Đẩy gánh nợ công cho đời con cháu

Đẩy gánh nợ công cho đời con cháu

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2015-12-17

000_Hkg10169198-620

Thế hệ tương lai phải lo trả gánh nợ công

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

2015 được ghi nhận như năm của mối đe dọa nợ công và rất nhiều ưu tư của người dân Việt Nam. Nhà nước nhìn nhận đang cố gắng vay nợ mới để trả nợ cũ và hiển nhiên đẩy trách nhiệm trả nợ cho các thế hệ tương lai.

Nợ công và việc đẩy trách nhiệm trả nợ cho các thế hệ tương lai là mối ưu tư lớn nhất mà các cử tri Quận Nam Từ Liêm bày tỏ với tân Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung hôm 14/12/2015, khi ông lần đầu tiếp xúc với người dân trong cương vị mới.

Sự kiện vừa nêu làm dài thêm danh sách người dân các tỉnh thành cả nước, bày tỏ mối lo đời con cháu sẽ phải trả gánh nặng nợ công, do thế hệ cha ông để lại từ việc tiêu xài quá trớn. Bên cạnh nhu cầu phát triển đường xá, cầu cống lại cũng có không ít đại công trình hàng ngàn tỷ, để xây trụ sở nguy nga hoặc tượng đài hoành tráng. Ngoài ra ngân sách quốc gia còn phải đài thọ chi phí khổng lồ để vận hành hai bộ máy song hành là Đảng và Chính quyền.

Nhận định về sự kiện vừa nêu, chuyên gia kinh tế Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Trí Long hiện sống và làm việc ở Hà Nội phát biểu:

“ Tôi nghĩ rằng nợ công tăng nhanh chóng như thế nó báo hiệu một nguy cơ rất lớn. Vấn đề không phải là nó đạt ngưỡng 65% của GDP, trên đấy thì mất an toàn còn dưới đấy thì không mất an toàn.
– TS Nguyễn Quang A”

“Với một bộ máy cồng kềnh như của Việt Nam mà ngay đại biểu Quốc hội cũng nói là, rất nhiều tổ chức cùng song hành như tổ chức Đảng, tổ chức Chính quyền, tổ chức các đoàn thể và tất cả đều ăn lương nhà nước, trong khi đó năng suất lao động thì thấp, đây là sự nguy hiểm. Ở Quảng Ninh đã thí điểm nhất thể hóa giữa cơ quan Đảng với cơ quan Chính quyền. Người ta thấy vấn đề đó nhưng họ không triển khai, không thực hiện và với một bộ máy cồng kềnh lớn như hiện nay thì không có một nguồn ngân sách nào có thể kham nổi, đủ nuôi nổi bộ máy như vậy. Chắc chắn với việc đầu tư, trong khi ngân sách phải chi thường xuyên để nuôi bộ máy quá lớn như vậy thì tiền phát triển cho đầu tư, mà chính nguồn này mới là để trả nợ, không được coi trọng, không đúng thì mức nợ tăng cao và nguồn thu để trả mức nợ đó lại không có, hạn hẹp. Cuối cùng có dẫn tới vỡ nợ thì cũng là chuyện bình thường.”

Ngày 6/12/2015, ông Trương Tấn Sang Chủ tịch nước phát biểu với cử tri Quận 4 TP.HCM cho biết tốc độ tăng nợ công nhanh gấp 3 lần tốc độ phát triển Tổng sản phẩm nội địa GDP. Nhà nước đang phải vay tiền để trả nợ vì nhiều khoản đến hạn mà không có tiền để thanh toán. Những sự kiện này được báo chí Việt Nam tường thuật, theo đó ông Sang nói công khai là, trong tổng số 250.000 tỷ đồng tương đương hơn 11 tỷ USD tiền phải đi vay trong năm 2015, một phần để chi cho đầu tư và một phần để trả nợ đến hạn.

Trả lời phỏng vấn của RFA, TS Nguyễn Quang A nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển ở Hà Nội đã tự giải thể, cho rằng tỷ lệ vay nợ trên GDP cao hay thấp không hẳn thể hiện vấn đề an toàn, nhưng khả năng trả nợ mới là vấn đề quan trọng nhất. Ông nói:

“Tôi nghĩ rằng nợ công tăng nhanh chóng như thế nó báo hiệu một nguy cơ rất lớn. Vấn đề không phải là nó đạt ngưỡng 65% của GDP, trên đấy thì mất an toàn còn dưới đấy thì không mất an toàn. Thực sự ở những nước mà nợ công của người ta lên đến trên 100% cúa GDP nhưng vẫn an toàn và có thể dưới mức 50% cũng không an toàn. Quan trọng là khả năng của nền kinh tế, khả năng thu của chính phủ có đủ bù chi hay không. Có thể trả nợ lãi và gốc đến hạn hay không. Nếu việc ấy mà không thực hiện được thì dẫu ngưỡng có bao nhiêu chăng nữa thì đất nước cũng lâm vào cảnh vỡ nợ cho nên tôi thấy chuyện nợ công tăng nhanh như thế thì rất đáng lo ngại.”

Cử tri Hà Nội, Saigon nhiều lần quan ngại vấn đề chi tiêu không kềm chế và vấn đề kiểm soát nợ công, khiến Chủ tịch nước Trương Tấn Sang phải nhìn nhận là cả hệ thống chính quyền từ Trung ương tới địa phương đều có lỗi. Sau Hà Nội, TP.HCM, cử tri Đà Nẵng, thành phố lớn thứ ba của Việt Nam cũng lên tiếng về vấn đề này. Theo Đà Nẵng Online, Đoàn Đại biểu Quốc hội TP.Đà Nẵng gặp gỡ cử tri vào cuối tháng 11/2015 đã ghi nhận sự lo lắng cao độ về vấn đề nợ công. Cử tri Đà Nẵng nói rằng không thể yên tâm với tình hình nợ công và vay vốn viện trợ phát triển ODA như hiện nay. Cử tri bức xúc, không thể để nợ công kịch trần, rồi hậu quả là đời con, đời cháu phải oằn lưng trả nợ. Chính phủ từ Trung ương tới các địa phương phải trách nhiệm điều hành hiệu quả và quyết liệt.

Trong cuộc họp báo ngày 2/12/2015 ở Hà Nội, Ngân hàng Thế giới cảnh báo nợ công của Việt Nam đang tiến nhanh đến mức trần giới hạn 65% GDP và Việt Nam sẽ đối diện rủi ro nợ công khi phải sử dụng vốn vay ngắn hạn trong nước để chi tiêu, vì không còn nguồn vay ưu đãi từ nước ngoài.

“ Chính phủ phải huy động vốn trong xã hội bằng cách bán trái phiếu, lấy tiền bù phần thiếu hụt ngân sách chi cho đầu tư công, trong khi thu ngân sách bị ảnh hưởng nhiều do tình hình kinh tế và hoạt động của doanh nghiệp.
– CG kinh tế Phạm Chi Lan “

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan từ Hà Nội phân tích vấn đề này:

“Chính phủ phải huy động vốn trong xã hội bằng cách bán trái phiếu, lấy tiền bù phần thiếu hụt ngân sách chi cho đầu tư công, trong khi thu ngân sách bị ảnh hưởng nhiều do tình hình kinh tế và hoạt động của doanh nghiệp. Khi phát hành trái phiếu chính phủ như vậy sẽ có những rủi ro, ví dụ huy động ngắn hạn thì nhiều khi chưa kịp làm gì đã đến thời hạn phải trả nợ rồi, lãi suất vay bằng đồng VN cũng cao hơn vay ngoại tệ ở bên ngoài. Hơn nữa khi chính phủ đứng ra vay nhiều như vậy, thì số tiền vốn cho xã hội cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận được, sẽ lại càng khó khăn hơn.”

Việt Nam đang ngập trong nợ, nợ công  được chính phủ công bố đến tháng 12/2015 khoảng 60% GDP trong mức an toàn, nhưng đây là cách tính theo qui định, chỉ bao gồm nợ chính phủ, nợ do chính phủ bảo lãnh, nợ của chính quyền địa phương. Nếu theo thông lệ quốc tế bao gồm luôn nợ của doanh nghiệp nhà nước thì đã vượt trần, đó là chưa nói đến việc cần phải tính luôn nợ bảo hiểm an sinh xã hội như một thành phần nợ công. Bộ Kế hoạch Đầu tư từng công bố nợ công Việt Nam năm 2014 lên tới mức 66,4% với phương pháp tính toán đầy đủ.

Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Trí Long một chuyên gia ở Hà Nội từng phát biểu, nguy cơ về nợ công không phải trong tương lai mà đã hiện hữu trước mắt rồi. Không những trước mắt phải trả mà đời con, đời cháu phải trả, không sao khác được…

Nếu mô tả năm 2015 là năm âu lo nợ công của người dân Việt Nam thì quả là có thừa cơ sở.

Có ai khổ như tôi không?

Có ai khổ như tôi không?

(VienDongDaily.Com – 11/12/2015)

Văn Quang – Viết từ Sài Gòn

Đó là tiếng kêu ai oán của ông Huỳnh Văn Nén, một công dân Việt Nam bị tù oan 17 năm 5 tháng 5 ngày. Vụ án này đang được dư luận tại VN đặc biệt chú ý, hầu hết các trang báo in, báo mạng đều nhất loạt lên tiếng về vụ án oan thuộc loại tồi tệ nhất thế kỷ này. Còn người dân lương thiện ba cọc ba đồng, trên không chằng dưới không rễ, nhất là ở những vùng quê xa xôi hẻo lánh, lo ngại cho thân phận mình trong cái thời buổi luật pháp bất minh, lòng tham không đáy, sự vô lương tâm của những nơi được gọi là cơ quan chức năng, cơ quan xử án và những anh điều tra viên dùng mọi loại nhục hình để bắt ép người dân lương thiện phải nhận tội, dù là những tôi rất nặng có thể dẫn tới tử hình. Vụ án có quá nhiều tình tiết nên tôi tóm tắt lại để bạn đọc tiện theo dõi.

Tại sao ông Huỳnh Văn Nén bị kết tội giết người

Ông Huỳnh Văn Nén đã phải khai nhận mình giết bà Lê Thị Bông vì bị điều tra viên mớm cung, nhục hình trong khi công an không tìm được chứng cứ nào khác cho thấy ông giết người.
Ông Phạm Thật – phó giám đốc cơ quan Cảnh Sát Điều Tra Công An tỉnh Bình Thuận khẳng định sau khi điều tra lại, công an đã kết luận không đủ cơ sở buộc tội ông Nén trong vụ án mạng này. Sáng 28/11 vừa qua, sau khi đọc quyết định đình chỉ điều tra ông Huỳnh Văn Nén, ông Phạm Thật cũng trao kết luận do chính ông ký ngày 27/11 về vụ án giết bà Lê Thị Bông mà ông Nén bị buộc tội giết người, cướp tài sản.

Nghi can Nguyễn Thọ vừa đầu thú hành vi giết bà Bông sau 17 năm lẩn trốn.

Nhận tội vì bị mớm cung, nhục hình

Trong kết luận này là trong thời gian điều tra lại, ông Nén khai bị điều tra viên Cao Văn Hùng mớm cung, dùng nhục hình nên mới khai nhận giết bà Bông, thực sự ông Nén không giết người phụ nữ và cũng không biết gì về vụ án mạng này.

Theo kết luận điều tra, giữa lời khai nhận tội của ông Nén và các tình tiết trong vụ án có nhiều mâu thuẫn. Vị trí giết bà Bông ông Nén khai không thống nhất, cách thức giết bà Bông có nhiều điểm mâu thuẫn. Cơ quan công an đã điều tra có tình tiết khác về lời khai của nhân chứng, việc tự khai thời gian của ông Nén trước, trong và sau khi giết bà Bông cũng có nhiều mâu thuẫn.

Khi điều tra lại, ông Nén khai bị mớm cung, bức cung nên không thể điều tra để làm rõ những mâu thuẫn trên.

Bị khởi tố từ tháng 5/1998 đến nay, ông Nén đã bị tạm giam hơn 17 năm. Ngày 23/10 ông được Viện KSND tỉnh Bình Thuận cho tại ngoại và đến ngày 28/11, ông chính thức nhận được quyết định đình chỉ điều tra.

Trước đó, ông Nguyễn Phúc Thành (người dân tại huyện Hàm Tân) đã có đơn tố cáo nhân vật Nguyễn Thọ (bạn của ông Thành) là thủ phạm giết bà Bông chứ không phải ông Huỳnh Văn Nén giết.

Vì sao anh Thành biết tên giết bà Bông chứ không phải ông Nén?

Một chi tiết khác khá thú vị là vì tình cờ nên anh Thành mới biết được sự thật, đó là do chính thủ phạm giết bà Bông nói chuyện với anh. Đêm 23/4/1998 bà Bông bị giết, thì sáng 24/4 Thọ và Việt ở nhà kế bên nói chuyện với anh Thành rằng họ đã giết bà Bông. Chẳng may vào năm 2000 anh Thành lại vướng vào tội “gây rối trật tự công cộng” bị 18 tháng tù ở trại giam Sông Cái. Trong khi ở tù anh đã làm đơn kể rõ vụ này nhưng bị anh cán bộ tên Cao Văn Hùng, đập bàn quát mắng không cho anh chuyển đơn. Nhưng anh vẫn gửi được lá đơn đó cho mẹ anh khi đến “thăm nuôi,” mang về cho gia đình ông Nén. Sau khi hết hạn tù, anh lại tiếp tục làm đơn kêu oan cho ông Nén. Như vậy là thủ phạm giết bà Bông chính là Thọ và đã ra thú tội nhờ anh Thành tố cáo.

Chính nhờ là đơn tố cáo này của ông Thành là nguyên nhân chính dẫn đến việc Viện Kiểm sát nhân dân (KSND) Tối cao kháng nghị hủy án để điều tra! Nếu không nhờ lá đơn đó chưa biết ông Nén sẽ còn nằm trong tù bao lâu nữa.

Bà Trần Thị Kim Hương, Phó Chánh Án TAND tỉnh Bình Thuận đọc lời xin lỗi gửi đến ông Nén và gia đình.

Năm 1998, ông Huỳnh Văn Nén bị bắt vì bị nghi giết bà Lê Thị Bông, con ông là anh Huỳnh Thành Phát mới 3 tuổi, con lớn thứ hai là Huỳnh Thành Lượng mới 7 tuổi, anh đầu Huỳnh Thành Công 9 tuổi.

Án oan chồng án oan

Khi đang bị bắt giữ, ông Nén khai ra vụ án giết bà Dương Thị Mỹ (kỳ án vườn điều) cùng với 9 người khác trong gia đình mình (xảy ra trước đó nhiều năm – ngày 18/3/1993 tại huyện Hàm Tân). Vợ ông Nén là bà Nguyễn Thị Cẩm cũng bị khởi tố với tội danh “giết người” trong vụ án vườn điều, không nuôi nổi ba đứa con trong khi bà ngoại và hầu hết cô, cậu, dì ruột của họ cũng bị bắt giam.
Ngày 31/8/2000, ông Huỳnh Văn Nén bị TAND tỉnh Bình Thuận xử phạt chung thân trong vụ án giết bà Lê Thị Bông; còn vụ giết hại bà Dương Thị Mỹ, ông Nén lãnh án 6 năm tù và 9 người thân khác cũng bị tù tội.

Tuy nhiên đến năm 2005, vụ giết bà Dương Thị Mỹ đã được xác định oan sai và 9 người thân của ông Nén đã được nhà nước bồi thường. Riêng ông Nén vẫn phải tiếp tục kêu oan trong vụ án giết hại bà Lê Thị Bông.

Như thế là chỉ trong một thời gian ngắn người dân lương thiện như ông Nén đã bị tới hai vụ án oan. Thử hỏi người dân nào không khiếp sợ. Không biết trên thế giới này có mấy ai vô phúc bị bắt giam oan liên tiếp hai lần không và mỗi lần thời gian ngồi tù dài đằng đẵng hơn mười năm?! Cho nên gọi ông Nén là “người tù xuyên thế kỷ.”

Nỗi lòng người tù thế kỷ Huỳnh Văn Nén

Sau khi được thả, ông Huỳnh Văn Nén tâm sự với báo Tuổi Trẻ chiều 30-11:
“Cuộc đời của tôi bị chôn vùi vì lỗi của cơ quan tố tụng. Sau gần 20 năm trong tù, giờ được ra ngoài thấy cái gì cũng lạ, kể cả chiếc điện thoại di động,” và “Tôi luôn có niềm tin mình sẽ được minh oan.”
Ông kể về thời gian bị tù: “Trong thời gian điều tra, tôi bị công an đánh, ép ký vào ba, bốn văn bản trắng. Vì quá đau đớn, tôi buộc phải nhận tội chứ tôi không giết bà Bông, thậm chí sau khi xảy ra vụ án tôi còn giúp gia đình nạn nhân làm ma chay.”

Ông Nén cho biết, tại các phiên tòa xét xử, ông đều khai mình bị ép cung, nhục hình. Thậm chí, tại một số phiên tòa, để chứng minh cho lời nói của mình, ông còn cởi áo giữa chốn công đường để mọi người nhìn thấy các thương tích do bị điều tra viên đánh đập gây ra. Tuy nhiên, tòa án vẫn cho rằng ông có tội và kết án chung thân. Ông Nén vẫn cương quyết: “Nếu tôi gục ngã giữa đường thì phải chịu, nhưng ngày nào tôi còn sống, thì ngày đó tôi còn kêu oan.” Người mẹ mất tro
ng thời gian ông Nén ở tù. Vì lo cho ông nên gia đình giấu, mãi sau này người bị tù oan này mới biết.
Sau 17 năm chờ đợi, ngày 28/11 vừa qua, công an tỉnh Bình Thuận đã công bố quyết định đình chỉ điều tra bị can với ông Nén.

Vui mừng sau khi được trả tự do, ông Nén có những mong ước rất đời thường như sửa lại căn nhà dột nát; bù đắp lại cho vợ con những tháng này khổ cực vì ông bị tù oan. Từ khi được về nhà, hàng ngày ông Nén thức dậy từ 3 giờ sáng, phụ vợ đem đồ ăn ra chợ bán.

Ra khỏi trại giam, mắt ông chỉ còn thấy mờ mờ và được một bệnh viện ở TP Sài Gòn mổ miễn phí. Ông Nén cũng mong muốn những điều tra viên năm xưa gây ra oan sai sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật.
Ông nói, “Cuộc đời của một công dân đã bị chôn vùi trong tù tội vì lỗi của những cán bộ tố tụng. Sự việc đã trải qua nhiều năm rồi, nếu gặp lại những người đã ép cung năm xưa thì tôi vẫn bắt tay vì dù sao họ đã sai và tôi đã được minh oan.”

Ông Huỳnh Văn Nén vừa được tại ngoại trong vòng tay của người thân

Những ai nhúng tay vào vụ xử tùi oan ông Nén

Vậy ai đã trực tiếp và cả gián tiếp gây nên nỗi oan sai khủng khiếp cho công dân lương thiện Huỳnh Văn Nén.

Theo báo Tiền Phong, bài “Những ai tham gia điều tra, truy tố, xét xử ông Huỳnh Văn Nén?” Điều tra viên chính vụ án Huỳnh Văn Nén là nguyên đại úy Cao Văn Hùng (cũng là điều tra viên chính “vụ án vườn điều”), được khen thưởng do thành tích trong hai vụ án này.

Ngoài ra còn nhiều vị quan chức trong cơ quan cảnh sát, viện kiểm sát nhân dân, kiểm sát viên, người ký cáo trạng, người giữ quyền công tố, người phúc cung, thẩm phán người chủ tọa phiên tòa.

Trong số họ có người đã từng được khen thưởng, có người chuyển ngành, có người nghỉ hưu và có người vẫn đang “yên vị” tại cơ quan tư pháp nhà nước.

Tóm lại cho đến thời điểm này, chưa ai… làm sao cả và chẳng biết rồi đây có ai “làm sao” không? Chỉ biết ông Nén đã chịu oan khuất gần hai thập niên sống trong tù đày, “bức cung tra tấn” như lời ông nói.

Xin lỗi công khai

Sáng 3/12, tại UBND thị trấn Tân Minh, huyện Hàm Tân (Bình Thuận), tòa án nhân dân (TAND) tỉnh Bình Thuận tổ chức buổi xin lỗi công khai cho “người tù lịch sử” Huỳnh Văn Nén. Có mặt tại buổi xin lỗi còn có đại diện công an tỉnh Bình Thuận, Viện Kiểm Sát Nhân Dân tỉnh, cùng các quan chức địa phương và đông đảo người dân.

Tại buổi lễ, bà Trần Thị Kim Hương – thẩm phán, đại diện cho TAND tỉnh Bình Thuận thừa nhận những sai lầm của cơ quan tố tụng dẫn đến oan sai cho ông Nén.

Bà nói, “Chúng tôi thừa nhận sai sót dẫn đến hậu quả nghiêm trọng này, thừa nhận khuyết điểm và xin chịu hoàn toàn trách nhiệm theo quy định pháp luật… Chúng tôi đã rút ra được bài học kinh nghiệm sâu sắc và hứa sẽ không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để trong thời gian tới không còn một người nào, một gia đình nào phải gánh chịu những mất mát, thiệt thòi do bị điều tra, truy tố và xét xử, kết án oan.”

Về vấn đề bồi thường, Tòa Án Nhân Dân tỉnh Bình Thuận sẽ tiếp tục thương lượng với ông Huỳnh Văn Nén cùng gia đình, đồng thời phối hợp với cơ quan chức năng giải quyết bồi thường cho ông Nén theo đúng quy định của pháp luật trong thời gian tới.

Dư luận đòi hỏi gì?

Để thạm thời kết luận cho vụ án đấy phức tạp này, mời bạn đọc xem một vài dư luận trong hàng ngàn ý kiến đồng tình của người dân.

– Bạn Quang Vinh viết: “Chỉ vì thói háo danh, bệnh thành tích mà đẩy một người vô tội vào cảnh tù đày, nên buộc những người làm sai bỏ tiền ra bồi thường cho ông Nén.

– Bạn Lò A Say viết: “Thế là từ một người vô can trở thành kẻ giết người hai lần và cả họ hàng cũng bị tội oan, vụ này thực tế còn kinh khủng hơn vụ ông Chấn cả số người bị oan, thời gian bị tù oan và có bằng chứng tố cáo kẻ giết người từ rất sớm nhưng cố tình bưng bít. Có phải do những kẻ gây oan sai kia đã leo cao!?”

– Minh Quân cán bộ gây ra oan sai giờ họ làm gì, chắc họ đã quyền cao vọng trọng rồi, sao không xét xử họ. Vụ án Nguyễn Thanh Chấn chưa thấy đưa tin chi tiết về những cán bộ liên quan đến oan sai xử lý như thế nào. Cũng phải đưa họ ra xét xử mới bảo đảm công bằng.”

Tóm lại người dân đòi hỏi những người gây ra án oan sai kia phải bồi thường cho nạn nhân không phải chỉ xin lỗi là xong và thật ra có đền bù bao nhiêu cũng không đủ cho nỗi đau tận cùng của cả gia đình ông Nén. Người dân đồng tình không thể lấy tiền của dân đền cho tội lỗi của những ông quan to áo dài.
Văn Quang

Nhìn xa hơn 2016: Có lẽ cơ hội tốt cuối cùng cho ĐCSVN để sửa lại cho đúng

Nhìn xa hơn 2016: Có lẽ cơ hội tốt cuối cùng cho ĐCSVN để sửa lại cho đúng

Đôi lời: Brooking là Viện Nghiên cứu chính sách lâu đời nhất ở Washington. Thành lập năm 1916, Brookings được nhiều người xem là một trong những think-tank có uy tín nhất ở Mỹ và là một trong các viện nghiên cứu ảnh hưởng nhất thế giới. Các bài viết về tình hình chính trị ở Việt Nam đăng trên Brookings, giúp người Mỹ có cái nhìn mới nhất về mối quan hệ giữa hai nước.

___

Brookings

Tác giả: David E. Brown

Dịch giả: Trần Văn Minh

14-12-2015

Đối với Hoa Kỳ, thời kỳ của một “Trung Quốc đang trỗi dậy” là một thách thức mới. Đối với Việt Nam, đó là sự lặp lại câu chuyện một ngàn năm [bị đe doạ]. Tham vọng thống trị trên toàn Biển Đông của chế độ Bắc Kinh đã bào mòn tính chính danh của chính quyền cộng sản Hà Nội. Thật trùng hợp, nhà cầm quyền ở Hà Nội đang có những cử động hướng về một thỏa thuận chiến lược với Washington.

Mối quan hệ Việt-Mỹ đang phát triển hiện nay có dáng vẻ một số phận địa chính trị muộn màng nhưng chắc chắn. Mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi trong các bộ phận của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm toàn quyền, trong số những người ngoài đảng (96% trong số 93 triệu người Việt Nam), ý niệm liên kết mật thiết với Mỹ rất được hoan nghênh. Sự thịnh vượng hiện tại và tương lai của đất nước phụ thuộc rất nhiều vào việc tiếp cận đến thị trường Mỹ và các đồng minh, và đến công nghệ và vốn của họ. Tuy nhiên, tự bản thân Việt Nam phải có can đảm chính trị để cải cách những luật pháp quốc nội đang hạn chế khả năng để biến sự tiếp cận vào thị trường thành một nguồn phồn vinh.

Bốn mươi năm sau khi kết thúc, cuộc chiến với Mỹ không còn dấy lên những cảm xúc mạnh ở Việt Nam. Hầu như không có ngoại lệ, người Việt Nam nhấn mạnh rằng họ không mang thù hận, một khái niệm bắt đầu chính thức từ năm 1988 khi Hà Nội thực hiện chính sách đối ngoại “thêm bạn bớt thù”. Khi đó, chính quyền không có lựa chọn nào khác; các nỗ lực sau khi thống nhất đất nước để công hữu hóa nông nghiệp, xây dựng ngành công nghiệp nặng từ dưới lên và phân bổ hàng hóa theo một kế hoạch trung ương đã thất bại, như các cố vấn Liên Xô của Việt Nam đã dự đoán. Vào thời điểm đó, chính khối Xô Viết đang sụp đổ, và cũng đi theo là sự trợ giúp huynh đệ đã giữ cho nền kinh tế Việt Nam chỉ đủ sống còn trước lệnh cấm vận thương mại do Mỹ tổ chức.

Về nội bộ, Hà Nội chủ trường đổi mới, hay cải cách kinh tế. Đại hội Đảng đã mở đường cho Việt Nam đi vào ‘kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa,’ một cái gì đó có vẻ giống chủ nghĩa tư bản. Thật vậy, động lực tư bản đã nổi lên lấp đầy khoảng trống kinh tế mà các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) phục vụ yếu kém. Tuy nhiên, khu vực doanh nghiệp nhà nước không bị giải tán, cũng như – mặc dù nông nghiệp không còn bị công hữu hóa – không thực sự trả lại quyền sở hữu đất đai cho nông dân.

Quá trình chuyển đổi kinh tế-xã hội không hoàn chỉnh đó đã vận hành khá tốt trong hai thập niên. Năm này đến năm khác, kinh tế Việt Nam tăng khoảng 7% mỗi năm. Xuất khẩu gạo và cá, cà phê và hạt điều tăng vọt. Các nhà đầu tư từ Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan cung cấp kiến thức và vốn cho các ngành công nghiệp lắp ráp giày dép và hàng may mặc. Hầu như tất cả mọi người đã khá hơn. Mặc dù sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng rõ rệt, sự chênh lệch này cũng chủ yếu nhắc tới mong ước làm giàu.

Đến năm 2007, Việt Nam được thu nhận vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), và trở thành một trụ cột của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) với thu nhập bình quân đầu người lên đến 1000 USD, 10 lần so với mức năm 1989. Chính quyền Hà Nội đã gầy dựng hàng chục mối quan hệ hợp tác với nước ngoài. Đặc biệt đáng kể là mở rộng và làm sâu sắc hơn mối quan hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Mặc dù mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc và với Mỹ được đẩy đi bằng một tính thực dung, nhưng ý thức hệ đã đặt định những quan hệ đó.

Luôn luôn cận kề một cách khó chịu và đòi hỏi sự tôn trọng của một người em dành cho người anh cả, Trung Quốc là một vấn đề trọng tâm cho các triều đại của Việt Nam cả hơn một ngàn năm. Phần lớn thời gian đó, hai quốc gia cũng khá hòa thuận với nhau. Sự giao tiếp của giới ưu tú với Trung Quốc đã định hình văn hóa Việt Nam. Đoàn quân của Hồ Chí Minh không thể bào mòn quân đội Pháp và Mỹ mà không có sự trợ giúp huynh đệ từ Trung Quốc của Mao Trạch Đông. Sau này, khi Hà Nội chọn đi theo Bắc Kinh một cách muộn màng trên “con đường tư bản chủ nghĩa”, lãnh đạo Việt Nam dành ưu tiên cao cho các đối tác Trung Quốc đặt mối quan hệ với các cấp của Đảng và nhà nước.

Tuy nhiên, sự hợp tác với Bắc Kinh thường dễ bị đụng chạm. Chủ đề quen thuộc của lịch sử Việt Nam là sự chống cự thành công chống lại quân xâm lược. Như tất cả các học sinh Việt Nam đều biết, các đội quân xâm lược thường nhất là người Trung Hoa. Năm 1979, Đặng Tiểu Bình đã bị thất bại khi ông ấy cố tình “dạy cho Việt Nam một bài học” sau việc phế truất chế độ Pol Pot ở Campuchia.

Sau khi quan hệ ngoại giao được khôi phục vào năm 1995, Hoa Kỳ trở thành một thị trường hấp dẫn cho hàng hóa của Việt Nam. Tuy nhiên, ĐCSVN tiếp tục cảm nhận được một sự đe dọa. Mặc dù đảng cầm quyền đã từ bỏ hầu hết chủ nghĩa Mác, họ vẫn mang đậm nét Lê Nin trong quyết tâm nắm chặt đời sống chính trị của Việt Nam. Đối với các quan chức có trách nhiệm về an ninh nội địa tại Việt Nam, Mỹ vẫn chưa từ bỏ các ý định thù địch. Người Mỹ chỉ đơn giản trở nên tinh tế hơn, truyền thông của Đảng nói, tuyên truyền “khái niệm xã hội dân sự” và “âm mưu thúc đẩy thế lực diễn biến hòa bình.”

Chừng nào nền kinh tế của Việt Nam bùng phát và Trung Quốc thuyết phục được các nước láng giềng rằng tiến trình trỗi dậy thành cường quốc sẽ xảy ra trong hòa bình, thái độ nghiêng về phía Trung Quốc của chế độ Hà Nội và mong muốn của công chúng có mối quan hệ ấm áp hơn với Hoa Kỳ là một bất đồng có thể quản lý được.

Tuy nhiên, chỉ vài năm sau, chính quyền Hà Nội đã thất bại trong việc ứng phó với sự suy thoái toàn cầu nghiêm trọng. Khi thị trường xuất khẩu của đất nước giảm mạnh trong năm 2008, lãnh đạo Việt Nam giải quyết bằng cách thúc đẩy nhu cầu trong nước cho đến khi khách hàng nước ngoài quay trở lại. Họ làm việc này chủ yếu bằng cách điều hướng tín dụng tới khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Điều ngạc nhiên là rất ít nỗ lực được bỏ ra để giám sát cách các DNNN nầy dùng sự hào phóng của Ngân hàng Nhà nước. Phần lớn tín dụng đi vào các đề án phát triển bất động sản không liên quan đến ngành kinh doanh thông thường của các DNNN. Cũng có một phần khá nhiều đi vào việc mua lại hoặc tạo ra các ngân hàng mới rồi sau đó tạo ra thêm tín dụng và cho các cổ đông của họ vay lại.

Trong năm 2010, bong bóng bất động sản bị vỡ. Người vay lũ lượt bị vỡ nợ, các ngân hàng nhà nước bị mắc kẹt với một tỷ lệ khổng lồ các món nợ xấu. Các kiểm tra viên cho rằng khoản nợ này hiện nay tổng cộng ít hơn 4% tài sản của hệ thống ngân hàng; các cơ quan xếp hạng tín dụng ngoại quốc nhất định rằng con số thực tế là gần 15%.

Thêm nữa, tập đoàn đóng tàu Vinashin mà Hà Nội đã bơm vào 4 tỷ USD, cần phải được giải cứu. Kẻ kế tiếp rơi vào phá sản là công ty vận chuyển đường biển và điều hành cảng biển, Vinalines. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã từng khen tặng cả hai công ty như là một mô hình mới cho các doanh nghiệp nhà nước.

Trong khi đó vào năm 2009, Bắc Kinh lại khơi lên tuyên bố quyền bá chủ của Trung Quốc “từ thời cổ đại” trên toàn vùng Biển Đông. Ngoài khơi bờ biển dài của Việt Nam, tàu Trung Quốc gia tăng sách nhiễu ngư dân Việt Nam và can thiệp vào cách hoạt động thăm dò dầu và khí đốt.

Kết nối với mạng, dân chúng lên tiếng

Những sự kiện này trùng hợp với một cuộc cách mạng thông tin. Mặc dù từ lâu đã có một thành phần nhỏ bất đồng chính kiến với nhà nước CHXHCNVN, họ không có phương tiện để đến với số lượng lớn khán giả cho đến khi có sự bùng nổ của Internet. [1] Từ 200.000 người dùng vào năm 2000, số người tham gia mạng điện toán tại Việt Nam đã tăng lên đến 40 triệu người, khoảng 55% người Việt trên 14 tuổi.

Khi ngày càng nhiều người dân tham gia vào mạng, họ tìm thấy một môi trường đầy dẫy ý kiến khác biệt về các chủ đề mà phương tiện truyền thông hợp pháp của Việt Nam bị cấm không được loan tải. Hiện nay, ngoài tầm với sự kiểm duyệt của chế độ, các trang blog loan tải những vấn đề công cộng quan trọng nhận được hàng triệu lượt truy cập mỗi ngày. Tài khoản Facebook, trong đó hơn 30 triệu người Việt truy cập thường xuyên, đầy dẫy đàm thoại về chính trị.

Ví dụ, người lướt mạng trong năm 2008 đã biết được rằng chính phủ đã cấp giấy phép cho Công ty Nhôm Trung Quốc khai thác mỏ bauxite ở vùng cao nguyên. Cuộc thảo luận hồi đầu nhấn mạnh đến những tác động xã hội và môi trường của dự án, nhưng ngay sau đó biến thành cuộc tranh luận công khai chưa từng có về sự nhượng bộ của đảng và nhà nước trước Trung Quốc, gây thiệt hại cho an ninh quốc gia.

Trong khi đó, cuộc khủng hoảng kinh tế của Việt Nam trở nên trầm trọng hơn. Năm 2011 chính quyền bị buộc phải thắt chặt tín dụng. Một số lớn nhà kinh tế kết luận rằng, động lực do chính sách đổi mới giải tỏa đã bốc hơi. Tâm trạng quần chúng thì cáu kỉnh. Người ngoài đảng thì được công khai trút sự bất mãn lên nhau. Có lẽ công an đang lắng nghe, nhưng những nhà bất đồng chính kiến cảm nhận sự an toàn trong số lượng, và có nhiều chuyện để than phiền: sự phá sản của hàng trăm ngàn doanh nghiệp và các nhà đầu tư nhỏ, tham nhũng vặt, sự tàn bạo của cảnh sát, việc đi đến chăm sóc sức khỏe và giáo dục không công bằng, điện bị cắt liên tục và thái độ hòa giải của chính quyền đối với các hành động khiêu khích của Trung Quốc ở ngoài biển.

Bế tắc

ĐCSVN rõ ràng cũng đang gặp khó khăn. Rất ít trong số những người sáng lạn và giỏi nhất chọn nghề theo Đảng. Những người chọn lĩnh vực công chức thường ít quan tâm đến hệ tư tưởng; mục tiêu chính của họ là danh lợi. Theo nhà phân tích Alexander Vuving, nhiều cán bộ cao cấp của Đảng không phải bảo thủ và cũng không cấp tiến, nhưng chỉ đơn giản là những kẻ cơ hội đã tìm được một trạng thái yên ổn. [2] Vuving giải thích như sau: Chủ nghĩa tư bản cho nhiều cơ hội để kiếm lợi nhuận, trong khi chủ nghĩa cộng sản cung cấp độc quyền quyền lực. Sự hỗn hợp của hai yếu tố tạo điều kiện cho việc dùng tiền để mua quyền lực và sử dụng quyền lực để kiếm tiền.

Có lẽ vì quá nhiều các lãnh đạo của họ đã đầu tư vào vị thế hiện tại, ĐCSVN từ lâu đã không thể giải quyết một số vấn đề. Như đã được thấy, một trong những vấn đề đó là lập trường của Việt Nam, một mặt, đối với Trung Quốc, và mặt kia với các nước phương Tây. Một vấn đề khác là vai trò của nhà nước trong kinh tế; nhà nước có nên tham gia vào kinh tế, thông qua việc kiểm soát nhiều doanh nghiệp lớn, hay cần tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước và tập trung vào việc tạo điều kiện cho phép các doanh nghiệp tư nhân phát triển? Ngoài ra, đã có cuộc tranh luận liên hồi trong nội bộ đảng về quản lý thông tin (trong khi thập niên qua, khả năng kiểm soát phương tiện thông tin của nhà nước đang vuột đi) và về việc liệu các hoạt động của đảng nên bị ràng buộc bởi pháp luật và chịu sự khảo sát của quan tòa độc lập.

Tại Đại hội Đảng vào năm 2001, 2006 và 2011, mặc dù đã có nhiều cuộc tranh cãi về nạn tham nhũng lan rộng, quản lý yếu kém và tính chính danh của Đảng đang suy thoái, sự đồng thuận về cải cách đích thực đã vượt quá tầm tay. Mỗi lần đại hội, các chức vụ được phân phối chủ yếu với quan điểm để nhằm duy trì sự cân bằng giữa các phe phái và khu vực. Cán bộ lớn tuổi về hưu và cán bộ trẻ được thăng chức, nhưng bế tắc chính sách vẫn còn đó.

Người của thời khắc?

Với một cách lắt léo – cụ thể là, thông qua một bước đi táo bạo để khai trừ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng – ĐCSVN tìm cách giải quyết những vấn đề này. Dũng đã gây lo sợ cho các đồng chí trong Bộ Chính trị khi ông ấy một cách rõ ràng và năng động xây dựng một mạng lưới chính trị của những người ủng hộ. Đầu tiên là một phó thủ tướng và sau đó là người đứng đầu chính phủ, ông Dũng có khá nhiều sự bảo trợ để phân phát. Ông cố gắng tạo nên hình ảnh một người khôn khéo về các vấn đề thế giới và có khuynh hướng cải cách. Trong một nhóm cầm quyền coi trọng trách nhiệm tập thể, tham vọng của thủ tướng nổi bật lên.

Tới giữa năm 2012, đa số áp đảo trong Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên đã bỏ phiếu loại bỏ ông Dũng. Trong tình hình như vậy, phản ứng thông thường là ra đi một cách lặng lẽ. Ông Dũng từ chối. Ông thu về các món nợ chính trị và chiến thắng với sự đảo ngược bất ngờ quyết định của Bộ Chính trị tại một cuộc họp Ủy ban Trung ương Đảng hai tháng sau đó. Được biết, cuộc đấu tranh không gay go. Kể từ đó, Dũng đã điều hành nhà nước Việt Nam hầu như sự hợp tác của các đồng nghiệp ở Bộ Chính trị không còn cần thiết.

Được nghe, thủ tướng là một kẻ cơ hội khôn lanh, đã đáp lại sự nóng lòng của quần chúng về sự thay đổi. Trong một bài phát biểu đầu năm được hoan nghênh rộng rãi hai năm trước, ông Dũng đã thông qua một ý tưởng cấp tiến rằng: công việc của nhà nước là tạo điều kiện thuận lợi cho người dân bình thường phát huy tiềm năng sáng tạo của họ. Ông đã phân bổ nội các của ông với những nhà quản lý tài năng và hiện nay, các nguồn tin cho biết, ông chăm chú lắng nghe ý kiến của một thế hệ kinh tế gia thông minh được du học cao ở phương Tây.

Những nhà kinh tế đó cho rằng trừ khi cải cách cơ cấu để mang trở lại tốc độ tăng trưởng lên 7% hoặc 8% hàng năm và năng suất lao động gia tăng, Việt Nam sẽ không đạt tới hạng bậc của các nền kinh tế tiên tiến. Đó là do tỷ lệ sinh sản giảm mạnh; lực lượng lao động trẻ, có khả năng, và mức lương tương đối thấp của đất nước – “cơ cấu dân số vàng” – sẽ bắt đầu co lại vào năm 2025. Chính phủ dường như đã lắng nghe lời khuyên. Văn phòng chính phủ đã điều chỉnh các quy định để tạo điều kiện cho đầu tư nước ngoài. Cả vốn và công nghệ đang tràn vào Việt Nam. Việt Nam là một thành viên sáng lập của Hiệp định Thương mại Đối tác xuyên Thái Bình Dương, được ký tắt vào đầu tháng 11. Tuy nhiên, điều vẫn đang được mong chờ là hành động kiên quyết để thu nhỏ khu vực kinh tế Nhà nước và hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân nội địa.

Trục xoay của Việt Nam

Chính sách đối ngoại, ông Dũng nói, là hoàn toàn về “xây dựng lòng tin chiến lược.” Trong cuộc theo đuổi bá quyền ở Biển Đông, Trung Quốc đã đánh mất lòng tin của Việt Nam; Mỹ đang trên đường đạt tới – và đó là một sự thay đổi mang tính thời đại, củng cố thêm vị thế của các nhà cải cách Việt Nam.

Khi Bắc Kinh gửi giàn khoan dầu HD-981 vào khu vực có tiềm năng dầu khí thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hồi tháng 6 năm 2014 (*), họ có lẽ mong đợi chỉ có sự van xin không hiệu quả từ phía Hà Nội. Thật vậy, hầu hết các ủy viên Bộ Chính trị đã đáp ứng đúng như thế. Tuy nhiên, ông Dũng phản ứng bằng cách ra lệnh cho các tàu tuần duyên và tàu đánh cá Việt Nam quấy rối đội tàu của Trung Quốc. Sự phản kháng gan dạ của họ đã khuấy lên sự lên án Trung Quốc ở nước ngoài và khuấy động niềm tự hào ở quốc nội.

Sau khi Bắc Kinh rút giàn khoan dầu về, giới bảo thủ trong Đảng thừa nhận rằng một tư thế hạ mình về phía Bắc Kinh không còn ngăn ngừa được sự xâm lược. Vì thế, Việt Nam khởi sự tái cân lại quan hệ với hai cường quốc. Trong những tháng sau đó, ủy viên cao cấp của cái gọi là phe thân Trung Quốc của Đảng đã đến từng người một thăm Washington. Cuộc thăm viếng đã được các nhà ngoại giao Mỹ và Việt Nam sắp xếp rất kỹ lưỡng, và các tín hiệu đều tốt. Một năm sau cuộc đối đầu với Trung Quốc, lãnh đạo đảng hàng đầu của Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đã gặp Tổng thống Obama tại phòng Bầu Dục.

“Đó thực sự là một cuộc họp lịch sử. Tòa Bạch ốc thừa nhận cơ cấu chính trị của Việt Nam và vai trò lãnh đạo của Đảng”, ông Trọng đánh giá sau đó.

Một nhà cải cách khác thường và một chương trình cải cách

Tại Đại hội Đảng lần thứ 12 vào đầu năm tới, ĐCSVN sẽ quyết định ai lãnh đạo Đảng cho đến năm 2020. Cưỡi sóng bởi một chuỗi những thành công chính trị, ông Nguyễn Tấn Dũng là người được nhiều hy vọng không chỉ để nắm lấy vị trí lãnh đạo Đảng, mà còn có thể để cài đặt thân tín vào chức Thủ tướng và các vị trí quan trọng khác. Ông Dũng có vẻ như sẵn sàng xuất hiện từ Đại hội với quyền kiểm soát Đảng và nhà nước nhiều hơn bất cứ ai kể từ Tổng Bí thư Lê Duẩn, nửa thế kỷ trước.

Tuy nhiên, triển vọng về một Đảng trưởng quá cam kết đầy những cải cách có thể kích hoạt một phản ứng “chọn bất cứ ai ngoài Dũng”. Nhà quan sát Việt Nam kỳ cựu, Carl Thayer, phân tích rằng đó là lý do tại sao các cuộc họp Ban chấp hành Trung ương để chuẩn bị cho Đại hội 12 dường như có rất ít tiến bộ. Đối với nhiều người trong Đảng, đặc biệt là trong các tổ chức cấp tỉnh, thành phố và trong từng doanh nghiệp nhà nước, hiện trạng đang rất thoải mái. Với một số ít Đảng viên, ý thức hệ vẫn còn quan trọng; họ xem lời hứa của ông Dũng về sự cởi mở hơn trong chính phủ như là một mật hiệu về các thực nghiệm nguy hiểm với đa nguyên. Nhưng, đối với đa số, mối quan hệ ràng buộc họ với Đảng là lợi ích riêng tư.

Ngoài Đảng, trừ một tập hợp bất đồng chính kiến vẫn tương đối nhỏ, người Việt Nam hiện nay không ở trong tâm trạng cách mạng. Xuất khẩu đang bùng nổ. Thu nhập bình quân hàng năm đã nhích lên đến hơn 2000 USD, gấp đôi so với mức năm 2007. Thông thường, người Việt ngoài đảng chỉ hy vọng rằng Đảng sẽ tự sửa chữa lỗi lầm và cung cấp cho Việt Nam lớp lãnh đạo cương quyết, đứng đắn và công bằng. Họ sợ sự hỗn loạn có thể sẽ đến với nỗ lực để tháo dỡ sự cai trị độc đảng. Càng mạnh mẽ theo đuổi chương trình cải cách, ông Dũng càng được giới bên ngoài đảng yêu thích, đặc biệt là với tầng lớp kinh doanh và chuyên gia của đất nước.

Tuy nhiên, để thành công trong vai trò nhà cải cách, ông Dũng phải thuyết phục thành phần đảng viên của ông vứt bỏ “xã hội chủ nghĩa thị trường” (có nghĩa là, sự tham gia trực tiếp vào nền kinh tế) và tập trung vào quản lý kinh tế tiên tiến. Chính sách nên nhằm mục đích tạo điều kiện cho các nhà sản xuất Việt Nam có được tín dụng và công nghệ cần thiết để gia nhập chuỗi giá trị xuất khẩu. Nông dân nên được quyền sở hữu trên mảnh đất họ cày. Doanh nghiệp nhà nước vừa bị thua lỗ lẫn kém sức cạnh tranh phải được giải tán. Phe giáo điều sẽ chống lại, nhưng ý nghĩa kinh tế này thật thuyết phục. Ý nghĩa chính trị cũng vậy: hành động cải cách có tính quyết định sẽ bảo đảm vị thế lãnh đạo của Đảng trong nhiều năm tới.

David Brown, nhà ngoại giao Mỹ về hưu, từng làm việc tại Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn từ 1965-1969.

LÁ THƯ GỞI BẠN NHÂN NGÀY GIÁNG SINH

LÁ THƯ GỞI BẠN NHÂN NGÀY GIÁNG SINH

 Anh chị em thân mến,

 Nhân dịp Giáng Sinh về, Chúa Giêsu có gửi cho anh chị em một lá thư, một lá thư không chỉ cho anh chị em giáo dân nhưng còn cho cả bà con lương dân chưa nhận biết ngài nữa.

Xin đọc nguyên văn cho anh chị em,

Anh chị em bà con lương giáo giáo xứ… quý mến,

Cũng như mọi năm, hôm nay là ngày sinh nhật của tôi và như thường lệ, người ta dành cho tôi một ngày.

Thế nhưng, như anh chị em biết, vào thời buổi này, cứ đầu mỗi tháng 12 hàng năm, khi ngày lễ của tôi gần kề, người ta giăng đèn khắp các phố phường, thiên hạ đổ xô đi mua sắm, truyền thanh truyền hình quảng cáo khuyến mãi đủ mọi mặt hàng, đủ thứ quà tặng và thiệp mừng Giáng Sinh đủ các loại bày bán đâu đâu cũng có.  Khắp nơi mọi chốn trên toàn thế giới, ở nước giàu cũng như tại nước nghèo, từ thành thị cho đến thôn quê, ai ai cũng bảo nhau ngày sinh nhật của tôi gần kề và nó được tính từng ngày.

Thật sự, mỗi năm ít là một lần, người ta nhớ đến tôi, điều đó cũng không tệ vì anh chị em biết, sinh nhật của tôi được mừng từ lâu lắm rồi.

Những năm đầu tiên, xem ra người ta cũng hiểu ý nghĩa của ngày lễ và cũng tỏ lòng biết ơn về những gì tôi đã làm cho họ; nhưng càng ngày, xem ra không ai còn nhớ đến lý do của ngày lễ.

Mỗi lần sinh nhật của tôi, gia đình, bạn bè hẹn gặp nhau.  Họ vui chơi trò này đến trò khác, ăn uống món này đến món khác nhưng ý nghĩa của ngày lễ thì hầu như không ai biết.

Tôi nhớ rất rõ, cách đây đúng một năm, tại một gia đình nọ, người ta tổ chức bữa tiệc lớn mừng sinh nhật tôi.  Bàn tiệc đầy ắp thức ăn đồ uống, bánh trái đủ các thứ… nào kẹo, nào mứt, nào chocolate.  Và này, người ta trang hoàng phòng tiệc thật lộng lẫy, nào cây giáng sinh, nào những trái bóng xinh xắn lủng lẳng trên đó; nào hoa, nào những dây đèn rực rỡ… và ở đó, cũng có rất nhiều hộp quà được gói thật đẹp… Nhưng anh chị em biết không, hôm đó, tôi không được mời.

Tôi là khách danh dự, thế mà, người ta không nhớ để gửi cho tôi một tấm thiệp.

Bữa tiệc dành cho tôi, nhưng khi ngày trọng đại ấy đến, thì tôi phải đứng ngoài.  Họ đóng sầm cánh cửa trước mặt tôi đang khi tôi lại ước ao được đồng bàn với họ.

Thực ra, điều đó không khiến tôi quá ngạc nhiên, vì trong những năm gần đây, mọi cửa nhà đều đóng lại khi tôi đến.  Bởi không được mời, nên tôi đã quyết định lẻn vào mà không gây một tiếng động nào.  Tôi nhẹ nhàng đi vào và đứng lớ ngớ trong một góc.  Mọi người đều uống, vài người bắt đầu có dấu hiệu say, họ nói năng nghịch ngợm và cái gì cũng có thể khiến họ cười, họ cười mọi chuyện.  Họ có một buổi tối thật thú vị.

Vào lúc cao điểm của buổi tiệc, một ông già tròn trĩnh mặc toàn màu đỏ với bộ râu trắng thật dài, ông đi vào phòng tiệc.  Ông la lên “Hô, Hô, Hô…”, xem ra ông ta cũng say.  Ông ngồi bịch xuống chiếc ghế bành và tất cả trẻ con trong nhà chạy lại chỗ ông, chúng vui mừng kêu lớn, “Ôi Ông Già Noel, Ôi Ông Già Noel…” như thể bữa tiệc hôm ấy là dành cho ông vậy.

Đến nửa đêm, mọi người bắt đầu hôn nhau; tôi cũng giang rộng đôi tay đợi một ai đó đến ôm hôn mình, và anh chị em biết, không ai đến hôn tôi cả.

Rồi thì, mọi người bắt đầu trao cho nhau những món quà.  Lần lượt, từ món này đến món khác, những gói quà được mở ra và ai ai cũng nô nức muốn biết cái gì bên trong.  Khi tất cả quà tặng đã được mở ra, tôi cũng lo lắng không biết liệu mình có nhận được một món nào không.  Này anh chị em, anh chị em nghĩ thế nào nếu như vào ngày sinh nhật của anh chị em, khi mọi người trao quà cho nhau đang khi tự bản thân, anh chị em không có lấy một món quà nào cả.

Vậy là tôi hiểu, họ không thích sự có mặt của tôi ở đó, nên cuối cùng, tôi lẳng lặng ra đi.

Mỗi năm, sự việc càng trở nên tồi tệ hơn.  Ai ai cũng chỉ nhớ đến những món quà, những bánh trái, đồ ăn thức uống và không ai còn nhớ đến tôi.

Năm nay, tôi muốn anh chị em cho phép tôi được vào với anh chị em, đi vào nhà anh chị em, đi vào cuộc đời anh chị em.  Tôi muốn mỗi người trong anh chị em ý thức rằng, đã hơn 2000 năm nay, tôi đã đến trần gian này để trao tặng cho mỗi người quà tặng là chính mạng sống của tôi trên cây thánh giá hầu cứu chuộc anh chị em.  Hôm nay, tôi chỉ muốn một điều là anh chị em hãy tin điều đó, hãy ghi khắc điều đó vào lòng mình.

Còn một chuyện nữa tôi cũng muốn nói nhỏ với anh chị em, vì không được mời vào dự tiệc, thì tôi cũng phải liệu tổ chức cho mình một bữa tiệc của tôi, một bữa tiệc lớn lao không ai có thể tưởng tượng được, một bữa tiệc tráng lệ huy hoàng mà chính tôi định đoạt và sắp đặt tất cả.

Hôm nay, tôi gửi đi rất nhiều thiệp mời và mỗi người trong anh chị em đều có lấy một tấm thiệp mời của tôi.  Tôi muốn biết liệu mỗi người trong anh chị em có đến tham dự hay không để giữ chỗ cho anh chị em bằng cách ghi danh anh chị em với những nét chữ bằng vàng vào sổ các thực khách. Chỉ những ai có tên trong sổ vàng ấy mới được mời vào dự tiệc.

Ai không trả lời thiệp mời, sẽ bị để ra ngoài.  Vậy, anh chị em hãy chuẩn bị cho mình thật kỹ lưỡng, vì khi mọi sự đã sẵn sàng, anh chị em sẽ dự phần vào bữa tiệc huy hoàng của tôi.

Hẹn gặp anh chị em,

Hết lòng yêu mến anh chị em,

Tôi, Giêsu,

(Lm. Minh Anh, Giáo Phận Huế phỏng dịch từ internet)

Stress là gì?

Stress là gì?

BS Hồ Ngọc Minh

Hôm qua trong khi lái xe đi làm, tôi giật mình khi làm một con tính trong đầu: trong 20 năm qua khoảng cách lái xe đi làm của tôi cộng lại thành hơn 3 lần khoảng cách từ trái đất lên mặt trăng.

Một người bạn nói với tôi, so với phi hành gia Apollo thì tôi chịu đựng stress giỏi hơn nhiều, vì lẽ, sau khi ra khỏi trái đất, mấy ông phi hành gia ngồi “cruise control” tà tà đợi phi thuyền tới mặt trăng, và leo xuống đi một vòng chụp hình “selfie”, mà còn được cả thế giới hoan hô!

Có những việc chúng ta làm thường ngày vẫn không thấy gì gọi là stress, trong khi đó nhiều chuyện lặt vặt xảy ra trong đời sống lại tạo áp lực không ít cho tâm trí và thể xác chúng ta.

Vậy stress là gì?

Mới nghe tới chữ stress là nhiều bạn đã thấy tóc mình muốn dựng đứng lên rồi, phải không? Chúng ta dùng chữ stress những khi mình có cảm tưởng như bị chôn vùi vào trong một mớ hỗn độn của áp lực đời sống và cảm thấy sức lực dường như cạn kiệt. Tất cả chúng ta đều bị stress nhiều lần trong cuộc sống. Một ít stress cũng tốt thôi, vì nếu không có stress thì “cuộc đời chán bỏ xừ”. Một số người có thể đối phó với stress tương đối dễ dàng như… “nước đổ đầu vịt” hay nói nôm na là “điếc không sợ súng”, một số khác thì không. Dù thế nào đi nữa mỗi người đều có một giới hạn của sự chịu đựng.

Stress có thể định nghĩa là phản ứng của hệ thần kinh để đáp ứng một yêu sách, một thử thách, hay một nguy cơ nào đó có ảnh hưởng đến sự an bình của con người. Có nhiều lý do đưa đến stress, nhưng phần lớn là sự thay đổi. Con người ta không thích thay đổi, cho dù sự thay đổi ấy tốt hay xấu, thực hay hư. Sự thay đổi có thể là tạm thời ngắn hạn, nhưng có thể là thường xuyên năm này qua tháng nọ. Thí dụ như chuyện tôi phải lái xe đi làm hơn 250 miles mỗi ngày. Trên đường lái xe, những thay đổi về xe cộ lấn qua, lấn lại thường xuyên, tiếng động xe cộ, tạo cho não bộ những “yêu sách” đòi hỏi não bộ và cơ thể phải đáp ứng tức thì. Có những thay đổi khác lớn lao hơn như ly dị, bệnh tật, hay… tàn tật vì tai nạn xe cộ do lái xe nhiều quá!

woman-stress-body

Những gì xảy ra cho cơ thể khi chúng ta bị stress?

  1. Trước hết là não bộ và hệ thần kinh: Khi chúng ta bị stress, cho dù stress về thể xác hay stress về tâm thần, hệ thần kinh bắn ra tín hiệu, “viber hay tweeter” đến các cơ phận khác trong cơ thể để đặt cơ thể trong tình huống báo động, hoặc chiến đấu tới cùng hoặc bỏ chạy là thượng sách, phản ứng gọi là “fight or flight”. Hệ thần kinh cảm ứng sympathetic gửi text message cho tuyến thượng thận adrenal gland tiết ra hai hormone gọi là adrenaline và cortisol. Hai hormone nầy làm cho tim đập nhanh hơn, áp suất máu tăng cao, hệ tiêu hóa thay đổi, và lượng đường trong máu tăng vọt. Thông thường thì khi nguy cơ qua đi, có thể trên nguyên tắc sẽ trở lại bình thường nhưng thật ra cũng không bình thường hoàn toàn, vì có cơn bão nào đi qua mà không để lại tàn phá?
  2. Hệ cơ bắp: Khi bị stress các bắp thịt co thắt, gồng lên như sắp sửa… đánh lộn. Sự co thắt của bắp thịt làm cho ta bị nhức đầu hay đau nhức khớp xương, “long thể bất an”.
  3. Hệ hô hấp: Stress làm cho bạn thở nhanh hơn (hyperventilation) có khi tạo cảm giác như hụt hơi, xỉu, chóng mặt, và bị kinh hãi (panic attack).
  4. Hệ tuần hoàn, mạch máu: Khi bị stress cấp kỳ, như khi bị kẹt xe, xém bị tai nạn xe cộ vì người khác vượt đèn đỏ, làm cho nhịp tim đập nhanh hơn, bắp thịt tim co thắt mạnh hơn. Tất cả các mạch máu mở rộng ra để đưa máu đến khắp cơ thể. Bị stress thường xuyên, thí dụ như lái xe đi làm xa mỗi ngày, tới phòng mạch là phải lo khám bệnh nhân tới tấp, có thể làm cho mạch máu bị lở loét, bị nghẽn mạch máu, và dễ bị đột quỵ tim!
  5. Hệ nội tiết: Như nói trên, khi bị stress, hệ thần kinh trung ương “gọi viber” xuống tuyến thượng thận, yêu cầu sản xuất gấp epinephrine và cortisol. Hai thứ hormone nầy “facebook chat” với lá gan, thúc giục đổ đường ra mạch máu. Lý do vì cơ bắp sẽ cần đường làm nhiên liệu trong trường hợp “sơn hà nguy biến”. Khổ cái là đường tăng trong mạch máu sẽ tạo hiệu ứng “rim đường”, glycosylation như đã giải thích trong bài viết “Đường là chất độc”, lại làm tăng thêm sự lở loét của mạch máu và tế bào. Cho dù khi cơn nguy biến qua rồi, đường sẽ không rút đi mà được biến thành mỡ đặc và cholesterol. Cơ thể tự dưng lại thiếu đường tạm thời và thúc đẩy chúng ta… thèm ngọt. Đó là lý do tại sao khi chúng ta bị stress thường xuyên có thể làm cho bụng bự. Nghiên cứu mới cho thấy cho dù có sức nặng lý tưởng, những người bụng bự vẫn dễ chết vì bệnh tim mạch nhiều hơn.
  6. Hệ tiêu hóa: Stress làm bạn có thể cảm thấy đói và ăn nhiều hơn, hoặc ngược lại không muốn ăn gì cả. Khi bị stress bạn có thể bị ợ chua, khó tiêu. Bao tử của bạn cồn cào như có bươm bướm bay ở trong bụng. Bạn có thể buồn nôn, ói mửa. Lâu ngày có thể bị đau, loét bao tử. Trong khi đó thức ăn chạy qua ruột non sẽ không được hấp thụ bình thường, bạn có thể bị tiêu chảy, hay bị táo bón bất thường.
  7. Hệ sinh dục: Khi bị stress, lượng hormone đàn ông testosterone giảm làm cho yếu sinh lý, liệt dương, hiếm muộn. Phụ nữ bị stress có kinh nguyệt bất thường, đau đớn khi hành kinh. Và tương tự như quý ông, không thích chuyện gối chăn, mây mưa, và bị hiếm muộn.

Để đối phó với stress bạn cần người bạn, người thân hiểu biết và giúp đỡ cho bạn. Nên tập thể dục thường xuyên, nên để ý tới cách thức ăn uống, và nên có một “cái nhìn” phóng khoáng. Nên để ý và tìm hiểu những nguyên nhân nào đưa đến stress cho bạn để tìm cách ứng phó. Có khi, bạn nên hiểu là, như mưa và nắng, chuyện trời đất, bạn không thể nào kiểm soát được, và nên chọn thái độ “tới đâu hay tới đó”, như “nước đổ lá môn” mà thôi. Có nhiều tài liệu để đối phó với stress trên mạng, và trong tương lai, tôi sẽ viết thêm về chủ đề này.

Trở lại chuyện mặt trăng, ai dám nói là nó không trong tầm với? Tôi đã lên đến mặt trăng và về một vòng. Hiện nay tôi mới rời khỏi mặt trăng để trở về trái đất cho vòng hai, hy vọng là vòng cuối cùng. Này nhé, trong 20 năm qua, tôi đi 800000 miles, chia cho khoảng cách từ trái đất lên mặt trăng là 238900miles, vị chi là 3.35 lần!

Thấy stress nhiều không?

BS Hồ Ngọc Minh

“TÔI QUYẾT ĐỊNH GIỮ LẠI ĐỨA BÉ NÀY…”

“TÔI QUYẾT ĐỊNH GIỮ LẠI ĐỨA BÉ NÀY…”

Tri’ch EPHATA 672

Sau vài người nữa thôi, chỉ vài chục phút nữa thôi sẽ đến lượt tôi. Sẽ thêm một sinh linh nữa mất đi sự sống và tôi sẽ trở thành kẻ giết người tiếp theo…

Khi phát hiện đã mang trong mình giọt máu của anh, tôi chết lặng. Tôi bấm máy gọi cho anh, anh lo lắng khi nghe giọng đầy nước mắt của tôi. Nhưng anh đang đi làm dự án xa, phải một tuần nữa mới có thể về bên tôi. Tôi hét vào mặt anh: “Đồ tồi, tôi có thai rồi”. Anh im lặng nghe tôi chửi rủa, trách móc rồi nhẹ nhàng: “Anh sẽ chịu trách nhiệm”. Tôi biết anh sẽ nói như vậy, tôi biết anh sẵn sàng chịu trách nhiệm cả đời với tôi. Nhưng bản thân tôi lại không muốn trách nhiệm như thế…

Một tuần trôi qua mà tôi tưởng mười năm. Chờ đợi anh về với nỗi nhớ nhung mòn mỏi, với sự sợ hãi và lo lắng khôn cùng. Tôi đã quyết định sẽ phá bỏ cái thai này bởi còn bao nhiêu ước mơ và dự định phía trước. Tôi không thể rũ bỏ tất cả để trở thành một bà mẹ tuổi hai mươi… Mặc anh thuyết phục, mặc anh can ngăn và hứa hẹn sẽ chịu trách nhiệm, sẽ cưới tôi, tôi vẫn nhất quyết phá bỏ bào thai đang lớn dần. Với sự cương quyết và ương bướng của tôi, tôi và anh đã có mặt ở đây.

Nhìn những người trẻ như tôi, thậm chí còn trẻ hơn lần lượt được đưa ra phòng nằm nghỉ trong đau đớn, tôi thấy rung mình, ớn lạnh. Anh ôm tôi vào lòng. Dường như mọi nỗi uất ức, bực bội bị dồn nén, tôi hất tay anh ra. Anh nhìn tôi, khuôn mặt lộ rõ nỗi khổ tâm khôn cùng. Tôi nức nở trong vòng tay anh. Tất cả những uất ức cứ thế tuôn trào. Tôi nói về những dự định của tôi, nói về ước mơ đi du học, ước mơ sẽ tự kiếm được nghìn đô để có thể đi du lịch vòng quanh trái đất…

Vừa nói tôi vừa đấm anh với tất cả sức lực của mình. Mọi con mắt đổ dồn vào hai đứa nhưng anh vẫn nhẹ nhàng ôm tôi vào lòng, khuôn mặt đầy nỗi dằn vặt và đau khổ. Anh nhẹ nhàng vuốt tóc tôi và kể cho tôi nghe câu chuyện về người bạn thân của anh. Năm thứ hai, chị bạn thân tìm đến anh khóc nức nở và nhờ anh đưa đi đến đây để phá thai. Anh đã hết lời can ngăn nhưng hoàn cảnh của chị ấy không thể làm khác được. Ngồi đợi bạn vào phòng phá thai mà anh cảm thấy đau đớn khôn cùng. Và anh đã thề sẽ không bao giờ đặt chân đến đây nữa, bởi mỗi khi nghĩ đến anh lại thấy tội lỗi và đau đớn như mất một phần máu thịt. Vậy mà hôm nay, cũng chính nơi anh đã đưa bạn anh đến, chính nơi anh thề lời thề ngày nào, anh lại đang đưa tôi đi vứt bỏ chính đứa con của mình…

Anh vừa kể, những giọt nước mắt lăn dài. Lần đầu tiên tôi thấy anh khóc… Tôi sững sờ nhìn anh. Tôi đã từng mơ có một gia đình êm ấm, một người chồng yêu thương tôi và những đứa con. Tôi them khát không khí một gia đình. Tôi là một đứa bé không có cha, mẹ sinh tôi khi mới 22 tuổi, mặc cho sự chối bỏ trách nhiệm của cha tôi. Mẹ đã ở vậy nuôi tôi đến bây giờ, không đi thêm bước nữa, dù có rất nhiều người muốn tiến đến hôn nhân với mẹ.

Nghĩ đến người cha không biết mặt mà tôi luôn oán hận, tôi lại nhìn khuôn mặt đầy nước mắt của anh… Tôi chợt thấy mình may mắn hơn mẹ rất nhiều. Những suy nghĩ, cảm xúc cứ thế chao đảo, tôi như kẻ bộ hành lạc lối đứng trước ngã ba không biết đi đường nào.

Bất chợt giật mình bởi tiếng gọi của bác sĩ, thế là đã đến lượt tôi rồi sao ? Anh ôm tôi chặt hơn, dường như muốn giữ không cho tôi bước vào căn phòng kia. Tôi như kẻ say sực tỉnh, choàng đứng dậy đưa số thứ tự cho bác sĩ, rồi quay ra nhìn anh cười rạng rỡ.

Tôi quyết định sẽ giữ lại đứa bé này. Tôi và anh sẽ có một ngôi nhà yên ấm với tình yêu và những đứa con. Anh cười thật to: “Chúng mình cưới nhau em nhé. Anh thực sự hạnh phúc”.

Dù con đường phía trước còn không ít chông gai nhưng tôi tin, tôi sẽ vượt qua tất cả, bởi luôn có anh bên cạnh.

Sưu tầm của VICENTE NGUYỄN

ƠN THA THỨ – LÒNG THƯƠNG XÓT

ƠN THA THỨ – LÒNG THƯƠNG XÓT

Tác giả:  Lm. Trần Việt Hùng

Chúng ta đều là tội nhân. Ai trong chúng ta cũng cần đến lòng Chúa thương xót thứ tha. Chúa Giêsu đến trần gian để kêu gọi người tội lỗi, chứ không phải gọi người công chính. Truyện kể: Có một bà thánh thiện, chiều tối đi dạo quanh làng xóm một vòng, trước khi lên giường đi ngủ. Bầu trời quang đãng, các ngôi sao chập chờn và ánh trăng lưỡi liềm tuyệt đẹp. Bà cảm động sâu thẳm khi nhìn ngắm bầu trời. Bà ngưỡng mộ sự vĩ đại và huyền diệu của Tạo Hóa và các loài thụ tạo của Ngài. Với thân phận con người yếu đuối, bà qùy gối và cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa tốt lành và tuyệt mỹ vô song, xin đừng bao giờ để con phạm lỗi với Chúa, dù là một hành vi nhỏ nhất. Và bà đã nghe một giọng nói dịu dàng trong tâm: Hỡi con, nếu Cha chấp nhận nguyện vọng đó đối với mọi người, làm sao Cha có thể bày tỏ lòng thương xót và sự tha thứ vô bờ của Cha, điều này là một trong những cách thế rõ ràng nhất Cha để mọi người biết và cảm nghiệm tình yêu của Cha?

Trái tim yêu thương của Chúa là nguồn suối ân sủng không bao giờ khô cạn. Thiên Chúa luôn yêu thương Dân mà Chúa đã chọn, cho dù đã bao lần Dân bỏ Chúa chạy theo thờ lạy bụt thần dân ngoại. Chúa phạt họ đó, rồi Chúa lại thứ tha. Tác giả Thánh Vịnh đã phải thốt lên: Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài (Tv 130, 3-4). Con người yếu đuối vì thân xác nặng nề, ước muốn thấp hèn và có khuynh hướng trở về với bản năng thú tính. Ưa thích những cảm giác mới lạ, những tư tưởng phàm tục và đòi hỏi thỏa mãn những khát vọng lạc thú. Con đường dốc rất dễ xuôi theo. Càng nhẹ bước, chúng ta càng lạc xa. Mọi sự trong cuộc sống đều theo kiểu trước lạ, sau quen. Quen riết rồi nghiền. Sống giữa một xã hội tục hóa, tiêu thụ, hưởng thụ và mọi thứ tạm bợ chóng qua. Sứ réo gọi chạy đua với cuộc sống làm cho chúng ta quay cuồng trôi chảy theo dòng. Cảm giác về tội lỗi không còn bén nhậy. Lương tâm không còn bị áy náy về sự sai trái và lỗi tội. Đây là điều chúng ta cần để tâm suy xét.

Tại sao chúng ta phải xin tha lỗi mình và tha thứ cho tha nhân? Chúng ta nhớ rằng sống là sống chung với người khác, nên chúng ta cần giúp nhau để nên hoàn thiện. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Colossê đã khuyên dạy: Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau (Col 3, 13). Sự tha thứ rất cần thiết để mọi người sống chung được hài hòa và hợp nhất. Nhân gian thường nói: Quá tam ba bận. Ba lần lỗi là tối đa rồi đó, đừng lỗi phạm nữa, nếu phạm thì khó mà tha. Đối với Chúa Giêsu giầu lòng thương xót thì sự tha thứ không có giới hạn: Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không? ” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.”(Mt 18, 21-22).

Như thế, trong bất cứ hoàn cảnh lỗi phạm nào, chúng ta vẫn có thể nhận được ơn tha thứ. Con người có thể không tha cho nhau, nhưng Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi. Năm Thánh Lòng Thương Xót là cơ hội rất quý báu, mời gọi chúng ta chạy đến với lòng nhân hậu của Chúa để nhận lãnh ơn tha thứ. Chúa có uy quyền tẩy xóa mọi lỗi lầm và đổi mới chữa lành con người cả hồn lẫn xác. Khi chữa bệnh cho người bị bại liệt, Chúa Giêsu đã phán: Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội. Bấy giờ Đức Giêsu bảo người bại liệt: “Đứng dậy, vác giường đi về nhà! (Mt 9, 6). Hoặc Chúa Giêsu nói với người phụ nữ: “Tội của chị đã được tha rồi.”( Lc 7, 48). Quyền năng của Thiên Chúa vô biên, nhưng Ngài vẫn tôn trọng quyền tự do của con người. Chúa ban ân sủng một cách nhưng không, nhưng Chúa cần sự cộng tác của chúng ta. Mọi người cần ăn năn sám hối để được tha thứ. Chúa mời gọi chúng ta thực hành việc bác ái này để xây dựng tình người. Chúa phán: Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em (Mt 6, 15).

Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta về sự tha thứ. Chúa nài xin Chúa Cha tha cho chính những kẻ đã gây khổ đau, phản bội, chống đối và hành xử Chúa. Trên cây thánh giá, trước khi tắt thở, Chúa Giêsu đã thân thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lk 23, 34). Chúa Giêsu bênh đỡ những người đã làm hại Chúa. Chúa đã tha thứ cho họ và nại lý do rằng họ không biết việc họ làm. Phần chúng ta, có nhiều lần vô tình hoặc vô ý gây nên lỗi lầm phạm đến anh chị em. Cũng có rất nhiều lần chúng ta hiểu lầm và gây ra biết bao phiền não cho người khác. Chúng ta cũng có thể gây thương đau cho người thân yêu vì sự nghi ngờ, nhẹ dạ và cả nghe. Đôi khi chúng ta cũng đã cố ý phạm tội chia rẽ, gây đổ vỡ, thù óan, phản bội và xúc phạm đến tha nhân. Những tội lỗi này làm cho lòng của chúng ta ra trĩu nặng, u buồn, ai oán và sầu đau. Chúng ta có thể chạy đến với Lòng Thương Xót của Chúa để xưng thú, giãi bầy và xin ơn tha thứ: Lạy Chúa, tội con thật nặng nề, vì danh Ngài, xin lượng thứ cho con (Tv 25,11).

Đôi khi chúng ta có thể tha thứ cho anh chị em, nhưng lại khó quên. Tha rồi đó, nhưng mỗi lần nghĩ đến hay nhớ lại, lòng chúng ta lại quặn đau và xôi sục. Chúng ta nhớ rằng qua Bí tích Hòa Giải, khi chân thành sám hối và xưng thú tội đã phạm, chúng ta lãnh nhận hồng ân tha thứ và được tẩy sạch các tội lỗi. Chúa tha và Chúa quên luôn. Trong cuộc sống va chạm hằng ngày, vì sự nhỏ nhen, ích kỷ và kiêu căng, chúng ta rất thường xúc phạm đến anh chị em. Chúng ta luôn có thể làm hòa và tha thứ cho nhau: Khi anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất bình với ai, thì hãy tha thứ cho họ, để Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng tha lỗi cho anh em (Mc 11, 25). Đây là liều thuốc rất hiệu nghiệm giúp chúng ta tìm được sự bình an đích thực trong tâm hồn.

Chúa Giêsu đã trao quyền tháo cởi và cầm buộc cho Giáo Hội qua các thánh Tông đồ và những người kế vị: Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”(Ga 20, 23). Giáo Hội đã ủy quyền tha tội cho các linh mục là những thừa tác viên sống động để có thể giúp mọi người giao hòa cùng Thiên Chúa và tha nhân. Biết rằng các linh mục cũng là con người và là tội nhân. Các linh mục cũng yếu đuối phạm lỗi lầm như mọi người. Giáo Hội tin tưởng trao ban năng quyền cho các linh mục để tiếp tục phân phát ân sủng của Chúa qua các Bí tích. Các linh mục cũng cần ơn tha thứ và được tha thứ qua Bí tích Hòa Giải. Vì cũng là tội nhân, nên các linh mục cảm thông được những lầm lỗi, thiếu xót, yếu đuối và những cám dỗ thường xuyên trong đời sống. Nơi tòa cáo giải, các linh mục chia sẻ đồng phận với tội nhân và cùng sám hối cho chính tội lỗi của mình.

Chúa Giêsu hiến dâng hy tế trên thánh giá để đền thay tội lỗi cho nhân loại. Chúa phán: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội (Mt 26, 27). Máu châu báu của Chúa Giêsu đã đổ ra để chuộc tội cho chúng ta. Năm Thánh Lòng Thương Xót là thời gian đặc biệt, chúng ta hãy tìm đến lòng từ bi nhân hậu của Chúa để xin ơn tha thứ. Xin Chúa tha thứ cho chúng con như chúng con cũng tha cho kẻ đã xúc phạm đến chúng con. Xin nguồn ân sủng của Chúa tràn đổ vào tâm hồn để chúng con tìm được sự bình an đích thực.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Bronx, New York

Bộ GDVN muốn giải tán Bộ môn Lịch sử, đâu là nguyên nhân?

Bộ GDVN muốn giải tán Bộ môn Lịch sử, đâu là nguyên nhân?

Nguyễn Tiến Dân

18-12-2015

1-Lịch sử, là một bộ môn khoa học. Nó nghiên cứu, về quá khứ. Đặc biệt, là những sự kiện, liên quan đến con người. Thời gian, là 1 dòng chảy kéo dài và, bất tận. Lịch sử, cũng vậy. Nó phản ánh, sự thực khách quan. Nó không phụ thuộc, vào ý chí của 1 người, hay của 1 nhóm người nào đó. Và, chưa bao giờ, người ta viết Lịch sử, theo kiểu cóc nhảy. Đó, là sự khác nhau cơ bản, giữa Lịch sử và Truyền thuyết.

2-Chuyện xưa, kể rằng:

Tề Trang công, là kẻ hôn Quân – vô Đạo. Cung tần – mĩ nữ, ông ta thiếu gì. Nhưng, hễ nhìn thấy gái đẹp, là ông mờ mắt. Ông gác sang một bên, cái danh giá của mình, để cắm đầu vào. Ông tư thông, với cả nàng Đường Khương, vợ tướng quốc Thôi Trữ, thuộc hạ thân tín nhất của mình. Can ngăn mãi, không được. Thôi Trữ, bèn lập mưu, để giết đi.

Từ xưa đến nay: Khi cành bị sâu, người ta chặt cành, để cứu gốc – Khi gốc bị sâu, người ta nhổ cây, để cứu vườn – Khi cả vườn bị sâu, người ta hủy vườn, để cứu mùa màng.

Nguyên thủ của Quốc gia, dâm loạn và hủ bại, nhất thiết phải bị phế trừ. Để, giữ thể diện, cho Quốc gia và giữ kỉ cương, cho bá tánh. Có thể phế trừ, bằng thanh gươm – Có thể phế trừ, bằng lá phiếu của cử tri.

Ở vào thời của mình, Thôi Trữ, không thể lựa chọn, theo cách thứ 2. Còn, nếu sống ở thế kỉ thứ  21, Thôi Trữ, sẽ trở thành Anh hùng. Ngặt nỗi, trong chế độ Phong kiến, “thần giết Vua”, là chuyện tày Trời. Vì thế, Thôi Trữ, vẫn có ý thẹn. Ông sai thái sử Bá, ghi vào sách Sử rằng: “Tề Trang công, chết vì bệnh sốt rét”.  Thái sử Bá, không nghe. Ông, chép vào thẻ rằng: 夏五月乙亥,崔杼弑其君光. Hạ ngũ nguyệt Ất hợi, Thôi Trữ thí kì Quân Quang. (Mùa Hạ, tháng 5, ngày Ất hợi, Thôi Trữ giết Vua Quang của mình). Thôi Trữ, nổi giận lôi đình. Ông giết ngay, thái sử Bá.

Bá có 3 người em: Trọng , Thúc , Quí. Tất thảy, đều làm nghề chép Sử. Khi được gọi vào cung, Trọng chép vào sách, chẳng khác anh mình. Thôi Trữ, giết Trọng. Gọi đến Thúc, ông cũng không chịu, bẻ cong ngòi bút của mình. Thúc, cũng phải ra đi. Đến lượt Quí, ông vẫn viết như vậy. Trữ dụ rằng: “Ba anh của ngươi, vì khác ý ta, đều đã chết. Ngươi, há chẳng tiếc tính mạng sao? Sao bằng, hãy viết khác đi, để được ta tha chết”. Quí khẳng khái: “Đặt sự thực, vào trong sách Sử. Đó, là chức phận của người chép Sử. Đánh mất chức phận của mình, thà chết đi còn hơn”. Thôi Trữ thở dài: “Ta chỉ sợ, Xã tắc nghiêng đổ. Bất đắc dĩ, mới phải làm việc này. Dẫu anh em nhà ngươi, có viết thẳng như thế, người trong Thiên hạ, chắc cũng lượng thứ cho ta”. Nói đoạn, trả lại thẻ sách cho Quí. Và, không giết ông nữa.

Tích xưa, là thế. Chuyện nay, hay hơn nhiều.

Một quan chép Sử của CS, là ông Trần Huy Liệu. Chẳng biết, ông đã đưa được bao nhiêu sự thực, vào Sử xanh. Chỉ biết, ông đã trắng trợn, bịa đặt ra, người anh hùng Lê Văn Tám. Và, ghi nó vào sách Sử của Cộng sản. Sách ấy, đã được đem dạy, cho bọn trẻ con của nước Việt. Tác hại của cái việc: “xúi trẻ con ăn cứt gà”, có lẽ, khỏi phải bàn. May mà, Lương tâm của ông, chưa đến nỗi, bị chó tha – gà mổ. Bởi vậy, đến cuối đời, ông ân hận và dặn đồ đệ: Tìm lúc thích hợp, cải chính dùm ông. Ông ơi,hãy ăn cho no – hãy nằm cho yên. Đồ đệ của ông, đã công khai việc đó rồi. Nhưng, sửa nó, đâu phải công việc của một sớm – một chiều. Hết thế kỉ này, nào chắc đã xong.

Một sử gia Cộng sản khác, là ông Dương Trung Quốc. Ông này, lại ước ao, giữ được cái đầu của mình thật lâu. Để, chép Sử đảng, cho Trung – cho Thực.

Phan Huy Lê, cũng là một Giáo sư sử học, lẫy lừng. Ông giỏi đến mức, chẳng biết viết, ngay cả cái tên của ông cố nội nhà mình. Đợi đến khi, ngài Ban Ki-moon chỉ cho, rồi mới hay.

Những cây đa – cây đề, trong làng Sử Cộng sản, còn như thế. Loại tép riu, chuyên ăn theo – nói leo, kể làm chi, cho thêm sầu – thêm tủi.

3-Ôn cố – tri tân. Soi mình vào Lịch sử, Thánh nhân, có thể học được ở đó, những bài học hay. Họ, dựng công – lập nghiệp – lưu danh thơm muôn thuở, mà chẳng tốn mấy công sức. Lũ tiểu nhân đắc chí, thường không biết Trời – Đất là gì. Học – Hành, không đến nơi, đến chốn. Nhưng, lại luôn ảo tưởng, mình là “đỉnh cao trí tuệ”  của Nhân loại. Chúng quay lưng, với Lịch sử. Chúng đóng cửa, dạy nhau những thứ đê tiện – ngu dốt – giáo điều và dối trá. Kết cục, chúng phải trả giá đắt, cho những sai lầm, mà các thế hệ đi trước, đã mắc phải.

Saddam Hussein, Gaddafi và lãnh đạo của các nước CS Đông Âu, là những ví dụ. Họ, cùng có 1 đặc điểm giống nhau: Độc tài và Tàn bạo. Họ, cùng có 1 kết cục giống nhau: Đều bị quần chúng, lật đổ. Saddam Hussein, bị treo cổ. Gaddafi, bị đánh hội đồng, cho đến chết. Các nhà lãnh đạo CS ở Nga xô và các nước CS Đông Âu, may mắn hơn nhiều. Ở đó, công cuộc “đấu tranh giai cấp”, không quyết liệt và tàn bạo, như ở Việt nam. Đồng thời, dân trí ở đấy, cũng không đến nỗi thấp, như ở Việt nam. Kết quả, khi chế độ độc tài CS bị sụp đổ, người ta thấy: Trừ vợ chồng Ceauşescu, còn các nhà lãnh đạo CS khác, vẫn được sống lành lặn. Chẳng có ai, bị treo lủng lẳng, trên các cây cột điện, ở ven đường.

Tổng thống Thein Sein của Myanma, thông minh hơn nhiều. Ông biết, cái kết cục của những chế độ độc tài. Ông biết, cái giá  phải trả, cho việc đàn áp tàn bạo dân lành. Do đó, ông không làm như các vị kia. Ông và Đảng Đoàn kết Phát triển Liên bang, đã dũng cảm, đặt quyền lợi của Tổ quốc – đặt quyền lợi của Nhân dân, lên trên hết. Các ông, đã cùng Nhân dân Myanma, làm 1 cuộc Diễn biến Hòa bình, vô cùng ngoạn mục: Chuyển từ chế độ độc tài, sang chế độ Dân chủ, một cách êm thấm. Chính quyền, không bị xáo trộn, một cách đột ngột – Đất nước, không bị chìm đắm, trong hận thù – Máu của Nhân dân, không phải, thêm 1 lần nữa, đổ ra vô ích. Nhân dân Myanma, yêu mến và kính trọng ông. Quốc tế, ngưỡng mộ ông. Ông là tấm gương sáng, cho các chế độ độc tài.

4-Suy cho cùng, Diễn biến Hòa bình, đâu phải là, 1 cái gì đó, rất xa lạ với chúng ta. Ngược lại, chúng ta có thể tự hào, mà nói rằng: Việt nam, là một trong những nơi khởi nguồn của Diễn biến Hòa bình. Không những thế, lần diễn biến nào, cũng hết sức Nhân văn. Không có tiếng gươm khua – ngựa hí. Thay vào đó, rộn rã tiếng cười và ròn vang pháo nổ. Tất cả, các cuộc Cách mạng nhung mới đây, đều không đủ tầm, để có thể, so sánh được.

Năm 980, Đinh Toàn lên ngôi Vua. Khi ấy, ông vừa tròn … 6 tuổi. Triều chính, hủ bại. Ở ngoài bờ cõi, giặc Tống đang tập trung quân, để xâm lược nước ta. Trước tình cảnh nước sôi – lửa bỏng ấy, Thái hậu Dương Vân Nga, đã đặt quyền lợi của Nhân dân – quyền lợi của Đất nước, lên trên Quyền – Lợi của dòng tộc. Bà tự tay, trao ngôi báu của con trai mình, cho Lê Hoàn. Nhà Đinh ốm yếu, đã chuyển giao Chính quyền, cho nhà tiền Lê cường tráng, một cách vô cùng êm thấm. Trong cái chuyện này, không hẳn, Dương Vân Nga đã vô tư. Bà, trở thành Hoàng hậu của Lê Hoàn. Nhưng, chỉ riêng chuyện: Tránh được cảnh “nồi da – xáo thịt”, đã khiến cho, lực lượng của chúng ta, đươc bảo toàn. Nhờ đó, Quân dân Đại Việt, đã chiến thắng vẻ vang giặc Tống.

Bài học ở đây là: Khi Triều chính, rơi vào tay trẻ con. Hoặc, rơi vào tay lũ người lớn, nhưng tầm suy nghĩ, chỉ như bọn nhi đồng: Tệ hại, chẳng kém gì nhau. Vua, mải ăn – mải chơi. Quan, không lo việc Dân – việc Nước. Họ kết băng đảng, đấu đá nhau quyết liệt. Để, tranh giành Quyền và Lợi. Nhân tâm, ly tán – Đất nước, tiêu điều. Đó là cơ hội tốt, cho lũ giặc ngoại xâm.

Muốn bảo vệ Đất nước: Trước tiên, phải hạ bệ cho bằng được, những loại Vua trẻ con này.

Kế tiếp, phải kể đến, Huệ Tông của nhà Lý. Ông lên ngôi, vào lúc, nhà Lý đã suy tàn. Uy quyền của triều đình, không còn. Địa phương nào, cũng tự gây dựng thế lực, để cát cứ. Vua, chẳng quyết đoán. Cuối đời, Huệ Tông nhường ngôi cho con gái. Đã thế, người con ấy, chỉ mới vừa… 8 tuổi.  Loạn lạc, triền miên – Nhân dân, thống khổ. Tình trạng ấy, phải nhanh chóng chấm dứt. Và 1 cuộc Diễn biến Hòa bình nữa, lại được tiến hành, thông qua Hỷ sự. Lần này, là đám cưới của vợ – chồng Vua Lý Chiêu Hoàng. Chẳng bao lâu, Lý Chiêu Hoàng, “nhường ngôi” cho Trần Cảnh – chồng của mình. Chính quyền, được chuyển giao vào tay những thế lực ưu tú. Đất nước, khởi sắc. Đại Việt, tích lũy được đầy đủ, cả về Thế và Lực. Ba lần, quân Nguyên Mông xâm lược nước ta – Cả ba lần, chúng đều chuốc lấy đại bại.

Giành được Chính quyền, từ tay nhà Lý, thông qua Hỷ sự. Cho nên, Trần Thủ Độ, rất sợ mất Chính quyền, bởi cách này. Ông đặt ra, những qui định hết sức khắt khe về hôn sự: Chỉ được kết hôn, trong dòng họ. “Hôn nhân cận huyết”, cộng với việc, chỉ trao quyền bính, cho những người trong họ: Giúp cho nhà Trần, trước mắt duy trì được Chính quyền. Nhưng, nó cũng dẫn đến, sự suy thoái nhanh chóng của các thế hệ tiếp theo. Triều chính nhà Trần, ngày càng dặt dẹo. Cho đến khi, Trần Nghệ Tông trọng dụng Hồ Quý Ly. Lập tức, nhà Trần gặp “họa ngoại thích” và để mất Chính quyền.

5-Bốn mươi năm đã trôi qua, kể từ khi Thống nhất Đất nước. Chừng ấy năm, đảng CS, độc chiếm quyền hành. Họ từng bước, dẫm vào đúng vết xe đổ của nhà Trần. Họ, công khai và trơ trẽn ngụy biện: Chỉ có “Con lãnh đạo, lại làm lãnh đạo” (phiên bản mới, của hôn nhân cận huyết), mới cỏ thể, “đem lại Hạnh phúc cho Dân tộc”. Đồng thời, nó đảm bảo cho Việt nam, đạt được những thành tích, trên cả mức tuyệt vời. Việt nam, bước vào thời kì, mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, xưng xưng tự đánh giá là: “rực rỡ nhất trong Lịch sử của Dân tộc” (Nguyễn Phú Trọng, chẳng hổ danh, là kẻ có trình độ cao nhất, trong các đời Tổng Bí thư của Việt nam).

Rực rỡ đến mức, chính ông Trương Tấn Sang, phải thốt lên: “Xấu hổ lắm, vì tệ nạn tham nhũng chỉ đứng vào hàng thứ… trên 100”. Kinh tế Việt nam, rực rỡ đến mức: Đã tiêu đến, những đồng tiền cuối cùng. Ngân khốđã cạn kiệt.

Trước cái sự thực ấy, Nhân dân Việt nam, đã biết đến tận chân tơ – kẽ tóc, cái gọi là “Tài và Đức” của những người CS. Còn đảng CS thừa biết, Nhân dân Việt nam, tin tưởng mình đến đâu. Cho nên, họ không chấp nhận, “phổ thông đầu phiếu – bầu và ứng cử tự do”, trong sự giám sát của Quốc tế và, không chấp nhận “bãi bỏ Điều 4 của Hiến Pháp”. Đối với loại tài hèn – trí cùn: Làm như thế, Nhân dân sẽ tống cổ hết, cả lò – cả ổ nhà chúng, về vườn. Ngang bằng với việc, tự đút đầu vào thòng lọng, để tự sát.

Mất đi sự tín nhiệm của Nhân dân, nhưng đảng CS, vẫn chưa bị sụp đổ. Bởi, họ còn có 3 trụ cột: Quân đội – Công an và Tàu cộng. Trong 3 trụ cột ấy, chỉ có mỗi một thế lực, luôn ủng hộ toàn diện và tuyệt đối cho đảng CS Việt nam: Đó, là Tàu cộng. “Ăn cây nào – rào cây ấy”. Do đó, họ phải hết lòng bảo vệ, cho cái thằng bảo trợ mình.

Xưa, chính những người CS, ấn súng vào tay thanh niên Việt nam. Bắt họ, phải đi đánh nhau với Trung cộng. Nay, bia Chiến thắng, trong cái cuộc chiến ấy, lại bị chính những người CS, đục bỏ đi. Người dân, tưởng niệm cuộc chiến ấy, họ thẳng tay đàn áp. Bằng cách đó, họ hy vọng: Nhân dân, sẽ lãng quên, cuộc chiến này. Nhưng, Lịch sử, đã ghi lại rành rành. Đâu dễ gì, che giấu được.

Trăm năm, bia đá thì mòn.

Nghìn năm, bia miệng vẫn còn trơ trơ.

6-Khi cái chiêu “dùng thúng – úp voi” ấy, tỏ ra không hiệu quả. Những người CS, táo tợn, dùng cách cuối cùng: Giết voi. Nghĩa là, loại bỏ môn Lịch sử, ra khỏi hệ thống Giáo dục phổ thông. Bắn ra mũi tên: “Tích hợpLịch sử, vào các bộ môn khác”, đảng CS hy vọng: Sẽ thu được, nhiều con chim.

Tích hợp” Lịch sử, chỉ có mỗi một cách hiểu: Cắt vụn Lịch sử ra. Sau đó, những kẻ chuyên làm điêu – nói thiếu, sẽ lăn xả vào và ra tay nhào trộn. Công thức: 3 phần thực, trộn với 7 phần hư, cộng thêm chút dấm ớt. Đem ngoáy đều nó lên, sẽ thành ra, những  mẩu chuyện Lịch sử. Rồi, ấn nó vào các bộ môn khác. Những mẩu chuyện nào thích, họ đưa vào – Những mẩu chuyện nào, có thể động chạm đến họ, lập tức bị loại ra (Việc không thể xảy ra, nếu nghiên cứu Lịch sử, theo trình tự Thời gian).

Lịch sử, sẽ trở thành truyền thuyết. Còn con em của chúng ta, sẽ dần trở thành, lũ mất gốc.

Theo đó, những sự kiện trọng đại, trong Lịch sử nước nhà: Cuộc kháng chiến, chống quân Trung quốc xâm lược, ở Biên giới phía Bắc, năm 1979. Cuộc chiến oai hùng của Quân lực Việt nam Cộng hòa, tại Hoàng sa năm 1974. Trung quốc, xúi giục – tổ chức và tài trợ cho chế độ Khơ me đỏ. Để chúng, gây ra những tội ác, Trời không dung – Đất không tha, đối với Nhân dân Campuchia. Cũng như, đối với Nhân dân Việt nam… Sẽ dần phải bị lu mờ, trong tâm trí của bọn trẻ con nước Việt.

Ngoài cách, “tích hợp” môn Lịch sử, còn có cách nào, tốt hơn?

Trước kia, họ tố cáo: “Triều đình nhà Nguyễn ươn hèn”. Bởi nhà Nguyễn, đã từng, lần lượt cắt đất của lục tỉnh Nam kì, dâng cho Pháp. Để mong, đổi lấy cái thứ Hòa bình viển vông. Để mong, người Pháp thương hại và để nguyên cho họ cai trị, trên phần đất còn lại của Việt nam. Nhượng bộ, đến mức đó. Nhưng, con hổ đói Phú lãng sa, đâu có chịu nằm yên. Chung cuộc, nó vẫn nuốt trọn Việt nam.

Nay, nếu vẫn giữ nguyên, lời tố cáo đó. Họ sẽ giải thích ra sao, về ải Nam quan – về thác Bản giốc – về bãi Tục lâm – về những hòn đảo của Tổ quốc, đã bị Trung cộng cưỡng bức, trên Biển đông? Vì ươn hèn hay vì, đem những thứ đó, để đổi lấy cái thứ, mà họ gọi là: “môi trường hòa bình và ổn định”. Cho cái đảng CS, mặc dù đang bị rệu rã, vẫn được ung dung, mà ngồi bàn chuyện, “tổ chức Đại hội đảng lần thứ 12”? Và, sau khi, có được những thứ ấy: Con quái vật Tàu cộng, liệu có dừng dã tâm của nó, ở mức đó hay không?

Hãy “lẩn như trạch”, ra khỏi đề tài này. Muốn vậy: Hãy “tích hợp” môn Lịch sử

Trước kia, họ dạy “Văn tế nghĩa sĩ Cần giuộc” của cụ Đồ Chiểu, cho bọn trẻ con nước Việt. Thông qua đó, họ chê bai quan quân nhà Nguyễn: Được trang bị tốt – Được nuôi dưỡng, theo nhu cầu – Được luyện tập đầy đủ và tinh thông. Nhưng, khi giặc đến: Tất cả lũ hèn nhát ấy, không đứa nào, dám ra chống cự. Nhân dân, chỉ vì nghĩa khí, đứng lên chống giặc. Không khuyến khích người ta, đã đành. Đằng này, còn bắt tội người ta. Giam cầm, cả đến lòng yêu nước.

Nay, nếu vẫn dạy bài Văn tế đó. Họ sẽ giải thích ra sao, về việc: Quân đội và Công an, được trang bị đầy đủ và tốt như thế. Nhưng, khi giặc đến: Tất cả, đều nín khe – Tất cả, đều kiên trì bám bờ. Họ nhẫn tâm, đẩy ngư dân, ra biển. Để, làm những “cột mốc chủ quyền” ở trên đó. Họ hứa, còn chắc hơn cả đinh đóng cột rằng: Bà con, hãy yên tâm mà làm ăn. Đã có Quân đội và Cảnh sát biển, luôn đứng đằng sau, để hỗ trợ. Nhưng sự thực, lại quá phũ phàng. Khi ngư dân ra biển và, bị lũ giặc sát hại: Không có 1 phương tiện nào – Không có 1 thằng nào – Không có 1 con nào ra ứng cứu.

Trương Văn Bảy, bị giết trên biển. Tàu cá QNg 95861 TS, đơn côi và ì ạch chở anh về bờ. Chứng kiến cảnh đó, bao nhiêu người, đã khóc, vì tủi nhục. Trừ, những người CS. Trái tim của họ, đã hóa thành gỗ – thành đá, từ lâu rồi.

Nếu, còn có lòng tự trọng và còn biết xấu hổ, liệu Tư Sang, có dám mở mồm, lặp lại những câu sáo rỗng tương tự, trước Nhân dân Việt nam? Đồng thời, những người CS, sẽ giải thích ra sao, về viêc: Bắt bớ và đánh đập vô tội vạ, con dân Đất Việt. Khi, họ biểu thị quyết tâm, sẵn sàng hy sinh, để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Đất nước Việt nam?

Muốn “né hạ”, tốt nhất, hãy tránh chuyện đó. Biện pháp đơn giản nhất: “tích hợp” môn Lịch sử

Những người CS, liệu có dám, dạy cho học sinh, những tấm gương hy sinh lẫm liệt của Hoàng Diệu – của Nguyễn Tri Phương. Khi giặc đến, các Cụ chỉ huy quân đội, đánh đến cùng. Mặc dù, thế và lực rất chênh lệch. Không giữ được Thành – không bảo vệ được Dân, các Cụ, đều tuẫn tiết. Để tỏ rõ, lòng Trung với Dân – với Nước. Dạy như thế, họ sẽ giải thích ra sao, về viêc: Biển đảo của Tổ quốc, bị giặc chiếm đoạt – Ngư dân, không được bảo vệ. Nhưng, chẳng ai thấy, bất cứ một viên tướng nào của CS, dẫn quân ra chống cự. Và, chẳng có ai, trong số đó, tự tử. Vì, không hoàn thành nhiệm vụ của mình, trước Dân – trước Nước. Không những thế, họ còn công khai thú nhận, cái năng lực hết sức tồi của mình, trước bàn dân Thiên hạ. Tuy vậy, vẫn nhất định, không chịu từ chức. Để người khác, lên làm thay. Họ, ngồi ỳ thì lỳ ra đó. Chỉ nhằm, đối phó với Nhân dân và chờ… lĩnh sổ hưu. Thượng tướng Huỳnh Ngọc Sơn, là 1 tấm gương, tiêu biểu.

Muốn tránh chuyện bị chất vấn, hãy “tích hợp” môn Lịch sử. Để, khỏi phải nói, về sự kiện đó.

7-Nhiều người cho rằng: Phạm Vũ Luận, là tác giả của cái đề xuất: “bức tử” bộ môn Lịch sử. Họ, chửi ông, không tiếc lời. Họ, thật không công bằng.

Phạm Vũ Luận, chẳng tài giỏi gì. Đó, là sự thật. Dưới sự lèo lái của ông, con thuyền Giáo dục Việt nam: hết lao vào thác ghềnh, rồi lại đâm đầu vào đá tảng. Ông, thuộc tuýp người: Chuột không hay – Hay ỉa bếp. Nói về Giáo dục: ông ấp úng, cứ như đang ngậm hột thị. Nhưng, hãy thử hỏi ông, về những thứ Trời ơi – Đất hỡi. Ông sẽ khua môi – múa mép, như 1 nhà hùng biện thứ thiệt. Ông coi Giáo dục, là thứ giáo, để đâm – là thứgiáo, để chém. Bởi vậy, ông coi nó, là 1 trận đánh lớn. Ông, là Tư lệnh – Giáo viên, là chiến sĩ – Sách vở, là vũ khí – Phụ huynh và học sinh, nếu không phải là địch, thì cũng chẳng phải, thuộc quân mình. Và, khuyên quân ta, phải sẵn sàng trả giá – phải sẵn sàng hy sinh (!) Quan trọng nhất, phải che giấu khuyết điểm, như mèo dấu cứt. Nếu không, quân ta sẽ tự đánh… quân mình. Chính vì, có năng lực tồi, cho nên, đã có lần, ông hân hạnh, được đội sổ về mức độ “tín nhiệm”.

Tuy vậy, xuất thân từ 1 giáo viên, ông không thể ngu đến mức: Đề xuất, viêc bức tử môn Lịch sử. Chắc chắn, có 1 thằng đồng đội nào đó, đang “nằm trong đống rơm”, đã chỉ đạo ông làm. “Thằng ăn ốc – Đứa đi đổ vỏ”. Bị chửi nhiều quá, ông ấm ức – ông hóa khùng. Ra trước Tòa, à quên, ra trước Quốc hội, ông đã gián tiếp, khai tuột ra nó. Ông giả nai, mà nói rằng: “sẽ có báo cáo làm việc với Ban Tuyên giáo TƯ, Hội đồng lý luận TƯ…”. Trên cơ sở ấy, “mới có kết luận cuối cùng”.

Không chịu, làm Lê Lai, để cứu Chúa. Sự nghiệp của ông, được coi như, chấm dứt từ đây.

Còn các vị đại biểu Quốc hội. Xin các vị, chớ vội lạc quan tếu. Cái Nghị quyết “không bức tử môn Lịch sử của quí vị, đã là cái đinh gỉ gì: Nó chưa được, những cơ quan khét tiếng kia, thông qua.

Cứ ngồi đấy, mà chờ. Hồi sau, sẽ rõ.

Nguyễn Tiến Dân

Tạm trú tại: 544 đường Láng – quận Đống đa – Hà nội.

Điện thoại:  0168-50-56-430

Khởi tố LS Nguyễn Văn Đài: Thách thức gây sốc

Khởi tố LS Nguyễn Văn Đài: Thách thức gây sốc

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2015-12-18

000_Hkg834327-622.jpg

Ảnh chụp qua màn hình TV phiên xử Luật sư Nguyễn Văn Đài và Luật sư Lê Thị Công Nhân tại Tòa án Nhân dân Hà Nội hôm 27/11/2007.

AFP

Your browser does not support the audio element.

Thất vọng từ nhiều phía

Vụ bắt giữ khởi tố luật sư nhân quyền Nguyễn Văn Đài diễn ra trong thời điểm Đối thoại Nhân quyền Việt Nam – EU vòng thứ năm tổ chức ngày 15/12/2015 tại Hà Nội. Báo chí Việt Nam nhanh chóng đưa tin vụ bắt giữ khởi tố, nhưng bỏ qua các phản ứng được mô tả là đầy thất vọng từ nhiều phía.

Blogger Huỳnh Ngọc Chênh, người được Tổ chức Nhà báo không biên giới vinh danh Công dân mạng Netizen 2013, từ Việt Nam phát biểu:

“Vụ bắt LS Nguyễn Văn Đài là một bất ngờ lớn đối với tôi cũng như nhiều người, vì tình hình Việt Nam từ khi có Hiệp định TPP thì có vẻ như là đang cởi mở hơn và có những bước tiến triển tương đối thuận lợi cho việc phát triển dân chủ và nhân quyền. Nhưng việc bắt LS Nguyễn Văn Đài làm cho mọi người thất vọng…Ngoài ra có dư luận cho rằng vì thời gian trước khi diễn ra Đại hội Đảng thì cũng có những răn đe từ phía nhà cầm quyền. Qua đó thấy rằng nhà cầm quyền không có những tiến triển tốt đẹp trong chuyện cởi mở với người dân.”

” Vụ bắt LS Nguyễn Văn Đài là một bất ngờ lớn đối với tôi cũng như nhiều người, vì tình hình Việt Nam từ khi có Hiệp định TPP thì có vẻ như là đang cởi mở hơn và có những bước tiến triển tương đối thuận lợi cho việc phát triển dân chủ và nhân quyền. Nhưng việc bắt LS Nguyễn Văn Đài làm cho mọi người thất vọng…
-Blogger Huỳnh Ngọc Chênh”

Qua sự kiện LS nhân quyền Nguyễn Văn Đài vừa bị bắt giữ và khởi tố, TS Hà Sĩ Phu, một nhân vật bất đồng chính kiến thuộc nhóm thân hữu Đà Lạt, bày tỏ sự không tin tưởng đối với vấn đề cải cách chính trị ở Việt Nam. Ông nói :

“Nói chung toàn cái Đảng này chưa có ý định dân chủ hóa, chưa có ý đồ tốt một tí gì, cho nên bên cạnh việc mở toang thì sẽ có việc họ thắt lại. Tình hình dân chủ càng ngày càng xấu đi chứ chưa có biểu hiện gì tốt lên. Nhưng tôi thấy hiện nay rất nhiều người đang lạc quan lắm, cả hải ngoại lẫn trong nước nhiều người bắt đầu có cái nhìn lạc quan. Phần tôi chẳng lạc quan gì cả… Cộng sản họ đầy mưu mô. Tóm lại trước Đại hội Đảng đáng lẽ phải tạo ra không khí hồ hởi, nó là cái ‘hội’ thế nhưng họ vẫn bắt bớ đàn áp. Họ cũng đồn rằng, những động tác đó có thể là phe nọ đánh, phá phe kia. Thí dụ không muốn cho quan hệ với Mỹ, không muốn cho TPP được tiến hành. Bởi thế họ làm những động tác phản dân chủ, phản tiến bộ để phá nhau.”

Phổ biến trên trang mạng chính thức của EU ngày 17/12/2015, Thông điệp của Đại sứ Bruno Angelet, Trưởng phái đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam và các Đại sứ các quốc gia thành viên EU tại Việt Nam nhấn mạnh: “Quyết định bắt giữ và khởi tố ông Nguyễn Văn Đài đặc biệt gây thất vọng bởi vì nó diễn ra đúng ngày Đối thoại Nhân quyền EU – Việt Nam thường niên được tổ chức tại Hà Nội và ngay sau chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tới Bruxelles và tại đây Việt Nam và EU đã chính thức công bố kết thúc đàm phán Hiệp định Thương mại Tự do song phương…”

000_Hkg834336-400.jpg

Ảnh chụp qua màn hình TV phiên xử Luật sư Nguyễn Văn Đài tại Tòa án Nhân dân Hà Nội hôm 27/11/2007. AFP PHOTO.

Bản thông điệp cũng lưu ý phía Việt Nam, quyền cơ bản của tất cả mọi người là được quyền có ý kiến và bày tỏ ý kiến một cách hòa bình theo Tuyên bố Toàn cầu về Nhân quyền và Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị mà Việt nam là một thành viên. Các Đại sứ nhắc lại những lời kêu gọi trước đây đối với Việt Nam trong việc trả tự do cho những người ủng hộ nhân quyền một cách hòa bình tại Việt Nam.

Nhận định về sự kiện liên quan, Blogger Huỳnh Ngọc Chênh, người được vinh danh Công dân mạng Netizen 2013 từ Việt Nam phát biểu:

“Đây là một hành động coi thường đối với những cam kết của Việt Nam đối với quốc tế. Việt Nam đã có những cam kết quốc tế về vấn đề nhân quyền, nhưng rồi vẫn tiếp tục bắt người nhất là qua điều 88 là tuyên truyền chống lại Nhà nước, điều này rất là phi lý. Cho nên đã dấy lên dư luận trong người dân phản đối mãnh liệt về chuyện bắt Luật sư Đài và các tổ chức quốc tế cũng lên tiếng phản ứng vấn đề này.”

Bắt bớ tùy tiện

Được biết Việt Nam biểu lộ quyết tâm hội nhập nhanh và sâu với thế giới, trong số 12 Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam tham gia, 2 Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP và Hiệp định Thương mại Tự do EU – Việt Nam EVFTA có những điều kiện liên quan tới pháp luật bình đẳng và minh bạch. Việt Nam cũng cam kết cải tổ hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh của mình. Sự kiện Hà Nội bắt giữ và truy tố Luật sư nhân quyền Nguyễn Văn Đài được được ông Andrus Ansip, Phó Chủ tịch Ủy ban Châu Âu nêu ra tại phiên họp toàn thể của Nghị viện Châu Âu hôm 16/12/2015.

Nhận xét về thực tế pháp luật ở Việt Nam và những vụ bắt bớ người bất đồng chính kiến một cách tùy tiện, TS Hà Sĩ Phu nêu ý kiến:

” Bản thân anh làm luật chẳng chân chính gì cả. Làm luật dưới sự chỉ đạo của đảng cộng sản nó chừa ra những chỗ để người ta nói thế nào, xử thế nào cũng được. Bản thân người thi hành thì chân lý tối cao của họ là bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.
-TS Hà Sĩ Phu”

“Tôi còn nhớ trước đây Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao cụ Phạm Văn Bạch có lần nói rằng, luật pháp nước ta xử thế nào cũng được. Bản thân anh làm luật chẳng chân chính gì cả. Làm luật dưới sự chỉ đạo của đảng cộng sản nó chừa ra những chỗ để người ta nói thế nào, xử thế nào cũng được. Bản thân người thi hành thì chân lý tối cao của họ là bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, trong khi đó luật pháp là để bảo vệ quyền của người dân. Về cơ bản chủ nghĩa cộng sản mâu thuẫn với luật pháp, luật tức là vô luật. Người ta phân biệt hai thứ rule of law và rule by law…. luật này của một phiá chứ không phải luật của nhân dân, họ nghĩ ra luật để khống chế quyền của dân thôi. Chừng nào chưa phá vỡ được sự độc quyền cộng sản thì luật pháp cũng chẳng có gì đáng tin cậy cả.”

Theo tin các báo điện tử Tuổi Trẻ, Người lao Động, VietnamNet, VnExpress, đây là lần thứ nhì cựu Luật sư Nguyễn Văn Đài bị bắt giam khởi tố về tội ‘Tuyên truyền chống Nhà nước,’ qui định tại Điều 88 Bộ Luật hình sự. Được biết LS Nguyễn Văn Đài đã từng nhận án 4 năm tù giam cùng một tội danh như lần này. Các báo nhắc lại trong các phiên xử năm 2007, Tòa án đã làm rõ là hai cựu Luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân đã tang trữ các tài liệu có nội dung xuyên tạc lịch sử dân tộc, bôi nhọ nói xấu chế độ xã hội chủ nghĩa…

Báo chí trong nước khi đưa tin về vụ bắt giữ khởi tố Luật sư nhân quyền Nguyễn Văn Đài đều có chung cách nêu tên trỏng, không thích hợp văn hóa Việt Nam. Trong làng báo, hiếm thấy như VnExpress gọi là cựu Luật sư Nguyễn Văn Đài hoặc ông Nguyễn Văn Đài. Điểm đáng chú ý không ngờ, ích lợi của Internet đã thể hiện khi độc giả của Tuổi Trẻ Online có những bình luận sâu sắc một cách đầy hàm ý.

Trong bài liên quan đến vụ bắt giam khởi tố LS Nguyễn Văn Đài, độc giả Trần Ngọc Khánh có bình luận được nhiều người tán thưởng. xin trích nguyên văn: “ Đề nghị nhà nước công khai nội dung xuyên tạc lịch sử dân tộc của Nguyễn Văn Đài. Xem thử như thế nào để nhân dân biết mà né tránh. Bán nước cầu vinh là tội không thể tha, còn tội bóp méo lịch sử, thay trắng đổi đen thì xử phạt gấp mười lần tội trên mới được. Vì nó ảnh hưởng hàng trăm thế hệ con cháu sau này.”

Comment của Trần Ngọc Khánh được rất nhiều người thích, nhiều chia sẻ tiếp theo của độc giả Tuổi Trẻ Online tạo ra một một tác dụng ngược chiều quan điểm của Tuyên giáo Đảng. Thí dụ bạn đọc Bùi Văn Thuận hồi đáp, đúng rồi tội bán nước vinh thân, rước giặc vào nhà, tươi cười hảo hữu với giặc nên xử thật nặng để răn đe con cháu sau này. Nhiều bình luận cũng đề nghị Nhà nước mở phiên tòa công khai cho người dân vào xem.

Ngôn ngữ Việt thật sâu sắc, ai đọc những comments chia sẻ của bạn đọc Tuổi Trẻ Online đều ngay lập tức hiểu những bình luận đó muốn nói gì và nói tới ai.

Cuối năm, tưởng nhớ đến các bạn học đã ra đi.

Cuối năm, tưởng nhớ đến các bạn học đã ra đi.

 Đoàn Thanh Liêm

                                                        *     *     *

Ở vào tuổi bát tuần như tôi lúc này, thì con số bà con trong thân tộc cũng như bạn bè thân thiết ra đi khỏi cõi đời này đã mỗi ngày một chồng chất lên thêm khá nhiều rồi. Tôi thật không thể nào mà liệt kê ra cho đày đủ hết danh tính của những vị đó trong bất kỳ một tài liệu nào được. Vì thế trong bài viết ngắn này, tôi xin chỉ ghi ra đây một số trường hợp tiêu biểu về sự ra đi của những người bạn đã từng sát cánh gắn bó với mình nơi học đường từ cấp trung học ở quê nhà miền Bắc đến cấp đại học ở miền Nam.

I – Các bạn học cùng thời ở miền Bắc từ 1950 đến 1954.

 Dưới chế độ của chính quyền quốc gia, trong hai năm 1950-52, tôi bắt đầu theo học mấy lớp trung học trong huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định gần với gia đình – đầu tiên tại một lớp ở tư gia của Thày Đặng Vũ Tiển trong làng Hành Thiện, rồi sau lên học lớp Đệ Tam tại trường công lập Hồ Ngọc Cẩn ở làng Trung Linh gần với Tòa Giám Mục Bùi Chu.

Rồi từ năm 1952-54, thì tôi được gia đình cho ra Hà nội để theo học tại Trường Chu Văn An. Tại trường này, trong hai năm ấy, tôi đã thi xong văn bằng Tú Tài 1 và 2. Sau đó, thì di cư vào miền Nam vào tháng 8/1954 và tiếp tục học lên cấp đại học.

Ở vào cái tuổi thiếu niên vô tư hồn nhiên thời đó, các bạn học rất đông cùng ở miền đồng quê chúng tôi đều rất thân thiết gắn bó với nhau. Mà nay sau trên 60 năm rồi, thì đã có rất nhiều bạn đã lìa xa cõi thế, bỏ lại anh em, từ giã bạn bè. Xin liệt kê danh tính của một số bạn ấy như sau

1(1) – Những bạn cùng theo học tại quê nhà ở Xuân Trường, Nam Định.

Xin ghi mấy trường hợp đáng ghi nhớ nhất của các bạn Trần Tuấn Nhậm, Vũ Lục Thủy, Vũ Văn Giai và Đặng Công Tọai.

 A/ Bạn Trần Tuấn Nhậm mất vào năm 1981 tại nhà tù trong rừng U Minh, Rạch Giá. Trước năm 1975, Nhậm làm giáo sư dạy học ờ Sài gòn. Và có thời gian bị bắt giam vì họat động chính trị tích cực theo nhóm “đối lập thuộc thành phần thứ ba”. Thế mà sau này, vào cuối thập niên 1970, Nhậm lại bị cộng sản bắt vì lý do “móc nối tổ chức vượt biên” cho mấy em cháu trong gia đình. Và cuối cùng Nhậm đã qua đời trong nhà tù ở vào tuổi 45.

 B/ Bạn Vũ Lục Thủy tên thật là Vũ Năng Phương. Nhưng hầu hết bà con ở hải ngọai thì chỉ biết đến nhà biên khảo nổi danh có tên là Vũ Lục Thủy. Anh bạn lấy tên làng Lục Thủy quê hương mình làm bút hiệu luôn, kể từ khi qua Mỹ năm 1975. Anh có sức làm việc bền bỉ say mê, ít người sánh kịp. Công trình sưu khảo nghiên cứu của anh được các bậc thức giả đàn anh như Giáo sư Nguyễn Khắc Kham, Nguyễn Đình Hòa đánh giá cao. Rất tiếc anh đã qua đời vì bệnh tim ở San Diego năm 2001 lúc mới có 65 tuổi.

C/ Vũ Văn Giai là một sĩ quan cấp tướng duy nhất trong số các bạn học chung với tôi tại trường Hồ Ngọc Cẩn ở Xuân Trường trước năm 1954. Vào miền Nam, Giai theo binh nghiệp và suốt bao năm tháng rong ruổi với những cuộc hành quân liên miên ở vùng giới tuyến sát sông Bến Hải. Không may sau vụ Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, Giai bị đưa ra xử trước Tòa Án Quân Sự và bị giam giữ vì chuyện rút quân sai trái sao đó. Rồi đến năm 1975, lại còn bị đi tù ra ngòai Bắc nữa. Giai vừa mất cách nay không lâu ở California ở vào tuổi chưa đến 80.

D/ Đặng Công Tọai ở lại miền Bắc sau năm 1954. Mãi đến sau 1975, chúng tôi lại mới có dịp gặp nhau và nhờ Tọai mà anh em chúng tôi mới biết rõ hơn về những chuyện tàn bạo của chính quyền cộng sản ở miền Bắc vào thời kỳ sắt máu đen tối kinh hoàng ghê gớm đó. Người hay liên hệ với Tọai là Chu Văn Hồ hiện định cư ở New Jersey và qua anh Hồ, chúng tôi được biết Tọai cũng đã qua đời ba năm trước đây thôi ở vào tuổi gần 80.

1(2) – Những bạn cùng theo học tại Hà nội trong các năm 1952-54.

 Rất nhiều bạn đã ra đi, xin ghi ra một số trường hợp mà tôi biết rất rõ về những bạn này: Nguyễn Bá Khánh, Nguyễn Ngọc Đĩnh, Nguyễn Ngọc Phan, Vũ Ngô Luyện.

 A/ Nguyễn Bá Khánh vào Nam đậu cử nhân Toán và đi dạy ở trường Chu Văn An. Bà xã của Khánh là chị Quỳnh hồi năm 1960 lại làm việc chung với tôi tại văn phòng Quốc Hội thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Nhưng do bệnh bao tử, Khánh đã mất rất sớm vào năm 1967 lúc mới ngoài 30 tuổi.

B/ Nguyễn Ngọc Đĩnh trọ học chung với tôi năm 1954, anh rất giỏi về sinh ngữ và là người bạn thân thiết với tôi trong nhiều năm ở Việt nam cũng như ở Mỹ. Tôi rất gắn bó với gia đình cha mẹ chị em của Đĩnh từ ngày còn ở miền Bắc cho đến sau này ở miền Nam. Về công việc chuyên môn, Đĩnh từng được chính quyền thời Đệ Nhất Cộng Hòa cử đi làm việc ở Lào, Thái Lan. Sau này tham gia viết báo và sau 1975 bị bắt đi tù khá lâu. Qua Mỹ được chừng trên 10 năm, thì Đĩnh lìa đời tại California vì bệnh vào năm 2005 ở vào tuổi trên 70.

C/ Nguyễn Ngọc Phan có tài viết văn, năm 1953 anh được giải thưởng khuyến khích văn chương toàn quốc của giới học sinh. Nhưng vào Nam, Phan lại theo học Quốc gia Hành chánh và đi làm công chức. Qua Mỹ từ năm 1975, Phan định cư ở San Diego và gia đình anh lại là suôi gia với gia đình anh chị Vũ Lục Thủy. Phan người thể tạng yếu và đã qua đời vào năm 2008 ở tuổi 75.

D/ Vũ Ngô Luyện là trưởng nam của Thày Hiệu Trưởng Vũ Ngô Xán. Vào Nam, Luyện đi du học ở Mỹ chuyên về kinh tế. Trước 1975, anh được cử đi làm chuyên viên đại diện Việt Nam tại Ngân Hàng Phát triển Á Châu (ADB = Asian Development Bank). Rồi lại tiếp tục làm việc ở cơ sở đó như là đại diện của Pháp. Do bệnh ngặt nghèo anh đã qua đời ở California vào năm 2006 lúc mới có ngoài 70 tuổi.

E/ Một số bạn mất ở Việt nam gần đây như bác sĩ Phạm Xuân Nhàn (hồi còn đi học với bọn tôi anh đã có tiếng là một võ sĩ quyền Anh – boxeur), giáo sư Đặng Mộng Lân, giáo sư Nguyễn Hữu Đạo.

F/ Một số bạn mất ở California Mỹ gần đây như các giáo sư Nguyễn Hữu Tuệ, Nguyễn Duy Hy.

G/ Một số bạn mất tại Pháp như các giáo sư Phạm Huy Ngà, Phạm Xuân Trường (anh của Phạm Xuân Yêm).

II – Những bạn cùng theo học tại Đại học ở Sài gòn sau năm 1954.

 Có đến 7 – 800 sinh viên từ miền Bắc di cư vào miền Nam năm 1954 và trong số này thì ước chừng 250 sinh viên cư ngụ tại Đại học xá Minh Mạng bắt đầu vào năm 1955. Còn lại, thì phần đông ở với gia đình hoặc tại cư xá tư nhân khác. Xin ghi chi tiết về một số trường hợp của các bạn đã ra đi.

2(1) – Anh Nguyễn Đức Nhuần sinh viên Dược khoa mất năm 1957.

Anh Nhuần học cùng thời với tôi ở Hà nội trước năm 1954. Di cư vào Nam anh học ở Dươc khoa và từ năm 1956 tôi lại có dịp chung sống với anh nơi cư xá sinh viên Phuc Hưng trên đường Nguyễn Thông Sài gòn. Ngòai chuyện học, Nhuần lại họat động hăng say trong tổ chức Thanh Niên Lao Động Công Giáo (viết ngắn là Thanh Lao Công) để giúp đỡ giới công nhân giữ vững tinh thần đạo hạnh theo lý tưởng công bằng bác ái trong môi trường lao động thường ngày. Có vài lần, anh nhờ tôi dịch một số bài từ tiếng Pháp để làm tài liệu học tập cho các đòan viên Thanh Lao Công.

Không may, Nhuần bị bệnh nặng về phổi và qua đời vào đầu năm 1957 lúc mới ở tuổi ngòai 20 trước sự thương tiếc ngậm ngùi của số đông bạn hữu.

2(2) – Các anh Đoàn Mạnh Hoạch, Đỗ Vinh trong số các bác sĩ quân y tử trận.

Anh Hoạch là người cùng quê với tôi trong tỉnh Nam Định. Anh học lớp trên, nhưng chúng tôi gặp nhau khi cùng cư ngụ tại trường Gia Long là trại tiếp cư dành riêng cho các sinh viên di cư từ Hà nội vào Sài gòn năm 1954. Hồi đó anh Hoạch là một trong những sinh viên rất năng nổ họat động trong sinh họat văn nghệ báo chí. Đặc biệt là nhờ người em của anh là Đoàn Trọng Cảo có tài kéo accordéon đệm đàn giúp cho bọn sinh viên chúng tôi ca hát trong các buổi trình diễn văn nghệ thật là lôi cuốn sôi nổi.

Còn Đỗ Vinh và người em song sinh Đỗ Kỳ đều là bạn học chung với tôi tại trường Trung học Chu Văn An Hà nội. Rồi vào Nam, Vinh và tôi cũng thường gặp nhau trong những sinh họat của giới sinh viên di cư. Đỗ Vỹ em của Vinh du học ỏ Canada về, thì chẳng bao lâu bị chết vì tai nạn xe cộ ở xa lộ Biên Hòa.

Cả hai anh Hoạch và Vinh đều là bác sĩ quân y mà bị tử thương tại mặt trận vào đầu thập niên 1960, vào lúc mới có ngoài 30 tuổi. Vì thế mà tên của các anh được đặt cho bệnh viện của quân đội như Quân y viện Đòan Mạnh Hoạch ở Ban Mê Thuật, Bệnh viện Đỗ Vinh thuộc Sư Đoàn Dù ở Sài gòn.

2(3) – Hai người bạn sinh viên di cư cùng ở chung trong lều trên khu đất xưa là Khám Lớn Sài gòn: Nguyễn Xuân Nghiên, Nguyễn Văn Thiệu.

Vào cuối năm 1954, sinh viên di cư chúng tôi được chuyển từ trường Gia Long đến sinh sống trong những lều vải một thời gian chừng 4 tháng trước khi dọn vào khu Đại học xá Minh Mạng ở Chợ Lớn. Tôi được ở trong một lều với 7 anh bạn khác nữa, mà tôi vẫn nhớ chuyện vào mùa nắng nhiệt độ buổi trưa trong căn lều thật là oi bức.

Anh Nghiên quê tại làng Hành Thiện rất gần với làng Cát Xuyên của tôi cùng thuộc huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định, thành ra tình cảm gắn bó giữa hai chúng tôi càng thêm chặt chẽ vì nghĩa đồng hương với nhau. Sau này, anh Nghiên là một giáo sư dạy môn Lý Hóa rất nổi tiếng ở Sài gòn. Vào năm 1977, Nghiên bị thiệt mạng vì tai nạn xe ở xa lộ Biên Hòa lúc mới ngoài 40 tuổi. Hồi đó, vì tình hình cực kỳ xáo trộn, nên rất ít bạn bè được thông tin để đến nhà viếng thăm linh cữu và tiễn đưa anh.

Còn anh Thiệu hồi đó được bạn bè tặng cho cái danh hiệu là Thiệu Cốp vì trông anh rất giống với ông Malenkov là một lãnh tụ của Liên Xô thời kỳ hậu Stalin. Sau này anh đã tốt nghiệp là một bác sĩ y khoa. Có thời anh Thiệu đã giữ chức vụ Tổng Quản Trị Chương Trình Diệt Trừ Sốt Rét. Qua Mỹ năm 1975, gia đình anh Thiệu định cư ở California và tôi cũng đã gặp lại anh chị mấy lần trước khi anh qua đời vì bệnh vào năm 2004.

Hiện tôi chỉ gặp lại hai người trong số 7 bạn ở cùng căn lều nói trên; đó là các anh bác sĩ Chu Bá Bằng và Phạm Ngọc Tùng. Cả hai gia đình các bạn này hiện đều định cư tại thành phố Houston, Texas.

2(4) – Các bạn học chung tại Trường Luật Sài gòn cuối thập niên 1950.

Các bạn cùng theo học khóa đầu tiên tại Trường Luật Sài gòn do người Pháp chuyển cho chính phủ Việt nam năm 1955, thì vào năm đầu khá đông, nhưng sau 3 năm đến khi tốt nghiệp văn bằng Cử nhân vào năm 1958 chỉ còn lại chừng 70 – 80 người. Và trong số các bạn đồng môn đó, thì đã có rất nhiều người đã lìa xa cõi thế này rồi. Xin ghi ngắn gọn một số trường hợp của các bạn đó như sau xếp theo theo nghề nghiệp của mỗi người.

A/ Các bạn làm luật sư: Trần Tiễn Tự (mất ở Sài gòn năm 1988), Đoàn Văn Lượng (mất ở Pháp năm 1988, có thời anh còn là Nghị sĩ nữa), Nguyễn Phượng Yêm (mất ở Canada năm 1996, cựu Nghị sĩ)

B/ Các bạn làm giáo sư Đại học: Nguyễn Hữu Trụ (mất ở Thụy Sĩ năm 2014), Lê Quế Chi (mất ở Pháp).

III – Để tóm lược lại.

 Thời còn đi học ở ngoài Bắc cũng như trong Nam, chúng tôi đều còn độc thân son trẻ chưa phải lo gánh năng gia đình, nên có nhiều thời giờ sát cánh gắn bó thân thiết với nhau. Do đó mà tình bạn mỗi ngày thêm sâu đậm, anh em kết nghĩa quy tụ vui đùa thoải mái với nhau và còn giúp đỡ tương trợ lẫn nhau mỗi khi có ai gặp chuyện khó khăn.

Riêng đối với tôi, trong những năm tháng theo học ở trung học và đại học, thì tôi quen biết gắn bó thân thương được ước tính tổng cộng đến tới khoảng 500 bạn. Sau này, khi ra trường thì lại còn gặp nhau nơi sở làm, nơi những tổ chức văn hóa xã hội, nơi quân ngũ và sau 1975 lại còn ở trong tù chung với nhau nữa. Và ra đến hải ngoại, thì lại càng dễ dàng gặp nhau vì có nhiều thời gian rảnh rỗi ở vào cái tuổi hưu trí nữa.

Mà nay sau trên 50 – 60 năm, phải có ít nhất 50% trong số các bạn học thuở ấy đã ra người thiên cổ mất rồi. Nhưng trên đây, tôi chỉ có thể ghi ra danh tính của chừng 30 bạn mà thôi. Đó chỉ là một con số điển hình tiêu biểu cho thế hệ tuổi trẻ chúng tôi – mà đã phải sống vào cái thời đất nước chia đôi với cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn và sau này lại là vụ di tản ty nạn phân tán ở khắp nơi trong các xứ người.

Vào dịp cuối năm Ất Mùi 2015 sắp tới đây, tôi muốn gợi lại chút ít kỷ niệm vui buồn thân thương với tập thể các bạn cùng theo học sát cánh với nhau ở vào cái tuổi hoa niên thơ mộng ấy. Dù đã có nhiều bạn lìa xa cõi đời, nhưng cái tình cảm chân thật – giữa những người “cùng một lứa bên trời lận đận” với nhau – thì vẫn còn tươi đẹp mãi mãi nơi tâm khảm của mỗi người hiện còn sống sót để mà tiếp tục cái nghiệp duyên của mình trong cõi nhân sinh trên dương thế này.

Và chắc chắn là chẳng bao lâu nữa, chúng ta tất cả rồi cũng sẽ cùng quây quần quy tụ lại bên nhau nơi cõi Vĩnh Hằng đấy thôi./

Costa Mesa, California cuối năm Ất Mùi 2015

Đoàn Thanh Liêm

ƯỚC MƠ MỘT GIÁNG SINH AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC

ƯỚC MƠ MỘT GIÁNG SINH AN LÀNH VÀ HẠNH PHÚC 

Tuyết Mai 

Bây giờ tôi biết được cuộc sống hiện tại của bạn là chỉ còn gắn bó với cậu con trai đang bị bệnh tâm thần và rất cần đến sự chăm sóc của bạn. Bạn cho tôi biết là bạn đã từ giã với người bạn đời lâu lắm rồi, cũng trên dưới 20 năm chứ không ít. Trước đây 10 năm bạn đang là một giảng viên của trường đại học bên quê nhà, có trường dạy học ngay tại Saigon rất nổi tiếng. Cũng vì lý do tình cảm mà bạn đã theo người qua xứ lạ (nước Mỹ) để định cư. Qua đây bạn đã bị người lừa đảo và đã bỏ bạn đi thật xa rồi.

Chắc bạn phải có những nỗi niềm cay đắng và rất chua xót nên đã không tâm sự hết cho tôi biết. Nhưng tôi cũng có thể phỏng đoán được vậy vậy mà thôi. Nói nào ngay, đó cũng là cuộc đời rất riêng tư của bạn mà. Nhưng nếu bạn cảm thấy cô đơn, trống vắng và sầu khổ, nếu có thể và cho phép tôi sẽ cùng chia sẻ hay giúp ích được gì cho tinh thần của bạn thì tôi cũng cảm thấy tôi là người hữu dụng của Chúa, thế thôi. Vì bạn nghĩ kỹ thử xem, chẳng ai sống đơn độc trên một hòn đảo được cả. Bao giờ người này cũng có liên hệ với người kia, nhất là một sự lành tất nhiên sẽ có hiệu quả rất tốt cho mọi người chung quanh. Như cây đèn thắp tỏa cho mọi người được sáng lây, có phải?.

Quả cuộc đời của mỗi người như một bức tranh!. Có lúc sáng rực như rạng đông của thời niên thiếu, đang có những ý chí đeo đuổi và lý tưởng thật cao đẹp. Có lúc nắng chói chang như chiếu thẳng vào con người thành công đầy ngạo nghễ với công danh và sự nghiệp. Có lúc cũng cho chúng ta sự lạnh cảm như mùa đông cay nghiệt và lạnh buốt thấu tim người. Có lúc cũng mơ cũng mộng như mùa thu mát trời, hòa cùng với cây cỏ rơi rớt bên vệ đường, thật đẹp và thơ mộng làm sao.

Cũng có lúc cho chúng ta cảm thấy như đang sắp chết trước nanh nhọn của loài thú dữ, khi mà chúng ta phải bơi ngược dòng với cuộc đời đầy những bon chen những thử thách. Cũng có lúc thấy mình thật buồn bã lang thang một mình trên biển vắng nghe sóng vỗ, bới tìm ốc, nhìn chim bay sao thoải mái quá. Có những lúc cảm thấy cuộc đời của mình không khác mấy với con dã tràng se cát biển đông, se hoài se mãi chẳng nên công cán gì. Và tất cả đều là gia vị của cuộc đời đấy bạn ạ!. Lúc vui, lúc sướng, lúc khổ, lúc bệnh hoạn mới hiểu được cuộc đời cần phải có những đắng cay, chua chát, ngọt bùi ấy. Mới thấm thía làm sao!.

Còn hai tuần nữa bạn về VN để sống với đứa con đau yếu rất cần đến bạn, để chung hưởng niềm vui của sự đoàn tụ, trong sự ấm áp rất tình người của Chúa Con Giêsu Giáng Trần. Tội nghiệp con của bạn đang trông chờ bạn trở về từng ngày một vì có phải dù nó đã gần 40 rồi nhưng nó có khác nào một đứa trẻ không hơn không kém. Có phải bạn kể cho tôi nghe là nó làm thơ rất hay khi nó tỉnh?. Và còn nhớ đến quán cơm của bà Bảy nào đó rất gần nhà mà mỗi khi bạn về bạn phải ra đó ăn với nó, vì đó là kỷ niệm của hai người trong rất nhiều năm sống chung trong một mái nhà thân yêu.

Tình cảm con người quả hơn vàng hơn bạc, hơn sao siêu, hơn danh vọng tiền tài. Khi tình cảm đã hết thì tất cả mọi thứ đều biến hết. Con người chúng ta khi có tình yêu trong tay thì không biết giữ, để khi nó chào chúng ta đi rồi thì thương tiếc cũng quá muộn màng, nhất là tình thương yêu trong gia đình. Đôi khi gặp thời, vợ chồng làm ăn nên thì vợ còn kiêng nể chồng, nhưng khi thất thời cả nhà phải chịu sống trong cảnh khó khăn; vợ phải ra ngoài làm việc kiếm tiền, thấy chồng hằng ngày đi ra đi vô, công không rỗi nghề vợ thấy chướng mắt không thể tưởng; thế là cơm không lành mà canh cũng không còn ngọt nữa!.

Vợ khi dể chồng và mắng nhiếc chồng trước mặt các con, gia đình hục hặc, vợ ngoại tình vì người trong sở cảm thấy vị nể hơn và vì có thế lực hơn. Nhưng chuyện đời không mãi là như vậy. Ít ai nghĩ đến được chữ ngờ. Vì có ai giầu đến ba họ và có ai khó đến ba đời đâu!. Người giầu thì cũng có lúc xuống chó và người nghèo thì cũng có lúc lên voi. Lên voi xuống chó là chuyện thường tình của con người, không ai hống hách mà làm oai mãi được; chỉ có những con người còn trẻ người non dại, hay nông nổi, không kinh nghiệm trong cuộc sống mới đối xử thiếu tư cách vậy thôi.

Làm người hữu ích cho chính mình, gia đình và cho xã hội, không gì bằng chúng ta ai nấy bắt chước giống được như người Alaska vậy. Khi họ câu được một con hải mã, ăn không hết họ sẽ chôn vùi phần còn lại để cho những người sau đến thấy dấu vết chôn mà đào lên ăn; và cứ thế sẽ không ai bị đói trên đất Alaska cả. Sống biết nghĩ đến người khác là tôn chỉ và là Điều Răn của Chúa dạy.

Nếu chúng ta tất cả trong mùa đông giá rét này biết nghĩ đến và giúp đỡ người khác thì đó là món quà Mà Chúa Con Giêsu Hài Đồng rất vui mà nhận từ nơi chúng ta. Vì quả thật ai trên trần gian này có gì xứng đáng để dâng lên cho Chúa đâu. Vì Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài thống trị vũ hoàn. Quyền năng của Ngài thật vô song. Thanh Danh của Ngài sáng tỏa khắp bờ cõi nhưng Ngài Giáng Trần trong Hang Đá hôi tanh và thích được đặt nằm trong máng cỏ; lấy rơm làm nệm và lấy gia súc làm sưởi ấm. Nhưng ấm nhất có phải tình yêu của chúng ta dành cho Ngài, và Niềm Vui của Ngài là nhân loại biết chia sẻ cho nhau hay không?. Amen

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai 

18 tháng 12, 2015

Gửi tới em! Gửi tới em! Gửi tới em!

Chuyện Phiếm đọc trong tuần Giáng Sinh (25/12/2015)

“Gửi tới em! Gửi tới em! Gửi tới em!”

Một hạt mưa lẻ loi.

Một hạt mưa trong đêm tối mưa bay dài.

Gửi tới em! Gửi tới em! Gửi tới em!

Một giọt mưa, hạt nước mắt.

Hạt nước mắt hiếm hoi trong đời này!”

(Nhạc: Phạm Duy/Thơ: Ngô Đình Vận – Tình Khúc Chiến Trường)

 (Rm 11: 30-32)

 Trần Ngọc Mười Hai

Ừ thì, bạn muốn gửi gì thì cứ gửi. Gửi từ giọt mưa, nước mắt cho tới đốm lửa lạc loài hoặc bài hát hoặc thơ/văn đầy đủ nghĩa về bất cứ chuyện gì, như: chuyện thông-dịch, biên dịch và phiên-dịch được bàn nhiều, thời buổi này.

Nói gì thì nói, hễ bạn và tôi, ta lại cứ nói về những là thông-dịch, biên-dịch hoặc đơn-giản như phiên-dịch, thì: chỉ mỗi chữ “dịch” thôi, ta cũng có thể viết tràng giang đại hải thật nhiều trang giấy, cũng không chừng. Và, một khi đã nói hoặc viết về “dịch và thuật” thì có lẽ cũng phải nói đến chữ “thông”, ở cụm từ “thông-dịch”, tức: dịch cho thông, cho suốt, rất hoàn-thành trọng-trách của nguời luôn thông và dịch.

Nhưng, có vị này/khác lại cứ bảo: một khi ta đã gọi việc thông-ngôn/dịch-thuật bằng cụm-từ “thông-dịch” nghe qua đã thấy hơi bị lạc lõng chốn ngàn xưa.

Quả cũng đúng! Hồi thập-niên 1970, thì có thể là như thế. Nhưng ngày nay, có lẽ là “không thể” thế được. Chi bằng, ta cứ dịch động-từ bên tiếng Anh “to translate” hoặc động-từ “traduire” tiếng Pháp thành biên-dịch hoặc phiên-dịch nghe thanh-tao, dễ đọc.

Và, một khi đã “dịch” rồi, thì thông thường là ta cứ biên và cứ phiên-âm đến cõi vô-tận. Bởi, biên, là ghi và chép trên giấy trắng mực đen. Còn, phiên là biến âm-thanh, âm-vận để diễn-nghĩa thành âm, thành tự, có như thế mới là “thông” và “dịch”.

Dài dòng thế rồi, nay mời bạn đọc hãy cùng bầy tôi đây, ta đi vào vùng trời tìm hiểu ý-nghĩa của cụm-từ tiếng Anh có chữ “A year of Mercy”, được nhiều học-giả/học thiệt người Việt gọi là “Năm Lòng Thương Xót”, hoặc “Năm thánh Lòng Chúa Xót Thương”, vv… nghe cũng gần cận đến độ thân quen

Có vị lại diễn-tả cụm-từ này theo tâm-tư người Việt ở nhà vẫn cứ gọi “Jubilee Year of Mercy” là “Năm Đại xá Từ-bi” (25 năm một lần) hoặc “Năm Toàn-xá Thiện-hạnh” (50 năm một lần) tựa hồ người thường ở huyện vẫn gọi 25 năm kỷ niệm ngày thành-hôn là Ngân khánh, và 50 năm kim khánh có hôn nhau, (í quên hôn nhân)… Và “Mercy” có nghĩa là: Từ Bi, Hỷ xả, kiểu đạo Bụt.

Có đấng bậc lại chủ-trương diễn-giải dài hơn thế, cốt phân-biệt rõ ràng rằng: nếu bạn dịch chữ “Mercy” thành “Lòng thương xót” hoặc “Lòng Chúa xót thương”, hẳn người nghe sẽ nghĩ về Chúa nhật thứ hai sau Phục Sinh, cũng có chủ-đề như thế. Còn, diễn-giải lòng từ-bi/hỷ xả của Bề Trên thì nghe qua vẫn thấy có sự đóng góp sống đời thực-tiễn của mọi người.

Nói gì thì nói, hễ cứ tranh-cãi/biện-luận những chữ là chữ, thì: rồi ra ta cũng sẽ kéo dài câu chuyện chữ-nghĩa của người Việt đến thiên-thu, không dứt bỏ. Chi bằng, nay mời bạn/mời tôi, ta đi vào với ca-từ nhạc-bản ở trên, rồi hát thêm đôi lới rằng:

“Gửi tới em! Gửi tới em! Gửi tới em!

Hơi thở này nồng nàn,

ta yêu nhau đắm say (a à à)

 Gửi tới em! Gửi tới em! Gửi tới em!

Những gì còn sống sót trên đời.

Như hơi ấm tuyệt vời.

Như hơi ấm tuyệt vời.

Ta ôm em và tan loãng trong không gian

và tan loãng trong không gian lưu đày…

 Gửi tới em! Gửi tới em! Gửi tới em!

Em có nghe xào xạc.

Tiếng lá bay xào xạc.

Tiếng gió đêm buồn buồn.

Lang thang trên muôn vàn đỉnh cây.

Hạnh-phúc nào không tả-tơi,

không đắng cay?”

(Phạm Duy/Ngô Đình Vận – bđd)

Vâng. Bạn có muốn hát những là “Gửi tới Em” như được cất lên trong buổi nhạc thính phòng “Hát Cho Nhau Nghe” hôm 7.11.2015, thì cũng là hát đề rồi sẽ chuyển tải những gì mà người anh em của mình cũng đã hát nhiều điều hơn thế, chỉ để nói lên thứ tình-tự yêu-thương của em, của anh với ai đó, thôi.

Vâng. Người mình muốn viết gì thì viết, nghệ-sĩ mình có viết nhạc hoặc làm thơ, cũng sẽ còn viết nhiều hơn thế. Về tình trang-lứa hoặc tình cha/tình mẹ, cùng tình-tự của mọi người ở đời thường dành cho nhau, đến với nhau.

Tình người đối với nhau và cho nhau, là tình rất lớn phản-ánh “từ” hoặc “về” một tình-tự rất “xót thương” của Chúa và cho Chúa. Nói khác đi, đó là thứ tình đời đầy trắc ẩn, luôn hàm-ẩn lòng tử-bi/hỷ xả như Đấng bậc ở chốn chóp bu nhà Đạo đã trần-tình khi ra tông-sắc đặc-biệt này:

“Năm Thánh là một lúc ưu tiên để Giáo Hội chỉ lựa chọn điều đẹp lòng Thiên Chúa nhất: đó là tha thứ cho các con cái Ngài, thương xót chúng, để đến lượt chúng, chúng cũng có thể tha thứ cho các anh em khác và chiếu toả rạng ngời như các ánh đuốc lòng xót thương của Thiên Chúa trong thế giới này. Việc canh tân các cơ quan và cấu trúc của Giáo Hội cũng là một phương thế dẫn đưa chúng ta tới kinh nghiệm sinh động làm sống lại lòng thương xót của Thiên Chúa.”

 Đức Phanxicô nói với tín hữu và khách hành-hương tham-dự buổi triều-yết sáng thứ tư hàng tuần, hôm rồi. Hẳn mọi người đều biết, hôm trước đó, Đức Phanxicô đã chủ sự thánh lễ và nghi-thức “Mở Cửa” trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, sau khi đã mở cửa nhà thờ Bangui, thủ đô nước Trung Phi hạ tuần tháng 11/2015.

Trong huấn-từ, Đức Phanxicô yêu cầu mọi người hãy suy tư về ý nghĩa và lý do Giáo Hội cử hành Năm Thánh đặc-biệt này. Ngài nói thêm:

 “Giáo Hội cần thời điểm đặc-biệt này. Tôi không nói lúc này là thời-điểm tốt cho Giáo Hội. Tôi nói: Giáo Hội cần thời-khắc đặc-biệt như thế này nhất là trong thời đại có đổi thay sâu rộng của chúng ta Giáo Hội được mời gọi đóng góp đặc-biệt từ phần của mình, bằng các dấu chỉ hiện diện gần gũi Chúa. Và Năm Thánh là một thời gian thuận tiện cho tất cả chúng ta, để khi chiêm ngưỡng Chúa vì đã xót thương nên Ngài vượt mọi giới-hạn con người và tỏa sáng lên lỗi tội đầy tăm tối tăm, và ta vẫn có thể trở thành chứng nhân xác tín và hữu hiệu hơn…

 Năm Thánh Lòng Thương Xót đây là đặc-sủng Chúa ban cho Giáo Hội để ta học hỏi, lựa chọn “làm vừa lòng Ngài! Đó là tha thứ con cái của Ngài, thương xót chúng, để rồi đến lượt chúng, chúng cũng biết thứ tha anh em khác, bằng việc chiếu sáng mọi sự như ánh sáng của lòng từ bi trên khắp thế giới.

 Năm Thánh là “dịp thuận” cho Giáo Hội, để ta chọn làm hài lòng Chúa, mà không nhượng bộ chước cám dỗ. Không gì quan trọng hơn việc chọn làm Chúa hài lòng bằng sự thương xót, bằng tình yêu, sự hiền dịu, vòng tay ôm mơn trớn, ủi an của Ngài!” (trích nguồn: TTXCGVN)

Và, đấng bậc chủ-quản giáo-phận nọ ở Melbourne , lại cũng có đôi giòng chảy xuyên suốt cốt thêm thắt một chút tình người vào tông-sắc “Năm thánh Từ Bi” như sau:

“Thực-thi năm thánh có truyền-thống lâu đời qua tập-tục của các vị theo Do-thái-giáo, thời rất cổ. Đọc sách Lêvi Cựu Ước, mọi người sẽ thấy: khi bắt đầu năm thứ 50 vào mỗi thế-kỷ, người đi Đạo lại sẽ mừng kính năm toàn-xá hỷ-xả ban cho những người nào quyết thực-thi một số việc lành như Giáo hội dạy.

Các việc lành thực-hiện trong năm thánh gồm những việc, như: giải-phóng tù-nhân khỏi cảnh đoạ-đày, đem ánh sáng đến với người mù loà và sự tự-do cho người bị áp-bức. Như Đức Giêsu khi xưa từng đi đây đó chữa lành cho người bệnh và thứ tha cho những người bị tội-lỗi dồn ép…

Năm 2015 đây, Đức Phanxicô tuyên bố thành-lập năm thánh đặc-biệt bắt đầu từ ngày 8 tháng 12 cũng để kỷ niệm 50 năm ngày bế mạc Công đồng Vatican 2. Làm sáng-tỏ sự-kiện này, Đức Phanxicô nói Công-đồng này từng đánh dấu sự-kiện Thánh Thần Chúa đã thực-sự thổi hơi vào Giáo hội để các Giám-mục nghị-phụ thấy được nhu-cầu nói về việc Thiên-Chúa đối-thoại với chúng dân thời-đại họ sống bằng phương cách dễ tiếp-nhận hơn. (Tông-sắc “Misericordiae Vultus” đoạn 4)

Đức Phanxicô nhớ lại ngày khai mạc Công Đồng Vatican 2, thánh Giáo hoàng Gioan 23 có nói về “thang thuốc từ-bi” và lòng ước ao của Giáo-hội những muốn chứng-tỏ lòng mình như người mẹ hiền đối với mọi bệnh-nhân bằng lòng thương xót, sự tử-tế và ân-cần từng đối với mọi người.”

Và Đức Phanxicô cũng nhắc lại lời Đức Phaolô 6 có nói khi kết-thúc Công-đồng Vatican 2 rằng: Công-đồng từng được gợi hứng từ câu truyện về người Samaritanô nhân-hiền đã chứng tỏ lòng xót xa của ông ta đối với người lữ hành bị đột-kích trên đường từ Giêrusalem đến Giêrikhô.

Và Đức Phaolô 6 có nói: giáo-huấn của Công-đồng Vatican 2 hướng đến việc phục-vụ nhân-loại, phục-vụ mọi người, trong mọi hoàn-cảnh, tình-huống những đau yếu, có nhu-cầu rất thiết-thực.” (cũng trong Tông-sắc “Misericordiae Vultus” đoạn 4)

 Nói tóm lại, mừng năm thánh Từ Bi, ta ước-ao sẽ đi vào cuộc đời mà tỏ bày lòng từ bi với mọi người. Đi vào đời, để mang sự dịu-hiền, tử tế của Chúa đến với mọi người. Để rồi, kẻ tin lẫn kẻ chưa tin sẽ thấy đây là dấu-hiệu của Vương Quốc Nước Trời đã hiện-diện bên trong làn khói mù của lòng người. Đó là lý-do và cũng là ước-vọng của “Tin báo hỷ” đang đến với ta.” (Gm Paul Bird, CSsR – A Year of Mercy, The Majellan Family số tháng 10-12/2015, tr. 11-16)

Cũng chuyện “từ-bi/hỷ xả” ở ngoài đời, của người đời thường có nét vẻ diễn-tả tuy đơn-điệu nhưng dễ hiểu và dễ thấm vào lòng người như truyện kể ở bên dưới:

 “Trước cổng một nghĩa trang nọ, người ta thấy có một chiếc xe Roll Royce sang trọng dừng lại. Người tài xế tiến lại người giữ cổng và nói: xin anh giúp một tay cho người đàn bà này xuống xe vì bà ta yếu quá không đi được nữa.

 Vừa ra khỏi xe, người đàn bà tự giới thiệu và nói với người giữ cổng nghĩa trang:

-Từ hai năm qua, mỗi tuần, tôi là người đã gửi cho anh 5 đô-la để mua hoa và đặt trên mộ con trai tôi, nhưng nay các bác sĩ bảo rằng, tôi không còn sống được bao lâu nữa, nên tôi đến đây để chào từ biệt và cảm ơn anh đã mua hoa giùm tôi.

 Thế nhưng, người đàn bà không ngờ rằng người giữ cổng nghĩa trang trả lời như sau:

-Thưa bà, tôi lấy làm tiếc rằng bà đã làm công việc ấy!

 Người đàn bà cảm thấy như bị ai đó vả vào mặt. Nhưng bà vẫn còn đủ bình tĩnh hỏi lại người thanh niên:

-Tại sao lại lấy làm tiếc về cử chỉ đẹp như thế?

 Người thanh niên giải thích:

-Thưa bà, tôi lấy làm tiếc vì những người chết như con trai bà, chẳng bao giờ còn thấy được một cánh hoa nào nữa!

 Bị chạm tự ái, người đàn bà liền cao giọng:

-Anh có biết anh đã làm tổn thương tôi không?

 Người thanh niên bình tĩnh trả lời:

-Thưa bà, tôi xin lỗi, tôi chỉ muốn nói với bà rằng có rất nhiều người đang cần đến những cánh hoa của bà hơn. Tôi là hội viên của một tổ chức chuyên đi thăm những người già lão, các bệnh nhân trong viện dưỡng lão, các bệnh viện. Chính họ mới là những người đang cần đến những cánh hoa của chúng ta, họ có thể nhìn thấy và ngửi được cánh hoa ấy.

Nghe thế, người đàn bà ngồi bất động trên chiếc xe sang trọng một lúc, rồi ra hiệu cho tài xế mở máy. Vài tháng sau người đàn bà trở lại nghĩa trang. Nhưng lần này không cần ai giúp đỡ, bà tự động bước xuống xe với một dáng vẻ vui tươi nhanh nhẹn hơn, và điều đáng ngạc nhiên hơn nữa, một nụ cười rạng rỡ, bà nói với người thanh niên giữ cổng:
-Chú đã có lý, tôi mang hoa đến cho những người già lão, bệnh tật. Quả thật, điều đó đã làm cho họ được hạnh phúc. Nhưng người thực sự hạnh phúc chính là tôi. Các bác sỹ không biết được bí quyết làm tôi khỏe mạnh lại. Nhưng tôi đã khám phá ra cái bí quyết ấy, tôi đã tìm ra lẽ sống.

Lời bàn của người Kể truyện, lại như sau:

“Giúp đỡ người khác là giúp đỡ chính mình”. Đó cũng là khuôn vàng thước ngọc của Thượng đế “cho thì có phúc hơn là nhận lãnh” Bởi vì, trao ban cho người tức là trao ban cho mình. Một ngạn ngữ Anh cũng nói một cách tương tự: “điều tôi tiêu đi là tôi có, điều tôi giữ lại là tôi mất, điều tôi cho đi là tôi được”.

 Đó là lý luận của tình yêu. Tình yêu lớn lên theo mức độ của sự trao ban. Có biết yêu thương thì con người mới thực sự triển nở, và tìm gặp lại chính mình. Có biết yêu thương thì con người mới biết vui sống, và tìm được hạnh phúc đích thực trong cuộc sống.”

             Nói thế, tức bảo rằng: có mừng và có kính Lòng Từ Bi/Thương Xót bằng hình-thức nào đi nữa, cũng là cơ-hội để bạn và tôi, ta lại sẽ thực-hiện hành-động yêu-thương/tha-thứ hết mọi sự cho mọi người.

Từ-bi/Thương-xót như thế, là để đề-nghị bạn/đề-nghị tôi, ta về với Lời Vàng của bậc hiền-nhân rất thánh, từng nhủ-khuyên như sau:

“Thật vậy, trước kia anh em đã không vâng phục Thiên Chúa,

nhưng nay anh em đã được thương xót,

vì họ không vâng phục;

họ cũng thế:

nay họ không vâng phục Thiên Chúa,

vì Ngài thương xót anh em,

nhưng đó là để chính họ cũng được thương xót.

Quả thế,

Thiên Chúa đã giam hãm mọi người

trong tội không vâng phục,

để thương xót mọi người.

Ca tụng thánh ý nhiệm mầu.”

(Rôma 11: 30-32)

Nghe khuyên và nhủ thế rồi, nay ta lại sẽ trở về với giòng thi-ca/âm-nhạc mà hát những tình-tự từ-bi/hỷ-xả như từng hát ở bên trên, bằng những lời ca vang, rằng:

“Em có nghe xào xạc.

Tiếng lá bay xào xạc.

Tiếng gió đêm buồn buồn.

Lang thang trên muôn vàn đỉnh cây.

 Hạnh-phúc nào không tả-tơi,

không đắng cay?”

(Phạm Duy/Ngô Đình Vận – bđd)

Hát như thế, tức tự nhủ lòng mình, rằng: đời người sẽ còn đó nỗi buồn, nếu không ai thấy được lòng từ-bi/thương-xót hiện-diện ở trong mình và nơi mọi người.

Để minh-hoạ cho ý-tưởng này, đề-nghị bạn/đề-nghị tôi, ta đi vào vùng trời truyện kể về tình thương-yêu hiền-dịu cả trong tờ giấy bạc được xếp thành hình tam giác như quà tặng cho nhau, đầy ý-nghĩa, như sau:

“Truyện rằng:

 Vài năm trước, mỗi ngày đi làm, Jim đều được ông Jake, một người hàng xóm đã cao tuổi đưa cho một tờ tiền mặt 5 đôla. Ông nhờ Jim ghé qua một quán cà phê trên đường để mua hộ ông một gói cà phê có giá 4 đôla.

 Thói quen này của ông Jake đã duy trì đến mấy năm nay rồi. Và để đáp trả lòng tốt của Jim, ông Jake sẽ nhận làm cỏ, tỉa cây trong vườn nhà anh ấy.

 Sau một thời gian lâu, bà chủ quán cà phê cũng đã quen với Jim. Bà ngày nào cũng chuẩn bị một gói cà phê và một đồng đô la tiền lẻ để trả lại.

 Đôi lúc, Jim cũng rất tò mò và hỏi ông Jake: 

-Cà phê có hạn sử dụng rất lâu, tại sao ông không mua một lần nhiều nhiều một chút?

Ông Jake lắc đầu và cười nói: 

-Không, tôi thích như thế này hơn, mỗi ngày một gói cà phê mới tốt.

 Có một lần, Jim vội vã tới nhà bạn để tụ tập cùng bạn bè nên anh liền mua cà phê ở tạm một cửa hàng khác. Không ngờ, ông Jake khi nhận được cà phê dù còn chưa mở ra đã nói: 

-Đây không phải loại cà phê mà tôi muốn.

 Jim cảm thấy bất ngờ, anh liền thử mấy lần sau đều mua ở nơi khác, nhưng dù cà phê đã được đóng gói y như vậy, mà ông Jake chỉ liếc mắt qua đã phát hiện ra rồi. Từ đó, Jim không còn thử ông nữa.

 Mấy năm sau, sức khỏe của ông Jake đã không còn được tốt như trước đây. Nhưng hàng ngày ông vẫn đều nhờ Jim mua cho mình một gói cà phê. Mỗi lần khi đưa 5 đôla cho Jim, hai ánh mắt của ông lại chất chứa đầy sự chờ mong.

 Cho đến một hôm, khi Jim lại sang nhà ông Jake mua cà phê giúp ông. Ông Jake sức khỏe suy yếu nằm trên giường bệnh đưa tay ra, rồi nhẹ nhàng cầm tờ một đôla và hỏi Jim: 

-Thời gian lâu như vậy, chẳng lẽ cậu không biết gì sao?”

Jim nhìn ông lão hàng xóm và lắc đầu.

Ông lão nói tiếp: 

-Tôi luôn luôn muốn mua cà phê ở cửa hàng đó, là vì người bán cà phê cho cậu là Elina.”
Giọng nói của ông Jake trầm xuống rất nhiều: 

-Bà ấy là người mà tôi yêu nhất. Năm đó, mẹ của bà ấy chê tôi là một kẻ nghèo nàn, nên đã chia rẽ chúng tôi…Tôi cũng chỉ có thể đau lòng mà rời đi. Nhiều năm sau này, vợ tôi bị bệnh qua đời, các con cũng đã trưởng thành có gia đình.

 Tôi đã quay trở lại nơi đó tìm hiểu và biết bà ấy bán cà phê ở cửa hàng đó. Bà ấy cũng đã sớm mất chồng. Cả hai người chúng tôi đều không quên ước định của tình yêu đầu năm xưa. Nhưng tôi không muốn quấy rầy đến cuộc sống bình yên của bà ấy, nên lặng lẽ sống ở đây. Cũng từ đó, tôi nhờ cậu mua cà phê hộ tôi.”

 Jim đứng im lặng nhìn ông lão hàng xóm rồi bất chợt hỏi với vẻ khó hiểu: 

-Chẳng lẽ, ông chưa từng đến thăm bà ấy sao?”

Ông Jake lắc đầu.

-Năm đó, lúc chúng tôi yêu nhau thường không có cách để gặp mặt nên đã đặt ra một ám hiệu. Đó là lấy tờ một đô la gấp thành một hình tam giác, để trong một bì thư, rồi nhờ người gửi thư đưa đến đối phương, ngụ ý nói rằng mình vẫn bình an. Cho nên, mỗi lần nhờ cậu mua cà phê, tôi đều gấp tờ tiền thành một hình tam giác. Còn Elina, mỗi lần trả lại tôi tờ một đô la, bà ấy cũng đều gấp thành một hình tam giác.

 Cứ như thế, dù chúng tôi không gặp lại nhau nhưng đều biết người kia vẫn bình an, khỏe mạnh… Bây giờ, tôi sắp phải đi gặp thượng đế rồi, nhưng nếu Elina không nhận được tin tức của tôi, bà ấy hẳn sẽ rất lo lắng. Dưới giường của tôi có một chiếc hòm, bên trong đều là những tờ tiền tôi đã gấp thành hình tam giác rồi. Xin cậu hãy giúp tôi tiếp tục mua cà phê …Tôi xin nhờ cậu…”

 Ông Jake nói xong, liền nhắm mắt lại và ra đi. Không ngờ, trong đám tang của ông Jake, Jim đã mang đến một chiếc hòm khác. Trong chiếc hòm ấy, toàn là những gói cà phê đã được đóng sẵn và còn có rất nhiều những tờ tiền một đôla được gấp sẵn thành hình tam giác.

 Vào nửa năm trước, bà Elina đã bị bệnh nặng mà qua đời. Trước khi rời đi, bà đã giao chiếc hòm này cho Jim để nhờ Jim thay thế mình chuyển lời nhắn bình an đến ông Jake….

 Đây hẳn là một tình yêu đích thực! Có thể quý trọng tất cả những người bên cạnh mình, thì đó chính là một loại hạnh phúc! (Mai Trà biên dịch)

Nghe kể thế rồi, việc còn lại với bạn và với tôi, là: thực-hiện hiệu-lệnh của Đức Chúa khi xưa vẫn từng bảo:

“Anh em hãy ra đi

và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,

làm phép rửa cho họ

nhân danh Cha, Con và Chúa Thánh Thần,

dạy bảo họ tuân giữ

mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.

Và đây,

Thầy ở cùng anh em

mọi ngày cho đến tận thế.”

(Mt 28: 19-20)

Ra đi mà thực-hiện tính từ-bi, hiền-dịu trong cuộc sống đầy thương xót. Rất nhiều năm. Nhiều tháng, suốt đời mình. Đó chính là lệnh-truyền của Đức Chúa với mọi người, mọi thời chứ không chỉ trong mỗi năm thánh Từ bi hay thương xót.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những quyết-tâm để đời,

rất không rời

lòng người.