Trung Quốc: Ván bài lật ngửa

Trung Quốc: Ván bài lật ngửa

VOA

13.12.2015

Hình ảnh vệ tinh chụp hồi tháng Sáu cho thấy Trung Quốc gần hoàn tất đường băng dài 3.000 mét trên bãi đá Chữ Thập.

Hình ảnh vệ tinh chụp hồi tháng Sáu cho thấy Trung Quốc gần hoàn tất đường băng dài 3.000 mét trên bãi đá Chữ Thập.

Ở Việt Nam, nhiều người, trong đó có thể có cả một số người trong giới lãnh đạo, dường như còn mơ hồ trước các âm mưu của Trung Quốc trên Biển Đông. Thực tình, tôi hoàn toàn không hiểu về cái gọi là “mơ hồ” ấy. Bởi sự thực đã rõ rành rành: Trung Quốc không hề giấu giếm các âm mưu của họ. Có thể nói, họ đang chơi một ván bài lật ngửa.

Chính quyền Trung Quốc luôn luôn khẳng định một số “lợi ích cốt lõi” (core interests) mà họ cương quyết không nhân nhượng bất cứ ai hết: Đó là Tây Tạng, Đài Loan và Biển Đông đều thuộc về họ. Sự khẳng định chủ quyền đối với Tây Tạng và Đài Loan đã có từ lâu nên không làm ai ngạc nhiên. Sự khẳng định thứ ba, mới hơn, từ hơn một thập niên vừa qua, liên quan trực tiếp đến chủ quyền và quyền lợi của nhiều quốc gia, trong đó, có Việt Nam. Sự khẳng địnhg này bao gồm hai nội dung chính: Một, Trung Quốc cho tất cả những hòn đảo, rạn san hô và bãi đá thuộc Trường Sa mà Việt Nam và Philippines đang trấn giữ vốn thuộc về họ: Chúng bị Việt Nam và Philippines cưỡng đoạt một cách “phi pháp”. Hai, căn cứ trên quan niệm cho cả Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về họ, Trung Quốc đã vẽ nên tấm bản đồ chủ quyền gồm chín đoạn (còn được gọi là đường chữ U hoặc lưỡi bò) bao trùm lên phần lớn diện tích Biển Đông. Với hai nội dung này, Việt Nam có hai điều có thể mất: Một, 29 thực thể, từ đảo đến bãi đá và rạn san hô ở Trường Sa; và hai, toàn bộ vùng biển bao quanh Hoàng Sa và Trường Sa.

Có thể nói việc Trung Quốc chiếm lĩnh toàn bộ Trường Sa và Biển Đông chỉ là vấn đề khi nào và bằng cách nào chứ không phải là chuyện có hay không. Trung Quốc đã khẳng định dứt khoát điều đó. Chả có gì để hoài nghi cả.

Để chiếm lĩnh Trường Sa và Biển Đông, Trung Quốc sử dụng ba sách lược chính.

Thứ nhất là sách lược tằm ăn dâu (salami slicing), tức chiếm từ từ, dần dần, mỗi lúc một ít. Trước, Trung Quốc chiếm Hoàng Sa: Việt Nam không phản đối. Sau, Trung Quốc công bố con đường lưỡi bò vắt ngang qua vùng biển vốn thuộc về Việt Nam: Việt Nam không phản đối. Gần đây, Trung Quốc cho giàn khoan vào thềm lục địa Việt Nam để thăm dò dầu khí: Việt Nam chỉ phản đối lấy lệ. Rồi Trung Quốc cải tạo các bãi đá ở Trường Sa thành đảo nhân tạo: Việt Nam im lặng. Hầu như tất cả các nhà quan sát quốc tế đều tiên đoán, một lúc nào đó, Trung Quốc sẽ công bố vùng nhận dạng hàng không tương ứng với con đường lưỡi bò trên biển.

Xin lưu ý là để chống lại sách lược tằm ăn dâu này, Mỹ đã điều chiến hạm đến gần các hòn đảo mới cải tạo ở Trường Sa của Trung Quốc: Trung Quốc chỉ phản đối lấy lệ. Nhưng ở đây có hai vấn đề: Một, Mỹ không thể cứ đưa chiến hạm đến Trường Sa mãi được; hai là Việt Nam không mạnh và cũng không tự tin như Mỹ nên sẽ không dám đưa tàu thuyền đến gần các hòn đảo ấy. Cái “không dám” ấy sẽ được xem như một hành động mặc nhiên thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông. Sau này, khi Trung Quốc tuyên bố vùng nhận dạng hàng không tương ứng với con đường lưỡi bò trên biển cũng vậy. Mỹ cũng sẽ bất chấp những lời tuyên bố ấy và họ sẽ cho máy bay lượn qua lượn lại trong vùng nhận dạng ấy để chứng tỏ là nó phi pháp và vô giá trị. Nhưng Việt Nam thì khác. Sợ, mỗi lần có tàu bè đi ngang qua Biển Đông hoặc có máy bay đi ngang qua vùng nhận dạng hàng không, Việt Nam sẽ xin phép Trung Quốc: Đến lúc ấy, Trung Quốc bất chiến tự nhiên thành.

Sách lược thứ hai của Trung Quốc là ngăn chận mọi nỗ lực quốc tế hoá hoặc đa phương hoá các tranh chấp trên Biển Đông. Sách lược này bao gồm hai nội dung chính: Một là yêu cầu Mỹ không can thiệp vào các cuộc tranh chấp ấy; hai là phá vỡ tất cả các nỗ lực thống nhất quan điểm về Biển Đông của khối ASEAN. Trung Quốc chủ trương mọi tranh chấp cần được giải quyết song phương, giữa Trung Quốc và các nước liên hệ. Bằng cách này, Trung Quốc làm suy yếu mọi đối thủ. Bởi mọi quốc gia tranh chấp đều nhó, yếu và, với nhiều mức độ khác nhau, đều lệ thuộc vào Trung Quốc. Ở phương diện này, chúng ta thấy ngay là Việt Nam đã sập bẫy Trung Quốc khi chấp nhận biện pháp song phương trong các cuộc tranh chấp về chủ quyền trên Biển Đông với Trung Quốc.

Sách lược thứ ba của Trung Quốc là mua chuộc. Cho đến nay, Trung Quốc hoàn toàn thành công trong việc mua chuộc Thái Lan và, đặc biệt, Campuchia. Hầu hết các cuộc hội nghị của khối ASEAN những năm gần đây đều thất bại trong việc có một thông báo chung nhằm lên án âm mưu xâm chiếm Biển Đông của Trung Quốc. Có năm thông báo chung không ra đời. Có năm thông báo chung chỉ nhắc đến tình hình phức tạp trên Biển Đông nhưng lại hoàn toàn không nhắc đến tên Trung Quốc. Nguyên nhân gây nên những thất bại ấy đều xuất phát từ một nước: Campuchia, quốc gia vốn được xem là thân cận nhất của Việt Nam.

Không loại trừ khả năng Trung Quốc cũng đã mua chuộc được khá nhiều người trong giới lãnh đạo Việt Nam. Lâu nay, nói đến giới lãnh đạo Việt Nam, hầu như ai cũng biết là họ chia thành hai phe: phe thân Trung Quốc và phe thân Tây phương. Chúng ta hoàn toàn không biết chính xác người nào thuộc phe nào. Tuy nhiên, quan sát các động thái của nhà cầm quyền Việt Nam đối với các vấn đề liên quan đến Biển Đông, chúng ta cũng có thể thấy phe thân Trung Quốc khá nhiều và khá mạnh. Chính cái phe ấy làm cho mọi nỗ lực thoát Trung đều yếu ớt và không có hiệu quả. Cũng chính cái phe ấy làm cho mọi con đường ngả sang Tây phương, chủ yếu là Mỹ, cứ quanh co, khúc khuỷu, không có một định hướng nào rõ ràng.

Quan sát các phản ứng của chính quyền Việt Nam đối với ba sách lược kể trên, tôi cho việc mất Trường Sa và Biển Đông vào tay Trung Quốc chỉ còn là vấn đề thời gian. Sớm hay muộn, vậy thôi.

Quốc tế nghi ngờ kế hoạch ngũ niên của Thủ tướng

Quốc tế nghi ngờ kế hoạch ngũ niên của Thủ tướng

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2015-12-11

vn-VDPF2015-2-622.jpg

Diễn đàn Đối tác Phát triển tổ chức ngày 5/12 ở Hà Nội.

Photo courtesy of World Bank

Your browser does not support the audio element.

Yêu cầu về Luật lập hội đứng đầu

Diễn đàn Đối tác Phát triển tổ chức ngày 5/12 ở Hà Nội để lại nhiều nghi vấn về kế hoạch 5 năm tới của Chinh phủ Việt Nam. Hình ảnh bà Victoria Kwa Kwa, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam nổi bật trên các báo mạng, kèm theo những câu hỏi hóc búa dành cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Điều không ngờ là trong diễn từ bế mạc Diễn đàn Đối tác Phát triển Việt Nam của bà Victoria Kwa Kwa, đứng hàng đầu khuyến nghị 7 điểm lại là yêu cầu về Luật lập hội. Thời báo Kinh tế Việt Nam có thể là báo điện tử chính thức duy nhất đề cập tới sự kiện này. Tờ báo có bài ‘Luật về Hội sẽ thổi luồng sinh khí mới vào xã hội.’ Theo đó, khi điểm lại một số kiến nghị cụ thể trong phiên bế mạc Diễn đàn Đối tác Phát triển ngày 5/12/2015, nội dung đầu tiên mà Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, bà Victoria Kwa Kwa nhắc đến chính là Luật về Hội. Tờ báo đã trích nguyên văn nội dung thứ nhất trong kiến nghị 7 điểm mà bà Kwa Kwa đúc kết: “ Cần thiết phải soạn thảo và thực hiện một bộ luật có hiệu lực mạnh về hội và hiệp hội. Chính điều đó sẽ giúp thực hiện chương trình nghị sự của Chính phủ.”

Theo VnEconomy, trước đó trong phiên thảo luận các tổ chức phi chính phủ cho rằng, thể chế kinh tế thị trường hiện đại không thể vắng bóng vai trò quản lý vĩ mô của chính phủ, cũng như vai trò thúc đẩy của xã hội dân sự và tinh thần hiệp hội. Vẫn theo tờ báo, các tổ chức phi chính phủ đã kiến nghị cụ thể là Luật về Hội cần đảm bảo tính tự nguyện, tự chủ và tự do trong hoạt động, không bị can thiệp tùy tiện bởi các cơ quan Nhà nước vào điều lệ, lãnh đạo cũng như lĩnh vực hoạt động của hội. Các tổ chức phi chính phủ cũng dẫn Hiến pháp khi bảo vệ quan điểm theo đó, việc thành lập hội không cần xin phép theo thủ tục rườm rà, mà chỉ cần đăng ký với cơ quan Nhà nước. Đồng thời cơ quan Nhà nước cũng không có thẩm quyền phê duyệt điều lệ cũng như lãnh đạo của hội, không giới hạn số hội hoạt động trong cùng một lĩnh vực và hội hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính.

Dĩ nhiên một quốc hội trên 95% là đảng viên, thì chắc họ cũng không dễ gì thông qua một luật hội thông thoáng, để cho những người không phải là đảng viên tụ tập với nhau thành lập một hội có sức mạnh của nó. Đó cũng là quy luật tự nhiên thôi.
-LS Trần Quốc Thuận

Người đọc báo ghi nhận, những điểm vừa nêu trong kiến nghị có quan điểm hoàn toàn khác và đi ngược lại nhiều điều khoản căn bản trong Dự thảo Luật về Hội mà Quốc hội thảo luận góp ý, trong những ngày cuối cùng của kỳ họp thứ 10 hồi tháng 11.

Theo VnEconomy Việt Nam sẽ có một Luật về hội như thế nào, hiện vẫn là câu chuyện ở thì tương lai. Dự kiến tới kỳ họp thứ nhì khoảng tháng 10/2016, Dự án Luật về Hội mới được Quốc hội nhiệm kỳ tới thông qua.

Tương lai các tổ chức xã hội dân sự độc lập sẽ ra sao, nếu như Dự thảo Luật về Hội giữ nguyên những điều khoản trái khoáy, nhằm hạn chế quyền tự do lập hội. Theo TS Phạm Chí Dũng, chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập một tổ chức tự phát, thì nội dung không cho phép thành lập hội mới, trùng lắp về lĩnh vực hoạt động chính là là cản trở quyền tự do lập hội. Từ Saigon, TS Phạm Chí Dũng tiếp lời:

“Nó còn tùy thuộc vào tính cách xin – cho nặng nề như thế nào trong Luật về Hội. Nếu quá nặng nề về điều kiện xin cho, hay các điều kiện khác như đòi hỏi phải có trụ sở, phải đăng ký tên tuổi của tất cả các thành viên, thì không cách nào các tổ chức xã hội dân sự độc lập có thể đăng ký với Nhà nước. Tại vì một số tổ chức xã hội dân sự không thể bảo đảm về trụ sở, thứ hai đòi hỏi phải minh bạch với Nhà nước về tài chính. Chuyện này quá khó theo tôi biết, chắc chắn phía công an chỉ muốn nắm rõ nguồn gốc tài chính của các hội đoàn xã hội dân sự mà thôi. Cho nên việc đăng ký hay không thì còn tùy thuộc vào thái độ thành tâm tới đâu của Nhà nước thông qua Luật về Hội.”

Theo Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội hiện sống ở TP.HCM, Việt Nam có thể có những bước chuyển tiếp trong quá trình dân chủ hóa. Riêng Luật về Hội sẽ cởi mở tới đâu hoàn toàn là câu chuyện tương lai. LS Trần Quốc Thuận nhấn mạnh:

“Dĩ nhiên một quốc hội trên 95% là đảng viên, thì chắc họ cũng không dễ gì thông qua một luật hội thông thoáng, để cho những người không phải là đảng viên tụ tập với nhau thành lập một hội có sức mạnh của nó. Đó cũng là quy luật tự nhiên thôi.”

vn-VDPF2015-1-400.jpg

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (giữa) và Bà Victoria Kwa Kwa (phải) tại Diễn đàn Đối tác Phát triển tổ chức ngày 5/12 ở Hà Nội. Photo courtesy of World Bank.

Luật về Hội là nội dung thứ nhất trong kiến nghị 7 điểm mà bà Victoria Kwa Kwa, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam đúc kết khi bế mạc Diễn đàn Đối tác Phát triển cuối ngày 5/12 ở Hà Nội. Theo trang mạng chính thức của Ngân hàng Thế giới thì nội dung thứ hai liên quan tới vấn đề mà người đọc báo hiểu là tư nhân hóa nền kinh tế. Xin trích nguyên văn : “Thoái vốn hoàn toàn khỏi nhiều doanh nghiệp hơn nữa. Chính phủ đã công bố con số là 10 doanh nghiệp. Nếu thực hiện thêm 10, thậm chí 20 doanh nghiệp nữa sẽ thể hiện mạnh mẽ hơn nữa quyết tâm cải cách của Chính phủ Việt Nam trong lĩnh vực này.”

Như thế các đối tác phát triển của Việt Nam mong muốn chính phủ Việt Nam đẩy mạnh tốc độ tư nhân hóa nền kinh tế, vì mặc dầu thực hiện cổ phần hóa nhưng Nhà nước vẫn nắm giữ số lượng cổ phần chi phối, người Nhà nước nắm Hội đồng Quản trị cũng như điều hành doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Được biết gần đây Chính phủ chỉ đạo rút toàn bộ vốn Nhà nước tại 10 Công ty cổ phần, trong đó nổi bật là Vinamilk một đại gia ngành sữa thành công trong sản xuất kinh doanh. Ước tính chính phủ có thể thu về khoảng 4 tỷ USD theo thời giá tháng 11, khi bán hết tổng số cổ phần ở Vinamilk.

Theo các chuyên gia muốn đi theo thể chế kinh tế thị trường hiện đại thì Việt Nam phải tạo sân chơi bình đẳng đối với mọi thành phần doanh nghiệp. Cách thức Nhà nước Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa vận hành nền kinh tế khó có thể đáp ứng tiêu chuẩn công khai minh bạch, chấm dứt đặc quyền đặc lợi.

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan từ Hà Nội phát biểu:

“Cho đến nay Doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn đang sử dụng khoảng 50% tổng nguồn vốn của đất nước, kể cả nguồn tín dụng cũng như vốn của khu vực công hay vốn ODA chẳng hạn, họ còn sử dụng một nguồn lực rất lớn và với cách làm ăn thua lỗ, nó có thể lỗ cho doanh nghiệp nhưng tiền có thể chảy về túi của một số ai đó có quyền lực. Rõ ràng những nhóm lợi ích này họ thích một cơ chế mù mờ như hiện nay hơn một cơ chế dứt khoát Doanh nghiệp Nhà nước phải đặt dưới sự giám sát của cả xã hội, phải chấp nhận những điều kiện như là TPP đang đưa ra đối với Doanh nghiệp Nhà nước.”

Việt Nam lấy đâu ra tiền để phát triển?

Những vấn đề lớn, mà Diễn đàn Đối tác Phát triển tổ chức ngày 5/12 ở Hà Nội đặt ra cho Chính phủ Việt Nam, cũng được truyền thông báo chí trong nước tường thuật dưới nhiều góc cạnh khác nhau.

Theo Tuổi Trẻ Online, tại Diễn đàn Đối tác Phát triển Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết, Việt nam đặt mục tiêu 5 năm tới phát triển nhanh hơn, bền vững hơn. Ông Dũng nhấn mạnh 5 năm tới phải phát triển 6,5 – 7% bình quân mỗi năm.

Khi chính phủ huy động ở trong nước nhiều như vậy sẽ có những rủi ro, ví dụ huy động ngắn hạn thì nhiều khi chưa kịp làm gì đã đến thời hạn phải trả nợ rồi, lãi suất vay bằng đồng VN cũng cao hơn vay ngoại tệ ở bên ngoài.
-Bà Phạm Chi Lan

Báo Điện tử Một Thế Giới giật tít lớn, sắp tới Việt Nam lấy đâu ra tiền để phát triển, đây là câu hỏi thẳng thắn của bà Victoria Kwa Kwa, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam. Nguyên văn lời bà Kwa Kwa: “ Việt Nam sẽ lấy nguồn ở đâu để tài trợ cho chương trình phát triển đầy tham vọng trong 5 năm tới.”

Bà Victoria Kwa Kwa đưa ra một loạt thách thức đối với Việt Nam, như vốn ưu đãi thu hẹp dần, dựa vào nguồn thu trong nước là chính. Trong 5 năm qua tỷ lệ thu ngân sách Nhà nước trên GDP đã giảm dần từ 27% chỉ còn 21%. Ngoài ra năng suất lao động Việt Nam quá thấp không đảm bảo tăng trưởng nhanh và bền vững.

Hầu hết các báo điện tử chính thức, khi tường thuật về Diễn đàn Diễn đàn Đối tác Phát triển, đều có bài ghi nhận mối lo ngại sâu xa về nợ công của Việt Nam. Thời báo Kinh tế VnEconomy trích báo cáo của Ngân hàng Phát triển Châu Á, theo đó nợ công và những khoản do Nhà nước bảo lãnh đã tăng gần gấp đôi kể từ năm 2.000, hiện ở khoảng 60% GDP trong năm 2015. Tại các nền kinh tế thu nhập thấp thường có tỷ lệ nợ công giảm, nhưng nợ công tại Việt Nam đã tăng lên đáng kể trong những năm qua.

Báo mạng Một Thế Giới trích nhận định của ông Jonathan Dunn, Đại diện thường trú Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF, theo đó xuất khẩu dưới mong đợi, thâm hụt ngân sách cao và nợ công, nợ do Chính phủ bảo lãnh đang tăng lên.

Trước đó vào ngày 2/12 Ngân hàng Thế giới cảnh báo nợ công của Việt Nam đối diện rủi ro vì chính phủ chuyển sang vay nợ bằng phát hành trái phiếu ngắn hạn ở trong nước để bù đắp chi tiêu. Bà Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ nhận định:

“Khi chính phủ huy động ở trong nước nhiều như vậy sẽ có những rủi ro, ví dụ huy động ngắn hạn thì nhiều khi chưa kịp làm gì đã đến thời hạn phải trả nợ rồi, lãi suất vay bằng đồng VN cũng cao hơn vay ngoại tệ ở bên ngoài. Hơn nữa khi chính phủ đứng ra vay nhiều như vậy, thì số tiền vốn cho xã hội cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận được, sẽ lại càng khó khăn hơn.”

Qua Diễn đàn Đối tác Phát triển tổ chức ngày 5/12 ở Hà Nội, hầu hết các đối tác cũng như các định chế quốc tế đều chỉ ra những thách thức đầy lo ngại đối với kế hoạch ngũ niên 2016-2020 của Chính phủ Việt Nam. Tuy vậy, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã trực tiếp trấn an khi ông nói nguyên văn “xin nhấn mạnh, chúng tôi dứt khoát bảo đảm an toàn nợ công.” Người đứng đầu chính phủ Việt Nam cũng trình bày 5 giải pháp để tăng trưởng kinh tế cao và bền vững.

Thủ tướng cho biết sẽ đẩy mạnh kế hoạch tái cơ cấu trong các lĩnh vực đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước, thị trường tài chính tiền tệ, tái cơ cấu nông nghiệp. Người đọc báo ghi nhận những điều này không có gì mới, nó đã được bắt đầu từ 2012 và cho đến nay không đạt nhiều kế quả.

Bên cạnh những hứa hẹn về quốc kế dân sinh, một trong những điểm đáng chú ý mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cam kết là thực hiện đầy đủ hơn kinh tế thị trường, để vận hành đồng bộ hiệu quả các loại thị trường, trong đó có đất đai. Ngoài ra Thủ tướng cũng hứa hẹn hoàn thiện thể chế, hoàn thiện luật pháp và đặc biệt quan trọng là bảo đảm quyền dân chủ, tự do, quyền sở hữu của người dân theo Hiến pháp 2013.

Các chuyên gia nói rằng Việt Nam đã mất cơ hội cải cách dân chủ khi Hiến pháp 2013 sửa đổi vẫn qui định Khu vực kinh tế Nhà nước là Chủ đạo nền kinh tế, đất đai sở hữu toàn dân tức thuộc Nhà Nước. Nhưng dù sao theo Hiến pháp 2013, người dân sẽ có những quyền cơ bản thí dụ như lập hội, biểu tình, tiếp cận thông tin chẳng hạn và Nhà nước sẽ phải ban hành những Luật này.

Nguyễn Viết Dũng ra tòa: Thực chất không phải là “gây rối trật tự công cộng”

Nguyễn Viết Dũng ra tòa: Thực chất không phải là “gây rối trật tự công cộng”

RFA

NGUYỄN TƯỜNG THỤY

Chính trang phục của Nguyễn Viết Dũng đã đưa anh vào vòng lao lý

Ngày mai, 14/12/2015, tòa án quận Hoàn Kiếm đưa Nguyễn Viết Dũng ra xét xử tại 51, Lò Sũ, phường Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, với tội danh “gây rối trật tự công cộng”.

Vụ án này được dư luận đặc biệt quan tâm. Hoàn cảnh bị bắt của Dũng so với tội danh hết sức vô lý: Nhóm 5 người của Dũng hòa vào buổi tuần hành trật tự phản đối chặt cây xanh của chính quyền Hà Nội ngày 12/4/2015. Nhóm này bị bắt khi buổi tuần hành đã kết thúc và mấy anh em đang uống nước tại một quán giải khát ở gần nhà thờ lớn. Điều đó cho thấy Dũng không hề bị bắt quả tang khi “gây rối trật tự công cộng” (nếu có). Điều kỳ lạ là, trong khoảng 150 người tuần hành hôm ấy, với hành vi như nhau, chỉ có nhóm của Dũng bị bắt và chỉ mình anh bị truy tố.

Kỳ lạ hơn, riêng từ năm 2011 đến nay, đã có khoảng hai chục cuộc biểu tình tại Hà Nội, tập trung chủ yếu ở khu vực Hồ Hoàn Kiếm. Trong đó, hơn một nửa số cuộc biểu tình không bị đàn áp, được cảnh sát giao thông dẹp đường, thậm chí các cuộc tuần hành bảo vệ cây xanh như vụ Nguyễn Viết Dũng tham gia còn được báo chí của nhà nước đưa tin, biểu thị sự ủng hộ:

Đoàn người tuần hành giơ cao biểu ngữ phản đối việc chặt hạ cây xanh. (Báo Người lao động)

 

Nguyễn Viết Dũng cùng nhóm bạn đang tuần hành phản đối chặt cây xanh trong trật tự

Vậy thì tại sao, cùng hành vi biểu tình, tuần hành mà hàng ngàn người không bị truy tố về hành vi “gây rối trật tự công cộng” mà họ chỉ nhằm vào một Nguyễn Viết Dũng?

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hoàn Kiếm cho rằng Dũng đã lôi kéo người khác tham gia tuần hành, cuối cùng được 4 người. Vậy thì toàn bộ số người tuần hành hôm đó đông hơn vài chục lần nhóm 5 người của Dũng thì ai lôi kéo? Sao công an Hoàn Kiếm không quan tâm? Nếu kẻ nào đó quan tâm thì lại là đánh lén để dằn mặt như trường hợp đánh Trịnh Anh Tuấn (Gió lang thang) admin của nhóm Vì một Hà Nội xanh vào ngày 22/4/2015.

Lý do thực đem Nguyễn Viết Dũng ra tòa là đây: Theo bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra quận Hoàn Kiếm thì “Dũng đã mua 19 áo phông tự thiết kế và đặt in logo con đại bàng trên nền 3 sọc với khẩu hiệu ‘Tổ quốc – Danh dự – Trách nhiệm’ trên ngực áo bên trái” … “đã phát hiện bắt giữ và thu giữ 19 chiếc áo phông đen có logo của chế độ Sài Gòn; 01 dải ruy băng dài khoảng 1,5 m rộng 10 cm màu vàng có 3 sọc đỏ; …01 bộ quần áo rằn di”… “05 đối tượng mặc áp phông đen có hình logo trước ngực giống biểu tượng Quân lực Việt nam Cộng Hòa”. Sợ người ta không hiểu, cơ quan này còn cẩn thận giải thích “(chế độ Ngụy quyền sài Gòn cũ”), ”nhóm đối tượng mặc quần áo có biểu tượng quân lực Việt Nam Cộng Hòa chụp ảnh, tôn sùng chế độ Ngụy quyền Sài Gòn cũ tạo sự phản cảm…”

Bản kết luận điều tra của công an quận Hoàn Kiếm chỉ vỏn vẹn 3 trang rưỡi, nhưng phần nói về “tội trạng” của Nguyễn Việt Dũng chỉ có vậy. Còn lại toàn là chuyện không có liên quan gì như ảnh hưởng đến cuộc sống của các hộ xung quanh, gây ra sự bức xúc phản ứng của dân, của khách du lịch rồi Hội cựu chiến binh lên tiếng v.v… – những điều này chẳng qua là cơ quan điều tra tưởng tượng hoặc dàn dựng ra mà thôi. Công an quận Hoàn Kiếm cần hiểu, đưa ra những điều này chẳng để làm gì vì đó không phải là căn cứ pháp luật. Để đưa một người ra truy tố là phải căn cứ vào hành vi, cứ không phải là làm cho ai đó bức xúc.

Kết luận điều tra của Công an quận Hoàn Kiếm đay đi đay lại những cụm từ “chế độ Sài Gòn”, “chế độ Ngụy quyền Sài Gòn cũ” “logo của chế độ Sài Gòn” “biểu tượng Quân lực Việt Nam Cộng Hòa”. Qua đó đủ thấy, họ cho rằng, ai dính dáng đến Việt Nam Cộng Hòa là nguy hiểm lắm, mặc dù Nhà nước này đã bị cộng sản bức tử trên lãnh thổ Việt nam đã 40 năm nay. (tôi chỉ nói trên lãnh thổ Việt nam thôi). Chẳng lẽ, họ sợ Việt Nam Cộng Hòa tới mức như vậy sao? Vậy xin hỏi, trong lịch sử việt Nam, nhiều triều đại đã thuộc về quá khứ thì sao? Chúng tôi thường xuyên thắp hương trước tượng đài Lý Thái Tổ thì sao? Lá cờ vàng từ thời Hai Bà Trưng, cờ vàng “Phá cường địch báo Hoàng ân” của Trần Quốc Toản cho đến những lá cờ vàng trong suốt các triều đại phong kiến tới tận năm 1945 thì sao?

Nên nhớ, báo chí nhà nước kể cả trang điện tử của Chính phủ đã nhìn nhận Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa là một Nhà nước có chủ quyền, là một chủ thể trong quan hệ quốc tế.

Vụ án Nguyễn Viết Dũng có một nét giống như một số vụ án khác như vụ Bùi Thị Minh Hằng, vụ dân oan Vũ Thị Hải. Công an bắt nhiều người nhưng họ chỉ truy tố bỏ tù những người họ cho là cần truy tố mặc dù không hề có biên bản quả tang phạm pháp và hành vi của họ là như nhau, với “tội danh” thật (theo họ) lại không có trong Bộ luật hình sự nên phải đá sang một tội danh khác.

Những người quan tâm, theo dõi sát sao vụ án Nguyễn Viết Dũng đều hiểu, Dũng bị truy tố không phải vì tội danh “gây rối trật tự công cộng” mà lý do thực chất là mang biểu tượng của Việt nam Cộng Hòa. Nhưng nếu truy tố theo tội danh mà họ muốn thì lại không thể căn cứ vào Bộ luật hình sự. Bộ luật hình sự không hề có tội danh “sử dụng biểu tượng của Việt nam Cộng Hòa” cũng như không có tội “yêu (hay cảm tình với) Việt nam Cộng Hòa”. Và đặc biệt là nếu truy tố bừa đi như thế thì họ không chống chế được (dù là yếu ớt) đối với công luận quốc tế.

Vì vậy, chắc chắn Nguyễn Viết Dũng sẽ không bị truy tố nếu không sử dụng trang phục có biểu tượng Việt Nam Cộng Hòa. Dù có che đậy bằng cách truy tố Dũng dưới tội danh “gây rối trật tự công cộng” thì nhà cầm quyền Việt Nam không thể che giấu nổi công luận trong nước cũng như quốc tế.

Mọi sự kết án Nguyễn Viết Dũng vào ngày mai là không có cơ sở pháp luật. Yêu cầu các cơ quan tố tụng quận Hoàn Kiếm trả tự do ngay cho anh tại tòa.

13/12/2015

NTT

Xà quần chuyện cải cách tiền lương

Xà quần chuyện cải cách tiền lương

Viet-studies

Đặng Kiên Trung

12-12-2015

Tôi nghe các đại biểu Quốc hội bàn về “cải cách tiền lương” – nói gọn là tăng lương, xà quần như kiến bò vành nia phát mệt! Ông bà nghị nào cũng thấy sự cấp bách phải tăng lương, bảo đãm cán bộ, công nhân, viên chức có thể sống được bằng tiền lương, nhưng trong lúc Nhà nước nợ công như chúa Chổm lấy đâu ra 40 ngàn tỷ đồng để tăng lương theo lộ trình như đại biểu thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thị Quyết Tâm nói…!

Trên thế giới hiếm có nước nào như Việt Nam, người dân phải è cổ nuôi bộ máy cầm quyền “đông như quân Nguyên”, trong khi kinh tế lụn bại, nợ công chồng chất, tài nguyên cạn kiệt…! Ông bà nghị nào cũng thấy, muốn tăng lương phải tiết kiệm chi tiêutinh giản biên chế. Chuyện nầy không chỉ các ông bà nghị nhìn thấy, nhưng nói mãi có làm được đâu! Bởi lẽ bệnh tiêu xài hoang phí như con ngựa bất kham, anh cũng vậy, tôi cũng vậy, chúng ta đều vậy nên ai nói ai nghe?! Hội chứng xây tượng đài, trụ sở hoành tráng hiện nay bất chấp dân tình nghèo khó, ngân khố tróng rổng chứng minh điều đó!

Còn tinh giản biên chế ư? Chuyện này khó còn hơn hái sao trên trời! Cán bộ, viên chức nhà nước đồng lương chết đói mà ai cũng muốn nhào vô, vì trong tình hình xã hội nhiểu nhương, đời sống khó khăn đây là chốn nương thân an toàn nhất, phải bằng mọi cách nhào vô bằng được, mà đã vô được đừng hòng trở ra “vô một gà, ra ba heo” mà! Tôi lấy làm lạ cho ông Tổng nhà mình, lâu nay không biết ông ở đâu mà nghe ông trả lời cử tri quận Ba Đình – Hà Nội thắc mắc hỏi về số công chức không làm được việc, biên chế chỉ tăng chứ không giãm ông trả lời tỉnh rụi: “Bộ máy đúng là công kềnh”!

Vậy, giải pháp nào xử lý hai vấn đề trên để có thể tăng lương? Thiển nghĩ, điều tiên quyết là các ông bà nắm quyền từ trung ương đến địa phương, phải nhìn thấy đã đến lúc nếu tiếp tục kéo dài tình trạng chi tiêu vung tay quá trán và để biên chế bộ máy tiếp tục phình ra như hiện nay thì hậu quả khôn lường, phải kiên quyết chặn đứng! Tôi chỉ sợ các ông bà không đủ dũng khí vượt qua chính mình để làm điều cần phải làm và cấp trên không gương mẫu thì không đời nào khiển cấp dưới làm được. Thí dụ về tiết kiệm chi tiêu, một chuyện nhỏ như hàng ngày ông bà đi làm hay đi công tác xa bằng ô tô công nay đi xe gắn máy, xe đạp, xe buýt  vừa tiết kiệm ngân sách, vừa được tiếng ông bà bình dị, gần dân; đến chuyện lớn như xây dựng cơ bản, cần thiết lắm mới làm, khi làm phải cân nhắc chi ly bảo đãm chất lượng và hiệu quả xử dụng, không nhắm mắt làm bừa và người có thẫm quyền phê duyệt dự án phải dứt khoát không nhận “lại quả” để không bị rủt ruột công trình và giử gìn sự liêm khiết của cán bộ.

Còn về tinh giản biên chế, vật cản lớn nhất là bệnh bảo thủ, giáo điều ăn sâu vào cốt tủy các nhà lãnh đạo đất nước, cái gì đã nghĩ, đã làm ngày xưa ra sao bây giờ vẫn vậy, không muốn thay đổi cho phiền phức, không khéo vạ lây mất chì lẫn chài. Tôi nói một chuyện nhỏ như con thỏ là cái loa phường, nó ra đời từ thời khốn khó “Bảo Đại ỉa cứt su”, nay thời đại thông tin bùng nổ, cái loa phường lạc điệu vô duyên vẫn tồn tại, gây phiền hà chúng ghét. Nếu bỏ cái loa phường có thể làm ngay, sẽ giãm bao nhiêu biên chế, tiết kiệm bao nhiêu tiền ngân sách trả lương và mua sắm thiết bị; nhất là làm vui lòng dân, vậy mà cơ quan và người có trách nhiệm không ai làm, nói chi đến chuyện lớn! Phải chăng tinh giản biên chế đi vào ngõ cụt?! Theo tôi vẫn có lối thoát, chỉ có dám làm hay không thôi. Đó là làm một cuộc “đại phẩu thuật” tổ chức – bộ máy:

Thứ nhất, giải thể các đoàn thể chính trị – xã hội của Đảng, trả các đoàn thể trở về với dân, tổ chức và hoạt động dưới hình thức tổ chức xã hội dân sự.

Thứ hai, giải thể các ban chuyên môn của Đảng, thực hiện chế độ chuyên viên phục vụ sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, tập trung tại văn phòng cấp ủy đảng từ trung ương đến địa phương.

Thứ ba, trong bộ máy chính quyền các cấp loại bỏ 30% số viên chức dựa bệ ăn lương vô tích sự.

Với những giải pháp quyết liệt trên, sẽ cắt giãm khoảng một nửa biên chế, tiết kiệm ngân sách khoảng tiền khổng lồ tăng lương 100% cho cán bộ, viên chức nhà nước.

Tháng 12 năm 2015

                                                                                          Đ.K.T

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 12-12-15

Con người sống không có tín ngưỡng tựa như lạc lối trong sương mù

Con người sống không có tín ngưỡng tựa như lạc lối trong sương mù

Đọc & Suy ngẫm

Chính Tâm

Con người, bất kể là ai cuối cùng rồi cũng phải đối mặt với cái chết. Có người sợ hãi tột cùng, có người lại thảnh thơi đối mặt, vậy điều gì quyết định tâm thái của sinh mệnh tại thời điểm quyết định này?

vô thần, tín ngưỡng, niềm tin, Bài chọn lọc,

“Không có tín ngưỡng, lấy gì để cứu vớt linh hồn chính mình và người khác đây”. Ảnh: Internet

Người ta sống trên đời, với một số vấn đề nhất định thì có thể nói mạnh miệng, riêng chỉ khi đối mặt với tử vong thì lại không nói được gì. Dù là nông dân hay trí thức, giàu có hay nghèo hèn, đều sẽ phải một lần đối mặt với vấn đề này. Tại mỗi nền văn hóa khác nhau lại có cách tiếp cận khác nhau.

Với tư cách bác sĩ ngoại khoa, tôi đã rất nhiều lần cùng người thân của bệnh nhân ung thư giấu kín đi bệnh tình của họ, để tránh bản thân người bệnh sau khi biết rõ mắc bệnh nan y tinh thần sẽ sụp đổ.

Đôi khi chúng tôi cũng thử cho người bệnh biết rõ tình trạng của mình, để cho người đó chuẩn bị tinh thần, nhưng kết quả đại đa số người biết được sự thật, tinh thần suy sụp, vốn dĩ có thể sống được nửa năm, lại chỉ sống được một tháng.

Rất nhiều cán bộ lãnh đạo ngày thường hô lớn chủ nghĩa vô thần, tập hợp quần chúng lại để phát biểu, ba hoa khoác lác, nhưng khi mạng sống sắp mất đi lại lo sợ cuống cuồng, chạy vạy khắp nơi mong tìm “phương thuốc” để kéo dài thọ mạng.

Thế nhưng tại phương Tây, nếu không cho người bệnh biết về tình trạng của họ, thì đó là hành vi lừa gạt, hoàn toàn trái pháp luật. Bản thân người bệnh phải biết rõ bệnh tình của chính mình, nhất là bệnh nan y, họ cần biết rõ mình còn sống được bao lâu, như vậy họ có thể làm thêm một vài việc muốn làm lúc cuối đời, tự mình sắp xếp tốt thời gian quý giá còn lại.

Người phương Tây đại đa số là tín đồ Cơ Đốc giáo, họ đối với cái chết tương đối bình tĩnh, tin tưởng sau khi chết linh hồn đi đến Thiên đường hoặc còn có kiếp sau, đối mặt với tử vong cũng không phải sợ hãi.

Họ cũng thường nói: “Bạn chưa thấy qua Thiên đường, bạn có thể cho rằng Thiên đường không tồn tại, nhưng mà bạn cũng chưa từng chết, vậy làm sao bạn dám chắc người chết sẽ không có linh hồn đi tới Thiên đường hay Địa ngục đây?”

Tuyệt đại đa số người trong nước chúng tôi (Trung Quốc) không dám đối mặt với ung thư, chớ nói chi là đối mặt với cái chết, trong cuộc sống  tại điểm cuối của sinh mệnh hầu như ở trong sợ hãi và mờ mịt trôi qua. Cho dù có lời nói dối thiện ý của bác sĩ và người thân, nhưng đối mặt với tình trạng thân thể của mình ngày càng sa sút thì sự sợ hãi của họ càng ngày càng tăng lên.

Cùng là cái chết ấy, có người trong sợ hãi, mờ mịt mà chết đi, có người lại trong ao ước đến Thiên đường cùng mong tưởng tốt đẹp của kiếp sau mà rời khỏi dương gian.

Nhìn thấy người bệnh trong nước sợ hãi trước khi chết, lại thấy nhóm tín đồ Cơ Đốc kia bình tĩnh chờ đợi thời điểm rời khỏi nhân gian, tôi hiểu rõ: “Thì ra thống khổ lớn nhất của bệnh nhân Trung Quốc không phải trên thể xác, mà là ở tâm hồn”.

Khi nghe thấy ai đó có theo tín ngưỡng, đa số nói: “Cái gì đều không tin, chỉ tin tưởng khoa học”. Còn có người nói: “Tín ngưỡng có thể làm gì? Có thể tạo ra cơm ăn sao?”

Thế nhưng mà, với tư cách bác sĩ, tôi chân thành hỏi mọi người một vấn đề: Không có tín ngưỡng, bạn có thể bình tĩnh đối mặt với tử vong hay không? Không có tín ngưỡng, bạn lấy cái gì để cứu vớt linh hồn chính mình và người khác đây?”

Sinh tử không phải nói huênh hoang, người Trung Quốc hiện nay, tôi tự đáy lòng nói rằng: “Chúng ta cần tín ngưỡng, cần tín ngưỡng cao thượng đúng đắn”.

Tác giả: Lisa

Iris, dịch từ Kannewyork

Bị đánh bom nguyên tử, vì sao người Nhật lại cúi đầu kính trọng tướng Mỹ?

 Đọc & Suy ngẫm

http://tinhhoa.net/doc-truyen/

 MacArthur, vị danh tướng của Mỹ, là người chỉ huy quân đội tiến đánh Nhật Bản trong thế chiến thứ II. 

Tuy nhiên, khi ông rời khỏi đất nước này, người dân không hề căm ghét mà ngược lại đều tỏ lòng biết ơn bởi những việc làm của ông.

kính trÍng, dan chu, chi¿n tranh,

Chân dung Thống tướng Douglas MacArthur. Ảnh: Internet
Năm 1942 tướng MacArthur dẫn đại quân tấn công Nhật Bản, từ Melbourne xa xôi đánh thẳng đến Tokyo, hai tay nhuộm máu người Nhật Bản. Vì thế vô số người Nhật đều hận ông thấu xương.Chiều ngày 30/8/1945, tướng quân MacArthur ra khỏi máy bay và đặt chân lên đất Nhật, cho dù ông không mặc quân phục và không mang theo vũ khí gì, cũng không có người tổ chức duyệt binh, nhưng thời khắc đó với 70 triệu người Nhật Bản là thời khắc kinh hoàng mà họ không thể quên, trong tâm trí mọi người chỉ còn nghĩ được hai chữ “mất nước”.
Nhưng tướng MacArthur mang  đến hòa bình, chính nghĩa, khoan dung và dân chủ
Nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh rơi vào suy sụp, đến bữa trưa của Nghị viên Quốc hội cũng phải ăn cơm trộn khoai lang, cái đói bao phủ khắp nơi. Lúc này tướng MacArthur gây áp lực khiến chính phủ Mỹ phải hỗ trợ Nhật Bản, thế là 3,5 triệu tấn lương thực và 2 tỷ Mỹ kim tức tốc được gửi đến Nhật. Ông không chỉ giữ lại chính quyền Nhật Bản mà còn đặc xá cho Thiên hoàng, thậm chí còn quan tâm đến số phận của từng người lính bình thường của Nhật Bản, giúp họ tìm con đường sống.

kính trÍng, dan chu, chi¿n tranh,

Tướng MacArthur tiếp nhận quân Nhật đầu hàng (Ảnh: Internet)
Theo sau ông, 400 nghìn lính Mỹ đã dùng thiện ý và tinh thần hy sinh để chinh phục người Nhật Bản. Khi đó các con hẻm trong thành phố của Nhật rất chật hẹp, một người Nhật bình thường và một người lính Mỹ to lớn nếu gặp nhau cũng khó để đi qua, vì thế thường thì người lính Mỹ sẽ nép vào một bên cho người Nhật đi trước. Người Nhật không thể không băn khoăn tự hỏi, nếu mình là kẻ chiến thắng thì có làm được như thế không?
Sau khi tướng MacArthur đến Nhật Bản, ông lập tức ra lệnh thả tội phạm chính trị, trong đó có rất nhiều Đảng viên Cộng sản, bị chính phủ Nhật bắt giam trong thời gian dài.
Ngày 25/8/1945, quân chiếm đóng của Mỹ cho phép phụ nữ Nhật thiết lập tổ chức của mình; tháng 9 cho công bố Dự luật về vai trò trong bầu cử của phụ nữ Nhật Bản; đây là lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản, phụ nữ được quyền bầu cử và ứng cử.
Lúc này tại Tokyo có cô kỹ nữ được chọn làm Nghị viên thành phố, nhiều thị dân cảm thấy khó chấp nhận. Nhưng tướng MacArthur nói, mọi người chọn cô ấy để cô ấy phục vụ mọi người, đừng vì cô ấy là kỹ nữ mà kỳ thị bỏ qua. Khi đó mọi người chợt hiểu người được chọn trong bầu cử dân chủ phải là người thay mặt để vì mình làm việc, thế là sau khi hiểu ý nghĩa vấn đề họ đã quyết định chọn bầu cô kỹ nữ kia. Kết quả sau khi trở thành Nghị viên, cô đã không phụ lòng mọi người, làm được rất nhiều việc có ý nghĩa.

kính trÍng, dan chu, chi¿n tranh,  

Cột khói hình nấm khổng lồ bốc lên khi Mỹ thả bom nguyên tử xuống Nhật Bản. Ảnh: Askman.com
Vào ngày 11/10/1945, tướng MacArthur tuyên bố bỏ lệnh cấm báo chí, Nhật Bản được tự do thông tin và tự do ngôn luận. Ngày 22/12/1945, ban hành “Luật Công hội”, giai cấp công nhân thực sự có tổ chức của mình. Ngày 1/9/1947, ban hành “Luật lao động”, quy định tiêu chuẩn tiền lương thấp nhất và thời gian làm việc nhiều nhất.http://tinhhoa.net/
Ngày 3/2/1946, tướng MacArthur chỉ thị cho Tổng bộ Liên minh khởi thảo Hiến pháp Nhật Bản. Chính phủ Mỹ truyền đạt nguyên tắc chế định Hiến pháp cho tướng MacArthur là: Chính phủ Nhật Bản phải do toàn thể cử tri trao quyền và phải chịu trách nhiệm trước toàn thể cử tri. Ngày 3/5, quân liên minh giao ra Bản dự thảo Hiến pháp. Ngày 7/10, Quốc hội Nhật Bản thông qua Hiến pháp. Ngày 3/11, Thiên hoàng cho ban hành Tân Hiến pháp.
Đây là Hiến pháp do kẻ chiếm lĩnh chiếu theo giá trị quan phương Tây áp đặt cho kẻ bị chiếm lĩnh, nhưng lại là bản Hiến pháp đem lại phúc lợi cho nhân dân quốc gia bị chiếm lĩnh. Bản Hiến pháp nhấn mạnh quyền lợi công dân cơ bản của người Nhật Bản, xem những quyền lợi này là “quyền lợi trời cho mà không ai có quyền tước đoạt”. Những quyền này bao gồm: quyền bầu cử, lập hội và tự do xuất bản; không có sự tham gia của luật sư thì không được định tội; bảo đảm quyền cư trú an toàn cho dân, cấm kiểm tra và tước đoạt vô cớ.
Ngày 21/10/1946, Quốc hội đã thông qua “Luật Cải cách ruộng đất”. Chính phủ Nhật Bản mua lại đất đai dư thừa của giới địa chủ, sau đó bán đất lại cho nông dân không có ruộng. Với những nông dân không có tiền mua đất, chính phủ cho vay thế chấp. Tất cả diễn ra không đổ một giọt máu, một mạng người, những người nông dân ai nấy đều có được một phần đất cho mình.
Ngày 31/3/1947, ban hành “Luật Giáo dục”. Theo đó mục tiêu hàng đầu của giáo dục là “tôn trọng sự tôn nghiêm của cá nhân, bồi dưỡng cho mọi người có lòng nhiệt huyết vì chân lý và hòa bình”. Trường học của Nhật Bản không còn nằm trong kiểm soát của chính phủ mà là do Ủy ban Giáo dục do dân chúng bầu ra quản lý. Việc chọn lựa nhà giáo, sách học và bố trí chương trình hoàn toàn do người dân tự chủ quyết định.
Năm 1952, quân chiếm đóng Mỹ trả chính quyền về cho chính phủ Nhật Bản. Sau 7 năm chiếm đóng, người Mỹ cải cách triệt để con đường phát triển của Nhật Bản, chủ quyền quốc gia từ trong tay kẻ chuyên chế trao lại cho người dân Nhật Bản, những tiền đề tiến bộ đầu tiên này giúp người Nhật bước vào con đường thênh thang.

kính trÍng, dan chu, chi¿n tranh,  

Quang cảnh sau khi xảy ra vụ ném bom nguyên tử, hầu như mọi thứ đều bị thổi bay. Ước tính 90% nhà cửa ở Hiroshima bị hủy diệt hoặc hư hại. (Ảnh: Internet)
Hơn 10 năm sau, Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới, quốc gia phồn vinh, nhân dân giàu có, xã hội ổn định. Có thể nói thêm một câu, quân chiếm đóng của Mỹ không chi một đồng tiền thuế nào của người dân Nhật Bản, chi phí của họ là lấy từ tiền thuế của người Mỹ.
Người Nhật tổ chức buổi lễ long trọng đưa tiễn tướng quân MacArthur
Trong thời gian chiếm đóng Nhật Bản, rất nhiều người Nhật đã viết thư gửi cho tướng MacArthur yêu cầu biếu tặng đất đai của họ. Nhiều phụ nữ can đảm viết thư đề nghị được hiến thân cho tướng MacArthur, nhiều người còn viết “xin hãy cho tôi được sinh con cho ngài.”
Sáng ngày 16/4/1951, Tổng thống Harry Truman phế bỏ chức Tư lệnh quân chiếm đóng và buộc tướng MacArthur phải về nước, sự kiện này chỉ thông báo cho một số quan chức cấp cao người Nhật biết. Nhưng khi ông ngồi lên ô tô thì mới phát hiện, từ nơi dinh phủ ông ở đến Sân bay Atsugi có hàng triệu người Nhật Bản đứng hai bên đường đưa tiễn. Đoàn xe hộ tống đi qua những hàng nước mắt cùng tiếng hô vang dậy của người dân Nhật Bản: Đại nguyên soái!
Người dân Tokyo đứng chật kín hai bên đường, ai nấy rơi nước mắt, họ như hoàn toàn quên chuyện tướng MacArthur là kẻ chiếm đóng đã đánh bại quân đội quốc gia mình. Thiên hoàng đích thân đến sứ quán đưa tiễn MacArthur, tướng MacArthur cũng xúc động rơi nước mắt, nắm chặt hai tay của Thiên hoàng Hirohito.
Khi đưa tiễn, Thủ tướng Yoshida của Nhật nói: “Tướng quân MacArthur đã cứu chúng tôi ra khỏi nỗi sợ hãi, lo lắng và hỗn loạn của thất bại để đưa chúng tôi vào con đường mới do ông xây dựng, chính Ngài đã gieo trồng hạt giống dân chủ trên đất nước chúng tôi để chúng tôi bước trên con đường hòa bình, tình cảm ly biệt mà nhân dân chúng tôi dành cho Ngài không lời nào có thể diễn tả được.
Uy lực quả bom nguyên tử của Mỹ tàn phá thành phố và nền kinh tế của Nhật Bản, nhưng về phương diện tinh thần, nước Mỹ đã hoàn toàn chinh phục được người Nhật Bản.
Theo Daikynguyenvnhttp://tinhhoa.net/chuyen-la-bon-phuong/

 

Tại sao du học sinh không về nước?

Tại sao du học sinh không về nước?
Nguoi-viet.com

 

Ngô Nhân Dụng

Nếu chỉ nhìn vào con số tiền bạc tự động chảy vào Việt Nam mà không cần bán gì hết thì ai cũng mừng. Tổng số tiền ngoại quốc đổ vào trong nước trong năm 2015 sẽ lên đến 13, 14 tỷ Mỹ kim. Tính trung bình mỗi người Việt Nam ở nước ngoài gửi về nước gần 3000 đô la; mỗi người dân trong nước được hơn 150 đô la!

Trong mấy chục năm nay tiền từ người Việt ở nước ngoài chảy vào trong nước, nhưng trong cùng thời gian đó, nước Việt Nam đã mất một thứ còn quý hơn nữa, là con người, đặc biệt là những người có khả năng. Ngay sau khi chế độ Cộng Sản được đem vào miền Nam, những đợt vượt biển, ra đi tìm tự do đã là một cuộc “xuất não” lớn. Nhưng đáng lo cho đất nước hơn nữa là đến nay những du học sinh Việt Nam ra nước ngoài phần lớn đã chọn không trở về. Mỗi người chọn “ở lại” là nước Việt mất một người.

Báo mạng trong nước đang nói rất nhiều về trường hợp anh Ðỗ Lâm Hoàng, một sinh viên du học tại Úc đã chọn ở lại sau khi tốt nghiệp. Tâm sự của anh Hoàng có thể coi là tiêu biểu cho hầu hết các du sinh Việt Nam đang học ở Mỹ, ở Châu Âu, CANADa hay ở Úc, vân vân, đã hoặc đang phân vân muốn “chọn ở lại.”

Ðỗ Lâm Hoàng được chú ý vì anh đã chiếm giải nhất trong cuộc thi tài Olympia. Anh được thưởng 35 ngàn Mỹ kim, rồi sau 10 tháng được học bổng của một đại học Australia, nước Úc, trị giá trăm ngàn Mỹ kim nữa. Những năm sống trong môi trường đại học nước Úc, anh dần dần học được nhiều điều mới trong cách sống: “…tôi được dạy rằng, trong công việc muốn gì thì nói thẳng ra và đối xử bình đẳng với nhau trong công việc. Chúng tôi được đào tạo để đối diện và chịu trách nhiệm,…”

Sau khi tốt nghiệp Ðỗ Lâm Hoàng về Việt Nam 3 tháng. Anh cho biết bạn bè đã mách cho anh các cơ hội làm việc tốt, nhưng thiếu nhất là tính “minh bạch.” Ai cũng dặn dò anh một câu: “Em về Việt Nam làm, có nhiều cái khác biệt so với nước ngoài. Khác biệt lớn nhất là: trong giao tiếp, có những cái em biết đôi khi em cũng không nên nói, nếu có biết cũng lập lờ làm như mình không biết… không nên thể hiện sự hiểu biết của mình.” Làm việc ở Việt Nam phải “che giấu con người thật và hy sinh một số tự do cá nhân, một thứ rất quan trọng trong yếu tố con người.” Còn làm việc ở Úc “môi trường làm việc minh bạch, không đòi hỏi bôi trơn này nọ nên chúng tôi luôn được là chính mình.”

Trong thời gian làm việc tập sự tại Sở Giáo Dục của bang Victoria, người chỉ huy anh trao cho trách nhiệm làm một “chuyên viên mạng không dây, wireless.” Ông ta dặn dò, “có cần gì cần hỗ trợ thì cứ nói thẳng ra.” Không khí làm việc thẳng thắn, minh bạch. Có lần anh hỏi người chỉ huy tại sao ông ấy có thể giao công việc quan trọng cho một sinh viên thực tập như mình? Ông ta nói: “Tôi thấy anh hiểu biết rất sâu vấn đề này. Tôi tin tưởng anh có trách nhiệm nên tôi rất tự tin khi giao công việc này cho anh.”

Hoàng hỏi tiếp: “Như ở nước tôi, sếp quyết định hết mọi thứ. Vậy tại sao ở đây ông không quyết định mọi thứ mà ông để cho tôi quyết định?” Ông ấy trả lời: “Nếu có chuyện đó cũng lạ thật. Tôi muốn nói cho anh biết người quản lý không phải là người biết tất cả mọi thứ. Mà người quản lý phải là người biết trong tay họ có những nhân viên như thế nào và họ phải biết sử dụng nhân viên của họ.” Hoàng công nhận: “Sau buổi đối thoại đó, tôi nghĩ rằng, chọn con đường ở lại có thể sẽ tốt hơn cho tôi.”

Các du học sinh ở lại có thể vì lý do kinh tế. Nhưng Ðỗ Lâm Hoàng đã nêu ra những lý do sâu xa hơn: “Nếu về mà trái ngành nghề, làm việc không có lợi cho cộng đồng, về để mà vinh thân phì gia mặc kệ cộng đồng thì thà đừng về còn hơn.”

Nói “Làm việc không đúng nghề của mình” Hoàng đã nhắc nhớ đến trường hợp một giáo sư Ðại Học Kỹ Thuật-Công Nghệ ở Cần Thơ gần đây. Ông Doãn Minh Ðăng đã đưa lên Facebook những điều bất công ông phải chịu trong nhà trường, và sau đó ông bị “xử lý kỷ luật.” Thay vì tiếp tục giảng dạy và nghiên cứu, nhà khoa học này được đưa qua làm một công việc hành chánh không cần một hiểu biết khoa học, kỹ thuật nào cả!

Ðỗ Lâm Hoàng cũng nói rõ các trở ngại khác nếu về làm việc trong nước, mà vụ Giáo Sư Doãn Minh Ðăng là tiêu biểu: Không được tự do suy nghĩ. Mất tự do phát biểu. Không được sống con người thật của mình. Phải chịu luồn cúi những kẻ không hiểu biết, thiếu đạo đức, chỉ thăng tiến trong xã hội nhờ bè đảng, cái bè đảng lớn nhất chính là đảng Cộng Sản!

Phải sống trong một môi trường bất minh và không bình đẳng như vậy, người sinh viên tính trở về sẽ suy nghĩ: “Chúng tôi về là để cống hiến, để làm việc chứ không phải về nắm bắt cơ hội, để trở thành kẻ cơ hội.” Chắc phần lớn các du học sinh Việt Nam cũng đang nghĩ như thế. Họ chọn “ở lại” đóng góp cho quốc gia nơi họ du học, vì biết rằng nếu trở về cũng không có cơ hội đóng góp gì cho đất nước, vì phải sống trong một xã hội vẫn còn di sản của chế độ “hồng hơn chuyên.”

Cho nên, nước Việt Nam đang bị mất rất nhiều tài năng. Những tài năng đó, đời xưa ông Thân Nhân Trung (1419-1499), sống vào đời Lê Thánh Tông đã gọi là “nguyên khí của quốc gia.” Thân Nhân Trung viết một câu nổi tiếng: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia.” Sau khi khẳng định điều đó, ông nói tiếp: “Bởi thế các đức Thánh Ðế, Minh Vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên.”
Thân Nhân Trung là một nhà Nho, môn đồ Khổng Giáo, cho nên đã quen biết với quy tắc “cử hiền tài.” Chữ “Hiền” trong văn chương đời xưa cũng có nghĩa là người có khả năng, chứ không phải chỉ nói đến tính hạnh tốt. Trong Lễ Ký, Khổng Tử mô tả một xã hội “đại đồng,” khi “đạo lớn được thi hành,” ông viết: “Ðạo lớn được thi hành, thiên hạ đều là chung, tuyển chọn người hiền có tài năng, nói điều tín nghĩa hòa mục, cho nên người ta không chỉ thương yêu cha mẹ mình, không chỉ lo cho con cái mình,…” (Ðại đạo chi hành dã, thiên hạ vi công, tuyển hiền dữ năng, giảng tín tu mục, cố nhân bất độc thân kỳ thân, bất độc tử kỳ tử,…)

“Cử hiền dữ năng,” nói theo lối Tây phương bây giờ, gọi là “meritocracy,” có thể tạm dịch là “chế độ cử hiền tài.” Chế độ này có thể được áp dụng trong việc quản trị một quốc gia cũng như trong các công ty kinh doanh, các tổ chức bất vụ lợi, khi cả xã hội dùng quy tắc “cử hiền tài” để chọn người nắm quyền hành trên những người khác. Theo quy tắc “cử hiền tài” thì phải chọn những người có khả năng thay vì chọn những người thân thuộc, cùng bè đảng, cùng thuộc một “giai cấp ưu đãi,” là các đảng viên đảng cầm quyền. Cử hiền tài thì trong công việc chung, dù là việc nước hay việc của xí nghiệp, của cơ quan, “người ta không chỉ thương yêu cha mẹ mình, không chỉ lo cho con cái mình” (nhân bất độc thân kỳ thân, bất độc tử kỳ tử). Chắc chắc chắn không ai chỉ “lo cho các đồng đảng của mình!” Chế độ “cử hiền tài” là căn bản cho một xã hội sống với “cơ hội đồng đều,” khi mọi công dân được “bình đẳng trong cơ hội.”

Lý do chính khiến các du học sinh Việt Nam không trở về nước là vì sẽ không được sống xứng đáng với nhân phẩm của mình, mà một phần quan trọng trong nhân phẩm là quyền sống, suy nghĩ và phát biểu tự do, luôn luôn được “là chính mình” như Ðỗ Lâm Hoàng xác nhận. Lý do quan trọng khác khiến nhiều người không muốn về nước là vì họ biết khi trở về sẽ lại phải sống trong một xã hội không có “bình đẳng trong cơ hội.”

Nhiều sinh viên có thể chọn trở về vì biết họ “có gốc lớn,” nhờ xã hội bất bình đẳng mà họ sẽ được ưu đãi. Nếu những sinh viên đó chỉ cần sống “vinh thân phì gia mặc kệ cộng đồng,” thì con đường trở về là hợp lý. Nhưng với tuổi trẻ người ta còn giữ được nhiều lý tưởng, nhiều người “có gốc lớn” cũng không muốn sử dụng uy thế, tiền bạc của cha mẹ mình để tiến lên trong xã hội, họ cũng nghĩ rằng chỉ khi nào mình thăng tiến nhờ tài năng thì mới xứng đáng.

Trong một chế độ độc đảng, độc quyền, xã hội không thể có “bình đẳng trong cơ hội.” Chế độ độc tài đảng trị đang gây ra cơn “xuất não” làm hao mòn nguyên khí dân tộc Việt Nam. Ðảng Cộng Sản có thể đang vỗ bụng tự khen là họ đã thu vào được 14 tỷ Mỹ kim kiều hối. Nhưng nước Việt Nam vẫn tiếp tục mất, dòng nguyên khí của quốc gia vẫn tiếp tục chảy ra nước ngoài!

Chỉ khi nào dân Việt được sống tự do dân chủ thì mới chấm dứt được tai họa mất nguyên khí này.

MƯỜI BỐN MỐI

MƯỜI BỐN MỐI

 Lm. VĨNH SANG, DCCT,

Trích EPHATA 671

Với Tông Sắc “Dung mạo lòng thương xót” ( Misericordiae Vultus ), Đức Thánh Cha Phanxicô đã tuyên bố mở Năm Thánh ngoại thường về Lòng Thương Xót của Chúa. Vẫn với phong cách bình dị, đơn giản và đầy nhiệt huyết, Tông Sắc của vị Giáo Hoàng cho người nghèo chuyển tải đến chúng ta những gợi ý đầy cảm xúc về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa xuyên qua các câu chuyện trong Tin Mừng, đặc biệt là các dụ ngôn.

Như kết cấu chúng ta thường thấy trong các văn kiện, phần đầu mang tính Thần Học Tín Lý như

để minh định nền tảng của văn kiện, nhưng với Tông Sắc này, Đức Thánh Cha nhanh chóng đi qua phần đầu để trực tiếp dẫn chúng ta vào một không gian tràn ngập tình yêu thương của Thiên Chúa. Từ Dung Mạo Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, hình ảnh Đức Giêsu được trưng dẫn là một lời ngỏ độc đáo của Thiên Chúa dành cho nhân loại, Lời thành xác phàm và sống cụ thể Lòng Thương Xót vô bờ bến bằng chính thân phận con người, giữa loài người và cho loài người chúng ta.

Nắm bắt được nền tảng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa thể hiện cụ thể nơi Đức Giêsu, Đức

Thánh Cha nhanh chóng dẫn chúng ta vào sứ vụ sống Lòng Thương Xót của Chúa giữa nhân loại hôm nay. Thật sự bất ngờ khi Đức Thánh Cha đề nghị chúng ta sống theo kính Mười Bốn Mối.

 Thương người có mười bốn mối:

Thương xác bẩy mối:

  1. Thứ nhất: cho kẻ đói ăn.
  2. Thứ hai: cho kẻ khát uống.
  3. Thứ ba: cho kẻ rách rưới ăn mặc.
  4. Thứ bốn: viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc.
  5. Thứ năm: cho khách đỗ nhà.
  6. Thứ sáu: chuộc kẻ làm tôi.
  7. Thứ bảy: chôn xác kẻ chết.

 Thương linh hồn bẩy mối:

  1. Thứ nhất: lấy lời lành mà khuyên người.
  2. Thứ hai: mở dạy kẻ mê muội.
  3. Thứ ba: yên ủi kẻ âu lo.
  4. Thứ bốn: răn bảo kẻ có tội.
  5. Thứ năm: tha kẻ dể ta.
  6. Thứ sáu: nhịn kẻ mất lòng ta.
  7. Thứ bảy: cầu cho kẻ sống và kẻ chết.

Cảm giác đầu tiên là cứ ngỡ câu kinh tiếng kệ này đã lùi vào quá khứ, cái thủơ các bà các ông

và đám trẻ con nhôi nhai cắp nách chiếc chiếu rách đến Nhà Thờ phủi đất cát tìm một chỗ để trải chiếu, cái quá khứ không còn tìm đâu ra những tiếng kinh vần điệu nhịp nhàng trên môi miệng các bà các cô không cần biết chữ, nhắm mắt mà vẫn đọc được kinh. Thậm chí bài kinh này gần như đã trôi theo năm tháng và được xếp xó ở một góc khuất nào đó trong nền văn minh của nhân loại mà bụi thời gian đã gần như phủ lấp đi. Bây giờ người ta chạy theo những tư tưởng thần học, những khám phá thần học mới, những suy tư và tìm kiếm những quy chuẩn luân lý mới. Đức Thánh Cha đơn sơ nhắc chúng ta sống cụ thể lời kinh cũ mèm của Hội Thánh nhưng đã từng làm nến tảng cho Luân Lý Kitô Giáo.

Đức Thánh Cha khuyên chúng ta đọc, nhắc chúng ta sống và bảo chúng ta phổ biến tinh thần

này. Chắc chắn chúng ta phải thực hiện, và khi thực hiện chúng ta sẽ phải đối đầu với một đại dịch vô cảm và nhẫn tâm của thời đại hôm nay, đối đầu ngay trong chính tâm hồn chúng ta.

Kẻ đói, kẻ khát, kẻ rách rưới ngay trước mắt chúng ta, lâu nay chúng ta không nhìn thấy, bây giờ phải thấy. Kẻ liệt, kẻ tù rạc, kẻ lỡ đường, kẻ chết vùi dập đang réo gọi chúng ta, lâu nay chúng ta bưng tai bịt mắt. Rồi có ngượng miệng không, khi chúng ta không dám đứng bên cạnh người nghèo, người bị áp bức, người đau khổ, người chịu nhiều thiệt thòi giữa xã hội hôm nay ? Có dám ngửng cao đầu hay không khi chúng ta phản bội lại những ai đã từng hy sinh cho chúng ta được an bình nay họ phải sống trong tàn tạ thiếu thốn ? Có còn được phép trốn tránh nữa không ? Có còn có thể đổ thừa là đi với người nghèo là làm chính trị theo nghĩa xấu nữa hay không ? Có thấy không cái mình đang hưởng thụ dư thừa là cái ăn cắp của người nghèo ? Có thấy rằng được hưởng Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa là một ân huệ lớn lao mà chúng ta không thể trả lễ chỉ bằng những giờ kinh nghêu ngao giữa trưa mà coi đó là đủ.

Đức Thánh Cha bảo chúng ta phải sống cụ thể !

 Lm. VĨNH SANG, DCCT,

12.12.2015

CHÚA VỊ CỨU TINH SẼ ĐẾN CỨU ĐỘ CHÚNG TA

CHÚA VỊ CỨU TINH SẼ ĐẾN CỨU ĐỘ CHÚNG TA

(CN III Mùa Vọng)

  Tuyết Mai

Thật phải khi Thiên Chúa vị Cứu Tinh của chúng ta đến trần gian, tất cả mọi chỗ mọi nơi trên địa cầu phải nhảy mừng, hân hoan và ca hát không ngừng. Để chào đón một Thiên Chúa vô cùng toàn năng, thống trị toàn cõi địa cầu, sẽ giáng trần mặc xác loài người như chúng ta và để cứu độ chúng ta. Thưa Ngài sẽ cứu độ chúng ta như thế nào?.

Ngài sẽ làm cho Israel được vinh quang của xứ Liban, huy hoàng của Carmel và Saron. Ngài sẽ mở mắt cho người mù được nhìn thấy; mở tai cho người điếc được nghe; người què được nhảy nhót; người được Chúa cứu chuộc, sẽ trở về và đến Sion với lời khen ngợi; và trên đầu họ mang hoan hỉ triền miên, họ sẽ được vui mừng khoái trá, họ sẽ không còn đau buồn rên siết nữa.

Thế thì còn gì bằng mà toàn cõi địa cầu không phủ phục dưới bàn thờ Thiên Chúa mà cảm tạ Người. Vì Thiên Chúa đã dõi mắt trông chừng chúng ta.  Vì Thiên Chúa Người có đang lắng nghe tiếng chúng ta khẩn cầu với lòng thành khẩn, thông cảm cho sự yếu đuối mỏng dòn của con người chúng ta.  Thiên Chúa Người thương yêu chúng ta, muốn được hiểu chúng ta tường tận hơn nên không gì bằng đã cho người Con duy nhất của mình xuống trần, mặc xác phàm để cảm thông và hiểu thế nào để trở thành một con người thật sự như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi.

Vâng, một Hài Nhi phải xuống trần học cách làm con người.  Ngài phải được sinh ra thật bình thường như một con trẻ, có hình hài, có đầy đủ đầu mình và tứ chi. Cũng phải có cha mẹ là người trần gian nhưng cả hai rất khiết trinh vì đã dâng hiến trọn cuộc đời cho Thiên Chúa. Thế cho nên hai người đã được Thiên Chúa Cha tuyển chọn trong vô số những người thanh niên và thanh nữ để xứng đáng làm dưỡng phụ và dưỡng mẫu của Chúa Con Giêsu trên thế gian này.

Quả Ngài là một Thiên Chúa thật siêu phàm vì Ngài đã hy sinh chính mình cho nhân loại. Hy sinh đến nỗi Chúa đã chọn chỗ sinh ra đời của mình ở một nơi tận cùng nhất, bần hèn nhất, hôi hám nhất của trần gian. Một hang bò lừa ư?. Nằm trong máng cỏ trên được lót rơm ư?. Quần áo của một một thiên tử con Vua Trên Trời lại chỉ là tấm vải quấn người thôi ư!?. Sao Chúa lại làm thế?.

Chúa đã có ý dạy chúng con điều gì?. Có phải Chúa dạy chúng ta một bài học rất đơn giản là con người khi sinh ra trên trần gian này cũng không khác nào khi nằm xuống?. Là một sự tuần hoàn của nguyên thủy được trở về với nguyên thủy?. Con người khi được sinh ra trong trần truồng thì khi Chúa gọi ra đi cũng thật trần truồng.

Vâng, một thiên tử con Vua Trời lại phải học cách để làm người. Để được như vậy Ngài phải được sinh ra là một hài nhi chứ. Ngài cũng phải được bú mớm từ dòng sữa tươi mát và rất lành thánh của người Mẹ là Đức Maria khiết trinh của chúng ta.

Ngài phải được lớn lên trong sự giáo dục của cha mẹ thánh. Ngài cũng phải tập cách suy nghĩ của con người. Ngài học cảm nhận được cái nóng, lạnh, đói, đau, khổ và cái cảnh nghèo thiếu thốn ra sao. Ngài cũng phải sống chung với tất cả con người nghèo mà Ngài cho là bạn rất thân thiết của Ngài, ngày qua ngày như chúng ta đây vậy. Rất phải khi Thiên Chúa Cha đã nghĩ ra cách hoàn hảo nhất để dạy dỗ con người, sửa phạt con người là đem chính thân xác của con mình làm gương sáng cho nhân loại tội lỗi noi theo.

Khi nói đến gương sáng chúng ta tất cả không thể phủ nhận rằng gương sáng ngời của gia đình Thánh Gia. Một người cha trần thế rất thánh thiện, công thẳng, hiền hòa, bác ái và rất nhân hậu. Ngài là người ít nói nhưng làm nhiều. Hòa khí trong gia đình Ngài đã sống thật hòa thuận. Đúng lắm với thứ bậc làm cha và làm chồng của mình.

Luôn thương yêu, nhường nhịn người bạn đời của mình và biết thông cảm. Còn nói về Đức Mẹ thánh thiện của chúng ta thì không khỏi cảm phục và yêu kính Mẹ. Mẹ can đảm để Xin Vâng với thiên chức được làm Mẹ Chúa Trời trong tương lai vì lợi ích của nhân loại tuy dù Mẹ hiểu rằng những cái khổ trước mặt mà Mẹ phải chịu đựng.

Thiên Chúa Cha Người thương Mẹ đến độ Người đã chọn Mẹ và tác tạo Mẹ cách riêng để Mẹ không vướng tội tổ tông truyền vì Mẹ là Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội cơ mà. Mẹ rất xứng đáng làm Mẹ Chúa Trời. Mẹ xứng đáng làm Mẹ của Hội Thánh và Mẹ rất tuyệt vời để làm Mẹ của nhân loại.

Trong mùa đông lạnh giá này phúc thay cho toàn thể nhân loại chúng ta được Con Chúa Giáng Trần. Ngài giáng Ân Phúc cho chúng ta để trẻ con không cha không mẹ bị bỏ rơi có nơi trú ngụ và được no ấm.   Để các em lạc loài sống đầu đường xó chợ khắp nơi tìm nguồn an ủi nơi hang Bêlem.   Để những người cô đơn chưa đôi chưa cặp biết chờ đợi ý Chúa.   Để gia đình những ai đang xào xáo bất hòa biết nhịn nhục, chịu đựng, và yêu thương nhau hơn.  Để người bệnh tật được giảm đau và biết sống trông cậy vào Chúa.   Để người già cả biết sống trong chờ đợi trong an bình và để toàn cõi địa cầu biết Đấng Toàn Năng Con Thiên Chúa đang dần đến với chúng ta.

Lạy Chúa, Ngài xuống trần mà chẳng có ý định đem theo mình một thứ gì từ trời cả.  Ngôi báu cũng không, danh vọng tiền tài cũng không, tất cả mọi thứ Ngài để lại ở trên Trời.   Ngài chỉ đem theo duy nhất trái tim tràn đầy yêu thương là món quà trân quý nhất của Ngài ban tặng cho nhân loại chúng con mà thôi. Do đó chúng con xin được học nơi Ngài từ cách sống đơn sơ chân chất và thật thà. Đem chính thân xác mình và tình yêu Thiên Chúa đến cùng khắp anh chị em nơi bốn phương trời và hoan hỉ loan báo cho cùng khắp thiên hạ là Con một Thiên Chúa sắp Giáng Sinh. Amen.

 Tuyết Mai

Y Tá của Chúa

11 tháng 12, 2015

Đạo vào Đời

Đạo vào Đời

 Cha Gioan Tauler, một vị linh mục đạo đức vẫn luôn cầu xin để được gặp một người chỉ dẫn cho ngài thiên đàng ở đâu. Một ngày kia, có tiếng lương tâm giục ngài ra trước cửa nhà thờ để gặp vị quân sư đó. Nhìn trước nhìn sau, cha chẳng thấy ai, ngoại trừ một người ăn mày, quần áo rách rưới, mặt mũi bẩn thỉu, hôi thối. Cha đến gần chào người hành khất:

– Chào ông, chúc ông may mắn.
Người ăn mày thản nhiên trả lời:
– Chào cha, tôi có bị rủi ro bao giờ đâu.
– Vậy thì xin Thiên Chúa ban cho ông mọi điều sung sướng.
– Ồ, thưa cha, đời tôi chưa bao giờ thấy khổ cả.
Cha Tauler rất ngạc nhiên về cách nói năng của người này. Cha hỏi tiếp:
– Nếu Chúa bắt ông xuống hỏa ngục, ông có buồn khổ không?
Người hành khất trả lời không cần suy nghĩ:
– Nếu Chúa làm như vậy thì tôi sẽ ôm ghì lấy Chúa và đưa Chúa xuống hỏa ngục luôn. Tôi thà ở hỏa ngục với Chúa còn hơn ở Thiên Đàng mà không có Ngài.
Vị linh mục càng ngạc nhiên hơn nữa. Cha hạch hỏi:
– Này ông, ông có thể cho tôi biết ông từ đâu tới đây?
– Thưa Cha, tôi từ Thiên Chúa mà đến.
– Nhưng ông tìm thấy Thiên Chúa ở đâu?
– Ở ngay khúc quẹo, chỗ mà tôi từ bỏ mọi của cải vật chất trên đời này.
Tới đây, Cha Tauler không thể chờ đợi thêm được nữa. Ngài hỏi nhanh:
– Thế thì, ông là ai?
Người ăn mày nói một cách trịnh trọng:
– Tôi là Vua.
Cha Tauler quỳ xuống trước mặt người ăn mày:
– Tâu Đức Vua, Ngài có thể cho con biết vương quốc ngài ở đâu không?
– Vương quốc của Ta ở ngay trong tâm hồn Ta. 

Bạn thân mến, 
Nhiều lúc trên đời, chúng ta đã mất thời giờ viển vông đi tìm bình an, hạnh phúc ở những nơi không bao giờ có.
Hàng ngày chúng ta lái xe đi làm trên cùng một con đường, vào cùng một giờ khắc trong ngày, vậy mà sao có hôm một chiếc xe chớp đèn xin đi trước thì ta mỉm cười, giảm tốc độ lại và còn đưa tay lên mời họ qua. Trái lại, có ngày gặp trường hợp tương tự, ta lại cáu kỉnh chửi thề mà không cho xe nào qua mặt? Tại sao con cái ta nô đùa trong nhà mà có lúc chúng ta cảm thấy êm đềm, hạnh phúc; nhưng có lúc ta lại cảm thấy ồn ào, khó chịu, nên la rầy và bắt chúng phải ở yên?
Bình an, hạnh phúc khi mà con người biết quên mình hy sinh cho hạnh phúc người khác, chia sẻ với người khác”. Thì ra sự bình an, vui vẻ, hạnh phúc không phải do ngoại cảnh tạo ra, mà lại ở ngay trong chính TÂM ta. Khi lòng ta an vui thì ngoại cảnh cũng đẹp đẽ. Khi lòng ta bất ổn thì ngoại cảnh chỉ tạo nên sầu muộn.
Cảnh giới Thiên Đàng hay Địa ngục từ trong TÂM ta vậy !

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

NGUYỄN TẤN DŨNG LẠI TỰ ĐÁNH BÓNG BẰNG MỘT “GIẢI THƯỞNG”!

NGUYỄN TẤN DŨNG LẠI TỰ ĐÁNH BÓNG BẰNG MỘT “GIẢI THƯỞNG”!

RFA

(bài viết của Hoàng Ngọc-Tuấn)

Hôm nay báo Vietnamnet loan tin: “Vinh danh Thủ tướng, vinh danh Việt Nam” – “Giải thưởng Nhà lãnh đạo thế giới vì Hoà bình, An ninh và phát triển do Diễn đàn Toàn cầu Boston trao cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng được xem là ghi nhận xứng đáng cho những nỗ lực nhiều năm qua của ông vì hoà bình và an ninh trong khu vực…”

http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/278356/vinh-danh-thu-tuong–vinh-dan…

Nhưng cái “Giải thưởng Nhà lãnh đạo thế giới vì Hoà bình, An ninh và phát triển” là gì? Và “Diễn đàn Toàn cầu Boston” là ai?

H1

Nguyễn Tấn Dũng, vừa được “Giải thưởng Nhà lãnh đạo thế giới vì Hoà bình, An ninh và phát triển” của Nguyễn Anh Tuấn. Nguồn ảnh: internet

“Giải thưởng Nhà lãnh đạo thế giới vì Hoà bình, An ninh và phát triển” là một giải thưởng dỏm do Nguyễn Anh Tuấn (kẻ sáng lập và làm Tổng Biên Tập của Vietnamnet) lập ra, và cái “Diễn đàn Toàn cầu Boston” (Boston Global Forum) thì cũng do Nguyễn Anh Tuấn lập ra và làm Giám Đốc Điều Hành (Founder and CEO):

http://bostonglobalforum.org/blog/category/about-us/board-of-directors/

Nguyễn Anh Tuấn kiêm nhiệm cả Ban Tư Tưởng (Board of Thinkers) của “Diễn đàn Toàn cầu Boston” (Boston Global Forum):

http://bostonglobalforum.org/blog/category/about-us/board-of-thinkers-new/

Nguyễn Anh Tuấn kiêm nhiệm cả Ban Biên Tập (Editorial Board) của “Diễn đàn Toàn cầu Boston” (Boston Global Forum):

http://bostonglobalforum.org/blog/category/about-us/editorial-board/

Nguyễn Anh Tuấn kiêm nhiệm cả Ban Điều Hành (Executive Board) của “Diễn đàn Toàn cầu Boston” (Boston Global Forum):

http://bostonglobalforum.org/blog/category/about-us/excutive-board/

Nên nhớ rằng năm 2012, Nguyễn Anh Tuấn đã lập ra giải thưởng dỏm “Quốc Tế Trần Nhân Tông”, và báo Vietnamnet đã rầm rộ đăng tin rằng “Giải Thưởng Quốc Tế Trần Nhân Tông” sẽ trao cho Tổng thống Myanmar, ông U Thein Sein và Chủ tịch Đảng đối lập NLD – bà Aung San Suu Ky. Nhưng rốt cuộc cả 2 người này không hề đến nhận giải thường, và cái giải thưởng đó chết tiệt luôn, không kèn không trống:

http://vietnamnet.vn/vn/giai-tri/89762/ngay-hoi-lon-cua-giai-thuong-quoc…

NGUYỄN TẤN DŨNG KHÔNG NGỪNG TỰ ĐÁNH BÓNG BẰNG MỌI THỦ ĐOẠN RẺ TIỀN NHẤT.

Năm 2011, tôi đã vạch ra sự thật về việc Nguyễn Tấn Dũng tự đánh bóng, qua bài viết: “‘Báo chí nước ngoài’ ca ngợi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng? Thật ra chỉ là một trò lừa bịp!”
http://www.tienve.org/home/activities/viewThaoLuan.do?action=viewArtwork…

Và bài “Thông Tấn Xã Việt Nam biến rác thành vàng để lừa bịp nhân dân”:
http://www.tienve.org/home/activities/viewThaoLuan.do?action=viewArtwork…

Cộng Sản Việt Nam sẽ không bao giờ ngừng lừa bịp nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, tôi tin rằng càng ngày càng ít người dân Việt Nam tin vào những trò lừa bịp ấy. Chúng ta cần phải liên tục vạch ra tất cả cả những trò lừa bịp của Cộng Sản Việt Nam để càng ngày càng nhiều người dân Việt Nam biết rõ sự thật.

Peter F Drucker : Một con người chính trực

Peter F Drucker : Một con người chính trực

(1909 – 2005)

 Bài của : Đoàn Thanh Liêm

Peter Ferdinand Drucker sinh năm 1909, tại thành phố Vienna, thủ

đô nước Áo. Ông mới qua đời tại thành phố Claremont, thuộc miền

Nam California vào năm 2005, ở tuổi thọ 96. Trong suốt trên 60

năm ông chuyên dậy học tại nhiều trường đại học ở Mỹ, viết rất

nhiều sách chuyên về vấn đề quản lý, và đồng thời còn làm cố vấn

cho rất nhiều đại công ty kinh doanh tư nhân, cho các cơ quan

chánh phủ tại ba quốc gia Mỹ, Nhật và Canada, và đặc biệt ông đã

tận tình hỗ trợ cho các tổ chức thiện nguyện bất vụ lợi.

Có thể nói Peter Drucker là một mẫu người ngoại hạng, với sự

nghiệp chuyên môn hết sức lớn lao, và nhất là một nhân cách sáng

ngời của sự ngay thẳng chính trực.

Bài viết này xin được giới thiệu chi tiết với quý bạn đọc người Việt

về con người sĩ phu trí thức rất mực cao quý này của thế kỷ XX.

 

A – Học tập ở Âu châu, thành danh ở Mỹ châu.

Sinh trưởng trong một gia đình trí thức tên tuổi, với người cha là

một vị luật sư và giáo sư đại học, Peter Drucker ngay từ buổi thiếu

thời đã được tiếp xúc với những vị thức giả có tên tuổi lớn tại Âu

châu, điển hình như Sigmund Freud là người đã khai sinh ra ngành

Phân tâm học (Psychanalysis).

Sau khi tốt nghiệp trung học tại quê nhà vào năm 1927, thì Peter

qua học về luật tại đại học Frankfurt bên nước Đức. Tại đây, ông

đậu văn bằng tiến sĩ về luật quốc tế và công pháp. Ông chịu ảnh

hưởng của bậc đại sư, mà cũng là một người bạn của thân phụ ông,

đó là giáo sư Joseph Schumpeter về sự quan trọng của tinh thần

sáng tạo và tài năng tháo vát trong lãnh vực kinh doanh. Rồi sau

này khi rời bỏ nước Đức lúc Hitler lên cầm quyền vào năm 1933,

để qua sống tại Anh quốc, thì ông được thụ giáo với cả vị kinh tế

gia lừng danh thời trước chiến tranh là John Maynard Keynes

Ở tuổi đôi mươi ông đã hăng say tham gia viết báo, làm việc trong

ngành bảo hiểm, rồi ngành xuất nhập cảng và ngân hàng tại nước

Đức và nước Anh.

Vào năm 1937, với tư cách là đặc phái viên cho một nhóm báo chí

Anh quốc, ông qua Hoa Kỳ cùng với người vợ mới cưới là Doris

Schmitz. Vào tuổi ba mươi, với tài năng chín mùi, Peter Drucker

đã có nhiều cơ hội phát huy sở học và kinh nghiệm thâm hậu của

mình. Ông được mời giảng dậy tại nhiều trường đại học tại phía

miền đông nước Mỹ như trường New York University trong gần 30

năm. Đồng thời, ông vẫn tiếp tục cộng tác với các tờ báo nổi danh

về kinh tế tài chánh như Wall Street Journal, The Economist,

Harvard Business Review, và với cả các tờ báo có uy tín hàng đầu

như The Saturday Evening Post, The Atlantic Monthly v.v…

Kể từ năm 1945, ông được nhiều đại công ty như General Motors

mời làm cố vấn. Tính ra ông đã nhận làm cố vấn cho trên 50 công

ty tầm cỡ rất lớn như General Electric, Coca Cola, IBM, Citycorp,

Intel… Ông cũng được giới doanh nhân ở Nhật rất tín nhiệm và

mời ông vào chức vụ cố vấn cho các vị giám đốc của Toyota Motor

Corp., Ito-Yokado Group v.v… nữa. Đó là chưa kể đến việc làm cố

vấn miễn phí cho các tổ chức bất vụ lợi như Hội Nữ Hướng đạo

Mỹ, Salvation Army, Hội Hồng Thập Tự, tổ chức CARE v.v…

Sau đó vào thập niên 1970, thì ông qua California, tiếp tục việc

dậy học và làm cố vấn cho nhiều cơ sở kinh doanh tại phía bờ biển

miền tây nước Mỹ. Ông giữ chức vụ Giáo sư về Khoa học Xã hội

và Quản trị tại trường Cao học về Quản trị Claremont, mà sau này

được đổi tên là “Peter F. Drucker School of Management” để vinh

danh ông vào năm 1987. Lớp học cuối cùng ông dậy tại trường này

là vào năm 2002, lúc ông đã bước vào tuổi 92.

Về sự nghiệp biên soạn sáng tác, ông đã cho xuất bản 39 cuốn

sách, phần lớn bàn về vấn đề quản trị, mà điển hình là cuốn “The

Practice of Management” xuất bản năm 1954 và cuốn

“Management : Tasks, Responsabilities, Practices” xuất bản năm

  1. Riêng về lãnh vực các tổ chức bất vụ lợi, thì có cuốn viết

năm 1990 với nhan đề : “Managing the Non-Profit Organisation:

Principles and Practices”. Phần lớn các sách của ông đã được dịch

ra trên 30 ngôn ngữ khác nhau trên thế giới.

 

B – Các giai thọai về nhân vật xuất chúng Peter Drucker.

Ít có nhân vật nào mà lại xông xáo họat động năng nổ tích cực

trong cả ba khu vực cấu thành “không gian xã hội” như là Peter

Drucker (the social space bao gồm khu vực Nhà nước, khu vực Thị

trường kinh tế và khu vực Xã hội dân sự). Ông giúp cho các nhà

lãnh đạo cơ sở công quyền, cũng như giám đốc công ty xí nghiệp

tư nhân trong việc họach định được một chính sách tối ưu. Mà đặc

biệt ông còn hỗ trợ hết mình cho các tổ chức phi chánh phủ, bất vụ

lợi thực hiện được những thành tựu tốt đẹp cao nhất trong công

cuộc phục vụ nhân quần xã hội.

Những khám phá của ông trong lãnh vực quản lý xí nghiệp đã trở

thành một huyền thọai, được truyền tụng trong giới doanh nhân

cũng như trong giới hàn lâm đại học. Nhiều người đã gọi ông là

nhà tư tưởng táo bạo, một triết gia của xã hội kỹ nghệ đang ở vào

giai đọan phát triển cao độ. Lớp học do ông giảng dậy thu hút quá

đông sinh viên theo học, đến nỗi nhà trường phải sử dụng cả khu

tập thể dục mới có đủ chỗ rộng rãi cho thầy trò sinh họat, trao đổi

thảo luận với nhau cho thoải mái được

Một cựu sinh viên kể lại câu chuyện như sau : Dù lớp học đày ắp

sinh viên, mà giáo sư Drucker vẫn tìm cách nêu các câu hỏi gợi ra

sự tranh luận sôi nổi giữa cử tọa. Có lần ông hỏi cả lớp như thế này

đây : “ Các bạn cho tôi biết sự kiện nào nổi bật, gây ảnh hưởng

nhất trong thời gian 100 năm gần đây trong xã hội nước Mỹ? Các

sinh viên lần lượt kê ra, nào là sự phổ biến điện thọai, điện lực, hai

cuộc thế chiến, cuộc khủng hỏang kinh tế …Tất cả các câu trả lời

đều bị giáo sư lắc đầu, từ chối. Cuối cùng thì ông cho chúng tôi

biết : Đó là việc sản xuất xe hơi hàng lọat (the mass production of

automobile), vì nó tạo cho giới nông dân phương tiện để chở vợ

con ra thành phố vào cuối tuần – nhờ đó mà họ mới tránh được lọai

bệnh tâm thần do sự cô lập quạnh hiu ở nông thôn gây ra… Đây

quả thật là một lối suy luận độc đáo, bất ngờ khiến cả lớp chúng tôi

cứ nhớ hòai!”

So với các bậc tiền bối, thì quả thật Peter Drucker là thứ “hậu sinh

khả úy”, là môn đệ mà đã vượt qua cả bậc sư phụ của mình. Cụ thể

như đối với Frederik Taylor (1866 – 1915) là người khai sáng ra

môn tổ chức công việc sản xuất theo khoa học nhằm nâng cao

năng xuất trong kỹ nghệ, thì Drucker đã bổ túc môn này bằng cách

mở rộng sự nghiên cứu trong lãnh vực văn hóa, quan hệ nhân bản,

và nhất là viễn tượng tương lai đối với những thách đố và khả năng

trong xã hội kỹ nghệ. Và đối với John Maynard Keynes (1883-

1946) thì cũng vậy, Drucker đưa thêm vào lý thuyết định lương vĩ

mô (macro-economics) của vị đại sư này cái phương pháp nghiên

cứu về động thái con người (behavior of people); như vậy là làm

tăng thêm khía cạnh nhân bản trong lãnh vực kinh tế vi mô (micro-

economics).

Các giám đốc công ty đã không tiếc lời ca ngợi vị đại sư Peter

Drucker. Điển hình như Andy S. Grove của công ty Intel Corp., thì

đã viết : “Lời khuyến cáo của ông đã ảnh hưởng đến không biết

bao nhiêu hành động hàng ngày tại các xí nghiệp. Và riêng đối với

tôi, thì cái ảnh hưởng đó đã kéo dài liên tục trong nhiều thập niên”.

Tom Peters thì gọi Drucker là người đã sáng lập ra môn khoa học

quản lý hiện đại; ông là người đầu tiên đã cung cấp cho chúng ta

thứ dụng cụ để quản lý những tổ chức kinh doanh mỗi ngày càng

trở thành phức tạp hiện nay.

 

C – Con người ngay thẳng chính trực.

Nhưng Peter Drucker còn làm cho bao nhiêu người mến phục bởi

sự ngay thẳng chính trực lạ thường của ông. Ngay từ thời còn ở

bên nước Đức, lúc mới có 23-24 tuổi, ông đã viết một cuốn sách về

nhà triết học Friedrich Julius Stahl, mà đã bị chính quyền Đức

quốc xã tịch thu và cho đốt hết đi. Mấy năm sau, thì cuốn sách thứ

hai nhan đề “Vấn đề Người Do Thái tại nước Đức” cũng lại chịu

chung số phận đó. Đến nỗi mà hiện nay chỉ còn sót lại một cuốn

duy nhất trong văn khố nước Áo với dấu hiệu chữ vạn đóng trên

bìa sách.

Được nuôi dưỡng theo truyền thống nghiêm túc của đạo Tin lành,

Peter Drucker đã sống và hành động theo những nguyên tắc chặt

chẽ về luân lý và đạo hạnh. Mặc dầu được các đại công ty trả

lương rất hậu cho dịch vụ cố vấn của ông, Drucker cũng không

ngần ngại phê phán những thiếu sót bất cập của giới doanh nghiệp

tại Mỹ. Khi được biết giới đứng đầu doanh nghiệp dành cho mình

những bổng lộc quá lớn, lên đến cả trăm lần lương của người công

nhân bình thường, ông đã không cầm được sự giận dữ và lên tiếng

phê phán gắt gao chuyện này. Ông nói : “Đó là điều không thể tha

thứ được, xét về mặt luân lý cũng như về mặt xã hội; và chúng ta

sẽ phải một cái giá nặng nề cho tình trạng này.” (This is morally

and socially unforgivable, and we will pay a heavy price for it).

Ông còn ghi rõ là : “ Thâu nhập của người giám đốc không được

gấp quá 20 lần mức lợi tức của người công nhân”.

Thất vọng trước sự sa sút về phương diện giá trị đạo đức của giới

doanh nghiệp Mỹ, ông đã phải thốt lên : “Đó là sự thất bại cuối

cùng của chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp” (the final failure of

corporate capitalism).

Và kết cục là ông đã dành hầu hết thời giờ và năng lực vào việc

yểm trợ cho các tổ chức bất vụ lợi. Đó là lãnh vực xã hội dân sự,

mà ông tin tưởng sẽ góp phần quan trọng vào việc phục hồi lại hệ

thống giá trị tốt đẹp truyền thống của nước Mỹ. Ông đặc biệt dành

sự ưu ái cho mục sư và cũng là một tác giả nổi danh với cuốn sách

bestseller “The Purpose-driven Life” Rick Warren của Nhà thờ

Saddleback tại thành phố Lake Forest trong Quận Cam miền Nam

California. Vị mục sư này thuật lại rằng : Ông Peter Drucker căn

dặn tôi : “Chức năng quản lý trong một nhà thờ là làm cho nhà thờ

đó mỗi ngày đích thực là nhà thờ hơn, chứ không phải là một loại

tổ chức kinh doanh (to make the church more churchlike, not more

businesslike). Như vậy thì nhà thờ mới có thể thực hiện đúng sứ

mệnh riêng biệt của mình.”

** Tóm tắt lại, ta có thể ghi nhận rằng Peter Drucker là một mẫu

người ngoại hạng của thế kỷ XX. Sự đóng góp chuyên môn trong

việc giáo dục đào tạo nhiều thế hệ sinh viên trong ngành quản trị

doanh nghiệp, trong sự nghiệp trước tác, cũng như trong việc cố

vấn hướng dẫn cho giới lãnh đạo cơ sở công quyền, cũng như xí

nghiệp tư nhân, và nhất là trong sự yểm trợ cho các tổ chức bất vụ

lợi thuộc khu vực Xã hội Dân sự, thì thật là lớn lao vĩ đại ít người

nào có thể sánh kịp được.

Mà còn hơn thế nữa, cái nhân cách trong sáng và tính ngay thẳng

chính trực của ông mãi mãi là một tấm gương cao quý cho giới sĩ

phu trí thức cùng khắp thế giới hiện nay noi theo vậy./

California, Tiết Trung Thu Canh Dần 2010

Đoàn Thanh Liêm