Phạm Minh Vũ: “Tôi sẽ không từ bỏ con đường tranh đấu cho đến khi VN đa đảng”.

Phạm Minh Vũ: “Tôi sẽ không từ bỏ con đường tranh đấu cho đến khi VN đa đảng”.

Hòa Ái, phóng viên RFA

Cựu tù nhân Phạm Minh Vũ Phần âm thanh Tải xuống âm thanh
MInh-620

Cựu tù nhân Phạm Minh Vũ

RFA photo

Cùng với Lê Thị Phương Anh và Đỗ Nam Trung bị Viện Kiểm sát nhân dân Tỉnh Đồng Nai truy tố tội theo điều 258 Bộ Luật Hình sự VN hồi tháng 2 năm 2015, Phạm Minh Vũ là người trẻ nhất và thụ án tù lâu nhất. Hòa Ái có cuộc trao đổi ngắn với cựu tù nhân lương tâm sinh viên, 23 tuổi này để nghe chia sẻ của anh về lý tưởng đấu tranh tự do dân chủ cho VN.

Hòa Ái: Xin chào Phạm Minh Vũ. Trước hết, thay mặt ban Việt ngữ đài RFA, Hòa Ái gửi lời chúc mừng bạn được tự do sau khi thụ án 18 tháng tù  vì tội “Lợi dụng quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích Nhà nước”. Bạn có thể cho biết trong đợt biểu tình rầm rộ của công nhân chống Trung Quốc hồi tháng 5 năm ngoái, bạn có mặt ở Bình Dương với mục đích gì?

Phạm Minh Vũ: Khi giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc kéo sang VN, tôi nhận được thông tin ở Sài Gòn có cuộc biểu tình lớn nhưng ở Bình Dương, Đồng Nai lại có sự đập phá cho nên tôi thấy tình hình như vậy nên tôi muốn đến để đưa tin. Tôi đã vào Sài Gòn và xuống Đồng Nai trong ngày 15 tháng 5 năm 2014. Vừa xuống thì bị bắt giữ cho đến kết án luôn.

Hòa Ái: Vậy khi ra tòa, bạn bị buộc tội theo Điều 258 với những bằng chứng nào?

Phạm Minh Vũ: Người ta dùng những bằng chứng chẳng hạn tôi có nhận sự trợ giúp của anh em vì có kêu gọi anh em cùng làm từ thiện. Tôi nhận sự trợ giúp khi ốm đau và tôi có hoàn cảnh. Rồi, có những phát ngôn trên Facebook. Đây là 2 lý do chính để người ta kết án tôi.

Hòa Ái: Và trong đợt biểu tình của công nhân chống Trung Quốc mà bạn có mặt thì tòa không có bằng chứng cụ thể nào để chứng minh bạn “chống phá Nhà nước” phải không”?

Phạm Minh Vũ: Dạ vâng. Tôi đến đó chỉ để quan sát và cập nhật thông tin chứ không có làm gì khác.

Hòa Ái: Bạn là người phải chịu bản án cao nhất trong nhóm 3 người bị xét xử cùng với Lê Thị Phương Anh và Đỗ Nam Trung. Trong suốt 18 tháng thụ án, bạn gặp những trở ngại khó khăn nào?

Phạm Minh Vũ: Theo tôi nghĩ thì trong nhà tù VN thì hầu như ở đâu cũng thế. Vì VN không có nhân quyền cho nên chẳng phải nói nhiều hơn nữa. Có rất nhiều khó khăn ạ.

Hòa Ái: Thời gian thụ án của bạn đã kết thúc. Thông tin ra tù của bạn cũng được loan đi trên các trang mạng xã hội và được nhiều người quan tâm. Bên cạnh những lời chia sẻ chúc mừng, Hòa Ái ghi nhận cũng có không ít các bạn thanh niên trẻ trong nước nhận xét không tốt về bạn vì bạn là hình ảnh xấu, gây ảnh hưởng không tốt cho giới sinh viên…Nếu như được cơ hội tiếp xúc với họ, bạn sẽ nói gì?

Phạm Minh Vũ: Dạ, tôi nghĩ mỗi người có quan điểm riêng. Người ta nhìn vấn đề nếu chưa sát vì chỉ nhìn theo góc độ từ bên ngoài. Tôi nghĩ đa số sinh viên VN đều có sự giáo dục từ mầm non cho đến học ở cấp cao hơn trong quá trình nhồi nhét  tư tưởng cho nên phản ứng của họ như vậy là bình thường. Nếu tôi được gặp những người như thế thì tôi sẽ giải thích những hành động việc làm của tôi hầu như không sai trái. Mục đích của tôi chỉ nhằm muốn VN tiến bộ hơn. Đơn giản tôi chỉ chống Trung Quốc nhưng nhà cầm quyền lại bắt tôi. Theo tôi đó là hành động đàn áp.

Hòa Ái: Theo Hòa Ái biết, bạn từng theo học trường về lãnh vực phát thanh truyền hình, bạn có thể chia sẻ một chút rằng bạn chọn học ngành truyền thông vì ngành này đang phát triển mạnh ở VN, có thể nói là một trong những ngành thời thượng hay bạn chọn vì bạn muốn sử dụng truyền thông như một phương tiện để cất lên tiếng nói trung thực trong thời buổi VN hiện nay?

Phạm Minh Vũ: Khi tôi suy nghĩ và quyết định học Trường Phát thanh- Truyền hình I thì tôi có suy nghĩ đắn đo nhiều. Tôi mong muốn VN có tự do báo chí hơn nên tôi muốn tham gia học ở trường đó để có tư tưởng lập trường trung lập khi phát ngôn hoặc những đóng góp trong vấn đề định hướng dư luận ở VN được thẳng thắn hơn chứ không phải bị  theo kiểu của “Dư luận viên” đưa vào “văn hóa-quy củ” của Đảng cầm quyền.

Hòa Ái: Câu hỏi sau cùng là nhà trường nơi bạn học không đồng ý cho bạn đến học nữa và thân phận của bạn là một cựu tù nhân lương tâm, bạn nhận thấy con đường mình chọn đi để thay đổi VN được dân chủ hóa hơn, văn minh hơn mà bị tù đày, điều này có khiến cho bạn bị nản lòng không? Hay sau bản án tù này thì bạn càng mạnh mẽ để dấn thân?

Phạm Minh Vũ: Xã hội VN là một xã hội chuyên quyền độc tài do Đảng CSVN cầm quyền, cai trị. Chỉ khi nào Đảng CSVN từ bỏ quyền lực, chấp nhận đa nguyên, đa đảng thì lúc đó tôi mới ngừng con đường đấu tranh.

Hòa Ái: Cảm ơn thời gian chia sẻ của bạn Phạm Minh Vũ dành cho đài ACTD. Ngay trước khi bạn bị bắt, Hòa Ái được biết thân phụ của bạn vừa qua đời vì căn bệnh hiểm nghèo. Nhân đây, Hòa Ái kính lời chia buồn cùng bạn và gia đình. Cầu chúc bạn sức khỏe và mọi sự bình an. 

ĐỈNH CAO BẤT NHÂN

ĐỈNH CAO BẤT NHÂN

 Huỳnh Ngọc Chênh

Đến dự phiên toà xét xử Nguyễn Mai Trung Tuấn có thầy giáo chủ nhiệm năm lớp 9 là năm học cuối cùng của cuộc đời học sinh của em.

Thầy cho biết liên tục từ lớp 6 đến lớp 9 em là học sinh ngoan luôn luôn đạt hạnh kiểm tốt. Mẹ em, bị cáo của phiên toà trước, cũng xuất hiện trước toà cho biết em là đứa con ngoan hiền trong gia đình, tuy còn nhỏ nhưng đã biết giúp đỡ cha mẹ và lo lắng cho em.

Điều gì đã đẩy một cậu bé ngoan hiền như em vào con đường chống lại cả một hệ thống cơ quan quyền lực?

Phát biểu tại toà, ông Nguyễn Trung Cang, cha em đã nói nếu chính quyền địa phương vận dụng quyết định 3047 và 2282 (?) thay vì các quyết định 3629 và 2772 liên quan đến đền bù giải toả thì đã không đẩy gia đình ông vào bước đường cùng như hôm nay: mất đất, tan nhà, hai vợ chồng vào tù và đứa con 15 tuổi bé bỏng của ông cũng đối diện với phiên toà.

Miếng đất mà gia đình ông sinh sống trên đó từ bao đời, nhờ vào đó mà gia đình ông mới mở quán buôn bán làm ăn mang đến nguồn thu nhập để nuôi hai con ăn học. Cướp miếng đất đó đi không những là cướp đi chỗ ở duy nhất mà còn triệt tiêu phương tiện sinh sống từ bao lâu nay của gia đình ông.

Gia đình ông quyết liệt chống lại lệnh cưỡng chế vì sự vận dụng phi lý của chính quyền địa phương và vì không còn con đường sống.

Sáng ngày 14/4/2015 là ngày lực lượng cưỡng chế đến trấn áp gia đình bất hạnh đó, cậu bé Trung Tuấn quá thương cha mẹ không thể cắp sách đến trường được. Cậu quyết định ở lại nhà với… bom xăng và ná cao su để ngăn cản lực lượng cưỡng chế hùng hậu được vũ trang đến tận răng theo như tư duy trẻ con của cậu.

Cậu đã ném bom xăng xuống mặt đường trước cửa nhà với hy vọng ngăn cản không cho lực lượng hung dữ đó vào nhà bắt cả nhà cậu đi. Đám lửa nhỏ nhoi ấy cũng không ngăn cản được ai, cậu hoảng hốt dùng đến ná cao su bắn vào đoàn người cưỡng chế. Nhưng cậu cũng chẳng bắn trúng được ai.

Khi lực lượng cưỡng chế do trung tá công an dẫn đầu tràn vào thì ngôi nhà bùng lên bốc cháy. Hoảng loạn cũng bùng lên. Hoảng loạn đến mức viên trung tá chỉ huy cũng quay lưng bỏ chạy ra ngoài. Trong bối cảnh đó, lại vang lên các tiếng thét của lực lượng cưỡng chế: Bắt lấy nó, bắt lấy nó!

Cậu bé không còn biết suy nghĩ gì nữa, sẵn ca axit của ba cậu dùng để chế bình ăc quy xe (ba cậu làm nghề sửa xe) để gần đó, cậu đã chụp và tạt ra ngoài, ngẫu nhiên trúng vào lưng ông trung tá công an đang xoay lưng bỏ chạy vì hoảng loạn.

Nếu thương tật của ông trung tá ở mức 30% thì Tuấn đã vô tội. Nhưng luật sư Nguyễn Văn Miếng cho rằng có vấn đề trong chuyện giám định thương tật. Cơ quan giám định của địa phương chưa khách quan, thủ tục giám định có sai trái, bản kết quả giám định đưa ra toà là bản sao chứ không phải bản chính, hai giám định viên được luật sư yêu cầu ra làm chứng cũng không có mặt… Luât sư Miếng nghi ngờ mức thương tật 35% mà giám định đưa ra, cái mức vừa đủ khít để cò thể truy tố Tuấn về hành vi tấn công gây ra thương tích.

Trực tiếp nghe phiên toà (qua loa bắt ra ngoài) tôi thấy cả một hệ thống toà án đang truy bức cậu bé. Từ chủ toạ phiên toà, đến hai vị hội thẩm đến công tố viên đều đặt ra những câu hỏi áp chế, mớm cung để gài cậu bé từ hành vi không cố ý thành hành vi cố ý.

Luôn miệng những người này dùng từ “trừng trị”, “răn đe” khi xét hỏi cậu bé 15 tuổi.

Bản án đã tuyên y như mức mà công tố viên đã hăm hở đề nghị. Tất cả những bào chữa hợp lý của luật sư Miếng đều bị gạt bỏ.

Cả một hệ thống vào cuôc một cách thô thiển, thô bỉ và tàn bạo đến bất nhân để đẩy một gia đình dân lành vào bước đường cùng.

Phiên toà kết thúc, tôi đứng lên và bắt gặp ngay cô bé Nguyễn Mai Thảo Ly – em gái của Tuấn. Em cố gượng cười để tôi chụp ảnh, nhưng miệng em cứ méo dần đi. Mắt em buồn rười rượi. Em sẽ đi về đâu khi không còn nhà, không còn cha, không còn mẹ và không còn cả người anh trai thương yêu, sẵn sàng đi chăn vịt để kiếm tiền nuôi em đi học khi cha mẹ đã vào tù.

clip_image002

Em gái Thảo Ly của bị cáo 15 tuổi.

clip_image004

Đến dự phiên toà “công khai” bên ngoài hành lang là đông đảo dân oan từ khắp mọi miền.

clip_image006

Công an khắp mọi nơi bám theo người dân đến dự phiên toà.

H.N.C.

Nguồn: https://www.facebook.com/ho.lytien.1?pnref=story

ĐÃ 13 Lần DÂN VIỆT ĐẠI THẮNG GIẶC PHƯƠNG BẮC Xâm Lăng

ĐÃ 13 Lần DÂN VIỆT ĐẠI THẮNG GIẶC PHƯƠNG BẮC Xâm Lăng

A. Trong mấy ngàn năm qua, đặc biệt từ khi tộc Hoa du mục hiếu chiến thành hình ở phương Bắc, từ năm 1046 ttl, người Tộc Việt chuyên trồng lúa nước, hiếu hòa, ở phương Nam, luôn bị giặc Hoa cướp bóc, xâm lăng.

Không kể những cuộc xâm lấn nhỏ, đã có 13 lần phương Bắc xua đại quân xâm lấn phương Nam, đặc biệt Việt Nam. Nhưng trong tất cả 13 lần đó, Dân Việt đều đại thắng các đoàn quânPhương Bắc. Đã mười ba lần, Dân ta đại thắng !

Lần thứ 1 : Năm 1218 TTL, ĐẠI THẮNG Giặc ÂN, Đức PHÙ ĐỔNG

Theo sách vở Trung Hoa, năm 1218 ttl, Ân Cao Tôn đã đánh Quỷ Phương, vùng Đồng Đình. Ân Cao Tôn đóng quân tại đất Kinh, phía tả ngạn sông Dương Tử. Sau 3 năm, Ân Cao Tôn ‘không thắng’. [Nhà Ân còn được gọi là Nhà Hậu Thương].

Theo Truyền kỳ Phù Đổng của Việt Lạc, Ân Cao Tôn đã xâm lấn nước ta ba năm và đã bị đánh bại.

* Như thế, theo Truyền kỳ Phù Đổng, cách đây 3200 năm, dân Việt Lạc đã là một quốc gia vững mạnh. Nước nầy đã có tổ chức chặt chẽ, có vua quan, có làng xã, có cúng tế, có lúa gạo, có vải áo, có lũy tre… đã đúc được ngựa sắt, roi sắt, đã có tinh thần dân tộc cao độ… và, theo sách vở Trung Hoa, đã chiến thắng giặc Ân vào thời kỳ hùng mạnh nhất của chúng.

[Vào thời kỳ nầy, tộc Hoa chưa thành hình. Phải hơn 100 năm sau, bộ lạc Chu mới gom góp các bộ lạc du mục khác ở vùng Thiểm Tây, và thành lập Nhà Chu. Từ đó, tộc Hoa mới thành hình và phát triển].*1

*     *

Lần thứ 2 : Năm 214 TTL, ĐẠI THẮNG Giặc HOA TẦN

Năm 214 ttl, Tần Thủy Hoàng, vị vua đầu tiên của Trung Hoa, sai tướng Đồ Thư kéo 50 vạn quân xâm lăng vùng đất Việt Lạc. Nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông. Đây là đoàn quân tinh nhuệ vừa giúp Tần Thủy Hoàng đánh chiếm sáu nước và thành lập nước Trung Hoa.

Nhưng mấy năm sau, Đồ Thư đã bị quân Việt đánh bại, quân giặc chết quá nửa, Đồ Thư bị giết.*2

* Theo cách hành quân của Trung Hoa, mỗi người lính đem theo một phu phục dịch. Số người vận chuyển lương thực cũng không được kể là lính. Vì vậy, số người Trung Hoa xâm nhập có thể nhiều gấp 3 lần con số quân lính được kể tới, dầu là con số trung thực.

*     *

Lần thứ 3 : Năm 181 TTL, ĐẠI THẮNG Giặc HOA TÂY HÁN

Năm 181 ttl, triều Hán sai Long Lân hầu Chu Táo kéo quân sang xâm phạm Lĩnh Nam, đánh Nam Việt. Theo sách vở Trung Hoa, quân Hán không chịu được thủy thổ phương Nam, nhiều người phải bịnh tật, bởi vậy phải thua chạy về bắc. Sau đó, triều Hán xét việc Nam chinh không lợi, nên không đánh nữa (!).*3

*     *

Lần thứ 4 : Năm 40 DL, ĐẠI THẮNG Giặc HOA ĐÔNG HÁN và TÁI CHIẾM TOÀN THỂ VÙNG ĐẤT VIỆT LẠC, Đức TRƯNG NỮ VƯƠNG – ĐẠI ĐẾ ĐỒNG ĐÌNH LĨNH NAM

Năm 30 dl, Hán Quang Vũ áp đặt chế độ trực trị trên vùng đất Việt Lạc. Do đó, toàn dân Việt vùng lên kháng chiến, và bầu Đức Trưng Trắc là Thủ Lãnh. Sau 10 năm, Dân ta đã đánh đuổi toàn bộ quân Tàu ra khỏi vùng đất Việt Lạc, chiếm lại 65 thành.

Thời gian qua, sách sử Trung Hoa đã giảm thiểu vùng đất và sức mạnh của dân Việt thời đó. Ngày nay, đã có đủ chứng cứ xác định vị trí, tình hình và vùng đất bao la của việc quân dân Việt đánh chiếm lại 65 thành, và đánh bại đại quân hùng hậu của hoàng đế Quang Vũ nhà Hán.

Thời đó, vùng đất Việt Lạc nay là Hồ Nam, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, và một phần Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Phúc Kiến của Trung Hoa, xuống tới Hải Vân… Và Hán Quang Vũ đã phải vận dụng toàn thể binh lực của ‘thiên triều’.

Đức Trưng Nữ Vương đáng được tôn hiệu ĐAI ĐẾ ĐỒNG ĐÌNH LĨNH NAM.*4

*     *

Lần thứ 5 : Năm 541 DL, ĐẠI THẮNG Giặc HOA LƯƠNG, Đức NAM VIỆT ĐẾ

Năm 541 dl Đức Nam Việt Đế, húy là Lý Bôn,  đánh đuổi quân trú đóng Trung Hoa, giành độc lập. Năm 544 xưng là Nam Việt Đế, niên hiệu Thiên Đức, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Lập ra Nhà Tiền Lý.

Đây là lần đầu tiên sách sử Trung Hoa ghi lại quốc hiệu và niên hiệu của dân ta.

Nhà Tiền Lý kéo dài 61 năm, từ 541 tới 602 dl.*5 

*     *

Lần thứ 6 : Năm 938 DL, ĐẠI THẮNG Giặc HOA NAM HÁN, Đức NGÔ NAM ĐẾ

Từ năm 906 dl, Đức Khúc Thừa Dụ đã giành quyền tự trị khỏi tay người Trung Hoa. Truyền được 3 đời.

Năm 938, vua Trung Hoa Nam Hán sai thái tử là Hoằng Tháo kéo quân xâm lấn. Với trận cọc gỗ bọc sắt trên sông Bạch Đằng, Đức Ngô Nam Đế, huý là Ngô Quyền, đã đại thắng quân Hán, giết chết thái tử Hoằng Tháo. Hoàng đế Nam Hán là Lưu Cung cũng kéo quân tiếp ứng theo đường bộ. Nghe tin, ông khóc và rút về.*6

*     *

Lần thứ 7 : Năm 981, ĐẠI THẮNG Giặc HOA TỐNG Lần 1, Đức LÊ ĐẠI HÀNH

Năm 981 dl, vua Tống sai tướng Hầu nhân Bảo kéo quân xâm lấn, theo hai đường bộ và thủy. Vì vua nước ta là Đinh Tuệ mới 8 tuổi, nên quân sĩ tôn tướng Lê Hoàn lên ngôi, tức là Đức Lê Đại Hành. Với một trận Chi Lăng, quân ta phá tan đoàn quân Tàu, giết Hầu nhân Bảo. Đoàn quân giặc theo đường biển vội vàng rút lui.*7

*     *

Lần thứ 8 : Năm 1076, ĐẠI THẮNG Giặc HOA TỐNG Lần 2, Đức LÝ NHÂN TÔN, Danh Tướng LÝ THƯỜNG KIỆT

Năm 1072 dl, vua Lý nhân Tôn lên ngôi. Vì vua mới 7 tuổi, nên việc quân đều ở trong tay danh tướng Lý Thường Kiệt.

Năm 1075, Lý thường Kiệt và Tôn Đản kéo 10 vạn quân tái chiếm vùng châu Khâm, châu Liêm và châu Ung, [vốn thuộc vùng đất Việt Lạc], nay thuộc Quảng Đông, Quảng Tây.

Năm 1076, vua Tống sai Quách Quì và Triệu Tiết kéo hơn 30 vạn quân sang xâm lấn Nước ta. Nhưng chúng bị đánh tan ở sông Như Nguyệt. Giặc Tàu kéo tới hơn 30 vạn, chỉ còn 2 vạn 8 trở về !*8

*     *

Lần thứ 9 : Năm 1258, ĐẠI THẮNG Giặc MÔNG CỔ Lần 1, Đức TRẦN THÁI TÔN

Năm 1254, quân Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý, ở vùng Vân Nam. Mông Cổ đương thời là đế quốc to lớn và hùng mạnh nhất thế giới, chìếm đóng từ Á sang Âu.

Năm 1257, từ Vân Nam, tướng Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqatai) đem 3 vạn quân Mông Cổ và hơn 1 vạn quân Đại Lý tấn công Đại Việt, chiếm Thăng Long, đốt phá và giết mọi người trong thành. [Ngột Lương Hợp Thai là công thần thứ 3 của Nhà Nguyên, từng tham gia các trận đánh chiếm nước Kim, nước Đức, Ba Lan, Bagdad, và diệt nước Đại Lý].

Vua Trần thái Tôn lo sợ, hỏi ý kiến Trần Thủ Độ. Trần thủ Độ khẳng khái : “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin Bệ Hạ đừng lo !”.

Chỉ mấy ngày sau, vua Trần thái Tôn dẫn quân phản công, đánh thắng quân Mông Cổ trong trận Đông Bộ Đầu. Trên đường rút lui, quân Mông Cổ còn bị quân ta chận đánh tan tành ở vùng Qui Hóa.*9

*     *

Lần thứ 10 : Năm 1284, ĐẠI THẮNG Giặc HOA MÔNG NGUYÊN Lần 2, Đức TRẦN NHÂN TÔN, Danh Tướng HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG

Năm 1271 Hốt Tất Liệt (Khubilai) trở thành Đại Hãn của đế quốc Mông Cổ, đổi quốc hiệu thành Nguyên. Năm 1279, quân Nguyên chiếm trọn đất Trung Hoa. Đế quốc Mông Cổ bao trùm 40 quốc gia từ Á sang Âu.

Năm 1284, Hốt Tất Liệt sai con là Thoát Hoan (Toghan), cùng với các danh tướng Toa Đô (Suodu), Ô Mã Nhi, kéo 50 vạn quân xâm lăng Đại Việt. Quân Nguyên còn có thủy binh từ Chiêm Thành đánh lên. Khi đó, toàn thể quân Đại Việt chỉ có 20 vạn.

Trước tình hình nguy biến, nhiều người muốn hàng hoặc tìm kế hoãn binh. Nhưng các tướng Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư cương quyết xin đem quân trấn giữ.

Vua Trần Nhân Tôn liền triệu tập các bô lão trong dân tại điện Diên Hồng để hỏi ý kiến. Toàn thể đồng thanh xin Đánh !

Trước thế giặc quá mạnh, quân ta phải rút về Vạn Kiếp. Ở phía Nam, quân Nguyên từ Chiêm Thành cũng đã chiếm Nghệ An.

Vua Nhân Tôn lại lo sợ, ‘muốn hàng để cứu muôn dân’. Nhưng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đáp : “Bệ Hạ nói câu ấy thật là lời nhân đức. Nhưng Quê hương Dân tộc thì sao ? Nếu Bệ Hạ muốn hàng, xin chém đầu tôi trước đã !”

Thoát Hoan dùng đại bác bắn phá, và vào được Thăng Long. Triều đình ta chạy về Thanh Hóa.

Khi đó tướng Trần Bình Trọng bị bắt. Thoát Hoan dụ hàng và hỏi : “Có muốn làm Vương không ?” Trần Bình Trọng quát to : “Ta thà làm quỷ Nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc !”

Tháng 5 năm 1285, tướng Trần Nhật Duật phá được quân Toa Đô ở cửa Hàm Tử.

Sau đó, tướng Trần Quang Khải đưa quân đi thuyền từ Thanh Hóa ra đánh tan quân Nguyên ở bến Chương Dương, rồi dùng phục binh chiếm lại Thăng Long.

Đức Hưng Đạo Vương thì đem quân đánh ở Tây Kết, và giết được Toa Đô. Quân ta bắt được 3 vạn quân Nguyên và vô số chiến thuyền, khí giới.

Hưng Đạo Vương lại sai phục kích chận mọi đường quân Nguyên có thể rút lui, và tự mình dẫn đại quân lên Bắc Giang đánh Thoát Hoan. Quân Nguyên thua chạy, tới bến Vạn Kiếp bị phục kích, chết quá nửa. Thoát Hoan trốn thoát về Tàu.

Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, in năm 1697 dl, quân Nguyên kéo qua 50 vạn và sáu tháng sau, chỉ còn 5 vạn rút về.*10

*     *

Lần thứ 11 : Năm 1287, ĐẠI THẮNG Giặc HOA MÔNG NGUYÊN Lần 3, Đức TRẦN NHÂN TÔN, Danh Tướng HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG

Cuối tháng 12 năm 1287, Thoát Hoan lại theo hai đường thủy bộ, kéo thêm 50 vạn quân xâm lấn, với hơn 800 chiến thuyền, cùng với đoàn tàu 100 chiếc chở lương thực. [Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư]. Phía Đại Việt có khoảng từ 20 tới 30 vạn quân.

Quân Nguyên chiếm được Thăng Long, nhưng sợ bị cắt đường liên lạc, nên tập trung ở Vạn Kiếp.Bộ chỉ huy của Đại Việt rút về vùng Đồ Sơn, Hải Phòng.

Tướng Trần Khánh Dư đưa quân phục ở bến Vân Đồn và phá tan đoàn thuyền lương.

Tháng 3 năm 1288, cạn lương, Thoát Hoan sai Ô mã Nhi mở đường theo sông Bạch Đằng. Hưng Đạo Vương lại dùng kế đóng cọc bịt sắt xuống sông Bạch Đằng (như Đức Ngô Quyền năm 938 dl).

Với trận Bạch Đằng, quân ta tiêu diệt hoàn toàn thủy quân của giặc Nguyên. Nghe tin thủy quân tan vỡ, Thoát Hoan kéo chạy về qua vùng Bắc Giang và Lạng Sơn, và cũng bị quân Đại Việt chận đánh tan tành.*11

*     *

Lần thứ 12 : Năm 1428, ĐẠI THẮNG Giặc HOA MINH, Đức LÊ THÁI TỔ

Năm 1406, giặc Minh kéo quân xâm lấn nước ta. Nhà Hồ thua. Giặc Minh, với Trương Phụ, bắt đầu chính sách đồng hóa dân ta với dân Tàu…

Năm 1418, nông dân Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Thanh Hóa, tự xưng là Bình Định Vương, gởi hịch kể tội giặc Minh và nêu rõ mục đích đánh đuổi quân giặc cướp nước.

Năm 1426, sau 8 năm gian khổ, với nhiều lần nguy cấp, Bình Định Vương thắng trận Tụy Động, và bao vây thành Đông Quan, Thăng Long.

Cuối năm 1427, giặc Minh lại đưa thêm 2 đạo quân sang đánh Đại Việt. Đạo quân do Liễu Thăng cầm đầu với hơn 10 vạn lính, 2 vạn ngựa. Đạo quân do Mộc Thạnh dẫn 5 vạn lính và 1 vạn ngựa. Nhưng tại Chi Lăng, quân ta giết Liễu Thăng, phá tan toàn bộ quân tiếp viện của giặc, bắt sống hơn 3 vạn quân Tàu. Mộc Thạnh nghe tin, bỏ chạy. Quân Nam theo đánh, giết hơn 1 vạn giặc Minh.

Nghe tin, Vương Thông đang chiếm đóng Đông Quan [Thăng Long], viết thư cầu hòa, và xin cho chúng rút quân về Tàu. Số tù binh, hàng binh và vợ con được thả về Tàu lên hơn 10 vạn người.*12

*     *

Lần thứ 13 : Năm 1789, ĐẠI THẮNG Giặc HOA MÃN THANH, Đức QUANG TRUNG

Năm 1788, Tôn Sĩ Nghị kéo 20 vạn quân Nhà Thanh, chia làm 3 đạo, tiến đánh Đại Việt, chiếm đóng Thăng Long.

Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đang ở Huế, được tin, tính chuyện tiến đánh. Quan quân xin Ngài lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung.

Đức Quang Trung kéo quân ra tới Nghệ An, nghỉ 10 ngày để mộ thêm lính. Tất cả được 10 vạn quân và 100 con voi.

Đức Quang Trung cho ăn Tết sớm, đêm 30 sẽ kéo quân đi, và hẹn ngày mùng 7 Tết sẽ ăn Tết lại tại Thăng Long.

Trận đánh thần tốc đã phá hết các đồn giặc, đến nỗi chúng không kịp báo tin cho nhau. Chỉ trong mấy ngày, quân ta đánh chiếm từ Giản Thuỷ, tới Phú Xuyên, Hà Hồi, Ngọc Hồi… Sáng mùng 5 Tết, quân ta vào Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị không kịp mặc giáp, lên ngựa tháo chạy. Giặc Tàu chạy theo, chết đuối chật sông Hồng. Các đạo quân giặc ở phía Bắc cũng tất tả rút chạy. Tất cả đều chỉ trong 5 ngày.*13

*     *     *     *

B1. TỔNG KẾT SƠ KHỞI

Như vậy, chỉ kể những lần Trung Hoa xua đại quân xâm lấn Nước Nam, dầu sách vở Trung Hoa đã giấu bớt quân số vì bị thất trận, tổng số các đoàn quân xâm lăng Trung Hoa đã có hơn 40 danh tướng, hằng ngàn đại tướng, và hơn 450 vạn quân sĩ. [Theo con số thông thường, tức là hơn 4.500.000 giặc]. Đang khi đó, kể cả dân số, tài nguyên, quân sĩ, phương tiện chiến đấu… dân ta không bao giờ tương xứng với quân Trung Hoa xâm lược. Nhưng bất cứ lần nào, Đại Việt cũng đại thắng !

*     *

B2. TRUNG HOA : TÊN KHỔNG LỒ CHIẾN BẠI

Điểm đáng chú ý là trong 900 năm vừa qua, trong khi Việt Nam đánh bại mọi cuộc xâm lăng của Trung Hoa, thì chính Trung Hoa lại bị Kim, Mông, Mãn,Âu, chiếm đóng và thống trị.

Đáng chú ý hơn nữa, tuy tình hình thay đổi tùy thời, nhưng trong tất cả những lần xâm chiếm Trung Hoa đó, từ Kim, đến Mông, Mãn… lần nào thực lực xâm lấn, kể cả dân số, lãnh thổ, sản lượng, kỹ thuật, chiến cụ, quân đội… cũng đều không bằng một phần mười của Trung Hoa đương thời. Nhưng Trung Hoa đã luôn là kẻ chiến bại.

Ngoài ra, những nhóm người man di và ít oi đó, lại thống trị Trung Hoa vĩ đại tổng cộng hơn 500 năm. Kim 108 năm (1126-1234 dl), Mông 134 năm (1234-1368 dl), Mãn 267 năm (1644-1911 dl), trong đó có 72 năm chung với Âu (1839-1911 dl). Đó là chưa kể từ năm 1949 dl tới nay, dưới gọng kềm chủ nghĩa Cộng sản của Âu.

Trong suốt hơn 5 thế kỷ đó, kể cả hiện nay, người dân Trung Hoa buông xuôi, khuất phục, còn giới nho sĩ Trung Hoa lại chỉ biết phủ phục tuân lịnh ‘vị Thiên tử’ ngoại xâm để thẳng tay hành hạ và đàn áp người dân.

* Thực vậy, Trung Hoa luôn là tên khổng lồ chiến bại. Nguyên nhân chính là ách thống trị của bọn ‘thiên tử, thiên triều’ tham tàn bạo ngược, đã biến người dân Trung Hoa thành những tên nô lệ đói ăn truyền kiếp.Trong suốt 3000 năm qua, hơn 99% người dân Trung Hoa chì là những tên nô lệ đói khát, tự ti, khiếp nhược, không lý tưởng, không nhân phẩm, chỉ biết tham lợi bất chấp thủ đoạn.

Khi mọi người dân chỉ là những tên nô lệ đói ăn truyền kiếp, khiếp nhược, không ý chí, không tinh thần dân tộc, không đoàn kết… thì sức mạnh trình diển của bọn quan quyền ‘thiên triều’ Trung Hoa cũng chỉ là cái vỏ mỏng manh che đậy sự rời rạc của hàng tỉ mảnh vụn vị kỷ, hèn nhát. Chiếc bong bóng căng cứng nầy sẽ sớm vỡ tan với chỉ một thoáng cọ xát.

Đây là thực tế lịch sử ngàn năm, và cũng là hiện tại.*14

*     *

B3. ƯU THẾ CỦA CHÚNG TA

Hơn nữa, trong tất cả mọi cuộc chiến chống Phương Bắc, Tổ Tiên chúng ta đã chỉ tự sức chiến đấu đơn độc một mình. Các Ngài đã không có bất cứ một yểm trợ nào do bất cứ từ đâu tới. Nhưng bất cứ lần nào, Việt Nam cũng đại thắng Trung Hoa ! Tất cả 13 lần, đều đại thắng.

Về phần chúng ta, hiện nay, chúng ta lại đang được yểm trợ từ khắp nơi. Trước hiểm họa Trung Hoa bành trướng, xâm lăng, trộm cướp, gian manh, phá hoại các nền kinh tế, lũng đoạn các thể chế… mọi người, mọi dân nước trên toàn thế giới, đều sẵn sàng tiếp tay chúng ta triệt hạ mối họa chung là Giặc Trung Hoa. Bạn hữu chúng ta lại nhiều ưu thế hơn Giặc Tàu.

Với bất cứ giá nào, ở bất cứ phương diện nào, các cường quốc hiện đại không thể nhường Trung Hoa cưỡng đoạt vị thế hùng mạnh nhất thế giới, nhất là khi toàn thể binh lực Trung Hoa cũng không bằng một phần nhỏ các hạm đội đối nghịch…

Hơn nữa, toàn thể dân Việt hiện nay, ở khắp làng xóm hang cùng ngõ hẻm, đều nôn nức vùng lên chiến đấu Đánh Giặc Tàu. Tinh thần dân tộc và đoàn kết chưa từng bộc lộ rõ ràng và mạnh mẽ như hiện nay. Mọi người đều sẵn sàng.

Cũng phải kể thêm mấy triệu người Việt trên thế giới cũng đang sẵn sàng đóng góp nhân lực, tài lực, vật lực, và nhất là trí lực, chuyên môn, kiến thức, kỹ thuật, kinh nghiệm, và ảnh hưởng… ở mọi lãnh vực ngoại giao, chính trị, kinh tế, tài chính, quân sự, xã hội… Tất cả đều được huy động tối đa để Đánh Giặc Tàu !

Chúng ta có nhiều ưu thế hơn Tổ Tiên chúng ta gấp bội.

CHÚNG TA cũng sẽ ĐẠI THẮNG giặc TÀU, lần thứ 14.

*     *     *     *

GHI CHÚ

*1412. Ký số của Bài trong danhgiactau.com.

*1 – Đọc bài 1106. Tộc Việt Thời Hùng 3, đoạn 4.2; và bài 1107. Việt và Hoa Thời Hùng 4A, phần 1.

*2 – Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, do Trần Trọng Kim, nxb Trung Tâm Học Liệu, Sàigòn 1971, q1, tr 18. – Đọc bài 1108. Việt và Hoa Thời Hùng 4B-C, đoạn 3.3].

*3 – Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q1, tr 30; Việt Sử Toàn Thư, do Phạm văn Sơn, nxb Thư Lâm, Sgn 1960, tr 89. – Về thủy thổ phương Nam, đọc bài 1110. Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam, đoạn 6.3.

*4 – Đọc bài 1110. Đại Đế Đồng Đình Lĩnh Nam. – Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q1, tr 39-40.

*5 – Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q1, tr 53-56.

*6 – Đọc thêm nt, q1, tr 66-68.

*7 – Đọc thêm nt, q1, tr 89-90.

*8 – Đọc thêm Vân Đài Loại Ngữ, do Lê Quý Đôn, (viết năm 1773 dl), nxb Tự Lực, Sgn 1974, tr 174-175, dẫn Nhị Trình Di Thư, do Trình Di, và Uyên Giám, do Hoàng đình Kiên.

*9 – Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q1, tr 126-128.

*10 – Đọc thêm nt, q1, tr 137-150; Việt Sử Toàn Thư, tr 246-248.

*11 – Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q1, tr 151-161.

*12 – Đọc thêm nt, q1, tr 217-234.

*13 – Đọc thêm nt, q2, tr 130-134.

*14 – Về chủ thuyết Thiên Tử Thế Thiên và hệ quả, đọc bài 1413. Nguy Cơ Đại Họa và Tử Huyệt của Trung Hoa.

_____________________

Nguyễn Thanh Đức 2013.

TẠ ƠN LÀ MỘT TÂM TÌNH

TẠ ƠN LÀ MỘT TÂM TÌNH

TA ON

Mỗi mùa Lễ Tạ Ơn, Thanksgiving, người ta hay nhắc đến chuyện người phung cùi trở lại cám ơn Ðức Kitô trong Phúc Âm Luca.

Trên đường lên Jêrusalem, Ðức Giêsu đi ngang qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilêa.  Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phung cùi đón gặp Người.  Họ dừng lại đàng xa, và kêu lớn tiếng:  “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi.”  Thấy vậy, Ðức Giêsu bảo họ:  “Hãy đi trình diện với các tư tế.”  Ðang khi đi thì họ được sạch.  Một người trong bọn họ thấy mình được khỏi liền quay trở lại lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.  Anh ta sấp mình dưới chân Ðức Giêsu mà tạ ơn.  Anh ta lại là người Samari.  Ðức Giêsu mới nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao?  Thế thì chín người kia đâu?  Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc. 17: 11-19).

Tôi nghĩ câu chuyện tạ ơn của người phung cùi không dừng lại ở đây.  Không dừng lại ở lời tạ ơn Chúa mà thôi.  Nó gọi ta đến một đường cong sâu hơn và xa xôi hơn.  Tạ ơn là tâm tình đòi hỏi một tấm lòng.  Tâm tình này là bản phiên dịch của một nội tâm.  Chính bản phiên dịch nội tâm này nói trung thực cho ta biết mình là ai.

Tôi muốn nhìn vào nội tâm người phung cùi, để đi tìm chiều kích lời tạ ơn của anh ta với Ðức Kitô. Nó đến từ một đường cong sâu xa nào?

Bối cảnh văn hóa, tôn giáo, lịch sử.

Người Do Thái trong thời Chúa Giêsu không chấp nhận những người phung cùi sống trong làng.  Họ phải sống cô lập ngoài sa mạc, xa xôi ngoài cánh đồng.  Khi gặp Ðức Giêsu, họ cũng đứng “từ đàng xa” chứ không dám lại gần.  Họ bị coi là những kẻ tội lỗi, bị Thiên Chúa giáng án phạt.  Hiểu như thế mới thấy nỗi cô đơn của kẻ mang bệnh tật này.  Trong thời đại ấy, người Do Thái cũng không chấp nhận chung sống với người ngoại giáo.  Họ đối nghịch đến độ thù hận nhau.

Cộng đoàn những người cùi.

Theo mạch văn của đoạn Kinh Thánh, Chúa hỏi: “Còn chín người kia đâu.”  Như vậy chín người kia cộng với anh cùi đến tạ ơn Chúa, tất cả mười người.  Tại sao có mặt người cùi ngoại giáo trong cộng đoàn những người cùi Do Thái?  Tại sao những người cùi Do Thái lại để người cùi xứ Samaria theo mình nhập bọn?  Ðoạn Kinh Thánh trên tường thuật là “một người trong bọn họ.”  Cụm từ “một người trong bọn họ.”  Cho thấy chín người Do Thái Giáo và một người Samaria đã sống chung, đi chung một con đường, là một cộng đoàn.

Chuyện này dường như cũng không xa lạ giữa hoàn cảnh xã hội hôm nay.  Trong những hành trình gian khổ, dường như người ta vượt qua mọi biên giới để sống với nhau.  Có những tình nghĩa vợ chồng, khi nghèo khó, họ sống đời đùm bọc nhau.  Cùng nhau đẩy chiếc xe đạp chở ngô khoai.  Cùng nhau chèo một con đò, buôn thúng bán bưng nuôi con.  Rồi có thể họ mất nhau khi mỗi người có một địa vị, một công ty riêng.  Lúc lâm nạn, người ta vượt qua biên giới chủng tộc, tôn giáo, để cứu nhau. Rồi người ta xây nên những thành trì, những bức tường tôn giáo khi người ta có đền thờ riêng.

Tại sao trong cộng đoàn mười người cùi này lại có một người ngoại giáo.  Tại sao họ chung sống với nhau?

Khổ đau dường như có một giá trị rất sâu trong câu chuyện này.  Rất nhiều trường hợp, khi hết yếu đuối, hết nghèo khó, họ xa nhau.  Trên đường đi tạ ơn này, chín người kia đi về một phía, người Samaria đi về một phía.  Không còn một cộng đoàn những người cùi khác tôn giáo.

Với chín người cùi, họ có thể liên kết lại để cô lập người cùi Samaria.  Nhưng ở đây, họ chung sống, chấp nhận người cùi khác tôn giáo này.  Dường như trong cô đơn tận cùng vì bị xã hội chối bỏ, họ được đốt cháy hết những địa vị, tên gọi, và khi được bóc trần đến phẩm giá sau cùng, họ thấy họ giống nhau ở một tên gọi duy nhất là làm người.

Giá trị cùng đích sau hết vẫn là: Làm người.

Dường như tôn giáo cũng rất cần luôn luôn được thanh tẩy để khỏi bám bụi.  Những giá trị ngoài nhân đức như đền thờ, tổ chức, ảnh hưởng, rất có thể đưa con người xa cách nhau.

Mọi tôn giáo đều tìm cách dạy con người ý nghĩa của cô đơn, đau khổ.  Nhưng ý nghĩa đẹp nhất của đau khổ và cô đơn lại là vượt qua mọi tôn giáo để đùm bọc nhau cho con người bớt cô đơn và đỡ khổ đau.

Rồi tình yêu cũng thế.  Tình yêu cũng cần thanh tẩy.  Những giá trị ngoài nhân đức như nhan sắc, địa vị, vàng bạc, rất có thể sẽ đưa con người xa cách nhau.  Trong đời sống, ai cũng cần chịu ơn nhau.

Phải nghèo một chút để biết xin.

Phải yếu một chút để biết nương tựa.

Nhìn lại, người cùi xứ Samaria, trong “bọn họ”, anh ta là thiểu số, anh chỉ có một thân, một mình.

Tôi nghĩ anh ta trở lại tạ ơn Thiên Chúa vì đời anh quen tâm tình tạ ơn rồi.  Ngay những ngày sống chung với chín người kia, biết mình thiểu số mà được chấp nhận, anh ta đã sống lòng biết ơn đó.  Tạ ơn là một bản phiên dịch nội tâm của anh.

Câu chuyện cộng đoàn mười người cùi được chữa lành rất đẹp vì họ đã sống với nhau.  Nếu sau khi được chữa lành, tất cả đều trở lại tạ ơn Thiên Chúa thì câu chuyện kết thúc quá lý tưởng.  Tại sao chín người kia không trở lại?

Rất có thể chín người kia không quen tâm tình tạ ơn.  Rất có thể họ chấp nhận người cùi Samaria như là cho ơn hơn là lãnh nhận.

*********************

Tôi thụ phong linh mục năm 1989.  Cũng năm này tôi được gởi qua trại Palawan, Philippines giúp đồng bào tỵ nạn.  Những ngày đó, chúng tôi đã có những kỷ niệm đẹp, tôi đã viết bài “Palawan Mùa Phật Ðản”, năm 1992, đăng trong báo Ðường Sống.

Năm 1995 tôi rời trại tỵ nạn.  Tôi xa khúc đường trong trại, một bên có hương trầm nhà Chùa, một bên có tiếng chuông nhà Chúa.  Rồi một hôm, mười năm sau, kỷ niệm lại về như nghe tiếng mõ tụng kinh quen thuộc ngày nào đó, bên Chùa.  Ðó là vào ngày 28 tháng 12 năm 2004.  Sau lễ Giáng Sinh, tôi đang giúp tĩnh tâm cho cộng đoàn các Sơ Ðaminh Việt Nam ở Houston.  Tôi nhận được một lời nhắn trong chiếc phôn cầm tay:

Dạ, kính linh mục Nguyễn Trọng Tước.

Ðây tôi là Thích Thông Ðạt từ San Jose gọi chúc mừng trong mùa Giáng Sinh với New Year.  Chúc mừng linh mục dồi dào sức khỏe.  Happy Merry Christmas.  Happy New Year.  Dạ, kính linh mục.  Khi nhận được message xin cho gặp số phôn 408-926-1998.  Kính chúc mừng linh mục trong mùa Chúa Giáng Sinh cũng như đầu năm mới.

Kính linh mục.

Tôi hết sức ngạc nhiên.  Một Thầy bên Chùa đã mười năm xa cách.  Từ ngày Thầy rời trại tỵ nạn Palawan, bằng ấy năm không hề gặp lại nhau.  Mười năm không liên lạc.  Bỗng dưng Thầy tìm phôn gọi tôi, vì Thầy muốn chúc mừng ngày Chúa Giáng Sinh.  Những kỷ niệm xa xưa.

Kính Thầy Thông Ðạt,

Những ngày ở trại tỵ nan, những ngày ấy chúng ta có nhiều kỷ niệm quá nhỉ.  Vào mùa Phật Ðản và Giáng Sinh, năm nào chúng ta cũng có những món nợ.  Chúng ta cho nhau mượn cái trống, mấy sợi giây đèn.  Các em Thiếu Nhi cho nhau mượn mấy mét vải, cái đầu lân để làm văn nghệ.  Chúng ta đã nợ nhau tình thương mến.

Thời gian đã xa xôi quá, như đang xóa nhòa dần đi.  Bỗng dưng mười năm sau, Thầy tìm điện thoại, gọi chúc mừng ngày Chúa Giáng Sinh.  Mười năm là thời gian dài lắm đó Thầy ạ.  Thế là tôi lại “nợ” Thầy.

Thánh Phaolô đã căn dặn các tín hữu của ngài: “Các con hãy nợ nhau tình thương mến” (Rom. 13: 8).  Bây giờ chúng ta đã xa những ngày tỵ nạn cho nhau mượn cái bát, tô cơm.  Thầy Thông Ðạt có thể nay đã có chùa riêng, có đoàn Phật Tử đông đảo.  Chả ai phải mượn ai.  Chùa của Thầy chăng rợp hoa đèn ngày lễ.  Chả ai cần ai.  Thầy gọi điện không là để mượn gì cả, cũng chẳng hỏi tôi có mượn cái đầu múa lân không, chỉ để chúc mừng ngày Chúa Giáng Sinh.  Thầy gọi điện vì nhớ về khung trời tỵ nạn có những kỷ niệm bên bờ đời sống.  Tình thương mến.

Có những cặp vợ chồng nay mỗi người là một giám đốc.  Chẳng ai phải nhờ ai.  Có những anh em, không ai phải cậy ai.  Xa những ngày nghèo túng rồi.  Không ai phải dựa ai.  Ðầy đủ.  Mà sao cứ như có nỗi vắng trong lòng.

Hay là người ta thiếu nhau món nợ tình thương mến?

LM Nguyễn Tầm Thường, S.J. –

Trích tập suy niệm Ðường Ði Một Mình

 

Môn học lịch sử trong giáo dục đang khủng hoảng

Môn học lịch sử trong giáo dục đang khủng hoảng

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2015-11-23

Thí sinh duy nhất thi Môn Sử tại điểm thi Trường THPT Yên Thành 2. Sáng 4/7/2015 vẫn có 66 cán bộ nhân viên phục vụ duy nhất 1 thí sinh, gồm 48 cán bộ coi thi, 12 nhân viên bảo vệ và 6 cán bộ phục vụ thi.

Photo: TT đăng trên doisongphapluat.com

Dự tính của Bộ giáo dục và đào tạo Việt Nam sẽ bỏ môn học lịch sử và thay thế bằng môn “công dân và tổ quốc” đã gặp rất nhiều phản biện từ giới nghiên cứu lịch sử nói riêng và trí thức nói chung. Trong cách nhìn nhận của những người quan tâm về vận mệnh đất nước cũng như quan tâm về khoa học lịch sử, hành vi gở bỏ môn học lịch sử để thay thế bằng một môn học khác có tính tuyên truyền bằng cách mượn một số thông số của lịch sử là một sự thất bại, cho dù đứng trên góc độ nào. Nhưng nhìn chung, có hai vấn đề thất bại nổi trội và căn bản nhất, đó là triệt tiêu lòng yêu nước và xóa mờ mọi ký ức dân tộc.

Bỏ môn lịch sử đồng nghĩa với Trung Quốc hóa người Việt

Một người tên Trình, là giáo viên dạy sử lâu năm ở một trường phổ thông trung học, hiện đang sống tại quận 1, Sài Gòn, chia sẻ: “Mấy anh dạy lịch sử của một phe chiến thắng thôi chứ không dạy lịch sử một cách khoa học. Bản thân bộ môn lịch sử xã hội chủ nghĩa thì dạy hay không dạy gì nó đã chết rồi. Bản thân nó đã chết từ lâu rồi. Suốt ngày anh cứ dạy cầm súng tiến lên, ngày này thắng trận này, ngày kia thắng trận kia, đế quốc Mỹ rồi Ngụy quân Ngụy quyền gì đó thì học sinh nó ngán ngẩm, nó hết muốn học. Lịch sử là phải đa chiều và sinh động. Đằng này ngay cả vấn đề  có tính địa chính trị nhưTrường Sa và Hoàng Sa, mấy anh chưa bao giờ đưa vào giáo khoa lịch sử và mấy anh biến sự kiện đó thành cái xác không hồn. Như vậy, bây giờ dù có dạy hay không dạy môn lịch sử thì chính bộ môn lịch sử như một cái xác không hồn của mấy anh cũng phải chết thôi!”.

Theo ông Trình, hiện tại, nếu bỏ môn học lịch sử để dạy một môn học khác không đặt nặng về khoa học lịch sử cũng đồng nghĩa với tự Hán hóa dân tộc Việt Nam. Bởi chưa bao giờ mà quốc gia, dân tộc lại lâm nguy như hiện tại. Khoa học lịch sử đích thực sẽ là mấu chốt, xương sống để giữ lại tinh thần dân tộc và khí phách Việt tộc.

Giải thích vấn đề vừa nói, ông Trình nói rằng suốt từ những năm 1945 cho đến hiện tại, chưa bao giờ nhà nước Cộng sản có một giáo trình sử học nghiêm túc và đầy đủ. Chính sách kiểm duyệt từ trong trứng nước của đảng Cộng sản đã giết mọi bài học lịch sử nghiêm túc ngay từ khi nhà viết sử cầm bút để ghi chép.

Bằng chứng của vấn đề này chính là mọi giáo trình lịch sử của ngành giáo dục thời Cộng sản xã hội chủ nghĩa đều có chung khuynh hướng là ca ngợi công lao của đảng Cộng sản, những mốc sự kiện liên quan đến cái gọi là vinh quang của đảng Cộng sản xuất hiện dày đặc trong bài học lịch sử. Và các sự kiện, những bài học lịch sử các đời vua dựng nước, chống giặc Tàu để giữ nước rất mờ nhạt trong giáo trình lịch sử của chế độ Cộng sản.

Theo ông Trình, mối nguy hại của việc dạy sử mà đảng Cộng sản đã thực hiện trong nhiều năm nay là không thể kể xiết. Điều này vừa làm cho bài học lịch sử trở nên khô khan bởi giọng điệu tuyên truyền và thiếu tính khoa học trầm trọng. Đặc biệt, bộ môn lịch sử mà thiếu tính khoa học, bị lai căn và lang chạ với tính tuyên truyền thì sẽ đánh mất toàn bộ tính sinh động của nó, dẫn đến sự nhàm chán và vô nghĩa.

Ông Trình cho rằng sở dĩ môn lịch sử Việt Nam lại quá coi trọng vấn đề tuyên truyền nhưng lại giảm thiểu, thậm chí xóa mất những bài học lịch sử đánh Tàu giữ nước của ông cha, tổ tiên là vì chế độ cầm quyền hiện tại quá phụ thuộc vào nhà nước Cộng sản Trung Quốc. Dấu hiệu của sự phụ thuộc này là trước đây, những bài học lịch sử về chống Tàu vẫn có trong giáo khoa Cộng sản Việt Nam. Nhưng từ năm 1990, cụ thể là từ sau hội nghị Thành Đô trở đi, những bài học chống Tàu giữ nước tự bốc hơi, không cánh mà bay khỏi giáo trình lịch sử.

Và với những gì đang xảy ra ở hiện tại, khi mà Việt Nam phải phụ thuộc, thậm chí lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc từ kinh tế, chính trị cho đến an ninh quốc gia, chủ quyền quốc gia…. Nếu như tuổi trẻ Việt Nam, những thế hệ mai sau không học được những bài học về một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, về những gương sáng hy sinh vì sự nghiệp độc lập của quốc gia, dân tộc thì e rằng chẳng bao lâu nữa, Việt Nam sẽ thành một tỉnh lẻ của Trung Quốc. Bởi mọi thứ từ văn hóa đến giáo dục, chính trị, xã hội đều đầy rẫy màu sắc Trung Quốc.

Phòng thi chỉ có 2 thí sinh thi môn sử tại HĐT trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai chiều 2-6-2014. Ảnh - Như Hùng/songmoi.vn

Phòng thi chỉ có 2 thí sinh thi môn sử tại HĐT trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai chiều 2-6-2014. Ảnh – Như Hùng/songmoi.vn

Mất môn sử học là mất nước

Một vị là giáo viên dạy sử những năm trước 1975, không muốn nêu tên, chia sẻ: “Cái gốc của vấn đề là nó không thực sự có môn sử mà nó bị chính trị hóa đi.”.

Theo vị này, hiện tại, nếu đánh tráo môn học lịch sử bằng bất cứ môn học nào khác nhằm nâng cao tính tuyên truyền của đảng Cộng sản đều dẫn đến hậu quả là dân tộc Việt Nam bị Hán hóa trong tương lai và dân tộc Việt Nam bị xóa nhòa, thay vào đó là đêm trường nô lệ và phụ thuộc vào Trung Hoa.

Vị này giải thích rằng sở dĩ ông phải nhấn mạnh đến vấn đề mất nước là vì mọi tương tác xã hội hiện tại đều có bóng dáng Trung Quốc trong đó. Từ gói mì ăn liền cho đến ly trà sữa trân châu hay chiếc xe máy, cái máy cắt cỏ, chiếc điện thoại di động, bộ áo quần, thực phẩm hằng ngày… Mọi thứ đều có bóng dáng Trung Quốc.

Nói sâu xa hơn, những sản phẩm tinh thần như phim ảnh, tạp chí, nghệ danh đều mang hơi hướm và bóng dáng Trung Quốc. Đây là nguồn tác động hằng ngày vào tâm thức nhiều thế hệ. Bây giờ, nếu không kịp chấn chỉnh, không kịp đánh thức dân tộc bằng những bài học lịch sử được trích từ xương máu và lòng hy sinh để chống giặc Tàu xâm lăng của cha ông. Điều này sẽ đưa tuổi trẻ đến chỗ lầm đường lạc lối.

Và khi tuổi trẻ không còn phân biệt được đâu là bạn, đâu là thù, tiếp tục bị huyễn hoặc bởi một loại siêu nhân Đại Hán thông qua chính sách ban giao của nhà cầm quyền cũng như mọi động thái lấn lướt, bề trên của Trung Quốc. Đến một lúc nào đó, tuổi trẻ sẽ nghĩ và tin rằng họ cũng là một phần tử của nước Trung Quốc rộng lớn. Và tính nhược tiểu của nhà cầm quyền trước ngoại bang Trung Quốc sẽ là nguồn tác động lớn nhất đến tuổi trẻ, đẩy thế hệ trẻ đến chỗ hèn nhát, nhược tiểu và không có bản sắc dân tộc. Đây là điều khó tránh khỏi.

Vị này đặt ra một câu hỏi rằng ông lấy làm lạ một điều là tại sao trong lúc Trung Quốc đang chiếm Trường Sa, Hoàng Sa, đang xâm lấn lãnh hải, xâm lấn lãnh thổ trên biên giới và có những phát biểu đầy giọng điệu bành trướng về phương Nam mà nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam lại đánh tráo môn lịch sử bằng môn học “công dân và tổ quốc”?

Bởi ngay cái tên môn học không cũng đã nói lên tính chất tuyên truyền và nhồi sọ thế hệ trẻ yêu đảng, yêu bác Hồ. Bởi lâu nay, đảng Cộng sản luôn đồng nhất dân tộc với đảng và xem Hồ Chí Minh là cha già của dân tộc.

Ông nghi vấn rằng phải chăng đánh tráo môn học lịch sử sang môn học “công dân và tổ quốc” là cách chạy trốn trách nhiệm dạy lịch sử, đốt sách sử và dần đẩy khoa học lịch sử và chỗ bế tắc bởi tính hữu dụng cũng như tính giáo dục của nó dần bị xói mòn, phôi phai?!

Như để đưa ra kết luận cuối cùng, vị này lắc đầu chua chát nói rằng một đất nước mà môn lịch sử bị đánh tráo thì nó chỉ dự cảm cho một tương lai duy nhất, đó là tương lai vong nô!

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

TỔ QUỐC VÀ CHẾ ĐỘ

TỔ QUỐC VÀ CHẾ ĐỘ

Kim Ngọc Cương

Ai cũng hiểu Tổ Quốc và Chế độ là hai khái niệm khác nhau. Tổ Quốc là giang sơn đất liền, biển đảo, vùng trời cùng với toàn bộ người dân (gồm nhiều sắc tộc) đã, đang, sẽ làm ăn sinh sống trên lãnh thổ, lãnh hải, vùng trời có chủ quyền của quốc gia. Còn Chế độ là thể chế chính trị trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia.

Tổ quốc Việt nam có Lịch sử dựng nước và giữ nước hơn 4000 năm. Trong hơn 4000 năm ấy đã trải qua nhiều Chế độ xã hội từ Chế độ bộ lạc, nông nô, rồi Chế độ phong kiến, đến Chế độ phong kiến thuộc địa (của Trung quốc, Pháp, Nhật), sau đó là Chế độ Cộng hòa Nghị viện (ở cả hai miền trong thời kỳ đất nươc chưa thống nhất) và 40 năm nay là Chế độ xã hội chủ nghĩa (mới là danh chưa thực, hiểu theo câu nói của ông Nguyễn Phú Trọng “Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”).

Mỗi Chế độ đều có những quan hệ đối nội và đối ngoại khác nhau. Nhưng Dân tộc Việt Nam không bao giờ vì Chế độ mà để mất Tổ Quốc. Lịch sử 4000 năm của Dân tộc Việt Nam đã chứng minh điều đó bằng núi xương, sông máu của Dân tộc. Không một thế lực nào có thể xóa được Lịch sử đau thương mà kiêu hãnh của Dân tộc Việt Nam.

Yêu Tổ Quốc (yêu nước) không đồng nhất hoàn toàn với yêu Chế độ. Có người yêu nước nhưng không yêu Chế độ và ngược lại cũng có những kẻ yêu Chế độ nhưng không được coi là yêu nước.

Ví dụ điển hình cho trường hợp thứ nhất là Nguyễn Trãi. Cả cuộc đời Ông đi theo Lê Lợi, phò Lê Lợi để đánh đuổi giặc Minh. Sau khi Lê Lợi giành thắng lợi, Ông vẫn phụng sự Nhà Lê cho đến khi thấy Nhà Lê bắt đầu “thối nát” thì Ông đã lui về Côn Sơn ở ẩn. Rõ ràng, Nguyễn Trãi luôn là người yêu Tổ Quốc nhưng gần cuối đời, Ông là người “chán ghét” Chế độ.

Ví dụ điển hình cho trường hợp thứ hai là Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc và rất nhiều kẻ bám đít ngoại bang đi ngược lại quyền lợi của cả Dân tộc. Những kẻ này không ai coi là những người yêu nước vì họ chỉ lo cho quyền lợi của chính họ, gia đình họ cùng lũ quần thần bảo về họ (một đám ăn theo, hùa theo).

Một Chế độ được coi là ưu việt khi và chỉ khi: Chế độ đó phải bảo vệ được chủ quyền về lãnh thổ, lãnh hải, vùng trời của quốc gia, bảo vệ và gìn giữ được độc lập dân tộc; Chế độ đó phải hòa hợp được dân tộc (người trong một nước phải thương nhau cùng) và luôn phải đặt quyền lợi Dân tộc lên trên mọi quyền lợi cá nhân, quyền lợi cục bộ (bộ phận).

Khi Chế độ làm được hai điều này thì sẽ (mới) đồng nhất được tình yêu Tổ quốc và tình yêu Chế độ trong đại đa số người Dân và trong từng người dân.

Nếu một Chế độ nào mà không làm được hai điều trên thì trong xã hội chắc chắn vẫn còn những người yêu nước nhưng không yêu Chế độ và sẽ còn những người phản ứng chống đối Chế độ, phản ứng chống lại những người cầm giữ Chế độ.

Tổ Quốc Việt Nam mãi mãi trường tồn và không chịu nô lệ ngoại bang; đồng thời người Dân Việt Nam cũng không bao giờ chấp nhận chủ nghĩa “dân tộc hẹp hòi” cực đoan. Sông có thể cạn, núi có thể mòn song chân lý đó không thể nào thay đổi.

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.

Bản tuyên ngôn độc lập ngắn gọn, đầy đủ, dễ hiểu ấy đã khắc vào sông núi, bờ cõi, vùng trời, vùng biển Việt nam, vào tâm khảm của người Việt Nam từ bao đời nay không dễ gì xóa được. Đấy là TÌNH YÊU TỔ QUỐC đã khắc vào tim, óc người Việt Nam.

Về dạy và học cấp phổ thông ở Việt Nam:

Một số nước phát triển hiện nay có xu hướng ‘tích hợp” kiến thức của các môn học vào  “môn tổng quát”; đồng thời với việc thay đổi phương thức dạy và học.

Lý do mà họ phải làm như vậy là bởi tri thức của loài người đang tăng lên theo cấp lũy thừa nên không thể dạy và học theo phương cách truyền thống (dạy và học nhiều môn riêng rẽ, thầy chủ động giảng bài, trò thụ động nghe giảng). Cách dạy và học truyền thống không thể truyền tải hết kiến thức cần thiết nhất cho học sinh và là một chiều, áp đặt, không phát huy sáng tạo trong dạy và học, không lấy học sinh làm trung tâm. Mặt khác kiến thức của các môn học riêng lẻ có  những phần liên quan, “giao” nhau nên việc “tích hợp” các môn học liên quan nhau là cần thiết.

Vì vậy, trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam, việc “tích hợp” một số môn học thành “môn tổng quát” là một trong nhiều việc cần phải làm để phù hợp với xu thế chung của thời đại. Ví dụ, có thể tích hợp môn Toán tin với Lý, Hóa với Sinh, Thể dục với giáo dục quốc phòng và kỹ năng sống (thành môn giáo dục con người).

Riêng môn học Lịch sử thì không thể “tích hợp” với môn nào được bởi Lịch sử của Dân tộc là “Quốc phả” và Lịch sử thế giới là “Quốc tế phả”. Theo thiển ý cá nhân thì có thể xây dựng môn học mang tên “Việt Nam học”. Trong môn học này sẽ dạy về Lịch sử Việt Nam và con người Việt Nam. Trong môn “Việt Nam học” thì các vấn đề thuộc về LS phải khách quan, phi chính trị; còn các vấn đề về người Việt Nam thì phải đầy đủ các đặc trưng đúng là người VN (gồm cả tốt, xấu) và lấy dẫn chứng từ các nhân vật trong LS cũng như hiện tại, và mỗi vấn đề của bài giảng phải có sự đối thoại bình đẳng giữa thầy và trò, giữa trò với trò).

Ngoài ra, có thể có môn “Quốc tế học” được “tích hợp” tổng quan từ các vấn đề về Lịch sử thế giới, Văn hóa phương Tây và phương Đông và Ngoại ngữ.

Để chuẩn bị cho việc dạy và học các môn “tích hợp” thì phải đào tạo các thầy đủ năng lực dạy các môn “tích hợp” chứ không thể một môn “tích hợp” như môn “toán tích hợp với lý) lại do hai thầy (toán riêng, lý riêng) dạy; tương tự môn “Quốc tế học” cũng vậy.

K.N.C.

Lời giới thiệu cho tập ảnh“10 phát ngôn gây ấn tượng tại Quốc hội”

Lời giới thiệu cho tập ảnh“10 phát ngôn gây ấn tượng tại Quốc hội”

Hà Sĩ Phu

Xem “10 phát ngôn gây ấn tượng tại Quốc hội” dưới đây, chắc nhiều người có thái độ như tôi, lúc đầu xem lướt qua, khẽ nhếch mép cười rồi giở sang trang khác. Vì “biết rồi khổ lắm, nói mãi”, nước Việt mình bây giờ nó thế, Quốc hội này nó thế… có gì mà lạ?

Nhưng rồi một lúc khác, vô tình giở ra xem lại, tự nhiên thấy những tấm hình cười vui không mấy… mặn mà này lại như nói thầm vào tai mình nhiều điều, những điều miên man không dứt.

– Ừ, cũng ngạc nhiên chứ. Nghị sĩ của mình xưa nay dân toàn bảo nhau là… “gật sĩ”, Quốc hội là… “có mâm có bát”, có góp ý thì toàn đi vào những dấu chấm dấu phẩy, những chuyện lặt vặt, chỉ là chỗ đóng dấu cho những quyết định của Đảng hay của Chính phủ để nó có cái nhãn hợp lệ trước khi ban hành. Nhưng lần này xem ra có khá hơn, một vài câu cũng hơi “phạm” một chút, thôi thì được thế cũng hơn trước rồi. Họ cũng bắt đầu phơi và tự phơi ra đấy. Chuyển biến gì chăng? Có lẽ?

– Nhưng xem kỹ những lời phát biểu cũng thấy buồn cười, vì thấy nó “ngồ ngộ”, có màu hài hước. Hoặc hài hước ở cái vô lý đến đắng chát của thực tiễn sau một năm thực thi chính sách, và từ đó mà nhìn lại cái phi lý của chính sách; hoặc hài hước do cách diễn đạt pha trò, có tý chua cay.

– Nhưng sau 1/10 giây mỉm cười thì buộc mình phải “truy cứu trách nhiệm”! Trước sự vô lý lồ lộ ra khắp nơi mọi chốn như kia – ngân sách cạn kiệt, kinh tế rối nát, môi trường tệ hại, văn hóa giáo dục thi nhau xuống dốc, trong khi biên chế phình to, hàm cấp chất đống, chức tước trong quân đội và công an tăng vô tội vạ, tham nhũng nhìn đâu cũng vẫn lúc nhúc, thói cửa quyền không giảm mà càng lộng hành – người phát ngôn phải có trách nhiệm ra sao, cấp trên của họ có trách nhiệm ra sao, chứ cười trừ ư? Điều rất quan trọng này thì các vị lại lảng tránh, hoặc nói cù nhầy, thế là mình thất vọng hoặc nổi khùng. Nụ cười của ta âu cũng là cười gượng! Chứ không à? Thản nhiên rũ áo, trút bê bối lại cho người tiếp sau một cách “khơ khớ”, “vô tư” – như ông Bộ trưởng Bộ Văn Thể Du – thì thử hỏi… cả người nói lẫn người nghe có biết dân nghĩ gì không mà còn cười và xuê xoa được?

– Cuối cùng thì cũng đành khẽ lắc đầu ngao ngán thôi. Theo lệ thường là buông trôi, thôi mặc sự đời. Chút dũng cảm phá lệ pha chút “anh Chí” như trên chỉ là không khí chợ chiều của “hoàng hôn nhiệm kỳ”, chứ chưa hé tia nắng sớm nào của bình minh thế sự.

Nhưng đêm nằm có lúc nghĩ lại: Thực tế ngao ngán thế cũng có phần tại mình. Ai cấm mình nói, mà có cấm thì cũng cứ nói xem nào. Đã đành mình cũng chỉ là hạt nước tan ngay trong gió, nhưng người xưa đã bảo “Trên đời không có gì yếu mềm bằng nước, thế mà quy tụ lại thì to lớn vô hạn, sâu xa vô cùng”!

Phân tích từng tấm ảnh sẽ là vô duyên, bởi các tấm ảnh tự nó đã nói, có điều là trong tập ảnh này, nếu có thêm 2 tấm hình sau đây thì độ hài hước của sự đời mới thật viên mãn:

clip_image002

Hình 1: Vui quá nhỉ, nhưng cứ vui mãi như thế thì… buồn cho đất nước lắm!

clip_image004Hình 2: Nếu được đặt tên cho tấm hình này, tôi xin xuýt xoa mà rằng “Đây rồi, đỉnh cao… hạng nhất của những đỉnh cao!” .

22-11-2015

H.S.P.

10 phát ngôn ấn tượng tại Quốc hội

Trong 2,5 ngày, 54 lượt đại biểu Quốc hội đã đặt gần 200 câu hỏi chất vấn Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng, các Bộ trưởng, trưởng ngành. Zing.vn ghi nhận những phát ngôn ấn tượng.

clip_image005

Chiều 17/11, phòng Diên Hồng rộn rã tiếng cười khi Bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh bắt đầu phần trả lời chất vấn. Nhiều đại biểu không nhịn được cười mỗi khi “Tư lệnh ngành” nói về thành tựu của du lịch Việt Nam cũng như trách nhiệm cá nhân (Xem chi tiết).

clip_image006

Phần trả lời của Bộ trưởng Tuấn Anh vừa kết thúc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã hóm hỉnh: “Bộ trưởng cho Quốc hội đi du lịch rất mệt”. Ở lần chất vấn vài năm trước, ông Hùng từng nhắc nhở Bộ trưởng Du lịch: “Bay ra bay vào nhiều quá” (Xem chi tiết).

clip_image007

Chất vấn Tổng thanh tra Chính phủ về tình trạng tham nhũng gia tăng vào thời điểm kết thúc nhiệm kỳ, đại biểu Lê Như Tiến đề nghị cần có giải pháp “chặn đứng quan chức chạy đua nước rút thực hiện những chuyến tàu vét cuối cùng” (Xem chi tiết).

clip_image008

Sau khi nói về các số liệu kinh tế do Chính phủ cung cấp “nhảy múa”, hàng giả, hàng kém chất lượng tràn lan, đại biểu Nguyễn Bá Thuyền đã gửi chất vấn tới Thủ tướng (Xem chi tiết).

clip_image009

Còn đại biểu Trần Ngọc Vinh chất vấn trách nhiệm của Bộ trưởng và ngành Nông nghiệp trước thực trạng rau quả có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt quá mức cho phép, mỗi khi hàng năm hàng nghìn cái chết được báo trước (Xem chi tiết).

clip_image010

Liên quan tới an toàn vệ sinh thực phẩm, Bộ trưởng Cao Đức Phát viện dẫn Bộ luật Hình sự để nói về tình trạng khó xử lý thức ăn bẩn, không đạt tiêu chuẩn.

clip_image011

Tranh luận với Chánh án TAND Tối cao về vụ bồi thường án oan sai lớn nhất Việt Nam, đại biểu Bùi Văn Xuyền cho rằng, người dân đã quá mệt mỏi, quá sức chịu đựng. Bồi thường bao nhiêu tính rõ, không thể giằng co mãi (Xem chi tiết).

clip_image012

Kinh doanh đa cấp biến tướng, ở mức rất nghiêm trọng, nhiều người tự tử, ly hôn, bỏ học vì dính vào đa cấp. Tuy nhiên, theo đại biểu Nguyễn Văn Hiến, Bộ Công thương phản ứng rất chậm chạp, vai trò quản lý, xử lý mờ nhạt.

clip_image013

Lo lắng trước tình hình Biển Đông, trong chất vấn gửi tới Thủ tướng, đại biểu Trương Trọng Nghĩa đề nghị không nhận viện trợ và vay tiền của Trung Quốc (Xem chi tiết).

clip_image014

Nói về kỷ cương của các địa phương, bộ, ngành, đại biểu Bùi Thị An cho rằng, đang có vấn đề rất nghiêm trọng trong việc thực thi phép nước khi Thủ tướng chỉ đạo một đằng, bộ, ngành, địa phương lại làm một nẻo.

Zing.vn

Ảnh: Quochoi.vn

Công thức giữ đảng

Công thức giữ đảng

Phạm Đình Trọng

  1. NIỀM TIN BẠO LỰC

Tiến sĩ chuyên ngành bảo vệ đảng Nguyễn Phú Trọng nhậm chức Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam ở thời điểm tròn 20 năm hệ thống cộng sản quốc tế sụp đổ, cũng là 20 năm sau cuộc cúi mặt, lén lút đi đêm của lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đến Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Tàu Cộng.

Hệ thống cộng sản quốc tế một thời hùng mạnh, làm giông bão sấm sét dìm một phần hành tinh, một phần loài người vào biển máu, biển lửa cách mạng, dìm hơn tỉ người vào bóng đêm nô lệ cộng sản nay bỗng chốc chỉ trong khoảnh khắc sụp đổ tan tành là nỗi lo canh cánh của vị Tổng bí thư thừa giáo điều mà quá thiếu hụt thực tế cuộc sống của dân, của nước nên xơ cứng, vôi hóa động mạch cảm xúc!

Lo từ khi chưa chính thức ngồi vào ghế Tổng bí thư.

Ở các nước dân chủ đích thực là các nước tư bản phát triển, dù bầu cử trong đảng chính trị hay trong dân, chỉ đến khi việc kiểm phiếu minh bạch xong xuôi mới biết chủ của những chiếc ghế quyền lực. Nhưng ở các nước cộng sản, mỗi dịp đại hội đảng cộng sản là một dịp phân chia trong bóng tối những chiếc ghế quyền lực đảng và sự phân chia trong bóng tối đó phải ngã ngũ rồi mới diễn ra công khai đại hội đảng và đại hội đảng chỉ để làm thủ tục bỏ phiếu hợp thức hóa sự phân chia đã được định đoạt từ trong bóng tối trước đó. Cũng như cuộc bỏ phiếu ở Quốc hội sau đại hội đảng chỉ để làm thủ tục hợp thức hóa sự phân chia những chiếc ghế quyền lực nhà nước đã được định đoạt từ trước đại hội đảng. Vì thế, đại hội đảng diễn ra sau cuộc chia ghế trong bóng tối là đại hội của chiếc ghế quyền lực lớn nhất vừa được xác định trong bóng tối: Tổng bí thư của đại hội đó.

Đại hội 11 là đại hội của tiến sĩ bảo vệ đảng Nguyễn Phú Trọng. Với nỗi lo mất đảng, toan tính đầu tiên của đảng trưởng giáo điều xa dân là bạo lực hóa, công cụ hóa ban chấp hành trung ương đảng. Tin vào sức mạnh bạo lực như giáo sĩ tin vào kinh thánh, cánh cửa ban chấp hành trung ương được ông chủ nhà Đỏ Ba Đình khóa 11 mở rộng cho cánh tướng lĩnh quân đội và công an ùa vào. Trong 175 ủy viên chính thức ban chấp hành trung ương kì đại hội 11 có tới 20 tướng quân đội, 10 tướng công an, tổng cộng là 30 trên 175, gần 20 phần trăm ban chấp hành trung ương là người nắm công cụ bạo lực.

Suốt ba mươi năm chiến tranh thù trong giặc ngoài, số ủy viên trung ương đảng mặc áo công cụ, quân đội và công an, các khóa thời đó chỉ trên dưới mười người, chưa đến mười phần trăm. Thời yên hàn mà bạo lực hóa cơ quan quyền lực của đảng chính là niềm tin bạo lực của vị đảng trưởng có bằng tiến sĩ bảo vệ đảng.

Cùng với bạo lực hóa, công cụ hóa ban chấp hành trung ương, nhiều chính sách ưu đãi, vỗ về, nuông chiều bạo lực, dồn ngân sách nghèo của đất nước chăm bẵm, phát triển con người công cụ, con người bạo lực cũng được thực thi. Lạm phát tràn lan tướng công an, tướng quân đội. Thời chiến tranh, quân đội Nhân Dân Việt Nam với quân số trên triệu tay súng và phải mở các mặt trận trên khắp ba nước Đông Dương mà chỉ có trên dưới 50 tướng. Cuộc sống hòa bình, quân số giảm lớn, không gian thu hẹp, quân đội Việt Nam chỉ có mặt trên lãnh thổ Việt Nam mà quân đội có tới 489 tướng! Nhiều đặc quyền, đặc lợi được giành cho công an, quân đội, nhất là công an được chăm bẵm, ưu ái từ người lính công an đến gia đình, con cái họ. Những doanh nghiệp công an, quân đội trở thành những siêu thế lực trong đời sống kinh tế đất nước. Doanh nghiệp quân đội tự tiện cắt gần hai trăm ha đất sân bay Tân Sơn Nhất làm sân golf giữa thành phố, đẩy sân bay vào thế kẹt cứng không thể mở mang, hiện đại hóa, phải bật đi nơi khác!

Đảng chính trị, dù là đảng cầm quyền cũng chỉ là một tổ chức xã hội nhất thời và luôn biến động. Tổ chức đảng có lúc thịnh, lúc suy, lúc tồn tại, lúc tiêu vong. Đường lối, chính cương của đảng có lúc đúng, lúc sai. Với đảng cộng sản thì sai nhiều hơn đúng. Con người của đảng có lúc anh hùng xuất chúng, có lúc là tội đồ, phản bội như ủy viên Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam Hoàng Văn Hoan.

Chỉ có Tổ Quốc, Nhân Dân là vĩnh hằng, bất biến, là một giá trị vĩnh cửu, cao cả, thiêng liêng của một đất nước và của từng người dân. Nhưng những người cộng sản đã thần thánh hóa, tuyệt đối hóa đảng của họ, đưa đảng của họ, một tổ chức chính trị nhất thời, sai nhiều hơn đúng, tội nhiều hơn công lên trên những giá trị cao cả, thiêng liêng, bất biến là Tổ Quốc, là Nhân Dân. Họ đã biến quân đội, sức mạnh bảo vệ đất nước thành sức mạnh bảo vệ đảng, biến pháp luật và công an, công cụ bảo đảm sự lành mạnh của xã hội thành công cụ bảo vệ đảng.

  1. SÚNG QUÂN ĐỘI

Ông đảng trưởng đương nhiệm Nguyễn Phú Trọng và ông đảng trưởng tiền nhiệm Nông Đức Mạnh là hai ông đầu đảng đã rước Tàu Cộng vào nước ta ồ ạt nhất, sâu rộng nhất. Tàu Cộng làm chủ những dải rừng đầu nguồn chiến lược rộng lớn ở biên cương. Tàu Cộng rầm rập kéo đến mảnh đất bô xít Tây Nguyên. Tàu Cộng lặng lẽ nhưng cấp tập đổ bộ vào những vùng đất đắc địa về kinh tế, hiểm yếu về quân sự dọc bờ biển nước ta. Đất nhượng địa cho Tàu Cộng với thời gian dài trên nửa thế kỉ loang lổ như da báo, như mụn ghẻ trải rộng trên khắp bề mặt đất nước Việt Nam từ Móng Cái đến Hà Tiên. Hàng hóa độc hại của Tàu Cộng đổ vào nước ta như nước lũ, bóp nghẹt ngay tức thì nền kinh tế Việt Nam và âm thầm mang cái chết chậm đến cho giống nòi Việt Nam. Tàu chiến Tàu Cộng nghênh ngang trên biển Việt Nam, mặc sức bắn giết, cướp phá dân chài Việt Nam. Tàu Cộng làm chủ nhượng địa Vũng Áng, Hà Tĩnh, xây dựng cảng biển Vũng Áng thành một đầu cầu mà đầu cầu bên kia là quân cảng Du Lâm trên đảo Hải Nam, căn cứ hạm đội Nam Hải của Tàu Cộng được trang bị tàu ngầm hạt nhân. Vũng Áng đã Tàu hóa nối liền với quân cảng Du Lâm của Tàu Cộng thì cánh cửa thép vịnh Bắc Bộ bị đóng sập lại, Đất Việt Nam bị cắt đôi. Biển Việt Nam bị phong tỏa.

Đất nước Việt Nam bị đe dọa nguy khốn như vậy, mạng sống của người dân Việt Nam mong manh như vậy trước họa xâm lăng Tàu Cộng nhưng hai ông đầu đảng Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng lại chỉ chăm chăm lo chuyển nòng súng quân đội hướng vào người dân Việt Nam và hai ông đã thực hiện nhiều việc làm biến chất quân đội, tha hóa quân đội, làm phân tán, mờ nhạt chức năng bảo vệ Tổ Quốc của quân đội, đặt lên vai quân đội thêm chức năng nội trị nặng nề để cùng công an bảo vệ đảng.

Năm 2003, thời đảng trưởng Nông Đức Mạnh, theo chủ trương của đảng, Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký Quyết định số 107/2003/QĐ-TTg về “Quy chế phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới”. Từ đây, quân đội chính thức phải gánh thêm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trât tự xã hội cùng bộ máy công an khổng lồ.

Cũng dưới thời đảng trưởng Nông Đức Mạnh, tháng 10. 2010, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lại kí Nghị định 77, đưa quân đội tham gia sâu rộng, toàn diện vào việc bảo vệ trật tự xã hội từ cấp cao nhất đến cấp nhỏ nhất. Với Nghị định 77 quân đội đã có mặt cùng công an trong nhiều cuộc cưỡng chế đất đai mà thực chất là những cuộc ăn cướp mảnh đất người dân đang sinh sống hợp pháp của đám quan tham nhân danh chính quyền. Quân đội là lực lượng bạo lực quyết định trong việc dập tắt cuộc biến động đòi tự do dân chủ của người H’Mong ở Mường Nhé tỉnh Điện Biên tháng 5. 2011.

Người cầm quyền tỉnh táo đáng ra phải nhận ra ở tiếng súng hoa cải Đoàn Văn Vươn vang lên trong sương mù sớm mùa đông giáp tết năm 2012 lời cảnh báo nghiêm khắc về một qui luật tự nhiên và cũng là qui luật xã hội: “tức nước vỡ bờ”. Một chính quyền dù có sức mạnh bạo lực tàn bạo đến đâu nhưng đối kháng với Dân cũng không thể tồn tại. Nhưng với niềm tin đến mê muội vào bạo lực, coi bạo lực như bảo bối để tồn tại, sau tiếng súng hoa cải Đoàn Văn Vươn, đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng liền triệu tập hội nghị trung ương 8 để một lần nữa ra thêm một nghị quyết huy động sức mạnh bảo vệ Tổ Quốc của quân đội vào cái gọi là bảo vệ chế độ CNXH, bảo vệ an ninh trật tự xã hội. Nghị quyết chi li đến mức bất cứ điều gì ảnh hưởng đến sự tồn tại của đảng, của chế độ, quân đội đều được quyền hành động trấn áp.

Người dân Việt Nam đã bị thể chế công an trị với đội quân công an dày đặc giám sát từng lời nói, từng bước đi, từng trang viết. Nay sự giám sát đó lại có thêm cả sức mạnh của nòng súng quân đội. Nghị quyết của hội nghị trung ương 8 thời đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng, hay có thể nói cụ thể, chính xác là chính đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng đã chỉnh nòng súng của quân đội hướng vào Nhân Dân, coi Nhân Dân, những người đóng thuế xây dựng quân đội, nuôi quân đội, trang bị súng lớn súng nhỏ cho quân đội là đối tượng tác chiến của quân đội. Điều này giải thích vì sao ban Chấp hành trung ương đảng, bộ tham mưu của đảng, đầu não của đảng, trí tuệ của đảng thời đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng lại có nhiều tướng võ biền đến thế.

Đương nhiên, sức mạnh bảo vệ Tổ Quốc của quân đội vừa bị hút vào hoạt động thị trường, trở thành siêu thế lực trong đời sống kinh tế đất nước, vừa được huy động ráo riết vào việc bảo vệ đảng thì nhiệm vụ bảo vệ Tổ Quốc chỉ còn là thứ yếu.

  1. CÒNG CÔNG AN

Sức mạnh quân đội đã bị chuyển hướng từ bảo vệ đất nước sang bảo vệ đảng. Công an còn bị đảng hóa triệt để hơn, bị tha hóa, biến dạng lớn hơn. Tha hóa biến dạng từ tâm hồn, nhận thức. Con người công an bị nhào nặn để không còn con người nhân văn, chỉ còn con người công cụ. Công an được giáo dục để chỉ biết có đảng và chỉ thuộc lòng lí luận bạo lực đấu tranh giai cấp, bạo lực chuyên chính vô sản của đảng. Không biết đến Nhân Dân. Nhân Dân chỉ là nguồn lực vô tận để khai thác, sử dụng, chỉ là quần chúng phải giáo dục, phải chuyên chính. Tổ Quốc lớn lao thiêng liêng cũng là của đảng, cũng dưới giá trị tuyệt đối của đảng. Cái phông chữ ngạo nghễ phô trương đến kệch cỡm choán hết mặt trước cơ quan bộ Công an ngay giữa thủ đô ngàn năm văn hiến: “Công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình” đã bộc lộ đầy đủ tâm hồn và nhận thức của những con người được Nhân Dân trao trách nhiệm bảo vệ luật pháp, bảo vệ cuộc sống bình yên của Dân đã bị đảng hóa chỉ còn là công cụ của đảng.

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn hùng hồn là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Đảng của Dân thì phải theo ý nguyện của Dân. Ý nguyện của Dân chính là ý nguyện của cuộc sống, của đất nước. Nhân Dân là Tổ Quốc, là thời đại. Đảng chính trị dù có tư tưởng tiên tiến đến đâu cũng phải học Dân, theo Dân. Không thể bắt Dân theo ý nguyện của đảng. Học thuyết Mác Lê nin và lí tưởng Xã hội chủ nghĩa là ý nguyện của đảng chứ không phải ý nguyện của Dân. Coi Dân chỉ là quần chúng, những người Cộng sản tự đặt mình cao hơn Dân, tự cho mình quyền giáo dục quần chúng, giáo dục Nhân Dân. Người Dân khảng khái bộc lộ ý nguyện của Dân, ý nguyện không chấp nhận học thuyết Mác Lê nin mất tính người, không chấp nhận Chủ nghĩa Xã hội đầy tội ác thì Dân liền bị đẩy sang “thế lực thù địch”. Còng sắt nhỏ liền bập vào tay người Dân khác biệt ý nguyện với đảng và cái còng khổng lồ tạo ra bởi những con người công cụ đã còng cả không gian sống của người Dân không có cùng ý nguyện với đảng.

Pháp luật Việt Nam những ngày này đang được thực thi bởi những con người công cụ không biết đến những giá trị nhân văn, không biết đến pháp luật. Những con người công cụ coi người Dân không có cùng ý nguyện với đảng cộng sản đều là thù địch, là tội phạm. Những phiên tòa xử theo những điều luật vi Hiến 79; 88; 258 liên tiếp mở ra trên khắp đất nước buộc tội, bỏ tù những người Dân Việt Nam trung thực, lương thiện không có cùng ý nguyện với đảng cộng sản. Những nhà tù với những cai ngục chỉ biết còn đảng còn mình đang giam cầm, hủy hoại những tâm hồn và khí phách Việt Nam không có cùng ý nguyện lầm lạc, tội lỗi của đảng cộng sản.

Lịch sử Việt Nam là lịch sử của lòng yêu nước thương nòi. Trước sức mạnh khổng lồ của Đại Hán xâm lược, dân tộc Việt Nam bé nhỏ tồn tại đến hôm nay nhờ yêu thương đùm bọc dân tộc. Còng công an không phải chỉ còng thân xác những người Dân Việt Nam không có cùng ý nguyện với đảng Cộng sản. Còng công an đã còng cả lòng yêu thương đùm bọc dân tộc, còng cả dân tộc Việt Nam giàu lòng yêu nước thương nòi không chấp nhận bạo lực đấu tranh giai cấp, bạo lực chuyên chính vô sản đã gây quá nhiều tội ác với dân tộc Việt Nam. Còng công an đã còng cả ánh sáng tự do dân chủ, dìm đất nước Việt Nam văn hiến trong bóng đêm nô lệ cộng sản.

  1. MẬT VỤ TÀU CỘNG

Không phải chỉ giữ đảng bằng súng quân đội, còng công an Việt Nam. Tiến trình đi tới của loài người không thể đảo ngược là loại bỏ học thuyết bạo lực Mác Lê nin vào sọt rác lịch sử, giải phóng con người khỏi bạo lực nô dịch cộng sản. Chống lại tiến trình đó để giữ đảng, giữ bạo lực cộng sản nô dịch chín mươi triệu người Dân Việt Nam, đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng đã rước cả công an, mật vụ Tàu Cộng về “để tăng cường phối hợp và ủng hộ lẫn nhau trong việc giữ gìn ổn định trong nước của mình”, thực chất là dùng sức mạnh bạo lực của nhà nước cảnh sát Tàu Cộng đàn áp người Dân Việt Nam không có cùng ý nguyện với đảng Cộng sản Việt Nam.

Ngồi vào chiếc ghế quyền lực cao nhất của đảng Cộng sản Việt Nam, đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng liền sang kinh đô Đại Hán kí với người đứng đầu đảng Cộng sản Tàu Cộng Hồ Cẩm Đào bản Tuyên bố chung tám điểm ngày 15. 10. 2011, gồm những việc cụ thể đưa Việt Nam phụ thuộc sâu vào Tàu Cộng.

Điểm thứ tư của Tuyên bố chung có sáu việc thì việc thứ năm là: “Đi sâu hơn nữa hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực thi hành pháp luật và an ninh; . . . Tăng cường giao lưu và hợp tác giữa các cơ quan như tòa án, viện kiểm sát, công an, hành chính tư pháp; . . . tăng cường phối hợp và ủng hộ lẫn nhau trong việc giữ gìn ổn định trong nước của mình”. Ngôn ngữ ngoại giao và công khai thì phải tỏ ra bình đẳng “phối hợp và ủng hộ lẫn nhau” nhưng thực tế trong quan hệ giữa Tàu Cộng với Việt Cộng, giữa nước lớn ban phát và nước nhỏ nhận ban phát thì “đi sâu hợp tác, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan công an, tòa án hai nước” chỉ là hợp thức hóa việc mở đường cho công an, tòa án Tàu Cộng nhảy vào các vụ việc nội trị của Việt Nam mà thôi.

Người Dân Việt Nam có tiếng nói khác biệt với đảng Cộng sản Việt Nam đã bị bộ máy công cụ nhà nước Việt Nam, công an, tòa án, nhà tù trừng trị thẳng tay. Nhưng tiếng nói khác biệt đó lại nhằm lên án Tàu Cộng cướp đất đai biển đảo Việt Nam, nô dịch người Dân Việt Nam thì sự trừng trị càng thảm khốc, man rợ.

Trừng trị tiếng nói đòi tự do dân chủ của Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, nhà nước cộng sản Việt Nam phải ngụy tạo cho người khai sinh ra câu lạc bộ Nhà báo Tự do tội trốn thuế vài trăm triệu đồng mà giáng mức án ba mươi tháng tù giam. Mãn hạn tù với nhà nước cộng sản Việt Nam, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải vẫn không được trả tự do vì ông còn “tội” lớn hơn với nhà nước cộng sản đàn anh Tàu Cộng.

Đúng ngày Tàu Cộng đánh cướp quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam 34 năm trước, ngày 19. 1. 2008, đúng thời điểm Tàu Cộng đang rong ngọn đuốc Olympic Bắc Kinh đi khắp thế giới và ngọn đuốc đó sắp qua Sài Gòn, Điếu Cày cùng những người bạn mặc đồ đen để tang Hoàng Sa, đứng cao trên thềm Nhà Hát Lớn Sài Gòn ngực áo mang biểu tượng những vòng tròn Olympic Pekin 2008 chỉ là hình những chiếc còng sắt, tay giương cao bảng chữ “Hoàng Sa, Trường Sa Của Việt Nam” bằng chữ Việt, chữ Anh, chữ Tàu. Ngày 29. 4. 2008, ngọn đuốc Olympic Bắc Kinh đến Sài Gòn, trước đó 9 ngày, ngày 20. 4. 2008, Điếu Cày bị bắt.

Sau phiên tòa về tội trốn thuế với bản án ba mươi tháng tù do nhà nước cộng sản Việt Nam, trừng trị tiếng nói đòi tự do dân chủ, ngày 24. 9. 2012, Điếu Cày lại phải đối mặt với phiên tòa thứ hai với bản án man rợ mười hai năm tù, năm năm quản chế sau tù. Phiên tòa do những quan tòa Việt Nam xử Điếu Cày tội tuyên truyền chống nhà nước Việt Nam nhưng những người nhạy cảm chính trị đều hiểu rằng bản án man rợ mười hai năm tù giáng xuống người đàn ông sáu mươi tuổi Điếu Cày Nguyễn Văn Hải ngày 24. 9. 2012 mang dấu ấn đậm nét của Tuyên bố chung Nguyễn Phú Trọng – Hồ Cẩm Đào ngày 15.10.2011 và bản án có sẵn trong túi ông quan tòa người Việt Nam ngồi xử Điếu Cày đã được định đoạt từ ngoài biên giới phía Bắc.

Những ông quan tòa ngồi xử Điếu Cày không theo tinh thần nhân đạo của luật pháp Việt Nam mà theo tinh thần Bắc thuộc tàn ác của Tuyên bố chung Nguyễn Phú Trọng – Hồ Cẩm Đào ngày 15.10.2011. Lịch sử Việt Nam sẽ xóa án cho Điếu Cày Nguyễn Văn Hải và tôn vinh ông. Lịch sử Việt Nam sẽ nghiêm khắc phán xét, tuyên án các ông quan tòa tạo ra bản án man rợ cho Điếu Cày tội phản dân tộc, sẽ sòng phẳng phán xét và tuyên án cả bản Tuyên bố chung Nguyễn Phú Trọng – Hồ Cẩm Đào tội dìm giống nòi Việt Nam vào vòng Bắc thuộc, tội đánh đổi sự tồn tại của dân tộc Việt Nam cho sự tồn tại của đảng Cộng sản Việt Nam.

Có Tuyên bố chung Nguyễn Phú Trọng – Hồ Cẩm Đào ngày 15.10.2011 rước công an Tàu Cộng vào Việt Nam dưới chiêu bài tăng cường phối hợp và ủng hộ lẫn nhau giữa công an hai nước Tàu Cộng và Việt Cộng, dìm Việt Nam chìm sâu vào vòng Bắc thuộc, mới có sự việc ngày 14.3.2014 công an chìm, công an nổi chỉ huy phá buổi lễ người Dân thủ đô Hà Nội tưởng niệm những người lính Việt Nam bỏ mình trong cuộc chiến đấu chống Tàu Cộng đánh cướp bãi đá Garma trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam năm 1988. Phá buổi lễ người Dân thủ đô dâng hương lên hương hồn liệt sĩ Trường Sa bằng khúc nhạc Tàu tấu lên phá tan không khí trang nghiêm thành kính, bằng những kẻ người Việt mang dòng máu họ Mao, họ Tập ôm nhau nhảy múa trong khúc nhạc Tàu chiếm không gian của người Dân dâng hương lên hương hồn liệt sĩ chống Tàu Cộng xâm lược.

Có Tuyên bố chung Nguyễn Phú Trọng – Hồ Cẩm Đào ngày 15.10.2011 mới có dòng máu đỏ chảy tràn trên mặt cựu chiến binh Trần Bang sau cú võ Tàu của những kẻ chống phá cuộc biểu tình của người Dân Sài Gòn phản đối tên trùm xâm lược Tập Cận Bình đến Việt Nam ngày 5.11.2015.

Kẻ tung cú võ Tàu đấm thẳng vào mặt người cựu chiến binh tuổi sáu mươi mặc áo NoU thét lên tiếng thét của những trái tim Việt Nam yêu nước “Đả đảo Tập Cận Bình”, kẻ đó hẳn thừa biết cựu chiến binh Trần Bang đã tham gia đánh Tàu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ở biên giới phía Bắc năm 1979, đã có mặt ở hàng đầu trong mọi cuộc biểu tình lên án Tàu Cộng cướp biển đảo Việt Nam những năm tháng này.

Cú võ Tàu đấm vào mặt cựu chiến binh Trần Bang cũng như lưỡi gươm Nguyên Mông chém rụng đầu Trần Bình Trọng khi Trần Bình Trọng khảng khái thét vào mặt giặc Nguyên Mông “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Kẻ tung cú võ Tàu đấm thẳng vào mặt cựu chiến binh Trần Bang không phải chỉ nhằm hạ gục một Trần Bang cụ thể mà nhằm hạ gục ý chí giữ nước chống Đại Hán xâm lược của người Dân Việt Nam yêu nước.

Kẻ tung cú võ Tàu đánh vào lòng yêu nước của người Dân Việt Nam đã được rước vào Việt Nam bởi Tuyên bố chung Nguyễn Phú Trọng – Hồ Cẩm Đào ngày 15.10.2011.

  1. DÒNG MÁU ĐẢNG CHA TRUYỀN CON NỐI

Khi dư luận xã hội ồn ào vụ việc con ông đảng trưởng một tỉnh nghèo miền Trung, cậu ấm ba mươi tuổi chỉ có thú ham chơi chim kiểng, không có đủ chuẩn mực của chiếc ghế quyền lực bỗng sỗ sàng nhảy tót lên ghế giám đốc một sở đầy thế lực; Khi ông Thứ trưởng bộ Nội vụ từ kinh kì tức tốc vào cuộc kiểm tra việc cậu ấm ham chơi nhảy lên ghế quyền lực rồi mau mắn tuyên bố ráo hoảnh rằng việc đề bạt cậu ấm là đúng qui trình thì người Dân đều phải sững sờ nhận ra rằng tàn tích cha truyền con nối của thời phong kiến hủ bại đã là chủ trương ngầm của nhà nước cộng sản Việt Nam thời đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng rồi!

Nhưng thời phong kiến, cha truyền con nối chỉ diễn ra ở ngôi vua. Còn chiếc ghế quyền lực từ trung ương đến địa phương đều phải qua học hành thi tuyển nghiêm túc, công khai, minh bạch ở tầm quốc gia. Thi cử nghiêm túc nên chủ khảo Cao Bá Quát mới bị tống ngục với thang tội danh phải tử hình khi ngầm nâng đỡ một sĩ tử giỏi, có bài thi xuất sắc nhưng do sơ suất có vài chữ phạm húy. Dù là quan lại địa phương cũng phải qua thi tuyển quốc gia rồi triều đình bổ nhiệm chứ địa phương không thể tự biên tự diễn được. Từ đó, hiền tài trong Dân được phát hiện qua thi tuyển minh bạch đàng hoàng và được phân bổ, sử dụng cho cả nước. Dù là quan lại địa phương cũng là bộ máy hành chính của đất nước, cũng phải là bộ mặt nhân văn của chính quyền, cũng phải là bộ mặt văn hóa của đất nước.

Với nhà nước cộng sản Việt Nam, đến những chiếc ghế quyền lực của đảng trung ương còn được định đoạt trong bóng tối rồi mới đưa ra đại hội đảng bỏ phiếu để hợp thức hóa, để đúng qui trình thì những trò bỏ phiếu tín nhiệm ở địa phương càng chỉ là thủ tục hành chính đơn giản cho có đủ hình thức, cho đúng qui trình mà thôi. Vì thế tất cả các cuộc bầu bán, các vụ việc đề bạt đều đúng qui trình! Con ông ủy viên Bộ Chính trị này làm bí thư tỉnh X đúng qui trình. Con ông ủy viên Bộ Chính trị kia là bí thư tỉnh Y đúng qui trình. Con ông Bí thư tỉnh làm chủ tịch quận đúng qui trình. Con ông ủy viên trung ương đảng làm phó giám đốc công an tỉnh đúng qui trình… Con cái của đảng ào ào ra nắm giữ những chiếc ghế quyền lực đều đúng qui trình cả. Chỉ có Dân có ý kiến nhận xét, phản bác, đòi hỏi này nọ là sai, là thế lực thù địch!

Mỗi mùa đại hội đảng là một lần người dân bị tước quyền công dân. Bỏ phiếu bầu người lãnh đạo đất nước là quyền công dân quan trọng nhất, tối cao nhất, là cách duy nhất người Dân sử dụng quyền lực của mình. Mỗi mùa đại hội đảng, những vị trí lãnh đạo đất nước từ trung ương đến địa phương lại được đảng mang ra chia chác trong nội của đảng. Người Dân mất quyền bầu chọn người thay mặt mình quản lí đất nước, điều hành xã hội.

Mùa đại hội đảng năm nay, người Dân lại được chứng kiến những người cộng sản đang hối hả học bài học giữ ngôi của các vương triều phong kiến. Cha truyền con nối của vương triều là để giữ ngôi vua. Cha truyền con nối chiếc ghế quyền lực của những người cộng sản hôm nay là để giữ đảng. Con thay cha giữ những chiếc ghế quyền lực đảng trao không phải chỉ để giữ lợi ích, bổng lộc do chiếc ghế mang lại cho bản thân, cho gia đình mà còn để quyết giữ đảng. Vì nhờ có đảng mà cha con, ông cháu nhà ta và các thế hệ chắt, chút, chít về sau mới có chiếc ghế cai trị Dân đầy quyền lực và dày bổng lộc đó. Vì thế cha truyền con nối để giữ đảng đến cùng.

Tóm lại, công thức giữ đảng của đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng là: Còng Công An + Súng Quân Đội + Mật vụ Tàu Cộng + Dòng Máu Đảng Cha Truyền Con Nối. Cả bốn thành tố này đều bất chính và vô cùng nguy hại cho Dân cho nước.

Một chính đảng phải nhờ những điều bất chính để tồn tại là đã tự đào thải, tự kết thúc sứ mạng lịch sử trong bi hài, tự kết thúc số phận trong tội lỗi với dân tộc, với lịch sử.

P.Đ.T

Ngồi nhớ ân cần

                                  Ngồi nhớ ân cần
Buổi sáng nọ, nơi góc đổ rác chung của cả khu nhà tự dưng xuất hiện một đôi giày cũ còn khá tốt. Giày được đặt trong một cái hộp với tờ giấy ghi chú, nét chữ nắn nót “đồ còn tốt, ai cần xin cứ tự nhiên”.
Ở mấy nước tư bản giãy chết, việc đem bỏ đi đồ dùng còn xài tốt không lạ, nhưng cách nhường lại cho người khác sử dụng với tất cả sự ân cần là một cung cách đáng ngưỡng mộ.

Đôi giày cũ khi đặt vào hộp, gửi tặng mơ hồ vào cõi nhân gian, được chủ nhân ân cần đi đánh xi lại, mới và đẹp, ai nhìn cũng thú vị. Vậy mà mấy ngày sau mới có anh Mễ làm nghề đổ rác đến lấy, rồi để lại chữ “cám ơn”. Đôi giày nằm liên tục mấy ngày, vì những người trong khu nhà không ai muốn giành lấy phần của người có thể khó khăn hơn mình.
Thỉnh thoảng thấy trong đời có sự ân cần làm lay động, lại chợt nhớ Sài Gòn với tất cả không gian từng rất ân cần của nó, một không gian mà giờ đây nhắc lại như một thứ của quý đang mất dần, phai dần, dư niệm của nhiều thế hệ.
Sài Gòn ân cần trong trí nhớ đơn giản lạ. Đôi khi chỉ là chuyện người qua đường trú mưa được chủ nhà mời vào ngồi vì sợ kẻ lạ bị ướt. Đôi khi vì một thùng trà đá để trước cửa để giúp bá tánh lỡ đường giải khát trưa hè. Có đi đến tận những thành phố, hỏi đường đi bị tính tiền, mới biết Sài Gòn đã từng ân cần thế nào. Sài Gòn ân cần và vô tư đến mức từng thấy người say nắng ngất xỉu bên đường, không ai biết ai cứ xúm vô cạo gió, lấy thuốc cho uống để giúp khách qua đường có sức đi tiếp.
Mới hôm rồi, may mắn đọc được một câu chuyện của người Sài Gòn mà lòng mát dịu. Lại thấy thương người đất miền Nam không quen nói trôi chữ, chỉ có tấm lòng. Một anh trên facebook kể rằng anh đi làm thêm kiếm tiền đi học, chạy bàn rửa chén cho một đôi vợ chồng ở Sài Gòn.

Một hôm lỡ tay làm bể hết nguyên chồng tô dĩa, anh lính quýnh không biết làm sao thì bất chợt bà chủ chạy vô nhìn thấy. Bà sững người, chưa kịp la, đã dặn “nếu chồng cô có xuống thấy thì nói tại cô làm bể, chứ không ổng chửi chết”. Vừa quay lưng thì ông chủ chạy từ trên lầu xuống, nhìn đống tô dĩa nát bấy mà thất thần, rồi dặn “nếu vợ chú vô hỏi, thì nói chú làm bể nghe, chứ không bả chửi chết”.

Người làm công đó mang kỷ niệm ngọt ngào và xúc động đó kể lại trên nhật ký của mình, làm không biết bao người đọc rưng rưng, trìu mến.
Sự ân cần là cách mà con người thấu hiểu đời sống, đối đãi bằng lòng chân thành của mình. Bước đi vài dặm trong một đất nước, có thể thấy sự ân cần cho con người đang ở mức nào. Việt Nam hôm nay có những thành phố lớn hơn, con người cao sang hơn, đại lộ đi bộ to rộng hơn… nhưng sự xua đuổi người nghèo khó cũng quyết liệt hơn. Sự ân cần như chỉ còn trú ngụ loanh quanh với giai cấp dưới, ở những thị dân ít học được thói cao sang. Nhiều cao ốc được dựng lên, nhưng không mấy cái có lối đi của người khuyết tật. Nhà vệ sinh công cộng phải xây đắt tiền như tượng đài, nhưng hầu như không có cái nào dành cho phụ nữ có thai hay cho người già yếu. Trong sự rực rỡ của đất nước này hôm nay, đã nhàn nhạt ân cần của người với người. Sự chói lọi chỉ số phát triển vẫn kèm theo khoảng tối đen mù lòa sau lưng nó.
Thường dân hay bọn con buôn lạnh nhạt ân cần trong đời thì đã đành, đến phận Tỳ kheo cũng la liếm vuốt ve thế tục, mất cả ân cần với thế nhân thì chúng sinh chỉ còn biết thở dài. Nghe lời ông Thích Thanh Quyết, đại biểu quốc hội, ngợi ca các mức oan khiên trong xã hội là “hợp lý” đã lắm chối tai, lại còn nghe ông nhấn mạnh sao không ca ngợi các cơ quan điều tra tố tụng đã kiểm soát giỏi mức oan sai “hợp lý” này.
Uống một ly nước, Đức Phật còn dạy rằng đừng quên có đến 84.000 sinh linh trong ly nước đó đã phải hy sinh cho người đời thụ hưởng. Và dù những sinh linh đó nhỏ bé vô hình đến mức nào, lời Phật dạy cũng chưa bao giờ cho rằng “hợp lý”. Lẽ nào mũ ni của ông Quyết đã kéo quá sâu vào thế tục, che kín tai để không còn nghe được tiếng khóc ngất của cha mẹ già và của tử tù Hồ Duy Hải (1985), hay lời trăn trối của cả gia đình tù nhân Nguyễn Văn Tràng (1988) xin được tự thiêu để tòa án phải công tâm xét lại, minh oan. Sự ân cần với từng chúng sinh là tâm đức không thể thiếu với đệ tử của Phật, bằng không chỉ đáng gọi là kẻ giả danh, mua bán niềm tin.
Sự ân cần hôm nay cũng có thể được nhìn thấy, nhưng là thứ chiêng trống mua vui lạ lẫm. Tỉnh Vĩnh Phúc hôm nay “ân cần” bỏ ra 300 tỉ đồng để xây một khu Văn miếu thờ và tôn vinh Khổng Tử bằng tiền thuế của nhân dân – như tiền nhà của lũ quan lại.

Khổng tử chỉ có thể mang trái tim kẻ ác mới đành lòng bệ vệ xưng danh nơi mà cả vùng có đến gần 12.000 gia đình nghèo khốn khó. Thậm chí chỉ có 24% trong số 14.000 gia đình thuộc loại chính sách của chế độ là có được nước sạch để dùng. Cả tỉnh cũng có gần 20.000 gia đình không có nhà vệ sinh tiêu chuẩn và nước sạch để sinh hoạt.

Vậy mà sự ân cần thì được dâng cho tượng gỗ và bộ mặt trơ cứng của chính quyền. Còn nhân dân thì chỉ được quyền xao xác lặng im nghe diễn văn.

Chợt nhớ Sài Gòn ghê. Nhớ Sài Gòn qua tiếng rao bán xôi giản dị của bà cụ đội khăn đi bộ từ quận 8 tới tận quận 5, với những gói xôi bán chỉ 5000 đồng, mắt lạc thần khi thấy bóng dân phòng. Nhớ ánh mắt bà hấp háy cười, hỏi có muốn cho thêm đường không, có vừa miệng không. Trái tim ân cần đó, đáng để xây cả miếu đền để thương nhớ và tôn vinh những con người cần lao đất Việt, mà chẳng cần phải tìm kiếm, cống nạp xa xôi.

(Không ghi tên tác giả)

CUỘC TĨNH TÂM TRONG MƯA BÃO. (Bài 2)

CUỘC TĨNH TÂM TRONG MƯA BÃO. (Bài 2)

Phan Sinh Trần.

Điểm nổi bật của kỳ tĩnh tâm được tổ chức vào ngày 22 tháng 10 năm 2015 dưới sự bảo trợ của Linh mục chánh xứ St. Christopher Lê Thu, tại thành phố Houston, tiểu bang Texas là sự ưu ái nổi trội mà Chúa dành riêng cho các bạn trẻ, khác với những gì chúng ta thường than phiền và lo lắng ở đất Mỹ này, là tình thần đạo đức của giới trẻ, cho dù sự lo lắng đó khá chí lý, khi mà các bạn trẻ lao vào con đường vật chất, tiền tài không ai thiết tha mấy với cái mà ta hay gọi là tâm linh và tình yêu vô điều kiện.

Vâng, một điều có thể khẳng định đó là Tình yêu và sự ưu ái của Chúa dành cho các Bạn trẻ, vốn là những người được ơn nhiều nhất trong kỳ tĩnh tâm này.

Trước hết xin được ghi lại lời chứng của anh Dominic, một người thất thần giống như là homeless, anh khá tiều tụy trong bộ áo xám đen, quần đen, cả áo và quần đều nhầu nát. Anh có mái tóc mọc dài đến vai, râu cũng tua tủa dài, người khô khan, tiều tụy như môt lão bối trong tiểu thuyết kiếm hiệp, trong đầu tôi nảy ra ý nghĩ dí dỏm, rồi sẽ có ngày biết đâu Chúa sẽ có môt “thần điêu đại hiệp” mới của Chúa, ngay trong thời buổi hiện đại chăng ?

TINH TAM 1

Anh Dominic kể:

  • Tôi bị suy nhược thần kinh đã nhiều năm và cảm thấy lúc nào cũng có người nhìn tôi, họ ghét tôi và không muốn thấy tôi. Lòng tôi luôn buồn sầu và đau khổ, không còn thiết tha muốn làm gì cả.

Nhưng Chúa hôm nay đã thay đổi tôi, cho tôi cảm nhận được là Ngài yêu tôi, Ngài đã chết cho tôi và mong mỏi được tôi biết về điều đó. Còn mọi người ở đây đều vui vẻ với tôi, tôi có thể nói chuyện với họ. Chúa cho tôi lấy lại niềm tin, yêu để sống, cảm ơn Chúa. Tôi cảm thấy vui.

Thực sự là anh Dominic đã ra nhảy múa với mọi người cùng hô vang bài hát về thành Giê ri cô kiên cố, vào thời xa xưa, thành Giê ri cô trên đồi cao bao bọc bởi hai lớp tường dày, nhưng khi con cái Chúa đi vòng quanh mà ca tôn Chúa thì nó tự động sụp đổ ở một góc cho con cái Chúa tiến vào chiếm lĩnh:

  • Chúa phán một lời thì Jerico phải tan tành
  • Chúa phán một lời thì bao nhiêu thành lũy che mất ánh sáng trong tim anh Dominic cũng tan ra tro bụi và sức ấm của tình yêu Chúa long lanh chiếu sáng trong ánh mắt và trong lòng anh.

Vâng anh Dominic là một kỳ công của Chúa trong kỳ tĩnh tâm này.

Chúa cứ tăng dần sức nặng của quà tặng cho kỳ tĩnh tâm này, đố bạn đoán được Chúa sẽ cho món quà bất ngờ nào, món quà không thể dò thấu, hay đoán biết?

Không để bạn chờ đợi lâu, xin được ghi lại về lời chứng của Cha Phansico Xavie Trần An, Linh mục đan sĩ dòng Biển Đức, Đan viện Thiên An Huế.

Nhưng trước hết, xin mời Bạn tìm hiểu đôi dòng về tiểu sử của Cha.

Ngày tháng xa xưa, chàng thanh niên hàng vàng Trần An, giầu có, biết đàn, biết hát, biết làm thơ, phong độ và phóng túng ăn chơi sa đọa, cuối cùng đã đi vào con đường nghiện ngập, tán gia bại sản vì nghiện. Sức khỏe cũng tiêu tán theo, kiệt quệ vì suyễn, vì chất độc ma túy phát tán trong gan, thận và các cơ quan trong cơ thể, cận kề cái chết sau nhiều lần cai nghiện không thành công, cuối cùng An đến dòng Biển Đức nhờ Chúa giúp cho mình được thoát chết, Chúa đã cứu anh An từ bỏ được xiềng xích của sự nghiện ngập và kêu gọi Anh.. Cuối cùng, anh đi tu, chuyên cần trau dồi và trở thành một linh mục đan sĩ của Chúa. Cha kể:

  • Ngày hạnh phúc nhất đời tôi là ngày mà Chúa xức dầu thánh trên tay tôi cho tôi một kẻ hoàn toàn bất xứng được làm môn đệ của Chúa, thật là quá sức tưởng tượng của tôi và cả gia đình Cha Mẹ, Chú Bác, Anh Chị Em, bạn bè của tôi.

TNH TAM 2

Cha An sẽ tạ ơn Chúa bằng cách nào đây, Ngài xin Đức viện phụ cho phép lập một nhà cai nghiện bằng liệu pháp tình yêu, Lời Chúa và lần hạt kinh mân côi kết hợp với lao động học nghề và sinh hoạt tinh thần, làm cho những con nghiện mà các phương pháp tâm lý và thuốc men tây y, đông y khác đã bó tay, không thể giúp họ về lâu về dài được khỏi bệnh. Một khóa viên, Simon Hà đã nói:

  • “Khi lần chuỗi Mân Côi tôi cảm nhận được sự bình an, ơn tha thứ và lòng thương xót của Thiên Chúa và Đức Mẹ. Trước đây, bàn tay tôi cầm dao đâm thuê chém mướn, trộm cắp để có tiền mua heroin, nay tôi quyết cầm tràng chuỗi để đền bù tội lỗi của mình”

Điểm độc đáo của trung tâm là, không thu chi phí cai nghiện khoảng từ một triệu rưỡi đến ba triệu đồng, tức là khoảng sáu mươi bảy đến một trăm ba mươi lăm đô một tháng kéo dài trong suốt từ một đến hai, ba năm. Đây là một số tiền không nhỏ ở Việt Nam. Trong số một trăm bệnh nhân đã thoát khỏi bệnh ra khỏi trung tâm cai nghiện này, hầu như chỉ có 3,4 người quay lại con đường cũ một khi đã vể nhà hội nhập vào xã hội, một con số làm các chuyên gia cai nghiện phải thán phục vì con nghiện cho dù đã khỏi bệnh, thường hay quay lại con đường cũ với tỉ lệ từ 40-60%.

Điều cao quí hơn đó là, đã có mấy trại viên sau khi ra trường, nay họ đi theo tiếng gọi của Chúa kính yêu và trở thành Đan Sĩ Biển Đức.

Tinh tam 3

                             Cha An cùng hát Thánh ca với những người cai nghiện tại nhà tĩnh tâm

Cha An chia xẻ:

  • Con đến Mỹ hai tuần, chưa được đi thăm viếng nơi nào thì Chúa an bài cho tham dự hai kỳ tĩnh tâm cuối tuần thật là tuyệt vời. Lòng con cũng reo vui, hợp tiếng ca ngợi Chúa vói các Bác, Anh Chị Em ở đây. Sự khác biệt là ở Nhà Tĩnh Tâm Thiên An thì các buổi thờ phượng thường tĩnh lặng, trầm lắng, còn ở đây thì việc thờ phượng Chúa lại phấn khởi, vui tươi, nhẹ nhàng mà cũng rất sốt sắng một cách sống động, lòng con lâng lâng trong sự cầu nguyện cảm ơn Chúa.

Chúa an bài cho Cha An đi dự tĩnh tâm vì Ngài đi sang Mỹ với cả một trời tâm sự mà cha gọi là 3 tảng đá khổng lồ đang đè nặng trên tâm tư và sức lực vốn rất cạn kiệt của Cha. Trong vòng một năm trời Cha phải chia tay cả Ông và Bà Cố về với Chúa, còn đang nuối tiếc thì nay Cha có thể sẽ phải chia lìa đứa con tinh thần là trung tâm cai nghiện vì bài sai đi phục vụ ở Trung Tâm Hướng Thiện Thiên An, tỉnh Quảng Trị, và sống bên ngoài Đan viện vốn ở Huế, gần đáo hạn ba năm mà Tòa Thánh cho phép. Cha không muốn xa lìa “Mẹ là Đan Dòng mà cũng không muốn xa Con là Trung Tâm Hướng Thiện Thiên An”. Cục đá to không kém là các món nợ tài chánh để duy trì trung tâm hoạt động sống còn vì trung tâm phục vụ cho lớp người ở cùng đáy xã hội hoàn toàn miễn phí theo lý tưởng Dòng. Tảng đá khổng lồ khác thì đè chẹn ngực Cha, đó là bệnh hen suyễn nặng phát tác mạnh mẽ làm cho cả đêm cha không thể thở và không ngủ được. Nó làm cho Cha cạn kiệt sinh lực và dần trỏ nên không còn chịu nổi.

Đến ngày Chúa Nhật, trong buổi tĩnh tâm cuối cùng, sau phần ca khen Chúa mạnh mẽ và thánh thoát, trong lúc cha An còn đang nhắm mắt cầu nguyện kết hợp vói Chúa và bị suyễn chèn ép trong ngực thì Cha chủ sự theo thứ tự đến cuối phòng, ở dãy ghế áp sát tường, đặt tay cầu nguyện cho Ngài, tiếp đến trong thánh lễ, khi được mời, Cha An đã làm chứng cho Chúa như sau:

  • …Khi được Cha đặt tay cầu nguyện cho con, con hơi bất ngờ nhưng con cũng hợp một ý với Cha, con chìm đắm trong sụ hiện diện của Chúa, tức thì như có một sức nóng, rất nóng bỏng ở trong ngực con, rồi sự đè chèn trong ngực như bị lôi ra cùng với sức nóng. Khi Chúa thăm viêng thì tâm hồn con không còn lo lắng, bồn chồn nữa.Nay con đã thở được cách nhẹ nhỏm, bình thường, không còn bị ngộp thở giống như tình trạng xảy ra cả đêm qua và sớm hôm nay, con nghĩ là Chúa đã chữa cho con khỏi bệnh. Gánh nặng trĩu trong tâm hồn con nay ở trong bàn tay quan phòng và yêu thương của Chúa, tâm hồn con nhẹ nhõm, vui mừng và thanh thản.

Con cảm thấy hạnh phúc trong sự ca hát ngợi khen thờ phượng Chúa với tinh thần rất sốt sắng, vui tươi, và được Chúa ban ơn.

Quả thực, không có điều gì mà vua tình yêu, Chúa Giê su của chúng ta không thể làm được kể cả việc Ngài biến đổi và làm cho Cha An kính mến trở thành một khí cụ bình an của Chúa. Lời Chúa đã minh định rằng:

Vinh phúc thay người kính sợ Chúa và hằng đi trên đường quang minh minh Thiên Chúa…  (Thánh Vịnh 127, 1)

Nều bạn muốn nối dài tình yêu của Chúa trong việc giúp sức cho Cha An và trung tâm hướng thiện Thiên An, ở Việt Nam xin mời bạn viếng thăm nhà tĩnh tâm, tọa lại ngay bên cạnh trung tâm hành hương thánh địa Đức Mẹ La Vang,

Trang ghi lại sinh hoạt của trung tâm Hướng Thiện Thiên An:

https://www.facebook.com/nhatinhtamhuongthien

ĐT : 0973166860- Email : trananhue@gmail.com

Sau đây là câu chuyện về anh thanh niên tên Hiếu khoảng hai mươi bảy, hai mươi tám tuổi, người đã tham dự kỳ tĩnh tâm tổ chức tại hội trường nhà xứ thánh Christopher, Houston. Anh Hiếu đeo kính trắng, dáng người trầm lắng, điềm đạm, Anh vốn là một con cái Chúa thuộc hội thánh Tin Lành, trong lúc tìm hiểu Kinh Thánh, anh có cơ may tham dự tĩnh tâm và sinh hoạt với nhóm Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo, được Chúa Thánh Linh đổi mới, từ chỗ nghi ngờ đến tin tưởng, từ chỗ ưu tư đến an bình nay anh gia nhập và thuộc về Hội Thánh Công Giáo.

Anh kể:

  • Con đi dự tĩnh tâm với ý định xin Chúa cho con biết mình phải làm gì theo ý định của Chúa dành riêng cho cuộc đời mình. Và khi đến đây thì ngay lập tức con đã được cảm thấy có sự hiện diện của Chúa Thánh Linh cách mạnh mẽ, tuy nhiên có một điều là ngay từ hôm thứ Sáu, trong buổi chiều đầy tiên của kỳ tĩnh tâm, khi Cha hướng dẫn đi đến, đặt tay cho, thâm chí trong những lần sau đó, từ xa khi Cha mới vừa giơ tay thì con đã được ơn nghỉ an trong Chúa, con cứ té ngả ra đất đã mấy lần rồi, không muốn cảm xúc thái quá đó. Con xin với Chúa cho con đừng té nữa. Hễ Cha đi về hướng con thì con tìm cách né qua chỗ khác. Cho đến sáng nay thì con hết đường chạy trốn vì Cha đi đến từng hàng ghế, con hết đường chạy trốn Chúa, con để cho Chúa thăm viếng con và chìm trong sự hiện diện của Chúa, điều tuyệt vời, điều kỳ diệu mà Chúa đã làm cho con lúc đó là Ngài cài cấy một tình yêu Chúa và tình yêu anh em dịu dàng trong lòng con. Trước đây thì con đi tìm Chân lý và đi theo Chúa vì đó là điều đúng và tốt cho con. Còn nay thì có thêm một lý do nữa con đi theo Chúa vì Ngài là người yêu của con. Từ đáy lòng con, rất biết ơn đấng đã yêu con đến độ Ngài chết đau đớn, trên thập giá, đền thay tội lỗi cho con, rồi Con cảm thấy Chúa đáng cho con yêu kính, con biết yêu Chúa không phải là chỉ bằng lý trí như trước đây nhưng còn bằng con tim, thậm chí say sưa Chúa như là người yêu. Con quyết định sẽ dâng cuộc đời con cho Ngài, đáp lại tiếng gọi của Ngài.

Ôi chao! Anh thanh niên tên Hiếu thật là một con cá lớn trong mẻ chài của Chúa Thánh Linh. Chúa ơi, chúng con xin cảm tạ Ngài về quà tặng này. Ngài ban cho nhiều quá, ơn thánh nối tiếp ơn lành. Lòng thương xót Chúa nối tiếp xót thương.

Thật là tuyệt vời được làm con Chúa !

Thật là tuyệt vời được yêu mến Chúa !

Happy

BIẾT ƠN

BIẾT ƠN

Truyện kể: Ngày kia Chúa mở đại hội “Trăm Hoa Đua Nở”. Qui tụ đại biểu của mọi loài hoa trên trái đất. Rừng hoa tươi thắm muôn mầu khoe sắc trước nhan Thiên Chúa. Các đại biểu hoa gặp nhau tay bắt mặt mừng, dâng lời chúc tụng ngợi khen danh Chúa và chào thăm nhau. Duy chỉ có hai loài hoa không thèm giáp mặt, đó là Hoa Thi Ơn và Hoa Nhớ Ơn. Quả thực ở đời nhiều người thi ơn, nhưng lại ít kẻ nhớ ơn.

Tạ ơn Thiên Chúa. Cha ông dậy rằng:  Ăn qủa nhớ kẻ trồng cây. Biết ơn là một nhân đức. Đời của chúng ta là cả một chuỗi những ngày chịu ơn. Từ những ơn căn bản của sự sống tới những ơn được bao dung nâng đỡ. Càng biết ơn, chúng ta càng sống làm người hơn. Nhiều người làm ơn cho tha nhân nhưng không mong phải đền đáp ân tình. Tuy nhiên những người nhận ơn và mang ơn cần có thái độ biết ơn. Chúa Giêsu dùng thí dụ để dạy chúng ta về lòng biết ơn. Chúa đã chữa lành cho 10 người phong cùi, nhưng chỉ có một người ngoại giáo trở lại tạ ơn Chúa.  Thánh Luca viết: Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samaria (Lc.17:15-16). Lòng biết ơn của người ngoại giáo là bài học cho mỗi người chúng ta. Chúng ta có thường xuyên dâng lời cảm tạ Chúa vì muôn ơn lành Ngài ban? Chúa không đòi chúng ta phải trở lại tạ ơn nhưng Chúa vẫn mong chờ. Đức Giêsu mới nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu?(Lc 17:17).Chúa đang hỏi chúng ta đó.

Tri ân Giáo Hội. Giáo hội đã lãnh nhận kho tàng mặc khải để tuyền đạt lại cho mọi thế hệ. Sự mặc khải giúp chúng ta học biết về Thiên Chúa. Chúng ta có tín ngưỡng là tâm hồn của chúng ta đã đang được mở ra với một vũ trụ hữu thần. Chúng ta có niềm tin vào Thiên Chúa hiện hữu, Đấng là đầu và là cùng đích của mọi loài thọ tạo. Niềm tin này thay đổi hoàn toàn ý nghĩa của cuộc sống con người. Trong Giáo Hội, chúng ta được tháp nhập vào nhiệm thể của Chúa Kitô và thông phần ân sủng siêu nhiên. Qua Giáo Hội, chúng ta được sinh ra lại làm con Chúa. Được lãnh nhận các Bí Tích như những ân lộc nuôi dưỡng tâm hồn. Là những người Kitô hữu, chúng ta rất hạnh phúc, vì được nâng lên địa vị làm con Chúa và được hứa ban thưởng phần phúc thiên đàng. Chúng ta được học biết về Chúa, về Giáo Hội, về con người và về mọi loài thụ tạo. Giáo hội khai mở cho chúng ta bước vào một thế giới sống động và trật tự được quan phòng. Mọi vật đã có quả phải có nhân, gọi là nguyên lý nhân quả. Nhìn vũ trụ bao la nhưng vẫn bị giới hạn trong không gian và thời gian, chúng ta biết có Đấng Hằng Hữu. Biết Ngài để yêu mến và cảm tạ ân huệ mà Ngài đã đặt để trong tâm hồn mỗi người.

Biết ơn xã hội. Chúng ta sinh ra có quê cha đất tổ, có nơi chôn nhau cắt rốn và có truyền thống văn hóa. Chúng ta được nhào nắn nên người trong hoàn cảnh xã hội với biết bao điều tốt lành. Chúng ta được hưởng phúc lợi của xã hội về mọi mặt trong đó có tín ngưỡng, văn hóa, an ninh, công ăn việc làm, có đất dụng võ, có trường để học và có nơi để tiến thân. Tiền nhân đã phải phấn đấu để dựng nước, xây nhà dành độc lập cho quê hương xứ sở. Bao anh hùng đã ngã ngục dưới làn bom, súng đạn để dành giữ mảnh đất thân yêu. Bao hy sinh của những bàn tay lao động phát quang từ những đồi núi hay cánh đồng hoang sơ xình lầy trở thành những mảnh đất mầu mỡ và phì nhiêu. Các vị đã khai sông, mở đường và xây dựng những thành phố xinh đẹp và tiện nghi. Khi ra đời là chúng ta đã có sẵn tất cả, nhưng chẳng mấy khi chúng ta nghĩ đến những công khó của các bậc tiền nhân để biết ơn.

Đền ơn cha mẹ. Ơn sinh thành dưỡng dục. Công cha nghĩa mẹ như trời biển. Con cái phải biết thảo hiếu và tôn kính ông bà cha mẹ. Qua cha mẹ, chúng ta được hiện hữu vào đời. Con vật sinh ra chỉ cần ngọ ngoạy một chút là có thể đứng lên đi theo mẹ kiếm mồi. Còn con người bé nhỏ cần sự chăm dẵm của mẹ cha và những người khác. Từng ly từng tí, từng giây từng phút mới phát triển và lớn lên. Học nằm, học ngồi, học lẫy, học bò, học đi học đứng, học ăn học nói và cái gì cũng phải học. Đây là những tháng ngày đẹp nhất của cuộc đời bên lòng mẹ. Rồi cho dù con có biết đi biết chạy, cha mẹ vẫn phải để mắt dõi trông. Cha mẹ mong con khôn lớn từng ngày, từng đêm. Đếm từng năm tháng khi con bước đến trường, mong ngày con ra trường. Có công ăn việc làm ổn định. Cha mẹ chờ mong ngày con thành lập gia thất, sinh con đẻ cái. Chưa hết, cha mẹ vẫn còn muốn ấp ủ con như gà mẹ ủ ấp con dưới cánh. Tình cha mẹ là thế đó! Cha mẹ không đòi con phải trả nghĩa ân tình nhưng cha mẹ mong con giữ giây liên kết gia đình tình mẹ tình cha.

Biết ơn các ân sư. Thầy cô khai mở tri thức. Thầy cô dạy chúng ta biết đọc biết viết. Câu ca dao thường nói: Không thầy đố mày làm nên. Trường học dạy chúng ta hỉểu biết khoa học, văn học, toán học, đạo đức học và càng học tâm trí chúng ta càng mở mang hiểu biết thế giới bên ngoài. Công trình nghiên cứu và hiểu biết của biết bao nhiêu các bậc cha ông hay đàn anh đi trước ghi nhận và lưu truyền lại. Họ đã truyền thụ lại cho chúng ta kho tàng cả mấy ngàn năm khám phá, phát minh và suy tư. Tất cả những kiến thức đã được gom nhặt từ các nền văn hóa trên thế giới. Đã có những vị tiền bối dành cả đời nghiên cứu, viết lách, tìm tòi để làm thành những cuốn tự điển dịch nghĩa giúp chúng ta học hiểu được những ngôn ngữ văn minh. Và qua sự giao lưu, chúng ta đã có một kho tàng văn hóa riêng cho chính xứ sở mình. Chúng ta đừng bao giờ quên ân tình cha ông để lại qua nền văn hóa.

Báo ân bạn đồng hành. Trên thế giới có trên dưới tám tỷ người. Chúng ta đã gặp gỡ và quen biết được bao nhiêu người. Con số rất giới hạn vì mỗi người chúng ta chỉ sống trong khoảng một thời gian và một không gian nào đó. Xã hội thay đổi, người sinh, kẻ tử cứ tiếp nối nhau mà sống. Ai trong chúng ta cũng đã cùng đồng hành với nhiều người khác trên các chuyến tàu, chuyến xe, chuyến máy bay hay cùng tham dự những buổi đại hội, hành hương hay các cuộc họp mặt chung. Chúng ta đã tìm thấy niềm vui, sự ủi an và nâng đỡ nhau khi an bình cũng như khi gặp khó khăn. Chúng ta không biết nhiều về người khác nhưng chung ta cùng chung một kiếp người, chung một hướng đi, chung một niềm tin hay cùng chung một mục đích. Chúng ta luôn có lý do để biết ơn và cầu nguyện cho nhau.

Cám ơn anh chị em. Anh chị em như thể tay chân nên đùm bọc thương yêu và giúp đỡ nhau. Chị ngã em nâng. Những gia đình càng đông con càng hạnh phúc. Anh chị em trong gia đình cùng chia sẻ vui buồn sướng khổ. Vì khi gặp gian nan, đau khổ, có người bên cạnh chia xẻ và nâng đỡi ủi an. Khi có dịp vui mừng, anh chị em đoàn tụ liên hoan. Tục ngữ dạy rằng: Một giọt máu đào hơn ao nước lã. Đây là một sự nâng đỡ vô hình nhiều khi chúng ta không nhận ra hồng ân đó. Anh chị em một nhà đã được cưu mang cùng chung một cung dạ, cùng chung nôi, hưởng một nguồn sữa mẹ, cùng được ẵm bế và dưỡng nuôi trong một mái ấm gia đình. Anh chị em cùng học chữ yêu thương ba ba, má má. Cùng được ấp ủ trong vòng tay hiền mẫu. Anh chị em được lớn lên và trưởng thành bên nhau. Anh chị em đã học được những kinh nghiệm đầu tiên của cuộc sống qua những nhu cầu chén nước, bát cơm, ganh tị nhau từng cái kẹo và miếng bánh. Thân thương lắm! Chúng ta phải biết ơn lẫn nhau.

Tri ân bạn bè. Sống trên đời, ai cũng có những người bạn. Bạn học chung trường, chung lớp, bạn chúng lý tưởng và chung hướng. Có những người bạn cùng làm việc, cùng cộng tác, cùng tranh đấu và cùng sống chết với nhau. Bạn bè bổ túc cho nhau: Học thầy không tày học bạn. Chúng ta học hỏi rất nhiều nơi các người bạn. Có những người bạn chỉ quen trong một thời gian ngắn nhưng nên tình nên nghĩa. Bạn chân thành giúp nhau vươn lên trong cuộc sống. Cha mẹ thầy cô thường dạy hãy chọn bạn mà chơi. Đúng vậy: Gần mực thì đen, gần đèn thị rạng. Ra trường đời, chúng ta gặp không biết bao nhiêu người nhưng không phải ai cũng có thể trở thành bạn. Những người bạn chân tình là những người bạn không lạm dụng nhau để mưu lợi cho mình. Thành công ở đời do bạn hữu thật nhiều. Ngày nay sự liên kết bạn bè còn rộng rãi hơn qua các hệ thống kỹ thuật tân tiến.

Cám ơn mọi người chung quanh. Chúng ta được hiện hữu giữa thế giới là một ơn trọng đại. Chúng ta còn được mọi người chung quanh bao bọc chở che. Được mọi người nâng đỡ dìu dắt và dạy bảo chúng ta nên người. Chúng ta phải học cách làm người sao cho xứng danh nghĩa là dũng nhân. Một con người biết rung cảm với sự bén nhạy của trái tim. Biết nhường, biết kính, biết cảm và biết ơn. Sự biết ơn là một chiếc cầu nối thông thương giữa người với người. Làm người nên biết ân nghĩa chí tình với mọi người, đặc biệt các ân nhân và thân nhân. Có qua có lại mới toại lòng nhau. Sống ở đời cũng cần có: Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại. Chúng ta nên ân nghĩa báo đền cho xứng hợp danh phận con người.

Khi nào không còn nhận ơn, khi đó chúng ta không phải trả ơn và biết ơn. Cuộc đời chúng ta được ôm ấp trong tình yêu thương của Thiên Chúa và của mọi người. Hai chữ “cám ơn” sẽ được ghi lòng tạc dạ. Biết dâng lời tạ ơn Chúa và cám ơn con người, chúng ta sẽ sống xứng đáng với danh hiệu là con Thiên Chúa và dòng dõi của cha ông tổ tiên. Đến muôn đời con cảm tạ ơn Chúa, bây giờ và mãi mãi. Thánh vịnh 118 đã diễn tả: Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương (Tv 118:1). Chúng con xin tạ ơn Chúa muôn ngàn đời.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Bronx, New York

Thứ Sáu 13 Đẫm Máu

Thứ Sáu 13 Đẫm Máu

...cuộc tấn công của khủng bố tại Paris đã gần như xoá bàn cờ chính trị thế giới…

Quả vậy, Thứ Sáu 13 vừa rồi đã mang lại cho cả thế giới những hình ảnh cuộc tấn công của khủng bố đẫm máu nhất kể từ ngày 11 tháng 9 năm 2001. Tối hôm đó, bắt đầu từ 9 giờ 30, quân khủng bố đồng loạt tấn công bẩy địa điểm ngay trong trung tâm thủ đô Paris. Từ vài quán càphê nhỏ cho tới rạp hát lớn và sân vận động.

Việc kiểm kê chưa hoàn tất, nhưng ít nhất đã có 129 nạn nhân bị chết, gần 300 bị thương trong đó gần 80 người rất nặng, một số sẽ không qua khỏi; và 8 tên khủng bố bị chết trong đó có hai tên chết theo áo bom mang trên người. Chưa rõ bao nhiêu tên tẩu thoát và bao nhiêu tên tham gia vào cuộc “hành quân” quy mô này, trực tiếp hay gián tiếp.

TT Pháp ban hành tình trạng khẩn trương trên cả nước, đóng cửa biên giới hy vọng những tên khủng bố sẽ không có dịp tẩu thoát ra ngoài nước. Chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi bị tấn công, TT Pháp đã công khai tố cáo tổ chức ISIS là thủ phạm, và cũng ngay sau đó, ISIS chính thức lên tiếng xác nhận đã chủ động cuộc tấn công này để trả thù cho việc Pháp tham gia oanh kích quân ISIS tại Iraq. Một thông hành Syria đã được tìm thấy gần nơi bom nổ tại sân vận động. TT Hollande tuyên bố đây là “chiến tranh” và hứa sẽ trừng phạt mạnh mẽ, tàn khốc nhất, không nương tay.

Cuộc tấn công kinh hoàng của ISIS chấn động cả thế giới, không thua gì vụ 9/11 của Mỹ. Dĩ nhiên đánh dấu một bước ngoặc quan trọng trong cuộc chiến chống khủng bố. Tất nhiên sẽ có cả ngàn câu hỏi được nêu ra, hàng loạt điều tra sẽ được mở ra để tìm hiểu và trả lời những câu hỏi đó.

Ngay bây giờ, ta đã phải hỏi ngay làm sao ISIS có thể đẻ ra và thực thi một kế hoạch lớn như vậy, thực hiện một cuộc tấn công quy mô, kết hợp chặt chẽ, đánh thẳng vào thủ đô Paris cách Iraq tới gần nửa trái đất, súng đạn đâu ra nhiều thế trong cái xứ mà súng ống đâu có được bán tự do như Mỹ đâu. Khủng bố trước đây đã đánh một toà báo và giết hết nhân viên tại đó ngay tại Paris, và đã liên tục hăm doạ sẽ tiếp tục cuộc chiến, vậy mà sao khủng bố vẫn đánh được một cách quy mô như đã hăm dọa. An ninh Pháp mắc say xỉn rượu vang hết rồi sao?

Quân khủng bố còn gan to đến độ dự tính giết cả tổng thống Pháp. Hai trái bom đã nổ bên ngoài sân vận động Stade de France trong khi tổng thống Pháp và ngoại trưởng Đức đang xem trận túc cầu giao hữu Pháp-Đức. An ninh quá gắt vì sự hiện diện của tổng thống nên quân khủng bố không vào lọt, đành cho bom nổ bên ngoài. Trong khi an ninh di tản tổng thống, dân Pháp bình tĩnh ngồi coi hết trận đấu, ra về trong trật tự, vừa đi vừa hát quốc ca, phất cờ Pháp.

Tất cả những câu hỏi trên dần dà rồi sẽ có câu trả lời, tuy không trọn vẹn. Nhưng quan trọng hơn những chi tiết đó là những câu hỏi liên quan đến chính sách và kế hoạch chống khủng bố của Pháp nói riêng và của cả thế giới, nhất là của Mỹ, nói chung.

Khủng bố al Qaeda có thể đã chết hay thoi thóp từ lâu rồi. Nhưng những đứa con đẻ, con rơi của al Qaeda đã mọc lên như nấm rơm trên khắp thế giới, nhất là trong các xứ Trung Đông. Mạnh nhất dĩ nhiên là lực lượng ISIS, sanh tại Syria và lớn lên tại Iraq.

Pháp là một trong những đồng minh cột trụ của Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố ngay từ đầu. Nhưng sự tham gia của Pháp thuộc loại ền ển xìu xìu. TT Bush tuyên chiến với khủng bố từ 2001, Pháp bây giờ mới làm. Pháp tham gia gửi quân qua đánh Taliban nhưng không tích cực lắm, rồi công khai chống việc đánh Iraq, nhẩy qua phe Nga và Trung Cộng, chống Mỹ và Anh tại Liên Hiệp Quốc. Trong nước, chính phủ cũng đắn đo cân nhắc từng lời nói hay hành động đụng chạm đến khối Ả Rập và Hồi giáo. Sự cẩn trọng này bị áp đặt bởi sự hiện diện của một khối dân Hồi giáo và Ả Rập rất lớn tại Pháp, phần lớn là dân gốc Bắc Phi. Có thể nói là khối này chiếm tới 20% dân Pháp. Đây là kết quả của chính sách cư trú rộng rãi với dân thuộc địa cũ, cũng như phù hợp với chính sách di dân mở rộng mà khối cấp tiến chủ trương. TT Hollande thuộc đảng Xã Hội.

Trong vấn đề này, Pháp cũng không khác gì phần lớn các quốc gia Tây Âu, như Bỉ, Hoà Lan, Đức, Đan Mạch. Cũng tham gia ển ển xìu xìu vào cuộc chiến chống khủng bố trong khi phải trực diện với một khối dân Ả Rập và Hồi giáo rất lớn trong nước.

Cái chính sách chung này đưa đến tình trạng Mỹ một mình gồng gánh cuộc chiến chống khủng bố trong khi Tây Âu hoặc là tham gia cho có, hoặc là ngó lơ, an phận thủ thường, tránh xa vùng lửa đạn, hy vọng khủng bố chỉ ghét Mỹ chứ không ghét Tây Âu là những xứ mở rộng cửa đón dân Hồi giáo.

Sau vụ 9/11, chỉ có Anh Quốc là nước tích cực, sát cánh với Mỹ nhất. Tây Ban Nha lúc đầu cũng sát cánh, nhưng bị đánh bom, chết cả trăm người, run rẩy nhẩy ra khỏi vòng chiến, rút hết quân về, vuốt ve tối đa khối Hồi giáo trong nước, và tương đối được yên thân sau đó.

Nói tóm lại, cuộc chiến chống khủng bố là cuộc chiến do Mỹ chủ động, hay đúng hơn, do tổng thống Mỹ chủ động. TT Mỹ đánh mạnh, thế giới đánh mạnh theo, TT Mỹ vuốt ve, cả thế giới cũng lo vuốt theo. Muốn nhận định về cuộc chiến chống khủng bố chỉ cần nhìn vào sách lược của tổng thống Mỹ.

Sau vụ 9/11, TT Bush tuyên bố cuộc chiến chống khủng bố là “chiến tranh” –war-. Toàn thể quân lực Mỹ được huy động và quân khủng bố bị coi như tù nhân chiến tranh, khi bị bắt, không xử án gì hết mà bị giữ cho đến ngày chiến tranh chấm dứt. Một bước nhẩy vọt so với TT Clinton khi ông này coi khủng bố chỉ là vấn đề an ninh trật tự – law and order-, do cảnh sát lo, các tên khủng bố bị bắt là những tội phạm thường dân, bị mang ra toà, có đầy đủ luật sư biện hộ, bị nhốt một thời gian nhất định rồi được trả tự do lại.

Dù không công tâm, thích Clinton cách mấy và ghét Bush cách mấy, cũng phải nhìn thấy rõ kết quả của hai sách lược: sách lược Clinton đưa đến 9/11, sách lược Bush đưa đến hai cuộc chiến Afghanistan và Iraq, nhưng an toàn trên đất Mỹ.

TT Obama sau khi nhậm chức, đã trở về sách lược của TT Clinton, tìm mọi cách đóng cửa nhà tù Guantanamo, đưa các tên khủng bố ra tòa dân sự Mỹ để gọi là tôn trọng nhân quyền của chúng. Ngay sau khi nghe tin về Paris, TT Obama long trọng kêu gọi phải “mang thủ phạm ra trước công lý”. Vẫn chỉ là chuyện an ninh trật tự công cộng, như thể mấy tên khủng bố tại Paris ăn cướp nhà hàng, không phải chiến tranh.

Ngoài nước, TT Obama cố chấm dứt hai cuộc chiến tại Afghanistan và Iraq, rút hết quân về càng sớm càng tốt, bất kể hậu quả. Ngày trước TT Bush nói rõ nếu rút nhanh quá, sẽ có ngày phải trở lại. Nhưng đó là nhận định của anh cao bồi. Ông Nobel tự tin rút nhanh không sao vì có đi kèm với chính sách xin lỗi, vuốt ve Hồi giáo và Ả Rập. Rút cứ rút, bất kể mọi biến chuyển của tình hình chiến trường.

Năm 2011, TT Obama ra lệnh đột kích giết Bin Laden. Cuộc đột kích thành công, thiên hạ điếc con ráy nghe TT Obama đấm ngực khoe công. Không ai nghe đến việc TT Bush là người đã thành lập toán đặc nhiệm SEAL để đi lùng Bin Laden trong suốt cả chục năm. Cũng ít người nghe đến chiến công của các quân nhân toán đặc nhiệm. Chỉ nghe đến quyết định của vị tổng thống anh minh, can đảm, quyết tâm,…

Được hỏi sao không nhắc đến công của TT Bush thì những đệ tử của TT Obama mau mắn khẳng định “chuyện xẩy ra dưới tổng thống nào thì tổng thống đó trách nhiệm, công cũng như tội”. Nghe thì có vẻ đúng, nhưng thật ra chỉ đúng một nửa. Câu nói này chỉ áp dụng khi nào TT Obama thành công chuyện gì thôi –như vụ Bin Laden-, còn khi thất bại, thì vẫn là lỗi của Bush, hay lỗi tại tsunami, động đất bên Tàu,… như nạn thất nghiệp kéo dài cả năm sáu năm, kinh tế trì trệ đến bây giờ, bẩy năm sau, vẫn chưa tăng lãi suất qua khỏi mức Zero được. Bẩy năm dưới Obama nhưng vẫn lỗi Bush.

Đưa đến vấn đề ISIS. Đây là tổ chức khủng bố sanh non chết yểu dưới thời TT Bush. Khi TT Obama nhậm chức thì chẳng ai còn nghe nói đến tổ chức khủng bố này hết, vì lực lượng khi đó chỉ lèo tèo dăm ba chục anh. Lãnh tụ al Baghdadi còn đang ngồi tù. Năm 2009, dưới chính sách vuốt ve Hồi giáo cũng như trong tinh thần tôn trọng nhân quyền của khủng bố, TT Obama trả tự do cho al Baghdadi. Chẳng bao lâu sau, năm 2011, al Baghdadi được tôn làm lãnh tụ ISIS (Islamic State of Iraq and Syria), khi đó hoạt động dưới tên IS – Islamic State.

Sự hồi sinh và lớn mạnh của ISIS xẩy ra khoảng từ năm 2009, là năm al Baghdadi được TT Obama trả tự do, lớn mạnh trong suốt gần hai nhiệm kỳ của ông khi quân Mỹ ào ào lên tàu bay về nước. Như vậy là xẩy ra dưới thời TT Obama. Như vậy TT Obama có chịu trách nhiệm không? Đừng hỏi TT Obama và mấy vị đệ tử của ông ta: đó vẫn là lỗi Bush đã đánh Iraq năm 2003.

Thật ra, sự lớn mạnh của khủng bố ISIS là hậu quả trực tiếp của chính sách chống khủng bố kiểu đà điểu vùi đầu dưới cát. Chối bỏ sự thật, hay không dám nhìn thẳng vào sự thật. ISIS là tổ chức như vậy mà TT Obama gọi là đội bóng rổ trung học -junior varsity team? Đánh ISIS bằng vài cái máy bay không người lái, tuần này giết một “lãnh tụ” –tên nào bị giết cũng được Nhà Nước Obama tuyên phong là “lãnh tụ”-, tháng sau giết một tên khác.

Hay là ISIS năm 2012 là đội bóng rổ trung học thật, nhưng đã lớn như thổi dưới chính sách của TT Obama. Như vậy có phải tội của TT Obama không hay vẫn là tội của Bush?

Không cần biết lỗi phải của ai, nguyên nhân từ đâu, chính sách nhắm mắt không nhìn nhận sự lớn mạnh của ISIS, cứ tiếp tục rút quân về để “lính Mỹ khỏi chết” đã chứng minh là một thất bại vĩ đại vì quá thiển cận, nhìn không xa hơn đầu mũi. Tây Âu theo gương Mỹ, nhắm mắt không muốn nhìn thấy ISIS. Mặc cho ISIS tung hoành.

Lính Mỹ và Tây Âu bớt chết thật, nhưng cả triệu dân Trung Đông đang ào ạt chạy qua Âu Châu gây nên khủng hoảng xã hội chưa từng thấy, bây giờ ISIS vươn cánh tay qua tới Pháp luôn, khiến dân chết. Lính Mỹ không chết, nhưng đã có ít nhất 4 thường dân Mỹ chết tại Paris. Tránh cho lính khỏi chết để dân chết thế, đó có phải là sách lược trị quốc đúng không? Trong tương lai, tiếp tục chính sách ển ển xìu xìu này, có thể ISIS sẽ đánh qua tới Bỉ, Hoà Lan, và Anh luôn. Biết đâu chừng sẽ tới Nữu Ước?

Cuộc chiến chống khủng bố, qua những biến cố tại Paris, đã trở lại trang nhất của tất cả mặt báo trên thế giới. Cái điều miả mai trớ trêu nhất là tình cờ, đúng một ngày sau khi TT Obama lên TV ở Mỹ vỗ ngực khoe công sách lược của ông đã kềm hãm –contain- được ISIS thì ISIS bắn loạn đả tại Paris. Chưa hết. Ngoại Trưởng Kerry hùng hổ tuyên bố “ngày tàn của ISIS đang điểm, chúng sẽ bị hủy diệt”. Đúng 12 tiếng đồng hồ sau, cuộc tấn công Paris bắt đầu. Một là chính quyền Obama vẫn tiếp tục bốc phét, hai là vẫn tiếp tục vùi đầu dưới cát. Ba là cả hai vế trên đều đúng.

Nạn nhân của cuộc tấn công chẳng phải chỉ là những công dân Paris, mà còn có luôn cả TT Obama khi thiên hạ thấy sách lược chùm mền chống khủng bố của ông đã là một thất bại thật lớn. Ngay cả đài phe ta CNN cũng phải nhìn nhận cuộc tấn công tại Paris là một đòn đánh vào TT Obama –“blow to Obama”.

Ngay sau khi tin tức cuộc tấn công tại Paris còn đang nóng bỏng, một số dân biểu và nghị sĩ, thuộc cả CH lẫn DC, đã lên tiếng đòi hỏi TT Obama phải mạnh tay hơn trong cuộc chiến chống khủng bố. TT Obama sẽ bị áp lực rất nặng phải làm một cái gì chứ không thể tiếp tục chùm mền, đánh khủng bố bằng cách bắn tẻ.

Cho đến nay, chưa ai biết TT Hollande sẽ làm gì. Đã có tiếng nói kêu gọi Pháp mang 100.000 quân qua đánh ISIS tại Iraq và Syria, cùng với sự tham chiến của quân Âu Châu và… Mỹ nữa. Nếu thật sự TT Hollande gửi quân đi đánh Iraq mà TT Obama ngồi nhìn thì thế giới sẽ có dịp nhận định, so sánh với phản ứng của đồng minh những năm 2001 khi Mỹ đánh Taliban sau vụ 9/11.

Pháp cũng là thành viên của Hiệp Ước Phòng Thủ Bắc Đại Tây Dương – NATO-, bây giờ Pháp bị đánh, NATO trong đó có Mỹ, phải làm gì? Sẽ làm gì?

Nếu TT Obama tiếp tục tự trói tay mình trong mấy cái máy bay không người lái trong khi vẫn khẳng định ISIS là đội bóng rổ trung học, thì quả là nước Mỹ đã đào ngũ, từ bỏ vai trò lãnh đạo thế giới để về làm bạn với mấy nước… Congo, không có trách nhiệm gì với thế giới nên chẳng cần phải động tĩnh gì khác. Lãnh đạo thế giới quả là trách nhiệm quá lớn đối với một anh tổ chức cộng đồng của một khu phố Chicago.

Cuộc tấn công tại Paris có thể cũng sẽ ảnh hưởng thay đổi cuộc diện cuộc chạy đua tranh cử tổng thống Mỹ. Nhìn vào tình trạng rối răm lớn của thế giới, nhiều người sẽ suy nghĩ lại xem những tay mơ chẳng chút kinh nghiệm chính trị hay quân sự nào có còn là những ứng viên lý tưởng hấp dẫn nữa hay không. Những ông doanh gia hay bác sĩ có đủ sức chống trả quân khủng bố hay không? Hay những ông cấp tiến cực đoan chủ hoà tuyệt đối có thể còn được tin tưởng là có khả năng bảo vệ nước Mỹ không?

Đài CBS đã vội vã thay đổi đề tài cuộc tranh luận của các ứng viên Dân Chủ tối thứ bẩy để thêm đề tài khủng bố vào. Bà Hillary bị đẩy vào thế bất lợi khi ai cũng thấy ISIS đã lớn mạnh trong lúc bà làm Ngoại Trưởng. Nhưng cả hai ông Sanders và OMalley đều “đánh” rất nhẹ tay, vì quan điểm cấp tiến chủ hoà tối đa, cũng như vì thua xa bà Hillary về kinh nghiệm chính trị quốc tế và an ninh quốc gia. Với kinh nghiệm chính trị của bà, hai ông Sanders và OMalley có triển vọng sẽ bị loại rất sớm.

Nhưng bảo đảm mai này, ứng viên của đảng Cộng Hoà sẽ không nương tay. Bà sẽ phải bị dồn vào thế phải… đổ thừa cho TT Obama. Phải phàn nàn là bà chủ trương mạnh tay hơn tại Trung Đông nhưng bị TT Obama phủ quyết. Đó là cách duy nhất bà chạy tội.

Có một điều lý thú. Khi được hỏi về việc bà biểu quyết cho TT Bush đánh Iraq, bà nhìn nhận đó là một sai lầm, nhưng bà cũng nói thêm, việc đánh Iraq không phải là lý do giải thích sự lớn mạnh của khủng bố. TT Bush chắc thấy mát tai. Phe cấp tiến cho đến nay vẫn nằng nặc đổ lỗi TT Bush đã gây bất ổn tại Trung Đông, gián tiếp khai sinh ra ISIS khi đánh Iraq.

Tình hình biến chuyển có phần lợi cho phe Cộng Hoà nói chung vì sẽ có dịp mang vấn đề an ninh quốc gia trở lại ưu tư hàng đầu của nước Mỹ, mà trong vấn đề này, ai cũng biết đảng Cộng Hoà mới là đảng mạnh. Sách lược vuốt ve, và rút về an phận thủ thường của TT Obama sẽ bị mổ xẻ và tấn công mạnh. Đặc biệt cũng sẽ có lợi cho các ứng viên nhiều kinh nghiệm chính trị như các ông thống đốc và cựu thống đốc, hay nghị sĩ. Trong khi các ông Trump và Carson, bà Fiorina sẽ mất giá.

Trong cái rủi có cái may, bây giờ ta sẽ có dịp nghe các ứng viên nói về cách họ sẽ bảo vệ ta chống khủng bố như thế nào, một vấn đề quan trọng hơn xa chuyện quá khứ thời thơ ấu của BS Carson là đề tài truyền thông phe ta đang tìm rác. Những tiếng nói cấp tiến cực đoan muốn thu hồi luật Patriot Act sẽ bớt ồn ào một thời gian.

Tóm lại, cuộc tấn công của khủng bố tại Paris đã gần như xoá bàn cờ chính trị thế giới, ép tất cả mọi người phải trực diện mối đe dọa lớn của khủng bố, không ai còn có thể vùi đầu dưới cát nữa.

Tất cả các chính phủ Tây Âu và Mỹ sẽ phải duyệt xét lại mọi sách lược. Tất cả các cử tri Tây Âu và Mỹ cũng sẽ phải xét lại quan điểm của mình. Cuộc bầu cử tổng thống tại Mỹ sẽ có chuyển động lớn. Trong tương lai, Tây Âu sẽ có thể ngả mạnh về phiá hữu, với các đảng bảo thủ mang tinh thần quốc gia cực đoan nặng sẽ có tiếng nói lớn. Mặt Trận Quốc Gia – Front National của bố con ông Le Pen sẽ có dịp quậy mạnh tại Pháp. Khối di dân từ Trung Đông sẽ lãnh hậu quả bất lợi nhất trong khi khối di dân lậu ở Mỹ cũng sẽ gặp chống đối mạnh hơn. (15-11-15)

Vũ Linh

Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: Vulinh11@gmail.com. Bài của tác giả được đăng trên Việt Báo mỗi thứ Ba.