Thay Đổi và Cơ Hội

Thay Đổi và Cơ Hội

Lê Minh Nguyên

Thay đổi không có nghĩa là nó sẽ đương nhiên tốt hơn. Vậy tại sao phải thay đổi? Thay đổi để thoát ra được cái cũ, nhất là cái cũ đã 70 năm và có đầy lỗi hệ thống. Ít nhất, nó cho ra một cái gì mới, việc tốt/xấu tuy chưa rõ nhưng việc thích ứng với môi trường đương đại thì rất rõ. Khủng long dù rất to, nhưng không thay đổi theo môi trường sống thì đương nhiên bị diệt chủng. Đó là luật của tạo hoá mà sinh vật không thể cưỡng. Đảng CSVN là một sinh vật nên cũng vậy.

Trong chương trình giáo dục của ngành kinh tế thương mại (MBA) các sinh viên thường học qua về Phân tích SWOT (SWOT Analysis: Strengths/điểm mạnh, Weaknesses/điểm yếu, Opportunities/cơ hội, Threats/rũi ro) để có những động thái thích hợp khi thời thế đã đổi thay. Nó nhằm dạy cho sinh viên biết thay đổi và đạt được sự tốt đẹp sau khi thay đổi. Bởi vì trên thương trường, thay đổi là một hằng số, không thay đổi là thua cuộc, là bị đào thải.

Người Đông phương tin vào Dịch Học (hay Lẽ Biến Động) mà nguyên lý âm-dương không cho tách rời để chọn một bỏ một, cho nên giữ được sự thăng bằng động trong tương quan cả hai mới là tuyệt vời gần với lẽ đạo của Dịch Kinh. Nó có nghĩa là muốn thăng bằng phải thay đổi, trong tĩnh có động và trong động có tĩnh. Các chế độ dân chủ lấy cái động (biểu tình, tranh cử tự do) để duy trì cái tĩnh (ổn định chính trị thực sự). Các chế độ độc tài lấy cái tĩnh (ổn định chính trị giả tạo) để bóp nghẹt cái động (đàn áp các động tính tự nhiên của xã hội).

Người cộng sản biết rõ là môi trường sống chung quanh luôn luôn thay đổi, nếu không thì tại sao lý thuyết của họ đề cao biện chứng pháp (dialectics) mà trong đó luôn có biến động, vì nếu có chính đề (thesis) thì sẽ có phản đề (antithesis) và sự tương tác sẽ cho ra hợp đề (synthesis). Ví dụ dễ hiểu là nếu có một người độc thân (chính đề), thì sẽ có một người độc thân khác phái (phản đề) và sự tương tác như hôn nhân sẽ cho ra đứa con (hợp đề), qua thời gian thì đứa con sẽ là chính đề… và cứ thế mà lẽ biến động mở ra về phía trước.

Trớ trêu thay khi thực hành thì người Đông phương thường bảo thủ chống lại sự thay đổi, nhất là người cộng sản. Họ đề cao luật biện chứng nhưng họ cho luật biện chứng chết ở thế giới đại đồng, vì tới đó là “Ò e Rô-be đánh đu, Tạc-zăng nhảy dù… thằn lằn cụt đuôi” không thể biện chứng được nữa. Đó là chưa nói Darth Vader Lú ở hành tinh xa xôi nào đó trong Stars War 7 cương quyết không thay đổi, cho dù đến hết thế kỷ này không biết có gặp chủ nghĩa xã hội hay chưa.

Người Tây phương, nhất là Hoa Kỳ, không biết nói nhiều về Kinh Dịch, nhưng luôn thực hành nguyên tắc âm-dương trong đời sống. Họ có thuyết Tương Đối (Relativity) mà Albert Einstein làm cho chói lọi, họ áp dụng âm-dương để làm ra máy vi tính (0 và 1 trong hệ đếm hai/binary digit), họ xây dựng quốc gia (nation-state building) trên nền tảng âm-dương mà chính quyền và đối lập luôn thăng bằng. Họ rất lo sợ đối lập bị yếu và luôn tìm cách để bảo vệ đối lập. Hầu hết các điều khoản của Hiến pháp Hoa Kỳ là để bảo vệ thiểu số trong khi đất nước do đa số hướng dẫn. Giao thiệp với thế giới, trong khi cộng tác với đảng cầm quyền của một nước nào, họ luôn luôn tiếp xúc và giúp đỡ đối lập. Nếu chỉ nói bằng hai chữ thì đó là: thăng bằng.

Chuyến đi của ông Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng từ 23-27/12/2015 qua Bắc Kinh mà ông Hùng cho là vì “lợi ích chung của hai bên to lớn hơn nhiều so với bất đồng” (www.bbc.in/1Vn10tA), nhưng ông không cho biết lợi ích to lớn của dân tộc Việt Nam là lợi ích gì? Mong ông đừng đồng hoá nó với lợi ích của đảng CSVN muốn TQ chống lưng để tiếp tục cầm quyền!

Qua những gì ông nói và làm ở TQ thì hình như là một sự đồng hoá như vậy!

Đảng đã dứt khoát không thay đổi chính trị để VN độc lập với TQ hơn và đoàn kết nội lực dân tộc trong-ngoài hơn. Chuyến đi là một sự khẳng định Đảng (đúng hơn là phe bảo thủ trong Đảng) dựa vào TQ. Điều mà nhạc sĩ Việt Khang trong bài hát “Việt Nam Tôi Đâu” cho biết phải trãi qua quá nửa đời nguời để nghiệm ra.

“Việt Nam ơi!

Thời gian quá nửa đời người

Và ta đã tỏ tường rồi”

Ông Hùng giờ đây qua chuyến đi đã khẳng định, không cần chờ lâu để “tỏ tường” là đảng CSVN tiếp tục chọn con đường dựa vào Trung Quốc cho sự “hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài (?), hướng tới tương lai” như 16 chữ vàng cột chặt con thuyền đất nước VN vào mẫu hạm TQ. Dĩ nhiên, khi cột chặt vào mẫu hạm thì hướng đi tương lai là hướng của mẫu hạm. Nội tình TQ thì ông Tập Cận Bình đang ngồi trên lửa, đảng CSTQ đang hết xăng, vậy việc tiếp tục ôm TQ có phải là một giải pháp khôn ngoan cho đảng CSVN hay không?

Hôm 23/12 ông Hùng gặp ông Tập (bit.ly/1PlS9I5) và ông Tập “gởi lời thăm hỏi, lời chúc tốt đẹp đến TBT Nguyễn Phú Trọng và CTN Trương Tấn Sang”, không nhắc gì đến TT Nguyễn Tấn Dũng. Điều này chỉ có thể rơi vào một trong ba trường hợp: (1) ông Tập đã bỏ rơi ông Dũng do tam trụ Trọng-Sang-Hùng có thể đã nhượng gì với ông Tập có giá trị lớn hơn ông Dũng nhượng!? (2) ông Tập thăm VN hôm 5-6/11/2015 vừa qua, mời duy nhất ông Dũng đi thăm TQ và hai ông Tập-Dũng ôm nhau ba lần hết sức thắm thiết chỉ là đòn giả để hại ông Dũng, để chứng minh ông Dũng cũng cá mè một lứa quỵ luỵ TQ, (3) ông Tập có thể đã gởi lời thăm ông Dũng nhưng tam trụ Trọng-Sang-Hùng đang vây đánh nhất trụ Dũng nên cắt bỏ lời nhắn thăm ông Dũng khi đưa tin ra ngoài công chúng.

Hôm 25/12 ông Chủ tịch Quốc hội TQ Trương Đức Giang nói với ông Hùng là VN cần củng cố niềm tin chính trị vào TQ và nên giữ cho “quan hệ song phương trở lại theo đúng hướng”, có nghĩa là VN tiếp tục ở trong quỹ đạo của TQ, không được chệch hướng về phía Hoa Kỳ (bit.ly/1Vn2vYF).

Ông Trương hướng VN đến tương lai bằng cách thúc ông Hùng là VN cộng tác trong khuôn khổ của sáng kiến TQ về “Vòng Đai và Con Đường (Belt and Road) cũng như phía VN “Hai Hành Lang và Một Vòng Tròn Kinh Tế” (Two Corridors and One Economic Circle). TQ gói bánh nhiều dây từ an ninh, quân sự, chính trị, kinh tế… với VN.

Theo Tân Hoa Xã, ông Hùng nói “Việt Nam sẵn sàng làm việc với Trung Quốc ‘để tăng cường quan hệ hợp tác…hầu có thể duy trì tình hữu nghị vĩnh cửu’” (bit.ly/1ZurXhk). Trong khi quy luật của bang giao quốc tế là “không có bạn muôn đời, cũng không có thù truyền kiếp, chỉ có quyền lợi quốc gia là vĩnh cửu”, nay ông Hùng hy sinh quyền lợi quốc gia ở Biển Đông để xin “duy trì tình hữu nghị vĩnh cửu”. Đau cho VN!

Hôm 25/12 ông Hùng tới quê hương Mao Trạch Đông để thăm và dâng hoa ở thành phố Thiều Sơn, tỉnh Hồ Nam. Nơi đây “Kính cẩn nghiêng mình trước tượng Chủ tịch Mao Trạch Đông, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng thành kính tưởng nhớ công lao to lớn của lãnh tụ vĩ đại…” (bit.ly/1Ja9DWz).

Ông Hùng đi TQ ngay thời điểm sau Hội Nghị Trung Ương 13 (ngày 14-21/12) mà các phe tranh nhau bất phân thắng bại, trước trận đánh kế tiếp ở Hội Nghị TU 14 vào khoảng đầu tháng Giêng, và chưa đầy một tháng trước Đại Hội 12, với nội dung vừa cậy dựa TQ vừa có vẻ muốn dồn ông Dũng vào chân tường. Ông muốn chứng tỏ cho dư luận là ông có hùng khí dám đặt vấn đề thẳng mặt với ông Tập về Biển Đông, nhưng nội dung thì co cụm và đùn đẩy cho hậu sinh, như “tích cực hợp tác”, “Vấn đề trên biển là vấn đề hệ trọng… Vì vậy, xử lý vấn đề trên biển cần được đặt trong tầm nhìn chiến lược lâu dài”. Khi ông Tập đến đọc diễn văn ở Quốc hội VN, không thấy Chủ tịch Hùng nêu lên vấn đề, tại sao? Chẳng lẽ chuyện biển đảo chỉ được dùng cho chính trị nội bộ?

Nhà dân chủ TQ, ông Nguỵ Kinh Sinh cho rằng ông Tập chỉ phung phí tiền bạc để tạo tiếng vang ở Biển Đông. Nơi đây, Hoa Kỳ đang đánh đòn giả với TQ (bluffing). HK không cần phải lo lắng mà chỉ cần duy trì áp lực miệng (HK thật sự lo lắng là vấn đề tin tặc). Nếu phải lo lắng là Việt Nam và Phi Luật Tân, và hai nước này nên mời HK vào Cam Ranh, Subic Bay và Clark Air Force Base. Ông Nguỵ cho rằng các đảo đó chẳng hữu ích gì cho TQ. HK sẽ chẳng thoả thuận gì (make a deal) với TQ ở Biển Đông trừ khi các chính khách HK bị bại não.

Ông Nguỵ cho rằng cốt lõi của vấn đề Biển Đông là chế độ CSTQ muốn kiểm soát yết hầu hàng hải ở Đông Á, tức là muốn kiểm soát các tuyến đường thương mại hàng hải của Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ và các nước ASEAN. Liệu ý đồ này có thành công hay không? Hiển nhiên là không. Đây là mưu tính của những người bị tàn tật não. Giả như một ngày nào đó chế độ CSTQ thực sự cắt đứt cái yết hầu hàng hải này, TQ đánh với một mình HK còn không lại thì làm sao đánh lại một liên minh gồm HK, Nhật, Hàn và các nước ASEAN?

Nếu có chiến tranh, nó sẽ đi cùng với sự trừng phạt kinh tế, và chế độ CSTQ sẽ sụp đổ ngay lập tức. Vì vậy, các cư dân mạng ở TQ đặc biệt muốn ông Tập gây chiến, qua đó để họ chứng kiến sự sụp đổ chế độ bằng việc sử dụng sức mạnh bên ngoài. Mưu tính này có thể làm cho ông Tập xem xét lại dàn cố vấn của ông để biết ai muốn TQ hỗn loạn và ai đang đánh lừa ông (bit.ly/1RLPKrF).

Ông Hùng và Đảng muốn dựa vào TQ là một sai lầm chiến lược nghiêm trọng cho VN. HK là siêu cường số một, không có tham vọng lãnh thổ, nhưng cũng không có bổn phận phải bảo vệ chủ quyền VN. VN cần HK chứ không phải HK cần VN.

Vì lợi ích cục bộ, CSVN cần TQ chống lưng hơn là cần nội lực dân tộc, trong khi việc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ thì chính yếu là dân tộc chứ không phải ngoại bang, cho nên VN không thể vận công để đoàn kết dân tộc trên toàn quốc cũng như quốc nội-hải ngoại, trong khi khối người Mỹ gốc Việt càng ngày càng có nhiều ảnh hưởng hơn lên chính sách của HK đối với VN.

Thay đổi không phải chỉ có rũi ro mà là cơ hội. Những người cộng sản Đông Âu hay Liên Xô có viễn kiến đều thành công sau thay đổi. Một cá nhân cương quyết thay đổi, có thể từ đạp xích lô trở thành nhà khoa học. Một tập thể lãnh đạo mạnh dạn thay đổi, VN sẽ có cơ hội vươn vai Phù Đổng để trở thành một dân tộc mạnh trên trường thế giới.

Trên lãnh vực này, VN nên lãnh đạo TQ chứ không nên để TQ lãnh đạo VN. Đây là sinh lộ cho VN hưng thịnh, vì VN dân chủ dẫn theo một TQ dân chủ mới là sự ổn định thực sự, như HK nằm sandwiched hài hòa giữa Gia Nã Đại và Mễ Tây Cơ, chứ không “đại cục hữu nghị” mà thực chất là ỷ mạnh hiếp yếu như TQ đối với VN hiện nay.

Thay đổi là cơ hội để vượt qua sự bất hạnh cho một dân tộc thông minh, cần cù và dũng cảm.

L.M.N.

28/12/2015

Đại hội Đảng 12 có ‘hai điểm quan trọng’

Đại hội Đảng 12 có ‘hai điểm quan trọng’

AFP Ông Nguyễn Phú Trọng (giữa) sẽ tại vị chức Tổng Bí thư thêm nhiệm kỳ hay phải nhường ghế cho ông Nguyễn Tấn Dũng (phải) sau Đại hội Đảng 12?

Một nhà quan sát nước ngoài nói về điểm “chưa có tiền lệ” ở Đại hội 12 trong lúc con trai Tổng bí thư Lê Duẩn cảnh báo về vai trò nhân dân bị “lu mờ”.

Giáo sư Carl Thayer, nhà quan sát chính trị Việt Nam lâu năm, vừa có bài phân tích về Đại hội Đảng 12 trong đó ông mô tả đại hội này đặc biết quan trọng vì “hai lý do”.

“Thứ nhất, họ sẽ bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng mới. Những người này sẽ lần lượt bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban kiểm tra Trung ương Đảng, tổng bí thư và thông qua các ứng viên chủ tịch nước, thủ tướng và chủ tịch quốc hội. Những ứng viên này sẽ được bầu vào tháng 5/2016.

“Các ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng vừa nhóm họp Hội nghị 13, bỏ phiếu chọn ứng viên cho bốn vị trí cao nhất của đảng và nhà nước. Việc lựa chọn lãnh đạo gây nhiều tranh cãi năm nay. Trên lý thuyết, điều lệ Đảng buộc những người đã phục vụ hai nhiệm kỳ và/hoặc hơn 65 tuổi phải nghỉ hưu.

“Tuy nhiên, thực tế có thể có ngoại lệ đặc biệt. Ví dụ, Đại hội Đảng 11 bầu ông Nguyễn Phú Trọng làm Tổng Bí thư dù năm đó ông đã hơn 65 tuổi.

“Có tin đồn rằng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng muốn là Tổng bí thư kế tiếp và ông có thể được miễn trừ quy định tuổi tác. Nhưng trường hợp của ông Dũng chưa có trong tiền lệ.

“Việt Nam chưa từng có nhà lãnh đạo ở chức vụ cao lại tìm kiếm sự miễn trừ [quy định tuổi tác] để khi rời ghế cũ lại chuyển sang ngồi một ghế khác cũng cao trong hàng ngũ chóp bu lãnh đạo. Trường hợp này tạo nên hiệu ứng phản đối ông Dũng dữ dội từ phía các đối thủ của ông là Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng,” ông Thayer viết.

Nhà quan sát này bình luận rằng có một điều không thể phủ nhận là Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay đã minh bạch hơn so với trước đây trong việc truyền thông đến người dân về cơ chế lựa chọn lãnh đạo.

Tuy nhiên, đến nay tên của các ứng viên được chọn bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các vị trí cao hơn vẫn được giữ bí mật, ông Thayer nhận xét.

GETTY  Giáo sư Carl Thayer nói trường hợp của ông Nguyễn Tấn Dũng chưa có trong tiền lệ

Lý do thứ hai khiến Đại hội Đảng 12 quan trọng, theo Giáo sư Carl Thayer, là tại sự kiện này sẽ công bố hai văn kiện chính yếu -Báo cáo chính trị và Báo cáo Kinh tế-Xã hội 2016-2020. Dự thảo các văn kiện này đã được đưa ra tháng 9/2015 để thảo luận công khai.

Dự thảo Báo cáo Chính trị ưu tiên các vấn đề giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học và công nghệ, chống tham nhũng, tăng cường các quy định pháp luật, đoàn kết dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng “đảng trong sạch vững mạnh”.

Báo cáo Kinh tế-Xã hội nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì kinh tế vĩ mô ổn định, kiểm soát nợ công và đặt mục tiêu phát triển Việt Nam thành quốc gia hiện đại và công nghiệp năm 2020.

Báo cáo cũng đặt mục tiêu tốc độ tăng trưởng GDP 6,5-7% trong 5 năm tiếp theo.

Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người dự kiến đạt 3.670 – 3.750 đôla, đưa Việt Nam tiếp cận danh sách quốc gia thu nhập trung bình.

AP  Ai trong số bốn nhà lãnh đạo này sẽ tiếp bước sau Đại hội Đảng 12 vẫn còn là một ẩn số

Nhà báo Huy Đức vào hôm 30/12/2015 viết trên Facebook cá nhân đánh giá về con người và những chính sách của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

“Sau mười năm trở thành người có quyền lực nhất đất nước, ông Dũng đã có nhiều quyết định làm khánh kiệt nền kinh thế [đặc biệt là chính sách lập các tập đoàn kinh doanh đa ngành].

“Đã hai năm, kể từ ngày ông “gửi thông điệp cải cách” tới dân chúng, Chính phủ chưa hề có một hành động cải cách hữu hiệu nào trong khi các bộ ngành dưới trướng của ông tiếp tục “đẻ” thêm nhiều loại thủ tục nhũng nhiễu người dân và doanh nghiệp.

“Tính từ khi đứng trong top 5 người quyền lực nhất (ủy viên thường vụ Bộ chính trị – 1996), Nguyễn Tấn Dũng đã ở trên đỉnh cao quyền lực gần 20 năm.

“Sau 20 năm nhìn lại, đặc biệt là 10 năm làm thủ tướng, trong số các gia đình VN, có lẽ chỉ gia đình ông là thành công nhất,” nhà báo Huy Đức viết.

‘Bề trên’

Trong một diễn biến khác vào hôm 30/12/2015, một báo của Bộ Công an đăng bài bình luận ‘ Chúng ta thực sự tin nhân dân?‘ của ông Lê Kiên Thành, con trai cựu Tổng Bí thư Lê Duẩn.

Ông Thành viết: ”Là con trai một người Cộng sản đã hy sinh cả cuộc đời mình cho đất nước, tôi có một khao khát tột cùng là Đảng sẽ thực sự vững mạnh, sẽ thực sự là Đảng của dân tộc, của nhân dân, quên mình vì lợi ích của dân tộc, của nhân dân…

“Nhưng những đêm vắt trán nằm suy nghĩ về đất nước, tôi hiểu chúng ta còn thiếu và sai nhiều. Một trong những cái sai đó là chúng ta chưa thực sự biết tin dân!”

“Nhưng khi sự nghiệp lớn đã thành công, những người Cộng sản trở thành những người lãnh đạo đất nước, họ dần dần trở thành giai cấp cầm quyền và có lúc ‘nhìn xuống’ nhân dân của mình.”

“Những cụm từ ‘Đảng soi đường’, ‘Đảng chỉ lối’, ‘Đảng dẫn dắt’ mà chúng ta vẫn hay dùng, vô hình trung đã khiến cho tất cả chúng ta đều có cảm giác Đảng đang vượt lên cả dân tộc và làm cho vai trò rất lớn của nhân dân phần nào bị lu mờ đi. Tôi rất lo sợ, qua năm tháng, chính những câu chữ đó cũng đã tạo ra sự ngộ nhận cho chính những người trong Đảng,” ông Thành viết.

Ông Lê Kiên Thành, một doanh nhân khá thành đạt, viết thêm rằng “Đảng sinh ra là từ dân tộc này, tồn tại được cũng nhờ dân tộc này, vinh quang được cũng là nhờ dân tộc này, thành công này cũng là do cả dân tộc cùng đồng lòng trả bằng xương bằng máu. Vượt lên trên dân tộc là điều không bao giờ được phép!

“Trước đây khi chúng ta muốn nói điều gì với dân, chỉ dùng một tờ truyền đơn là người dân tin. Trong khi đó hiện chúng ta có đến khoảng 800 đầu báo mà chúng ta lại lo sợ nhân dân sẽ hiểu sai về Đảng khi đọc những tiếng nói trái chiều trên những trang báo lề trái. Đó là điều phi lý mà tôi không cắt nghĩa được,” ông Thành viết.

Bóng tối của đêm

Bóng tối của đêm

tuankhanh

RFA

Anh bạn có cái quán nước nho nhỏ ở tít vùng ngoại ô Sài Gòn, mới đây kể rằng có khách ghé vào, vừa kéo ghế ngồi vừa kêu nước “cho cái gì uống đi, cái gì cũng được miễn không phải là đồ của Tân Hiệp Phát”.

Ở cái quán bé tẹo ấy, chưa có đến 5 cái bàn, khoảng hai tuần nay đã tiếp nhận loại thông điệp xã hội dân sự ấy không phải một lần rồi thôi. Đi xa hơn nữa, cũng có những người bán hàng đã bị lời nhắc của khách hàng làm thức tỉnh, về một dòng chảy đang lớn dần, trong việc không nên dùng sản phẩm của Tân Hiệp Phát. Thái độ từ chối của nguòi dân ngày càng rộng không phải vì tin tức các loại nước của công ty này bị cặn, bị lỗi, mà rõ là một cách bày tỏ rất quyết liệt: Không muốn chung sống cùng một xã hội với loại thương hiệu với cách ứng xử khuất tất.

Trong lịch sử Việt Nam từ hơn 40 năm nay, người Việt chỉ chứng kiến hai lần phong trào tẩy chay hàng hoá ở mức độ toàn quốc. Đó là cuộc tẩy chay hàng bột ngọt Vedan bởi nhà máy của công ty này làm ô nhiễm sông Thị Vãi, Đồng Nai, vào năm 2010. Lúc đó, sự nổi giận của đám đông vì số phận của một con sông. Còn lần thứ hai này, người ta chứng kiến phong trào kêu gọi tẩy chay toàn dân với một thương hiệu, bùng phát từ cách chà đạp số phận của một con người.

Xét về ý thức công dân và thái độ trách nhiệm xã hội, rõ ràng có một bước tiến lớn trong cái nhìn của đám đông. Sự kiện Vedan bắt nguồn từ các bài báo điều tra và mọi người dễ dàng cùng chung một trận tuyến đối diện với Vedan – mà sai lầm của công ty đã thấy rõ. Còn với sự kiện con ruồi của sản phẩm Tân Hiệp Phát, rõ ràng là người dân ngày càng tinh tế hơn, thấu đáo hơn, bất chấp sự kiện được công ty dàn ra bằng cái vỏ bọc án hình sự và một mặt trận bồi bút tìm mọi cách nói ngược nói xuôi theo chiều của đồng tiền xoay, khiến từng không ít người phân vân.

Chống lại những kẻ to lớn hơn mình và nhiều tiền của, luôn là đề tài muôn thuở của của thế gian – như một sự thách thức sự thật và lẽ phải – mà kết quả không phải lúc nào cũng có hậu. Ngay cả cách thể hiện quyền lực muốn nhấn chìm người mua hàng trong sự kiêu ngạo và tàn nhẫn của Tân Hiệp Phát, vẫn có những luật sư, bồi bút lên giọng bảo vệ kẻ ác trước những người từng phát hiện sản phẩm hư hỏng của công ty này. Có ít nhất 3 khách hàng của Tân Hiệp Phát đã lao đao, chết đứng chết ngồi trước anh Võ Văn Minh (một người ở Đồng Nai và 2 người ở Tp.HCM), với cùng một thủ thuật. Từ năm 2011, công lý đã chìm ngập trong màu nước ngọt có ruồi, cho đến khi tin tức về các nạn nhân lan trên các trang mạng xã hội.

Không may mắn như Vedan, sự kiện Tân Hiệp Phát bẫy người tiêu dùng phát hiện sản phẩm lỗi của mình, được ghi lại khá chi tiết trên Wikipedia, bách khoa toàn thư điện tử với đủ các chi tiết, bao gồm phương thức giải quyết khủng hoảng qua cách đổi tên công ty thành Number One. Lưu danh muôn đời.

“Giờ thì còn tệ hơn, công ty này nói phạt những nơi mua hàng của họ, phát hiện sản phẩm lỗi, lấy lý do là các nơi ấy bảo quản sản phẩm của họ không đúng”, anh bạn có cái quán nhỏ tẹo ấy nói, “thôi giã từ luôn cho khỏi phiền”. Chắc rồi Wikipedia sẽ có thêm tình tiết độc đáo này cho thương hiệu nước giải khát cung đình hoá học ấy, bởi việc tự rửa mặt, bằng cách gây hấn với khách hàng và người phân phối cho mình. Câu chuyện này minh chứng rõ một điều: rõ ràng khi có nhiều tiền, không có nghĩa là kèm thêm trí thông minh.

Nhưng câu hỏi cần đặt ra ở đây, là một công ty có lối giải quyết khủng hoảng vừa quái gở, vừa ngu ngốc như vậy, sao lại được ủng hộ tuyệt đối dù mắc sai lầm từ nhiều năm nay bởi báo chí, thậm chí bởi các quan chức hớn hở ra mặt, cùng nhịp bước đều?

Cây bút điều tra Hoàng Khương của báo Tuổi Trẻ, mới đây có nhắc về một bài báo cũ, liên quan chuyện công ty Tân Hiệp Phát nhập hàng chục tấn “hoá chất cung đình” quá hạn từ năm 2009, nhưng rồi sau đó mọi thứ chìm dần một cách bí hiểm. Thậm chí một cán bộ C15, tức C46 (Cục CSĐT về quản lý kinh tế và chức vụ thuộc Bộ Công An) đang theo sát vụ này đã “được” chuyển công tác về Cục phòng chống ma tuý.

Một cây viết điều tra khác, từng làm cho một tờ báo điện tử lớn, kể rằng anh cũng từng đưa bài nói về khuất tất của Tân Hiệp Phát vào năm 2009, có kèm cả tư liệu của công an C49 (Cục cảnh sát môi trường), thế nhưng những người lãnh đạo bỏ bài viết ấy, sau khi nhận lời mời một chuyến tham quan “hữu nghị” công ty Tân Hiệp Phát. Tất cả những gì cần cảnh báo cho người dân Việt, cuối cùng đã được thay bằng tuyên bố vui vẻ của một lãnh đạo tờ báo sau khi tham quan đi về “nhà máy to lắm, phải đi bằng ô tô mới hết”.

Thấy được sự âm u của đêm là một chuyện, nhưng thấy được cả bóng tối của đêm thì không dễ. Con ruồi và bẫy rập thì không khó nhìn thấy, nhưng trong bóng tối của đêm, làm sao để thấy ai đã giao tặng cho luật sư Tân Hiệp Phát biên bản điều tra của công an với anh Võ Văn Minh, mà điều ấy là bất hợp pháp? Làm sao nhìn xuyên được qua bóng tối của đêm để hiểu được vì sao có những bài báo lên giọng nói tẩy chay không uống nước cung đình hoá học ấy là ngu dại! Bóng tối nào của đêm đủ sức nuôi dưỡng loại luật sư văng tục, tuyên bố trên trang mạnh cá nhân của mình rằng hàng triệu người Việt Nam có thể sẽ ngồi tù vì dám hưởng ứng phong trào tẩy chay Tân Hiệp Phát?

Ngay nơi này, trên đất nước này, sự thật và lẽ phải mỗi ngày đang bị thách thức không ngừng. Không chỉ có đêm tối đang phủ vây công lý và con người Việt Nam, mà chập chúng bóng tối sau đêm cũng đang chực chờ dùng thế và lực của mình để sẳn sàng xoá nhoà mọi ý nghĩa của lương tâm và lẽ phải.

Trên tờ Huffington Post, số tháng 11/2015, có ghi lại một bài nói chuyện của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14. Khi nhìn thấy rất nhiều người khóc và cầu nguyện sau vụ khủng bố tại Ba Lê, Pháp, ông đã nói rằng “con người không thể chỉ cầu nguyện để thoát khỏi kẻ ác”. Người lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng từng đoạt giải Nobel Hoà Bình năm 1989 nhấn mạnh rằng “khủng bố – cái ác do chính con người tạo ra, vậy thì hãy hành động chứ cầu nguyện thì không đủ. Tự con người phải tìm cách giải quyết nó chứ không thể đòi hỏi Thượng đế can thiệp”.

Tân Hiệp Phát lớn lên trên đất Việt, được nuôi lớn bằng sức mạnh tiêu thụ của người dân Việt. Nếu nơi đó không thể đồng hành cùng đồng bào mình phát triển bình ái, mà âm mưu dựa dẫm vào bóng tối của thế lực và tiền của để chà đạp con người, thì chúng ta – những cá nhân nhỏ bé – sẽ phải cùng đứng lại để đòi hỏi một kết cục khác. Chúng ta không thể mong chờ một ai khác.

Tân Hiệp Phát chỉ là một ví dụ khởi đầu trên con đường đất nước đi đến tương lai. Mai đây có thể sẽ còn có những tập đoàn khác, mang theo những chỉ dấu của chaebol kiểu Hàn Quốc hay mafia kinh tế kiểu Phương Tây, lớn lên trên quê hương này cùng những bóng tối trong đêm. Nhưng hôm nay chúng ta lại có thêm một kinh nghiệm: bất luận thế nào con người Việt Nam không thể bị chà đạp mãi, dù chỉ là một cá nhân rất nhỏ nhoi.

————————

(ảnh minh họa: Fury Wave của họa sĩ Kuang Biao (Trung Quốc)

Việt Nam sẽ có thay đổi lớn về chính sách ngoại tệ

Việt Nam sẽ có thay đổi lớn về chính sách ngoại tệ

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2015-12-29

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

RFA

<

Mới đây ông Nguyễn Văn Bình, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết sẽ có thay đổi lớn về chính sách ngoại tệ đặc biệt là đồng đô la Mỹ. Cụ thể trong tương lai người gửi ngoại tệ vào ngân hàng có thể phải rút ra bằng tiền đồng Việt Nam và khi doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi ngoại tệ vào ngân hàng chẳng những không có lời mà còn phải trả lệ phí tiền gửi. Mặc Lâm phỏng vấn GSTS Vũ Văn Hóa, Trưởng khoa Kinh tế tài chánh ĐH Quản Lý Kinh Doanh để có thêm chi tiết về vấn đề này.

Mặc Lâm: Thưa Giáo sư, trước tuyên bố của Thống đốc Ngân hàng Việt Nam Nguyễn Văn Bình về việc siết chặt ngoại tệ khi người dân gửi đồng đô la vào thì khi rút ra không được lấy đô la mà phải lấy bằng tiền đồng Việt Nam. Kế đó, chằng những không có lãi mà còn phải trả phí tiền gửi. Xin ông cho biết mặt tích cực cũng như tiêu cực của chính sách này.

GSTS Vũ Văn Hóa: Chúng tôi cũng hơi bất ngờ. Trước hết là việc gởi ngoại tệ vào ngân hàng của cả doanh ngiệp và cá nhân với lãi suất bằng không. Thật ra thì cũng dễ giải thích thôi nhưng còn việc gửi vào mà rút ra có lệ phí thì việc này còn phải xem lại bởi vì sẽ làm cho người gởi tiền rất là thất vọng. Người sử dụng ngoại tệ có những mục đích khác nhau. Người ta có thể dự trữ ngoại tệ để dùng vào một việc nào đó mà bây giờ bắt người ta phải trả phí thì tôi cho là không hợp lý. Thứ hai, người ta gửi ngoại tệ mà bắt phải rút ra bằng tiền Việt thì quá vô lý bởi vì việc này vi phạm  sở hữu  về tiền tệ đối với các thể nhân và pháp nhân. Chúng tôi cũng còn nghiên cứu thêm về việc này nên chưa muốn giải thích chi tiết. Nói chung nhiều người cũng không đồng tình về vấn đề này.

“ Người ta có thể dự trữ ngoại tệ để dùng vào một việc nào đó mà bây giờ bắt người ta phải trả phí thì tôi cho là không hợp lý. Thứ hai, người ta gửi ngoại tệ mà bắt phải rút ra bằng tiền Việt thì quá vô lý bởi vì việc này vi phạm sở hữu về tiền tệ đối với các thể nhân và pháp nhân

GSTS Vũ Văn Hóa”

Mặc Lâm: Nhiều người cho rằng quyết định này sẽ ảnh hưởng trầm trọng đến doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu vì ngoại tệ gửi vào để thanh toán hay rút ra để trang trải đều phải rút bằng tiền Việt Nam. Điều này sẽ gây trở ngại và nhất là doanh nghiệp nước ngòai sẽ gặp rắc rối dẫn đến những tiêu cực phát sinh trong ngành ngân hàng. GS có thêm ý kiến gì không?

GSTS Vũ Văn Hóa: Vâng, tôi cũng đồng tình với ý kiến của anh. Tôi nghĩ là những đơn vị đã gởi ngoại tệ vào, như đã nói ở trên, thì người ta đã có mục đích sử dụng riêng. Ví dụ là thể nhân thì người ta cũng có thể đi nước ngoài hoặc là gởi cho con cái người ta đi du học. Đó là một mục đích. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì việc sử dụng ngoại tệ là việc rất là thường xuyên. Do vậy, bây giờ anh gởi vào mà lại bắt rút ra bằng tiền Việt thì tôi cho là không hợp lý bởi vì như vậy thì tỉ giá anh tính tỉ giá như thế nào và cũng có lúc lên lúc xuống. Nhìn chung, lợi ích đối với các doanh nghiệp thì tôi là nó bị tác động. Do đó, việc này rất không hợp lý trong điều kiện Việt Nam và anh có thể dùng cái từ gọi là “ cưỡng chế” và như vậy có thể nói là mất cái quyền dân chủ đối với những người có tài sản ở trên đất nước Việt Nam.

Khách hàng đổi tiền ở ngân hàng (minh họa)

Khách hàng đổi tiền ở ngân hàng (minh họa)

Mặc Lâm:Theo lập luận của ông Bình thì tỉ giá sẽ thay đổi hàng ngày nhằm chống lại đầu cơ đồng tiền đô la vì khi ấy không ai dám găm lại để kiếm lời. Theo GS thì đây co phải là một biện pháp cần thiết trong lúc này hay không?

GSTS Vũ Văn Hóa: Không phải là vì đầu cơ. Bây giờ người ta đã gởi vào ngân hàng thì còn đầu cơ cái gì. Người ta dùng để kinh doanh mà. Anh có thể sử dụng tiền đó của người ta bởi vì tiền trên tài khoản thì ngân hàng có quyền sử dụng như một phương tiện tín dụng để anh có thể dùng vào việc nào đó. Khi nào các chủ sở hữu của những đồng tiền đó người ta có nhu cầu thì lúc ấy ngân hàng trả về cho người ta theo số dư ban đầu. Tôi nghĩ việc đó là toàn quyền của ngân hàng. Tuy nhiên, chúng ta không thể nào sử dụng tiền của người ta mà chúng ta ép buộc theo cách tỉ giá áp đặt. Tôi nghĩ là không nên.

“ Tôi cho là đồng tiền của tất cả các nước chậm phát triển trong đó có VN đều không ổn định bền vững bởi vì nó tùy thuộc vào tình trạng kinh tế của đất nước ấy. Thứ nhất là về tâm lý, người ta cũng chưa tin tưởng lắm. Thứ hai, rõ ràng là tình trạng kinh tế của anh cũng không ổn định…Hai lý do đó khiến người ta chưa tin tưởng lắm bằng việc người ta tự giữ ngoại tệ

GSTS Vũ Văn Hóa”

Mặc Lâm: Ông Bình cũng cho rằng biện pháp này sẽ làm cho người có đô la sẽ bất an vì cảm thấy giữ đô la không chắc chắn mà nên đổi ra tiền đồng để ký gửi. Sự thật dòng tiền ngoài xã hội có nhu cầu đúng như lập luận của ông Thống đốc này không?

GSTS Vũ Văn Hóa: Bây giờ đối với đô la hay Euro hay đồng bảng Anh thì tôi cho đấy là đồng tiền của quốc gia nhưng mà nó có vai trò quốc tế của nó và nó được đảm bảo rất là tốt. Mình cũng không thể lấy nội tệ của mình để áp đảo và bắt người ta phải tuân theo. Như vậy là mất quyền tự chủ nên phải xem lại. Nếu mà dân chúng không đồng tình với việc đó thì chính sách đó là chính sách không hợp lòng dân.

Mặc Lâm: Sự thật cho thấy là đồng tiền Việt Nam vẫn chưa mạnh như vài nước trong khu vực để có thể tự tin giao dịch ngoài thị trường. Chính sách này có làm cho thị trường tài chánh Việt Nam trở nên bất ổn hay không?

GSTS Vũ Văn Hóa: Tôi cho là đồng tiền của tất cả các nước chậm phát triển trong đó có Việt Nam đều không ổn định bền vững bởi vì nó tùy thuộc vào tình trạng kinh tế của đất nước ấy. Thứ nhất là về tâm lý, người ta cũng chưa tin tưởng lắm. Thứ hai, rõ ràng là tình trạng kinh tế của anh cũng không ổn định một cách vững chắc. Hai lý do đó khiến người ta chưa tin tưởng lắm bằng việc người ta tự giữ ngoại tệ. Nếu như chính sách này còn tồn tại thì tôi cho rằng lượng ngoại tệ gởi vào ngân hàng sẽ ít đi chứ không phải như hiện nay.

Mặc Lâm: Là một chuyên gia tài chánh ông có ý kiến gì cho người dân cũng như cho chính phủ về chính sách này?

GSTS Vũ Văn Hóa: Bây giờ chính sách đã như vậy thì có thể giải thích nhưng mà có thể chính phủ chưa nghe và ngân hàng chưa thực hiện. Việc này phải chờ dư luận của công luận. Chính sách này phải liên quan đến việc ngoại tệ gởi vào ngân hàng; Nó sẽ giảm đi một cách nhanh chóng thì các ông ấy mới tỉnh ra và sẽ có một chính sách khác.

Mặc Lâm: Xin cám ơn GSTS Vũ Văn Hóa

Vượt qua hận thù trường hợp của nước Pháp và Đức

Vượt qua hận thù trường hợp của nước Pháp và Đức

( sau thế chiến thứ hai )

Bài viết của : Đoàn Thanh Liêm

LIEM DOAN

Giữa hai dân tộc nước Pháp và nước Đức đã từng có một sự hận thù nặng nề ghê gớm kéo dài trong nhiều thế hệ, phát sinh từ ba cuộc chiến tranh liên tục, bắt đầu từ năm 1870 với cuộc chiến tranh Pháp – Phổ (franco-prussian war), rồi đến đệ nhất thế chiến 1914 –

1918, và sau cùng là đệ nhị thế chiến 1939 – 1945. Nhưng kể từ giữa thập niên 1950, hai nước này đã vượt qua được sự thù hận ân oán lâu đời đó, để mà cùng hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm góp phần cực kỳ quan trọng vào việc xây dựng được một khối thị trường chung Âu châu (European Common Market). Và rồi tiến tới thêm một bước kỳ diệu nữa, đó là thiết lập được một thực thể chính trị kinh tế quan trọng bậc nhất trong thế giới hiện đại, tức là tổ chức Liên Hiệp Âu châu (European Union EU), mà hiện gồm có 27 quốc gia thành viên, với dân số tổng cộng là 500 triệu người, với đơn vị tiền tệ chung gọi là đồng euro, và tổng sản lượng quốc gia GDP lên đến 20 ngàn tỷ dollar (20 trillion).

Sự hòa giải và hợp tác giữa hai quốc gia cựu thù này có thể được coi là một sự kiện nổi bật nhất trong lịch sử của Âu châu nói riêng, cũng như của cả thế giới nói chung, trong thời cận đại kể từ khi thế chiến thứ hai chấm dứt vào năm 1945, cho đến đầu thế kỷ XXI của chúng ta ngày nay. Cái thành tựu vĩ đại và ngoạn mục như thế là do sự đóng góp về cả trí tuệ và về cả tâm hồn của biết bao nhiêu nhân vật xuất chúng từ phía cả hai dân tộc Pháp và Đức. Và bài viết này xin được ghi lại cái quá trình phục hồi và xây dựng hết

sức tích cực của một số nhân vật kiệt xuất đó.

Để bạn đọc dễ dàng theo dõi câu chuyện, người viết xin trình bày sơ lược về bối cảnh lịch sử tại khu vực Tây Âu, trước khi mô tả chi tiết về tiến trình hòa giải và hợp tác của hai nước Pháp và Đức trong nửa sau của thế kỷ XX.

I – Bối cảnh lịch sử cận đại tại Tây Âu.

  • Như ta đã biết vào năm 1870, nước Pháp do Napoleon III lãnh đạo đã bị thất trận nhục nhã trước đội quân tinh nhuệ của nước Phổ  (Prussia) dưới thời cầm đầu của thủ tướng Bismarck. Việc thất trận này đưa đến sự thóai vị của Hòang Đế Napoleon III và sự giải thể của nền Đệ nhị Đế chế ( the Second Empire) và sự ra đời cùa nền Đệ Tam Cộng Hòa ( the Third Republic) của nước Pháp. Nhưng nước Pháp lại còn mất cả vùng đất Alsace-Lorraine ở phía đông bị chuyển vào tay người Đức – (do nước Phổ sáp nhập hợp thành

nước Đức thống nhất vào đầu thập niên 1870)-. Đây là cả một nỗi cay đắng hận thù sâu đậm của dân Pháp đối với người Đức. Chỉ cần đọc bài viết “ Buổi học cuối cùng” (La derniere classe) của nhà văn Alphonse Daudet, ta cũng đủ thấm thía cái nỗi niềm tủi nhục

uất hận của người dân Pháp trong vùng đất bị tước đọat này.

Tiếp theo vào năm 1914 – 18, lại xảy ra cuộc thế chiến thứ nhất giữa phe Đức – Áo và phe Đồng Minh do Pháp – Anh đứng đầu. Cuộc chiến tranh này gây thiệt hại rất nặng cho cả hai nước Đức và Pháp. Vì Đức cuối cùng bị thua trận, nên vùng đất Alsace-Lorraine

lại trở về với Pháp. Nhưng vì nước Đức bại trận bị đối xử quá khắc nghiệt, nên người Đức thật bất mãn, hận thù phe Đồng Minh, đặc biệt đối với dân tộc láng giềng là Pháp.

Cho nên, đến năm 1939 lại xảy ra thế chiến thứ hai rất tàn bạo khủng khiếp, mà bắt đầu vào năm 1940 nước Pháp thua trận và bị quân đội Đức quốc xã của Hitler chiếm đóng với sự đàn áp hết sức tàn bạo khốc liệt. Vì thế mà mối hận thù giữa hai dân tộc Pháp- Đức lại càng thêm nặng nề bi đát. Rốt cuộc, năm 1945 nước Đức lại thua trận nữa, và cả Âu châu bị tàn phá kiệt quệ với hàng chục triệu nhân mạng bị tiêu vong.

Như vậy là chỉ trong vòng 70 năm từ năm 1870 đến năm 1940, giữa hai dân tộc Pháp và Đức đã xảy ra 3 cuộc chiến tranh đẫm máu với bao nhiêu triệu người bị giết và tàn phế, bao nhiêu tài sản bị hủy họai, và nhất là sự căm thù giận ghét mỗi ngày lại càng

thêm chồng chất tích lũy giữa hai bên.

II – Quá trình Hòa giải và Hợp tác Pháp – Đức sau năm 1945.

Sau khi cuộc chiến tàn bạo dã man kết thúc, người dân hai nước bàng hòang trước sự đổ nát hoang tàn và kiệt quệ về mọi mặt. Rồi tiếp liền theo là cuộc chiến tranh lạnh gay go căng thẳng giữa hai phe cộng sản do Liên Xô lãnh đạo và phe tư bản do Mỹ dẫn đầu.

Nhằm lôi kéo khu vực Tây Âu về phía mình, kể từ năm 1948 nước Mỹ đã hào phóng viện trợ đến trên 13 tỉ dollar cho các quốc gia đồng minh tại đây thông qua một chương trình tái thiết Âu châu, mà thường được gọi là kế hoạch Marshall. Nhưng vai trò chủ yếu trong công cuộc phục hồi, tái thiết và hòa giải ở Tây Âu là do các nhà lãnh đạo chính trị có tầm vóc đặc biệt lớn lao, điển hình như thủ tướng Konrad Adenauer của Tây Đức, ngọai trưởng Robert Schuman của Pháp, và đặc biệt là kế hoạch gia đại tài với viễn kiến sâu sắc Jean Monnet người Pháp. Đã có quá nhiều sách báo viết về sự đóng góp đồ sộ làm nền móng vững chắc cho sự tiến bộ của Âu châu từ trên 65 năm nay của những nhân vật chính trị kiệt xuất này, cho nên tôi thấy không cần phải trình bày dài dòng chi tiết thêm nữa về họ.

Mà đúng theo với nhan đề của bài này, tôi muốn viết về một nhân vật tiêu biểu của Xã hội Dân sự ở Âu châu, mà có sự đóng góp thật vĩ đại vào tiến trình hòa giải của hai dân tộc Pháp và Đức trong mấy thập niên gần đây. Nhân vật lỗi lạc đó chính là bà Irène Laure người Pháp, mà tôi xin dành được đề cập đến với nhiều chi tiết hơn trong phần tiếp theo liền sau đây.

III – Câu chuyện của Irène Laure (1898 – 1987).

Irene Laure xuất thân là một cán sự điều dưỡng và đã từng giữ nhiệm vụ quản lý bệnh viện. Victor người chồng của bà là một thủy thủ và là môn đệ của nhà lãnh đạo cộng sản Pháp Marcel Cachin. Trong thế chiến thứ hai, Irène tranh đấu trong hàng ngũ kháng chiến tại vùng hải cảng Marseille chống lại quân Đức quốc xã. Bà có người con trai bị mật vụ Gestapo tra tấn tàn bạo, nên đã có sự căm thù tột cùng đến độ mong cho mọi người dân Đức phải chết hết, và “quốc gia này phải bị xóa bỏ khỏi bản đồ của Âu

châu”. Sau khi chiến tranh kết thúc, Irène được bầu vào Quốc hội Lập hiến và làm Tổng thư ký của tổ chức “Phụ nữ Xã hội Pháp” với số đòan viên thời đó lên tới 3 triệu người.

Tháng chín năm 1947, Irène đến tham dự một hội nghị quốc tế tại thành phố Caux Thụy sĩ, cùng với nhiều đại biểu từ các nước Âu châu. Hội nghị này là do tổ chức Moral Re-Armament MRA (Tái Võ trang Tinh thần) đảm trách, nhằm quy tụ nhiều nhân vật văn

hóa xã hội, tôn giáo để cùng nhau trao đổi về vấn đề tái thiết Âu châu. Sẵn có sự căm thù đối với người Đức, Irène đã chuẩn bị rời bỏ Hội nghị khi được biết là có một số người dân Đức cũng tham dự cuôc gặp mặt này. Nhưng bà đã ngưng chuyện bỏ về, khi được

một người trong Ban Tổ chức nói với Irène rằng : “Bà là một người theo khuynh hướng quốc tế xã hội, làm sao mà bà lại có thể tái thiết được Âu châu, nếu bà loại trừ cả một dân tộc Đức?”

Dẫu vậy, khi được mời ăn bữa trưa với một phụ nữ Đức, thì Irène đã bị “xốc rất nặng”, đến nỗi phải nằm lì trong phòng suốt hai ngàyđêm liền, không ăn không ngủ. Bà bị dằn vặt trăn trở với lửa hận thù còn ngùn ngụt nóng chảy trong tâm can, và cầu xin ơn trên

hướng dẫn soi sáng cho mình. Sau cuộc tranh đấu nội tâm gay go căng thẳng này, Irène đã lấy lại được sự bình tĩnh và chấp nhận đến gặp người phụ nữ Đức như đã được giới thiệu cách đó mấy bữa.

Trong bữa ăn này, Irene không hề động đến món nào, mà lại xổ ra tất cả những gì đã chất chứa trong lòng mình sau khi đã trải qua bao nhiêu sự tàn bạo của quân đội Đức quốc xã. Rồi bà nói với người đối diện : “Tôi phải nói ra tất cả chuyện này, vì tôi muốn

được giải thoát khỏi nỗi giận ghét này “ (I want to be free of this hate).

Một sự im lặng kéo dài. Thế rồi người phụ nữ Đức mới lên tiếng, chia sẻ với Irène về những gì bản thân mình đã trải qua trong thời chiến tranh. Bà này tên là Clarita von Trott có chồng tên là Adam vốn là một người chủ chốt trong vụ âm mưu ám sát Hitler vào ngày 20 tháng Bảy năm 1944. Âm mưu thất bại và Adam bị tử hình, để cho một mình Clarita phải nuôi nấng hai đứa con. Clarita tâm sự với Irène : “Người Đức chúng tôi đã không chống đối đủ, đã không chống lại chế độ quốc xã sớm hơn và với quy mô đủ lớn, và chúng tôi đã đem lại cho chị và cho chính mình và cho cả thế giới những đau khổ đầy đọa dằn vặt không sao kể cho xiết được. Tôi muốn nói lời xin lỗi với chị “ (I want to say I am sorry).

Sau bữa ăn này, hai bà phụ nữ cùng các thông dịch viên đã yên lặng ngồi trên gác thượng nhìn xuống hồ Geneva. Rồi Irène lên tiếng nói với người bạn mới người Đức rằng bà tin tưởng là nếu cả hai người cùng cầu nguyện, thì Thiên chúa sẽ giúp họ. Irène cầu kinh trước, xin cho mình được giải thoát khỏi lòng hận thù để có thể còn xây dựng được tương lai. Và rồi đến lượt Clarita cầu nguyện bằng tiếng Pháp. Irène bất giác đặt tay trên đầu gối của kẻ thù địch trước đây của mình. Sau này, Irène tâm sự : “Từ lúc đó, cây cầu bác ngang qua sông Rhin đã được xây dựng, và cây cầu đó đã đứng vững mãi, không bao giờ gẫy đổ được.” (And that bridge always held, never broke)- (Ghi chú : Sông Rhin là biên giới giữa hai nước Pháp và Đức).

Cuối cùng Irène đã phát biểu trong một phiên họp khoáng đại của Hội nghị trước sự hiện diện của 600 tham dự viên. Bà nói : “Tôi đã thù ghét nước Đức đến độ muốn thấy nước này bị xóa bỏ khỏi bản đồ châu Âu. Nhưng tại đây, tôi thấy sự hận thù của mình là điều sai lầm. Tôi xin lỗi và tôi mong được xin tất cả các bạn người Đức có mặt nơi đây tha thứ cho tôi…” Liền sau đó, một phụ nữ Đức bước lên và nắm tay bà Irène. Sau này Irène thuật lại : “Lúc đó, tôi biết rằng tôi sẽ dành hết cuộc đời còn lại của mình để đem cái thông điệp của sự tha thứ và hòa giải này đến khắp thế giới.”

Và quả thật vào năm sau 1948, Irène cùng chồng là Victor đã qua bên nước Đức suốt 3 tháng , đi khắp nơi để tham dự 200 phiên họp và phát biểu tại Quốc hội của 10 tỉnh bang của xứ này. Ở đâu, bà cũng nói lời xin lỗi của mình. Và đổi lại, thì cũng có rất nhiều vị

tướng lãnh và sĩ quan, cùng các chính khách người Đức cũng đều lên tiếng xin lỗi với bà.

Và đó là bước khởi đầu cho cả một quá trình lâu dài của sự hòa giải và hàn gắn giữa hai dân tộc Pháp và Đức, ngay từ hạ tầng cơ sở của quảng đại quần chúng nhân dân tại hai nước. Giới nghiên cứu chính trị xã hội tại Âu châu đã ghi nhận rõ rệt sự kiện tích cực

hết sức quan trọng này là: Có đến trên 5,000 những Hội Thân Hữu Đức – Pháp tại khắp các địa phương của hai nước và tất cả đều hăng say hoạt động cổ võ cho tinh thần hiếu hòa thông cảm và hiểu biết chân thành giữa hai dân tộc Pháp và Đức.

Vì thế mà chúng ta có thể nói là cái “phong trào quần chúng tự phát này” là một biểu hiện sinh động của Xã hội Dân sự tại hai quốc gia vốn là cựu thù lâu năm với nhau. Và phong trào đó thực sự đã có tác động mãnh liệt thúc đảy cho tầng lớp lãnh đạo chính trị tại hai quốc gia này thực hiện mau chóng sự Hòa giải và Hợp tác Hội nhập giữa hai dân tộc và rõ ràng cũng đã góp phần chủ yếu vào công cuộc xây dựng thành công cho Liên Hiệp Âu châu như ta thấy ngày nay ở thế kỷ XXI vậy./

California, Tháng Hai 2011

Đoàn Thanh Liêm

Ghi Chú

(Được ghi thêm vào cuối năm 2015)

1 – Vào năm 2002, nhân tham dự khóa Hội thảo được tổ chức mỗi năm vào tháng 5 và 6 bởi Viện Xây Dựng Hòa Bình Mùa Hè (SPI =Summer Peacebuilding Istitute) thuộc Đại Học Eastern Mennonite University (EMU) tại thành phố Harrisonburg, Virginia – tôi được xem một video trình bày về hoạt động của Bà Irene Laure nhằm góp phần hòa giải giữa hai dân tộc Pháp và Đức sau thế chiến 2. Rồi qua sự tìm kiếm thêm thông tin trên Internet, tôi lại có thêm được tài liệu để hoàn thành được bài viết này.

Bạn đọc có thể đào sâu vấn đề bằng cách gõ chữ Irene Laure trên Internet, thì sẽ được hướng dẫn tìm kiếm thêm nhiều chi tiết lý thú liên quan đến nhân vật kiệt xuất này, kể cả hình ảnh của bà nữa.

2 – Nhân tiện, tôi cũng xin giới thiệu sơ lược về Viện SPI là một cơ sở thuộc Đại Học EMU. Từ trên 20 năm nay, SPI đều tổ chức những khóa Hội thảo hàng năm vào các mùa hè – nhằm quy tụ những sinh viên cũng như những nhà hoạt động văn hóa xã hội từ nhiều quốc gia trên thế giới để cùng trao đổi học hỏi với nhau về những kinh nghiệm cụ thể trong các lãnh vực Chuyển Hóa Tranh Chấp (Conflict Transformation), Hàn Gắn Chấn Thương (Trauma Healing), Trung Gian Hòa Giải (Mediation) v.v…

Các cuộc Hội thảo này đều được chuẩn bị khá chu đáo và do các giảng viên của EMU đảm trách việc hướng dẫn điều khiển những cuộc thảo luận theo chủ đề riêng biệt cho từng lãnh vực cụ thể.

  • Thủ tục ghi danh tham dự SPI thường được phổ biến vào Tháng Giêng mỗi năm. Xin mở website www.emu.edu/spi để biết thêm các chi tiết.

Trong nhiều năm gần đây, đã có một số tu sĩ, sinh viên và nhà hoạt động xã hội người Việt tham dự các khóa Hội thảo SPI này Bản thân tôi đã tham dự tất cả 4 khóa của SPI trong các năm 2001, 2002, 2007 và 2008 và đã quen biết được rất nhiều bạn hữu quốc tế

qua những khóa Hội thảo này của SPI./

TẠ ƠN CHÚA GIÊSU BAN CHO GIA ĐÌNH ĐẦM ẤM TRONG MÙA LỄ GIÁNG SINH

TẠ ƠN CHÚA GIÊSU BAN CHO GIA ĐÌNH ĐẦM ẤM TRONG MÙA LỄ GIÁNG SINH

 Tuyết Mai

Lạy Chúa hài nhi Giêsu! Gia đình chúng con cùng toàn thể anh chị em trên khắp toàn cầu cảm tạ Chúa đã tặng quà Giáng sinh cho chúng con là sự đầm ấm trong gia đình dù nghèo hay giầu có.   Chúa trao tặng cho chúng con món quà thật là ý nghĩa vì nó rất vô giá như thời giờ chúng con có được với nhau mà suốt trong năm không ai rảnh rỗi để cho nhau những câu chuyện, nụ cười nghe rôm rang, rổn rảng, rộn ràng như trong bữa ăn gia đình của ngày hôm nay.

Rồi Chúa tặng ban cho chúng con những món quà tâm linh khác như biết nghĩ đến người khác, biết chia sẻ cơm bánh cùng sự ấm cúng là những chiếc áo bông, những chiếc mền bông làm sưởi ấm lòng người như những mục đồng đến sưởi ấm cho Chúa Con Giêsu năm nào vậy.   Đầy tình người phải không thưa Chúa Con Giêsu?.

Thưa còn những món quà tượng trưng mà chúng con trao đổi tặng cho nhau chúng chỉ là những thứ vô tri vô giác, không nói lên được điều gì cho có ý nghĩa cả ngoài cái giá trị được đo bằng đồng tiền.   Hay nó chỉ có ý nghĩa khi mà món quà ấy nó khó mà có để tặng cho ai đó, là người ơn của mình như cha mẹ và v.v…

Lạy Chúa hài nhi Giêsu! Làm sao đo được hạnh phúc qua đồng tiền khi mà những người giầu có họ cảm thấy quá dư thừa với những món quà chất đầy nhà, đầy phòng nhất là những đứa con của họ?.   Thì thưa Chúa nếu họ muốn có được hạnh phúc thật sự chắc cũng rất khó nhưng nếu họ biết cách chia sẻ cho người nghèo khổ thì thiết tưởng họ sẽ cảm nhận được ngay trong tâm hồn cô đơn của họ là CHO sẽ hạnh phúc hơn là được NHẬN gấp bội phần.

Chúng con cảm tạ Chúa hài nhi Giêsu là vừa xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại chúng con, lại vừa dạy cho chúng con bài học khiêm nhường qua sự chia sẻ đến với những người cùng khổ vì Chúa là Con Vua Trời mà đã bỏ tất cả để chọn sanh ra nơi hang bò lừa, đặt tấm thân ngọc ngà của Ngài trong máng cỏ tanh hôi mà nệm là những mớ rơm được chất lên.   Thế thì chúng con giàu cỡ chi mà dám có cử chỉ khi thường, chê bai những người anh chị em yếu kém hơn chúng con, thiếu may mắn hơn chúng con trong suốt cuộc đời của họ.

Cảm tạ Thiên Chúa ngôi hai Ngài đã giáng trần, là con một Thiên Chúa toàn năng và là Giêsu hài nhi …

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

25 tháng 12, 2015

ĐÊM ĐÔNG CHÚA SINH RA ĐỜI

ĐÊM ĐÔNG CHÚA SINH RA ĐỜI

(Lễ Giáng Sinh)

Tuyết Mai

Quả thật hôm nay là ngày trọng đại của toàn thể nhân loại con người. Chúa đã đến cùng chúng ta. Nào tất cả trên trời và dưới đất hãy cất lên những tiếng tù và, chiêng, trống cùng đủ loại đàn, cộng tiếng ca thanh trong và vút cao, để hát chào mừng Con Thiên Chúa đã Giáng Sinh xuống trần. Ôi một ngày trọng đại chưa từng có trong lịch sử của loài người. Nay Đấng ấy là Con Một Thiên Chúa đã chọn ngày này mà giáng trần là Món Quà cao quý và cao trọng nhất mà Thiên Chúa đã tặng ban cho nhân loại chúng ta.

Ngài thật là Đấng uy hùng và thống trị của cả vũ trụ nhưng Ngài lại chọn sinh hạ xuống trần một cách thật độc đáo và một cách không ai hay biết, chỉ những ai mà được Ngài cho biết mà thôi. Ngài xuống trần chỉ được báo cho những người có tâm hồn bình dị, nghèo khổ, chân chất và rất bình thường là mấy em mục đồng. Con Chúa Đấng vô cùng quyền năng ấy đã bị con người trần gian từ chối không cho trú thân.

Một Đấng vô cùng quyền năng và vô song ấy đã sinh hạ trong một hang lừa thật hôi hám và thật bất xứng cho Ngài. Còn thật tệ thay là ngay cả chiếc nôi Ngài nằm là máng cỏ của chúng bò lừa, sự ấm êm không ngoài những cọng cỏ khô được gom lại.

Còn sự đau khổ nào cho bằng khi dưỡng phụ và dưỡng mẫu của Chúa Con Giêsu không thể trao ban cho Ngài một chỗ nương thân có thể tươm tất hơn thế. Sự đau khổ ấy các ngài chỉ biết giữ trong lòng và phó mặc tất cả cho Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần định liệu và cùng sắp đặt. Sự xuống trần của Chúa Giêsu Hài Đồng hẳn có nguyên do và là Thánh Ý Chúa Cha muốn như vậy. Vì có phải sự nghèo hèn ấy đã phát sinh ra biết bao nhiêu bài học mà Thiên Chúa muốn dạy và muốn chia sẻ thật nhiều cho con cái của Người? Mà hằng bao nhiêu thế kỷ qua đã có biết bao nhiêu con người nghèo khổ sống cùng khắp thế giới?.

Sự an ủi ấy thật là bao la và thật to tát cho cùng khắp mọi thành phần nghèo khổ trong xã hội. Từ trẻ sơ sinh bị vất ra ngoài đường cho đến các em nhỏ không nơi nương tựa, không một người thân, không cơm áo, không một vật dính thân rồi đến người bệnh tật, tật nguyền, trần truồng và rách rưới vì bị đời chối bỏ.

Ngày Chúa Giáng Trần tùy từng người, tùy mọi thành phần của xã hội mà Chúa đã trao ban cho nhân loại một Hạnh Phúc thật vô biên là Chính bản thân của Ngài. Sự Sinh Hạ của Ngài là một Hồng Ân thật cao cả đối với nhân loại con người. Mà từ khắp mọi nơi, mọi ngả đường, mọi nhà đều cảm thấy và cảm nhận được sự ấm cúng của sự hạnh phúc ấy. Chúa đến Trần Gian là cho tất cả nhân loại một Ý Nghĩa thật sâu sắc, đậm mầu tình yêu thương của một Thiên Chúa.

Người người tìm đến nhau để cho nhau sự ấm áp. Sao Chúa không chọn chào đời ở những mùa khác trong năm mà lại chọn giáng trần trong mùa đông lạnh đầy tuyết phủ này?. Có phải vì mùa đông con người thường tìm đến nhau nhiều hơn chăng?. Chẳng phải để tấm thân hay chết được ấm áp bên cạnh lò sưởi cho những tiếng tí tách trong đêm nhưng là để tìm một hạnh phúc thật của một gia đình.

Ít nhất hạnh phúc ấy cũng được chia sẻ từ người cha, người mẹ và đứa con duy nhất. Vì nhìn trong máng cỏ chúng ta thấy ai trong đó?. Thưa có phải là Đức Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse và Chúa Giêsu Hài Đồng đấy sao?. Vâng, ý nghĩa Chúa muốn nhắn nhủ cho nhân loại hạnh phúc có nghĩa là tất cả những gì chúng ta có thể trao ban cho nhau dù cả hai cha mẹ có cuộc sống thiếu thốn và thật khó nghèo.

Ý nghĩa của Hạnh phúc đích thực ở đây Chúa muốn dạy cho con người chúng ta là chỉ cần cho nhau trái tim biết yêu thương chứ không phải là đồng tiền và nhất là lại không phải là những món quà vô tri vô giác. Như gia đình Thánh Gia tuy không có tiền và cuộc sống của các ngài thì cũng rày đây mai đó. Không nơi nào là nhà cố định cả. Nhưng chắc hẳn không ai trên Trần Gian này lại có được Hạnh Phúc như thế. Có phải định nghĩa của một mái ấm gia đình đúng nghĩa là hình ảnh cho nhân loại ấn tượng nhất là trong đêm Giáng Sinh hay không?. Vì nhà nhà ai cũng có muốn chưng một Hang Đá với Chúa Giêsu Hài Đồng nằm trong máng cỏ bên cạnh Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse.

Những hình ảnh khác cũng cần phải có để tôn vinh và hát khen chào mừng Chúa Giêsu chào đời là các Thiên Thần, ba vua và các em mục đồng. Vì Chúa Giêsu sinh hạ nơi thế trần, chính Ngài là Hạnh Phúc đích thật vì Ngài ban cho chúng ta Bình An, Tình Yêu và một tâm hồn biết sống chia sẻ. Amen.

** Xin bấm vào mã số để nghe và hát:

https://www.youtube.com/watch?v=GqgQl9ZyqmA

(Giêsu Hài Đồng)

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

23 tháng 12, 2015

Con Thứ trưởng VN ‘du học không về’

Con Thứ trưởng VN ‘du học không về’

 

Hoang Dinh Nam AFP

Một thứ trưởng Việt Nam cho biết ông có hai người con đi du học nhưng không về nước, và đặt ra vấn đề sử dụng nhân tài, trong phiên giải trình của chính phủ trước Quốc hội hôm 29/12.

Thứ trưởng Nội vụ Nguyễn Duy Thăng nói: “Tôi nghĩ con em nhiều người ngồi ở đây cũng không về. Cá nhân gia đình tôi cũng vậy, 2 đứa không về. Ví dụ như thế thì thấy khó thật.

“Bây giờ tạo việc làm thế nào, thu hút ra làm sao, chúng tôi sẽ có báo cáo Chính phủ để xem lại chính sách,” báo Tiền Phong dẫn lời ông Thăng trong cuộc họp trả lời chất vấn của các đại biểu quốc hội liên quan tới luật về thanh niên.

Vị thứ trưởng cũng cho rằng đa số các trường hợp đi du học từ cấp phổ thông và đại học không về.

“Quan điểm của cá nhân tôi là cần phải có tư duy thoáng ra. Không phải không về nước là không đóng góp cho đất nước. Không phải không về nước là không yêu nước. Đây là sự cống hiến chung cho nhân loại. Có những trường hợp đưa hình ảnh Việt Nam lên rất cao, ví dụ như giáo sư Ngô Bảo Châu,” trang Vietnamnet dẫn lời.

Theo Nhóm công tác Giáo dục và Đào tạo thuộc Diễn đàn doanh nghiệp thường niên (VBF) 2015, Việt Nam hiện có hơn 110.000 học sinh du học với mức học phí từ 30.000 đến 40.000 USD mỗi năm. Như vậy, người Việt mỗi năm chi gần 3 tỷ USD cho việc du học.

Số lượng sinh viên Việt Nam theo học tại Mỹ cũng lên tới 16.500 người, đứng đầu các nước Đông Nam Á và thứ 8 trên thế giới.

‘Giấc mơ Mỹ

Theo phân tích năm 2013 của tổ chức ICEF Monitor – chuyên theo dõi ngành công nghiệp giáo dục quốc tế, “phụ huynh Việt Nam tiêu một khoản tiền khổng lồ cho con đi học nước ngoài, so với tỉ lệ thu nhập bình quân đầu người. Tóm gọn trong một câu, giáo dục là quan trọng và cha mẹ đang đặt tiền của họ vào nơi mà họ ưu tiên và cho là có giá trị.”

Trang ICEF Monitor cũng phân tích, tuy vào năm 2012, Úc là nơi có đông du học sinh người Việt nhất, nhưng học sinh, sinh viên Việt Nam vẫn mang theo ‘giấc mơ Mỹ’.

“Sinh viên Việt Nam đánh giá học cao học ở Hoa Kỳ là “tốt nhất thế giới” và “là ưu tiên đáng được đầu tư tài chính lớn”.

ICEF Monitor giải thích lý do học sinh Việt Nam chọn ra nước ngoài dù tốn kém, có đoạn viết về tỷ lệ thấp đối với số lượng đăng ký học cao học ở Việt Nam:

“…Cũng giống như nhiều phương diện khác của xã hội Việt Nam, đang diễn ra cuộc chạy đua điên cuồng nhằm bù lại thời gian đã mất, tranh thủ rất nhiều cơ hội mới, và đáp lại nhu cầu ngày càng lớn đối về giáo dục và đào tạo – mà không có được cơ sở hạ tầng cần thiết hay kiểm soát chất lượng.

“Không mấy ngạc nhiên, kết quả cuối cùng là “thiếu sót trong cơ sở hạ tầng và giảng dạy”, là một trong những lý do khiến lượng đăng ký dừng lại.”

GIA ĐÌNH THÁNH GIA MẪU GƯƠNG NGỜI SÁNG

GIA ĐÌNH THÁNH GIA MẪU GƯƠNG NGỜI SÁNG

 Tuyết Mai

Nhìn vào gương của gia đình Thánh Gia chúng ta thấy có ba tấm gương rất mẫu mực ai cũng cần phải bắt chước và noi theo.   Trước tiên chúng phải nói đến Đức Mẹ Maria là người mẹ trần gian tuyệt hảo nhất do Thiên Chúa tuyển chọn trong muôn vạn người nữ dưới trần mới có một.   Mẹ hiền lành, trong trắng, kiều diễm và đôn hậu do đó mà Mẹ thật xứng đáng để được làm Mẹ Chúa Con Giêsu, ngài phải được sinh hạ nơi Trần Gian này.   Để chương trình Cứu Chuộc của Chúa phải được hình thành và chu tất.

Kế đến là người gia trưởng thật xứng đáng để làm dưỡng phụ của Chúa Con Giêsu là thánh cả Giuse mà cũng được Thiên Chúa tuyển chọn trong muôn vạn người nam thì ngài là tuyệt hảo nhất và đã sống hiến dâng cùng đời sống khiết trinh trọn đời cho Thiên Chúa.   Nhưng ngài cũng giống như Đức Trinh Nữ Maria là Xin Vâng trong sự sắp xếp của Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.

Sự kết hợp tuyệt mỹ và tuyệt hảo này đã cho chúng ta một gia đình  Thánh Gia rất gương mẫu và rất thánh vì các ngài sống cuộc sống rất thánh thiện và rất kính sợ Thiên Chúa.   Gia trưởng Giuse của chúng ta thật là mẫu người ít nói nhưng làm nhiều.   Luôn chu toàn trách nhiệm và bổn phận đối với người bạn đời của mình và Con trẻ Giêsu.   Thì làm gì lại có cảnh bạo hành trong gia đình, thưa có phải?.

Thưa kiện toàn ở chỗ là gia đình Thánh Gia là một gia đình tương đối nghèo chớ không được trung lưu trong một xã hội mà danh vọng tiền tài nó cho mọi người cái địa vị cao thấp, suốt từ trước tới nay vẫn không thay đổi.   Ngài Giuse được Thiên Chúa ban cho được cái nghề hèn mọn là nghề thợ mộc chỉ sống đủ nuôi cho gia đình.   Ngài hẳn luôn có giờ cầu nguyện cùng Thiên Chúa và giúp người nghèo khổ ở những giờ rảnh rỗi của ngài.

Trong khi Chúa Con Giêsu được cha mẹ nuôi chăm nom, săn sóc, dạy dỗ và một mực yêu thương nên ngài cũng chóng lớn và ngày một thông minh ra.   Nhìn vào gương của gia đình Thánh Gia chúng ta học được những điều gì? Có phải kính sợ Thiên Chúa, giữ 10 Điều Răn là điều tiên quyết mà hằng ngày chúng ta cần phải làm và thứ hai là sống trong yêu thương, hy sinh và tha thứ?.

Vì nếu chúng ta thật sự yêu thương nhau như gia đình Thánh Gia thì cần đòi hỏi có sự thông cảm, quan tâm, chịu đựng, hy sinh và tha thứ cho nhau mà người trong gia đình cần phải có.   Quan trọng nữa là chúng ta cần phải dành nhiều thời giờ để cầu nguyện để xin Thiên Chúa biến đổi tâm tánh không được tốt đẹp của chúng ta ngày càng nên tốt lành hơn để sống xứng đáng với chức vụ của mình trong gia đình.   Để cha mẹ hiểu được mà làm gương cho con cái chúng noi theo ngay từ khi chúng chưa biết gì.

Ước ao tất cả mọi gia đình đều học hỏi theo gia đình Thánh Gia là những vai trò làm cha, làm mẹ và làm con cái trong nhà để chúng ta xứng đáng làm con cái Chúa.   Để từng gia đình một tiến dâng lên cho Thiên Chúa hằng ngày những của lễ “hy sinh” mà chúng ta trong gia đình có cố gắng chịu đựng lẫn nhau để Thiên Chúa Người vui vẻ nhận và chúc phúc cho tất cả chúng ta hôm nay và cho đến muôn đời sau.   Amen.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

26 tháng 12, 2015

Chế độ Hà Nội sợ các trang mạng ‘độc hại’

Chế độ Hà Nội sợ các trang mạng ‘độc hại’
Nguoi-viet.com
HÀ NỘI (NV) – Dù nỗ lực ngăn chặn, số trang mạng “lề trái,” mà chế độ Hà Nội gọi là “độc hại,” xuất hiện nhiều gấp hàng chục lần cái bị dẹp, làm điên đầu chế độ Hà Nội nhằm giữ quyền lực thông tin tuyên truyền một chiều.

Một số báo chính thống của đảng và nhà nước CSVN. (Hình: Internet)

“Cứ chặn một trang thì 10-20 trang khác lây lan, với giọng điệu ngày càng phản động. Đó là sự câu kết giữa trong và ngoài, giữa những người bất mãn, bất đồng chính kiến với những kẻ muốn xóa bỏ CNXH, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, làm cho tình hình đã phức tạp lại càng phức tạp,” ông thứ trưởng Bộ Thông Tin Truyền Thông của CSVN là Trương Minh Tuấn “thẳng thắn chỉ ra” tại “hội nghị tổng kết công tác 2015, triển khai kế hoạch 2016 của Bộ TT&TT” hôm Thứ Hai 28 tháng 12, 2015.

Cuộc họp này quy tụ những kẻ cầm đầu guồng máy kiểm soát thông tin tuyên truyền chính thống của chế độ Hà Nội nằm trong “khối thông tin” gồm Cục Báo Chí, Phát Thanh – Truyền Hình và Thông Tin Điện Tử, Thông Tin Đối Ngoại và vụ Thông Tin Cơ Sở của bộ nói trên, mà ông Tuấn kêu rằng “có nhiều thách thức đối với công tác quản lý báo chí, quản lý thông tin.”

Trong cuộc họp, ông Trương Minh Tuấn kêu rằng, “Chưa có năm nào mà hoạt động chống phá được tăng cường như năm 2015. Tác động từ bên ngoài đến nước ta cũng rất nhiều, có mặt lợi, có hạn chế và cả những nguy cơ tiềm ẩn.”

Ông này kêu rằng, “Nếu năm 2014-2015, ta chỉ phải chặn một số trang mạng xấu, độc hại, như chân dung quyền lực, dân làm báo, quan làm báo…, thì giờ đã có thêm hàng trăm trang như vậy. Cứ chặn một trang thì 10-20 trang khác lây lan, với giọng điệu ngày càng phản động…”

Khi chưa có hệ thống Internet toàn cầu, nhà cầm quyền CSVN độc quyền thông tin trên báo giấy, qua các đài truyền thanh và truyền hình. Người dân không thể kiểm chứng những thông tin đó đúng hay sai, thật hay giả được bao nhiêu phần. Kẻ cung cấp thông tin tha hồ vo tròn bóp béo. Nhưng càng ngày, sự phát triển của Internet và sự tiếp cận thông tin đa chiều của người dân tại Việt Nam càng ngày càng phổ biến, chế độ Hà Nội không còn giữ được thế độc quyền thông tin nữa.

Ông Hoàng Hữu Lượng, cục trưởng Cục (kiểm soát) báo chí của nhà cầm quyền CSVN dịp này cũng nhìn nhận rằng, “Cuộc cạnh tranh thông tin giữa báo chí với mạng xã hội cũng ngày càng trở lên quyết liệt. Báo chí (chính thống của nhà nước) không còn độc quyền về thông tin, người đọc có thể tiếp nhận thông tin từ rất nhiều nguồn mà không quan tâm nhiều đến tính chính thống, bài bản…”

Người dân tìm đến các trang mạng xã hội, thông tin trên Facebook, hơn là đọc tin từ các cơ quan truyền thông của nhà nước cung cấp dẫn đến hệ quả, “Người đọc giảm dẫn đến quảng cáo, phát hành của các cơ quan báo chí giảm. Các báo nhận ngân sách cũng đang khó khăn,” ông Lượng cho biết.

Theo lời ông Hoàng Hữu Lượng, vì độc giả tẩy chay báo chí chính thống của chế độ chỉ cung cấp thông tin một chiều, che đậy sự thật nên “các cơ quan báo chí, trong đó có cả báo in, báo trực tuyến và phát thanh truyền hình (chính thống) đó là tình trạng nợ lương, nợ nhuận bút, nợ nhà in đang xảy ra ở nhiều cơ quan báo chí.”

Để câu thêm độc giả, rất nhiều báo chính thống của chế độ đã khai thác các thứ tin tức, hình ảnh “cướp, giết, hiếp” rất tận tình, đặc biệt là các câu chuyện, hình ảnh kích thích tình dục.

Theo nhận xét của một độc giả ở Sài Gòn gửi cho đài BBC hồi năm ngoái, chỉ riêng về ngôn ngữ báo chí thì “Ngôn ngữ của báo mạng dần giống như truyện kiếm hiệp Kim Dung với “đuổi giết” thành “truy sát,” “cô gái,” “người đàn bà” nay thành “thiếu nữ,” “thiếu phụ,” “góa phụ,” con nhà giàu có giờ trở thành “thiếu gia,” “tiểu thư,” thậm chí nhiều báo còn dùng “nữ tiểu thư” (chắc để phân biệt với “nam tiểu thư”?) Ngoài “cưỡng dâm,” giờ đây người ta còn viết “cưỡng hôn,” ý nói hôn người khác mà không được cho phép.”

Theo Bộ Thông Tin-Truyền Thông Việt Nam, tính đến ngày 26 tháng 12, 2013, trên cả nước có 838 cơ quan báo in với 1,111 ấn phẩm, 70 báo điện tử, 19 tạp chí điện tử và 265 trang thông tin điện tử tổng hợp của các cơ quan báo chí. Trong số hơn 800 tờ báo, số báo sống được nhờ lượng phát hành chỉ trên dưới 10 tờ, theo một số nhà báo trong nước.

Thỉnh thoảng, người ta thấy một vài tờ báo bị phạt tiền vì thông tin sai, một vài ký giả bị thu hồi thẻ nhà báo vì “đăng tin, bài có nội dung không phù hợp thuần phong mỹ tục Việt Nam và đăng tải tin, bài có nội dung mê tín, dị đoan” hay “tin, bài sử dụng câu từ phản cảm.” Nhưng những tin tuyên truyền vu khống những người tham gia đòi hỏi dân chủ, nhân quyền khi bị khiếu nại thì không bao giờ đăng tải và cũng không bao giờ bị phạt.

Ông Kim Quốc Hoa, tổng biên tập tờ Người Cao Tuổi, đã bị khởi tố hồi tháng 5, 2015, tờ báo bị đình bản chỉ vì tờ báo đăng tải rất nhiều bài viết vạch lưng tham nhũng trong guồng máy công quyền và đảng. Ông đã bị khởi tố theo điều 258 Bộ Luật Hình Sự “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà Nước…”

Hiện nay, luật báo chí sửa đổi đang được chế độ Hà Nội chuẩn bị cho thông qua vào kỳ họp cuối cùng của khóa họp Quốc Hội năm tới nhưng vẫn giữ độc quyền báo chí và không cho tư nhân làm báo. Làm sao chế độ Hà Nội có thể “lấy thúng úp voi” vẫn là dấu hỏi. (TN)

“Càn khôn bĩ rồi lại thái / Nhật nguyệt hối rồi lại minh” (Mênh mông thế sự 24)

“Càn khôn bĩ rồi lại thái / Nhật nguyệt hối rồi lại minh” (Mênh mông thế sự 24)

Tương Lai

Đó là quy luật vận động của thế giới, thế giới tự nhiên, thế giới con người mà Nguyễn Trãi đã vận dụng nhằm khẳng định bản lĩnh dân tộc trước những thách đố nghiệt ngã với niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của con người Việt Nam.

Càn Khôn là hai quẻ trong Kinh Dịch. cũng vậy, chỉ sự bế tắc, còn Thái là quẻ thứ 11, chỉ sự hanh thông. Từ điển Nho Phật Đạo do NXB Văn học ấn hành năm 2001 thì giải thích thêm: “quốc gia tốt đẹp hanh thông là nhờ vào sự hài hoà của vua tôi trăm họ” (tr.1317) sau khi đưa ra kiến giải “do Càn Khôn đại biểu cho hai lực lượng, tính chất, tác dụng và sự vật đối lập trong vũ trụ, vì vậy ý nghĩa tượng trưng của chúng là rất phong phú, vừa tượng trưng cho trời đất, vừa tượng trưng cho sự vật đối lập và thống nhất… cho nên nó thường được để gọi thay cho “thế giới”” (tr.141).

Nguyễn Trãi dẫn ra quy luật này để kết thúc cho áng “kim cổ hùng vănBình Ngô đại cáo viết năm 1428 sau khi đánh tan quân xâm lược nhà Minh để “Xa gần bá cáo, Ai nấy đều hay”. Nhắc lại quy luật chung muôn đời, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi không quên trang trọng nói đến truyền thống dân tộc được hun đúc từ khí thiêng sông núi mà ông cha ta bao đời gìn giữ: “Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu. Muôn thuở nền thái bình vững chắc. Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ”.

Mời gọi đến anh linh Nguyễn Trãi vào lúc này chính là viện dẫn đến những trang hào hùng và bi thương của lịch sử dân tộc mà ông là một chứng nhân sống động nhất để một lần nữa xác lập điểm quy chiếu trong đoán định chính tà, đạo đức và tài năng, những giá trị cốt lõi trong hệ thống giá trị đang bị xáo trộn và băng hoại. Điểm quy chiếu ấy không thể là gì khác lòng yêu nước, tinh thần quật khởi chống ngoại xâm, một hằng số của lịch sử Việt Nam. Đó là nhân tố tiên quyết và cũng là chỗ đến cuối cùng để nhìn nhận, đánh giá con người.

Điểm quy chiếu đó là gì nếu không phải là ý chí và cách ứng xử trước kẻ thù xâm lược để bảo vệ mảnh đất thiêng liêng được gọi là tổ quốc do ông cha bao đời gây dựng và bảo vệ. Điểm ứng xử đó là đặt tổ quốc lên trên hết và trước hết. Đức tài, chính tà, trung thành hay phản bội đều phải lấy đó làm điểm quy chiếu. Muốn vậy, phải đập vỡ bức tường của sự dối trá và lừa mị mà chúng ta đã tự nguyện xây nên để rồi tự giam cầm chính chúng ta trong sự lừa mị và dối trá đó. Đây là chuyện không hề đơn giản, nhưng nếu không có một bước chuyển động mang tính đột phá thì sẽ không có được bước thứ hai. Càng khó khăn bội phần khi đất nước ta ở vào cái vị thế địa-chính trị oái oăm, nằm sát nước láng giềng khổng lồ mà tất thảy mọi triều đại cai trị của nước khổng lồ này luôn nuôi mộng bành trướng, đồng hoá để biến các nước nhỏ láng giềng trở thành chư hầu. Tiến trình thực hiện tham vọng bành trướng này được biến hoá theo tình hình và tương quan lực lượng, song tính nhất quán của mưu đồ xâm lược và bành trướng thì không bao giờ thay đổi và ngày càng hung hăng hơn khi thế lực bành trướng được phình to ra. Càng nguy hiểm hơn khi chúng lại biết cách dùng thủ đoạn lừa mị, đưa ra cái chiêu bài “cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa” để mua chuộc một nhúm những kẻ dám đặt Đảng lên trên Tổ quốc, đặt Hiến pháp dưới Cương lĩnh của Đảng. Chưa bao giờ mà nguy cơ trở thành chư hầu lại lửng lơ treo trên đầu dân tộc ta rõ như lúc này. Chính vì thế, phải tìm về với lịch sử, với truyền thống ông cha để khẳng định một cách thế sống, một lối ứng xử minh bạch và sòng phẳng với lương tâm, lương tri để không hổ thẹn với ông cha, hổ thẹn với thế giới.

Không phải là ngẫu nhiên mà khí phách của Trần Bình Trọng lại được cả dân tộc sùng kính và noi gương. “Ta thà làm ma nước Nam, không thèm làm vương đất Bắc” chính là sản phẩm của ý chí quật cường của dân tộc nhỏ bé ở phuơng Nam mà các triều đại Trung Hoa xách mé gọi là “Nam Man”. Chúng tự cho là nước “đứng giữa thiên hạ”, bốn chung quanh đều là (Đông) Di, (Tây) Địch, (Bắc) Nhung, (Nam) Man. Theo nhà nghiên cứu Dương Danh Dy thì trong bốn chữ Hán: Di, Địch, Nhung, Man nói trên, có tới 3 chữ có bộ thú, chỉ thú vật ở bên cạnh. Láo xược đến thế là cùng! Ấy vậy mà chính cái nước “nằm giữa thiên hạ” này đã từng bị thống trị bởi những chư hầu mà chúng đè đầu cưỡi cổ. Triều đại nhà Thanh, triều đại phong kiến cuối cùng của Trung Quốc, là một trong những ví dụ về nỗi nhục khó rửa của bành trướng Đại Hán.

Cũng cần phải nói thêm rằng, mối quan hệ giao hảo giữa các triều đại phong kiến Việt Nam với “thiên triều” luôn nằm trong thế bị chèn ép, ức hiếp từ nước lớn, chỉ tương đối dễ thở hơn tí chút là vào thời nhà Lý sau chiến thắng của Lý Thường Kiệt thế kỷ XI. Ấy là lúc Lý Thường Kiệt chủ trương “ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc” đập tan hậu cứ an toàn của chúng ở châu Ung, châu Khâm, châu Liêm sau 42 ngày vây hãm thành Ung Châu rồi rút quân về. Phạt Tống lộ bố văn được niêm yết khắp nơi, đẩy kẻ thù vào thế bị động, tạo ra thế chủ động phòng ngự của quân dân ta để rồi phản công tiêu diệt 50 vạn quân xâm lược nhà Tống.

Nói điều này là để hiểu thêm bản chất xâm lược của chủ nghĩa bành trướng Trung Hoa và bản lĩnh của ông cha chúng ta trong trường kỳ lịch sử lúc nhu lúc cương trong việc xử lý mối quan hệ với nước láng giềng luôn toan tính âm mưu bành trướng. Nhưng nhu hay cương đều phải thực hiện trên cái nền vững chắc của truyền thống bất khuất quật cường, dám vì tổ quốc mà hy sinh, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Cái chết bi hùng của Trần Bình Trọng là biểu tượng sống động của tâm thế Việt Nam trong vị thế địa-chính trị oái oăm là vì ý nghĩa ấy. Không khẳng định cái tâm thế đó, không sao có đủ dũng khí và trí tuệ để tính đến chiến lược chiến thuật nhu hay cương, đánh hay đàm hoặc vừa đánh vừa đàm nhằm vận dụng nhuần nhuyễn phương châm “dùng yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều” xuyên suốt lịch sử Việt Nam, trở thành một điểm sáng trong học thuyết quân sự của ông cha truyền lại.

Cần nhớ rằng vào thời của Trần Bình Trọng ở thế kỷ XIII, dân số nước ta chưa đến 7 triệu người, (có sách nói là khoảng 3 hoặc 4 triệu), phải chống lại một kẻ thù xâm lược mà vó ngựa của chúng đã xéo nát bao thành trì từ Á sang Âu cho đến tận Hắc Hải. Nhà thơ đương thời người Armenia (1210-1290) V. Frik từng viết: “Không còn một dòng suối, một con sông nào không tràn đầy nước mắt chúng ta. Không còn một ngọn núi, một cánh đồng nào không bị quân Tartar giày xéo” (dẫn theo Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm, Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên-Mông thế kỷ XIII, nxb Khoa hộc Xã hội, Hà Nội, 1972, tr. 38). Đế quốc Nguyên Mông vào thế kỷ XIII-XIV chiếm một vùng lãnh thổ rộng lớn nhất trong lịch sử thế giới từ Đông Á sang đến Hắc Hải. Bóng đen Mông Cổ là nỗi ám ảnh khủng khiếp với châu Âu lúc bấy giờ. Vậy mà chúng dốc toàn lực quyết chinh phục cái nước nhỏ bé ở phương Nam này để mở đường xuống Đông Nam Á. Tổng cộng ba đợt xuất quân, đế quốc Nguyên-Mông huy động từ 60 vạn tới một triệu lượt quân, trong khi dân số Đại Việt khi ấy thì như vừa nói.

Thử hỏi nếu lúc ấy, thay vì khí phách Trần Bình Trọng, mà lại lởn vởn trong đầu những người nắm giữ vận mệnh quốc gia cái khẩu khí Nguyễn Phú Trọng ở thế kỷ XXI này: “Nếu để xảy ra đụng độ gì thì tình hình bây giờ bất ổn thế nào, chúng ta có ngồi đây mà bàn việc tổ chức đại hội Đảng được không” thì liệu có ai khắc hai chữ “Sát Thát” trên cánh tay, tạo nên cái hào khí “Đông A” của thời Trần, nhân tố quyết định chiến thắng kẻ thù, mở ra trang sử vẻ vang nhất trong lịch sử dân tộc ta?

Khẩu khí của Trọng bộc lộ khá rõ cái tầm tư duy cũng như trí tuệ, bản lĩnh của ông ta, điều này không gây ngạc nhiên mà chỉ là sự chán ngán quen thuộc ngày càng đậm đặc. Với một thái độ khiếp nhược được nuôi dưỡng trong cái tâm thế chư hầu hèn mọn sợ “xảy ra đụng độ”, thì không những chỉ “bất ổn thế nào”, chẳng những không còn chỗ để “ngồi đây bàn việc tổ chức đại hội Đảng”, mà cái đầu của cả lũ đã mọc đuôi sam để chỉ còn lựa cách ứng xử như Thượng vị Văn Chiêu hầu Trần Lộng, Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc, hoặc thái uý Trần Nhật Hiệu, em ruột vua! Toàn các đại thần đầy ắp ơn vua lộc nước thời buổi ấy chắc không kém “tiêu chuẩn” của các vị cao cấp mấy đâu. Vậy mà nếu so sánh với bây giờ thì e rằng Nguyễn Phú Trọng còn được điểm cao hơn Thái uý Trần Nhật Hiệu em ruột nhà vua thế kỷ XIII cũng nên: Thì đó, khiếp sợ sức mạnh kẻ thù, nhằm tránh “đụng độ” với quân Nguyên, Hiệu đã hèn nhát đưa ra diệu kế “nhập Tống”! Thật nhục nhã cho cái khẩu khí “đụng độ” này!

Có lẽ phải nhắc lại đây một câu của thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược của Bộ Công an tại cuộc toạ đàm ngày 24/11/2012 được ghi lại trong cuốn sách của Nguyễn Mạnh Can – nguyên Phó Ban Tổ chức Trung ương Đảng và nay là Chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu Môi trường Văn hoá mới – vừa gửi rộng rãi cho lãnh đạo và những người quan tâm đến thời cuộc: “Ngày xưa hầu hết thất bại của Việt Nam trước xâm lược phía Bắc đều xảy ra trong thời bình, do lãnh đạo yếu hèn và cấp cao có nội gián”. Cũng trong cuốn sách ấy đã ghi lại lời của ông Nguyễn Văn An: “Các ý kiến tâm huyết ở đây, tôi đã trao đổi đầy đủ. Ngoài ra, tôi đã phản ánh với đồng chí lãnh đạo nhiều người dân nói: Trong các đồng chí, có người “PHÁ NƯỚC” có người “BÁN NƯỚC””.

Vấn đề đặt ra tuy hết sức nghiêm trọng song cũng không phải là cái gì quá khó hiểu, mà vốn là “Kê chư vãng cổ, Quyết hữu minh trưng” (Việc xưa xem xét, Chứng cớ còn ghi) như Nguyễn Trãi đã chỉ ra trong Bình Ngô đại cáo. Lịch sử không quá hiếm những “nội gián”, những người “phá nước” và những kẻ “bán nước”. Viện dẫn đến Nguyễn Trãi trong bối cảnh hiện nay là muốn gợi lên những nét tương đồng giữa xưa và nay đang hoà quyện vào đời sống đương đại. Một quá khứ gần đang hối hả giục giã những suy nghiệm và một quá khứ xa đang đánh thức những bài học lịch sử.

Trần Quốc Vượng – nhà sử học đáng kính – đã có một nhận định sâu sắc mang ý nghĩa gợi mở cho những gì đang diễn ra hôm nay: “Nguyễn Trãi tắm mình trong một bầu khí văn hoá, ở đó đang diễn tiến cuộc đấu tranh gay gắt giữa TRUYỀN THỐNG và ĐỔI MỚI, cuộc đấu tranh giữa xu hướng Trung Quốc hoá với xu hướng giải Trung Quốc hoá trong nội bộ các thế lực cầm quyền và giới trí thức văn hoá Đại Việt. Hai mươi năm Minh thuộc, với chủ trương và âm mưu tái Trung Quốc hoá nền văn hoá Việt của bọn giặc Minh, càng làm gay gắt thêm, phức tạp thêm cuộc đấu tranh nhằm xây dựng một nền văn hoá Việt Nam, một lối sống Việt Nam. Nguyễn Trãi đã dấn thân hết mình vào các cuộc đấu tranh chính trị, văn hoá, xã hội này; và tiếc thay, ông đã ra khỏi cuộc đời này một cách bi thảm” (Văn hoá Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm, nxb Văn Học, 2001, tr. 728).

Gần 600 năm đã trôi qua, cuộc đấu tranh không khoan nhượng của Nguyễn Trãi, cũng là cuộc đấu tranh giữa những trí thức tiên phong – tinh hoa của trí tuệ và bản lĩnh dân tộc – với một bộ phận các thế lực cầm quyền xa rời dân, nhất là trong buổi mạt kỳ, chưa bao giờ ngưng nghỉ vì âm mưu đồng hoá của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán chưa bao giờ buông tha. Nguyễn Trãi là danh nhân văn hoá của thế giới vì ông là tượng trưng cao cả nhất, đẹp đẽ nhất cho lòng yêu nước, cho trí tuệ và bản lĩnh dân tộc. Với ông, “coi công việc của quốc gia làm công việc của mình, lấy điều lo của sinh dân làm điều lo thiết kỷ” là nỗi niềm đau đáu (Chiếu cấm các đại thần tổng quản cùng các quan ở Viện, Sảnh, Cục tham lam lười biếng). Tâm niệm của ông là:

Bui có một niềm trung hiếu cũ,

Chẳng nằm thức dậy nẻo ba canh

(Bảo kính cảnh giới, số 158)

Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược

Có nhân, có trí, có anh hùng

(Bảo kính cảnh giới, số 132)

Trong bối cảnh phức tạp của cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa bành trướng Đại Hán đang trực tiếp uy hiếp lẽ tồn vong của đất nước gắn liền với cuộc đấu tranh chống thế lực phản dân chủ cố tình quay lưng lại với tiến trình dân chủ hoá – khát vọng mãnh liệt của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là của trí thức và thế hệ trẻ – thì điểm quy chiếu ấy lại càng phải rạch ròi, minh bạch. Yêu nước, chống Trung Quốc xâm lược gắn làm một với ý chí đấu tranh thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình dân chủ hoá vì độc tài toàn trị phản dân chủ được kẻ xâm lược nuôi dưỡng để làm chỗ dựa cho toan tính của chúng. Có thể nói trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, chưa bao giờ cái xu hướng giải Trung Quốc hoá lại vấp phải một chướng ngại vật lớn và phức tạp như hôm nay! Mà “lớn” và “phức tạp” là vì nó được chính thống hoá bằng Cương lĩnh, đặt lên trên cả Hiến pháp, được áp đặt bởi một bộ máy tuyên truyền khổng lồ cộng với sự hậu thuẫn của một bộ máy bạo lực cũng khổng lồ không kém.

Chướng ngại vật đó là cái “ý thức hệ xã hội chủ nghĩa”. Nguy hiểm và phức tạp hơn còn là vì cái “ý thức hệ” đã bị phá sản ấy lại được hà hơi tiếp sức bởi “người đồng chí láng giềng cùng chung ý thức hệ”. Kẻ xâm lược khoác bộ cánh “cùng chung ý thức hệ” ấy vừa thông qua những thủ đoạn lừa mị, mê hoặc những người kém hiểu biết và thiếu thông tin, vừa tác động trực tiếp vào thế lực đang giữ trọng trách trong bộ máy quyền lực, lung lạc nhúm người này bằng uy hiếp và mua chuộc. Thì ra, món võ Tàu cổ truyền xưa kia ừng uy hiếp, lung lạc những thân vương quý tộc đời Trần như những Thượng vị Văn Chiêu hầu, Chiêu Quốc vương, Thái uý em ruột vua …như vừa dẫn ra ở trên, thì nay đang tìm về những đối tượng hiện đại hơn trong danh xưng của “những đồng chí kiên định lập trường xã hội chủ nghĩa cùng chung ý thức hệ Mác-Lênin” đang chễm chệ trên những cái ghế quyền lực cao ngất ngưởng.

Xưa kia, trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã mắng “thằng nhãi con Tuyên Đức” (tức là vua nhà Minh): “Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ. Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan. Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác. Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian. Liệu hôm nay, những lời mắng mỏ ấy Nguyễn Trãi nên dành cho ai đây? Câu trả lời xin nhường cho công chúng. Họ đang là chứng nhân của những rối ren, xáo trộn trong thế cuộc rối bời phơi bày trước mắt.

Dành cho ai, là ai thì sự sòng phẳng của lịch sử sẽ điểm mặt chỉ tên. Mà trước khi chờ sự phán xét của lịch sử thì công luận cũng đã đưa ra những thẩm bình căn cứ vào điểm quy chiếu vừa đơn giản vừa rạch ròi: nhận thức và hành động trước kẻ xâm lược “Ngẫm thù lớn há đội trời chung . Căm giặc nước thề không cùng sống” như Nguyễn Trãi đã khẳng định trong Bình Ngô đại cáo. Những ai là “nội gián”, những kẻ nào là “phá nước”, những tên nào là “bán nước” mà cuốn sách do Nguyễn Mạnh Can chủ biên đã thẳng thắn chỉ ra cũng phải được thẩm định bằng điểm quy chiếu ấy. Đây không là điều gì phức tạp và khó hiểu. Đây là sự đúc kết nghiêm cẩn của lịch sử trong việc nhìn nhận, đánh giá nhân vật lịch sử.

Không có một nhân vật lịch sử nào là toàn bích, thậm chí còn rất nhiều khiếm khuyết. Trần Thủ Độ là một ví dụ. Ông là một nhân vật bị các sử thần thời phong kiến chê trách nhiều. Dưới ngòi bút của họ, Trần Thủ Độ hiện ra như một quyền thần vô học, có tài mà không có đức, có công với nhà Trần, lại có tội với nhà Lý. Thế nhưng bằng những thử thách của thời gian lớp mây mù phủ lên tên tuổi và sự nghiệp của vị khai quốc công thần ấy đã tan dần. Cái gọi là “có tội với nhà Lý” thì sự sáng suốt của lịch sử đã ghi công cho người đã biết khôn khéo thực hiện cuộc chuyển giao quyền lực một cách êm thấm từ một vương triều đã suy vong đang một chướng ngại cho sự tiến hoá của đất nuớc sang một triều đại mới đủ sức đương đầu với những thách đố ghê gớm ở bên trong cũng như từ bên ngoài mà không lâm vào cảnh đầu rơi máu chảy của muôn dân. Không có một bản lĩnh phi thường, một quyết đoạn sáng suốt, không thể thực thi một sứ mệnh lịch sử khó khăn như thế. Vì vậy, trong cái nhìn công minh và soòng phẳng của lịch sử, Trần Thủ Độ xứng đáng được xếp vào hàng những nhân vật kiệt xuất, đi đầu trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước trong lịch sử dân tộc. Câu nói của ông “đầu thần chưa rơi xin bệ hạ đừng lo” mãi ngời sáng trong tâm thế Việt Nam. Chính vì vậy, nhân dân tôn thờ ông. Trong đền thờ ông trên đồi Lim (Tiên Sơn, Hà Bắc) có treo hai câu đối nói lên sự thẩm định công minh và song phẳng ấy:

Công đáo vu kim, bất đán Trần gia nhị bách tải.

Luận định thiên cổ, kỳ tại Nam thiên đệ nhất lưu.

(Công đức của ông để mãi đến ngày nay, không chỉ bó hẹp trong hai trăm năm đời nhà Trần. Sau nghìn đời, công luận đã định, ông đáng liệt vào bậc thứ nhất dưới trời Nam)

Thêm một ví dụ nữa, Lê Lợi. Sử gia Trần Quốc Vượng dẫn Đại Việt sử ký toàn thưĐại Việt thông sử viết về ông để đưa ra lời bình: “Con người Lê Lợi thật là mâu thuẫn, lượn lờ, phức tạp, đa dạng. Ông giết người ngay mà vẫn biết là họ oan. Ông theo lời bọn gian mà vẫn biết là chúng xảo. Người anh hùng khi đã già yếu thì lẫn cẫn, hay nghi rồi làm sai… đến chết người, nhưng vẫn còn giữ lại trong lòng cái Thiên Lương, cái Lương tri con người”! Phải nói thêm rằng, việc giết hại công thần thì Vương triều Lê mở đầu với Lê Thái Tổ có khi phải xếp vào đầu bảng mà Nguyễn Trãi cũng là ví dụ đau đớn nhất trong suốt chiều dài lịch sử. Thế nhưng, đánh giá một nhân vật lịch sử là phải căn cứ vào đóng góp của nhân vật ấy vào sự thúc đẩy lịch sử đi tới. Những sai lầm và khiếm khuyết của họ cần được xem là những hạn chế của điều kiện trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Chính vì vậy, nhân dân sùng kính tôn thờ Lê Lợi, đặt ông đứng cạnh Nguyễn Trãi vì ông đã cùng Nguyễn Trãi lãnh đạo cuộc kháng chiến chống xâm lược nhà Minh giành thắng lợi trọn vẹn. Không có một Lê Lợi chắc cũng khó có một Nguyễn Trãi, họ cùng đảm đương một sứ mệnh bằng ý chí, trí tuệ và bản lĩnh quyết đoán thực thi sứ mệnh ấy một cách trọn vẹn:

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn

Ta gắng trí khắc phục gian nan.

Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối

Phải chăng đây chính là điểm quy chiếu quan trọng nhất, nếu chưa phải là duy nhất, để nhìn nhận, thẩm định: ai là nhân vật đang thúc đẩy lịch sử đi tới được nhân dân ủng hộ, ai là kẻ kìm hãm bước tiến của đất nước, đi ngược lại quy luật vận động của cuộc sống, bỏ lỡ thời cơ đưa dân tộc bứt lên thoát khỏi lạc hậu và lạc điệu với thế giới, trở thành tội đồ của lịch sử, bị nhân dân phỉ nhổ.

Trong đám mây mù của sự nhiễu loạn thông tin về cuộc đấu quyền lực trước thềm Đại hội XII, hệ luỵ của một thể chế toàn trị bưng bít, che giấu sự thật, bóp nghẹt tự do tư tưởng nếu biết dựa vững vào điểm quy chiếu ấy thì “mọi trao qua đổi lại, mọi xem xét đánh giá đều vẫn rõ ràng như bày ra trước mắt, rành rọt như trỏ bàn tay vậy” (Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục).

Một khi mà sự thật đã “rõ ràng như bày ra trước mắt, rành rọt như trỏ bàn tay” thì hành động hướng đến đổi mới mạnh mẽ, đẩy nhanh tiến trình dân chủ hoá đất nước là cái thuận với quy luật, đáp ứng được đòi hỏi của dân. Ai làm được điều đó thì nhân dân đứng về họ, cổ vũ cho họ. Xu thế đó đang được đẩy tới, một xu thế không sao đảo ngược được.

Đó chính là lý do để tin chắc vào sự khẳng định của Nguyễn Trãi “Càn khôn bĩ rồi lại thái, Nhật nguyệt hối rồi lại minh.*

T. L.

Truyền thông Trung Quốc tiết lộ những bí mật đầy thống khổ của Marx những năm cuối đời

Truyền thông Trung Quốc tiết lộ những bí mật đầy thống khổ của Marx những năm cuối đời

Tác giả: Dương Nhất Phàm | Dịch giả: ĐKN

Ngày 6 tháng 6, truyền thông của Trung Quốc đại lục đã tiết lộ rằng, cha đẻ của Chủ nghĩa Cộng sản Karl Marx đã giã từ cõi thế một cách đầy đau đớn với một thân thể đầy bệnh tật và những ung nhọt. Trong hình đang chụp các công nhân Đức đang tiến hành di dời một bức tượng của Marx tại thành phố Berlin. Bức tượng này được Đảng Cộng sản Đông Đức dựng lên vào năm 1986 (Getty Images)

Dân chúng Trung Quốc đại lục ngày càng thức tỉnh. Làn sóng dẹp bỏ các chướng ngại lịch sử bắt nguồn từ Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cũng mỗi lúc một dâng cao. Giữa lúc ấy, những điều tiếng xung quanh cuộc đời Karl Marx, ông tổ chống lưng cho học thuyết Cộng sản cũng dần được phơi bày. Sự thật lịch sử đã cho thấy, bản thân Marx từng là một tín đồ Cơ Đốc giáo, cũng từng tín phụng Thần linh và Thượng đế, sau đó ông ta đã gia nhập vào Satan giáo và thờ phụng ma quỷ. Tà thuyết Cộng sản mà ông ta sáng lập là một phiên bản khác của tinh thần Satan giáo, mục đích là lôi kéo những người tôn thờ tà thuyết Cộng sản vào địa ngục, hủy diệt nhân loại. Học thuyết của Marx đã gây họa loạn cho nhân gian, mang lại những tai nạn khủng khiếp cho nhân loại, bản thân ông ta đã phải ra đi trong thân thể lở loét đầy bệnh tật.

Bản tin hiếm thấy ở Trung Quốc đại lục tiết lộ nỗi thống khổ khôn thấu của Marx trước khi qua đời

Trang Tin tức The Paper của Trung Quốc đại lục vào ngày 6 tháng 6 đã cho đăng một bài viết hiếm thấy của Triết gia người Anh Simon Critchley, trong đó có đề cập đến tình hình bệnh tật triền miên của Marx lúc cuối đời.

Bài viết nói, trong suốt thời gian dài, Marx hầu như nằm liệt trên giường bệnh, thống khổ khôn xiết. Trong thời gian viết cuốn “Tư bản luận”, ông ta luôn mắc phải vô số những căn bệnh như “chứng viêm niêm mạc trầm trọng, viêm mắt, nôn ra mật, bệnh phong thấp, bệnh đau gan cấp tính, hắt hơi, chóng mặt, ho khan, chứng ung nhọt”. Những căn bệnh này được đề cập trong các bức thư của Marx. Trong đó, “ung nhọt” đã trở thành “sự thống khổ đáng sợ”, nó còn lan khắp “thể xác tàn tạ” của ông ta trong một thời gian dài. Nghiêm trọng nhất là vùng xung quanh cơ quan sinh dục, khiến ông ta đau đớn tột cùng. Đây vẫn chưa phải là kết thúc đối với Marx, vẫn còn hai chứng bệnh chí mạng khác: viêm màng não và ung thư phổi.

Bài viết còn nói, trong mười năm cuối đời do bệnh tật triền miên, Karl Marx phải chạy chữa khắp nơi, những mong tìm được một thầy thuốc giỏi có thể trị được những căn bệnh quái ác. Trong một khoảng thời gian dài, Marx đã lòng vòng khắp châu Úc,  Đức, Thụy Sĩ, Pháp, quần đảo Wight, quần đảo Channel, Easrbourne và Ramsgate. Nhưng số phận là một cơn mưa định mệnh đối với Marx, mây đen đuổi theo từng bước chân một, cho đến tận lúc ông dừng chân ở Monte Carlo.

Quảng cáo

Trong những năm tháng cuối cùng, con đường chính trị của Marx càng lúc càng thăng trầm, tâm tình tuột dốc, khiến cho ông không thể viết ra được một tác phẩm nghiêm túc nào.

Nhưng truyền thông đại lục cũng không dám đưa tin, con đường trở thành ma quỷ của Marx  trước khi bôn ba nơi hải ngoại là như thế nào.

Bình luận viên Lý Lâm nói, theo nguồn tin đã được công bố ở Trung Quốc đại lục, Marx trước lúc chết đã phải chịu một nỗi thống khổ tột cùng, phải chăng là vì ma tính của Marx đã phát tiết dẫn đến ông ta phải chịu báo ứng vì hành vi của mình.

Tín đồ Cơ Đốc của những năm đầu

Theo loạt bài viết được đăng trên mạng Aboluo mang tên “Con đường trở thành ma quỷ của Karl Marx”, tác giả Kim Chung đã cho biết:  trong những năm đầu, Marx vốn là một tín đồ Cơ Đốc giáo. Trong một bài viết mang tên “Tín đồ Cơ Đốc hợp nhất theo lời 15: 1 – 14 trong sách Phúc Âm Gioan: Ý nghĩa, tính tất yếu và ảnh hưởng của sự hợp nhất” Marx có viết: “Sự hợp nhất với Đấng Ki tô nằm trong sự hữu nghị thanh khiết của đời sống và sự thân mật với Ngài, trong sự thật ấy: Ngài luôn ở trước mắt và trong tâm chúng ta”.

Marx viết: “Như vậy, hợp nhất với Đấng Ki tô khiến chúng ta thăng hoa, khiến cuộc khảo nghiệm trở thành niềm an ủi, khiến tâm linh chúng ta mở phóng sự quan ái với người khác – đây không phải là thanh danh cho khát vọng hay kiêu ngạo của chúng ta, mà là vì Đấng Ki tô”.

Dường như đồng thời, Marx còn viết trong “Suy nghĩ của một thanh niên trước ngưỡng cửa nghề nghiệp”: “Tôn giáo đã ban cho tôi một lý tưởng để ngưỡng vọng. Ngài đã hi sinh cho toàn thể nhân loại. Có ai dám phủ nhận điều này? Nếu như chúng ta lựa chọn nghề nghiệp nào có thể đem đến những điều tốt đẹp nhất cho nhân loại, chúng ta sẽ không phải vấp ngã đau đớn trên đường đi, bởi vì đây chính là sự hi sinh dâng hiến cho vạn vật.”

Cậu thiếu niên Karl Marx 17 tuổi vẫn là một tín đồ Cơ Đốc, cậu đã viết trong bài văn tốt nghiệp Trung học của mình: “Nếu như không có sự tín ngưỡng vào Thượng đế, không có sự nhất trí với Đấng Ki tô, nhân loại không thể nào hoàn bị những đức hạnh cao đẹp chân chính cũng như thỏa mãn sự truy cầu đối với chân lý và quang minh”.

“Chỉ có Thượng đế mới cứu vớt được chúng ta”.

Lúc Marx tốt nghiệp Trung học, trong văn bằng của cậu còn có lời phê về tri thức tôn giáo: “Tri thức về giáo lý Ki tô của anh ta là tường tận và có cơ sở tốt. Ngoài ra, anh ta còn rất am hiểu lịch sử của Giáo hội Ki tô”.

Marx bị ám ảnh bởi ma quỷ, gia nhập Satan giáo, lập chí hủy diệt thế giới

18 tuổi, chành thanh niên Karl Marx bước vào cánh cửa đại học, người thanh niên này đã gặp phải một sự việc kỳ dị, từ đó con người anh ta biến thành một kẻ phụng thờ Satan.

Sự việc quái dị này được viết trong “Oulanem” được Marx hoàn thành trong những năm tháng sinh viên. Satan giáo có một dạng nghi thức tế tự gọi là “Cuộc tụ hội đen”. Trong nghi thức này, tư tế của Satan giáo sẽ tiến hành tụng niệm lúc nửa đêm. Những ngọn nến màu đen được cắm la liệt trên bàn thờ, tư tế mặc áo trường bào, tụng niệm sách tế tự theo trình tự ngược, bao gồm cả tên các Thánh như Jesus, Thánh Maria cũng được đọc ngược. Một cây Thập tự giá được bày trí lộn ngược đầu hay bị đạp dưới chân, một Thánh khí được trộm ở nhà thờ trên có khắc tên Satan dùng để giả mạo điển lễ giao lưu. Trong “Cuộc tụ hội đen” này, một bộ Kinh Thánh sẽ bị đốt. Tất cả các thành viên ở hiện trường sẽ phát thệ phải vi phạm tất cả bảy tội lỗi trong giáo nghĩa của Thiên Chúa giáo, vĩnh viễn không làm việc tốt. Sau đó chúng tiến hành những nghi lễ dục vọng.

Bài thơ trong chương “Người diễn tấu” của vở kịch Oulanem, có một đoạn tự bạch khá kỳ dị của Marx như sau:

Âm khí địa ngục trào dâng sung mãn đầu óc của ta,

Cho đến lúc ta phát điên, tâm của ta đã hoàn toàn biến đổi.

Đã nhìn thấy lưỡi kiếm này chưa?

Vị Vương Chủ Hắc Ám đã bán nó cho ta,

Nó đã đánh vào thời gian vì ta, và ban cho ta Ấn ký,

Vũ điệu chết chóc của ta đã thêm phần mạnh mẽ.

Những câu chữ như thế này có một hàm ý đặc biệt: Trong nghi lễ hiến tế của Satan giáo, để bảo đảm sự thành công của thanh kiếm vu thuật, thanh kiếm này sẽ được ban cho người Phổ tế. Nhưng người Phổ tế phải trả một cái giá, là dùng máu trong huyết quản của mình để ký vào khế ước với quỷ dữ, sau khi người này chết, linh hồn của kẻ ấy sẽ thuộc về Satan.

Kịch bản Oulanem của Marx còn viết:

Bây giờ nó đã lấp đầy trong ta! Nó trỗi dậy trong linh hồn ta,

Rõ ràng như hơi thở, cứng cáp như xương cốt.

Đôi vai của ta đã sung mãn sức lực tuổi trẻ,

Với tư thế bạo liệt,

Ta sẽ cấu nát người – nhân loại.

Trong tăm tối, vết nứt không đáy nơi địa ngục sẽ mở ra vì ngươi…

Trong đoạn kết của vở Oulanem còn viết:

Nếu như có một thứ nuốt chửng được tất cả,

Ta sẽ nhảy vào, để hủy diệt thế giới này.

Thế giới này tại nơi ranh giới giữa ta và địa ngục, hiện ra rộng lớn vô cùng,

Ta phải dùng những bùa chú mà ta trì tụng lâu nay để đập nó tan tành.”

Marx viết trong bài thơ “Thiếu nữ xanh xao” rằng:

Bởi vậy, ta đã đánh mất thiên đường,

Ta biết rõ điều này.

Ta đây đã từng tín ngưỡng linh hồn của Thượng đế,

Giờ đây đã được định sẽ vào địa ngục.

Trong thời gian theo học tại trường đại học, Marx đã gia nhập Hội Joanna Southcott, một giáo hội chủ trì Satan giáo và đã trở thành tín đồ tại đây. Ngày 10 tháng 11 năm 1837, anh ta đã viết cho cha mình một bức thư nói rằng: “Cái lớp vỏ bên ngoài đã được thoát ra rồi, vị Thánh trên tất cả các Thánh của con đã bị đuổi đi, sẽ cần một linh thể mới bước vào cư ngụ. Một sự cuồng bạo thật sự đã chiếm lấy con, con không còn cách nào khiến linh hồn cuồng bạo này yên tĩnh được”.

Các tư liệu lịch sử đã cho thấy, Marx đã thừa nhận là từng ký Khế ước với Satan, ông ta muốn ném toàn nhân loại vào địa ngục. Marx từng tuyên xưng bằng một bài thơ nhuốm đầy màu sắc cuồng bạo và tinh thần báng bổ rằng: “Ta phải phục thù với Thượng đế”, đây chính là giáo nghĩa tối cao của Satan giáo, Marx chính là người phát ngôn cho Satan tại thế gian này.

Marx viết vở Oulanem khi vừa tròn 18 tuổi. Lúc này, câu thanh niên đã quyết định kế hoạch cho cả cuộc đời mình là “hủy diệt nhân loại”, lấy việc khiến cho thế giới rúng động, đau đớn, loạn lạc làm cơ sở nhằm xây dựng ngai vàng cho mình.

Marx và chủ nghĩa Cộng sản

Lúc hoàn thành vở Oulanem và những bài thơ ca lúc đầu (trong những bài thơ của Marx có thừa nhận việc ông ta từng ký khế ước với quỷ dữ), ông ta không những không có ý niệm gì về Chủ nghĩa Xã hội mà trái lại còn kịch liệt phản đối. Lúc đó, Marx là Tổng biên tập của Tờ báo tiếng Đức Rheinische Zeitung, tờ báo này còn “tuyệt đối không chấp nhận cho dù trên phương diện lý luận  đơn thuần về hình thức của chủ nghĩa xã hội trước đó, nói gì đến mặt thực tiễn của nó? Điều này bất kể thế nào cũng là không có khả năng…”

Moses Hess -- Bậc tiền bối của Karl Marx

Moses Hess — Bậc tiền bối đã hướng Karl Marx theo con đường chủ nghĩa cộng sản

Nhưng lúc này, Marx đã gặp được Moses Hess, con người này đóng một vai trò khá quan trọng trong cuộc đời của Marx, chính ông ta đã dẫn dắt Marx hướng theo Chủ nghĩa Cộng sản. Trong một bức thư viết cho B. Auerbasch vào năm 1841, Hess đã tôn xưng Marx là “vị Tiến sĩ Triết học đương đại vô cùng trẻ tuổi (nhiều nhất là 24 tuổi), là người vĩ đại nhất, có thể là người duy nhất sẽ khiến cho Triết học và Tôn giáo đả kích lẫn nhau”. Có thể thấy, mục tiêu đầu tiên là đả kích tôn giáo chứ không phải là thực hiện xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế, Marx thù ghét tất cả các thần linh, ngoài ra ông còn không nghe lời Thượng đế. Chủ nghĩa Cộng sản chỉ là thứ dẫn dụ giai cấp vô sản và phần tử tri thức đi thực hiện cái vòng lý tưởng của Satan mà thôi.

Một người bạn khác của Marx là Georg Jung vào năm 1841 còn viết rõ hơn, Marx muốn đuổi thần thánh ra khỏi thiên đường, lại còn muốn buộc tội Thần. Cuối cùng, Marx phủ nhận sự tồn tại của Tạo hóa. Nếu như Tạo hóa không tồn tại, như thế sẽ không có ai đặt ra giới luật gì cho chúng ta, chúng ta cũng không phải chịu trách nhiệm với bất cứ ai nữa. Marx còn tuyên ngôn xác nhận điểm này “Chủ nghĩa Cộng sản tuyệt không tuyên dương đạo đức”.

Trong thời đại của Marx, nam giới thường để râu, nhưng khác với kiểu của Marx, họ cũng không để râu dài. Ngoại hình của Marx là mang nét đặc trưng của tín đồ Hội Joanna Southcott.

Joanna Southcott là một nữ Tư tế của Tổ chức Satan giáo, bà ta tự xưng rằng mình có  thể thông linh được với ác quỷ Shiloh. Bà ta chết vào năm 1814, 60 năm sau, một người lính tên là James White đã phát triển giáo nghĩa của Joanna Southcott, khiến cho nó có hơi hướng của chủ nghĩa Cộng sản.

Marx ít khi nào công khai đàm luận về những vấn đề vũ trụ luận, nhưng chúng ta có thể tìm hiểu quan điểm của ông thông qua việc thu thập các dữ kiện từ những mối quan hệ xung quanh. Marx đã cùng với một học giả theo phái vô chính phủ người Nga mang tên Mikhail Bakunin sáng lập nên Quốc tế thứ nhất. Bakunin từng viết:

“Tôn chỉ tà ác đó, chính là sự phản kháng của Satan đối với Thần, trong sự phản kháng này, nhân loại  khắp nơi sẽ được giải phóng, đây chính là cách mạng. Câu nói để đánh dấu thân phận cho những người xã hội chủ nghĩa là ‘dựa vào danh nghĩa của vị Tôn giả đã bị đối đãi một cách sai lầm’. Satan, kẻ phản kháng vĩnh hằng, là nhà tư tưởng tự do đầu tiên và là cứu thế chủ, Satan đã giải phóng cho nhân loại từ vị trí thấp kém vô tri và vô cùng nhục nhã, trên trán người đều có đóng Ấn ký giải phóng và nhân tính, khiến cho con người biết phản kháng và ăn trọn quả tri thức”.

Bakunin không những tán tụng Lucifer, ông ta còn có một kế hoạch cách mạng cụ thể, chẳng qua, kế hoạch này chẳng phải là để giải cứu những người bần khốn đang bị bóc lột. Ông ta viết: “Trong cuộc cách mạng này, chúng ta cần phải đánh thức con quỷ trong tâm của con người, cần phải kích động những tình cảm đê hèn nhất. Sứ mệnh của chúng ta là lật đổ chứ không phải dạy bảo. Dục vọng hủy diệt cũng chính là dục vọng sáng tạo”.

Những người bạn của Marx cũng là tín đồ Satan

Proudhon, một trong những nhà tư tưởng chủ chốt trong phong trào xã hội chủ nghĩa, đồng thời là bạn của Marx, cũng là một người sùng bái Satan. Kiểu râu ria tóc tai của Proudhon cũng tương tự như Marx, Proudhon cũng viết ra những tác phẩm báng bổ Thần linh và kêu gọi Satan.

Nhà thơ trứ danh người Đức Heinrich Heine cũng là một người bạn thân với Marx, người này là một kẻ sùng bái Satan. Ông ta viết: “Tôi kêu gọi ma quỷ, lập tức nó liền đến và mang theo sự sợ hãi, tôi quan sát kỹ gương mặt của nó, nó không xấu cũng không tàn khuyết, nó là một đấng nam tử khả ái và đầy mê hoặc”. “Marx rất sùng bái con người Heinrich Heine, quan hệ giữa họ cũng rất nồng ấm và chân thành”. Vì sao Marx lại sùng bái Heine? Chắc có lẽ là vì những tư tưởng đậm màu Satan giáo sau đây của Heine:

“Tôi có một nguyện vọng … Trước cửa nhà tôi có những thân cây tuyệt đẹp, nếu có vị Thần thân ái nào đó muốn để cho tôi được hưởng niềm vui trọn vẹn, Ngài hãy ban cho tôi một niềm vui như thế này: để cho tôi nhìn thấy sáu, bảy kẻ địch của tôi bị treo cổ trên cây. Với cõi lòng ôm ấp nỗi buồn thương, sau khi họ chết, tôi sẽ khoan thứ cho họ những việc sai trái mà họ đã làm với tôi. Đúng vậy, chúng ta cần khoan thứ cho kẻ địch của chúng ta, nhưng không phải trước lúc chúng bị chết vì treo cổ”.

Đối với một người đường hoàng chính trực, có thể kết bạn với một người có loại suy nghĩ ấy được không? Nhưng xung quanh Marx toàn là những người như vậy.

Lunatcharski, một Triết gia từng đảm đương chức vụ Bộ trưởng Bộ Giáo dục Liên Xô, trong cuốn “Xã hội chủ nghĩa và Tín ngưỡng” có viết: Marx đã vứt bỏ toàn bộ những gì liên quan đến Thần, đồng thời lại đem Satan đặt ở vị trí dẫn đầu của giai cấp vô sản trong quá trình tiến hành cách mạng.

Muốn đồng ngôi với Tạo hóa

Người con gái rượu mang tên Eleanor, đã được Marx gả cho Edward Eveling. Chàng rể này đã từng có những diễn thuyết về đề tài “Sự bại hoại của Thần”. (Đây là những việc mà giáo đồ của Satan giáo làm, hoàn toàn không giống với những người theo thuyết vô thần vốn không phủ nhận sự tồn tại của Thần. Trừ những lúc lừa gạt người khác, họ tự biết rằng là Thần có tồn tại chỉ là nói xấu Thần mà thôi). Những câu thơ hồi hướng Satan sau đây sẽ cho thấy tâm thái của chàng rể:

Hướng về Ngài, tôi dám xin dâng hiến bài thơ này,

A! Satan sắp lên ngồi trên ngôi Vương Chủ trong buổi tiệc lớn!

A! Mục Sư, ta tránh khỏi Nước Thánh của mi và những lời lải nhải,

Bởi vì, Mục Sư này, Satan vĩnh viễn không ở sau ngươi.

Như gió xoáy từ đôi cánh vỗ,

Nó càn quét dân chúng, A, Satan vĩ đại!

Hãy tung hô, vì người Biện Hộ Vĩ Đại!

Đốt hương, đọc lời thề, hiến tế cho Ngài,

Ngài đã đem dấu Thánh của Mục Sư đặt dưới ngai vua!

Còn một chứng tích khác là bức thư của người con trai Edgar viết cho Marx vào ngày 21 tháng 3 năm 1854. Mở đầu bức thư là một câu nói rất sốc: “Ác quỷ thân ái của con”. Một đứa con làm sao có thể dùng những lời xàm ngôn như thế để gọi cha mình kia chứ? Chẳng qua, những giáo đồ của Satan giáo đều xưng hô với người thân mình theo kiểu như vậy. Chẳng lẽ con trai của Marx cũng đã nhập môn?

Có một sự thật quan trọng khác, người vợ của Marx vào tháng 8 năm 1844 có viết thư gửi cho ông ta, nói rằng: “Bức thư cuối cùng của Mục sư, Mục sư cao cấp cũng là người nắm giữ linh hồn, xin hãy ban sự hòa bình và an ổn cho bầy con chiên đáng thương của ông”. Trong “Tuyên ngôn Chủ nghĩa Cộng sản”, Marx biểu đạt rất rõ rằng ông ta muốn hủy diệt toàn bộ tôn giáo, nhưng vợ của ông ta trong bức thư lại gọi ông ta là Mục sư cao cấp và là Giáo chủ, là Mục sư và Giáo chủ của tôn giáo nào? Toàn bộ những bức thư ấy ở đâu? Đó là những điều chưa bao giờ được tìm hiểu trong thời gian Marx còn sống.

Trong bài thơ “Lòng cao ngạo của con người”, Marx thừa nhận, mục tiêu của ông ta không phải là cải thiện, cải tổ hoặc là đổi mới thế giới, mà là hủy diệt thế giới, vả lại còn lấy đó làm niềm vui:

Mang theo sự khinh miệt, ta ở trên bộ mặt thế giới,

Quăng khắp nơi chiếc găng tay sắt của ta,

Và nhìn vạn vật to lớn trong thế giới của người lùn đổ vỡ,

Nhưng sự sụp đổ của nó cũng không thể nào làm nguôi cơn kích động trong ta.

Thế rồi ta dạo bước như thần trong chiến thắng

Xuyên qua đống phế tích của thế giới.

Lúc lời nói của ta nhận được những sức mạnh lớn lao,

Ta cảm thấy như mình sánh ngang ngôi Tạo hóa.

Không chỉ có những câu thơ này mới thể hiện được tư tưởng Satan giáo trong đầu óc của Marx. Chúng ta không biết vì sao những người lưu giữ các bản viết tay của Marx lại bảo mật hoàn toàn tư liệu này. Trong cuốn sách “Người Cách mạng”, Albert Camus nói: “Karl Marx và Friedrich Engels có 30 tác phẩm chưa được xuất bản, nội dung những tác phẩm đó đều là sản phẩm của sự buông thả lý trí, hoàn toàn không giống với những gì mà công chúng được biết về chủ nghĩa Marx. Đọc cuốn sách này xong, tôi liền bảo thư ký của tôi viết thư đến Học viện Marx ở Moscow để tìm hiểu xem những lời của tác gia người Pháp này có thật hay không”.

“Tôi đã nhận được thư hồi đáp. Trong thư, Phó Chủ nhiệm Học viện Marx là Giáo sư M.Mtchedlov nói rằng Camus đã sai. Các tác phẩm của Marx có đến hơn 100 cuốn, trong đó có 13 cuốn đã được in ấn công khai. Ông ta đã tìm một lời biện bạch rất dở: vì Thế chiến II nổ ra nên những quyển còn lại không được xuất bản. Bức thư được viết vào năm 1980, tức 35 năm sau cuộc Thế chiến, lúc đó đến các quán bar và ngư trường còn được đầu tư những khoản vốn rất lớn.”

Cuộc sống sau khi bị quỷ nhập

Tất cả những giáo đồ bước chân theo Satan giáo đều có một cuộc sống cá nhân vô cùng hỗn loạn, Marx cũng không ngoại lệ.

Arnold Kunzli trong cuốn sách “Tâm trí của Karl Marx” có viết: hai người con gái và một con rể của Marx đều tự sát, còn có ba đứa trẻ  cũng chết vì không được nuôi dưỡng đầy đủ. Laura, người con gái của Marx, được gả cho một nhà xã hội chủ nghĩa tên Paul Lafargue, bà đã tự mình chôn cất ba cốt nhục do chính mình sinh ra sau đó tự sát với chồng. Còn một người con gái khác tên Eleanor cũng rủ chồng làm việc tương tự, sau khi bà chết, người chồng Edward vì sợ chết nên đã chùn bước.

Marx có con riêng với một người hầu gái tên Helen Demuth, sau đó ông ta đem đứa con này “phi tang” cho Engels, chính Engels đã chấp nhận sự sắp xếp trong vở hài kịch này. Marx còn nghiện rượu rất nghiêm trọng, Riazanov chủ nhiệm Học viện Marx – Engels đã thừa nhận sự thật này trong cuốn “Karl Marx, Mai, nhà tư tưởng và nhà cách mạng”.

Vẫn còn những vết loang lổ khác đã viết nên cuộc đời Marx.

Ngày 9 tháng 1 năm 1960 tờ báo Reichsruf của Đức đã đăng một tin thực: Thủ tướng Úc Raabe từng trao tặng cho nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Krushchev một bức thư viết tay của Karl Marx, nhưng ông Krushchev lại không thích bức thư này, bởi vì nó đã chứng minh rằng, Marx từng là một tay chỉ điểm cho cảnh sát Úc để kiếm tiền thưởng, ông ta đã làm gián điệp trong đội ngũ của “những người cách mạng”.

Bức thư này được phát hiện một cách ngẫu nhiên trong Thư viện Tài liệu mật. Nó đã chứng thực, Marx là một tên chỉ điểm, trong thời gian lưu vong ở London, ông ta đã cáo giác những đồng chí của mình. Mỗi một tin tức đưa đi, Marx nhận được món tiền 25 bảng Anh. Có rất nhiều những “người cách mạng” ở khắp London, Paris, Thụy Sĩ bị Marx chỉ điểm. Một trong số đó là Ruge, một người từng xem Marx như là bạn thân. Những bức thư qua lại giữa hai người rất thắm thiết cho đến khi Ruge bị chỉ điểm.

Friedrich Engels --

Friedrich Engels — Người bạn đã nuôi Marx suốt nửa đời

Marx cảm thấy bản thân không có trách nhiệm chăm sóc gia đình, tuy nhiên theo những lời nói của ông ta thì có vẻ như việc này rất dễ dàng. Ngược lại, ông ta sống là nhờ vào sự bố thí của Engels. Theo tư liệu của Học viện Marx, trong suốt cuộc đời của mình, ông đã tiêu tốn của Engels đến 6 triệu đồng Franc.

Mặc dù vậy, Marx vẫn ham muốn tài sản thừa kế của gia tộc. Lúc một người bác ruột đang vật lộn với bệnh tật tuổi già, Marx viết: “Nếu như cái mạng chó này chết rồi, vậy thì không còn cản trở gì với tôi nữa”.

Đối với những người thân thiết hơn cả người bác này, Marx cũng không có chút từ tâm. Thậm chí khi đề cập tới mẹ ruột của mình, ông ta cũng cùng một thái độ như vậy. Tháng 12 năm 1863, Marx có viết thư cho Engels với lời lẽ như vầy: “Hai tiếng trước tôi vừa nhận được một bức điện báo nói rằng mẹ của tôi đã chết rồi. Vận mệnh cần phải lấy đi một thành viên trong gia đình này. Tôi đã bước một chân vào mộ phần, trong rất nhiều tình huống, cái mà tôi cần không phải là một bà già, đó là thứ khác. Tôi cần phải tự thân đến Trier để tiếp nhận tài sản”.

Đối với cái chết của mẹ ruột, Marx đã nói những lời như vậy. Ngoài ra, vẫn còn có những chứng cớ đầy đủ hơn đã chứng minh tình hình ác liệt trong quan hệ giữa Marx và người vợ. Bà vợ đã hai lần ly thân với ông ta, nhưng sau này lại quay trở về. Lúc bà chết, Marx cũng không thèm đến dự tang lễ.

Một người luôn cần kinh phí như Marx lại tổn thất rất nhiều tiền bạc trong thị trường cổ phiếu. Thân là nhà “Kinh tế học vĩ đại” như Marx lại chỉ biết đi phá tiền.

Marx và Engels đều thuộc vào hàng ngũ phần tử tri thức, nhưng thông qua những bức thư qua lại giữa hai người, người ta chỉ thấy những lời lẽ tục tĩu hạ lưu, hoàn toàn không tương xứng với địa vị xã hội của họ. Ngoài một lô những từ ngữ dâm uế ra, người ta không tìm thấy được bất cứ câu chữ nào liên quan đến lý tưởng “xã hội chủ nghĩa”.

Sự phóng đãng trong đời tư của Marx

Vẫn còn rất nhiều tư liệu lịch sử khác cho thấy đời sống của Marx là vô cùng phóng đãng.

Cuốn sách “Marx và Satan” được xuất bản từ năm 1986 cho biết, cả đời Marx luôn bóc lột người hầu gái Helen, hoàn toàn không chi trả bất cứ một đồng lương nào, còn cưỡng bức người phụ nữ này trở thành nô lệ tình dục, sau đó bà ta có sinh cho Marx một đứa con trai, và Engels đã trở thành một con dê thế tội. Người con gái Eleanor sau khi nghe được lời trăn trối sau cùng của Engels rằng đứa con ấy chính là của Marx, tinh thần bà đã suy sụp cực độ cuối cùng dẫn đến tự sát. Ngoài ra còn có tư liệu tiết lộ, nhiều tình tiết xung quanh việc Marx tư thông với người hầu gái mang họ Demuth này. Sau khi Marx qua đời, ông ta đã được chôn cất tại Khu nghĩa trang High Gates London, một trung tâm hoạt động của Satan giáo tại Anh.

Tà thuyết Cộng sản của Marx là phiên bản hiện đại của chủ nghĩa tôn thờ Satan.

Với một linh hồn bị ám ảnh bởi Satan và đạo đức đồi bại, Marx đã vận dụng những mánh khóe, dối trá và lừa đảo để tạo nên cái gọi là lý luận chủ nghĩa Cộng sản, hướng dẫn con người tín ngưỡng nó, từ đó đạt được mục đích hủy diệt tâm linh của con người. Thực chất, học thuyết Cộng sản của Marx chính là phiên bản hiện đại của chủ nghĩa Satan, chẳng qua là khoác bên ngoài cái áo Chủ nghĩa Cộng sản để che mắt thiên hạ, nó kêu gọi con người vứt bỏ Thần thánh, bán rẻ linh hồn để đổi lấy sự phóng túng dục vọng, mục đích chính là lôi người ta xuống địa ngục.

Hơn 100 năm nay, Chủ nghĩa Cộng sản đã đem lại cho con người vô vàn những tai nạn và thống khổ, Đảng Cộng sản Trung Quốc là một tín đồ trung thành đi thực thi những chủ thuyết của Satan, đạp đổ toàn bộ nền văn minh huy hoàng sáng lạn của dân tộc Trung Hoa, dùng thuyết vô thần để hủy diệt toàn bộ tín ngưỡng, họa loạn ở đất Trung Hoa gần một trăm năm, hơn 80 triệu người Trung Quốc đã chết dưới tay chính quyền tàn bạo Trung Cộng.

Theo sách Khải Thị trong Kinh Thánh từng viết, con rồng đỏ hung hãn, tàn bạo “tên của nó là ma quỷ hay Satan, mê hoặc toàn bộ nhân loại”, ở nhân gian này chính là một ĐCSTQ thèm khát máu tanh, tôn sùng bạo lực. Con “rồng đỏ” đánh Ấn ký của nó lên con người thông qua việc “nhập Đảng, nhập Đoàn, nhập Đội”, Ấn ký của con thú này chính là tấm giấy thông hành thẳng xuống địa ngục cùng ma quỷ.

Cuối năm 2004, loạt bài xã luận “Cửu bình Cộng sản Đảng” đã vạch trần một cách sâu sắc bản chất tà ác và những tội trạng lịch sử của ĐCSTQ, dấy lên phong trào thoái Đảng sục sôi trong khắp cõi Trung Quốc đại lục, trước mắt con số người thoái đảng đã vượt qua con số 200 triệu. “Tam thoái” chính là con đường duy nhất cứu thoát linh hồn người ta khỏi phải bước xuống địa ngục cùng tà giáo Satan.

Hiện nay, ĐCSTQ đang đứng trước nguy cơ tan rã, mong rằng toàn bộ những công chúng lương thiện tại Trung Quốc sẽ nhìn rõ được bản chất thật của tà đảng, dũng cảm thoái xuất khỏi các tổ chức Đảng, Đoàn, Đội cùng nhau  chào đón một Trung Quốc tương lai không có Đảng Cộng sản.