Peter F Drucker : Một con người chính trực

Peter F Drucker : Một con người chính trực

(1909 – 2005)

 Bài của : Đoàn Thanh Liêm

Peter Ferdinand Drucker sinh năm 1909, tại thành phố Vienna, thủ

đô nước Áo. Ông mới qua đời tại thành phố Claremont, thuộc miền

Nam California vào năm 2005, ở tuổi thọ 96. Trong suốt trên 60

năm ông chuyên dậy học tại nhiều trường đại học ở Mỹ, viết rất

nhiều sách chuyên về vấn đề quản lý, và đồng thời còn làm cố vấn

cho rất nhiều đại công ty kinh doanh tư nhân, cho các cơ quan

chánh phủ tại ba quốc gia Mỹ, Nhật và Canada, và đặc biệt ông đã

tận tình hỗ trợ cho các tổ chức thiện nguyện bất vụ lợi.

Có thể nói Peter Drucker là một mẫu người ngoại hạng, với sự

nghiệp chuyên môn hết sức lớn lao, và nhất là một nhân cách sáng

ngời của sự ngay thẳng chính trực.

Bài viết này xin được giới thiệu chi tiết với quý bạn đọc người Việt

về con người sĩ phu trí thức rất mực cao quý này của thế kỷ XX.

 

A – Học tập ở Âu châu, thành danh ở Mỹ châu.

Sinh trưởng trong một gia đình trí thức tên tuổi, với người cha là

một vị luật sư và giáo sư đại học, Peter Drucker ngay từ buổi thiếu

thời đã được tiếp xúc với những vị thức giả có tên tuổi lớn tại Âu

châu, điển hình như Sigmund Freud là người đã khai sinh ra ngành

Phân tâm học (Psychanalysis).

Sau khi tốt nghiệp trung học tại quê nhà vào năm 1927, thì Peter

qua học về luật tại đại học Frankfurt bên nước Đức. Tại đây, ông

đậu văn bằng tiến sĩ về luật quốc tế và công pháp. Ông chịu ảnh

hưởng của bậc đại sư, mà cũng là một người bạn của thân phụ ông,

đó là giáo sư Joseph Schumpeter về sự quan trọng của tinh thần

sáng tạo và tài năng tháo vát trong lãnh vực kinh doanh. Rồi sau

này khi rời bỏ nước Đức lúc Hitler lên cầm quyền vào năm 1933,

để qua sống tại Anh quốc, thì ông được thụ giáo với cả vị kinh tế

gia lừng danh thời trước chiến tranh là John Maynard Keynes

Ở tuổi đôi mươi ông đã hăng say tham gia viết báo, làm việc trong

ngành bảo hiểm, rồi ngành xuất nhập cảng và ngân hàng tại nước

Đức và nước Anh.

Vào năm 1937, với tư cách là đặc phái viên cho một nhóm báo chí

Anh quốc, ông qua Hoa Kỳ cùng với người vợ mới cưới là Doris

Schmitz. Vào tuổi ba mươi, với tài năng chín mùi, Peter Drucker

đã có nhiều cơ hội phát huy sở học và kinh nghiệm thâm hậu của

mình. Ông được mời giảng dậy tại nhiều trường đại học tại phía

miền đông nước Mỹ như trường New York University trong gần 30

năm. Đồng thời, ông vẫn tiếp tục cộng tác với các tờ báo nổi danh

về kinh tế tài chánh như Wall Street Journal, The Economist,

Harvard Business Review, và với cả các tờ báo có uy tín hàng đầu

như The Saturday Evening Post, The Atlantic Monthly v.v…

Kể từ năm 1945, ông được nhiều đại công ty như General Motors

mời làm cố vấn. Tính ra ông đã nhận làm cố vấn cho trên 50 công

ty tầm cỡ rất lớn như General Electric, Coca Cola, IBM, Citycorp,

Intel… Ông cũng được giới doanh nhân ở Nhật rất tín nhiệm và

mời ông vào chức vụ cố vấn cho các vị giám đốc của Toyota Motor

Corp., Ito-Yokado Group v.v… nữa. Đó là chưa kể đến việc làm cố

vấn miễn phí cho các tổ chức bất vụ lợi như Hội Nữ Hướng đạo

Mỹ, Salvation Army, Hội Hồng Thập Tự, tổ chức CARE v.v…

Sau đó vào thập niên 1970, thì ông qua California, tiếp tục việc

dậy học và làm cố vấn cho nhiều cơ sở kinh doanh tại phía bờ biển

miền tây nước Mỹ. Ông giữ chức vụ Giáo sư về Khoa học Xã hội

và Quản trị tại trường Cao học về Quản trị Claremont, mà sau này

được đổi tên là “Peter F. Drucker School of Management” để vinh

danh ông vào năm 1987. Lớp học cuối cùng ông dậy tại trường này

là vào năm 2002, lúc ông đã bước vào tuổi 92.

Về sự nghiệp biên soạn sáng tác, ông đã cho xuất bản 39 cuốn

sách, phần lớn bàn về vấn đề quản trị, mà điển hình là cuốn “The

Practice of Management” xuất bản năm 1954 và cuốn

“Management : Tasks, Responsabilities, Practices” xuất bản năm

  1. Riêng về lãnh vực các tổ chức bất vụ lợi, thì có cuốn viết

năm 1990 với nhan đề : “Managing the Non-Profit Organisation:

Principles and Practices”. Phần lớn các sách của ông đã được dịch

ra trên 30 ngôn ngữ khác nhau trên thế giới.

 

B – Các giai thọai về nhân vật xuất chúng Peter Drucker.

Ít có nhân vật nào mà lại xông xáo họat động năng nổ tích cực

trong cả ba khu vực cấu thành “không gian xã hội” như là Peter

Drucker (the social space bao gồm khu vực Nhà nước, khu vực Thị

trường kinh tế và khu vực Xã hội dân sự). Ông giúp cho các nhà

lãnh đạo cơ sở công quyền, cũng như giám đốc công ty xí nghiệp

tư nhân trong việc họach định được một chính sách tối ưu. Mà đặc

biệt ông còn hỗ trợ hết mình cho các tổ chức phi chánh phủ, bất vụ

lợi thực hiện được những thành tựu tốt đẹp cao nhất trong công

cuộc phục vụ nhân quần xã hội.

Những khám phá của ông trong lãnh vực quản lý xí nghiệp đã trở

thành một huyền thọai, được truyền tụng trong giới doanh nhân

cũng như trong giới hàn lâm đại học. Nhiều người đã gọi ông là

nhà tư tưởng táo bạo, một triết gia của xã hội kỹ nghệ đang ở vào

giai đọan phát triển cao độ. Lớp học do ông giảng dậy thu hút quá

đông sinh viên theo học, đến nỗi nhà trường phải sử dụng cả khu

tập thể dục mới có đủ chỗ rộng rãi cho thầy trò sinh họat, trao đổi

thảo luận với nhau cho thoải mái được

Một cựu sinh viên kể lại câu chuyện như sau : Dù lớp học đày ắp

sinh viên, mà giáo sư Drucker vẫn tìm cách nêu các câu hỏi gợi ra

sự tranh luận sôi nổi giữa cử tọa. Có lần ông hỏi cả lớp như thế này

đây : “ Các bạn cho tôi biết sự kiện nào nổi bật, gây ảnh hưởng

nhất trong thời gian 100 năm gần đây trong xã hội nước Mỹ? Các

sinh viên lần lượt kê ra, nào là sự phổ biến điện thọai, điện lực, hai

cuộc thế chiến, cuộc khủng hỏang kinh tế …Tất cả các câu trả lời

đều bị giáo sư lắc đầu, từ chối. Cuối cùng thì ông cho chúng tôi

biết : Đó là việc sản xuất xe hơi hàng lọat (the mass production of

automobile), vì nó tạo cho giới nông dân phương tiện để chở vợ

con ra thành phố vào cuối tuần – nhờ đó mà họ mới tránh được lọai

bệnh tâm thần do sự cô lập quạnh hiu ở nông thôn gây ra… Đây

quả thật là một lối suy luận độc đáo, bất ngờ khiến cả lớp chúng tôi

cứ nhớ hòai!”

So với các bậc tiền bối, thì quả thật Peter Drucker là thứ “hậu sinh

khả úy”, là môn đệ mà đã vượt qua cả bậc sư phụ của mình. Cụ thể

như đối với Frederik Taylor (1866 – 1915) là người khai sáng ra

môn tổ chức công việc sản xuất theo khoa học nhằm nâng cao

năng xuất trong kỹ nghệ, thì Drucker đã bổ túc môn này bằng cách

mở rộng sự nghiên cứu trong lãnh vực văn hóa, quan hệ nhân bản,

và nhất là viễn tượng tương lai đối với những thách đố và khả năng

trong xã hội kỹ nghệ. Và đối với John Maynard Keynes (1883-

1946) thì cũng vậy, Drucker đưa thêm vào lý thuyết định lương vĩ

mô (macro-economics) của vị đại sư này cái phương pháp nghiên

cứu về động thái con người (behavior of people); như vậy là làm

tăng thêm khía cạnh nhân bản trong lãnh vực kinh tế vi mô (micro-

economics).

Các giám đốc công ty đã không tiếc lời ca ngợi vị đại sư Peter

Drucker. Điển hình như Andy S. Grove của công ty Intel Corp., thì

đã viết : “Lời khuyến cáo của ông đã ảnh hưởng đến không biết

bao nhiêu hành động hàng ngày tại các xí nghiệp. Và riêng đối với

tôi, thì cái ảnh hưởng đó đã kéo dài liên tục trong nhiều thập niên”.

Tom Peters thì gọi Drucker là người đã sáng lập ra môn khoa học

quản lý hiện đại; ông là người đầu tiên đã cung cấp cho chúng ta

thứ dụng cụ để quản lý những tổ chức kinh doanh mỗi ngày càng

trở thành phức tạp hiện nay.

 

C – Con người ngay thẳng chính trực.

Nhưng Peter Drucker còn làm cho bao nhiêu người mến phục bởi

sự ngay thẳng chính trực lạ thường của ông. Ngay từ thời còn ở

bên nước Đức, lúc mới có 23-24 tuổi, ông đã viết một cuốn sách về

nhà triết học Friedrich Julius Stahl, mà đã bị chính quyền Đức

quốc xã tịch thu và cho đốt hết đi. Mấy năm sau, thì cuốn sách thứ

hai nhan đề “Vấn đề Người Do Thái tại nước Đức” cũng lại chịu

chung số phận đó. Đến nỗi mà hiện nay chỉ còn sót lại một cuốn

duy nhất trong văn khố nước Áo với dấu hiệu chữ vạn đóng trên

bìa sách.

Được nuôi dưỡng theo truyền thống nghiêm túc của đạo Tin lành,

Peter Drucker đã sống và hành động theo những nguyên tắc chặt

chẽ về luân lý và đạo hạnh. Mặc dầu được các đại công ty trả

lương rất hậu cho dịch vụ cố vấn của ông, Drucker cũng không

ngần ngại phê phán những thiếu sót bất cập của giới doanh nghiệp

tại Mỹ. Khi được biết giới đứng đầu doanh nghiệp dành cho mình

những bổng lộc quá lớn, lên đến cả trăm lần lương của người công

nhân bình thường, ông đã không cầm được sự giận dữ và lên tiếng

phê phán gắt gao chuyện này. Ông nói : “Đó là điều không thể tha

thứ được, xét về mặt luân lý cũng như về mặt xã hội; và chúng ta

sẽ phải một cái giá nặng nề cho tình trạng này.” (This is morally

and socially unforgivable, and we will pay a heavy price for it).

Ông còn ghi rõ là : “ Thâu nhập của người giám đốc không được

gấp quá 20 lần mức lợi tức của người công nhân”.

Thất vọng trước sự sa sút về phương diện giá trị đạo đức của giới

doanh nghiệp Mỹ, ông đã phải thốt lên : “Đó là sự thất bại cuối

cùng của chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp” (the final failure of

corporate capitalism).

Và kết cục là ông đã dành hầu hết thời giờ và năng lực vào việc

yểm trợ cho các tổ chức bất vụ lợi. Đó là lãnh vực xã hội dân sự,

mà ông tin tưởng sẽ góp phần quan trọng vào việc phục hồi lại hệ

thống giá trị tốt đẹp truyền thống của nước Mỹ. Ông đặc biệt dành

sự ưu ái cho mục sư và cũng là một tác giả nổi danh với cuốn sách

bestseller “The Purpose-driven Life” Rick Warren của Nhà thờ

Saddleback tại thành phố Lake Forest trong Quận Cam miền Nam

California. Vị mục sư này thuật lại rằng : Ông Peter Drucker căn

dặn tôi : “Chức năng quản lý trong một nhà thờ là làm cho nhà thờ

đó mỗi ngày đích thực là nhà thờ hơn, chứ không phải là một loại

tổ chức kinh doanh (to make the church more churchlike, not more

businesslike). Như vậy thì nhà thờ mới có thể thực hiện đúng sứ

mệnh riêng biệt của mình.”

** Tóm tắt lại, ta có thể ghi nhận rằng Peter Drucker là một mẫu

người ngoại hạng của thế kỷ XX. Sự đóng góp chuyên môn trong

việc giáo dục đào tạo nhiều thế hệ sinh viên trong ngành quản trị

doanh nghiệp, trong sự nghiệp trước tác, cũng như trong việc cố

vấn hướng dẫn cho giới lãnh đạo cơ sở công quyền, cũng như xí

nghiệp tư nhân, và nhất là trong sự yểm trợ cho các tổ chức bất vụ

lợi thuộc khu vực Xã hội Dân sự, thì thật là lớn lao vĩ đại ít người

nào có thể sánh kịp được.

Mà còn hơn thế nữa, cái nhân cách trong sáng và tính ngay thẳng

chính trực của ông mãi mãi là một tấm gương cao quý cho giới sĩ

phu trí thức cùng khắp thế giới hiện nay noi theo vậy./

California, Tiết Trung Thu Canh Dần 2010

Đoàn Thanh Liêm

Khi chế độ sợ sử

Khi chế độ sợ sử

Tạp ghi Huy Phương

 Nguoi-viet.com

Theo báo chí trong nước, môn lịch sử dự định sẽ bị xóa bỏ khỏi chương trình giáo dục phổ thông, và sẽ được “tích hợp” với môn giáo dục công dân và giáo dục quốc phòng! Dư luận trong và ngoài nước đã lên án gắt gao dự định này, và việc bỏ môn sử trong chương trình giáo dục của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa không phải là không có cơ sở, vì nó đã bắt nguồn từ cuộc Cách Mạng Tháng Tám, đảng Cộng Sản muốn viết lại lịch sử theo chiều hướng có lợi cho đường lối của đảng.

Nghĩa Trang Liệt Sĩ Người Trung Quốc ở Cao Bằng. (Hình minh họa: Tienve.org)

Hiện nay, trong giai đoạn Việt Nam đang trở thành con cái (một loại nghịch tử) của Trung Cộng, lịch sử Việt Nam đã là một trở ngại cho mối giao hảo của Việt-Trung, thì khi đất nước chúng ta trở thành một thành phần không thể cắt lìa của Trung Cộng, là ngôi sao nhỏ thứ năm trên lá cờ của bọn bành trướng. Lý do lịch sử Việt Nam là một chuỗi trường kỳ kháng chiến với giặc phương Bắc, và nước Tàu trở thành một “kẻ thù truyền kiếp” của dân tộc Việt Nam.

Sách “Việt Nam – Những Sự Kiện Lịch Sử 1945-1975” của Viện Sử Học-Viện Khoa Học Xã Hội (cơ quan chính thức của đảng và chính phủ) không hề nói đến chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa và sự hy sinh của những anh hùng tử sĩ VNCH trong trận chiến với Trung Cộng vào Tháng Giêng, 1974. Ngay cuộc tấn công của quân Trung Cộng chiếm các bãi đá Gạc Ma ở quần đảo Trường Sa diễn ra ngày 14 Tháng Ba, 1988, phía Việt Nam mất ba tàu vận tải của hải quân, 64 thủy binh đã thiệt mạng cũng bị bỏ quên. Đương nhiên chuyện bán nước tày trời, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng, vào năm 1958 đã gửi công hàm cho Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai nhìn nhận chủ quyền lãnh hải của Trung Cộng trên Hoàng Sa và Trường Sa lại phải giấu kín, không được ghi vào sử.

Vì sao đảng Cộng Sản Việt Nam lại giấu sử và viết lại sử, ngăn cấm không cho các thế hệ con em biết những sự thật đẫm máu về Trường Sa- Hoàng Sa, phải chăng là sợ mất lòng đàn anh “láng giềng khốn nạn!”

Cũng trong thời gian xảy ra những biến cố đau thương ở Gạc Ma, những việc nhảm nhí lại được đảng Cộng Sản tôn vinh thành sử sách như việc “Khai mạc Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc Hội Chữ Thập Đỏ lần thứ năm” hay “Ngành Nội Thương tổ chức hội nghị đánh giá kết quả bước đầu chuyển hoạt động thương nghiệp sang hoạch toán kinh doanh XHCN.”

Ngay cả tội ác của lính Trung Cộng, trong cuộc thảm sát ngày 9 Tháng Ba, 1979 tại huyện Hòa An, Cao Bằng, khi quân Trung Cộng đã “dùng búa và dao giết 43 người, gồm 21 phụ nữ và 20 trẻ em, trong đó có bảy phụ nữ đang mang thai, rồi ném xác xuống giếng hoặc chặt ra nhiều khúc rồi vứt hai bên bờ suối. Trong thời gian chuẩn bị rút quân, Trung Quốc còn phá hủy một cách có hệ thống toàn bộ các công trình,” (*) mà ghê tởm thay, cũng được các nhà viết sử Cộng Sản lơ đi kẻo sợ mất lòng ông chủ Trung Cộng!

Những anh hùng do đảng nặn, phịa ra thì lại được ghi vào sử cho con em học ra rả. Đó là những anh hùng tưởng tượng Lê Văn Tám, Võ Thị Sáu… hay những dũng sĩ “không tưởng” như Bế Văn Đàn lấy thân làm giá súng, Bùi Minh Kiểm tay không ghì máy bay trực thăng thì được nhồi nặn vào đầu óc trẻ thơ. Thế hệ thanh niên bây giờ có thể biết về Lenin, Karl Marx là ai, trong khi một học sinh lớp 8 không biết ông Quang Trung “bà con” ra sao với ông Nguyễn Huệ, phải chăng vì “hai ông” này đều chống Tàu?

Khốn nạn hơn nữa, kẻ thù giết đồng bào lại được ghi công, nhà nước Việt Nam đã xây dựng đài tưởng niệm Liệt Sĩ Trung Quốc với hàng chữ “Việt Nam Nhân Dân Ký Công,” tức là “Nhân Dân Việt Nam Ghi Công” và hàng năm, đảng và nhà nước lại còn cúi đầu dâng vòng hoa tưởng niệm “Đời đời nhớ ơn các Liệt Sĩ Trung Quốc!”

Sao mà có một bọn cầm quyền hèn mạt đến thế.

Những việc tàn độc sau khi Cộng Sản miền Bắc đánh chiếm miền Nam, gọi là “giải phóng,” “thống nhất đất nước,” như tập trung quân cán chính, nhân viên đảng phái miền Nam vào nhà tù lao động khổ sai, đánh tư sản, lùa dân đi kinh tế mới, đổi tiền, các phong trào vượt biển đi tìm tự do… làm chết hàng triệu người Việt Nam, nó chính là tội ác, phải ghi vào sử, nhưng Cộng Sản sợ phải ghi những hình ảnh này vào sử, nó sẽ cho đồng bào biết Cộng Sản có bàn tay vấy máu như thế nào! Trong sử sách Cộng Sản, đảng ta luôn luôn “đánh thắng” dù là bằng cách trói tay và đập đầu chôn sống hơn 5,000 dân Huế trong Tết Mậu Thân!

Hãy nhìn đây sự khiếp nhược của đảng Cộng Sản Việt Nam trước bọn Tàu Cộng: Không có một con đường, một bến sông, một chiếc tàu hải quân nào dám mang tên có “hơi hám” đến cuộc chống Tàu xâm lăng trong lịch sử của cha ông, đó là những địa danh lẫy lừng trong lịch sử như Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng, Đống Đa, Hà Hồi hay các nhân vật lịch sử như Bà Trưng, Bà Triệu. Tất cả những con tàu thuộc Hải Quân VNCH đều hãnh diện mang những cái tên anh hùng chống Tàu như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Toản, Trần Nhật Duật, Yết Kiêu…

Truyền thống của hải quân bất kỳ nước nào trên thế giới cũng là phòng thủ biên giới quốc gia, chống ngoại xâm, nhưng hải quân Cộng Sản Việt Nam chỉ bày ra để bảo vệ đảng, cũng như binh lính công an, bộ đội. Những con tàu của hải quân Cộng Sản Việt Nam hiện nay chỉ dám “rón rén” đặt những cái tên vô tội, ngây thơ không sợ “nhạy cảm” làm mất lòng đàn anh, như tàu HQ.182 tên là Hà Nội, HQ.183 là TP Hồ Chí Minh, HQ.184 là Hải Phòng, HQ.185 là Đà Nẵng, HQ.186 là Khánh Hòa, HQ.187 là Bà Rịa Vũng Tàu, HQ.011 là Đinh Tiên Hoàng, HQ.12 là Lý Thái Tổ. Nghĩ ông Đinh Tiên Hoàng hay ông Lý Thái Tổ thì có đụng gì đến bọn Tàu xâm lược.

Như vậy là quay mặt làm ngơ với lịch sử!

Là học sinh trung học thời VNCH, chúng tôi không những được học sử của Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh… mà trong sách Giáo Khoa Thư thuở tiểu học chúng tôi đã biết đến Ngô Quyền đóng cọc nhọn đánh quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, ông Trần Hưng Đạo tâu với vua, “hãy chém đầu thần đi trước khi hàng giặc,” Trần Quốc Toản, tuổi thiếu niên, bóp nát quả cam trong tay, dựng cờ “phá cường dịch báo hoàng ân!” Thời bây giờ, chúng tôi không biết những Huỳnh Văn Bánh, Lê Thị Riêng, Ngô Văn Năm, Nguyễn Văn Đậu, Phan Thị Ràng… là ai, mà nghĩ thương cho “ông Quang Trung là anh em với ông Nguyễn Huệ!”

Một chế độ sợ sử và viết sử láo, chẳng qua vì hèn ngu, khiếp nhược.

Vì những lý do sợ Tàu, câu chuyện bỏ môn sử nghĩ cũng có nguyên nhân.

Dân tộc không sử là thứ con không cha, nhà không nóc.

Thôi thế thì thôi!

(*)Ghi theo tài liệu của Phạm Trần.
Nếu có thời giờ xin mời bạn đọc vào xem DVD “Thảm Họa Mất Nước”
https://www.youtube.com/watch?v=fpYuc2gs2bk

 

‘Ẩm thực’ thời ‘cách mạng’

‘Ẩm thực’ thời ‘cách mạng’

Tạp ghi Huy Phương

Nguoi-viet.com

Sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, sau khi người Nam “nhận họ,” người Bắc “nhận hàng,” bao nhiêu kho đạn, lương thực, thuốc men, máy móc… được chở về Bắc để vỗ béo cho cán bộ cao cấp, kể cả 16 tấn vàng, tài sản quốc gia, bị bọn cán bộ cao cấp, mỗi người “cấu véo” một tí, thì miền Nam trở thành một bãi rác hoang tàn. Sau khi đưa vào tù quân cán chính miền Nam, đánh tư sản, đổi tiền, lùa dân đi vùng kinh tế mới, thì dân đen, loại không biên chế, không còn cái ăn cái mặc, đau ốm không thuốc men.

Lá cây khoai mì. (Hình minh họa: Issouf Sanogo/AFP/Getty Images)

Cái ăn đã không có, trừ gạo mục từ các mật khu mang về, bo bo, bột mì, khoai sắn nộp nghĩa vụ lẫn đất cát còn không đủ no, thì chuyện đau ốm khó khăn – khắc phục. Xuyên tâm liên là vị thuốc độc nhất toàn năng phổ biến trong quần chúng dành cho những “ông chủ” của đất nước, như Tạ Phong Tần đã viết: “… sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, ai bị bệnh gì vô bệnh viện Bạc Liêu cũng đều được bác sĩ kê toa hai thứ thuốc không bao giờ thay đổi là xuyên tâm liên (viên nén) và chai xi-rô Lạc Tiên, đem về uống đến phù cả mặt mũi mà vẫn không hết ho…” Không phải chỉ có Bạc Liêu mà cả toàn quốc! Phổ biến thì súc muối hay nhỏ nước tỏi vào lỗ mũi. Trong nhà tù “cải tạo” ngoài Bắc, thì phái đoàn y sĩ từ Hà Nội về nhổ răng cho tù bằng kềm, búa, đục thợ rèn, 10 anh thì sưng mặt hết bảy.

Xuyên tâm liên là thứ cây thuốc có ở phía Nam Trung Quốc. Theo tính vị ghi trong tài liệu y học dân gian Quảng Châu, thì cây “xuyên tâm liên” này có vị đắng, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu thủng, giảm đau. Được dùng chữa vết thương, tẩm gạc đắp vết thương hoặc làm dịch nhỏ giọt rửa vết thương; chữa viêm họng, viêm phế quản, lị cấp (nước sắc xuyên tâm liên cùng với bồ công anh, sài đất…).

Vào khoảng thời gian “mở cửa” khi mà Việt Cộng đã cho dân chúng nhận những thùng quà từ ngoại quốc gửi về, đặc biệt là những người vượt biên đến được Mỹ, thì hải quan tại phi trường Tân Sơn Nhứt bắt đầu ra lệnh tịch thu thuốc Tylenol trong những thùng quà với lý do là có chất độc, cần phải kiểm nghiệm. Mặc dầu Tylenol đã vài lần bị thu hồi (recall) tại Mỹ, nhưng đó là một thứ thuốc bán rất chạy trên thị trường Bắc Mỹ, đứng hàng thứ ba trong các loại thuốc đau nhức. Nếu hải quan tịch thu Tylenol và thiêu hủy tại chỗ thì không nói, đằng này trong lúc thuốc men khan hiếm, thuốc này dành cho cán bộ dùng, và được tuồn ra ngoài chợ trời để bán với giá cao.

Về cái ăn thì thịt là món hiếm, chỉ có trong các cửa hàng nhà nước, hay được chuyển lậu, bằng cách bó vào đùi, vào mông để qua mắt các trạm kiểm soát. Nhưng nhân dân đã có một thứ “thịt” dễ kiếm khác, đó là ngọn “lá sắn” bỏ đi, sau khi “thu hoạch” củ sắn (khoai mì) nông dân ủ thành phân xanh.

Báo Nhân Dân, “Cơ Quan Trung Ương của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Tiếng Nói của Đảng, Nhà Nước và Nhân Dân Việt Nam,” vào khoảng thời gian 1978-79 đã có những bài báo nghiên cứu để đưa đến kết luận: “Ba kí lô lá sắn bằng hai kí lô thịt bò,” vì lá sắn chứa rất nhiều chất protein. Sở dĩ tôi còn nhớ rõ, là vì trong trại tù ở Bắc Thái, bọn tù chúng tôi đã phải tập họp ngồi nghe bọn “trật tự-thi đua” đọc đi đọc lại bài nghiên cứu khốn nạn “ba kí lô lá sắn bằng hai kí lô thịt bò.” Trong khi dân nếu tin chuyện đảng hướng dẫn, ăn lá sắn đến vàng da, mờ người, thì Bộ Chính Trị và các quan chức dùng sữa, thịt bò Jersy từ trại Ba Vì và sâm nhung hảo hạng. Cái này thì không phải chờ đến sau Tháng Tư, 1975, mà trước kia, Nguyễn Chí Thiện đã nói lên giữa hai màu da mặt tương phản giữa lãnh tụ phè phỡn và quần chúng tí hon, tương lai của đất nước:

“Nước da hai bác mầu hồng

nước da các cháu nhi đồng mầu xanh

giữa hai cái mặt bành bành

chiếc khăn quàng đỏ quấn quanh cổ cò!”

Về sau mới biết vì sao có chuyện lá sắn có protein: Nguyên ngành chăn nuôi Bắc Việt nghiên cứu ngọn lá sắn nếu đem ủ chua vào khẩu phần vỗ béo bò thịt sẽ làm tăng lượng hấp thụ thức ăn. Trọng lượng bò được vỗ béo tăng dần theo mức bổ sung ngọn lá sắn ủ chua trong thức ăn của bò hằng ngày. Việc ủ chua lá sắn cho bò đã tiết kiệm được thức ăn. Nhân dân không được đảng xem là người mà xem như trâu bò, được dùng lá sắn thay cho cá thịt. Dân ngu thì cứ tin đảng và nhà nước tận cùng, đảng và nhà nước thì dối trá, ai chết mặc ai. Cuộc nghiên cứu của những “đỉnh cao trí tuệ” đã được đăng tải trên báo Nhân Dân, cơ quan của đảng Cộng Sản thì ai mà không dám không tin. Con bò ăn lá sắn lên cân, thì con người XHCN cũng có thể ăn lá sắn để tăng sức, con gà toi nhỏ mũi bằng nước tỏi được, thì con người XHCN có thể nhỏ mũi bằng nước tỏi để khỏi toi.

Câu chuyện này làm chúng ta nhớ lại một anh hoạn lợn (thiến heo) bên Tàu, có bà vợ cứ sòn sòn đẻ năm một, cứ nghĩ là cơ phận con người cũng giống heo, cắt tử cung đi là hết đẻ. Một ngày “đẹp trời” nọ, anh trói vợ ra giữa sân, dùng đồ nghề quyết tâm làm cho vợ cai đẻ, bằng cách tìm cách cắt bỏ tử cung của vợ. Lẽ cố nhiên, bà vợ không sao tránh khỏi cái chết do tri thức của anh chồng hoạn lợn ngu dốt. Dân Việt Nam thời “cách mạng” không thiếu người chết, vì các bậc lãnh đạo quốc gia, có đầu óc và tư duy của những anh chàng “thiến heo” loại này.

Thời “cách mạng” đổi đời, dân được khuyến khích đói thì ăn lá sắn, ốm đau thì đã có nước đái, nhân dân tự sản xuất, không cần phải bào chế hay “nhập khẩu!”

Đó là câu chuyện “niệu liệu pháp” từ cuốn sách của Bác Sĩ F.O. Quinn (Mỹ) do nhà nước xuất bản năm 1989, trong đó đã đề cập đến “phương pháp tự chữa bệnh bằng nước tiểu đơn giản, dễ kiếm, dễ dùng nhưng hiệu quả trị bệnh lại rất cao.”

Thời điểm này, cuốn sách xuất bản nhằm mục đích dạy cho dân chúng biết “khắc phục” chứ không phải là một chuyện tình cờ. Sau này giới y học trong nước công nhận nội dung “niệu liệu pháp” thiếu khoa học và gây hậu quả nặng nề, một số người bệnh vì uống nước đái! Cuốn sách sau đó bị cấm lưu hành và trôi vào quên lãng.

Ngày còn nhỏ, ở nhà quê, tôi cũng có nghe nước tiểu trẻ em cho đàn bà mới sinh dậy và có công dụng chữa các chứng bệnh như sốt nóng, ho ra máu, thổ huyết, hoa mắt chóng mặt, tay chân lạnh do huyết dồn lên đầu, sản hậu ứ huyết, tổn thương, huyết ứ… Nhưng không phải nước tiểu được đồn đãi “trị được bá bệnh” như “xuyên tâm liên” mà người dân khốn cùng phải làm liều.

“Trong nước tiểu có hàng loạt chất độc hại như: Amoniac dùng để tẩy rửa, Creatinine làm co bắp thịt, gây chuột rút, đau đớn, Amylase gây hạ đường máu, Ure gây hôn mê, Bilirubine và chì là chất cực độc, lân dùng để bón cây, ngoài ra còn hàng ngàn loại vi trùng, nấm, virus từ nước tiểu, rồi từ hậu môn xâm nhập qua nước tiểu khi chảy xuống… Do đó, có thể nói, nước tiểu người lớn là… thuốc độc.” (VT News)

Nhà văn Quang Lập (Hội Văn Nghệ Bình Thị Thiên) viết trong Blog năm 1985-86: “Vài ngày sau thằng Thịnh đưa tờ báo có bài: ‘Niệu liệu pháp phản khoa học, một trò lừa đảo!’” Cả hội mới ngớ người ra.

Anh Nguyễn Khoa Điềm nói hội mình anh em dại quá toàn nghe người ta xúi bậy. Anh Vĩ nói rất hay sự tuyên truyền rỉ tai nguy hiểm thế nào, tôi đã nói rồi tiếc thay anh em trí thức cả lại không ai cảnh giác.

Anh Nguyễn Quang Hà cười ha ha ha nói, tôi lừa các ông thế mà các ông cũng tin. Anh Văn Lợi nói Lập ơi tao thử trí thông minh mày, chứ đời nào tao uống. Mình cũng nói với Ngô Minh em trêu anh chứ có họa ngu mới đi uống nước đái. Ngô Minh cũng cười khe khe nói tao cũng lừa mày chứ sức mấy tao ngu!”

“Vì bởi người dân ngu quá lợn…” nên mới dễ bị chúng bịp.

Dân trí thức lại còn giở trò bịp nhau.

Thời “giải phóng” đảng nói với dân: “Đừng ăn những gì chúng ông ăn (có đâu mà ăn) mà hãy ăn những gì chúng ông nói!”

Ai sẽ chôn cộng sản?

Ai sẽ chôn cộng sản?

Lê Văn

11-12-2015

Chưa bao giờ trong suốt ngàn năm lịch sử giữ nước và dựng nước của Dân Tộc Việt, số mạng của một đảng ngoại lai, mại bản đã dựng lên chế độ phá nước một cách toàn diện như đảng cộng sản VN – mà thời “cực thịnh” của nó chính là thời “cực mạc” của Dân Tộc – cuối cùng phải đến hồi giãy chết.

Như là định luật “già phải chết”, nhưng tại sao tuổi thọ của đcsvn đến hôm nay già hơn so với các đcs Nga hay Ðông Âu? Sao nó sống lâu nhỉ? Đó là vì từ chính cái đặc điểm hình thành của nó … vì đảng cộng sản Việt nam là một đảng không phải được dựng lên từ đạo quân chiến thắng của Stalin sau thế chiến thứ II như các đảng cộng sản  ở Đông Âu – mà ngược lại nó có nền móng vững chắc hơn do quá trình hoạt động lâu đời từ thời 1920, đã trãi qua các thời kỳ chống Pháp và ám hại các tổ chức không cộng sản yêu nước khác, phóng tay cướp chánh quyền, máy móc du nhập cuộc cải cách ruộng đất sắt máu của Trung Cộng hồi 1954, vụ Nhân văn Giai phẩm, các vụ Xét lại Chống đảng ở miền Bắc, dùng bạo lực đánh chiếm miền Nam, tập trung cải tạo và tịch thu tài sản của Dân – Quân – Cán – Chính VNCH, đánh tư sản, diệt địa chủ, triệt hạ công thương nghiệp, đuổi Hoa kiều và tổ chức bán bãi vượt biên sau 1975… Một đảng cộng sản đã cướp, đã giết và bị giết hàng triệu người để đạt địa vị thống trị ngày nay!!! 

Không những thế, chế độ cộng sản tại Việt Nam được xây dựng trên một chủ thuyết chánh trị sai lầm, trái với nhân tính, gây thống khổ cho nhân dân Việt Nam suốt hơn nửa thế kỷ qua, xô đẩy đất nước vào vực thẳm của chiến tranh, áp bức, tàn bạo, lạc hậu và khốn cùng…Và đáng ghê tởm hơn, nó đang biến thái thành một đảng vừa hèn với giặc, vừa ác với dân, một đảng tuy mang danh cộng sản nhưng thực chất là một tập đoàn Mafia tham nhũng lộng hành, nối giáo cho giặc có hệ thống và rất dã man độc ác.

Việc vỡ nợ xảy ra ở Bạc Liêu, Cà Mau, nay 14 bệnh viện ở  Đắk Lắk … chỉ là những khởi đầu cho sự sụp đổ toàn diện của tiến trình tự hủy.

Khi hàng loạt các ban ngành khác từ trung ương đến địa phương lần lượt hết tiền, khi quản lý kinh tế đến điều hành xã hội, từ việc phân phối tiện ích công cộng, trật tự xã hội, đến duy trì an toàn giao thông, phân phối điện nước, thực phẩm … lần hồi tê liệt thì điều gì sẽ đến?

Chưa bao giờ ngày mà chế độ cộng sản sụp đổ lại càng hiển hiện gần hơn và người sẽ chôn chế độ đã được chính chế độ cho biết.

Tại Diễn đàn đối tác phát triển Việt Nam (VDPF) diễn ra sáng ngày 5/12, đồng chủ tọa diễn đàn – Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng Thế giới (World Bank) tại Việt Nam, bà Victoria Kwakwa đã băn khoăn đặt câu hỏi với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: “Việt Nam sẽ lấy nguồn ở đâu ra để tài trợ cho chương trình phát triển đầy tham vọng trong 5 năm tớỉ” (vì hết tiền) ông Thủ tướng khẳng định chính là “nhân dân, là 92 triệu dân trong nuớc và 4 triệu hải ngoại!!!

Nhưng đáng lẽ bà Kwakwa phải hỏi thêm rằng ai là thủ phạm cho sự vỡ nợ, hết tiền nầy và nếu 92/4 triệu dân đều “cười khẩy – lắc đầu” với ông Thủ tướng thì ngày tận của cộng sản đã đến.

Cái chết của csVN chính là sự hồi sinh cho Dân Tộc Việt … nó phải đến thôi!

Buổi Giao Thời

Buổi Giao Thời

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Công lý Đồng Nọc Nạn thời kỳ thực dân vào năm 1928 vẫn là một giấc mơ cho nhiều người Việt Nam vào năm 2015.

Anh Lãng

Mùa Giáng Sinh năm kia, hay năm kìa (gì đó) có người bạn gửi cho cuốn tiểu thuyết The Time in Between của Maria Dueñas. Sách loại bìa mỏng mà ngó giống y chang như cái gối, thấy mà ớn chè đậu. Bỏ thì thương vương thì tội nhưng tôi quyết định liền, với ít nhiều áy náy: “Thôi, dục (bà) nó đi!”

Tui già cỗi và mệt mỏi quá rồi. Cả ngàn trang sách tiếng Anh thì đọc chắc tới tết, hay (dám) tới chết luôn – cho dù tác phẩm được giới thiệu là # 1 international best seller.

Tuần rồi, tôi mới khám phá ra rằng The Time in Between đã được chuyển thành phim. Maria  Dueñas bắt đầu câu chuyện vào tháng 3 năm 1922, khi nhân vật chính còn là một cô bé đang học việc trong một tiệm may, ở Tây Ban Nha.

Những vật dụng được bầy biện để làm cảnh trí trong phim ngó thân thương hết sức: bàn ủi than, máy may Singer, radio Philips. Tôi cũng rất ngạc nhiên, và thích thú, khi nhìn thấy những chiếc Citroën Traction Avant (đen thui lui) chạy lòng vòng trên đường phố của thủ đô Madrid.

Đây chính là loại xe được dùng làm Taxi ở Đà Lạt, vào những năm cuối thập niên 1960. Cái bàn là than cổ lỗ, cái máy may đạp chân cũ kỹ, và cái máy phát thanh mầu cánh gián (bự tổ chảng)  … cũng đều là những đồ vật quen thuộc trong căn nhà nhỏ xíu mà tôi đã sống qua suốt thời ấu thơ – ở Việt Nam.

Thế mới biết là đất nước mình đi sau thiên hạ một khoảng thời gian dài quá. Thảo nào mà đã có thời Việt Nam bị xếp vào nhóm những quốc gia “chậm phát triển.”

Cái “thời thổ tả” này, may quá, đã qua – theo như lời của (nguyên) Chủ Tịch Nước Nguyễn Minh Triết: “Trong tất cả các thắng lợi, thì thắng lợi về vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế là thắng lợi lớn nhất… Ngày nay, chúng ta ngẩng cao đầu, sánh vai cùng cường quốc.”

Mới đây, Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc Nguyễn Thiện Nhân cũng có ý (gần) tương tự khi ông thiết tha ngỏ lời mời “tất cả đồng bào Việt Nam ở nước ngoài nếu trong 40 năm qua chưa có dịp về nước thì nên về… chắc chắn sẽ thấy nó phát triển.”

Hai vị lãnh đạo quốc gia đều không ngoa (lắm). Đôi khi, tôi  cũng cảm thấy “choáng váng” vì những “phát triển” vượt bực ở quê hương xứ sở của mình.

Những chiếc Traction Avant, La Dalat, Kamaz, Uaz … chắc đã biến khỏi Việt Nam tự lâu rồi. Đất nước hôm nay có những thiếu gia lái Lamborghini Aventador trị giá cả triệu Mỹ Kim, những đại gia khẳng định đẳng cấp bằng cách đi phản lực cơ Beechcraft King Air 350, nằm giường Royal Bed đắt nhất thế giới,  hay nuôi chó Ngao Tây Tạng giá cỡ triệu đô.

Chợ Tôn Đản, chợ Vân Hồ – tất nhiên – cũng đều đã đi vào lịch sử. Qúi mệnh phụ phu nhân giờ đây đều xách ví da hiệu Louis Vuitton, và “đi mua rau sạch ở Thiên Đường Xanh; đồ Tây ở cửa sau khách sạn Sofitel ; bánhngọt ở L’Indochine ; bánh bao hiệu Tâm Tâm, bánh mì ở Hilton cạnh Nhà hátlớn ; đường, dấm, muối, xì dầu và gạo Thái Lan ở Westside, ốc lại lên tận Tây Hồ, còn đồ khô đến chợ Hàng Bè…”

Photo by Paula Bronstein /Getty Images

Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng còn khẳng định rằng: “Gần 2 thập kỷ qua, Việt Nam đã kiên trì, nhất quán chính sách tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc phát triển Internet. Cho đến cuối năm 2014, Việt Nam có gần 45 triệu người sử dụng Internet, đạt tỷ lệ trên 49% dân số, cao hơn mức trung bình của thế giới (40,4%) và cao hơn nhiều mức trung bình của khu vực châu Á – Thái Bình Dương (32,4%)”.

Rõ ràng là VN đã áp dụng thành công chiến thuật (“đi tắt đón đầu”) nên đã vượt xa “hơn mức trung bình của thế giới, và cao hơn nhiều nước trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương”  về rất nhiều mặt, chớ không riêng chi internet.

Chỉ có cái “mặt tử tế” thì lại ở dưới mức trung bình xa quá. Theo The Good Country Index, VN đứng hạng áp chót (124/125) theo “chỉ số tử tế” của những quốc gia được khảo sát.

Blogger Nguyễn Tuấn còn cho biết thêm rằng VN đang đứng cùng hạng với đám đầu trâu mặt ngựa:

“Bảng xếp hạng gọi là ‘Good Country Index’ (GCI) cho thấy VN đội sổ trong số các nước tử tế trên thế giới. Bảng xếp hạng này cho thấy VN đứng hạng 103 (trong số 124 nước) về đóng góp cho hoà bình và an ninh thế giới. Còn về đóng góp vào các quĩ từ thiện và cung cấp nơi nương tựa cho người tị nạn thì VN đứng hạng 123, tức áp chót! Tính chung, thứ hạng về tử tế của Việt Nam trên thế giới đứng hạng áp chót (124/125). Điều đáng nói hay cũng có thể xem là nhục là thứ hạng tử tế của VN chỉ đứng chung bảng với mấy nước ‘đầu trâu mặt ngựa’ như Lybia, Iraq, Zimbabwe, Yemen!”

Té ra những chiếc siêu xe bạc triệu, những chiếc ví da hàng hiệu bạc ngàn, cùng những toà cao ốc hay cửa hàng sang trọng (nơi mà bát phở và ly cà phê giá vài chục đô la) chỉ tạo ra được một giai cấp mới (giai cấp đại gia hay tư bản đỏ) chứ không nâng được “vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế” và cũng không giúp “chúng ta ngẩng cao đầu, sánh vai cùng cường quốc” – như ông Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Thiện Nhân kỳ vọng.

Ảnh: ttxva.net

Đất nước – xem chừng – không chịu đi chung hướng, và cũng không  chịu chia sẻ những tiêu chí nhân văn phổ quát, với đa phần nhân loại. Về nhiều lãnh vực, VN còn có xu thế đi lùi – theo nhận xét và phân tích của blogger Anh Lãng:

“Tòa Đại hình Cần Thơ xét xử vụ án Nọc Nạn ngày 17 tháng 8 năm 1928. Chánh án là De Rozario, công tố viên là Moreau, Hội thẩm là ông Sự. Các luật sư biện hộ (miễn phí) cho gia đình Biện Toại là người Pháp, Tricon và Zévaco. Bản án được tuyên bởi một chánh án người Pháp, một công tố viên luận tội người Pháp và những luật sư biện hộ cho các bị cáo cũng là người Pháp, cho một vụ án mà hành vi chống người thi hành công vụ là rất rõ ràng (10 người trong gia đình Biện Toại, trang bị dao và mác nhọn chia làm hai tốp lao đến đoàn cưỡng chế) và gây ra cái chết của một cảnh sát Pháp…

Tòa Đại hình Cần Thơ tuyên Biện Toại, Nguyễn Thị Liễu (em út Toại) và Tia (con trai Toại) được tha bổng. Cô Nguyễn Thị Trong, sáu tháng tù (đã bị tạm giam đủ sáu tháng) tha ngay tại tòa. Miều (chồng Liễu), hai năm tù vì tiền án ăn trộm.

Đó chính là công lý thời kỳ thực dân, thời kỳ mà ngày nay lịch sử được viết bởi bên thắng cuộc, luôn giành cho nó những ngôn từ đen tối nhất. Thế nhưng hãy nhìn bản án tuyên cho ông Đoàn Văn Vươn, cho cậu thiếu niên Nguyễn Mai Trung Tuấn, và tự đặt ra câu hỏi, vào năm 2015, ở thế kỷ 21, người dân Việt Nam đang thực sự được hưởng nền pháp lý kiểu gì?”

Theo cách nói, hơi nặng nề, của Tiến Sĩ Nguyễn Tuấn thì đây là “nền pháp lý” của bọn đâu trâu mặt ngựa.” Là một phụ nữ nên luật sư Ngô Bá Thành ăn nói nhẹ nhàng hơn: “Ở Việt Nam ta đã có cả một rừng luật nhưng khi xét xử lại dùng luật rừng!”

Có lẽ rừng rú nhất là vụ án Hội Đồng Công Luật Công Án Bia Sơn.” Trong quá trình điều tra, Thiếu Tướng Phạm Văn Hoá (giám đốc công an tỉnh Phú Yên) cho biết: “Họ không kêu oan gì cả, họ thừa nhận cả. Hỏi có yêu cầu luật sư không nhưng người ta không yêu cầu bởi vì người ta biết rõ tội rồi bây giờ chỉ cần khoan hồng cần giảm nhẹ thôi.”

Sau khi “khoan hồng giảm nhẹ,” ngày 4 tháng 2 năm 2013, TAND tỉnh Phú Yên đã tuyên phạt 22 bị cáo với mức án tổng cộng 295 năm tù. Riêng ông Phan Văn Thu bị tòa tuyên phạt án chung thân.

Hơn hai năm sau, vào ngày 30 tháng 11 năm 2015, trên trang Dân Luận, xuất hiện “Thư Kêu Cứu” của thân nhân những người tù trong vụ án này. Xin trích dẫn đôi đoạn để rộng đường dư luận:

Kính gửi:

– Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc

– Ủy hội Tự do Tôn giáo Quốc tế

– Các tổ chức Nhân quyền Quốc tế

– Bộ ngoại giao Hoa Kỳ

– Đại sứ quán các nước tại Việt Nam

– Các hãng thông tấn, truyền thông trong nước và Quốc tế …

Thưa quý cấp! Chúng tôi là thân nhân của 22 tù nhân đang chịu mức án nặng nề trong vụ án “Ân Đàn Đại Đạo” làm đơn Giám đốc thẩm với sự khẩn thiết, mong muốn các cơ quan có thẩm quyền điều tra, xem xét lại vụ án vì có quá nhiều dấu hiệu oan sai như tôi đã nêu cụ thể trong Đơn Giám đốc thẩm ngày 10/10/2015 (một số báo, đài đã đăng thông tin về nội dung đơn Giám đốc thẩm này).

Đó là việc Tòa án Nhân dân tỉnh Phú Yên đã trọng cung, không trọng chứng. Trước tòa, ông Phan Văn Thu cùng 21 người đều phủ nhận việc Ân Đàn Đại Đạo có Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Quốc khánh…

Tòa cũng đã không đưa ra được bằng chứng để chứng minh cho cáo buộc này. Tuy nhiên, Tòa án đã vẫn giữ nguyên những kết luận trên trong bản tuyên án để buộc chồng tôi và các đệ tử của ông tội “âm mưu lật đổ chính quyền Nhân dân”…

Cũng như vô số những đơn thư kêu cứu trong thời gian gần đây, bức thư thượng dẫn không hề gửi đến bất cứ một cơ quan hay giới chức thẩm quyền nào ở Việt Nam. Trước hiện tượng này, ông Phạm Đỉnh –  chủ nhiệm trang Thông Luậnđã có nhận định rằng “… đây chính là điều bi đát trong hoàn cảnh đất nước hiện nay: người dân oan ức không còn biết cầu mong ở ai khi mà chính nhà cầm quyền là kẻ cướp!”

Gia đình ông Đoàn Văn Vươn cũng như gia đình em Nguyễn Mai Trung Tuấn (rất có thể) sẽ không bị vướng vào vòng lao lý, nếu đất đai và tài sản của họ không có giá trị gì nhiều về nguồn lợi kinh tế. Tương tự, hai mươi hai tín đồ của giáo phái Ân Đàn Đại Đạo – chắc chắn – cũng sẽ không phải lãnh đến mức án hai trăm chín mươi lăm năm tù, nếu Khu Du Lịch Sinh Thái Đá Bia trông bớt phần hấp dẫn và không gợi lòng tham của những quan chức địa phương.

Một góc Khu du lịch sinh thái Đá Bia. Ảnh: báo Công An TPHCM.

Những vụ cướp bóc liên tiếp và trắng trợn như trên chỉ có thể xẩy ra vào buổi giao thời, thời điểm cáo chung của một chế độ khi đã đi đến tận cùng mức bất nhân và bạo ngược của nó.

THI ĐUA ĐI NỮA, THUA ĐI MÃI

THI ĐUA ĐI NỮA, THUA ĐI MÃI

Trần Quí Cao

9-12-2015

Đại hội thi đua yêu nước lần thứ IX. Nguồn ảnh: báo Công Lý

Đại Hội Thi Đua Yêu Nước Toàn Quốc vừa diễn ra hoành tráng tại Hà Nội ngày 07-12-2015 với sự tham dự của nhiều chức sắc trong chính quyền: Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch Ủy ban trung ương MTTQ VN Nguyễn Thiện Nhân…

Đã có nhiều bài viết, nhiều ý kiến về Đại Hội này. Báo Thanh Niên, ngày 8-12-2015, đăng bài của nhà thơ Thanh Thảo “Cho Dân, Cho Nước Được Nhờ” nhận xét về sự kiện này: “nhiều tấm gương những con người thực sự bình dị nhưng thực sự lớn lao đã được vinh danh”.

CẢM NHẬN CỦA TÔI

Đọc bài báo trên, nếu xét từng câu, câu nào cũng tròn vai. Tuy nhiên, nhìn chung, tôi thấy toàn bài nhàn nhạt.

Đọc phần viết về anh Phan Tấn Bện, người nông dân đã sản xuất “những máy móc đáp ứng đúng nhu cầu sản xuất” của “người nông dân trong xóm làng mình, trong vùng ĐBSCL rộng lớn của mình”… tự nhiên tôi nhớ tình cảnh thảm hại của nông nghiệp và nông dân Việt Nam. Năm 1960, khi chiến tranh hai miền Nam Bắc chưa lan rộng, nông nghiệp Miền Nam huy hoàng biết bao! Sự nghiệp khai hoang được đẩy mạnh, tiến bộ khoa học được ứng dụng, dân chúng vùng nông thôn sung túc. Nông nghiệp Miền Nam tiến bộ hơn Thái Lan thời đó. Bây giờ, hơn nửa thế kỷ sau, nông nghiệp của nước Việt Nam thống nhất thua Thái Lan mọi mặt: thua trên mặt kỹ thuật canh nông, thua trên mặt tổ chức sản xuất, thua trên mặt kinh doanh nông sản, thương hiệu…

Đọc phần viết về bác sĩ Bùi Đình Lĩnh, “người bác sĩ đã dâng hiến 30 năm đời mình cho nhân dân huyện đảo Phú Quý”… tự nhiên tôi nhớ tình cảnh thảm hại của ngành y tế và và thân phận “giòi bọ” của người bệnh Việt Nam. Trước năm 1975, hệ thống liên hoàn các bệnh viện công và tư của Sài Gòn cung cấp dịch vụ y tế “đáng mơ ước” cho người dân. Các bệnh viện công (nhà nước) như bệnh viện Bình Dân, Chợ Rẫy… được gọi là nhà thương thí vì người bệnh không phải trả tiền. Nơi đó có trình độ y khoa cao cấp với các vị thầy được giới y khoa kính nể về y đức và trình độ chuyên môn. Nơi đó không có cảnh một giường hai bệnh nhân nằm. Hãy bước chân vào bệnh viện Chợ Rẫy và Bình Dân hiện nay để có một cái nhìn về mức độ suy thoái và nhếch nhác khủng khiếp của hệ thống y tế Việt Nam 40 năm sau ngày đất nước qui về một mối xã hội chủ nghĩa!

Đọc những dòng tâm sự của Thanh Thảo “chúng ta lại như được an ủi, như được cổ vũ, như được truyền lửa: hãy bình tĩnh, và tin, rằng trên đời còn bao người tốt đẹp, bao người giỏi giang, bao người dâng hiến”… Tự nhiên tôi nhớ lại những giá trị sống rất cốt yếu của dân tộc và của nhân loại như trung thực, nhân hậu, bác ái, hiếu thảo, công bằng, liêm chính, tinh thần chống ngoại xâm… đã và đang bị tàn phá nghiêm trọng. Bị tàn phá một cách có hệ thống bởi hệ thống cầm quyền hiện nay. Giá trị sống là cái khung xác định điều nên làm, điều nên tránh, chính là cái cốt lõi nhất của một xã hội, một con người. Không có gì tàn phá các giá trị sống quí báu đó khủng khiếp hơn hơn là cái cách sống, làm việc và ứng xử của hệ thống cầm quyền vượt ra ngoài khuôn khổ của những giá trị đó một cách ngang nhiên. Một nhóm người dùng bạo lực thiết lập hệ thống “thiên thu trường trị” cộng sản trên đất nước Việt Nam bất chấp sự phản đối của đa số dân chúng, thì làm gì có sự công bằng? Nhân dân, qua kinh nghiệm sống từ thời còn thực dân Pháp, thời chín năm, thời tổ quốc chia đôi cho tới nay, qua các bài học lịch sử ngàn năm cha ông để lại, họ dư sức thấy rõ xã hội hiện nay là dối trá, lừa mị, là bất công, bất bình đẳng, là tham nhũng, ăn hối lộ, là khiếp nhược bỏ lãnh thổ và tính mạng dân chúng cho giặc xâm lăng Trung Cộng, tệ hơn nữa là đàn áp dân chúng biểu tình lên án kẻ xâm lăng…

Đó là các lý do tôi thấy bài viết trên của Thanh Thảo nhạt nhẽo và lạc lõng.

CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI

Thực ra, các ông Phan Tấn Bện, Bùi Đình Lĩnh và một số người nhận thưởng khác, nếu sự thật đúng như báo cáo, đáng hoan nghênh, đáng vinh danh. Tuy nhiên cần phân biệt rằng cá thể khác với quần thể, cá nhân khác với xã hội. Dù xã hội do các cá nhân hợp lại mà thành, xã hội lại chịu áp lực, lại có cách hành xử, động thái phản ứng và tiến hóa (diễn biến) khác hẳn cá nhân. Khi mô tả, đánh giá xã hội, người ta thường dùng xác suất, thống kê.

Do đó, trong khi trong xã hội vẫn có các cá nhân đáng tuyên dương, điều này không thể che lấp sự thật là đất nước đang lâm khủng hoảng trầm trọng.

Tôi xót xa cho người lính tận tâm bảo vệ lãnh thổ khi nghĩ về hệ thống lãnh đạo tối cao đánh đổi chủ quyền tổ quốc nhằm giữ yên chiếc ghế quyền lực cá nhân và phe đảng. Những người linh đó có sẽ trở thành 64 chiến sĩ Gạc Ma vùi thây biển đảo năm xưa không?

Tôi xót xa cho số phận và tương lai mịt mờ của nông nghiệp và nông dân Việt Nam đang cần “giải cứu”. Một Phan Tấn Bện có che được sự thật của ngành cơ khí nông nghiệp đang chết trên những cánh đồng châu thổ bạt ngàn bởi sự cạnh tranh của máy móc Trung Quốc, Đài Loan… hay không? có che được được hết nỗi lo sợ của ngành nông nghiệp Việt Nam èo uột trước ngày hội nhập thế giới hay không?

Tôi xót xa vì “bao người tốt đẹp, bao người giỏi giang, bao người dâng hiến” “sống quanh ta” phải lặng thầm, nép mình trước cái bất nhân, bất nghĩa, cái gian tham vô độ đang cướp đoạt mọi thứ, từ tài sản tới tính mạng con người, một cách ngang ngược, bạo tàn, vô đạo đức. Xã hội dưới chính thể này bênh vực cái bất tài, cái vô trách nhiệm, cái bè đảng, cái ăn cắp và ăn cướp của nhân dân, kể cả ăn cướp tổ quốc! Chưa bao giờ sĩ khí, đạo đức của xã hội xuống thấp như bây giờ!

KẾT LUẬN

Thanh Thảo là nhà thơ nên câu chữ trau chuốt. Có thể ông chủ trương nhìn mặt “tích cực” của xã hội chăng? Tôi vẫn tôn trọng ý hướng này của ông. Tuy nhiên, phần tôi, tôi có suy nghĩ khác.

Khi lòng yêu nước, truyền thống chống ngoại xâm, nghĩa xóm làng, lòng trung thực, lòng nhân hậu… đều bị “đấu tố” bởi lực lượng cầm quyền chính thống của xã hội, thì xã hội đã bị băng hoại tới mức quá đáng sợ rồi. Nhà văn, nhà thơ hẳn phải có cái nhìn dự báo, phải thấy trước để biết sợ rằng rằng nếu tiếp tục chính thể độc tài toàn trị thì Việt Nam sẽ tiến rất nhanh tới mức độ Bắc Hàn! Cho nên, cần đấu tranh trực diện với thế lực chính thống kia đang kéo đất nước ngược chiều tiến của văn minh nhân loại! Cái thế lực đang đàn áp và tiêu hủy hết những “người tốt ở VN”. Tranh đấu với thế lực đó để con số “người tốt ở VN” tăng lên gấp vạn lần, sự hiện diện của họ trong xã hội là phổ quát tự nhiên, chứ không phải là con số nhỏ được sơn phết để ru ngủ nhân dân!

Nếu chúng ta cứ an phận và cảm nhận “như được an ủi, như được cổ vũ, như được truyền lửa” bởi “người tốt như thế, tận tâm như thế, lòng ngay dạ thẳng như thế” thì e rằng tới lúc nào đó, trên nước Việt Nam này con số những “người tốt như thế” chẳng còn lại bao nhiêu!

Tình trạng ngân sách các địa phương thiếu hụt và các thách thức?

Tình trạng ngân sách các địa phương thiếu hụt và các thách thức?

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2015-12-09

Tỉnh Cà Mau hiện có hơn 40km bờ biển bị sạt lở nguy hiểm, phải chờ vốn hỗ trợ của T.Ư vì ngân sách tỉnh đang gặp khó

Tỉnh Cà Mau hiện có hơn 40km bờ biển bị sạt lở nguy hiểm, phải chờ vốn hỗ trợ của T.Ư vì ngân sách tỉnh đang gặp khó

Courtesy docbao.biz/ĐSPL

Sau Bạc Liêu là đến Cà Mau… là các tỉnh bị thiếu hụt ngân sách địa phương và trở thành các con nợ. Và còn bao nhiêu cơ quan nữa đang ở trong tình trạng như vậy?

Nguyên nhân do đâu và giải pháp gì để khắc phục tình trạng này?

Nguyên nhân

Những ngày qua, dư luận xã hội nóng lên về tin Thành ủy Bạc Liêu hết tiền hoạt động, tiếp đó là thành phố Cà Mau hết tiền trả lương, phải xin tạm ứng ngân sách năm sau để chi tiêu. Điều đó cho thấy, tình trạng thiếu hụt ngân sách đã làm ảnh hưởng tới hoạt động của một số địa phương.

Đánh giá về tình trạng thâm hụt của ngân sách địa phương hiện nay, TS. Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện phản biện IDS nhận định:

“Đây là hiện tượng không phải là mới, cái này đã được các chuyên gia cảnh báo và thảo luận từ vài ba năm trước. Nó chỉ là lạ và mới khi báo chí chính thống đưa tin một cách mạnh mẽ hơn. cần phải biết chuyện một cơ quan chính phủ hoặc một địa phương mà kẹt không có tiền để chi đã xảy ra nhiều lần rồi. Theo tôi, đây là hiện tượng có vẻ như lên gân một chút trước Đại hội đảng CSVN lần thứ 12, mà một cánh này cánh nọ muốn chứng minh một cái gì đó.”

Khi được hỏi, nguyên nhân do đâu khiến tình trạng thâm hụt ngân sách địa phương trở thành một vấn đề phổ biến?

Nguyên nhân trước hết là do nguồn thu của địa phương không cân đối với yêu cầu chi tiêu, TS. Nguyễn Minh Phong, Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế – Xã hội Hà Nội giải thích:

“Nguyên nhân là do các địa phương có thể sử dụng hình thức tạm ứng ngân sách trước, họ có thể cho các chủ đầu tư tạm ứng trước và trả nợ sau. Thậm chí họ có thể tạm ứng cả 10 năm ngân sách hay hơn 10 năm ngân sách mà khả năng cho phép, nên đã khiến cho các món nợ đó không có khả năng trả được. Đây chính là lý do về khả năng quản lý, đồng thời nó cũng có thể là sự bóp méo của lợi ích nhóm, tư duy nhiệm kỳ ”

Còn TS. Nguyễn Quang A thấy rằng, ở hầu hết các nước, mỗi năm quốc hội thông qua một luật ngân sách riêng cho tài khóa tiếp theo, trong đó quy định hết sức rõ tất cả các khoản chi chính và phân bố chi tiết các khoản chi đó cho các đơn vị. Hành pháp muốn tiêu hơn thì chính phủ phải xin quốc hội sửa luật. Còn ở VN, đến nay không có luật ngân sách nhà nước. Ông nói:

“ Đây là hiện tượng không phải là mới, cái này đã được các chuyên gia cảnh báo và thảo luận từ vài ba năm trước. Nó chỉ là lạ và mới khi báo chí chính thống đưa tin một cách mạnh mẽ hơn. cần phải biết chuyện một cơ quan chính phủ hoặc một địa phương mà kẹt không có tiền để chi đã xảy ra nhiều lần rồi

  1. Nguyễn Quang A”

“Nguyên nhân gốc rễ của vấn đề ngân sách của VN cốt yếu là ở chỗ, Luật Ngân sách của VN là một cái luật khung, để cho bên hành pháp có thể tùy ý du di cái việc chi tiêu. Một khi trên cùng đã như thế thì xuống đến địa phương thì cũng vậy.”

Tính hình thức trong việc lập dự toán ngân sách hàng năm hiện nay còn nhiều bất cập, và đã không phản ánh được thực chất nhu cầu ngân sách hàng năm của các địa phương. TS. Nguyễn Minh Phong chia sẻ:

“Bộ Tài chính giao hay duyệt dự toán (ngân sách) cũng căn cứ vào quá khứ, xem là ngân sách năm trước địa phương đã sử dụng đến đâu, càng thừa thì càng cắt và khi duyệt thì phải cắt một mẩu, không bao giờ cấp như nhu cầu xin cả. Cái đó nó đã trở thành công thức, vì thế để thích ứng với quy luật đó thì cấp địa phương vừa xin nhiều lên và tiêu nhiều hơn, như là một cách thức để chứng minh sự nghiêm túc, tính hiện thực của các dự án và là thành tích để chấm điểm thi đua.”

Nhiều nhà thầu ứng trước tiền để thi công đường giao thông lâm cảnh khó khăn do UBND huyện Phước Long tỉnh Bạc Liêu chậm thanh toán nợ - Ảnh: C.Quốc

Nhiều nhà thầu ứng trước tiền để thi công đường giao thông lâm cảnh khó khăn do UBND huyện Phước Long tỉnh Bạc Liêu chậm thanh toán nợ – Ảnh: C.Quốc

Theo báo Tiền phong online ngày 5/12, ông Võ Thành Hưng – Vụ trưởng Vụ Ngân sách Bộ Tài chính cho biết, tháng 10/2015, Bộ Tài chính đã có văn bản hỏa tốc gửi các địa phương về định hướng xử lý những nơi có khả năng hụt thu. Theo ông Hưng, bản chất ở đây là mất cân đối ngân sách địa phương là do nợ xây dựng cơ bản và sâu xa là cách thức điều hành ngân sách địa phương chưa tốt và về nguyên tắc, địa phương phải tự cân đối thu chi.

Hậu quả

“ Tạo mọi điều kiện khuyến khích cho người dân làm ăn, phá bỏ mọi rào cản phi lý mà chính quyền đặt ra với các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh. Có như thế thì người ta mới có tiền nộp thuế. Cũng như cần phải cải cách hệ thống thu, mạnh mẽ hơn trong việc thu thuế thu nhập cá nhân và thu thuế tài sản

Nguyễn Quang A”

Nói về hậu quả của tình trạng thiếu hụt ngân sách ở các địa phương sẽ tác động đến sự ổn định của nền kinh tế, TS. Nguyễn Quang A cảnh báo:

“Chuyện của Bạc liêu và Cà mau chỉ là chuyện vặt, nó cũng như các chiếc lá héo thì nó rụng. Vấn đề cốt lõi là ở chỗ, nếu vấn đề ngân sách nhà nước, kể cả trung ương và địa phương, nếu tiếp tục hành xử như hiện nay mà không có các cải cách cụ thể như: cải cách Luật Ngân sách; phải siết chặt kỷ luật ngân sách v.v… thì khả năng “cây” ngân sách sẽ đổ là điều chắc chắn. Tuy nhiên, không phải là nó sẽ đổ ngay, chuyện Bạc liêu và Cà mau chắc chắn không phải là các quân domino đầu tiên đẩy cho cái “cây” ngân sách sụp đổ. Cái đó nó vẫn có khả năng duy trì, song nếu như vẫn cứ tiếp tục như thế này, như hiện nay và mấy chục năm vừa qua thì ngày nó sẽ sụp đổ là điều chắc chắn.”

Giải thích lý do tình trạng thiếu hụt ngân sách ở một số địa phương trong thời gian gần đây, một cán bộ của Vụ Ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính đề nghị dấu danh tính giải thích với chúng tôi:

“Trên thực tế có tới 50 tỉnh thành thu không đủ chi,  và do thu không đủ chi nên ngân sách các địa phương còn có một khoảng cách rất xa so với nhu cầu chi ở địa phương. Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội ở địa phương, nên họ có thể công khai hay không công khai huy động các nguồn lực khác. Vô tình nó đã dẫn đến nghĩa vụ nợ cho các chính quyền địa phương. ”

Nói về các giải pháp cần thiết để khắc phục tình trạng này, TS. Nguyễn Quang A thấy rằng, trước hết là phải giảm chi tiêu của bộ máy vì chi tiêu cho bộ máy hiện nay chiếm đến 60-70% tổng chi của ngân sách là điều quá bất hợp lý. Theo ông không có quốc gia nào trên thế giới có một bộ máy quản lý biếng nhác và kém hiệu quả như ở VN. Ông nói:

“Bước đầu tiên là phải cắt giảm quân số của bộ máy nhà nước, cái thứ 2 là phải tăng nguồn thu cho bền vững. Phải làm sao cho các nguồn thu đều đặn và để cho nó phát triển chứ đừng tận thu để cho nó chết rồi không có chỗ để tghu. Tạo mọi điều kiện khuyến khích cho người dân làm ăn, phá bỏ mọi rào cản phi lý mà chính quyền đặt ra với các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh. Có như thế thì người ta mới có tiền nộp thuế. Cũng như cần phải cải cách hệ thống thu, mạnh mẽ hơn trong việc thu thuế thu nhập cá nhân và thu thuế tài sản.”

Nhìn chung qua trao đổi với chúng tôi, các chuyên gia kinh tế đều có một nhận xét chung là, việc quản lý thu chi ngân sách ở VN còn quá nhiều bất cập. Và điều đó đã dẫn đến tình trạng sử dụng ngân sách không có hiệu quả và đang gây thất thoát rất lớn.

Tư duy và lợi ích nhóm cản trở cổ phần hóa

Tư duy và lợi ích nhóm cản trở cổ phần hóa

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2015-12-09

Tập đoàn Vinashin làm thất thoát 86.000 tỷ đồng và đã bị xóa sổ năm 2013

Tập đoàn Vinashin làm thất thoát 86.000 tỷ đồng và đã bị xóa sổ năm 2013

Photo tinmoi.vn

Hướng tới nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã tiêu tốn quĩ thời gian 25 năm mà vẫn dở dang con đường tư nhân hóa được ngụy trang với tên gọi cổ phần hóa. Vì sao xảy ra sự trì chậm này và chương trình  cổ phần hóa một cách chưa thực chất đã mang lại những hệ lụy gì.

Không hoàn thành kế hoạch cổ phần hóa DNNN

Đảng và Nhà nước Việt Nam thường sử dụng nhóm từ gọi là những yếu tố do lịch sử để lại khi xảy ra các vấn đề trì trệ và sửa đổi chậm. Trước cuộc đổi mới lịch sử 1986, Việt Nam có 12.000 doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn.  Gần 30 năm sau, đầu năm 2014 Việt Nam còn 1.200 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước. Xét về qui mô khối lượng thì đã giảm đi rất nhiều, nguyên do thời kỳ bao cấp toàn bộ doanh nghiệp lớn nhỏ đều là quốc doanh. Thực tế sau đổi mới, nhiều doanh nghiệp bị giải thể, một số lớn doanh nghiệp quốc doanh vừa và nhỏ được cổ phần hóa, nhưng nhà nước vẫn giữ cổ phần chi phối.

Doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hóa thực chất vẫn do Nhà nước lãnh đạo và nắm số lượng cổ phần hơn 51% thậm chí 80%-90% . Thí dụ điển hình, trong giai đoạn từ 1992 đến 2004 có 2.025 Doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa, nhưng tổng số tiền thu được chỉ khoảng 800 triệu USD. Hoặc theo tài liệu trên trang mạng Đầu tư Chứng khoán, 10 thương vụ cổ phần hóa lớn nhất giai đoạn 2005-2011 cũng chỉ là 1,4 tỷ USD và sau cổ phần hóa Nhà nước vẫn nắm phần vốn rất lớn của 9 doanh nghiệp quan trọng, số cổ phần bán ra cho tư nhân chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ dưới 10%.

Nguyên nhân nào khiến ba thập niên với biết bao nghị quyết của Đảng và Nhà nước mà vẫn không hoàn thành kế hoạch cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước, dù đây là một mấu chốt quan trọng của cải cách thể chế. Bà Phạm Chi Lan, Chuyên gia kinh tế hiện sống và làm việc ở Hà Nội nhận định:

“ Có nhiều nguyên nhân khác nhau, điều đầu tiên là cho đến bây giờ ĐCS và Nhà nước VN vẫn khẳng định kinh tế Nhà nước là chủ đạo. Trong kinh tế Nhà nước thì Doanh nghiệp Nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng hàng đầu, khi vẫn còn tính họ nằm trong khu vực chủ đạo thì rất khó cổ phần hóa

Bà Phạm Chi Lan”

“ Có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau, điều đầu tiên là cho đến bây giờ Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam vẫn khẳng định kinh tế Nhà nước là chủ đạo. Trong kinh tế Nhà nước thì Doanh nghiệp Nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng hàng đầu, khi vẫn còn tính họ nằm trong khu vực chủ đạo thì rất khó cổ phần hóa hoặc cải cách họ một cách triệt để được. Nhiều khi Chính phủ còn coi Doanh nghiệp Nhà nước là công cụ để điều tiết vĩ mô để thực hiện các chính sách kinh tế ..v..v.. Nếu suy nghĩ coi trọng Doanh nghiệp Nhà nước như vậy sẽ đi cùng với việc muốn giữ một khu vực Doanh nghiệp Nhà nước lớn, chứ không sẵn sàng thực hiện tái cơ cấu như đã đề ra. Đấy là điều thứ nhất về tư duy như vậy là vẫn chưa thay đổi về cách nhìn nhận đối với Doanh nghiệp Nhà nước và đối với Khu vực Kinh tế Nhà nước nói chung.”

Bên cạnh vấn đề tư duy chưa thay đổi về vai trò lãnh đạo nền kinh tế của Doanh nghiệp Nhà nước. Chuyên gia Phạm Chi Lan nhấn mạnh tới một yếu tố đặc biệt quan trọng khác. Bà nói:

Công ty Vinamilk

Công ty Vinamilk

“ Điều thứ hai là lợi ích nhóm chắc chắn có ở đây, cả khu vực Doanh nghiệp Nhà nước cộng lại thì có thể nói cũng là một nhóm lợi ích lớn. Khi họ có lợi ích rất nhiều trong việc được quyền tiếp cận và sử dụng các nguồn lực của quốc gia. Cho đến nay Doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn đang sử dụng khoảng 50% tổng nguồn vốn của đất nước, kể cả nguồn tín dụng cũng như vốn của khu vực công hay vốn ODA chẳng hạn, họ còn sử dụng một nguồn lực rất lớn và với cách làm ăn thua lỗ, nó có thể lỗ cho doanh nghiệp nhưng tiền có thể chảy về túi của một số ai đó có quyền lực. Rõ ràng những nhóm lợi ích này họ thích một cơ chế mù mờ như hiện nay hơn một cơ chế dứt khoát Doanh nghiệp Nhà nước phải đặt dưới sự giám sát của cả xã hội, phải chấp nhận những điều kiện như là TPP đang đưa ra đối với Doanh nghiệp Nhà nước.”

Sự thảm bại của doanh nghiệp nhà nước

Nền kinh tế tài chánh lâm vào trì trệ do cuộc khủng hoảng bất động sản kéo dài và sự thảm bại của một số Tập đoàn kinh tế Tổng Công ty Doanh nghiệp Nhà nước, điển hình là sự kiện Tập đoàn Vinashin làm thất thoát 86.000 tỷ đồng và bị xóa sổ. Năm 2012 Việt Nam tiến hành tái cơ cấu nền kinh tế trong đó có tái cơ cấu Doanh nghiệp Nhà nước.

Đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn ngoài ngành của Doanh nghiệp Nhà nước là những biện pháp quan trọng trong chương trình tái cơ cấu. Theo mục tiêu đề ra, thoái vốn ngoài ngành phải hoàn tất vào ngày 31/12/2015,  nhưng cũng như vấn đề cổ phần hóa, thoái vốn ngoài ngành của Doanh nghiệp Nhà nước cũng lỗi hẹn.

“ Việt nam khác với các nước nếu mà nói tư nhân hóa thì dị ứng, có nghĩa là trái với xã hội chủ nghĩa. Cách tư duy như vậy cũng là lỗi thời không đúng

PGSTS Ngô Trí Long”

Liên quan đến hoạt động thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp, vào trung tuần tháng 11 vừa qua, Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng trình bày trước Quốc cho biết, khu vực Doanh nghiệp Nhà nước hiện vẫn còn rất nhiều vốn phải thoái từ 1,2 – 1,3 triệu tỷ đồng. Theo lời ông Bộ trưởng, tính chung cả giai đoạn từ 2000 đến nay mới bán khoảng 5% vốn cần phải rút về, tức vào khoảng 55 đến 57 nghìn tỷ đồng.  Bộ trưởng nhìn nhận chương trình chưa thành công dù đã nỗ lực hết sức. Riêng  giá trị phần vốn nhà nước bán được trong giai đoạn 2011 – 2015 khoảng 27.000 tỷ đồng, thu về 35.169 tỷ đồng, lãi hơn 8.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, 27 ngàn tỷ này chỉ tương đương khoảng 2,1% vốn nhà nước tại DN cần phải thoái. Cùng với vấn đề thoái vốn đầu tư ngoài ngành của Doanh nghiệp Nhà nước, năm 2015 ghi nhận khủng hoảng ngân sách trầm trọng và Chính phủ chỉ đạo bán hết cổ phần Nhà nước ở 10 doanh nghiệp lớn đã cổ phần hóa, trong đó có đại công ty Vinamilk là một trong những gương mặt nổi bật.

Nhận định về vấn đề liên quan, PGSTS Ngô Trí Long chuyên gia kinh tế từ Hà Nội phát biểu:

“ Việt nam khác với các nước nếu mà nói tư nhân hóa thì dị ứng, có nghĩa là trái với xã hội chủ nghĩa. Cách tư duy như vậy cũng là lỗi thời không đúng, cho nên hiện nay yêu cầu thoái vốn nhà nước đối với những lĩnh vực mà nhà nước không cần đầu tư, mà tư nhân có thể đầu tư vào thì cần phải thoái. Đây là quan điểm hoàn toàn đúng với cơ chế thị trường. Điều này thể hiện việc chú ý tới động lực phát triển khu vực tư nhân. Nhưng việc thực thi có đúng hay không thì hãy chờ đợi, nghe thì biết để đó thôi.”

Nhiều chuyên gia trong đó có bà Phạm Chi Lan cho rằng tư duy Kinh tế Nhà nước chủ đạo nền kinh tế và nhóm lợi ích đã làm chậm tiến trình cổ phẩn hóa, tái cơ cấu khu vực Doanh nghiệp Nhà nước. Tuy vậy Việt Nam không thể chậm trễ hơn nữa trong bối cảnh hội nhập sâu rộng với thế giới.

Bằng vào số nợ phải trả năm 2014 lên tới hơn 1,7 triệu tỷ đồng tương đương 44,2% GDP của 781 doanh nghiệp mà Nhà nước giữ 100%, sẽ có thể lý giải sự sốt ruột như thế nào của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng . Trong phiên họp thường kỳ cuối tháng 11/2015 vừa qua, ông Dũng đã chỉ đạo các Bộ ngành đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa thoái vốn ở các Doanh nghiệp Nhà nước. Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gây sự chú ý đặc biệt trong công luận, xin trích nguyên văn: “Doanh nghiệp Nhà nước tập trung đẩy mạnh tiến độ lên, cái nào tư nhân mua được mà họ quản lý tốt thì các đồng chí bán luôn đi để chúng ta thu hồi vốn đầu tư vào những lĩnh vực cần thiết quan trọng khác.”

DỤC VỌNG

DỤC VỌNG

Dịch giả: Tiểu Thiện

Có người hỏi Thiền sư: “Điều đáng sợ nhất trên cõi đời này là gì?”

Thiền sư đáp: “Dục vọng!”

Người đó lộ vẻ hoài nghi.

Thiền sư nói: “Hãy để tôi kể vài câu chuyện cho ông nghe vậy”.

Truyện thứ nhất: Bạc vàng đáng sợ

Một vị tăng nhân hốt hoảng từ trong rừng chạy đến, vừa khéo gặp hai người bạn vô cùng thân thiết đang tản bộ bên rừng. Họ hỏi vị tăng nhân: “Chuyện gì mà ông hốt hoảng quá vậy?”.

Vị tăng nhân nói: “Thật là kinh khủng, tôi đào được một đống vàng ở trong rừng!”.

Hai người bạn, không nhịn được liền nói: “Thật đúng là tên đại ngốc! Đào được vàng, việc tốt như thế mà ông lại cho là kinh khủng, thật không thể hiểu nổi!”.

Thế là họ lại hỏi vị tăng nhân kia: “Ông đào được vàng ở đâu? Chỉ cho chúng tôi xem với!”.

Vị tăng nhân nói: “Thứ xấu xa như thế, các ông không sợ sao? Nó sẽ nuốt chửng người ta đấy!”.

Hai người kia gạt phăng, hùng hổ nói: “Chúng tôi không sợ, ông mau mau chỉ chỗ xem nào!”.

Vị tăng nhân nói: “Chính là bên dưới cái cây ở bìa rừng phía tây”.

Hai người bạn liền lập tức tìm đến chỗ vị tăng nhân vừa chỉ, quả nhiên phát hiện được số vàng đó. Người này liền nói với người kia rằng: “Tên hòa thượng đó đúng là ngốc thật, thứ vàng bạc mà mọi người đều khao khát đang ở ngay trước mắt, thế mà lại trở thành quái vật ăn thịt người”. Người kia cũng gật đầu đồng tình.

VANG

Thế là họ bàn với nhau làm thế nào để chuyển số vàng này về nhà. Một người trong đó nói: “Ban ngày mà đem nó về thật không an toàn cho lắm, hay là đêm đến chúng ta mới vận chuyển, vậy sẽ chắc ăn hơn. Tôi ở lại đây canh chừng, ông hãy về mang chút cơm rau trở lại, chúng ta ăn cơm rồi đợi đến trời tối mới chuyển số vàng này về nhà”.

Người kia liền làm theo người bạn nói. Người ở lại nghĩ : “Nếu như số vàng này đều thuộc về sở hữu của riêng ta thì hay biết mấy! Đợi hắn quay lại, ta hãy dùng cây gậy gỗ đánh chết đi, vậy thì toàn bộ số vàng này là của ta hết rồi”.

Thế là khi người bạn đem cơm rau đến khu rừng, người kia liền từ phía sau lưng dùng gậy gỗ đánh mạnh vào đầu khiến ông ta chết ngay tại chỗ, sau còn nói rằng: “Bằng hữu ơi, chính là số vàng này buộc tôi phải làm như vậy”.

Sau đó ông ta vớ lấy thức ăn mà người bạn mang đến, ăn ngấu nghiến. Chưa được bao lâu, người này cảm thấy rất khó chịu, trong bụng giống như bị lửa thiêu đốt. Khi đó, ông ta mới biết rằng mình đã bị trúng độc. Trước lúc chết, ông mới nói rằng: “Lời hòa thượng đó nói quả thật không sai!”.

Đây thật là ứng với lời người xưa để lại: Người chết vì tiền tài, chim chết vì miếng ăn. Đều là họa do lòng tham đưa đến, chính dục vọng đã khiến người bạn thân nhất trở thành kẻ thù không đội trời chung.

Truyện thứ hai: Người nông dân mua đất

Có một người nông dân muốn mua đất, ông ta nghe nói một người ở vùng khác có đất muốn bán, liền quyết định đến đó hỏi thăm. Người bán đất nói với ông ta rằng: “Chỉ cần giao một nghìn lạng bạc, ta sẽ cho ông thời gian một ngày, bắt đầu tính từ lúc mặt trời mọc, đến khi mặt trời lặn xuống núi, ông có thể dùng bước chân khoanh tròn được bao nhiêu đất, thì số đất đó sẽ chính là của ông, nhưng nếu ông không trở về nơi khởi điểm, thì ngay cả một tấc đất ông cũng sẽ không có được”.

Người nông dân đó nghĩ thầm: “Nếu như hôm nay ta vất vả một chút, đi nhiều đường hơn một chút, thì chẳng phải có thể đi được vòng rất lớn, theo đó sẽ có được một mảnh đất rất lớn hay sao? Làm ăn như vậy quả thật là rất có lợi!”. Thế là ông ta liền ký kết giao ước cùng người chủ đất đó.

DI TIM DAT

Mặt trời vừa mới nhô lên, ông ta liền cất bước thật dài đi nhanh về phía trước; đến giữa trưa, bước chân của ông vẫn không dừng lại giây phút nào, cứ mãi đi về phía trước, trong lòng nghĩ: “Hãy ráng chịu đựng một hôm nay, sau này sẽ có thể hưởng thụ hồi báo của vất vả hôm nay mang đến rồi”.

Ông ta cứ thế tiếp tục đi về phía trước, đến khi mặt trời sắp lặn rồi mới chịu quay trở về, trong lòng vô cùng lo lắng, bởi vì nếu như không về kịp thì một tấc đất cũng chẳng có. Thế là ông ta vội vàng trở về theo đường tắt. Tuy nhiên, mặt trời sắp xuống núi, ông ta đành phải liều mạng mà chạy, cuối cùng chỉ còn thiếu vài bước thì đến vạch khởi điểm, nhưng sức lực đã cạn kiệt, ông ngã nhào xuống nơi đó.

Dục vọng của con người và ranh giới với hiện thực mãi mãi cũng không cách nào vượt qua được, bởi lòng tham là vô đáy. Con người mãi mãi không biết thỏa mãn, đây chính là khuyết điểm lớn nhất trong nhân cách.

Truyện thứ ba: Phật và ma

Có một họa sĩ rất nổi tiếng, ông muốn vẽ Phật và ma, nhưng không tìm được người làm mẫu phù hợp, vì đầu óc ông không tài nào tưởng tượng ra nổi hình dáng của Phật, nên rất lo lắng. Trong một lần tình cờ, ông lên chùa bái lạy, vô tình nhìn thấy một hòa thượng. Khí chất trên vị hòa thượng này đã thu hút người họa sĩ sâu sắc. Vậy là ông liền đi tìm vị hòa thượng đó, hứa cho hòa thượng một số tiền lớn để làm người mẫu cho ông.

Về sau, tác phẩm của họa sĩ đã hoàn thành, gây chấn động ở vùng đó. Nhà họa sĩ nói: “Đó là bức tranh vừa ý nhất mà tôi từng vẽ qua, bởi người làm mẫu cho tôi quả khiến người ta vừa nhìn thấy nhất định cho rằng anh ta chính là Phật, loại khí chất thanh thoát an lành trên người anh có thể cảm động bất kì ai”.

Người họa sĩ sau đó đã cho vị hòa thượng đó rất nhiều tiền như lời đã hứa.

Cũng nhờ bức tranh này, mọi người không còn gọi ông là họa sĩ nữa, mà gọi ông là “họa Thánh”.

Bẵng đi một thời gian, họa sĩ chuẩn bị bắt tay vào việc vẽ ma, nhưng điều này lại trở thành một vấn đề khó của ông, vì chẳng biết tìm hình tượng ma quỷ ở đâu. Ông đã hỏi thăm rất nhiều nơi, tìm rất nhiều người có vẻ ngoài hung dữ, nhưng không ai vừa ý cả.

Cuối cùng, ông tìm được trong nhà tù một tù nhân rất phù hợp với đối tượng ông cần vẽ. Họa sĩ vô cùng mừng rỡ, nhưng khi ông đối diện phạm nhân đó, người này đột nhiên khóc lóc đau khổ trước mặt ông.

Nhà họa sĩ rất lấy làm kinh ngạc, liền hỏi rõ ngọn ngành.

Người phạm nhân đó nói: “Tại sao lần trước khi người mà ông tìm để vẽ Phật là tôi, bây giờ khi vẽ ma quỷ, người ông tìm đến vẫn là tôi!”

Người họa sĩ giật cả mình, thế là ông lại nhìn kỹ người phạm nhân đó, rồi nói: “Sao lại có thể chứ? Người mà tôi tìm để vẽ Phật ấy khí chất phi phàm, còn cậu xem ra chính là một hình tượng ma quỷ thuần túy, sao lại có thể là cùng một người được? Điều này thật kì lạ, quả thật khiến người ta không thể nào lý giải được”.

Người kia đau khổ bi ai nói: “Chính là ông đã khiến tôi từ Phật biến thành ma quỷ”.

Họa sĩ nói: “Sao cậu lại nói như vậy, tôi vốn đâu có làm gì đối với cậu đâu”.

Ngươi đó nói: “Kể từ sau khi tôi nhận được số tiền ông cho, liền đi đến những chốn ăn chơi đàng điếm để tìm thú vui, mặc sức tiêu xài. Đến sau này, tiền tiêu sạch hết, mà tôi lại đã quen với cuộc sống đó rồi, dục vọng đã khởi phát mà không thể thu hồi lại được. Thế là tôi liền giật tiền người ta, còn giết người nữa, chỉ cần có được tiền, chuyện xấu gì tôi cũng có thể làm, kết quả đã thành ra bộ dạng này của ngày hôm nay đây”.

Người họa sĩ nghe xong những lời này, cảm khái vạn phần, ông sợ hãi than rằng bản tính con người trước dục vọng lại biến đổi mau chóng đến thế. Con người chính là yếu nhược như vậy đó. Thế là ông áy náy quăng cây bút vẽ xuống đất, từ đó về sau không còn vẽ bức tranh nào nữa.

Con người ta, một khi rơi vào trong cạm bẫy “theo đuổi ham muốn vật chất”, thì rất dễ đánh mất bản thân mình, muốn thoát ra khỏi đã trở thành mục tiêu rất khó khăn, vậy nên bản tính con người không thể đi cùng với lòng tham.

Thiền sư kể xong mấy câu chuyện, nhắm nghiền mắt lại không nói gì cả, còn người kia đã biết được đáp án từ trong những câu chuyện này: Thì ra điều đáng sợ nhất trên cõi đời này chính là dục vọng, dục vọng của người ta càng nhiều, thì sẽ càng không thỏa mãn, vậy nên sẽ càng không vui vẻ và phiền não vì thế cũng sẽ càng nhiều hơn.

Hiện tượng phản-ngôn ngữ ở Việt Nam

Hiện tượng phản-ngôn ngữ ở Việt Nam

Nguyễn Hưng Quốc

Trên báo chí trong nước, thỉnh thoảng có một số người còn nhiều tâm huyết lên tiếng báo động về tình trạng khủng hoảng của tiếng Việt. Bằng chứng họ nêu lên thường là những cách viết tắt, cố tình sai chính tả hoặc pha nhiều tiếng nước ngoài của giới trẻ trên facebook hay các blog. Nhưng dường như chưa ai thấy điều này: sự khủng hoảng trong tiếng Việt chủ yếu nằm trong lãnh vực chính trị và xuất phát từ giới cầm quyền. Nó nằm ngay trong các nghị quyết của đảng, các bài diễn văn của giới lãnh đạo và, cụ thể nhất, trên trang báo Nhân Dân hay Tạp chí Cộng sản, rồi từ đó, lan đi khắp nơi, trên các cơ quan truyền thông cũng như ở miệng của các cán bộ và đảng viên các cấp.

Không phải người ta không thấy những sự khủng hoảng ấy. Thấy nên phản ứng. Có ba loại phản ứng chính.

Thứ nhất, không tin những gì chính quyền nói. Một trong những câu nói được nhắc nhở nhiều nhất của ông Nguyễn Văn Thiệu, nguyên Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, là: “Đừng nghe những gì cộng sản nói”. Xin lưu ý: câu nói ấy chỉ thực sự gây tiếng vang và được phổ biến rộng rãi chủ yếu sau năm 1975, lúc ông Thiệu đã trở thành con người của quá khứ.

Thứ hai, chính những người cộng sản, ngay cả cộng sản cao cấp, cũng thấy thẹn thùng khi sử dụng loại ngôn ngữ họ sáng chế và từng ra sức áp đặt lên xã hội. Có thể nêu lên hai ví dụ. Một là với chữ “đồng chí”. Trước, đó là cách xưng hô chính thức và phổ cập. Sau, nó chỉ hiện hữu trong các cuộc hội nghị. Nói chuyện với nhau, hầu như không ai gọi nhau là “đồng chí” nữa. Nghe chữ “đồng chí” là sợ: nó báo hiệu một màn đấu đá hoặc một tai họa (1). Ngay ở Trung Quốc, chính quyền cũng khuyên dân chúng hạn chế dùng chữ “đồng chí” trên các phương tiện giao thông công cộng (2). Hai là chữ “cộng sản”.

Với nhiều người, kể cả đảng viên, cứ nghe người khác gọi mình là “cộng sản”, họ có cảm giác như nghe một lời chửi mắng. Chứ không có chút tự hào trong đó cả. Nhớ, đã khá lâu, trong một cuộc gặp gỡ ở Úc, một người là đảng viên khá cao cấp, hiện đang làm việc trong ngành truyền thông ở Việt Nam, nhắc đến cuốn Văn học Việt Nam dưới chế độ cộng sản (1991 & 1996) của tôi, rồi hỏi: “Sao anh không đặt nhan đề là ‘Văn học dưới chế độ xã hội chủ nghĩa’ nhỉ?” Tôi ngạc nhiên hỏi lại: “Thế có khác gì nhau không?” Anh ấy đáp: “Khác chứ. Chữ ‘xã hội chủ nghĩa’ nghe thanh lịch hơn; còn chữ ‘chế độ cộng sản’ nghe ghê quá, cứ như một lời kết án.” Tôi lại hỏi: “Anh là đảng viên mà cũng có ấn tượng vậy sao?” Anh ấy đáp, thật thà: “Đó là ấn tượng chung của toàn xã hội mà. Tên đảng thì không ai dám đổi, nhưng trong đời sống hàng ngày, nghe mấy chữ ấy, mình cũng thấy ngài ngại.”

Thứ ba, phản ứng lại sự lũng đoạn ngôn ngữ của chính quyền dưới hình thức phản-ngôn ngữ (anti-language) qua những cách nói hoàn toàn bất chấp nguyên tắc ngữ nghĩa cũng như ngữ pháp thông thường.

Hiện tượng phản-ngôn ngữ, vốn xuất hiện và phổ biến ở Việt Nam, đặc biệt là ở miền Bắc, trong vài thập niên trở lại đây, có nhiều hình thức khác nhau.

Nhớ, lần đầu tiên tôi về Việt Nam là vào cuối năm 1996. Lần ấy, tôi ở Việt Nam đến bốn tuần. Một trong những ấn tượng sâu đậm nhất còn lại trong tôi là những thay đổi trong tiếng Việt. Có nhiều từ mới và nhiều cách nói mới tôi chỉ mới nghe lần đầu. Ví dụ, trà Lipton được gọi là “trà giật giật”; cái robinet loại mới, có cần nhấc lên nhấc xuống (thay vì vặn theo chiều kim đồng hồ) trong bồn rửa mặt được gọi là “cái gật gù”; ăn cơm vỉa hè được gọi là “cơm bụi”; khuôn mặt trầm ngâm được mô tả là “rất tâm trạng”; hoàn cảnh khó khăn được xem là “rất hoàn cảnh”; thịt beefsteak được gọi là “bò né”. Sau này, đọc báo trong nước, tôi gặp vô số các từ mới khác, như: “đại gia”, “thiếu gia” (3), “chân dài”, “chảnh” (kênh kiệu) (4), “bèo” (rẻ mạt), “khủng” (lớn); “tám” (tán gẫu); “buôn dưa lê” (lê la, nhiều chuyện), “chém gió” (tán chuyện), “gà tóc nâu” (bạn gái), “xe ôm” (bạn trai), “máu khô” (tiền bạc), “con nghẽo” (xe máy), v.v.
Trong các từ mới ấy, có từ hay có từ dở, tuy nhiên, tất cả đều bình thường. Ngôn ngữ lúc nào cũng gắn liền với cuộc sống. Cuộc sống thay đổi, ngôn ngữ thay đổi theo. Những sản phẩm mới, hiện tượng mới và tâm thức mới dẫn đến sự ra đời của các từ mới. Ở đâu cũng vậy. Tất cả các từ điển lớn trên thế giới đều có thói quen cập nhật các từ mới hàng năm. Có năm số từ mới ấy lên đến cả hàng ngàn. Việt Nam không phải và không thể là một ngoại lệ. Đối diện với những từ mới ấy, có hai điều nên tránh: một, xem đó là những từ ngớ ngẩn rồi phủ nhận tuốt luốt; và hai, xem đó là từ…Việt Cộng và tìm cách chối bỏ chúng.

Tuy nhiên, điều tôi chú ý nhất không phải là sự xuất hiện của các từ mới hay các tiếng lóng mới ấy. Mà là những cách nói mới, rất lạ tai, thậm chí, quái gở, phổ biến khắp nơi, ngay cả trong giới trí thức và văn nghệ sĩ tiếng tăm, đặc biệt ở Hà Nội.
Có thể tóm gọn các cách nói mới ấy vào bốn điểm.

Thứ nhất, hiện tượng dùng nguyên cả một cụm từ hoặc một từ ghép hoặc một tên riêng của một người, một địa phương hoặc một nước để chỉ lấy ra một từ tố trong đó. Ví dụ, thay vì nói “lâu”, người ta nói “Hà Văn Lâu” (hay “Hồng Lâu Mộng”); thay vì nói “đông” (đúc), người ta nói “Hà Đông”; thay vì nói “xa”, người ta nói “Natasha” (chỉ lấy âm cuối, “Sha”, phát âm theo giọng miền Bắc là “xa”); thay vì nói “xinh” (xắn), người ta nói “nhà vệ sinh” (âm /s/ bị biến thành /x/); thay vì nói “tiện”, người ta nói “đê tiện”; thay vì nói “cạn” (ly), người ta nói “Bắc Cạn”; thay vì nói “can” (ngăn), người ta nói “Lương Văn Can”; và thay vì nói “chia” (tiền), người ta nói “Campuchia”. Cuối cùng, người ta có một mẩu đối thoại lạ lùng như sau:

“Đi gì mà Hà Văn Lâu thế?”
”Ừ, tại đường Hà Đông quá!”
”Từ đấy đến đây có Natasa không?”
“Không. À, mà hôm nay em trông hơi nhà vệ sinh đấy nhé!”
“Khéo nịnh! Tí nữa, đi về, có đê tiện, mua giùm em tờ báo nhé!”
“Ừ, mà thôi, bây giờ nhậu đi!”
“Ừ, Bắc Cạn đi, các bạn ơi!”
“Thôi, tôi Lương Văn Can đấy!”
”Này, hết bao nhiêu đấy, để còn Campuchia?”

Thứ hai, hiện tượng dùng chữ “vô tư”. Lúc ở Hà Nội, một trong những từ tôi nghe nhiều nhất là từ “vô tư”. Nó được dùng một cách lạm phát.  Cái gì cũng “vô tư”. Bạn bè, gồm toàn các giáo sư và nhà văn nổi tiếng ở Hà Nội, rủ tôi vào quán thịt cầy. Thấy tôi thoáng chút ngần ngại, họ liền nói: “Cứ vô tư đi mà! Thịt cầy ở đây ngon lắm!” Sau khi uống vài ly rượu, cảm thấy hơi chếnh choáng, tôi xin phép ngưng, họ lại nói: “Không sao đâu, cứ vô tư uống thêm vài ly nữa cho vui. Rượu này ngâm thuốc, bổ lắm!” Cuối tiệc, tôi giành trả tiền, họ lại nói: “Không, bọn tôi đãi, anh cứ vô tư đi!” Cứ thế, trong suốt bữa tiệc hai ba tiếng đồng hồ, tôi nghe không dưới vài chục lần từ “vô tư”. Chữ “vô tư” ấy phổ biến đến độ lọt cả vào trong thơ Nguyễn Duy:

Mình vô tư với ta đi
Vô tư nhau chả cần chi nhiều lời
Vô tư thế chấp đời người
Trắng tay còn chút coi trời bằng vung
Luật chơi cấm kị nửa chừng
Vô tư đặt cọc tận cùng chiếu manh
Liền em vô tư liền anh
Không ngây không dại không đành phải không.

Thứ ba, hiện tượng dùng các phụ từ “hơi bị”. Bình thường, trong tiếng Việt, “bị”, đối lập với “được”, chỉ những gì có ý nghĩa tiêu cực và ngoài ý muốn. Bất cứ người Việt Nam nào cũng biết sự khác biệt giữa hai cách nói “Tôi được thưởng” và “Tôi bị phạt”. Vậy mà, ở Việt Nam, ít nhất từ giữa thập niên 1990 đến nay, ở đâu, người ta cũng nghe kiểu nói “Cô ấy hơi bị hấp dẫn”, “Ông ấy hơi bị giỏi”, “chiếc xe ấy hơi bị sang”, “nhà ấy hơi bị giàu”, hay “bức tranh ấy hơi bị đẹp”, v.v.
Cuối cùng là hiện tượng các thành ngữ mới đã được Thành Phong sưu tập và minh họa trong cuốn Sát thủ đầu mưng mủ (sau đó bị tịch thu, năm 2011), bao gồm những câu kiểu:

ăn chơi sợ gì mưa rơi
buồn như con chuồn chuồn
chán như con gián
chảnh như con cá cảnh
chuyện nhỏ như con thỏ
bực như con mực
cực như con chó mực
đau khổ như con hổ
đen như con mèo hen
đói như con chó sói
đơn giản như đan rổ
dốt như con tốt
đuối như trái chuối
ghét như con bọ chét
già như quả cà
hồn nhiên như cô tiên
im như con chim
lạnh lùng con thạch sùng
ngất ngây con gà tây
ngốc như con ốc
phê như con tê tê
sành điệu củ kiệu
tê tái con gà mái
thô bỉ như con khỉ
tự nhiên như cô tiên
tinh vi sờ ti con lợn
xinh như con tinh tinh

Tất cả những hiện tượng trên đều có một số đặc điểm chung. Thứ nhất, có lẽ chúng xuất phát từ Hà Nội, sau đó, lan truyền ra cả nước, kể cả Sài Gòn. Thứ hai, chúng phổ biến không phải chỉ trong giới trẻ mà còn cả trong giới trí thức lớn tuổi, kể cả giới học giả, giáo sư đại học và văn nghệ sĩ nổi tiếng. Thứ ba, tất cả những cách nói ấy đều ngược ngạo, thậm chí, vô nghĩa. Chả có ai có thể giải thích được những kiểu nói như “buồn như con chuồn chuồn” hay “chán như con gián” hay “im như con chim”, “xinh như con tinh tinh”… trừ một điều duy nhất: chúng có vần vè với nhau. Vậy thôi.

Trong lịch sử tiếng Việt, thỉnh thoảng lại xuất hiện những hiện tượng mới, đặc biệt trong khẩu ngữ, nhiều nhất là trong tiếng lóng. Tuy nhiên, có lẽ chưa bao giờ lại có những hiện tượng nói năng ngược ngạo và vô nghĩa như hiện nay. Ở miền Nam trước năm 1975, người ta làm quen với những kiểu nói như “lính mà em”, “tiền lính tính liền”, “sức mấy mà buồn”, “bỏ đi Tám”, “OK Salem”, “mút mùa Lệ Thủy”, “thơm như múi mít”, “bắt bò lạc”, “một câu xanh rờn”, v.v. Với hầu hết những kiểu nói như thế, người ta có thể hiểu được. Còn bây giờ? Không ai có thể giải thích được. Chúng ngược ngạo đến mức quái đản. Và chúng vô nghĩa đến mức phi lý.

Vậy tại sao chúng lại ra đời, hơn nữa, phổ biến rộng rãi trong xã hội, ngay trong giới có học thuộc loại cao nhất nước?
Dĩ nhiên không phải vì người ta không biết. Biết, chắc chắn là biết; nhưng người ta vẫn chọn những cách nói ấy. Đó là một chọn lựa có ý thức chứ không phải một thói quen vô tình. Sự chọn lựa ấy chỉ có thể được giải thích bằng một cách: người ta muốn nói khác. Khác với cái gì? Với những quy ước ngôn ngữ đang thống trị trong xã hội và thời đại của họ. Khi những cái khác ấy được thực hiện một cách bất chấp luận lý và quy luật, chúng trở thành một thách thức, một sự chối bỏ, hay đúng hơn, một sự phản kháng. Bình thường, không ai phản kháng ngôn ngữ. Bởi ai cũng phải sử dụng ngôn ngữ. Người ta chỉ phản kháng tính chất giả dối, khuôn sáo, cũ kỹ, chật chội trong ngôn ngữ hoặc đằng sau ngôn ngữ: văn hóa, chính trị và xã hội. Bởi vậy, tôi mới xem những cách nói ngược ngạo phổ biến tại Việt Nam hiện nay như một thứ phản-ngôn ngữ: nó là một phần của thứ đối-văn hóa (counter-culture), xuất phát từ động cơ muốn thoát khỏi, thậm chí, chống lại những giá trị, những quy phạm và những chuẩn mực mà người ta không còn tin tưởng và cũng không muốn chấp nhận nữa.

Nói cách khác, nếu việc sử dụng ngôn ngữ trong bộ máy tuyên truyền của đảng và nhà nước Việt Nam mang đầy tính chính trị thì hiện tượng phản-ngôn ngữ đang phổ biến tại Việt Nam hiện nay cũng có tính chính trị. Thứ chính trị trên dựa trên sự áp chế, độc tài và giả dối; thứ chính trị dưới là một sự phản kháng lại thứ chính trị trên nhưng lại dựa trên một thứ chủ nghĩa hư vô đầy tuyệt vọng.

***
Chú thích:

  1. Có thể thấy điều này qua một ví dụ khá tiêu biểu: Bài thơ “Cho một nhà văn nằm xuống” viết nhân cái chết của nhà văn Nguyên Hồng của Trần Mạnh Hảo (1982) bị phê phán kịch liệt. Võ Văn Kiệt, lúc ấy là Bí thư thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh, cho gọi Trần Mạnh Hảo đến gặp. Trần Mạnh Hảo rất sợ. Thế nhưng cảm giác sợ hãi ấy tiêu tan ngay khi ông nghe câu nói đầu tiên của Võ Văn Kiệt: “Hảo à! Đù má… Mày làm cái gì mà dữ vậy?” Trần Mạnh Hảo giải thích: “Anh phải hiểu rằng tính cách người Nam Bộ là thế. Sống với nhau trong cơ quan hay lúc sinh hoạt thường hay dùng câu ĐM kèm theo. Thân tình mới có câu ĐM. Còn đã gọi nhau bằng đồng chí là ‘có chuyện’. Nghe được lời mắng của anh Sáu (Võ Văn Kiệt) lại có kèm ĐM, tôi biết ngay là ‘thoát’.” Chuyện này được thuật lại trong bài “Much Ado About Nothing” của Phạm Xuân Nguyên trên Talawas.
  1. http://www.reuters.com/article/2010/05/31/us-china-comrade-idUSTRE64U0WP20100531
  1. Cả hai từ “đại gia” và “thiếu gia” đều là những từ cũ, ngày xưa; bây giờ được dùng lại.
  1. Gần đây, chữ “chảnh” còn được nói dưới hình thức tiếng Anh bồi là “lemon question” (chanh + hỏi); cũng như chữ “vô tư” còn được nói là “no four” (không = vô + bốn = tư). Giống như trước 1975, người ta từng nói “no star where” – không sao đâu.

BÁC ÁI VÀ BỔN PHẬN

BÁC ÁI VÀ BỔN PHẬN 

Tác giả Ôn Như Nguyễn Ngọc có kể câu chuyện như sau: Gia đình buôn bán nọ chế ra một cái cân để lừa đảo khách.  Cái cân vừa nhẹ vừa nặng và bao giờ phần lợi cũng về phía ông ta.  Vì buôn bán vậy nên chẳng bao lâu ông đã trở nên giàu có.  Lại sinh được hai người con trai hiền lành, học giỏi khôi ngô tuấn tú, ai cũng khen là nhà có đại hồng phúc.

Một hôm, hai vợ chồng bàn nhau: bây giờ hai vợ chồng ta đã dư giả, giàu có không còn thiếu thứ gì ta hãy phá bỏ cái cân kia đi để dành cái đức lại cho con.  Sau khi đem cái cân ra đập.  Khi bể ra thì thấy có đọng một cục máu đỏ hỏn.  Sau đó ít lâu thì hai đứa con bất tử lăn đùng ra chết, làm cho hai vợ chồng khóc lóc thảm thiết.  Được Bụt hiện ra dạy “Hãy tu tĩnh làm ăn không tham lam gian lận.”  Từ đó hai vợ chồng cố gắng làm ăn không gian lận, làm phúc bố thí.  Quả nhiên sau một thời gian sinh được hai đứa con trai khác hiền lành tử tế, văn hay chữ tốt, và sau lớn lên cha mẹ được vẻ vang hạnh phúc.

Qua câu chuyện trên ta thấy hai vợ chồng vì buôn bán gian lận nên hai đứa con bị Trời phạt nhãn tiền.  Điều đáng khen là họ nhận ra mình tội lỗi, và tự biết phục thiện sửa đổi và được tha thứ.  Công việc mà họ phục thiện chính là ăn ngay ở lành, làm phúc bố thí và không buôn bán gian lận.  Nhìn chung lại chính là hãy biết làm tròn bổn phận và sống bác ái.  Tương tự bài Tin Mừng dân chúng cũng lũ lượt kéo đến với Gioan Baotixita và hỏi ông “Tôi phải làm gì?” hay “Tôi phải phục thiện bằng cách nào?” để rước Chúa.  Câu trả lời của Gioan Baotixita không ngoài hai việc chính là:

  1. Sống bác ái

Trong bản văn Tin Mừng không nói rõ là Gioan Baotixita kêu gọi mọi người sống bác ái.  Nhưng qua lời ông yêu cầu mọi người hãy sống tương trợ lẫn nhau: “Ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có gì ăn thì cũng làm như vậy.”  Gioan Baotixita muốn họ làm một công việc bác ái cụ thể giúp tha nhân chứ không phải chờ đợi bằng lời nói xuông.  Thật ra ngày nay chúng ta cũng gặp được nhiều người làm việc từ thiện, làm những công việc bác ái giúp đỡ người nghèo, người tàn tật cơ nhỡ ở khắp nơi.  Nhưng cách làm việc của họ không có được tinh thần bác ái như lời Gioan Baotixita kêu gọi.  Vì đôi khi họ chỉ cho những chiếc “áo cũ”, “áo không mặc nữa.”  Còn Gioan Baotixita thì kêu gọi người ta cho đi cái mình “đang mặc.”  Không thể phủ nhận lòng tốt của mọi người, nhưng nhiều người đã lạm dụng công việc bác ái để đạt được mục đích mà họ muốn, chứ không có chút gì là ái cả.  Cho nên cũng có rất nhiều phần lương thực được giúp cho người nghèo, mà là phần dư thừa chứ không phải tất cả những gì họ có.  Nhưng cũng có những tấm lòng cao cả mà cho đi với tinh thần không đắn đo, không đòi hỏi mà làm việc bằng một con tim hiến dâng.  Điều đó thật đáng khen.

Thực trạng ngày nay đang cần con người sống bác ái với nhau nhiều hơn nữa, biết “nhường cơm xẻ áo.”  Qua thống kê mới đây cho biết trên thế giới có khoảng một tỉ người bị đói vì cuộc khủng hoảng kinh tế.  Bên cạnh đó lại có quá nhiều người dư thừa tiền của.  Nếu tất cả mọi người đều sống theo lời mời gọi cua Gioan Baotixita, thì trên thế giới không còn người đói nghèo và bệnh tật nữa.  Thánh Gioan Baotixita khôngđưa ra một đòi hỏi nào quá sức mình, vì vậy để sống trong tầm tình mùa Vọng, chúng ta không chỉ dọn đường mà còn phải sống bác ái ngay trong đời thường, với những người ở xung quanh ta.  Vì chắc chắn Thiên Chúa sẽ không thích ta sống dư thừa của cải, trong khi người anh em lại thiếu thốn không đủ cung ứng cho nhu cầu của họ.

  1. Làm việc bổn phận

Bài Tin Mừng còn nhắc đến những người thu thuế và lính tráng.  Đối với dân Israel, hai hạng người này bị coi là xấu xa tội lỗi, vì họ tiếp xúc với dân ngoại và nghề nghiệp mang đến cho họ hành vi bất nhân, làm giàu cách bất chính.  Nhưng thánh Gioan Baotixita thì không nghĩ thế, ngài chỉ yêu cầu họ làm đúng, làm tròn và làm tốt công việc mà họ đang làm.  Tiêu biểu đối với người thu thuế ngài nói: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.”  Nghĩa là gian lận trong thu thuế là không hợp với đạo đức.  Với người lính cũng nhận được mệnh lệnh tương tự: “Chớ hà hiếp ai cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.”  Công việc binh nghiệp tự nó đâu phải là xấu, mà cũng chẳng đáng chê trách, chỉ xấu khi người ta lợi dụng nó làm việc bất chính, như hà hiếp, tống tiền…  Lời kêu gọi của Gioan Baotixita thật đơn giản dễ thực hiện.  Nhưng đòi hỏi mỗi người phải thực hiện cách triệt để và quyết liệt.  Vì nếu chúng ta dọn lòng không sửa đổi thì Thiên Chúa sẽ không vào được lòng ta, vì nó đã chứa đầy những bất chính lo âu rồi.  Vậy mỗi người hãy biết ăn năn sám hối để dọn lòng đón Chúa trong mùa vọng này.

Lạy Chúa, xin cho con biết mở lòng ra với tha nhân, để yêu thương chia sẻ những gì mình có, và làm tốt công việc mà Chúa đã giao.  Amen.

Sưu tầm

Từ: langthangchieutim

Mạng xã hội ở Việt nam

Mạng xã hội ở Việt nam

Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-12-08

RFA

12082015-social-media-in-vn.mp3Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Một trong những post trên trang Facebook của Nguyễn Hữu Quốc Duy ở Cam Ranh

Một trong những post trên trang Facebook của Nguyễn Hữu Quốc Duy ở Cam Ranh

Screenshot

Một công chức ở tỉnh An Giang bày tỏ cảm xúc của mình về ông chủ tịch tỉnh đã bị kỷ luật, việc này gây nhiều chỉ trích trên mạng xã hội. Sau đó chính quyền tỉnh này phải tuyên bố là các thủ tục kỷ luật người công chức kia là không đúng.

Một cô giáo cũng bị kỷ luật vì lên tiếng bình luận về chuyện cầu sập ở địa phương, bị kỷ luật, rồi sau đó được chính quyền chính thức xin lỗi.

Một Tiến sĩ khoa học tại Cần Thơ phê bình cách hành xử của nơi ông làm việc trên Facebook cũng bị phê bình, và sau đó vụ việc được báo chí chính thống của nhà nước đề cập đến.

Đó là ba trong số nhiều vụ việc bắt đầu từ mạng xã hội, nhưng sau đó ảnh hưởng đến quyết định của chính quyền.

Sau đây là ý kiến của một số nhà báo, blogger trong nước cũng như nhận định của một số nhà quan sát nước ngoài về hoạt động của mạng xã hội tại Việt nam.

Tác động của mạng xã hội đến chính quyền

Nhận xét về việc này nhà báo Đoan Trang ở Hà nội, đồng thời cũng là một người hoạt động rất tích cực trên mạng xã hội cho biết:

Lâu nay mọi người tưởng, và chính quyền cũng làm cho mọi người tưởng là nói thì cũng chẳng đi về đâu, chẳng thay đổi được cái gì. Nhưng tôi nghĩ rằng nếu nghĩ sâu vào, quan sát kỹ, thì thấy là dư luận có ảnh hưởng đến chính sách của chính quyền thật. Có nhiều chính sách chỉ mới là dự thảo thôi nhưng bị đưa lên mạng xã hội, bị các blogger đánh tơi bời, những chương trình đó, những dự thảo, chính sách đó bị đình lại hết, bị hủy hết. Đương nhiên là chính quyền họ không bao giờ công nhận là họ bị tác động cả, họ không muốn nghĩ rằng người dân có thể thay đổi gì ở chính quyền này cả.”

Chứng minh cho điều đó cô Đoan Trang liệt kê các chính sách đã bị đình lại như là Qui định vòng ngực tối thiểu để được phép chạy xe gắn máy, Qui định về xe chính chủ, Ghi tên cha mẹ vào chứng minh nhân dân,…

Nhà báo Trương Duy Nhất, người từng bị bỏ tù vì hoạt động thông tin qua phương tiện blog cá nhân nói là mạng xã hội thực chất đã trở thành một kênh truyền thông tại Việt nam:

“ Có những trang Facebook có thua gì trang báo đâu, về bài viết, về thông tin, thậm chí họ còn đưa phong phú hơn, nhanh nhạy hơn, khách quan hơn, trung thực hơn là báo, chứ không một chiều như báo. Và những cái hiệu ứng mà những trang Facebook đó tạo ra cho xã hội lan tỏa rất mạnh, rất thực tế hơn các báo

Nhà báo Trương Duy Nhất”

“Có những trang Facebook có thua gì trang báo đâu, về bài viết, về thông tin, thậm chí họ còn đưa phong phú hơn, nhanh nhạy hơn, khách quan hơn, trung thực hơn là báo, chứ không một chiều như báo. Và những cái hiệu ứng mà những trang Facebook đó tạo ra cho xã hội lan tỏa rất mạnh, rất thực tế hơn các báo. Nhiều trang Facebook, blog cá nhân có lượng bạn đọc mà nhiều tờ báo nhìn vào là niềm mơ ước. Nhà nước không cho nó là báo, nhưng thực ra nó là báo, và nó làm thay cho thiên chức của anh nhà báo luôn nữa.”

Nhiều phương áp đàn áp hoạt động của mạng xã hội

Nhưng cũng trong thời gian gần đây, nhiều vụ bắt bớ đã xảy ra với những người hoạt động trên mạng xã hội. Trường hợp gần đây nhất là anh Nguyễn Hữu Quốc Duy tại tỉnh Khánh Hòa, một người mới bắt đầu bày tỏ quan điểm riêng của mình qua phương tiện Facebook. Bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, hay blogger Mẹ Nấm ở Nha Trang nhận xét về việc này:

Hình ảnh cây cầu được cô Hải Âu đăng lên Facebook. (Ảnh: phapluattp.vn)

Hình ảnh cây cầu được cô Hải Âu đăng lên Facebook. (Ảnh: phapluattp.vn)

“Tôi nghĩ các trường hợp mới như bạn Nguyễn Hữu Quốc Duy ở Cam Ranh bị cho là sử dụng Facebook để chống phá nhà nước, trong chiều hướng có một kênh thông tin mở như vậy, thì cái cách trấn áp những người mới để làm họ sợ, thì tôi cho là một cái việc mà cơ quan an ninh thường làm. Cứ dọa trước như vậy, còn ai sợ thì tính sau. Những trường hợp sách nhiễu và trấn áp những người hoạt động xã hội trên mạng như tôi đã xảy ra cách đây một hai năm. Họ muốn xử để làm gương cho những người khác, tạo cái ấn tượng xấu là sử dụng mạng xã hội để bày tỏ thì sẽ rất phiền phức, và họ sẽ tránh. Tôi nghĩ mục đích bên an ninh là như vậy.”

Tuy nhiên các nhà báo và blogger đều cho rằng việc ngăn chận mạng xã hội hoàn toàn ở Việt nam là không thể được. Lý do là Việt nam không có phương tiện để thay thế nó, và nhiều cơ sở kinh tế Việt nam, trong đó có cả các cơ sở của nhà nước cũng sử dụng mạng xã hội cho hoạt động của mình.

Nhà báo Đoan Trang cho rằng trong tương lai gần thì các nhà hoạt động chỉ trích hay phản biện trên mạng xã hội tại Việt nam vẫn có thể tiếp tục bị ngăn cản bằng nhiều hình thức:

“ Theo tôi nghĩ thì mạng xã hội nó vẫn còn là cái gì đó nhạy cảm, đối với giới lãnh đạo Việt nam, đặc biệt là các địa phương xa trung ương. Mạng xã hội có một ưu điểm là không có kiểm duyệt nên khi mà các công dân bày tỏ ý kiến của mình trên mạng thì lãnh đạo ở đó e ngại và cho rằng đó là một thông tin xấu

blogger Mẹ Nấm”

“Họ sẽ có những cái hoạt động khác để ngăn chận Facebook, chẳng hạn như thấy Facebooker nào có ảnh hưởng, thì họ sẽ diệt, diệt bằng nhiều cách, không nhất thiết là phải đi tù. Ví dụ như là huy động dư luận viên tấn công, bôi nhọ, viết các bài tấn công, comment chống lại những người đó, gây sức ép gần như là khủng bố tin thần, viết cái gì thì cũng có người vào chửi, cứ liên tục như vậy. Họ có những trang, những Facebook của dư luận viên. Hay là họ hành hung ở ngoài, như là sử dụng “quần chúng tự phát” để đánh. Chuyện này có hiệu quả và dễ làm vì nó cũng gây sợ hãi chứ không phải là không, gây sợ hãi lên những người khác. Có thể những người đấy không sợ, nhưng mà những người chung quanh như hàng xóm láng giềng họ sợ. Rồi sức ép về kinh tế, như là tìm cách cô lập người đó trong đời sống. Người đó có thể nổi tiếng trên mạng, nhưng hễ gặp gỡ ai  là công an đến tìm cái người được gặp. Tức là họ cô lập những Facebooker, những người ủng hộ dân chủ, ra khỏi cộng đồng.”

Giải thích lý do vì sao cơ quan anh ninh Việt nam vẫn tiếp tục gây trở ngại cho hoạt động trên mạng xã hội, blogger Mẹ Nấm cho biết:

“Theo tôi nghĩ thì mạng xã hội nó vẫn còn là cái gì đó nhạy cảm, đối với giới lãnh đạo Việt nam, đặc biệt là các địa phương xa trung ương. Mạng xã hội có một ưu điểm là không có kiểm duyệt nên khi mà các công dân bày tỏ ý kiến của mình trên mạng thì lãnh đạo ở đó e ngại và cho rằng đó là một thông tin xấu. Vì từ trước đến nay người ta quen các cuộc họp, các cuộc dàn xếp với nhau, nằm trong một cái vòng có thể kiểm soát được thông tin. Bây giờ đưa vấn đề lên mạng, cùng lúc phải nhận được nhiều ý kiến trái chiều. Đối với các công chức, các nhà lãnh đạo, thì nó vẫn nhạy cảm, tôi nghĩ là họ chưa quen, họ đang sợ.”

Cho đến nay chính phủ Việt nam có một nghị định tên là nghị định 72 hạn chế việc đưa thông tin và bình luận trên các trang mạng xã hội. Nghị định này bị nhiều người chỉ trích là hạn chế quyền tự do ngôn luận tại Việt nam. Một lý do thường được các quan chức Việt nam đưa ra để giải thích cho việc kiểm soát thông tin trên mạng xã hội là thông tin đó có thể gây nhiễu cho người dân.

Nhà báo Trương Duy Nhất nói rằng:

Nếu nói như thế thì tôi cho rằng xem thường người đọc quá. Tôi không dám xem thường dân như thế đâu. Dân trí bây giờ không đến nỗi nào đâu. Thông tin đưa lên thì người ta biết cách đọc, biết cách tiếp cận thế nào, chứ thông tin không làm nhiễu dân chúng. Chính cái anh không đưa thông tin mà án binh bất động, hay là một chiều mới là cách làm người dân hỗn loạn, nhiễu thông tin, nhiễu người dân vì họ không biết nó như thế nào cả.”

Sự tham gia chính trị qua mạng xã hội

Khi mạng xã hội bắt đầu hình thành tại Việt nam với tốc độ phát triển nhanh chóng, nhiều nhà hoạt động dân chủ như giáo sư Đoàn Viết Hoạt hiện sống tại Mỹ hy vọng rằng từ các nhóm hình thành trên mạng, những nhà hoạt động sẽ khuếch trương những hoạt động của mình trong xã hội. Nhà báo Đoan Trang đồng ý với nhận định này với các dẫn chứng là những hoạt động từ thiện, giúp đỡ tù nhân chính trị,… đã bắt đầu từ trên mạng xã hội.

Bên cạnh đó, cơ quan công quyền ở các quốc gia độc đoán về chính trị cũng sử dụng mạng xã hội để theo dõi những người bất đồng chính kiến. Đầu năm nay, bà Tamara Wittes, một nhà quan sát về ảnh hưởng của mạng xã hội ở Trung Đông nói với chúng tôi như thế và thêm rằng đang có một cuộc chiến tranh giữa nhà cầm quyền và xã hội dân sự trên phương tiện mạng xã hội.

Trong cuộc chiến tranh mà bà Tamara đề cập, lại có sự tương tác của các công dân mạng đến chính quyền ngày càng mạnh. Còn theo một nhà quan sát xã hội chính trị Việt nam khác là Giáo sư Jonathan London thì qua phương tiện mạng xã hội công dân ở các quốc gia như Việt nam tham gia ngày càng nhiều vào hoạt động chính trị của quốc gia mình.