu lại phải sống cạnh một nước láng giềng khổng lồ đầy tham vọng và thâm hiểm. Nhưng dù có nền văn hóa rất gần nhau mà sau 1000 năm đô hộ, kẻ khổng lồ gian ác vẫn không đồng hóa được nước nhò này, giang sơn gấm vóc Việt Nam vẫn nguyên vẹn. Lịch sử Việt Nam ( gọi tắt là Sử Việt để phân biệt với môn Sử Đảng) chủ yếu là Lịch sử chống xâm lược Tàu, qua đó khẳng định một Dân tộc có sức sống và khả năng thích nghi mãnh liệt.

– Nhưng trong Lịch sử HIỆN TẠI tức mấy chục năm gần đây Việt Nam gặp một bước ngoặt bất ngờ. Kẻ thù cũ có dịp quay trở lại, nhờ tận dụng được một cơ hội mới quý như vàng, đó là Ảo tưởng Cộng sản đã nhốt chung con sói và bày hươu vào chung một chuồng, cái chuồng sơn son rất đẹp có tên “đại gia đình Xã hội chủ nghĩa, bốn phương Vô sản đều là anh em”.

Đã là XHCN thì mọi việc cứ do hai ĐCS ngồi với nhau quyết định, trong đó thế bất lợi luôn thuộc về cái ĐCS nhỏ và chịu ơn. Còn nhân dân bị trị thì bị nền CS toàn trị tước hết mọi vũ khí tinh thần và vật chất và khóa chặt, không còn điều kiện tối thiểu để tự đứng lên làm một sự nghiệp gì. Sự hỗ trợ quốc tế thì bị hạn chế tối đa bởi chủ trương chỉ đối thoại song phương, không chấp nhận nước thứ ba can dự và trì hoãn việc kiện ra Liên hiệp quốc. Nước nhỏ mà thực hiện ba điều ấy thì khác nào tạo “điều kiện cần và đủ để cho địch nhất định thắng-ta nhất định thua” như dọn cỗ cho kẻ xâm lược. Giai đoạn Lịch sử ngắn ngủi này là thời gian của Sử Đảng, tuy được viết rất hùng tráng song chính là giai đoạn làm cho Việt Nam chịu ơn Trung quốc, thất thế trước Bành trướng Đại Hán và rước họ trở lại.

Nay trước vận nước lâm nguy, đúng lúc phải tăng cường Sử Việt để sống lại tinh thần Thoát Trung, và sửa những sai lầm của giai đoạn Sử Đảng đã giúp Đại Hán cơ hội trở lại thì giới cầm quyền Việt Nam đã khéo léo làm toàn những điều ngược lại: lấy cớ “giảm tải cho học sinh” để giảm dần Sử Việt truyền thống, đồng thời tăng cường môn Sử Đảng bằng mọi phương tiện, thử hỏi như vậy thì có lợi cho giặc hay có lợi cho dân tộc ta? Nếu có một tên Thái thú Tàu thì nó cũng chỉ mong làm được như vậy.

Còn nhớ hồi ông Lê Khả Khiêu đang làm Tổng Bí thư, có đoàn đại biểu Trung quốc sang thăm, trao đổi về những vấn đề lý luận. Phía Việt Nam nói ĐCS Trung quốc đảm nhiệm phần lý luận, VN chỉ nhiều kinh nghiệm thực hành. Phía Trung quốc nói VN cần sửa lại Lịch sử của mình !

Theo ý Trung Quốc, Việt Nam chỉ là “đứa con hoang” cần trở về với mẹ thì những trang sử oanh liệt chống ngoại xâm của Lê Lợi, Hưng Đạo, Quang Trung…chẳng qua chỉ còn là những vụ phản loạn của địa phương, như bọn giặc có nổi lên chống lại chính quyền Trung ương chứ có gì khác?

Dã tâm gian ác của giặc Bành trướng Đại Hán đã nằm trong gien của họ, đấy là việc của họ. Nhưng những người cùng được mang dòng máu Việt của những anh hùng cứu quốc trong Sử Việt mà nay bị cái “đại cục Ý thức hệ đầy lợi quyền lừa đảo” cuốn đi, cúi mặt làm tay sai, làm nhục tổ tiên thì sao mà tha cho được? Họ chỉ lo cho Đại Hán khi thấy tâm lý người Việt ghét xâm lược Tàu, họ hứa với Tàu sẽ đàn áp những cuộc biểu tình yêu nước, họ hứa sẽ sửa những trang lịch sử oanh liệt chống giặc Tàu…Chương trình “tích hợp” môn lịch sử kiểu này khác nào tiếp tục triển khai mật ước phục vụ ý đồ của giặc xâm lăng? Liệu có oan không, khi nhớ rằng ông Bộ trưởng bảo vệ cái đề án xóa nhòa môn Sử Việt này cũng chính là người mấy năm trước đã ra lệnh cấm học sinh sinh viên tham gia biểu tình yêu nước đấy! Chẳng có gì là ngẫu nhiên cả.

3/ Tích hợp thành môn “Công dân và Tổ quốc” gây hiệu quả tốt hay xấu?

Tích hợp kiểu này, môn Sử Việt sẽ bị phá nát

Có sự tích hợp là tốt, có sự tích hợp là xấu, tùy theo tính chất và tương tác của các môn hợp phần. TS Vũ Thị Phương Anh cho biết khi giảng về chủ đề “người dân tộc thiểu số ở VN“, trong đó tích hợp luôn cả lịch sử, cả địa lý, và cả văn hóa vào nữa. Đó là ví dụ về sự tích hợp tốt làm tăng hiệu quả. Sự tích hợp có nhiều mức độ, có khi chỉ cần bổ sung hay minh họa bằng những bài đọc thêm kẻm theo bài chính.

Nhưng sự tích hợp môn Sử Việt với hai môn Giáo dục công dân và An ninh quốc phòng cho ta ví dụ ngược lại, nó sẽ “phá nát” môn Sử Việt (như lời GS Đỗ Thanh Bình – nguyên Chủ nhiệm khoa Lịch sử, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội). Bản thân môn Lịch sử (Sử Việt) với tư cách là một khoa học và ổn định, nhưng hiện nay đã bị nhiễm “tính Đảng”, bị chính trị hóa khá nhiều rồi (và đó là một nguyên nhân khiến môn Lịch sử bị áp đặt và khô khan), đã thế bây giờ lại ghép vào hai môn Giáo dục công dân và An ninh quốc phòng là hai môn gắn chặt với thể chế chính trị trước mắt, chứa đầy “đảng tính” là yếu tố chính trị nhất thời, thì Lịch sử sẽ bị băm nát và biến tính ra sao, thiết nghĩ có thể biết trước.

Nếu chỉ vì tâm lý học sinh chán môn Sử mà phải tinh giảm thì còn đâu là chuẩn mực sư phạm? Lỗi không ở học sinh, không ở bản thân môn học, mà ở nội dung áp đặt chủ quan vô lý và người truyền đạt vô hồn.

Vướng ngay từ cái tên môn học

Việc “tích hợp” môn Sử Việt này vào một môn chung bị vướng ngay từ cái tên của môn chung đó: Công dân và Tổ quốc! Tổ quốc tên là gì vậy? Người dân Việt nào cũng hiểu đây là Tổ quốc Việt Nam, thế thôi. Nhưng xin thưa không phải thế, ĐCSVN đã đổi tên chính thức cho Tổ quốc là Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, nhiều khi chỉ gọi tắt là Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa. Tổ quốc có kèm một tính ngữ để định hướng, để đừng lầm với cái Tổ quốc cổ truyền. Tổ quốc cũng phải mang “tính Đảng”, phải chính trị hóa.

Trong bài ”Đôi điều suy nghĩ của một công dân” (1993) tôi đã viết như sau:

“Vượt lên trên mọi sự tranh giành giai cấp, vượt qua mọi thể chế, Tổ quốc chúng ta bao giờ cũng là Tỏ quốc Việt Nam thôi! Ta gọi những đồng bào ta ở nước ngoài muốn đem sức người sức của về xây dựng đất nước là ‘Việt kiều yêu nước’ nhưng họ có yêu Chủ nghĩa Xã hội đâu? Nếu ta chuyển cả Tổ quốc thành ‘Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa’ thì những đồng bào yêu nước ấy còn đâu nước để mà yêu? Tôi tin rằng sẽ có ngày chúng ta làm lễ trả lại ‘tên khai sinh’ cho Tổ quốc là Tổ quốc Việt Nam, thì sức mạnh của Người sễ tăng lên gấp bội, những con dân nước Việt sẽ rưng rưng nước mắt, nắm chặt lấy tay nhau mà reo hò.”

Phẩm chất người thày quyết định hiệu quả môn học

Tổng số tiết dạy tất nhiên là một yếu tố quan trọng nhưng nội dung giảng dạy và phẩm chất người thày quan trọng hơn nhiều. Nội dung môn học thì đã như trên phân tích. Phẩm chất người thày thì sao? Bên cạnh phương pháp, kỹ năng truyền đạt thì quan điểm, tư tưởng, nhiệt tâm và nhân cách của người thày là yếu tố quyết định. Người thày hiện nay ra sao, họ phải là những “cán bộ giáo dục của Đảng”, phẩm chất đầu tiên là không được có ý kiến khác với Đảng, nếu có sẽ bị loại trừ ngay. Nhà trường là nơi bị quản lý chính trị rất chặt, trong những trí thức có tư tưởng dân chủ tiến bộ, dám lên tiếng phản biện lâu nay hỏi có được mấy người là các nhà giáo? Các nhà giáo bị nhiễm độc CS (một cách tự nguyện hay bắt buộc) lại đứng trên bục, giảng cái gọi là môn Lịch sữ đã “tích hợp” bị nhiễm độc nặng nề thì nạn nhân là những người bị nuốt những thức ăn tinh thần độc hại đó là những con em chúng ta, những chủ nhân tương lai của đất nước sẽ bị nhiễm độc hàng loạt, sẽ chết từ từ cả về trí tuệ và tâm hồn, đến lượt họ lại thành những người thày đi gieo chất độc thì xã hội chỉ còn là con thuyền lạc bến, buông trôi theo mật ước Thành Đô.

                                                                  ***

Để dứt lời, xin các thày giáo cô giáo, những đồng nghiệp của tôi miễn thứ cho tôi nếu có những lời làm quá đau lòng đồng nghiệp trước cái “đại cục” nhức nhối cho tương lai của giống nòi mình. Nhưng cũng thật mừng trong cuộc tranh luận về môn Sử Việt này, nhiều thày giáo cô giáo đã không thể im lặng, đã lên tiếng phản biện quyết liệt. Thương trò, thương mình và thương Dân tộc. Xin trích lời của Phó Gíáo Sư Vũ Quang Hiển (Khoa Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) làm một ví dụ:

Cắt ghép và xuyên tạc lịch sử vốn là cách làm của những người muốn bôi nhọ lịch sử dân tộc và nhân loại. Ngày càng có nhiều công bố trên phương tiện thông tin đại chúng làm lung lạc tinh thần thế hệ trẻ Việt Nam bằng cách lắp ghép và xuyên tạc lịch sử theo một logic chủ quan đã định trước, nhưng lại núp bóng “cách nhìn mới” về lịch sử. Vì vậy, việc giáo dục lịch sử thiếu tính hệ thống và toàn diện sẽ đặt thế hệ trẻ Việt Nam đứng trước hiểm họa thấy rõ.”

                                                                                      H.S.P.

20 – 11 – 2015

(1) Tham khảo

http://nld.com.vn/giao-duc-khoa-hoc/bo-mon-lich-su-se-gay-hoa-kho-luong-20151106211528458.htm

http://m.vietnamnet.vn/vn/giao-duc/273281/cuoc-hoi-thao-chua-tung-co-ve-mon-lich-su.html

https://www.danluan.org/tin-tuc/20151117/tranh-cai-ve-viec-bo-mon-lich-su-trong-truong-hoc#sthash.BodkZwBa.dpuf

Hạ giá hay xóa bỏ môn lịch sử?

Hạ giá hay xóa bỏ môn lịch sử?
Nguoi-viet.com

Ngô Nhân Dụng

Ngày Chủ Nhật tuần rồi, 15 Tháng Mười Một, 2015, Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam tổ chức một cuộc hội thảo trong đó nhiều vị giáo sư báo động học sinh nay mai sẽ không còn được học môn lịch sử đầy đủ, theo dự thảo chương trình bậc Trung Học Phổ Thông, mà Bộ Giáo Dục và Ðào Tạo có thể thi hành. Theo chương trình soạn thảo, từ năm 2018 các học sinh sẽ không được học riêng môn Lịch Sử, mà môn này sẽ được gộp chung vào thành một môn học mang tên là “Công dân với Tổ quốc;” trong đó có thêm hai môn khác là Giáo Dục Công Dân và An Ninh Quốc Phòng. Trước đó hai tuần, Bộ Giáo Dục đã họp các nhà giáo để giải thích việc cải cách này; nhưng giới sử học nghe không xuôi tai!

Các viên chức Bộ Giáo Dục đã giải thích và bênh vực chủ trương của họ, nhưng các nhà nghiên cứu lịch sử vẫn nghĩ khác. Sử gia Phan Huy Lê cho rằng dù Bộ Giáo Dục và Ðào Tạo có giải thích thế nào thì chương trình mới này đã khai tử, đã xóa bỏ môn Lịch Sử trong thực tế. Giáo Sư Kiều Thế Hưng khẳng định: “…dù với bất cứ lý do nào thì việc coi nhẹ vai trò và vị trí, dẫn tới hậu quả thủ tiêu bộ môn Lịch Sử ở trường phổ thông.” Một cuộc thăm dò cho biết hơn 80% học sinh chống lại ý kiến bãi bỏ môn lịch sử như một môn học riêng.

Lời báo động của vị chủ tịch Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam nói đến tương lai khi môn học lịch sử có thể bị xóa bỏ. Nhưng thật ra trước khi chính quyền Cộng Sản đưa ra chương trình cải tổ này thì môn học Lịch Sử đã bị họ bỏ rơi, bỏ rớt, bỏ xó từ lâu rồi! Một bằng cớ là hiểu biết của các em học sinh về lịch sử Việt Nam rất kém. Năm ngoái, cả nước đã bàn tán về tình trạng “dốt lịch sử” được biểu lộ trong một cuộc thi đố trên màn ảnh truyền hình trên đài VTV.

Chương trình tivi này phỏng vấn bảy em học sinh, đặt một câu hỏi về vua Quang Trung, tức Nguyễn Huệ, vị anh hùng áo vải đại thắng quân Thanh năm 1789. Trước mặt các khán giả tham dự để cổ võ, tất cả bảy em học sinh trên không em nào trả lời đúng và đầy đủ. Có em nói Quang Trung và Nguyễn Huệ là hai bố con, có em đoán đó là hai anh em, nhưng sau đó em này còn muốn tỏ ra mình biết nhiều, nói thêm rằng, “Ông Quang Trung chính là ông Nguyễn Du.”

Chúng ta không nên căn cứ vào một chương trình giải trí trên tivi mà phán đoán trình độ hiểu biết về lịch sử của học sinh Việt Nam. Nhưng có thể đoán rằng những em được chọn đưa lên đài truyền hình dự thí chắc đã được coi là khá về môn này, ít nhất theo thẩm định của cha mẹ và thầy, cô giáo các em – trừ khi nhân viên đài truyền hình đã chọn các em dự thi theo tiêu chuẩn ai trả nhiều tiền nhất thì được… lên đài! Nếu phụ huynh và giáo sư nghĩ rằng các em này học giỏi môn sử nên đồng ý cho đi thi, mà trình độ các em dốt như vậy, thì chính những “người lớn” này cũng hoàn toàn không biết gì về lịch sử! Tức là có hai thế hệ dốt sử chứ không phải chỉ có một lớp trẻ! Thật đáng buồn!

Bây giờ, theo dự thảo chương trình tổng thể của Bộ Giáo Dục và Ðào Tạo, môn Lịch Sử riêng biệt không còn tồn tại trong hệ thống các môn học bắt buộc nữa. Không biết trình độ hiểu biết về lịch sử của các thế hệ sau sẽ xuống đến mức nào?

Một lý do khiến trẻ em dốt lịch sử là từ lâu nay học sinh đã chán học môn sử. Một năm gần đây khi nghe tin kỳ thi sắp tới không phải thi môn lịch sử nữa cả đám học sinh đã reo hò sung sướng đem vứt các cuốn sách giáo khoa từ trên lầu xuống sân trường, náo động, vui tươi như một ngày hội. Theo Giáo Sư Phan Huy Lê, lý do khiến học sinh chán là vì “…chương trình và sách giáo khoa nặng kiến thức, dày đặc sự kiện, kiểu dạy một chiều thiếu sinh động lại còn đòi hỏi thuộc lòng thì… Chán học sử đang là điều tất yếu.”

Giáo Sư Phạm Phụ nói rõ hơn về “kiểu dạy một chiều” này, “Ðáng lý ra môn Sử là môn cực kỳ hấp dẫn đối với học sinh, thế nhưng tại sao không đến mức say mê môn Sử mà thậm chí lại còn chán ghét ? Là vì cách dạy của ta, chương trình của ta, sách giáo khoa và cách truyền thụ của thầy giáo làm cho nó khô cứng. Trong một thời gian dài môn Sử bị xơ cứng, chính trị hóa thế này thế khác thì đâm ra nhàm chán.”

Môn học bị chính trị hóa thành xơ cứng như thế nào? Vẫn theo Giáo Sư Phạm Phụ thì phần lịch sử sau 1945 chiếm tỷ lệ rất lớn “trong đó nhiều phần lồng vào sử của đảng Cộng Sản Việt Nam, học trò học mãi những thứ đó nó nhàm chán thôi chứ có gì đâu… môn Sử không trình bày bằng những sự kiện mang màu sắc khoa học mà như là cái môn nhằm mục đích tuyên truyền vậy thì người ta nghe mãi người ta chán thôi.” Khi biết như vậy, chúng ta hiểu rằng cảnh các học sinh đua nhau ném các cuốn sách giáo khoa lịch sử xuống sân thì chính là các em đang vứt bỏ các tài liệu tuyên truyền của đảng Cộng Sản!

Chỉ sử dụng môn Lịch Sử như một phương tiện tuyên truyền cho nên chế độ Cộng Sản đã coi nhẹ các cuộc chiến đấu của tổ tiên chúng ta chống những cuộc xâm lăng của đế quốc Hán tộc. Giáo Sư Phạm Phụ nhận xét: “Lịch sử một ngàn năm Bắc thuộc cũng có chứ không phải không nhưng tổng số rất ít.”

Giảm bớt không cho dạy phần lịch sử ngàn năm Bắc thuộc chính là một chủ trương của đảng Cộng Sản, từ năm 1950 cho tới bây giờ. Với đường lối ngoại giao coi Trung Cộng “vừa là đồng chí, vừa là anh em;” với sự có mặt của các “cố vấn Trung Quốc vĩ đại” kèm bên các chiến dịch cải cách xóa bỏ nền nếp xã hội Việt Nam cổ truyền, chế độ Cộng Sản Việt Nam tất nhiên phải tìm cách che lấp các tội ác bành trướng của các triều đại Hán, Ðường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đối với nước ta.

Khi còn học bậc tiểu học và trung học, ở Hà Nội trước năm 1954 và tại Sài Gòn sau đó, bản thân tôi đã thấy môn học lịch sử đã đào luyện tấm lòng yêu nước; càng học càng say sưa về truyền thống bất khuất của dân tộc. Trước năm 1975, tôi làm nghề dạy học, tuy phụ trách môn Quốc Văn nhưng nhiều lần phải dạy môn lịch sử cho bậc trung học, khi nhà trường không đủ giáo sư chuyên về sử. Kinh nghiệm cho tôi thấy các học sinh rất thích những bài lịch sử về công cuộc chống xâm lăng phương Bắc. Có lúc dạy tới đoạn Lê Lợi kháng Minh, tôi khuyến khích các em học sinh đọc bài Bình Ngô Ðại Cáo, bản dịch của Bùi Kỷ in trong Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim. Rất nhiều em đã học thuộc lòng cả bài văn dài với rất nhiều chữ Hán mà không thấy chán. Sau đó 50, 60 năm, nhiều em gặp lại vẫn còn cảm ơn thầy giáo đã cho mình cơ hội thưởng thức một áng văn trác tuyệt, hào hùng đó. Trong hai ngàn năm qua, lòng yêu nước của người dân Việt Nam đã được đào luyện qua lịch sử kháng cự các cuộc xâm lăng từ phương Bắc. Bất cứ người Việt nào học lịch sử cũng trào lên một tấm lòng yêu nước khi biết đến những Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bôn, Phùng Hưng, cho tới Trần Bình Trọng, Quang Trung!

Cho nên, việc hạ thấp vai trò của môn học lịch sử trong cấp trung học phổ thông là một dụng ý chính trị của đảng Cộng Sản, theo Nghị Quyết 29 NQ/TW của Hội Nghị Trung Ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo. Bản dự thảo chương trình bậc Trung Học Phổ Thông của Bộ Giáo Dục và Ðào Tạo ở Hà Nội được đưa ra trong lúc phong trào chống Trung Cộng xâm lược đang cuồn cuộn sôi lên trên cả nước Việt Nam. Hạ thấp giá trị của môn Lịch Sử là một cách khiến cho các thế hệ sau này không thấy cần học sử nữa. Không học lịch sử dân tộc thì cũng lòng yêu nước cũng mờ nhạt. Ðó là một chủ trương trong chính sách giáo dục của đảng Cộng Sản Việt Nam. Như Giáo Sư Văn Như Cương nêu ra, “Ví dụ trong sách giáo khoa lịch sử không nói đến Biển Ðông, không nói đến Gạc Ma, không nói đến Tàu không nói đến Hoàng Sa, Trường Sa của ta bị chiếm đóng thì cũng không tôn trọng lịch sử.”

Tất nhiên, sách giáo khoa môn Sử của Việt Cộng thì không thể nào nhắc đến các tội xâm lược của Trung Cộng. Bởi vì nếu không có Trung Cộng bao bọc thì Việt Cộng cũng không tồn tại từ năm 1950 đến giờ! Không những lờ đi không nhắc tới Hoàng Sa, Trường Sa, đảo Gạc Ma, Biển Ðông, mà Việt Cộng còn muốn tránh không nói đến cả Hà Hồi, Ngọc Hồi, Chi Lăng, Chương Dương, Hàm Tử nữa! Như Giáo Sư Hà Sĩ Phu đã từng nhận xét, Việt Cộng theo Trung Cộng đem ảo tưởng về chủ nghĩa Cộng Sản vào nước ta gây nên hậu quả là “Ảo tưởng Cộng Sản đã nhốt chung con sói và bày hươu vào chung một chuồng, cái chuồng sơn son rất đẹp có tên ‘đại gia đình Xã hội chủ nghĩa, bốn phương vô sản đều là anh em!’” Ông Hà Sĩ Phu cho biết thời Lê Khả Khiêu đang làm tổng bí thư, có đoàn đại biểu Trung Quốc sang thăm, trao đổi về những vấn đề lý luận, và “Phía Trung Quốc nói Việt Nam cần sửa lại lịch sử của mình!” Công cuộc “tẩy não” đã kéo dài qua mấy thế hệ, từ thời Hồ Chí Minh đến Lê Khả Khiêu. Cho nên hậu quả tất nhiên là học sinh bây giờ dốt sử, không biết Quang Trung cũng là Nguyễn Huệ!

Bàn về dự thảo chương trình mới của Bộ Giáo Dục, Giáo Sư Phan Huy Lê lo lắng: “Lớp trẻ lớn lên trở thành công dân mà chỉ biết lờ mờ, thậm chí là biết sai về lịch sử dân tộc, không biết cội nguồn tổ tiên,… thì làm sao có thể viết tiếp trang sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc?” Nhưng đảng Cộng Sản muốn bảo vệ tổ quốc hay chỉ lo bảo vệ chế độ để họ tiếp tục nắm quyền và tham nhũng?

Gần đây ông Phùng Quang Thanh tỏ ra hoảng hốt khi thấy nhiều người Việt Nam đang chống Trung Quốc! Dân Việt mà chống Trung Quốc thì ông Thanh rất lo lắng cho tiền đồ dân tộc! Chúng ta phải đặt câu hỏi: “Phùng Quang Thanh có được ai dạy lịch sử nước Việt Nam hay không?” Ông ta có biết Hai Bà Trưng là ai không? Hay ông ta được các cố vấn vĩ đại dạy bài học khác: “Ðồng chí Mã Viện qua Giao Chỉ tổ chức cải cách ruộng đất, vận động nhân dân đứng lên đấu tố bọn địa chủ ác ôn Thi Sách và chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị!”

TIẾNG CHÀO

TIẾNG CHÀO

Một nữ công nhân làm việc tại một xí nghiệp chế biến thịt đông lạnh . Một buổi chiều , khi đã hoàn thành công việc, như thường lệ cô đi vào kho đông lạnh để kiểm tra một chút. Đột nhiên, cửa phòng lại bị đóng và khóa lại, cô bị nhốt ở bên trong mà không một ai biết.
Cô vừa hét khản cổ họng vừa đập cửa với hy vọng có người nghe được tiếng mình mà đến cứu nhưng vẫn không có ai nghe thấy. Lúc này tất cả công nhân đã tan ca, toàn bộ nhà máy đều yên tĩnh.
Sau 6 giờ chiều hôm ấy, nữ công nhân lạnh cóng người, tuyệt vọng và đau khổ… Đang lúc cô tưởng như không chịu đựng được nữa thì bất ngờ được người bảo vệ đến mở cửa cứu ra ngoài.
Hôm sau, cô gái hỏi người bảo vệ tại sao lại biết mình ở trong đó để đến mở cửa, mặc dù đây không phải khu vực mà ông ấy quản lý.
Người bảo vệ trả lời:
– “Tôi làm việc ở nhà máy này đã 35 năm rồi. Mỗi ngày đều có mấy trăm công nhân ra ra vào vào. Nhưng cô là người duy nhất mà ngày nào sáng sớm đi làm cũng chào hỏi tôi và buổi tối tan làm lại chào tạm biệt tôi trong khi có rất nhiều người xem như không nhìn thấy tôi vậy! Hôm nay, tôi biết rõ ràng buổi sáng cô có đi làm bởi vì sáng sớm cô còn nói “cháu chào bác!” Nhưng sau khi tan làm buổi chiều, tôi lại không nghe thấy tiếng cô chào: “Tạm biệt bác, hẹn ngày mai gặp lại!” Thế là tôi quyết định đi vào trong nhà xưởng tìm xem xem thế nào. Tôi đi đến những chỗ góc hẻo lánh tìm cô và cuối cùng lại nghe thấy tiếng khóc và tìm thấy cô ở trong kho đông lạnh…“

Hãy luôn khiêm tốn nhã nhặn, yêu thương và tôn trọng những người xung quanh mình bởi vì bạn không thể biết được sự tình gì sẽ xuất hiện vào ngày mai!

Theo NTDTV

 

ĐẤT SẠCH – ĐẤT YÊU THƯƠNG

ĐẤT SẠCH – ĐẤT YÊU THƯƠNG

Tri’ch EPHATA 668

Có một câu chuyện về việc xây Nhà Thờ, chuyện hấp dẫn bởi nó xảy ra ngay trên đất nước Việt Nam chúng ta. Sau năm 1975, quan niệm “đất là sở hữu của toàn dân” nên Nhà Nước quản lý đất rồi phân phối theo nhu cầu, vậy Nhà Thờ nào muốn xây dựng thì làm đơn, lên quy hoạch, nhà nước cứu xét cấp dất theo nhu cầu. Các tôn giáo không là những tổ chức pháp nhân nên không có quyền giao dịch mua bán. Từ quan niệm này dẫn đến nhiều tình trạng tréo ngoe, thí dụ: Nhà Thờ mua đất của dân chúng, lập kế hoạch xây dựng Nhà Thờ, rồi làm thủ tục hiến đất cho nhà nước, nhà nước xem xét rồi mới cấp đất trở lại cho Nhà Thờ thực hiện. Một quy trình vô lý và gian dối nhưng vẫn vận hành nhiều năm nay như thế ở Việt Nam.

DAT SACH DAT YEU THUONG

Một vấn đề khác. Một số các cơ sở tôn giáo ( Nhà Thờ hoặc Tu Viện ) sau năm 1975 bị nhà nước trưng dụng, có nơi là mượn, có nơi là chiếm không giấy tờ… Sau này có nhu cầu xin lại, không dễ gì có thể xin lại một cách thẳng thắn, thường sẽ phải vòng vo nhiều cách, nói theo kiểu một vị đại biểu Quốc Hội khóa 13 vừa qua là “Hoàng hôn nhiệm kỳ – chuyến tàu vét” ( đại biểu Lê Như Tiến ). Đó là cơ hội cho hai bên đều có lợi, bên Nhà Thờ có đất để xây dựng, bên “hoàng hôn nhiệm kỳ” có “chuyến tàu vét” khấm khá bảo đảm tương lai.

Tham những đã trở thành quốc nạn, xảy ra ở khắp nơi, ở mọi lãnh vực và mọi cấp độ, chẳng cần đợi đến chuyến tàu vét, ngày nào trong cuộc đời cũng đều là những ngày lái tàu vét vậy. Chuyện thường ngày, Công An giao thông thổi vào, chìa ra mấy tờ màu xanh thì đi ( video quay và phổ biến đầy trên mạng ), giấy phép xây dựng nhà, đố có ai xin được mà không phải mất tiền bôi trơn, thủ tục hoàn công nhà ( xây xong phải hoàn công mới có giấy sử dụng ) không ai mà tự nhiên có được nếu không chi tiền, trong quá trình xây, nay anh này vào thăm kiểm tra, mai anh kia vào thăm kiểm tra… Chủ nhà cứ vậy mà chi, khó làm dự toán chính xác lắm, cha ông ta đã có câu “làm ruộng thì ra làm nhà thì tốn” mà, nhưng ngày xưa tốn vì vụng tính, ngày nay tốn vì tác động bôi trơn !

Có một câu chuyện giữa hai vị đáng kính nói với nhau, một vị cứ chậm rãi mà liên tục thực hiện được việc có phép xây dựng chỗ này chỗ kia, một vị hay lên tiếng phản ứng, cơ sở không lấy lại được mà còn bị mang tiếng là quấy nhiễu, phá hoại tình đoàn kết. Vị thành công trong lãnh vực phép tắc khuyên bạn mình nên nhẹ nhàng, đôi bên đều có lợi, nhờ vậy mà ta mới có thể xây Nhà Thờ phục vụ Dân Chúa. Vị kia nghiêm khắc trả lời, đất mà lấy lại theo cách đó là đất… bẩn rồi, không xứng đáng để xây nơi thờ phượng Thiên Chúa, thà không có Nhà Thờ chứ dứt khoát không xây Nhà Thờ theo cái kiểu mờ ám ấy. Vị này được một số người kính nể, nhưng nhiều anh em khác lại bực bội lên án cụ là không khôn ngoan và cố chấp, lắm khi Giáo Dân biết chuyện cũng tham gia vào việc nói xấu cụ.

Vậy đất nào là đất “sạch”, xứng đáng để xây dựng nơi thờ phượng Thiên Chúa ? Có câu chuyện kể rằng:

Một nhà kia có hai anh em mồ côi cả cha lẫn mẹ, hai anh em thương nhau lắm, khi người anh lập gia đình ra ở riêng thì chú em ở một mình. Sau mùa gặt lúa, nằm đêm thao thức, người anh thương em mình cô đơn, không biết thu hoạch có đủ ăn không, nghĩ rồi anh ta lặng lẽ ra khỏi giường, vác bao lúa bên mình sang bỏ vào kho thóc nhà chú em. Chú em cũng nằm thao thức không ngủ, nghĩ anh mình có gia đình nên cần nhiều lúa hơn, mình độc thân ăn chẳng bao nhiêu, bèn nhổm dậy vác bao lúa bên mình sang quăng vào kho thóc nhà người anh. Một thời gian sau, hai anh em lấy làm lạ, sao kho lúa của mình không hề vơi đi.

Rồi một đêm, hai anh em đang vác lúa sang nhà nhau thì “đụng nhau” ở ngay hàng rào giữa hai nhà, họ chợt hiểu vì sao kho thóc của họ không hề vơi. Hai bao lúa trên hai hai anh em buông rơi xuống, họ ôm nhau khóc. Nơi hai bao lúa rơi xuống ấy chính là “đất sạch”, đất đã được tắm gội bằng tình thương, đất tràn ngập tình chia sẻ, và như thế, đất ấy xứng đáng là nơi dựng lên ngôi Từ Đường của dòng tộc hai anh em mà thờ phượng tạ ơn Trời Đất và ông bà tổ tiên của họ.

Chuyện đất đai quý đến mấy đi nữa cũng chỉ là chuyện thế gian, chẳng ai trong chúng ta mang được một tấc đất sang bên kia thế giới, nó quý đến đâu cũng không phải là lý do để chúng ta gây căng thẳng hận thù, càng không đến nỗi phải kéo nhau ra ngăn chặn bằng cách đọc kinh cầu nguyện tại hiện trường. Nhưng điều quan trọng là Sự Thật và lẽ Công Bằng, mà điều này thì chính Chúa Giêsu sẵn sàng sống chết để làm chứng, mảnh đất không là gì cả, nhưng mảnh đất là biểu tượng của Sự Thật và Công Bằng, đấy là sự suy xét lương tâm của mỗi người trước mặt Chúa. Không để sự thật và công bằng bị chà đạp.

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

20.11.2015

Ước mơ cuối đời của cha tôi

Ước mơ cuối đời của cha tôi

 Bút ký của Đoàn Thanh Liêm

DOAN THANH LIEM

Cha tôi là người con trưởng của một ông cụ đồ nho. Ông sinh vào khỏang năm 1897 tại một làng quê trong tỉnh Nam Định thuộc vùng đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc Việt nam. Cũng như đa số bà con trong làng thời ấy, cha mẹ tôi đều theo đuổi nghề làm ruộng – như tôi vẫn còn nhớ trong giấy khai sinh của mình thời trước năm 1945 thì được ghi bằng tiếng Pháp – mà trong mục nghề nghiệp của người cha, thì được viết là “cultivateur”.

Tên thật của cha tôi là Đoàn Đức Hải, nhưng bà con thường gọi là ông Chánh Hải. Chữ Chánh ở đây là một “chức vị hàm” như Chánh Hương, Chánh Hội – chứ không phải là chức vị thực sự hẳn hòi trong hệ thống chính quyền ở thôn quê miền Bắc dưới thời Pháp thuộc như chức vụ Chánh Tổng là một viên chức có uy quyền cai quản cả một khu vực gồm đến 5 -7 xã trong một huyện (ở trong Nam, thì gọi là ông Cai Tổng). Như vậy là cha tôi đã không hề là một viên chức của chính quyền vào thời kỳ trước năm 1945; ông chỉ là một nông dân bình thường mà thôi.

Mẹ tôi cho biết là: “Bố con là người có sức khỏe tốt, tinh thần lành mạnh, lại có nhiều sáng kiến, siêng năng làm việc và có tính quyết đáp – một khi đã khởi sự làm việc gì, thì quyết tâm theo đuổi công việc đó cho đến cùng. Vì thế mà bố con gặt hái được nhiều thành công trên đời. Đó là một đức tính tốt, đàn ông con trai như con thì sau này phải tập noi theo cái gương đó…”

Kể từ giữa năm 1945 trở đi, cuộc sống của bà con trong làng Cát Xuyên chúng tôi đã hồi phục lại sau nạn đói khốn khổ hồi đầu năm Ất Dậu khiến làm thiệt mạng đến cả trăm người dân. Và trong các gia đình, ai nấy đã bắt đầu tìm lại được bàu không khí an vui phấn khởi như xưa. Tòan thể dân làng đều biểu lộ sự vui mừng nô nức trước hoàn cảnh mới của nền độc lập tự chủ trên đất nước, sau khi nước nhà vừa mới thóat khỏi được tình trạng đô hộ kềm kẹp của thực dân Pháp. Đặc biệt là lớp thiếu niên nhi đồng cỡ tuổi 11- 12 như tôi, thì suốt ngày say mê hát hò theo những bài ca mới lạ, kêu gọi lòng yêu nước, yêu dân tộc.

Trong khí thế sôi nổi hăng say như thế đó, cha tôi thường hay tâm sự với bà con trong làng như thế này: “Bây giờ nước ta có độc lập tự do rồi, riêng tôi thì chỉ còn có mỗi một điều mong ước – đó là có thể leo lên máy bay mà đi thăm bà con bạn bè ở khắp nơi trên đất nước Việt nam mình. Rồi thì có nhắm mắt, xuôi tay cũng được thỏa chí vui lòng mà không còn điều gì tiếc nuối ân hận nữa cả …”

Nhưng, bất hạnh thay cái ước mơ nhỏ bé đơn sơ ấy của cha tôi lúc ở vào cái tuổi 50 đã không làm sao thực hiện được – bởi lẽ đơn giản là chẳng bao lâu sau đó vào đầu năm 1948 ông đã bị người Việt minh cộng sản bắt đi biệt tăm và chẳng bao giờ gia đình chúng tôi lại còn có dịp gặp lại ông nữa. Trong bài viết ngắn này, tôi xin lần lượt ghi lại những kỷ niệm vui buồn thật đáng nhớ của những ngày tháng cuối cùng mà cha con chúng tôi còn sinh sống chung với nhau trong mái ấm gia đình. Xin trình bày sự việc như đã xảy ra cách nay đã đến 70 năm với các chi tiết sau đây.

I – Hồi đó, vào thời kỳ những năm 1945 – 46 tôi đang ở lứa tuổi 11 – 12, thì hay được cha tôi cho đi theo ông trong các cuộc viếng thăm bà con, bạn hữu thân thiết của ông trong các làng xã lân cận. Nhờ được gần gũi sát cánh với cha như vậy, nên trí óc tôi lần hồi được tiếp nhận thêm sự hiểu biết về con người, về các sự việc trên đời. Và tâm hồn tôi cũng được nâng cao thêm lên theo với lý tưởng đạo hạnh truyền thống của dòng họ nhà mình. Và tôi thực sự có lòng quí mến và cảm phục đối với người cha nhân hậu và quả cảm gương mẫu như thế đó.

Ông ôn tồn kiên nhẫn giảng giải cho tôi nhiều điều thật có ích lợi cụ thể thiết thực cho tôi sau này khi đã đến tuổi trưởng thành. Đại khái như các bài học qua mấy câu ngắn gọn như thế này: * Con nhà gia giáo, thì phải biết “Kính Trên, Nhường Dưới” – tức là luôn tỏ ra khiêm tốn, lịch sự nhã nhặn đối với mọi người, bất kể người đó là ai.

* Người trượng phu quân tử thì luôn “lấy chữ Tín làm trọng” – tức là phải giữ đúng lời mình đã hứa với người khác.Và người quân tử đích thực thì phải có đày đủ ba phẩm chất như các cụ xưa gọi là “Nhân, Trí, Dũng” * Khi muốn hỏi tên của người nào mà lớn tuổi hơn mình, thì con nên nói “Xin cho biết quí danh” nghe có vẻ lịch sự hơn – chứ không nên nói “Xin cho biết tên”. * Dòng họ Đoàn nhà ta tuy không phải là một “danh gia vọng tộc” với tước vị cao sang quyền quý gì. Ấy thế nhưng cha ông chúng ta cũng chưa hề bị vướng mắc bởi những việc làm xấu xa tệ hại, hoặc do việc gây ra ân óan thù hằn gì đối với bất kỳ một ai trong xóm làng. Vì thế mà các con phải nhắc nhở lẫn nhau để cùng ra sức cố gắng “giữ gìn mãi được cái tiếng thơm đó” của gia tộc nhà mình v.v…

Do cuộc chiến tranh Việt Pháp bùng nổ vào cuối năm 1946, trường học đóng cửa nên tôi phải ở nhà suốt trong năm 1947. Tôi được cha giao cho việc chăn giữ con trâu, dẫn nó đi ăn cỏ ngoài đồng, cho nó đi tắm ngoài sông rạch vào ban trưa và buổi chiều còn đi cắt cỏ để cho nó ăn thêm vào ban đêm nữa. Tôi thật thích thú với công việc này, vì thấy mình được góp phần có ích lợi cho việc canh tác của gia đình và cũng được tự do cùng các bạn ngang lứa tuổi đi tung tăng khắp các nẻo đường trong thôn làng nữa. Cha tôi còn dẫn tôi đến tiệm thuốc bắc của ông lang trong khu chợ làng để nhờ ông dậy kèm thêm cho về môn chữ nho. Nhưng sau đó tôi bị bệnh sốt rét ngã nước rất nặng, nên chuyện học hành này cũng bị ngưng lại.

II – Cuộc sống của gia đình tôi tại làng quê đang êm ả thuận chiều ấm cúng như vậy, thì bỗng dưng xáo động vì những tai vạ khủng khiếp do người cộng sản gây ra đối với những người thân thiết trong gia tộc.Cụ thể là mấy chuyện như sau:

2(1) – Việc sát hại cậu út Tống Văn Dung vào mùa hè năm 1947.

Cậu Dung là người em út của mẹ tôi. Cậu đẹp trai, trắng trẻo lanh lợi và đã đậu văn bằng trung học (diplôme) vào khoảng năm 1939. Cậu là người thày giáo dạy khai tâm cho tôi tại trường sơ học trong làng Cát Xuyên vào năm 1941 – 42 lúc tôi mới lên 7 – 8 tuổi. Vào năm 1946, hai người em của mẹ tôi là cậu Tú và cậu Dung đều chuyển sang sinh sống với gia đình bên vợ các cậu ấy tại Ninh Bình, Phát Diệm.Và đến đầu năm 1947, cha tôi và cậu Lý Đạc là người em khác sát kế với mẹ tôi đã thực hiện một chuyến đi thăm hai cậu ấy bên Phát Diệm. Tôi và em Bính con cậu Lý Đạc được cho đi theo trong chuyến đi này.

Thế mà chẳng bao lâu sau đó vào mùa hè năm 1947, gia đình chúng tôi được tin cậu Dung đã bị Việt minh bắt giết và ném xác xuống sông Trì Chính gần thị xã Phát Diệm. Được tin khủng khiếp này, mẹ tôi đã vật vã sầu khổ khóc lóc, bỏ ăn bỏ ngủ suốt mấy ngày liền – khiến cho anh chị em chúng tôi đều xúc động không cầm được nước mắt. Trong nhà, ai nấy đều đem lòng oán hận những người đã tàn ác ra tay sát hại người cậu yêu quí của chúng tôi như vậy. Khi cậu mất, thì mới ở vào tuổi ngoài 30, để lại mợ Dung và hai em Dũng và Trinh còn rất nhỏ tuổi.

Rồi chỉ vài tháng sau vào cuối năm 1947, thì cậu Lý Đạc cũng lại qua đời vì bệnh, lúc đó cậu cũng mới được chừng 45 tuổi. Anh chị em chúng tôi thương mẹ vô cùng, vì chỉ trong vòng chưa đày 6 tháng mà bà đã mất đi hai người em ruột của mình.

2(2) – Đến lượt cha tôi bị công an đến tận nhà bắt đi vào đầu năm 1948.

Vào khoảng tháng 3 năm 1948, mấy người công an Việt minh lại đến nhà “mời cha tôi cùng đi với họ” nữa. Lại thêm một tai họa cho cả gia đình chúng tôi vì sau cái chết liền nhau của hai người cậu chỉ vừa cách đây có mấy tháng, mà bây giờ thì cha tôi lại bị bắt dẫn đi khỏi nhà nữa. Mẹ con chúng tôi ai nấy đều sầu khổ buồn rầu và càng thêm oán hận đối với người cộng sản đã gây ra cái chuyện đau thương ác nhân ác đức tột cùng như thế đối với cả gia đình.

Họ dẫn cha tôi đi biệt tăm, mẹ tôi chẳng có cách nào mà cử người đi thăm nuôi tiếp tế cho ông được.Chỉ nghe có người nói là họ đã dẫn giải cha tôi đến trại Đầm Đùn gọi là trại giam Lý Bá Sơ thật xa xôi nơi vùng rừng núi hẻo lánh mãi tận tỉnh Thanh Hóa thuộc Liên Khu IV.

Do khí hậu khắc nghiệt, lại thiếu thốn dinh dưỡng thuốc men, nên nhiều tù nhân đã phải kiệt sức mà bỏ xác nơi đây. Và chắc chắn là cha tôi cũng đã là một trong những người tù bất hạnh đó. Trong gia tộc chúng tôi lại còn có chú Lý Ty là người em đôi con dì với cha tôi. Chú Lý Ty là em của chú Tổng Biểng, cả hai chú là con ông bà Bá Đàm ở xã Liên Thủy. Bà Bá Đàm là em ruột của bà Đồ Nhuận bà nội của tôi, nên tôi đã có nhiều lần đi theo mấy anh chị lớn đến biếu Tết tại nhà ông bà. Chú Ty cũng bị bắt vào năm 1948 lúc chú mới có hai con trai còn rất nhỏ tuổi tên là em Minh và em Trí và chú bị dẫn đi biệt tăm tích – mà gia đình không hề được hay biết gì về ngày giờ chú lìa đời và thân xác được chôn cất nơi đâu. Cũng y hệt như trường hợp của cha tôi vậy. Như thế là riêng về phía họ nội nhà tôi đã có ít nhất hai người bị chết trong nhà tù cộng sản rồi.

Vì không biết rõ ngày mất của cha tôi, nên từ lâu nay anh chị em chúng tôi thường tổ chức Lễ Giỗ Tưởng Niệm chung cho cả cha và mẹ vào ngày mẹ tôi mất vào cuối tháng 11 năm 1952. Từ ngày qua định cư ở Mỹ, thì hằng năm chúng tôi đều tổ chức Lễ Giỗ vào đúng ngày Thanksgiving cuối tháng 11. Và năm 2015 này là kỷ niệm năm thứ 63 ngày mẹ tôi mất – giữa lúc bà phải chạy loạn mà đến tá túc tại nhà bà cô là bà Phó Tích ở làng Ngọc Cục huyện Xuân Trường kề sát với làng Hành Thiện.

III – Bây giờ thì lớp con lớp cháu của cha tôi lại có thể đi khắp năm châu bốn biển rồi.

Như đã ghi ở trên, vào hồi năm 1945 – 46 lúc ở vào độ tuổi 50, cha tôi chỉ có một niềm mong ước là được đi bằng máy bay để thăm viếng bà con bạn bè trên khắp nước Việt nam của mình. Ấy thế mà do bị cộng sản bắt giữ, cha tôi đã không thể nào thực hiện được cái điều ước muốn bé nhỏ khiêm tốn đó.

Nhưng đến thế hệ chúng tôi là con, là cháu của cụ, thì kể từ năm 1954 tất cả chúng tôi đều di cư vào sinh sống ở miền Nam và nhiều người lại còn đi khắp các tỉnh ở miền Trung và miền Lục Tỉnh Hậu Giang nữa. Và sau năm 1975, thì hầu hết gia đình chúng tôi đã qua định cư ở bên nước Mỹ nữa.

Và riêng tôi, thì từ năm 1960 tôi còn được đi du học tu nghiệp tại Mỹ và sau này vào đầu thập niên 1970 tôi còn được mời đi tham dự rất nhiều hội nghị quốc tế ở Âu châu và Á châu nữa. Và kể từ khi qua định cư ở Mỹ năm 1996 đến nay, thì tôi đã đi đến mấy chục vòng xung quanh lục địa nước Mỹ và Canada. Tôi cũng đi thăm bà con, bạn bè ở nhiều thành phố tại Úc châu và ở nhiều quốc gia khác tại Âu châu nữa.

Mà rồi đến lượt thế hệ thứ ba là các cháu nội ngoại của cha tôi, thì các cháu lại còn có nhiều dịp đi và làm việc ở khắp năm châu bốn biển nữa rồi.

Và đặc biệt là đến lượt các cháu thuộc thế hệ thứ tư, thứ năm lại được sinh ra và trưởng thành trên đất Mỹ, thì các cháu lại càng hội nhập sâu sắc vào trong xã hội sở tại – do tiếp nhận được những kiến thức vững vàng về khoa học kỹ thuật cũng như thông thạo về ngôn ngữ, nên các cháu đều có công ăn việc làm với thu nhập cao, đời sống nhiều tiện nghi sung túc. Rõ ràng đó là một điều thật may mắn cho lớp hậu duệ trong gia tộc chúng tôi vậy.

IV – Để tóm kết lại.

Bài này được viết vào trung tuần tháng 11 năm 2015, trong lúc anh chị em chúng tôi đang chuẩn bị Lễ Giỗ Cha Mẹ hàng năm vào đúng ngày Lễ Thanksgiving là ngày Thứ Năm 26 tháng 11 sắp tới. Tôi muốn ghi lại một ít kỷ niệm vui buồn thật đáng nhớ trong gia đình chúng tôi ở ngoài Bắc trước năm 1954. Và rồi cũng nói qua về sinh hoạt thật phấn khởi sinh động của lớp hậu duệ thuộc thế hệ thứ ba, thứ tư tức là các cháu, các chắt của cha mẹ chúng tôi hiện nay trên đất Mỹ.

Đó cũng là để cùng nhau ôn lại những khó khăn vất vả mà thế hệ cha mẹ chúng tôi đã trải qua – trong khi các ngài vẫn cố gắng vun đắp cho lớp anh chị em chúng tôi trở thành những con người lương thiện, có nhân có nghĩa – biết ra sức cố gắng làm điều lành điều thiện, tránh điều gian ác lươn lẹo khuất tắt.

Và nhân dịp này, tôi cũng kêu gọi tất cả anh chị em, các cháu, các chắt trong gia tộc hãy hợp cùng nhau bày tỏ lòng biết ơn đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên trong dòng họ nhà mình – đồng thời cũng nhắc nhở động viên lẫn nhau để cùng tiếp tục con đường đạo hạnh nhân ái mà các bậc tiền nhân đã khai mở ra trước đây lúc các ngài còn hiện diện sinh sống trên cõi đời này vậy./

Costa Mesa California, ngày 15 tháng 11 năm 2015

Đoàn Thanh Liêm

Tâm tình nhân Mùa Lễ Tạ Ơn 2015

Tâm tình nhân Mùa Lễ Tạ Ơn 2015

 Bài Ghi ngắn của Đoàn Thanh Liêm

*     *     *

Vào dịp Lễ Thanksgiving năm 1960, mấy sinh viên du học tại Washington DC chúng tôi được một gia đình người Mỹ đón về nhà riêng tại một thành phố kế cận trong tiểu bang Virginia. Bà chủ nhà là một giáo sư về âm nhạc, nên có mời thêm cả vài môn sinh nữa để cùng tham dự buổi Họp Mặt Gia Đình thân mật với chúng tôi là những sinh viên ngọai quốc. Đầu tiên, chúng tôi được chở đến dự Thánh Lễ trong một nhà thờ Tin Lành. Sau đó, thì đến nhà gia chủ để dùng cơm trưa với tòan thể gia đình. Bữa ăn khá thịnh sọan đặc biệt với món gà tây đút lò (roasted turkey) truyền thống mà tôi được thưởng thức lần đầu tiên trong đời.

Đến nay, thì đã trên 55 năm tôi vẫn còn nhớ đến cái ngày Lễ Tạ Ơn đó trên đất Mỹ với ấn tượng thật sảng khóai an tâm trong bàu không khí ấm cúng của gia đình giữa lúc luồng gió lạnh đã thật sự bao phủ khắp vùng Bắc Mỹ. Xin được ghi thêm lần nữa lời cám ơn đến với gia đình bà giáo sư đã mở rộng vòng tay đón tiếp anh em chúng tôi bữa đó.

Năm 2015 này, tôi muốn ghi lại một vài dòng để bày tỏ lòng biết ơn đối với tất cả những ai đã góp phần giúp cho tôi có được một cuộc sống tốt đẹp an lành viên mãn. Trước hết, tôi xin mượn một câu trong bài hát rất thông dụng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn để nói lên tâm sự đó như sau:

Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn người

Tạ ơn đời, tạ ơn ai đã cho tôi

Tình sáng ngời như sao xuống từ trời”

 1 – Cũng như mọi người, trước tiên tôi phải biết ơn cha mẹ, ông bà tổ tiên trong dòng họ nội ngoại của mình – vì nhờ có các ngài mà tôi mới có được một danh tính, một nhân cách, một danh dự, một chỗ đứng vững vàng trong xã hội ngày nay. Tôi thật sự có niềm tự hào vì cái truyền thống lương hảo và nhân ái mà các tiền nhân của gia tộc đã truyền lại cho thế hệ ngày nay của anh chị em trong gia đình chúng tôi.

2 – Tiếp theo, tôi phải biết ơn Đất nước và Dân tộc Việt nam – vì Đất nước đã nuôi nấng và cung ứng cho tôi mọi thứ như trường học từ các lớp sơ cấp, tiểu học, trung học đến đại học – nhờ đó mà tôi tiếp nhận được một hành trang kiến thức tiến bộ cần thiết để vào đời. Dân tộc Việt nam cũng trao cho tôi cả ngôn ngữ tiếng Việt, kho tàng văn hóa đạo đức tinh thần thật quí báu mà được tích lũy từ bao nhiêu thế hệ trước đây của cha ông chúng ta. Nhờ vậy mà tôi mới có được “một căn tính đặc thù Việt nam” (Vietnamese Identity) – khác hẳn với đặc tính của người Tàu, Nhật hay Pháp là những dân tộc đã từng xâm chiếm đô hộ nước Việt nam từ bao nhiêu năm xưa.

3 – Và sau cùng tôi cũng phải biết ơn Đất nước và Dân tộc Mỹ vì đã mở rộng vòng tay đón nhận gia đình chúng tôi đến định cư tỵ nạn tại xứ này – hầu tránh thóat được chế độ độc tài tàn bạo của đảng cộng sản vốn đã và còn đang hòanh hành trên đất nước Việt nam chúng tôi. Đặc biệt là lớp cháu nội ngoại của chúng tôi được sinh trưởng trên đất Mỹ, thì các cháu đã được thụ hưởng bao nhiêu điều tốt lành từ giáo dục chuyên môn đến cơ hội thuận lợi về an sinh xã hội, về công ăn việc làm vững chắc v.v…

Trường hợp của bản thân tôi hiện nay cũng y hệt như 2 triệu người Việt nam khác hiện đang được sinh sống an lành trên “quê hương đất nước của những con người tự do và can đảm này”. Như được diễn tả thật chính xác trong câu cuối của bài quốc ca Hoa Kỳ là: “The Land of the Free and the Home of the Brave” vậy

Once again, Thank You America./

Westminster California, November 2015

Đoàn Thanh Liêm

Bãi bỏ môn lịch sử trong chương trình phổ thông trung tiểu học – bước đầu chuẩn bị cho âm mưu Hán hóa

Bãi bỏ môn lịch sử trong chương trình phổ thông trung tiểu học – bước đầu chuẩn bị cho âm mưu Hán hóa

Lê Dủ Chân (Danlambao) – Kính thưa đồng bào Việt Nam đang sống trong nước và ngoài nước.

Chúng ta, con cháu chúng ta, các thế hệ tương lai của Việt Nam sẽ căn cứ vào đâu để nói rằng “TÔI LÀ NGƯỜI VIỆT NAM” nếu lịch sử của dân tộc Việt Nam bị xóa bỏ? Tinh thần yêu nước, yêu dân tộc của người Việt Nam hôm nay và mai sau có còn không nếu cội nguồn tổ tiên, công lao, xương máu của ông cha đổ ra trong quá trình dựng nước và giữ nước bị lãng quên?

Nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam còn không nếu trong tương lai người Việt Nam không còn biết đến ải Nam Quan, mũi Cà Mau, Hoàng Sa, Trường Sa, sông Hát, sông Bạch Đằng, ải Chi Lăng, gò Đống Đa, Ngọc Hồi, Hà Hồi… mà chỉ biết Tây Sa, Nam Sa, “bên ni biên giới là nhà, bên kia biên giới cũng là quê hương”…?

Nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam còn không nếu trong tương lai người Việt Nam không còn biết đến các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn… mà chỉ biết đến đảng cộng sản Tàu, nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, đảng cộng sản Việt Nam, nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam?

Nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam còn không nếu trong tương lai người Việt Nam không còn biết đến Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Ngụy Văn Thà… mà chỉ biết Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình, Tập Cận Bình, Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Phú Trọng…?

Nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam còn không nếu trong tương lai người Việt Nam không còn biết đến bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta vào đời nhà Lý (*), Hội Nghị Diên Hồng, Hịch Tướng Sĩ vào đời nhà Trần, Bình Ngô Đại Cáo vào đời nhà Hậu Lê… mà chỉ biết tư tưởng Marx – Lê – Mao, “bác Hồ ta đó chính là bác Mao”, “Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương thông, Văn hóa tương đồng, Vận mệnh tương quan”, “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”…?

Kính thưa đồng bào,

Nếu nói rằng công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng là công hàm bán nước, 2 câu thơ của Tố Hữu “Bên ni biên giới là nhà, bên kia biên giới cũng là quê hương” là tư tưởng tiền đề cho âm mưu sáp nhập nước Viêt Nam vào nước Tàu thì cáí gọi là “Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể” của Bộ GD&ĐT/CSVN (bộ Giáo Dục Và Đào Tạo/đảng cộng sản Việt Nam) mà mục đích chính của nó là xóa bỏ lịch sử 4000 năm của dân tộc là bước đầu của đảng cọng sản/VN cố tình thực hiện để chuẩn bị cho chủ trương Hán hóa vĩnh viễn dân tộc Việt Nam trong tương lai.

Kính thưa đồn bào,

Lịch sử Việt Nam còn nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam còn.

Lịch sử Việt Nam mất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam mất.

Chúng ta không thể để đảng cộng sản Việt Nam cấu kết với đảng cộng sản Tàu từng bước xóa đi nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam trên bản đồ thế giới để vĩnh viễn trở thành một quận huyện của nước Tàu.

20/11/2015

Lê Dủ Chân

danlambaovn.blogspot.com

__________________________________

Chú thích:

(*) Nam Quốc Sơn Hà

Nam quốc sơn hà nam đế cư 

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư 

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm? 

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!

ĐÒN NGOẠI GIAO CỦA NGƯỜI VIỆT XƯA VÀ NAY

ĐÒN NGOẠI GIAO CỦA NGƯỜI VIỆT XƯA VÀ NAY

NGUYỄN TƯỜNG THỤY

RFA

dg1

Xưa nay, trong mối quan hệ với những nước đang có hiềm khích, các chính khách, sứ giả thường dùng những đòn ngoại giao. Đòn ngoại giao là chỉ những cử chỉ, lời nói trong giao tiếp rất nhẹ nhàng nhưng thâm thúy, làm cho đối phương đau dai dẳng, càng ngẫm càng đau, đau hơn là bị mắng thẳng vào mặt. Để ra được những đòn ngoại giao ấy, đòi hỏi ngoài kiến thức sâu rộng, thông kim bác cổ cần phải có tiết tháo, bản lĩnh nữa. Xin điểm qua vài mẩu chuyện:

Khéo léo nhắc lại nỗi nhục thua trận khi xâm lược Đại Việt

Giang Văn Minh (1573 – 1638), làm quan nhà Lê Trung Hưng. Ông từng đỗ Thám Hoa nhưng đỗ đầu khoa thi vì khoa ấy không có ai đỗ Trạng nguyên hay Bảng nhãn.

Năm 1638, ông được cử làm chánh sứ dẫn đầu đoàn sứ bộ đi sứ nhà Minh. Khi chờ đã lâu mà vẫn không được vua nhà Minh cho tiếp kiến, ông vờ khóc lóc rất thảm thiết. Vua Minh liền cho mời ông đến hỏi nguyên do. Ông nói:

-Hôm nay là giỗ cụ tổ năm đời của thần, nhưng thần không có mặt ở nhà để cúng giỗ. Thật là bất hiếu với tổ tiên.

Vua Minh vặn:

-Không ai giỗ người đã chết từ năm đời. Sứ thần khóc lóc như vậy thật không phải lẽ!

Giang Văn Minh nói:

-Vậy, tướng Liễu Thăng tử trận đã mấy trăm năm, sao hằng năm nhà vua vẫn bắt nước tôi cử người mang lễ vật sang cúng giỗ?

Ý ông muốn nhắc lại chuyện quân Minh sang xâm lược nước ta bị nghĩa quân Lam Sơn chém cụt đầu.

Biết trúng mưu Giang Văn Minh, vua Minh đành nói:

-Từ nay trở đi, nước ngươi không phải góp giỗ Liễu Thăng nữa.

Sông Bạch Đằng từ xưa máu còn đỏ 

Cũng trong chuyến đi sứ ấy của Giang Văn Minh, vua Minh ngạo mạn ra cho sứ bộ một vế đối như sau:

“Đồng trụ chí kim đài dĩ lục”

(nghĩa là: Cột đồng đến nay rêu đã xanh). Ý vua Minh nhắc tới việc Mã Viện sau khi dẹp xong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, y cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ – tức Đại Việt – bị diệt vong).

Giang Văn Minh đối lại bằng câu:

“Đằng Giang tự cổ huyết do hồng”

(nghĩa là Sông Bạch Đằng từ xưa máu còn đỏ). Ý ông nhắc tới chuyện quân Nam Hán, quân Nguyên đã từng bị Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo đánh cho đại bại trên sông Bạch Đằng khi xâm lược nước ta.

Vua Minh nổi giận đã trả thù bằng cách trám đường vào miệng và mắt ông, rồi cho người mổ bụng xem “bọn sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu”.

Ông được mệnh danh là vị sứ thần “Bất nhục quân mệnh” (Không để nhục mệnh vua)

Vế đối của ông “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” xuất hiện nhiều lần trong các cuộc biểu tình chống Trung Cộng.

dg2                                                     Đằng giang tự cổ huyết do hồng

Trăng sao bắn rụng mặt trời

Mạc Đĩnh Chi (1280 – 1346), làm quan đời Trần, đỗ Trạng nguyên. Năm 1308 ông đi sứ nhà Nguyên. Tới kinh đô nhà Nguyên, Mạc Đĩnh Chi được vời vào tiếp kiến vua Nguyên. Vua Nguyên ra một vế đối:

Nhật: hỏa; vân: yên; bạch đán thiêu tàn ngọc thố.

(nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói; ban ngày đốt cháy vầng trăng). Vế đối thể hiện vẻ kiêu ngạo của một nước lớn và có ý đe dọa của vua Nguyên.

Mạc Đĩnh Chi đối:

Nguyệt: cung; tinh: đạn; hoàng hôn xạ lạc kim ô.

(nghĩa là: Trăng là cung, sao là đạn; chiều tối bắn rụng mặt trời).

Ông còn đáp nhiều câu đối khác do vua quan nhà Nguyên đặt vế, rất chỉnh, hay và nhanh. Vua Nguyên cảm phục tài và đức của Mạc Đĩnh Chi, phong cho ông “Lưỡng quốc Trạng nguyên” (trạng nguyên hai nước), chữ do chính tay hoàng đế nhà Nguyên viết.

Ăn cỗ đầu người

Nguyễn Biểu mất năm 1413, không rõ năm sinh. Ông đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) cuối thời Trần, làm quan đến chức Điện Tiền Thái sử (Ngự sử). Ông phò Trùng Quang Đế tổ chức kháng chiến chống quân Minh.

Ông nhận mệnh vua đi sứ nhà Minh. Tướng Minh là Trương Phụ sai quân dọn ra một mâm cỗ chỉ có một cái đầu người luộc chín để thử bản lĩnh sứ giả nước Nam thế nào.

Nguyễn Biểu ung dung ngồi vào mâm, nói rằng: “Mấy thuở được ăn thịt người phương Bắc. Nói đoạn, lấy đũa khoét đôi mắt, chấm muối ăn. Vừa ăn, vừa ngâm bài thơ Cỗ đầu người khiến Trương Phụ phải kính nể, định cho ông về.

Hàng tướng là Phan Liêu ton hót với Trương Phụ rằng, Nguyễn Biểu nói: “Năng sảm nhân đầu, năng sảm Phụ”(có khả năng nuốt được cỗ đầu người, tất cũng có khả năng nuốt được Trương Phụ). Trương Phụ giận lắm, đưa câu ấy ra bắt ông phải đối lại, nếu đối được mới cho về, không thì chém. Nguyễn Biểu ung dung đối: “Hựu tồn ngô thiệt, hựu tồn Trần” (Lưỡi của ta còn, nhà Trần vẫn còn!). Trương Phụ thấy ông có dũng khí định mua chuộc nhưng không được bèn sai trói ông vào chân cầu Yên Quốc để cho nước thủy triều dâng lên dìm chết. Ở dưới chân cầu ông dùng móng tay vạch vào thân cầu tám chữ: “Thất nguyệt, thập nhất nhật Nguyễn Biểu tử” (Nguyễn Biểu tử tiết ngày 11 tháng 7).

Các bậc quan lớn ở xứ Bắc đều ở chỗ ấy mà ra

Một lần, có đoàn sứ thần Bắc Quốc sang nước ta, bà Thị Điểm được bố trí ngồi bán nước ở quán gần phủ. Đoàn sứ thần nghỉ chân vào quán uống nước. Thấy cô hàng nước xinh đẹp, nói năng lưu loát, họ liền trêu ghẹo bằng một vế đối:

Nam bang nhất thốn thổ, bất tri kỉ nhân canh”, nghĩa là: có một tấc đất ở nước Nam, không có người biết cày. Đoàn Thị Điểm đáp trả luôn: “Bắc quốc đại trượng phu, giai do thứ đồ xuất”, nghĩa là: các bậc quan lớn ở xứ Bắc đều ở chỗ ấy mà ra.

Riêng câu chuyện này có thể là chuyện dân gian mà nhân vật là Thị Điểm, chưa chắc đã phải là bà Đoàn Thị Điểm (1705-1748), hiệu Hồng Hà nữ sĩ, tác giả Chinh phụ ngâm.

Gò Đống Đa cũng là của Trung Quốc sao

Chuyện đối đáp thông minh, thể hiện khí phách của người Nam đối với vua quan phong kiến Trung Quốc ở các triều đại thì nhiều lắm, trên đây tôi chỉ xin tóm lược một vài mẩu chuyện. Nhân đây xin nhắc đến hai mẩu chuyện về thời nay. Từ cuối năm 1978, quan hệ Việt Nam Trung Quốc xấu đi nghiêm trọng dẫn đến nổ ra cuộc chiến tranh biên giới tháng 2 năm 1979. Việt Nam bắt đầu lên tiếng khẳng định chủ quyền đối với Trường Sa và Hoàng Sa.

Phía Trung Quốc cũng khẳng định chủ quyền của họ đối với hai quần đảo này. Lý lẽ họ đưa ra là họ tìm thấy xương người Trung Quốc ở đấy. Một nhà lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ đáp trả: “Gò Đống Đa có rất nhiều xương người Trung Quốc vậy chẳng lẽ cũng là của Trung Quốc hay sao?”. Câu này nghe nói là của ông Lê Duẩn, Tổng bí thư Đảng CSVN thời ấy. Đây là một đòn hiểm độc đối với tham vọng của nhà cầm quyền Trung Quốc.

Cả các ông nữa chúng tôi cũng đánh

Về công tội của ông Lê Duẩn, còn nhiều điều cần bàn nhưng rõ ràng ông có thái độ đoạn tuyệt rất dứt khoát đối với Trung Cộng, hiểu thấu tim gan họ. Mỗi lần sang Trung Quốc, ông rất đàng hoàng sánh vai Mao Trạch Đông, ăn miếng trả miếng chẳng hề nể sợ. Câu chuyện sau đây được cho là nằm trong tài liệu lưu tại thư viện quân đội:

Mao Trạch Đông nói: “Đồng chí, có đúng là người của các đồng chí đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?”

Ông Duẩn: “Đúng”

Mao: “Có phải cũng chính người của đồng chí đã đánh bại quân Thanh?”

Ông Duẩn: “Đúng”.

Mao: “Và quân Minh nữa, phải không?”

Ông Duẩn: “Đúng. Và cả các ông nữa, chúng tôi cũng đánh. Các ông có biết điều đó không?”

Sao không đề nghị Tập Cận Bình đến Gò Đống Đa thắp hương?

Vừa rồi, Tập Cận Bình sang thăm Việt Nam 2 ngày, từ 5-6/11/2015. Trong chuyến đi này, Tập có phát biểu trước quốc hội Việt Nam. Đây là chuyện bất thường làm cho dư luận bức xúc. Ông Nguyễn Hạnh Phúc, chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội giải thích rằng việc Tập Cận Bình phát biểu trước quốc hội Việt Nam là do phía Trung Quốc đề nghị.

Họ Tập còn vào lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh viếng. Vậy sao phía Việt Nam không khuyên Tập Cận Bình đến thắp hương ở Gò Đống Đa? Một lời đề nghị họ Tập thắp hương cho cha ông hắn đã “hy sinh” vì chủ nghĩa Đại Hán khó có thể từ chối vì không thể tìm ra lý do và càng không thể quở trách.

Sao Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng không nghĩ ra điều này nhỉ?

19/11/2015

NTT

 

Khủng bố dù ở đâu, nhân danh lý do gì, cũng bị nhân loại lên án

Khủng bố dù ở đâu, nhân danh lý do gì, cũng bị nhân loại lên án

Song Chi.

RFA

Khủng bố ở nước người

Mấy ngày nay, báo chí truyền thông thế giới tràn ngập tin tức về vụ tấn công khủng bố liên hoàn xảy ra ở Paris vào tối Thứ Sáu ngày 13 vừa qua. Có tất cả 6 dịa điểm khác nhau bị tấn công: phòng hòa nhạc Bataclan, sân vận động Stade de France, các nhà hàng, quán bar, café. Con số tử vong được công bố cho đến nay là 129 người chết, hơn 350 người bị thương. Đây được xem là vụ tấn công tồi tệ nhất ở Pháp kể từ sau Thế chiến thứ Hai và là vụ khủng bố đẫm máu nhất ở châu Âu sau vụ đánh bom xe lửa Madrid năm 2004, với 191 người chết và hơn 2.000 người khác bị thương.
Chỉ riêng trong năm nay nước Pháp đã hứng chịu ít nhất 6 vụ khủng bố, dưới những hình thức khác nhau từ bắn súng, đâm, chặt đầu, đánh bom tự sát, trong đó nổi bật là vụ tấn công nổ súng hàng loạt tại tòa soạn tờ tạp chí châm biếm Charlie Hebdo vào tháng Một ở Paris, giết chết 12 nhà báo, họa sĩ, biên tập, nhân viên của tòa soạn và làm bị thương 11 người khác. Và bây giờ là đánh bom tự sát và xả súng hàng loạt.
Paris, thủ đô xinh đẹp của nước Pháp, thành phố của văn hóa nghệ thuật, thời trang, ẩm thực, thành phố của tình yêu và sự lãng mạn, nguồn cảm hứng của biết bao thi nhân, văn sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ…qua bao nhiêu thời đại, lần này đã bị thương nặng.
Tổ chức Islamic State of Iraq and Syria (ISIS), hay đơn giản chỉ là Islamic State (IS) đã lên tiếng nhận trách nhiệm, tuyên bố lý do là để trả thù sự tham gia tích cực của Pháp bên cạnh Hoa Kỳ trong những cuộc không kích gần đây ở Syria.
Thời đại thông tin, một sự kiện gì xảy ra ở đâu là ngay lập tức cả thế giới biết ngay. Người ta cũng chứng kiến sự đoàn kết, chia sẻ của thế giới trước nỗi đau của nước Pháp.
Tổng thống Mỹ Barack Obama, Thủ tướng Anh David Cameron, thủ tướng Đức Angela Merkel, Tổng Thư ký Liên hiệp Quốc Ban Ki Moon, Giáo hoàng Francis…lập tức lên tiếng. Nhiều tòa nhà cao hoặc những công trình nổi bật, là biểu tượng ở nhiều quốc gia đã thắp sáng ba màu xanh, trắng đỏ-màu cờ Pháp đề bày tỏ sự đoàn kết và chia sẻ với nước Pháp và nhân dân Pháp. Từ Trung tâm thương mại thế giới World Trade Center ở New York-nơi từng xảy ra vụ khủng bố 11.9.2001 rúng động toàn cầu của Mỹ, tượng đài “The Angel de la Independencia” ở Mexico, tòa tháp CN (CN Tower) ở Toronto, nhà hát Opera hình con sò ở Sydney, bánh xe đu quay khổng lồ London Eye, cầu tháp (Tower Bridge) và sân vận động ở London…

Tại New York, London, Berlin, Auckland, Moscow, Sydney, Rio de Janeiro…mọi người tổ chức những cuộc tuần hành hoặc đơn giản chỉ là tập hợp cùng nhau thức trắng đêm trong im lặng hoặc cùng hát quốc ca Pháp và những bản nhạc Pháp…
Trên mạng xã hội tin tức cũng đi nhanh không kém, kèm theo đó là những phản ứng, quan điểm, cảm xúc, sự chia sẻ của từng cá nhân…Nhiều người đã nhanh chóng thay cover photo bằng những dòng chữ “Pray for Paris”, “Je suis Paris”, biểu tượng hòa bình có hình tháp Eiffel hay màu cờ Pháp… Người Việt cũng không là ngoại lệ.
Bởi, không một người có hiểu biết, có lương tri nào có thể chấp nhận hoặc tán thành những cuộc tấn công khủng bố giết hại dân thường, cho dù nhân danh niềm tin vào tôn giáo, lý tưởng, chủ nghĩa hay điều gì khác, cho dù xảy ra ở bất cứ đâu, với dân tộc nào.

Khủng bố ở nước mình

Từ sự kiện khủng bố xảy ra ở Paris nhiều người Việt nhớ và nhắc lại những hình ảnh cũng đẫm máu, tang thương không kém qua những cuộc khủng bố mà Việt Cộng đã tiến hành ở miền Nam VN trước đây. Chẳng hạn như vụ đánh bom tại rạp hát Kinh Đô năm 1964, tại khách sạn Caravelle Sài Gòn năm 1964, tại nhà hàng nổi Mỹ Cảnh trên sông Sài Gòn năm 1965, vụ pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy, Tiền Giang năm 1974 v.v… Chưa kể vô số những vụ đặt mìn, ném bom, pháo kích…từ các mục tiêu quân sự như trại lính, kho tàng, tàu chở trang thiết bị quân sự, cho tới các mục tiêu dân sự như nhà hát, khách sạn, cầu cống, đường xe lửa, trường học, sân vận động… xảy ra như cơm bữa ở miền Nam lúc bấy giờ, từ thành thị cho tới nông thôn.
Không chỉ khủng bố, Việt Cộng còn tổ chức một số vụ ám sát cá nhân các chính khách Mỹ và SG, trong đó nổi bật là vụ ám sát hụt Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara của Nguyễn Văn Trỗi năm 1964, vụ ám sát Giáo sư Nguyễn Văn Bông là Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh, người chuẩn bị lên làm Thủ tướng của chính quyền VNCH vào năm 1971, hay vụ ám sát ký giả Từ Chung của tờ Chính Luận năm 1965… Nhắc lại là vì cho đến giờ phút này, nhà cầm quyền VN từ sách giáo khoa cho đến báo chí, truyền thông vẫn tiếp tục ca ngợi những việc làm đó như những chiến công anh hùng; trong khi cũng chính họ, ngày nay lên án những hành động tương tự của các nhóm Hồi giáo cực đoan nhắm vào các nước phương Tây và Hoa Kỳ. Đó là chưa nói đến một khía cạnh tàn nhẫn hơn, các nhóm Hồi giáo thường tấn công giết hại người dân nước khác, còn họ trước đây, là giết chính đồng bào mình.

Thời đó thông tin chưa đi nhanh, lan rộng như bây giờ, nếu có, chắc chắn thế giới cũng sẽ lên án. Không thể viện lý do hoàn cảnh chiến tranh thì phải khác, hoặc chiến tranh thì bên nào cũng tàn ác, Mỹ cũng thả bom B52 xuống miền Bắc đó thôi v.v…Hoặc những lập luận rằng nhắc lại để làm gì, không nên khơi lại hận thù…Có nghĩa là người dân miền Nam nhắc lại những nỗi đau trong cuộc chiến thì không nên, nhưng còn nhà nước này năm nào cũng ra rả nhắc đi nhắc lại những chiến công đánh Mỹ ngụy, năm nào cũng tổ chức ăn mừng chiến thắng nhân dịp này dịp kia thì nên?
Trong giới hạn của một bài viết, không thể đi sâu tranh luận hay giải thích từ việc tại sao Mỹ phải nhảy vào VN, tại sao có những cuộc thả bom miền Bắc, sự thật về những vụ tấn công vào đô thị và nông thôn Miền Nam trong chiến tranh Việt Nam… Thế giới bây giờ có internet, tràn ngập thông tin, tư liệu, cả hồi ký của người trong cuộc, sách nghiên cứu về chiến tranh VN đầy dẫy, không chỉ do người VN tự viết mà do người nước ngoài viết dưới những góc nhìn đa chiều khác nhau. Chúng ta nên đọc, tìm hiểu và tự rút ra kết luận, đừng để cho đầu óc mình bị nhồi sọ một chiều mãi. Chỉ nói vắt tắt một điều, những hành động đánh bom, gài mìn vào những khu dân sự có đông dân cư, những vụ ám sát cá nhân các chính khách hay kể cả pháo kích bừa bãi vào làng quê… là khủng bố, dù khi đó được nhân danh lòng yêu nước.

Trong một status đăng trên facebook về vụ đánh bom ờ nhà hàng Mỹ Cảnh năm xưa, facebooker Mạnh Kim kết luận:
“Câu chuyện ở đây được nhắc không phải để gieo hận thù, không phải để bới móc nỗi đau quá khứ của một dân tộc đảo điên với nội chiến và phân chia ranh giới không chỉ ý thức hệ mà cả lòng người. Nhắc lại để thấy sự khác biệt giữa chiến tranh với khủng bố, giữa việc người lính hai bên cầm súng bắn nhau trên trận tuyến khác với việc giết thường dân ở một địa điểm không là chiến trường, giữa việc hể hả với thành tích giết người với nỗi đau tột cùng của những nạn nhân thường dân, giữa sự mưu cầu yên bình với sự thỏa mãn mục đích chính trị “gây tiếng vang”. Nhắc lại, lần này, để thấy cần phải gọi tên cho chính xác một hành vi và cần phải xem đó như là một sự phi nhân không bao giờ nên được kể lại với thái độ “chiến thắng” không đúng mực.” (facebook Manh Kim)

Khủng bố ở Little Saigon?
Một sự kiện khác gần đây cũng khiến cộng đồng người Việt ở nước ngoài, đặc biệt là cộng đồng ở Mỹ, cho tới khá nhiều người Việt trong nước chú ý đến, là việc trong chương trình Frontline của hệ thống truyền hình PBS tối thứ Ba 3.11.2015 đã chiếu phim phóng sự “Terror in Little Saigon”, được thực hiện bởi một nhóm ký giả của tổ chức ProPublica, với hai nhân vật có vai trò chính là đạo diễn Richard Rowley và phóng viên Adam Clay Thompson. Bộ phim lật lại vụ ám sát 6 nhà báo Mỹ gốc Việt trong những năm 80 của thế kỷ XX. Dù không nói rõ nhưng những người làm phim có ý ám chỉ Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam, tổ chức tiền thân của đảng Việt Tân bây giờ, đứng đằng sau tất cả những vụ ám sát này.
Người của đảng Việt Tân đã lên tiếng bác bỏ và cho biết sẽ tiến hành những động thái cần thiết để phản đối những người thực hiện bộ phim.
Về chuyện này, thiết nghĩ, Mỹ là một xứ sở tự do, dân chủ, thượng tôn pháp luật, nếu đảng Việt Tân tin chắc Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam trước đây không dính líu gì đến những vụ việc này, họ hoàn toàn có thể kiện tổ chức ProPublica, đài truyền hình PBS và những người làm phim ra tòa và nếu thắng kiện, là một dịp để cho đảng Việt Tân rửa được những tiếng xấu oan, sự nghi ngờ trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài và cả với người Việt trong nước.

Trong khi đó trên trang Change.org cũng đã có lời kêu gọi mọi người ủng hộ và ký tên vào lá thư yêu cầu Bộ Tư pháp Hoa Kỳ và FBI mở lại hồ sơ các ký giả người Mỹ gốc Việt bị sát hại để nỗ lực làm sáng tỏ vụ việc sau hơn 30 năm, tìm ra thủ phạm cho dù là ai, để đem lại công lý dù muộn màng cho những người đã chết và thân nhân của họ, cũng như đem lại cho người Việt đang sống trên đất Mỹ hay sống ở bất cứ nơi nào, niềm tin vào công lý ở một quốc gia luôn đề cao những giá trị dân chủ, sự thật và công bằng cho tất cả mọi người.
Như đã nói, khủng bố dù nhân danh bất cứ lý do gì, dưới bất cứ hình thức nào, cũng đều không thể chấp nhận, nhất là trong thời đại văn minh ngày nay. Và riêng với VN, một dân tộc đã từng phải chịu đựng chiến tranh, khủng bố triền miên và vẫn đang tiếp tục chịu đựng sự khủng bố dưới mọi hình thức từ công khai đến tinh vi, giấu mặt của nhà cầm quyền để kìm giữ người dân trong sự sợ hãi, hèn nhát và vô cảm, dân tộc đó càng phải lên án mọi hành vi khủng bố với dân tộc khác và với chính dân tộc mình.

Chút nghĩa thầy cô

Chút nghĩa thầy cô

RFA

Đầu tuần này, lớp học tình thương của một nhóm thiện nguyện tại quận 3, Sài Gòn, bắt đầu ngày học của mình bằng giờ tập vẽ, làm thiệp chúc mừng ngày thầy cô giáo 20-11.

Lớp học loi nhoi tiếng hỏi han cách thức, đòi thêm giấy, viết màu của nhau. Khó khăn lớn nhất của những đứa trẻ đó là viết được lời chúc đàng hoàng để tặng cho người dạy mình. Một đứa khều khều, hỏi nhỏ “con chúc cô giáo ăn nhiều có kỳ không?”.

Hầu hết những đứa nhỏ học lớp vẽ đó đến từ những gia đình rất nghèo. Còn lại thì là những những đứa không biết một mái nhà là gì, từ lúc ra đời đến giờ. Cô giáo Sa, một trong những thiện nguyên giáo dục đường phố nói rằng nhiều đứa trẻ như vậy đã thân thuộc với vỉa hè, gầm cầu… vì khi ra đời cho đến khi lớn lên, bầu trời là mái nhà. “Nhà” đôi khi rất khủng khiếp, vì đó là những nơi chúng bị bắt về, bị buộc đóng các loại tiền gì gì đó theo chính sách… sau những đợt thu gom của chính quyền để làm “sạch đường phố”.

Nhưng với thầy cô là một chuyện rất khác. Những gương mặt đầy giận dữ, tinh ranh… ngày thường trên vỉa hè của chúng tức thì dịu lại, khi thấy thấp thoáng bóng dáng thầy hay cô xuất hiện. Có cái gì đó rất kỳ diệu trong nghĩa thầy trò vừa mong manh, vừa vĩ đại này. Những đứa trẻ Việt Nam dù ở hoàn cảnh nào, vẫn thầm lặng mang trong lòng mình một không gian kính ngưỡng dành cho người dạy dỗ mình, thậm chí còn đậm sâu hơn nhiều đứa trẻ đeo khăn quàng và được giáo dục trong mái trường xã hội chủ nghĩa.

Rất nhiều người đau đớn nói rằng thế hệ trẻ hôm nay đã hỏng tất cả, khi mỗi ngày nhìn thấy chuyện trò đánh thầy, trò vây đánh trò… mỗi lúc càng ghê sợ. Nhưng phải đi và đến những điểm tận cùng của cuộc sống, nhìn thấy của những đứa trẻ chơ vơ ấy, chứng kiến chúng khao khát được gọi tiếng “thầy-cô”, khao khát được nhìn nhận như một học trò, có thể mới hiểu rằng mọi vấn nạn đều sinh ra từ nhà trường, từ chính sách, từ xã hội… Chúng chỉ là những nạn nhân. Những nạn nhân mỏng manh của người lớn.

Một thằng bé không chịu nói tên, chăm chút vẽ ngôi trường của nó và tô toàn bộ là một màu đen. Mấy đứa bạn cười ngặt nghẽo, nói nhìn là biết ngay là trường bị cúp điện. Đứa khác nói vì hết màu nên nó tô đại màu đen. Nhưng có thể tác giả của cái thiệp thì biết rõ hơn ai hết, trường của nó chỉ là tưởng tượng, đêm đến, hết làm việc thì nó được học ở ngoài trời, khi các thầy cô thiện nguyện đến.

Những năm cuối thập niên 70, cái đói hoành hành toàn miền Nam. Nơi nơi người ta phải nấu hạt bo bo dành cho ngựa và bò, được viện trợ từ Liên Xô, để ăn ngày hai bữa. Cô giáo tiểu học của tôi, lúc đó đi dạy luôn mang theo chuối nấu và bánh kẹo để bán chịu cho học trò, nhằm có thêm chút tiền sinh sống. Cuối năm, tặng quà tết cho cô, mẹ tôi cứ đắn đo giữa việc tặng quà hay đưa tiền mặt. Cuối cùng nắm chặt bì thư nhét vào tay cô giáo kèm một lời xin lỗi, mẹ tôi về kể lại với ánh mắt buồn buồn rằng cô giáo đã ôm mẹ tôi, nói rằng cô cám ơn vì mẹ tôi đã rất thực tế giữa buổi khốn khó đó. Hôm nay thì chuyện nhét ít tiền vào túi thầy cô đã không còn lạ, rất thông tục – thậm chí không có là không xong. Nhưng tôi thì nhớ mãi phút giây mẹ tôi cứ đau đáu vì sợ làm tổn thương người dạy học, thành phần được vô cùng kính trọng trong nền văn hoá giáo dục của miền Nam cũ.

Trong tập truyện kể Những tâm hồn cao thượng (Les Grands Coeurs) của Edmond De Amicis mà mẹ tôi tặng cho tôi khi vào lớp 3, như một cẩm nang sống, câu chuyện vị tướng quân quay lại ngôi trường cũ, cúi đầu trước người thầy già luôn làm tôi cảm động rơi nước mắt. Tình người và nghĩa thầy trò mới cao đẹp làm sao.

Bơi lặn trong cuộc đời, nhìn thấy những điều quặn lòng trong đời Việt, tôi luôn nhớ câu chuyện nhỏ đó như để ủi an cho mình. Tôi đọc những câu chuyện có thật về trò giết thầy rồi nhơn nhơn tự đắc như chuyện của Vũ Quang Hùng, chuyện hiệu trưởng dụ dỗ học trò vào đường cùng như Sầm Đức Xương… cho đến nhan nhản những chuyện trò nghèo không có kịp tiền đóng học phí, bị thầy cho bêu tên làm nhục dưới cột cờ, cô giáo thẳng tay đuổi học trò vì bị mẹ phê bình… Tôi hiểu cuộc sống hôm nay không đẹp như ngày xưa nữa, nghĩa thầy trò cũng phai nhạt theo thời gian. Tôi luôn nhớ câu chuyện của Edmond De Amicis mà dặn lòng, rồi sẽ có một ngày, người Việt sẽ dựng xây lại đất nước này với những điều tốt đẹp nhất – như thế hệ tôi từng biết.

Trong học vấn kém cõi của mình, tôi chỉ có hai người thầy hiếm hoi, bao dung nổi tính cách ngang ngược của mình. Một là người thầy trong Nhạc Viện, và người thầy môn Anh Văn. Thầy dạy Anh Văn là một người uyên bác lạ kỳ, ông biết năm thứ tiếng và đặc biệt là tiếng Latin, nên thường được chính quyền cậy nhờ làm việc mỗi khi đối thoại, thư từ với Vatican trong thời cố tổng thống Ngô Đình Diệm. Người thầy dạy nhạc với hơn 30 năm tuổi đảng thì dặn tôi phải lớn khôn và đừng bao giờ trở thành người cộng sản. Người thầy dạy chữ thì khó tính và lặng lẽ, nhưng lại dạy cho tôi hiểu biết rất nhiều về thế giới không cộng sản.

Tôi nhớ hoài một cánh tay của ông bị liệt, nên khi dạy luôn phải dùng tay này đỡ tay kia. Sức khoẻ ông yếu nên mỗi ngày cần phải uống một viên multivitamin. Nhưng loại thuốc đó thì rất khó tìm trong thời tôi đi học. Nhiều năm sau khi ra đời, chuyến đầu tiên ra nước ngoài, tôi đã chạy tìm mua mấy hộp multivitamin để mang về cho thầy. Nhưng về, thì thầy đã mất. Sức ông yếu, lại trãi qua nhiều năm trong trại tù – gọi là trại học tập cải tạo nên đột quỵ, gượng phục hồi sau khi bị liệt nửa người, nhưng rồi suy nhược dần.

Ngày 20/11 luôn nhắc tôi nhiều điều. Dịp đến thăm lớp học tình thương của những đứa trẻ nghèo lại càng gợi lên trong tôi nhiều kỷ niệm. Tôi không đo được nghĩa thầy cô trong lòng những đứa trẻ được giáo dục trong mái trường xã hội chủ nghĩa hôm nay như thế nào, nhưng với thế hệ tôi, đó là điều thiêng liêng khôn tả, nó giống như sự kính trọng và thương mến thầy cô mà tôi nhìn thấy ở những lớp học tình thương đó.

Nhìn tấm thiệp tô mái trường đen ngòm của đứa trẻ, tôi chợt nhận ra rằng đời khốn khó không bao giờ có thể giết chết được nghĩa thầy cô. Mà chỉ khi nghĩa thầy cô cao cả ấy bị bóp chết trong một xã hội nhiễu nhương, trong một chính quyền với nền giáo dục nhiễu nhương, ấy mới chính là lúc tất cả chúng ta và mai sau đang có một cuộc sống rất đỗi đen ngòm.

———————-
tranh minh họa: họa sỉ Lê Thiết Cương