PHÉP RỬA CỦA CHÚA GIÊSU

PHÉP RỬA CỦA CHÚA GIÊSU

(CN Thường Niên, Năm C)

Tuyết Mai

Ai cũng biết rằng Chúa Giêsu của chúng ta Ngài đâu cần Phép Rửa nhưng vì Ngài được sinh ra trong Thế Gian, mặc xác phàm nên Ngài cũng phải chịu Phép Rửa như bao người và để làm gương cho muôn người.

Người đời chúng ta thường khi nghe nói đến danh từ “rửa” thì liền nghĩ đến ngay đến sự rửa ráy cho sạch những gì dơ bẩn bám trên thân thể, quần áo, vật dụng, nhà cửa, v.v… thưa có phải? Và có phải người thường của chúng ta ai cũng thích, cũng chuộng sự sạch sẽ thơm tho nhất là vấn đề cá nhân vì ngay cả chính chúng ta cũng không chịu nổi cái mùi hôi của chính mình hay không?.

Đấy là chúng ta nói về vấn đề thân xác rất dơ bẩn và hay chết của chúng ta, sẽ đến một ngày nào đó thật bất ngờ thì nó cũng sẽ bị ra thối tha và rữa tan vào lòng đất lạnh nhưng điều đáng nói ở đây là Linh Hồn chúng ta nó sẽ sống muôn đời chẳng bao giờ chết được và tùy vào Linh Hồn ấy có luôn giữ được sạch trong hay để cho quá dơ bẩn?.

Mà nói đến một Linh Hồn sạch sẽ và một Linh Hồn dơ bẩn là như thế nào, thiết nghĩ ai trong chúng ta cũng hiểu được điều đó cả … Ấy là khi chúng ta còn sống trên cõi đời tạm bợ này đối với một Linh Hồn sạch sẽ thì nó luôn có sự yêu thương, khiêm nhường, tôn trọng người, bác ái, hy sinh và tha thứ cho nhau vô điều kiện.

Còn ngược lại những Linh Hồn luôn sống trong tham lam, kiêu ngạo, ganh tị, khinh rẻ và bạc đãi người anh em, thù ghét và gieo họa cho người thì Linh Hồn ấy hẳn rất dơ bẩn.   Như viên ngọc quý Chúa ban chúng ta lại coi thường và vứt nó vào xó nhà.   Lâu ngày chầy tháng, nó bị bụi trần chúng đóng bám đến độ nó trở thành một cục đá rất xấu xí và rất nặng nề không thể nào chùi rửa được nữa.

Ai trong chúng ta cũng đều nhận được Phép Rửa từ ở tuổi sơ sinh cho đến ở tuổi gần mãn đời cũng được Thiên Chúa yêu thương đồng đều nhưng mỗi Linh Hồn thì không đồng đều nhau là do tự ý chúng ta đã chọn cách sống tốt lành hay xấu xa tội lỗi trong suốt thời gian chúng ta còn sống trên cõi đời rất vô thường này.

Nên Phép Rửa của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta hằng năm là cố gắng sống đẹp lòng Chúa qua thanh tẩy cuộc đời và tâm hồn của mình bằng cách tìm đến Tòa Giải Tội để hòa giải cùng với Chúa ít là một năm một lần.   Giảm bớt sự sống kiêu ngạo, tham lam, gian dối, lừa lọc, và hãm hại người.   Mà tăng lòng sốt mến yêu kính Chúa hơn, yêu tha nhân hơn qua mọi việc chúng ta làm cách hy sinh để bảo đảm linh hồn của chúng ta sau khi lìa trần thì <Nó> sẽ được đích thân Thiên Chúa đón nhận và đem về Nơi có sự sống hạnh phúc muôn đời trên Thiên Đàng.

Nơi có Thiên Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ Maria, cùng toàn thể các đạo binh, các thánh và tất cả anh chị em trên Trời.   Amen.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

8 tháng 1, 2016

Thánh Thiện

Thánh Thin

Quên mình, sống trọn vẹn cho người khác
đó chính là định nghĩa đích thực của sự thánh thiện.
 

PHO THAC

Linh mục Anthony De Melo có kể câu chuyện sau: Có một linh sư Ấn giáo nổi tiếng thánh thiện, ông đã mở được nhiều trung tâm cầu nguyện và qui tụ được nhiều đệ tử. Ngày kia, có một người tìm thầy học đạo tình cờ đến trước cửa trung tâm. Con người khao khát chân lý từ bao năm nay cảm thấy như được giác ngộ khi gặp gỡ vị linh sư. Vị linh sư nói với anh:

– Trước khi nhận ngươi làm đệ tử, ta thấy cần phải thử thách ngươi về sự vâng lời. Đằng trước trung tâm có một dòng sông dày đặc cá sấu, ta muốn ngươi phải lội qua dòng sông ấy.

Không một chút do dự, người thanh niên để nguyên quần áo quăng mình xuống dòng sông. Vừa lội qua dòng sông anh vừa hô lớn “Tung hô quyền năng kỳ diệu của thầy tôi”. Như có sự hổ trợ của nhiều người và của chính vị linh sư, người thanh niên đã bơi qua dòng sông và trở về an toàn. Sự kiện này càng làm cho vị linh sư thấy mình là người thánh thiện.

Lập tức, ông cho tập trung các đệ tử trong nhà lại và trịnh trọng bước xuống dòng sông, vừa công khai bơi lội vừa hô lớn: “Tung hô quyền năng của ta, tung hô quyền năng của ta”. Thế nhưng, ông vừa dứt lời thì đàn cá sấu ào tới cắn xé ông nát ra từng mảnh.

Thánh thiện chính là quên mình, quên mình đến độ không được phép ý thức về sự thánh thiện của mình. Thiên Chúa ban cho ta sự thánh thiện là để cho người khác hưởng dùng. Bao lâu sự thánh thiện đem lại lợi ích cho kẻ khác thì bấy lâu người đó còn thánh thiện. Trái lại, kể từ giây phút một người thánh thiện giữ riêng ân huệ cho mình, thì người đó đánh mất sự thánh thiện, đồng thời đánh mất chính bản thân mình.

Thật ra, thánh thiện không là một đặc ân cho một số người ngọai hạng. Đó là ơn gọi của mỗi người Kitô. Người Kitô không thể không là người thánh thiện, vì chính thánh thiện là tên gọi của Chúa Kitô: “Ngài là Đấng Thánh”. Ngài là Đấng Thánh”, bởi vì hơn ai hết Ngài là Đấng quên mình. Thánh Phaolô đã nói đến sự thánh thiện của Chúa Kitô bằng công thức: “Ngài đã tự hạ vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá”.

Đó cũng là lý tưởng của người Kitô. Chúa Giêsu đã từng nói: “Ai tìm cách giữ mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình thì sẽ bảo tồn được mạng sống”. (Lc 17,33).

Quên mình, sống trọn vẹn cho người khác, đó chính là định nghĩa đích thực của sự thánh thiện.***

Lạy Chúa, xin cho chúng con chỉ biết có một con đường thánh thiện, đó là phó thác cho Chúa, và sống trọn vẹn cho tha nhân. Xin giúp con luôn tiến bước trên con đường phục vụ, quên mình. Xin cho con không tìm vui hưởng một niềm vui nào khác hơn là mỗi ngày biết quên mình để sống cho tha nhân nhiều hơn. Amen.

 Anh chị Thụ & Mai gởi

NHỮNG MẢNH ĐỜI TAN NÁT VÌ CHIẾN TRANH (I)

NHỮNG MẢNH ĐỜI TAN NÁT VÌ CHIẾN TRANH (I)

 GNsP‬Cô Sương Quỳnh trước đây từng là nhà báo trong nhiều năm của “Bên Thắng Cuộc”. Sau những năm phục vụ cô nhận ra báo chí của Đảng Cộng Sản chỉ nhằm phục vụ và củng cố cho Đảng nên cô rút lui và hiện nay là thành viên của CLB Lê Hiếu Đằng. CLB bộ này quy tụ những nhân sĩ trí thức đấu tranh cho Dân Chủ và chống Trung Quốc xâm lược. Trong những năm gần đây cô bén duyên với DCCT qua những thánh lễ cầu nguyện cho CLHB do DCCT Sài gòn tổ chức. Cô đã xin học Đạo Công Giáo vào đầu năm 2014 và được Rửa Tội vào Đêm Vọng Phục Sinh 2015 tại DCCT Sài Gòn. Chúng tôi xin giới thiệu đến quý đọc giả loạt bài phóng sự của cô về chương trình Tri Ân TPB – VNCH do phòng CLHB thuộc DCCT Sài Gòn tổ chức.

Sau cuộc chiến “huynh đệ tương tàn” những mảnh đời này bị đẩy ra sống bên rìa xã hội: bị kỳ thị, khinh rẻ, vạ vật kiếm sống qua ngày. Cũng là xương, là máu, là thịt đổ xuống vì Đất Nước, nhưng bị gọi là “nguỵ quân” nên họ đã phải lang bạt, lê lết, lưu đày trên ngay trên Đất Nước của chính mình. Họ là ai? Họ là những người thua cuộc và thảm hơn nữa họ đã bị chiến tranh cướp đi những phần cơ thể để giờ họ có một tên gọi là THƯƠNG PHẾ BINH VNCH.

buổi họp mặt Tri Ân TPB -VNCH sáng 31.12.2015 tại DCCT Sài Gòn

Ông Nguyễn Văn Hùng sinh năm 1949, cựu binh nhất- Đại đội 51, sư đoàn Nhảy Dù. Ông bị thương đúng trận cuối cùng ngày 29-4-1975. Ông kể rằng: Do không muốn đi đánh trận, gia đình ông đã chạy tiền khai tuổi ông sinh năm 1956, do đó đến năm 72 ông mới đi lính. Ông làm nhiệm vụ nghe điện đàm và truyền tin qua cái điện đàm BC25. Cả đại đội ông hơn 300 người bị đánh dồn từ Khánh Dương về Nha Trang. Trên đường bị chết rất nhiều nên khi về đến Nha Trang chỉ còn hơn 30 người. Từ Nha Trang các ông được máy bay đưa về Đồng nai để chốt giữ nhà máy nước Đồng Nai.

Ông Nguyễn Văn Hùng

Lúc 2 giờ sáng ngày 29-4-1975, một trận giao tranh ác liệt giữa quân Giải Phóng và đại đội gần 30 người của ông ngay trên cầu Đồng Nai. Lúc đó đại đội trưởng là ông Huỳnh Hữu Sanh chỉ huy. Đêm đó một người đồng đội bị thương, ông Hùng đã chạy ra cứu, ôm người bạn về thì bị một loạt đạn bắn , ông bị đạn trúng tay làm rơi luôn đồng đội, còn người lính kia cũng bị thương vào đầu và chết ngay lập tức. Sáng hôm sau là ngày 30-4-1975, đại đội ông còn 5 người và ông Sanh đại đội trưởng. Do ông nhặt được cái đài Philip 10 băng của quân Giải Phóng, đến trưa 30-4 ông nghe qua radio lệnh của ông Dương Văn Minh kêu gọi binh lính bỏ súng, quy hàng. Ông Sanh, ông và những người còn lại quăng súng, cởi quần áo vào nhà dân xin quần áo thường phục mặc vô, rồi tìm đường về nhà. Ông phải dưỡng thương 2 tháng mới lành. Do bị thương nên ông bị đi học tập cải tạo 3 ngày. Khi học xong 3 ngày , người bên quân Giải Phóng hỏi: Ông có hiểu gì không? ông trả lời: Tôi không hiểu gì cả, họ bắt ở lại học tiếp 3 ngày nữa. Những ngày đầu sau khi được cho về, ông đi ăn xin, rồi bà con người qua đường thương mua cho chiếc xe lăn và góp tiền có chút vốn, ông đi bán vé số. Sau mấy năm ông lấy được vợ và có hai con, ông sống nhờ bên nhà vợ. Hiện hai con ông đi làm công nhân nên cũng không đủ tiền phụng dưỡng cha mẹ, do đó ông vẫn đi bán vé số kèm xin ăn để sống qua ngày.

Ông Hùng đón nhận chuỗi hạt Mân Côi

Những năm gần đây, được biết Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) luôn tổ chức khám chữa bệnh và có những ngày Tri Ân TPB VNCH, ông về để được cảm nhận như một con người. Khi cô Tình nguyện viên (TNV) đưa ông chuỗi hạt Mân Côi và nói với ông rằng: Chú hàng ngày đọc kinh nhé. Ông quay lại tôi rưng rưng nước mắt: Nếu không tin vào Thiên Chúa, tin vào ơn lành của Mẹ Maria chắc ông không có nghị lực để vượt qua mọi thử thách, đau khổ trong hơn 40 mươi năm qua.

Teresa Avila Sương Quỳnh

Xin xem thêm:

NHỮNG MẢNH ĐỜI TAN NÁT VÌ CHIẾN TRANH (II)

 NHỮNG MẢNH ĐỜI TAN NÁT VÌ CHIẾN TRANH (III)

NHỮNG MẢNH ĐỜI TAN NÁT VÌ CHIẾN TRANH (IV)

NHỮNG MẢNH ĐỜI TAN NÁT VÌ CHIẾN TRANH (V)

NHỮNG MẢNH ĐỜI TAN NÁT VÌ CHIẾN TRANH (VI)

Tuệ Sỹ – “Đạo Pháp Tộc Chủ Nghĩa Xã Hội”, Biến Thái Của Phật Giáo Việt Nam Hiện Tại

Tuệ Sỹ – “Đạo Pháp Tộc Chủ Nghĩa Xã Hội”, Biến Thái Của Phật Giáo Việt Nam Hiện Tại

By Uyên Nguyên  ( 1 )

Lời Dẫn: Bài tham luận này được viết đã lâu. Nguyên đề là “Văn minh tiểu phẩm,” chỉ là bài tham luận có tính chuyên đề. Bỗng nhiên nó mang tính thời sự. Ban đầu người viết không có ý định phổ biến rộng rãi, mà chỉ giới hạn trong một số thức giả đọc để suy ngẩm về quá khứ và tương lai.

Tuy nhiên, nay nó được cho phổ biến, vì trong mấy tuần vừa qua, Nhà Nước đã vận dụng bộ máy tuyên truyền khổng lồ và độc quyền, từ diễn đàn Quốc hội, cho đến các cuộc họp một số phường quận; từ Hội đồng chứng minh, Giáo hội trung ương, cho đến các ban Đại diện Phật giáo quận; bằng các phương tiện phát thanh, truyền hình, báo chí; mục đích là xác định lại lập trường “trước sau như một” của Đảng CSVN đối với Phật giáo, và cũng xác định sự hiện hữu duy nhất của Phật giáo qua đại diện hợp pháp là Giáo hội Phật giáo Việt nam, mà thực chất là một tổ chức chính trị của Đảng, thực hiện đúng sách lược tôn giáo theo chỉ thị của Lenin: “đảng phải thông qua tôn giáo để tập hợp quần chúng.” Chính điều đó xác định rõ nhiệm vụ lịch sử của Giáo hội Phật giáo Việt nam như là công cụ bảo vệ Đảng, đúng như lời Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh trước đây đã tuyên bố: Phật giáo Việt nam là chỗ dựa cho người Cộng sản Việt nam làm cách mạng.

Những tuyên truyền và tuyên bố như trên chỉ được nghe và nhìn từ một phía. Vì vậy tôi cho phổ biến lại bài này; không xem đây là chân lý lịch sử, nhưng là sự thực được nhìn theo chủ quan của một cá nhân. Dù sao, nhìn sự việc từ một khía cạnh khác sẽ cho thấy rõ thêm vấn đề. Chân lý cuối cùng tùy thuộc người đọc; tùy thuộc trình độ tư duy, thành kiến xã hội, hay quyền lợi vật chất.

Trước khi giới thiệu bản văn, nhân tiện tôi ghi thêm một vài sự kiện có tính lịch sử gần nhất, để người đọc có thêm cảm hứng suy luận.

Tôi nói sự kiện lich sử gần nhất, là muốn nói ngay đến sự xuất hiện của Pháp sư Thích Trí Độ lần đầu tiên tại miền Nam sau ngày Cộng sản chiến thắng. Trên lễ đài chiến thắng, gồm các lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, hàng cao nhất. Pháp sư thay mặt Phật giáo miền Bắc, mà trên cương vị người chiến thắng, là chính thức đại diện toàn thể Phật giáo Việt nam. Đó là vị Pháp sư, mà miền Nam gọi là Đại lão Hòa thượng; Ngài bận chiếc áo sơ-mi cụt tay như các cán bộ cao cấp khác của Đảng và Nhà Nước. Sự thực như vậy rất rõ: Phật giáo không tồn tại nữa ở Miền Bắc, mà chỉ tồn tại như một bộ phận của Đảng và lãnh đạo Phật giáo chỉ là cán bộ của Đảng và Nhà Nước.

Ở miền Nam, theo báo cáo của Trần Tư, tài liệu của Bộ Nội vụ phổ biến năm 1996, bấy giờ chỉ có “khoảng 2.5 triệu tín đồ.” Nhưng do nhu cầu lịch sử, nói theo lý luận của Đảng, nghĩa là chưa xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nên tôn giáo như thuốc phiện ru ngủ vẫn còn có nhiệm vụ lịch sử của nó; do nhu cầu lịch sử nên Đảng thừa nhận tồn tại tín ngưỡng Phật giáo. Tín ngưỡng, chứ không phải tôn giáo. Bởi vì, tin và thờ bình vôi, cây đa, ông Táo, ông Địa, là tín ngưỡng, chứ không phải tôn giáo. Đảng tôn trọng tự do tín ngưỡng, nhưng chỉ cho phép tin một số hiện tượng. Ngoài ra là mê tín, hoặc duy tâm mang tính phản động thì triệt để bài trừ.

Năm 1980, tôi được anh Võ Đình Cương mời họp thảo luận về văn hoá Phật giáo tại tòa soạn Giác ngộ, tại đó, đại diện Mặt trận Thành phố HCM đến dự, và đề nghị (thực chất là ra lệnh): nhiệm vụ văn hóa Phật giáo là bài trừ mê tín; do đó phải xét lại trong Phật giáo những gì không thuần túy thì phải dẹp bỏ. Thí dụ, Quan Âm, Địa Tạng có thuần túy Phật giáo hay không? Tôi phản ứng: đó là đức tin tồn tại ít nhất hơn 2 nghìn năm, trên một phạm vi châu Á rộng lớn; do đó không ai có quyền xét để dẹp bỏ. Tin hay không, đó là quyền tự do cá nhân. Nhưng dẹp bỏ thì không ai có quyền.

Ngay sau 1975, nhiều tượng Phật lộ thiên bị giựt sập. Gây chấn động lớn nhất là giựt tượng Quan Âm tại Pleiku. Viện hóa đạo đã có những phản ứng quyết liệt, và đích thân Hòa thượng Đôn Hậu mang tài liệu phản đối ấy ra báo cáo Thủ Tướng Phạm Văn Đồng. Hòa thượng kể lại cho tôi nghe, sau khi chuyển hồ sơ vi phạm chính sách tôn giáo lên Thủ tướng; hôm sau Hòa thượng được một Đại tá bên Bộ Nộ vụ gọi sang làm việc. Sau khi nghe Đại tá lên lớp chính trị, Hòa thượng nói: “Bởi vì Thủ tướng có nhờ tôi sau khi vào Nam trở ra Bắc, báo cáo Thủ tướng biết tình hình Phật giáo trong đó. Vì vậy tôi báo cáo những vi phạm để Chính phủ có thể kịp thời sửa chữa, ngăn chận cán bộ cấp dưới không để vi phạm. Nếu Thủ tướng không muốn nghe thì thôi. Còn việc lên lớp chính trị như thế này, đối với tôi (Hòa thượng) thì xưa quá rồi.” Dù sao, phản ứng ấy cũng làm chùn tay những đảng viên cuồng tín Mác xít, và tự kiêu về chiến thắng với khẩu hiệu nhan nhản các đường phố lúc bấy giờ: “Chủ nghĩa Mác Lê-nin bách chiến bách thắng muôn năm!” Nghĩa là, không thể tự do hoành hành như trong những năm sau 1954 trên đất Bắc.

Ở đây, chúng ta phải đặt câu hỏi: sau 1975, nếu không có Phật giáo miền Nam, cùng với thái độ cương quyết của các vị lãnh đạo Giáo hội Thống nhất, Phật giáo Việt nam sẽ thoi thóp đến lúc nào rồi đứt hơi luôn, với đà tự kiêu chiến thắng 1975 và với ảo tưởng về thành trì xã hội chủ nghĩa bách chiến bách thắng của Liên-xô?

Năm 1982 là cột mốc lớn cho Phật giáo Việt nam, với lời tuyên bố của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Đảng không dại gì mà dựa lưng vào chỗ mình chưa nắm chắc. Do đó, bằng mọi giá phải cải tạo Phật giáo miền Nam, giống như cải tạo xã hội chủ nghĩa theo phương thức tịch thu tư liệu sản xuất và đưa các chủ tư bản đi lao động cải tạo. Đảng biết chắc, tuy gặp phải chống đối quyết liệt của lãnh đạo Phật giáo, nhưng với bạo lực chuyên chính trong tay, sẽ phải cải tạo thành công. Trước hết, sự bức tử đối với Thượng tọa Tâm Hoàn, Chánh Đại diện GHPGVNTN tỉnh Bình định, năm 1975, gây kinh sợ không ít cho những ai cưỡng lại ý chí của Đảng. Kinh hoàng nhất là cái chết của Thượng Tọa Thiện Minh năm 1978, trong trại giam K4, Bộ Nội vụ. Đó là thời gian tôi được giam cùng trại với Hòa thượng Thiện Minh, nhưng hoàn toàn cách ly. Chỉ biết rõ, khi nghe tiếng Hòa thượng trả lời thẩm vấn ở phòng hỏi cung kế cận. Tất cả điều đó củng cố cho tuyên bố của ông Mai Chí Thọ, bấy giờ là Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố HCM, nói thẳng với Hòa thượng Trí Thủ, bấy giờ là Viện trượng Viện hóa đạo: “Các thầy chỉ có hai con đường, theo hoặc chống. Các thầy theo, chúng tôi tạo điều kiện cho sinh hoạt. Các thầy chống, chúng tôi còn đủ xe tăng thiết giáp đó.” Hòa thượng trả lời: Không theo cũng không chống. Nhưng, đối với Đảng, không có con đường thứ ba.

Ý chí của đảng là một chuyện. Nhưng những người Phật giáo cũng nên tự đặt câu hỏi: Ban Liên lạc Công giáo Yêu nước cũng hoạt động rất tích cực, nhưng không đưa được Hội đồng Giám mục vào trong Mặt trận Tổ quốc. Trong khi, rất nhanh chóng, Phật giáo trở thành một bộ phận của đảng Cộng sản Việt nam. Tại sao?

Từ ngày thành lập đến nay, Giáo hội thành thành viên Mặt trận đó đã làm những gì? Làm nhiều lắm, vì chùa chiền đồ sộ thêm lên. Như lời Hòa thượng Thanh Tứ phát biểu mới đây trong buổi lễ khai giảng của trường Phật học Trung cấp tỉnh Bình định. Hòa thượng nói: “Phật giáo thời Lý rất thạnh. Nhưng không bằng nay. Vì nay cơ sở của ta to lớn hơn.” Ấy là, theo như lời Hòa thượng nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong bài phát biểu: nhờ chính sách của Đảng. Đó là sự thực không thể chối cãi. Nhưng cần nói cho rõ thêm, Việt nam chúng ta bây giờ tiến bộ hơn thời Hồng Bàng gấp vạn lần. Thời Lý, nước Việt nam chỉ từ Thanh hóa trở ra Bắc, chỉ hơn 1/3 lãnh thổ hiện nay. Như vậy thì cơ sở hiện nay nhất định phải to lên rồi. Nhưng cái to hơn ấy của lịch sử bốn nghìn năm văn hiến lại chưa bằng một phần nhỏ của Thái lan chỉ hơn 8 thế kỷ định cư. Và cũng nhờ chính sách của Đảng, nếu chính sách đó trước sau như một, nghĩa là như Phật giáo miền Bắc trước 1975, thì không biết ngày nay các Hòa thượng khi xuất hiện trước công chúng sẽ khoác tăng bào, hay cũng chỉ bận áo sơ mi cán bộ như Pháp sư Trí Độ trước đây? Trên toàn miền Bắc, cho đến 1975, có trên dưới 300 “ông sư, bà vải.” Đến 1996, theo báo cáo Bộ Nội vụ của Trần Tư, “Hiện nay Phật giáo ở miền Bắc có khoảng 3000 tăng ni, tín đồ phần đông là ông già (bà già là chủ yếu–nguyên văn). Số cao tăng tiêu biểu hầu hết đã già yếu không còn khả năng hoạt động. Số tăng ni trẻ trình độ văn hoá cũng như lý luận về Phật giáo thấp, không đủ sức làm nhiệm vụ tranh thủ Phật giáo miền Nam và hoạt động quốc tế.” Giáo hội Phật giáo Việt nam phục vụ cho cái gì, theo báo cáo đó đã quá rõ.

Ngoài cơ sở “to lớn hơn thời Lý” ra, còn thêm được những gì để vượt hơn Phật giáo miền nam trước 1975? Nói về báo và tạp chí, được mấy phần trăm? Chỉ một tờ Giác ngộ duy nhất cho cả nước. Cũng là tờ báo hoằng pháp. Nhưng cũng thường xuyên ca ngợi vinh quang của Đảng, và giúp Nhà nước phổ biến kế hoạch sinh đẻ, tuyên truyền đường lối của Đảng chống NATO. Những lời Phật dạy cao siêu cũng chỉ đủ thêm vài chấm đỏ cho vinh quang của đảng và đường lối sáng suốt của đảng trên chính trường quốc tế.

Ngoài tờ Giác ngộ ra, với ba cơ sở giáo dục cao cấp, tương đương đại học, nhưng đã có công trình gì đáng kể?

Vậy thì, qua hơn 20 năm hoạt động, trong tư cách là một bộ phận của đảng, Giáo hội PGVN đã làm thêm được gì cho văn hóa Phật giáo VN so với những gì Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) đã làm trước 1975? Trong khi cả khu vực, và kể luôn cả nước Việt nam đều tiến bộ, theo chừng mực nào đó, mà Phật giáo Việt nam chưa lấy lại được thế đứng của nó trong lòng văn hóa dân tộc như trước đó, vậy thì đảng hỗ trợ PGVN tiến theo hướng nào?

Bề ngoài, cũng còn có mặt đáng nói khác, đó là giáo dục. Trước hết, bao nhiêu cơ sở Trung học Bồ đề, và các Viện Đại học: một Vạn Hạnh, và một Phương Nam, của Phật giáo miền Nam, nay biến đi đâu mất? Nói là biến, vì hầu hết các tăng ni sinh, kể cả những vị đang học tại các trường cao cấp Phật học, không biết các cơ sở giáo dục này là cái gì, dạy những gì trong đó. Chính vì vậy mà họ chỉ biết Phật giáo Việt nam tiến bộ vì chùa to Phật lớn.

Các tăng ni sinh này được đào tạo để làm gì? Không thấy họ được đưa về các địa phương để giảng pháp cho Phật tử. Cũng không có cơ sở văn hóa nào để họ phục vụ. Hầu hết, học xong, trở về chùa, làm nghề thầy cúng hoặc thầy bói. Tất nhiên cũng có nhiều thầy cô vẫn tìm cách mở các khóa học Phật pháp, nhưng cũng chỉ giới hạn trong một số tỉnh thành lớn, nhất là Thành phố HCM. Ngay như Huế, được xem là kinh đô của Phật giáo miền nam, hầu như các thầy chỉ đi cúng và đăng đàn chẩn tế, hoặc lập đàn chay phá cửa địa ngục cho cô hồn đi chơi, chẳng có buổi giảng kinh nào đáng kể. Còn cái trường gọi là cao cấp Phật học, hay Học viện Phật giáo Hồng đức, sau khi Hòa thượng Thiện Siêu tịch rồi, không còn thầy cô nào đủ sức dịch cho xuôi một trang luận Câu-xá, thì lấy chữ đâu mà giảng dạy kinh luận cho tăng ni sinh trình độ cao đẳng, đại học?

Nhìn chung, Phật giáo chỉ đang phục vụ nhiều nhất cho người giàu. Còn quần chúng tại các vùng sâu xa, vì họ thiếu phước, kiếp trước ít tu, nên nay chẳng mấy khi được nghe các thầy cô thuyết pháp. Còn lập đàn chẩn tế và phá cửa địa ngục cho ông bà cha mẹ siêu thăng, đốt vàng mã thật nhiều cho ông bà có tiền tiêu và có xe hơi nhà lầu, dưới âm phủ, thì họ không đủ tiền.

Tóm lại, nếu nói Phật giáo Việt nam hiện tại chẳng có tiến bộ gì thì không đúng. Vì cơ sở chúng ta hiện nay đồ sộ hơn trước, kể cả miền Nam trước 1975 chứ không cần so sánh xa xôi lùi cho đến đời Lý như Hòa thượng Thích Thanh Tứ. Ngoài việc xây dựng chùa to Phật lớn, Phật giáo hiện tại đã đóng góp gì cho gia tài văn hóa, tư tưởng của dân tộc, ngoài sứ mệnh được giao phó là rao truyền chính sách sáng suốt của Đảng quang vinh? Còn chuyện tìm một vị trí của Phật giáo Việt nam, dù chỉ khiêm tốn thôi, trong thế giới hiện đại, là điều mộng tưởng xa vời.

Gần đây, các trường Phật học tại Saigon sợ tăng ni sinh nghe thêm những nguồn thông tin không phù hợp với sự tuyên truyền một chiều vừa độc quyền vừa độc đoán của Nhà nước, nên vừa cảnh cáo, vừa khuyên răn: hãy quên đi quá khứ mà lo chăm học cho hiện tại. Quên đi quá khứ hận thù, để sống trong tình cảm dân tộc bao dung, đó là điều cần phải học. Nhưng quên đi những thành tựu quá khứ gần nhất, chỉ cách đây chưa đầy 30 năm, để rồi so sánh sự tiến bộ của ta ngày nay với thời đại Hồng Bàng, hay với thời Lý như Hòa thượng Thanh Tứ, thế thì bản chất của nền giáo dục Phật học ấy là gì? Có phải các thầy muốn dạy tăng ni sinh quên đi những hy sinh gian khổ của Thầy Tổ đã tạo ra di sản ngày nay, do vậy họ sẽ nhận thức dễ dàng rằng những gì chúng ta đang thừa hưởng ngày nay là nhờ công ơn Đảng và Nhà nước?

Lời hăm của các thầy có giá trị “hàn mặc di luân” của những nhà giáo dục. Chính vì thế tôi cho phổ biến bài tham luận này, mà trước đó tôi cho là ý kiến cá nhân nên giới hạn người đọc. Bây giờ tôi vẫn xem đây chỉ là quan điểm cá nhân. Nhưng tôi cho phổ biến để các thầy có cơ sở kiểm chứng những thành tựu mà Nhà nước đã giúp Phật giáo Việt nam. Tất nhiên, tôi nhận mọi trách nhiệm trước pháp luật, và trên hết, trước lương tâm của một con người còn tin tưởng giá trị làm người.

Già lam 10-11- 2003.
Tuệ Sỹ

HỎA NGỤC

Hoả ngục khủng khiếp làm sao???

Trầm luân vĩnh viễn…. tự… vào…không…. ra

…………..

Giờ đây thống hối tội qua

Sống sao xứng đáng con CHA trên Trời

Mai sau hưởng phúc cao vời

   Vì nay mến CHÚA, yêu người không thôi .

Thập điều giữ trọn chẳng rời

Lời CHÚA ghi khắc, tâm thời vui liên

Bình minh…Thánh lễ trước tiên

Sau viếng Thánh Thể tiếp liền …bên CHA

Tu thân, tích đức…. trổ hoa

Đơn sơ, phó thác, hiền hoà, yêu thương

Thứ tha, từ bỏ, khiêm nhường

Nguyện cầu, kiên nhẫn, thiện lương hơn người

Thanh tẩy, Thánh hóa CHÚA ơi!

Cho con cảm tạ muôn đời Hồng Ân.

hnkimnga

 

HỎA NGỤC

Lm. Đoàn Quang, CMC

1- Lời Kinh Thánh:

*”Chúa Giêsu thường nói đến “hoả ngục” (Gehenna), đến “lửa không bao giờ tắt” ( xem Mt 5,22.29;13, 42.50; Mc 9,43-48), dành cho những ai, cho đến lúc chết, vẫn từ chối tin và trở lại, và đó là nơi cả hồn lẫn xác có thể bị hư  mất” ( xem Mt 10,28).

*Chúa Giêsu đã dùng những lời nghiêm khắc, rằng “Ngài sẽ sai các thiên thần tới để lượm tất cả những kẻ làm điều gian ác  (…), và quẳng chúng vào lò lửa bừng bừng”  (Mt 13,4142).

*Ngài sẽ tuyên án: “Hỡi những kẻ vô phúc, hãy đi khỏi mặt Ta vào nơi lửa muôn đời”  (Mt 25,41).

*Mt 5,29  Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục.

*Mt 5,30  Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục.

*Mc 9,45 Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi;

thà cụt một chân mà được vào cõi sống

còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục.

*Mc 9,48 nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt.

*Mt 16,26  Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?

2- Giáo lý Giáo hội Công giáo:

“Chết trong tội trọng mà không sám hối và không đón nhận tình thương đầy từ bi của Thiên Chúa, thì sẽ mãi mãi lìa xa Chúa do sự tự do lựa chọn của mình. Danh từ “Hoả ngục” được dùng để chỉ tình trạng ly khai mãi mãi khỏi mối hiệp thông với Thiên Chúa và với các thánh trên trời. (số 1033)

“Giáo huấn của Giáo Hội khẳng định có địa ngục và tính vĩnh viễn của địa ngục. Linh hồn của những người chết trong tình trạng mang tội trọng, sẽ lập tức phải xuống hoả ngục, “lửa vĩnh viễn” ( xem DS 76; 409; 411; 801; 858; 1002; 1351; 1575; SPF 12). Hình phạt chính của hoả ngục là bị muôn đời xa cách Thiên Chúa, chỉ nơi Ngài, con người mới có thể có sự sống và hạnh phúc: đó là những mục tiêu của con người khi được tạo thành và con người hằng khát vọng. (số 1035)

“Những khẳng định của Thánh Kinh và những giáo huấn của Giáo Hội về hoả ngục là  một lời kêu gọi tới trách nhiệm của con người trong việc sử dụng tự do của mình, hướng về số phận muôn đời của mình. Đó cũng là  lời kêu gọi khẩn thiết hãy hối cải: “Các người hãy vào qua cửa hẹp. Vì rộng rãi thênh thang là đường đưa tới hư mất, và nhiều người đi con đường này. Còn cửa hẹp và đường hẹp thì dẫn tới sự sống, nhưng ít người tìm ra nó  (Mt 7,1314):

Không biết ngày giờ nào, chúng ta phải luôn tỉnh thức như lời khuyến cáo của Chúa, để khi chấm dứt dòng đời độc nhất của cuộc sống trần gian, chúng ta đáng được nhận vào dự tiệc cưới với Ngài và được kể vào số những người được Thiên Chúa chúc phúc, thay vì bị gạt ra do lệnh của Thiên Chúa để xuống chỗ lửa muôn đời, như những đầy tớ xấu nết và lười biếng, đó là chốn tối tăm bên ngoài, nơi có những tiếng khóc lóc và nghiến răng  ( LG 48). (số 1036)

“Thiên Chúa không tiền định cho một người nào phải xuống hoả ngục  (xem DS 397; 1567); điều này cần phải có một sự chủ ý xoay lưng lại với Thiên Chúa (một tội trọng) và cố chấp ở trong tình trạng này tới cùng.

Trong phụng vụ Thánh Thể và trong các lời cầu nguyện hằng ngày của các tín hữu, Giáo Hội khẩn xin lòng từ bi của Thiên Chúa, Đấng muốn “không một ai phải diệt vong, nhưng muốn mọi người đi tới sám hối”  (2 Pr 3,9):

Đây là lễ vật mà chúng con, những đày tớ Cha và tất cả gia đình Cha dâng lên Cha: xin Cha nhận lễ vật này theo lòng nhân hậu của Cha. Cúi xin Cha bảo đảm cho đời sống chúng con được bình an! Xin cứu vớt chúng con khỏi bị án phạt, và xin nhận chúng con vào số các kẻ được chọn của Cha ( MR, Lễ quy Rôma 88).(số 1037).

3- Lời Các Thánh

(1001 Danh Ngôn Các Thánh, Y Phan, CMC)

  1. Ôi, có phải vì Chúa yêu con mà Chúa đã dựng

nên Hỏa ngục không, đề ép con bám lấy Chúa.

Thánh Augustinô

  1. Tất cả mọi đau đớn khốn khổ ở thế gian này chỉ

là hình ảnh mờ nhạt của án phạt Hỏa ngục mà thôi.

Thánh Gioan Kim Khẩu

  1. Trong Hỏa ngục, kẻ tội lỗi dầu có chịu gấp đôi

tất cả những hình phạt khác nhưng vẫn còn nhẹ nếu so

với hình phạt không được thấy Mặt Chúa.

Thánh Brunô

  1. Nếu những kẻ trong Hỏa ngục được diện kiến

Nhan Thánh Chúa, thì Hỏa ngục không còn là Hỏa ngục

nữa, mà sẽ trở thành thiên đàng ngay lập tức.

Thánh Augustinô

  1. Linh hồn người ta vừa ra khỏi xác sẽ nhận ra

ngay Chúa là Đấng Tạo Thành, nên nó nong nả đến trình

diện trước mặt Chúa. Khi ấy, khốn thay cho những linh

hồn nào đang mang trọng tội. Nó sẽ nhận lấy án phạt là

lời quở trách của Chúa, mà vào chốn Hỏa ngục đời đời.

Thánh Antôniô

  1. Hình phạt của các tội nhân trong Hỏa ngục rất

kinh khủng, rất nhiều và rất gay gắt, lại không hề được

một chút an ủi và nỗi đau khổ càng cứ tăng mãi cho

đến đời đời.

Thánh Rôbertô Bellarminô

  1. Ôi, nếu kẻ có tội biết Hỏa ngục là gì như chúng

tôi đã được xem thấy, hẳn họ không còn dám phạm tội

nữa kẻo phải sa xuống chốn khốn nạn ấy.

Chân phước Giaxinta

*Thánh nữ Faustina, người được THIÊN CHÚA cho thiên thần dẫn đi xem hỏa ngục, đã nói:

“Các linh hồn phải vào hỏa ngục, hầu hết là những kẻ không tin có hỏa ngục”.

Trong sách Nhật Ký Lòng Thương xót Chúa, số 741, Thánh nữ viết: Hôm nay, tôi được một thiên thần dẫn xuống các hang hốc trong hỏa ngục. Đó là nơi cực hình ghê rợn; rộng toang hoác và rùng rợn biết bao! Tôi đã thấy các thứ khổ hình: khổ hình thứ nhất tạo nên hỏa ngục chính là việc mất Thiên Chúa; khổ hình thứ hai là lương tâm cắn rứt triền miên; khổ hình thứ ba là thảm cảnh ấy không bao giờ thay đổi; khổ hình thứ bốn là lửa nung xuyên thấu nhưng không hủy diệt linh hồn – đây là một cực hình kinh khủng, một thứ lửa hoàn toàn thiêng liêng, do cơn nghĩa nộ của Thiên Chúa đốt lên; khổ hình thứ năm là cảnh tăm tối triền miên và mùi ngột ngạt hãi hùng, và mặc dù giữa tối tăm, nhưng ma quỉ và các kẻ dữ lại nhìn thấy nhau và mọi thứ độc dữ của kẻ khác cũng như của chính mình; khổ hình thứ sáu là cứ phải ở chung với Satan; khổ hình thứ bảy là nỗi tuyệt vọng cùng cực; căm hận Thiên Chúa, những lời tà độc, nguyền rủa và lộng ngôn.

Mọi kẻ bị trầm luân đều phải chịu những cực hình trên, nhưng chưa phải là hết. Còn có những hình khổ đặc biệt dành riêng cho từng linh hồn. Đây là những hình khổ về giác quan. Từng linh hồn phải chịu những hình khổ kinh khủng không sao tả được, liên quan đến cách họ đã phạm tội. Có những hang hốc và hố sâu cực hình, ở đó hình thức đau khổ này khác với hình thức đau khổ kia.

Đáng lẽ tôi đã chết ngay lập tức khi vừa thấy những cực hình ấy nếu như quyền toàn năng Thiên Chúa không nâng đỡ tôi. Các tội nhân biết họ sẽ bị gia hình mãi mãi muôn kiếp, tại những giác quan họ đã dùng để phạm tội.

Tôi viết điều này theo lệnh truyền của Thiên Chúa để không còn linh hồn nào có thể viện cớ rằng hỏa ngục không hiện hữu, hoặc chưa có ai đã từng vào trong ấy, và do đó, không ai có thể tả ra như thế nào.

          Tôi, nữ tu Faustina, theo lệnh của Thiên Chúa, đã xuống vực thẳm hỏa ngục để có thể nói cho các linh hồn biết về hỏa ngục và chứng minh sự hiện hữu của nó. Tôi không thể nói về hỏa ngục hiện giờ; nhưng tôi đã nhận được lệnh truyền từ nơi Chúa để ghi lại về hỏa ngục. Các ma quỉ hết sức căm hận, nhưng chúng phải lụy phục tôi theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Những điều tôi đã viết ra chỉ là một bóng mờ nhạt nhòa so với những gì tôi đã nhìn thấy.

Nhưng tôi xin lưu ý một điều: hầu hết các linh hồn trong hỏa ngục là những linh hồn đã không tin có hỏa ngục.

Khi tôi đến đó, tôi hầu như không thể trở lại bình thường sau khi thấy cảnh hãi hùng. Trong đó, các linh hồn chịu đau khổ kinh khủng biết bao! Vì vậy, tôi càng cầu nguyện tha thiết xin cho các tội nhân hoán cải. Tôi không ngừng khẩn nài Lòng Thương Xót Chúa cho họ. Lạy Chúa Giêsu của con, con thà chịu khổ cực khốn khó cho đến tận thế giữa những đau khổ ghê rợn nhất còn hơn là xúc phạm đến Chúa, dù chỉ một tội nhỏ mọn nhất”.

*Trong sách Tiếng Gọi Tình yêu kể về Sơ Josepha Menendez, nữ tu Dòng Thánh Tâm Chúa, đã được đưa xuống Hỏa ngục. Sơ đã tả lại theo lệnh Bề trên rằng” không lời lẽ nào tả hết được cảnh kinh hoàng, mùi hôi thối, khổ sở muôn đời”.

Một linh hồn thú nhận: Khổ cực nhất của chúng tôi là “không còn khả năng yêu thương, nếu còn yêu thương thì không còn hỏa ngục. Chỉ có hận thù, giận ghét, ganh tị, tuyệt vọng. Trễ quá rồi. Muôn đời đền tội, mãi mãi trong ngục tù. Chúng tôi khát mong cho các linh hồn bị hư mất.

Quỉ có cách cám dỗ, gây chiến ngày đêm: – kích thích dục vọng, – kích thích kiêu ngạo, – làm cho thờ ơ phần rỗi, – không để cho bình an. Quỉ tướng nói: “Đừng để chúng bình an một giây phút nào”.

Đứa trẻ 15 tuổi phải sa hỏa ngục, nó nguyền rủa cha mẹ, vì đã không dạy nó đường lành, dạy tránh hỏa ngục. Nó đã đọc sách báo xấu, phạm tội xác thịt…

Có tu sĩ nguyền rủa mình vì đã coi thường ơn gọi tu trì.

Có giáo dân nguyền rủa mình vì đã xưng tội chẳng nên…chẳng ăn năn dốc lòng chừa…

*Sơ Josepha còn viết: Bệnh hoạn là ơn trọng đại Chúa ban để tẩy luyện linh hồn.

4- Lời quỉ thú nhận:

*Một linh mục ? trong lúc trừ quỷ đã hỏi quỷ: “Mày ở trong hỏa ngục bao lâu rồi?” Thằng quỷ trong thân xác người bị quỷ ám, đập tay xuống bàn, nổi giận la lớn: “Lúc nào cũng là lúc bắt đầu”.

5- Chứng tích:

  1. Ông Gaston de Segur, nhà trí thức đạo đức Công Giáo người Nga, , đã viết cuốn sách nói về Hỏa Ngục. Ông viết chuyện xảy ra tại Moscou vào năm 1812: Cậu tôi, Rostopchine, lúc ấy là thống đốc quân sự tại Moscou. Cậu thân với tướng Orloff, một người tài giỏi, nhưng lại khô đạo.

Một buổi tối, Orloff và Victor nói chuyện về tôn giáo và Hỏa Ngục. Orloff khiêu khích trước:

– “Không rõ bên kia nấm mồ, có cái gì khác hiện hữu không?”. Tướng Victor đáp liền:

– “Được rồi. Nếu quả thực có cái gì đó, thì một người trong hai ta, ai chết trước, sẽ hiện về báo cho người kia biết. Anh đồng ý không?”. Tử tước Orloff gật đầu “Đồng ý”. Rồi ông giơ tay bắt tay bạn, như cử chỉ giao kèo: phải trung tín giữ lời đã hứa.

Sau đó một tháng, tướng Victor ra trận chiến với quân của Napoléon nước Pháp, vừa tuyên chiến với nước Nga. 3 tuần sau, vào sáng sớm tinh sương, tướng Victor đi  do thám địa điểm của địch. Bỗng ông bị một viên đạn bắn xuyên bụng. Ông gục ngã và chết ngay tại chỗ. Chính lúc đó, linh hồn ông ra trước tòa Chúa.

Orloff đang ở Moscou, không hay biết gì về thảm họa xảy đến cho bạn mình. Vậy mà, cùng ngay buổi sáng hôm ấy, mặc dầu đã thức giấc, nhưng tử tước Orloff vẫn còn nằm rán lại trong giường. Bỗng chốc, ông trông thấy chiếc màn che giường động đậy, rồi, chỉ cách đó hai bước, xuất hiện rõ ràng gương mặt tái mét của người quá cố. Tướng Victor, một tay đặt trên ngực, dõng dạc tuyên bố: “Quả thật có Hỏa Ngục và tôi đang bị trầm luân trong ấy!”.

Nói xong, người quá cố biến mất. Tử tước Orloff nhảy ra khỏi giường, mình mặc nguyên bộ đồ ngủ, chân mang dép ngủ, đầu tóc bù xù, đôi mắt thất thần, gương mặt nhợt nhạt. Ông đâm đầu chạy một mạch đến nhà cậu tôi, kể lại cho cậu nghe câu chuyện vừa xảy ra.

10 ngày sau, quân lực Nga hoàng gởi điện cho cậu tôi, báo tin tướng Victor đã tử nạn, vào đúng y buổi sáng mà Orloff đã trông thấy ông hiện về.

2- Câu chuyện thứ hai được ghi trong sử liệu của thánh Francesco De Gieronimo (1642-1716), một linh mục dòng Tên, sinh tại Taranto, nhưng hoạt động tông đồ và qua đời tại Napoli, miền Nam nước Ý.

Ngài thường giảng các tuần đại phúc. Mục đích của thánh nhân là mời gọi mọi người hồi tâm thống hối, trở về cùng Thiên Chúa và sống ngay chính.

Một hôm, thánh Gieronimo giảng trước đám đông, kéo đến nghe ngài nơi quảng trường thành phố Napoli. Gần đó, trong căn nhà có cửa sổ nhìn xuống quảng trường, có một phụ nữ trắc nết sinh sống. Với chủ đích quấy phá và lấn át tiếng nói của vị thánh, bà cất tiếng la hét ầm ĩ và múa máy lung tung. Mọi lời khuyến cáo bà im đi, đều vô hiệu. Thánh Geronimo đành bỏ dở buổi giảng thuyết hôm ấy.

Ngày hôm sau, thánh nhân trở lại chỗ cũ. Ngạc nhiên vì thấy cửa sổ phòng bà kia đóng kín mít, thánh nhân hỏi lý do tại sao. Người ta cho ngài biết, bà ta đã bất ngờ qua đời trong đêm. Thánh nhân liền nói: “Chúng ta hãy đi xem bà”. Một số đông đi theo ngài và trông thấy xác bà còn nằm sóng soài dưới đất .. Như được linh hứng, thánh nhân cất tiếng hỏi:

– “Hỡi Catarina, nhân danh Chúa, hãy nói cho mọi người đang có mặt đây biết, bà đang ở đâu”. Tức khắc, đôi mắt người quá cố hé mở, đôi môi động đậy. Rồi bằng một giọng khàn khàn, khủng khiếp, bà trả lời:

– “Ở trong Hỏa Ngục .. Tôi bị trầm luân trong Hỏa Ngục đời đời kiếp kiếp!”.

Mọi người hiện diện toát mồ hôi lạnh, dựng tóc gáy!. Lúc xuống cầu thang, thánh Geronimo lẩm nhẩm lập lại:

– “Trong Hỏa Ngục mãi mãi .. Ôi Thiên Chúa công minh, đáng sợ biết là chừng nào!”.

Đa số những người chứng kiến cảnh tượng hãi hùng đó, không muốn trở về nhà, trước khi xét mình kỹ lưỡng, thành tâm thống hối và sốt sắng lãnh nhận bí tích Giải Tội.

(Dom Giuseppe Tomaselli, ”Y A-T-IL UN ENFER?”, Tequi, 1965, trang 24-28).

KẺ SA HỎA NGỤC, KHÔNG TẠI NHIỀU TỘI, NHƯNG TẠI KHÔNG ĂN NĂN, KHÔNG TIN CẬY VÀO LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA GIÊSU.

(Trích sách Jesus Appeals to The World, Alba House xb)

*Ngày 15-12-1935, Chúa Giêsu dạy Sơ Consolata Betrone viết những điều này cho các linh hồn :

“Consolata , điều rất thường xảy ra là các linh hồn tốt lành, đạo đức  và cả những linh hồn đã tận hiến cho Cha cũng thường làm khổ Trái Tim Cha tới cùng  vì những câu nói hờ hững như:  “Ai biết tôi có được rỗi linh hồn hay không?

Hãy mớ sách Phúc âm ra và đọc những lời hứa này. Cha hứa cho chiên Cha: “Cha sẽ cho chúng được sống đời đời. Chúng sẽ không bị hư mất đời đời. Không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha” (Ga 10, 28).

Consolata con có hiểu không? Không ai có thể cướp các linh hồn khỏi tay Cha.  Đọc thêm nữa:

“Những ai Cha Cha đã ban cho Cha thì quí hơn tất cả, và không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha Cha “(Ga 10, 29).

Consolata con có hiểu không? Không ai có thể cướp các linh hồn khỏi tay Cha.

Trong cõi đời đời, chúng không hư mất…vì Cha ban cho chúng sự sống đời đời. Cha nói những lời này cho ai? Cho tất cả các con chiên, cho tất cả các linh hồn. (1 Tm 2, 4: Chúa muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lí).

Vậy tại sao còn có lời nhục mạ:   “Ai biết tôi có được rỗi linh hồn hay không?

Cha đã ban lời bảo đảm trong Phúc âm  rằng “Không ai có thể cướp các linh hồn khỏi tay Cha, và rằng “Cha ban cho chúng sự sống đời đời. Vì vậy các linh hồn không thể hư mất. Hãy tin Cha đi, Consolata.

Các linh hồn phải sa Hỏa ngục chỉ là những linh hồn thực sự muốn vào đó mà thôi (into hell go only those who really wish to go there). Vì Không ai có thể cướp các linh hồn khỏi tay Cha.

Vì có tự do, linh hồn có thể chạy thoát khỏi Cha, có thể phản bội Cha, có thể từ chối Cha, bằng ý muốn riêng của mình, để chạy đến với Satan.

Ôi, thay vì đả thương Trái Tim Cha bằng những bất tín, con có thể nói thêm ít tư tưởng về Thiên đàng đang chờ con.

Cha đã không dựng nên con để vào Hỏa ngục , nhưng dựng nên con để hưởng Thiên đàng, không là bạn với quỉ dữ, nhưng là an hưởng với Cha đời đời trong Tình yêu.

Consolata , con thấy đó:  Các linh hồn phải sa Hỏa ngục chỉ là những linh hồn thực sự muốn vào đó mà thôi.

Điên khùng chừng nào sự sợ hãi bị luận phạt.

Sau khi đổ hết Máu mình ra để cứu chuộc các linh hồn, sau khi bao bọc các linh hồn bằng hết ơn này tới ơn khác trong suốt cuộc sống của các con, thử hỏi Cha có cho phép Satan, kẻ thù xấu xa nhất của Cha, cướp giựt các linh hồn khỏi tay Cha vào phút cuối cùng cuộc đời nó không, ngay vào lúc Cha sắp lượm kết quả của công ơn Cứu chuộc, và do đó, vào lúc linh hồn này sắp được hưởng Tình yêu Cha muôn đời? Cha có thể làm như thế sao? Khi trong Phúc âm Cha đã hứa ban cho linh hồn sự sống đời đời và “không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha”.

Consolata, làm sao có thể tin rằng sự quái gở ấy sẽ xảy ra được? 

Con biết đó, hình phạt cuối cùng chỉ có thể tìm thấy nơi những linh hồn cố ý muốn đi vào Hỏa ngục , và đó là tại gan lì cố chấp từ chối lòng Thiên Chúa, vì không bao giờ Cha từ chối ban ơn tha thứ cho bất cứ linh hồn nào (anyone).

Cha ban ơn thông cảm vô cùng cho mọi người, vì Máu Cha đổ ra cho mọi người, cho mọi người.

Không, không phải vì vô số tội mà linh hồn bị kết án, vì Cha ban ơn tha thứ cho mọi kẻ có lòng ăn năn, nhưng bởi vì sự gan lì, cố chấp không muốn được tha thứ, nó muốn bị hư mất.

Trên thập giá, tên trộm Dismas, chỉ với một cử chỉ đức tin vào Cha, mà nhiều, nhiều tội lỗi của hắn, trong chốc lát đã được xóa bỏ, và quả thực, ngay hôm được tha thứ đó, hắn được vào Nước Thiên đàng và nên một vị Thánh.  Đó là sự chiến thắng của lòng Thương xót và lòng Tin cậy vào Cha .

Consolata, không đâu, Cha Cha đã ban cho Cha các linh hồn thì cao trọng hơn, quyền thế hơn tất cá các quỉ dữ. Không ai có thể cướp giựt chúng khỏi tay Cha Cha.

Ô, Consolata, hãy trông cậy nơi Cha, hãy tin tưởng nơi Cha.  Con phải tin tưởng mù quáng rằng: Cha sẽ hoàn tất những lời hứa trọng đại Cha đã hứa với con.  Cha nhân lành, nhân lành và Thương xót vô biên, vô lượng. ” Cha không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn hối cải và được sống” (Ez 33,11).

*“Hãy tôn vinh Thiên Chúa với lòng trông cậy của con, hãy thề hứa với Cha rằng:  nếu con luôn luôn tin cậy, thì dù linh hồn con có gặp bất cứ tình cảnh nào, Thiên đàng sẽ được mở ra cho con.

Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào có lợi gì? Lấy gì đổi lại cho cân bằng? (Mt 16,26)

Lm. Đoàn Quang, CMC

Anh chi Thu & Mai goi

MẸ THIÊN CHÚA MẸ NHÂN LOẠI

MẸ THIÊN CHÚA MẸ NHÂN LOẠI

Tuyết Mai

Chúng ta con cái dưới trần cộng lại cũng không sao tả hết sự thánh thiện, tốt lành và sáng ngời của Mẹ Maria nhất là tình yêu thương Mẹ dành cho con cái của Mẹ thì luôn bao la diệu vợi.

Thiên Chúa tác tạo ra Mẹ cách riêng rất đặc biệt là Mẹ vô nhiễm nguyên tội, tuyệt hảo cùng tuyệt vời rất xứng đáng để làm Mẹ Thiên Chúa nên Người rất yêu thương, trân quý, chìu chuộng và rất nâng niu có nghĩa không gì Mẹ khẩn cầu mà Thiên Chúa làm ngơ cho được.   Cũng do đó mà Mẹ Maria của chúng ta Mẹ rất nhọc lòng và đau khổ với đàn con hư hỏng tội lỗi của Mẹ.

Chớ thì con cái của Mẹ dưới trần có phải đang chém giết lẫn nhau đấy không?.   Chớ thì bao nhiêu thai nhi hằng năm cứ bị cha mẹ chúng giết chết mà ngay cả một tiếng khóc chào đời cũng không được nghe thấy đấy không?.   Rồi thì con người dần làm cho trái đất ngày một biến dạng, xấu đi vì thải ra vô số độc tố mà con người ngày càng bị nhiễm nhiều chứng bệnh lạ mà khoa học chưa kịp tìm ra được loại thuốc để trị liệu hay hủy diệt được những vi khuẩn ung thư rất mới mẻ này.

Nhưng dẫu sao thì ai ai cũng chỉ có một đời để sống và để chết, cái quan trọng là Linh Hồn sống đời của chúng ta kìa mới là đáng kể như ngay hiện nay có ai tưởng tượng được con số Linh Hồn hiện đang bị giam cầm nơi Luyện Ngục là bao nhiêu mà không là nhiều nhiều lắm, thưa có phải?.

Hầu hết người Kitô hữu chúng ta đều hiểu được rằng không gì quan trọng và thiết yếu cho bằng là có được sự sống ở đời sau và là đến được một thế giới mới nơi không còn có Sinh, bệnh, lão, tử và càng không có những thân xác có giòi bọ hay vi khuẩn làm cho ta chết nữa được.

Ôi sung sướng là nhường bao khi tất cả chúng ta đều có được người Mẹ luôn luôn bảo bọc con cái của mình.   Do đó mà chúng ta rất cần tôn sùng và siêng năng chạy đến cùng Mẹ liên, để được Mẹ yêu thương gìn giữ xác hồn cho đến giờ lâm tử.   Nhưng cái khổ trong nhiều người chúng ta là hiện đang cố gắng để tích góp mà quên sống cuộc sống ngay lành.

Mà người thích tích góp của cải thì lại đi ngược với đường lối dạy dỗ của Thiên Chúa vì người khổ công tích góp của cải thường sống xa Chúa xa Mẹ, dị ứng với Giới Răn sống yêu thương của Thiên Chúa mà chúng quỷ dữ xui khiến cho chúng ta chọn cách sống ấy và chúng đã thành công!?.

Chúng ta là những con người vô cùng may mắn vì có được Mẹ Maria là Mẹ rất yêu dấu của chúng ta và vì Mẹ luôn làm phép lạ để nhắc nhở con cái Mẹ là Mẹ luôn có mặt và luôn ở gần bên nhất là những con cái siêng năng đọc kinh Mân Côi.   Càng đọc nhiều thì Mẹ càng biết con cái Mẹ hiện đang ở đâu, được Mẹ nối kết và đem chúng ta đến gần bên Thiên Chúa hơn.   Amen.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

A very short introduction into the Vietnamese culture

 A very short introduction into the Vietnamese culture

By Doan Thanh Liem

*     *     *

In a narrowest sense, the culture of a people can be defined as the way this people live, grow, expand and survive from generation to generation throughout their long history. Thus we can say that their culture is the national patrimony that has been constantly accumulated since the foundation of the nation-state.

Even as a small country, Vietnam has started its history more than 4,000 years ago with its distinct language, laws, customs, traditions, and administration …Facing its giant neighbour China, Vietnam has acquired both positive and negative aspects of this “big brother’s” influence.

Although they suffered almost a thousand years of Chinese domination, Vietnamese people have stubbornly succeeded in preserving their own national identity and sovereignty, no less than have the Japanese and the Koreans, both being also “little brothers” to the Chinese. One of the most fundamental notions of their history is their survival as a proud people that have not been absorbed or assimilated into the Chinese nation. And their most revered heroes are those who fought ferociously and sucessfully against the invasion from the north, i.e China. This collective pride has been a constant factor that miraculously helps to galvanize the nation against whatever menace from foreign powers such as China, France or even America.

Looking into other socio-cultural aspects, one can easily discern out the enormous difference between the Chinese and the Vietnamese. Such as the language, there is for example the purely Vietnamese side by side with the Sino-Vietnamese words with totally different pronunciation and writing ways, so that the Chinese can hardly understand what the Vietnamese say and vice versa. This distinction is also significantly seen in other areas like philosophy, literature, arts, music.

Thanks to its geographical position, Vietnam also has had a long time relation with the countries to the west such as Thailand, India and also particularly Europe since the XVI century. This kind of relation has been a counterbalance to the dominating influence from China in the north and had a diversifying effect in the overall heritage of the country.We may note that the romanisation of the Vietnamese language initiated by Catholic priests from Europe, especially from Portugal and Spain in the late 1500s, has been a striking boost to the modernization of the country.

Since the mid-XIX century, the French occupation of the country, like the Chinese one earlier, has had both positive and negative influence in the cultural life of Vietnam. Later, it was the Japanese rule during the second world war and the American presence since the 1950s that brought about determiningly drastic changes in Vietnamese society and culture.

Since 1954, when Vietnam was divided into two regions, the north affiliated with the Soviet bloc, and the south aligned with western powers, the country has undergone profound change not only in political terms, but also in socio-cultural sphere as well. The civil war started early in the 1960s and ended in 1975 with the communist army from the north winning over the antagonist southern forces which were mainly supported by the US. This military victory has resulted in placing the southern part, usually known as “ The Republic of South Vietnam “ strictly under one unique communist administration. This “involuntary unification of the country” continued to have a lasting and devastating effect on the country, materially as well as morally and spiritually.

Since the collapse of the Berlin wall in 1989 and then the liquidation of the Soviet regime in Eastern Europe (and especially Russia), Vietnam has been undergoing a tremendous change in its economic “open door policy”, which is officially labeled by the leaders as “ a market economy with socialist orientation”. But unfortunately, the governing communist party still strictly adhered to the Chinese model of “totalitarian communist dictatorship”, and therefore mercilessly exercices severe restrictions on the social, political, cultural and religious life of the people. Numerous democracy and human rights activists have been constantly harassed and arrested. And there are evidently no basic freedoms for the people as a whole../

Virginia, May 2010

Doan Thanh Liem

Chuyện đảng và chuyện đất nước

Chuyện đảng và chuyện đất nước

 Nguyễn An Dân Gửi tới BBC từ TPHCM

clip_image002

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12 dự kiến khai mạc vào hạ tuần tháng 01/2016.

Cũng còn vài ngày nữa là đến đại hội đảng 12 và đang bước vào năm mới 2016.

Và vì Đảng Cộng Sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo Việt Nam nên chuyện đảng cũng ảnh hưởng vào đất nước.

Ngược lại cũng thế, đất nước chính là cái nôi của đảng nên tình hình đất nước cũng sẽ ảnh hưởng vào đảng dù ít dù nhiều.

Chính vì thế, tôi cũng muốn viết vài dòng chấm phá.

Những ngày qua dư luận xôn xao bàn tán về việc ai lên ai xuống, về các “bí mật nhà nước” bị lọt lộ qua các website tự lập, qua các “báo lề trái”…

Trước tiên xin phép đính chính lại lời của Bộ Trưởng Công An Trần Đại Quang, những “bí mật” bị lọt lộ không phải là bí mật nhà nước, mà là bí mật của đảng.

Những bí mật bị lọt lộ đó nó phản ánh đảng không yên ổn như đảng vẫn nói, mà nó chính thức xác nhận cho quần chúng biết là đảng đang có những vấn đề nội bộ nghiêm trọng.

Những vấn đề nội bộ đó, phải chăng chính là việc tranh chấp chiếc ghế Tổng Bi Thư đảng, chức vụ chính trị cao nhất của đất nước, giữa nhóm này phe kia?

Tôi e rằng lời đồn này có lý nếu nhìn vào việc đảng đã bỏ ra nhiều thời gian hơn trước đây để làm công tác nhân sự. Nhất là việc phải mở ra các “hội nghị trung ương phụ” thứ 13-14.

Chuyện đảng

clip_image003

Bộ trưởng công an Việt Nam, Đại tướng Trần Đại Quang (thứ hai từ trái) cảnh báo việc ‘lọt lộ bí mật nhà nước’ thời gian gần đây ở Việt Nam.

Đến nay dư luận đều đang đồn đoán, một phần theo các “bí mật” bị lọt lộ, một phần theo tình hình xã hội là phe này đã thua phe kia đang thắng. Theo tôi, nhận định bất kỳ sự thắng thua nào lúc này đều là hơi sớm, vì bàn cờ chính trị Việt nam lúc này e rằng phức tạp hơn trước đây. Việc nhận định chính xác về mỗi phe sẽ giúp quần chúng thấy ra mình cần nói gì, làm gì để góp phần vào sự thay đổi đất nước theo chiều hướng tích cực.

Chưa bao giờ sự tranh chấp về đường lối của đảng kéo dài và căng thẳng như lần này. Ở các lần trước, kể cả thời kỳ tranh chấp về Đổi Mới 1986, cũng không kéo dài và căng thẳng như bây giờ. Điều đó cho thấy tương quan lực lượng giữa các bên là cân bằng, chính vì vậy mà nó phải kéo dài, và phải đợi phút 90 tan trận đấu, mốc là Đại Hội Đảng 12, để có kết quả chính thức.

Nhiều người nói rằng trong nội bộ đảng CSVN chỉ có phe thân Trung Quốc và phe “ít thân Trung Quốc hoặc đang giả vờ không thân Trung Quốc”. Tôi e rằng nhận định này không chính xác. Việc xác định phe nào thân ai có tác dụng hết sức quan trọng, khi muốn phán đoán các thay đổi chính trị của phe thắng cuộc ( trúng cử Tổng Bí Thư) sau này. Vì thay đổi đó có ảnh hưởng quan trọng với tương lai đất nước

Trước tiên, cần nhìn rõ là quan điểm “thân Trung Quốc” là đường lối chỉ đạo xuyên suốt trong phần lớn thời gian từ thành lập đến nay của đảng. Bất kỳ những xu hướng thân nước khác đều dẫn đến việc đảng phải thanh trừng nội bộ, ví dụ cụ thể là vụ án “xét lại chống đảng” thập niên 60 và vụ bỏ trốn sang Trung Quốc của ông Hoàng Văn Hoan vào thập niên 90 dưới thời kỳ ông Lê Duẩn nắm quyền khi ông này theo dư luận nhận định là “thân Liên Xô mà không thân Trung Quốc”.

Một nguyên tắc chính trị là nếu có tranh chấp về phe nhóm trong nội bộ, thì phe đòi thay đổi phải hướng về việc tìm đồng minh ở bên ngoài. Thành ra nếu muốn đối trọng với phe “thân Trung Quốc” thì dĩ nhiên phe kia phải tìm Mỹ, vì ngoài Mỹ ra, còn nước nào đủ sức mạnh để ủng hộ họ đủ tầm để đối trọng với “phe thân Trung Quốc”?

Nguyên tắc chính trị của Mỹ là ai tìm đến mình thì Mỹ cũng ủng hộ và tiếp đón tử tế, thế thì hà cớ gì Mỹ không ủng hộ phe muốn thay đổi đường lối trong đảng CSVN. Thành ra tôi xin nhận định là cuộc tranh chấp này là cuộc tranh chấp giữa “thân Trung” và “thân Mỹ” vì các lẽ trên. Và chính vì Mỹ có đầy đủ sức mạnh để tranh giành ảnh hưởng với Trung Quốc, nên mới dẫn đến cuộc diện 2 nhóm đồng minh Trung-Mỹ trong đảng CSVN “ngang sức ngang tài”, làm cuộc diện tranh chấp kéo dài đến giờ chót như hôm nay

Và vì thế, nhận định cuộc tranh chấp nội bộ này của đảng không có “phe thân Mỹ” mà chỉ có việc “ít thân Trung Quốc hay chỉ giả vờ chống Trung” e rằng không hợp lý, không có Mỹ thì phe đó lấy gì đủ lực để chống phe kia. Còn nói giả vờ đóng kịch là thân Mỹ thì càng không đúng, không lẽ Mỹ khờ khạo đến mức bị một nhóm trong đảng CSVN qua mặt ?

Đáng tiếc là điều lý luận đơn giản này cũng không phải ai cũng thấy, thành ra thời gian qua quần chúng loay hoay bình luận phán đoán, và nhiều nhà quan sát chính trị cũng từ đó mà đưa ra nhiều bình luận làm quần chúng, vốn dĩ đã thiếu tin tức vì sự không minh bạch của đảng, càng rơi vào hỗn loạn thêm.

Mèo vẫn hoàn mèo?

clip_image004

Theo kế hoạch, Đại hội 12 của Đảng cộng sản Việt Nam sẽ công bố giàn lãnh đạo mới của đảng và nhà nước VN cùng các vị trí cao cấp trong các ban ngành của đảng.

Người ta cũng nói rằng dù cho phe thân Mỹ lên cầm quyền thì đất nước cũng thế, thì vẫn là cộng sản cầm quyền, mèo vẫn hoàn mèo, đất nước và nhân dân chả có lợi ích gì.

Nếu coi xu hướng thân Trung Quốc là điều phải có và bất biến của đảng, thì việc phe thân Mỹ lên cầm quyền là một sự thay đổi. Trong trạng thái bất động chuyển sang thay đổi của đảng nó sẽ tạo ra động tính làm nảy sinh cái mới, và vì cái cũ đang là cái mà mọi người phê phán chỉ trích, thì cái mới nó sẽ làm tình hình khác đi, và biết đâu từ đó sinh ra cơ hội tốt hơn. Vậy hà cớ gì chúng ta không cùng thúc đẩy đảng thay đổi để tìm cơ hội, mà ngồi đó kêu ca về việc mèo sẽ hoàn mèo?

Những “bí mật của đảng” bị lọt lộ cho thấy sự tranh đấu cung đình dường như đã đi vào cuộc diện “một mất một còn”. Kinh nghiệm từ lịch sử về tư duy chính trị phương đông cho thấy đa số các kết thúc của các cuộc nội chiến cung đình là ngai vàng cho kẻ thắng và nhà tù hoặc nhà mồ dành cho kẻ thua. Cuộc cung đình đấu trong nội bộ đảng CSVN hiện nay với những diễn biến của nó cho thấy kết thúc đó có nhiều khả năng xảy ra.

Có nhiều dư luận nói rằng phe này đấu với phe kia hiện nay vì là ghế và lợi ích tiền bạc chứ không phải vì có một phe muốn thay đổi hiện trạng đất nước. Nhận định này e rằng không logic. Lịch sử chính trị chưa có tiền lệ nào về tranh chấp ngai vàng vì tiền hay lợi ích tầm thường cả. Những phe nhóm, cá nhân có đủ thực lực tranh chấp ngai vàng thì tiền và lợi ích kinh tế không thiếu, nếu vì cái này mà mạo hiểm sinh mạng , đối mặt với nguy cơ vào tù hay bị ám sát cho cả bản thân, gia đình, đồng minh anh em…thì không ai làm cả.

Những quan chức trong nội bộ đảng đã vào tầm lãnh đạo cao cấp thì e rằng tiền và oai phong đầy đủ, họ không dại mà mạo hiểm tối đa cả tính mệnh và sinh mạng chính trị nếu chỉ đơn thuần vì những lợi ích tầm thường. Tiền thì ai cũng cần, nhưng phải còn mạng và tự do để mà hưởng thụ. Việc một lãnh đạo trong nhóm tứ trụ đi Trung Quốc vừa qua đã có nhiều dư luận là đi “cầu ngoại bang”. Một quan chức khác cũng trong nhóm tứ trụ đã gián tiếp phê phán qua lời huấn thị “ không để nước ngoài can thiệp vào nội bộ đất nước”. Nếu bỏ qua thuyết âm mưu, thì hai việc này cho thấy chuyện tranh chấp nội bộ đã ở mức không còn thỏa hiệp được nữa nên các quan chức đó phải làm và nói ra những điều không nên làm và không nên nói lúc này.

Điều này một lần nữa chứng minh tư duy chính trị phương Đông là đúng, ngai vàng (nếu coi ghế TBT là tương đương ngai vàng) là không thể đem ra thỏa hiệp hay thương lượng nếu đã quyết định bước vào tranh chấp. Do đó những dự đoán là ông này của phe này sẽ là Tổng Bí Thư, đổi lại là nhường cho phe kia các ghế khác e rằng là những suy đoán thiếu logic.

Việc đảng huy động 5200 quân nhân (chưa có tiền lệ) cho cuộc đại hội đảng này là một chỉ dấu cho thấy đảng đang thấy mình mất an toàn. Đảng e ngại quần chúng biểu tình bạo loạn hay là phe này huy động để kềm chế phe kia có thể là động cơ của hành động này chăng?

clip_image005

An ninh được đề nghị thắt chặt trước Đại hội và lãnh đạo đảng cũng đề nghị các lực lượng quân đội, công an ở Thủ đô tăng cường cảnh giác ‘không để bị bị động, bất ngờ’.

Trong các cuộc cung biến, hoàng đế hay đi thăm gặp các quan chức phòng vệ cung đình như quan cửu môn đề đốc hay lãnh ban đại thần nội thị vệ. Việc một lãnh đạo đảng đi thăm Quân Khu Thủ Đô, Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát cơ động… có thể lý giải dưới góc nhìn này ?

Cũng thế, trong các cuộc cung biến, phe đối lập cũng có các thân vương đại thần nắm trọng quyền quân đội ẩn dấu và bí mật hành tung. Việc vài ông tướng cao cấp trong lãnh đạo quân đội Việt Nam vắng mặt trên truyền thông kéo dài mấy tháng qua phải chăng cũng là 1 chỉ dấu quan trọng ? Đó là những cái mà tôi thấy dư luận cần chú ý khi bình xét về đảng lúc này. Trong toàn thể bức tranh đang bị dư luận coi là rối loạn, có một điểm sáng, đó là việc các ủy viên trung ương đảng đã vì phân vân mà kéo dài việc ra quyết định trong việc phải ủng hộ đường lối nào.

Bất kể vì động cơ gì, tư duy phân vân này của họ là điều tôi cho rằng tích cực và cần được ghi nhận. Còn một vòng lựa chọn cuối cùng là đại hội đảng, mong rằng các đại biểu dự đại hội có quyết định sáng suốt để đưa đảng, đất nước thoát khỏi tình trạng bế tắc, thoát khỏi những cái trói buộc cũ để đi đến những cái tốt đẹp hơn.

Chuyện nước

Việc luật sư Nguyễn Văn Đài bị bắt vừa qua e rằng sẽ làm đất nước khó khăn hơn trong bước đường hội nhập.

Các tín hiệu từ Mỹ cho thấy Quốc Hội Mỹ sẽ xem xét kỹ hơn việc phê duyệt chính thức cho Việt Nam vào TPP vì việc này xảy ra.

Việc ông Đài bị bắt được quần chúng gán cho nhiều thuyết âm mưu, nào là “giết gà, răn khỉ”, nào là phe này muốn phá thành quả đàm phán TPP của phe kia… bất kể động cơ gì, thì việc đàn áp dân chủ-nhân quyền cũng là điều sẽ làm Việt Nam bị thiệt thòi do hành xử không theo trào lưu chung của nhân loại.

Từ “đảo chính” cũng tràn ngập trên các mạng xã hội mấy ngày qua là một điều thú vị.

Tuy nhiên tôi không mong đảo chính xảy ra vì đất nước sẽ rơi vào hỗn loạn.

Đất nước vừa được nghỉ ngơi sau chiến tranh, mong rằng đảng đừng để đất nước hỗn loạn vì những tranh chấp đường lối không cần thiết.

Việc chọn nước nào là đồng minh thật sự khi nguy cơ mất biển đảo hiện hữu là điều mà đảng cần quyết theo lòng dân. Nếu để đất nước hỗn loạn lúc này, lỗi là do đảng.

clip_image006

Các lãnh đạo đảng, nhà nước Việt Nam và Trung Quốc đã có các tiếp xúc cuối năm 2015 trong nhiều dịp.

Những hoạt động chính trị của người dân chủ lúc này cần thận trọng.

Nếu việc đảng đang cháy nhà là có, thì bất kỳ người ngoài nào lảng vảng xung quanh cũng dễ bị quy cho âm mưu hôi của và bị đảng bắt bớ tù đày.

Cũng thế, những bài viết chính luận thiếu logic, hợp lý cũng sẽ dễ làm quần chúng rối loạn.

Có vẻ Trung Quốc muốn Việt Nam rối loạn hơn là Mỹ, vì vị trí địa lý của họ gần Việt Nam, họ can thiệp nhanh hơn.

Thành ra việc cung cấp cái nhìn chính xác logic cho quần chúng để họ có tự ra quyết định quan trọng hơn là việc đưa ra các nhận định có thể gây ra sự hỗn loạn và chia rẽ.

Và sau cùng, những điều kiện cần và đủ cho sự chuyển mình của đất nước đang hội tụ, nếu bỏ qua cơ hội này, Việt Nam sẽ lại chậm chân lần nữa so với thế giới. Trách nhiệm đó không chỉ của đảng, mà còn của toàn dân, trong đó có tôi và chúng ta.

N.A.D

Nguồn: http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2016/01/160103_nguyenandan_congress_12

Những bức ảnh ấn tượng nhất của Reuters trong 30 năm.

Những bức ảnh ấn tượng nhất của Reuters trong 30 năm. 

Nhân dịp kỷ niệm 3 thập kỷ ra mắt dịch vụ ảnh, hãng Reuters đăng tải hàng loạt bức hình ấn tượng nhất do các phóng viên chụp tại những sự kiện lớn hay vùng chiến sự trên thế giới.

Nhiều người cùng kéo một thi thể ra khỏi đống đổ nát sau khi một quả bom nhằm vào đại sứ quán Mỹ tại Nairobi đã phát nổ tại Nairobi. Mục đích của việc kích hoạt bom là nhằm vào đại sứ quán Mỹ tại đây. Vụ việc khiến 250 người thiệt mạng và 5.000 người bị thương.

Nhiều người cùng kéo một thi thể ra khỏi đống đổ nát sau khi một quả bom nhằm vào đại sứ quán Mỹ tại Nairobi đã phát nổ. Vụ việc khiến 250 người thiệt mạng và 5.000 người bị thương.

 Phóng viên Shannon Stapleton ghi cảnh các nhân viên cứu hộ khiêng người bị thương ra khỏi đống đổ nát sau khi một trong hai tòa tháp trung tâm thương mại thế giới tại New York, Mỹ, bị khủng bố ngày 11/9/2001.

Phóng viên Shannon Stapleton ghi cảnh các nhân viên cứu hộ khiêng người bị thương ra khỏi đống đổ nát sau khi một trong hai tòa tháp Trung tâm Thương mại Thế giới tại New York, Mỹ, bị khủng bố ngày 11/9/2001.

Adrees Latif ghi hình ảnh phóng viên Kenji Nagai của hãng AFP bị thương nhưng vẫn cố gắng chụp cảnh tượng cảnh sát và quân đội Myanmar nổ súng và đuổi người biểu tình tại trung tâm thành phố Yangon.

Adrees Latif ghi hình ảnh phóng viên Kenji Nagai của hãng AFP bị thương nhưng vẫn cố gắng chụp cảnh tượng cảnh sát và quân đội Myanmar nổ súng và đuổi người biểu tình tại trung tâm thành phố Yangon, ngày 27/9/2007. Đây là cuộc biểu tình của hàng nghìn người Myanmar nhằm phản đối chính phủ vì giá nhiên liệu tăng cao.

Nhiếp ảnh gia Juan Medina ghi lại cảnh tương phản khi một nhóm người tắm nắng trên bãi biển Gran Tarajal (Tây Ban Nha), trong khi một người da đen di cư đang dần kiệt sức sau chuyến hành trình lênh đênh trên biển. Những người di cư từ châu Phi tới châu Âu với hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Phóng viên ảnh Juan Medina ghi lại cảnh tương phản khi một nhóm người tắm nắng trên bãi biển Gran Tarajal (Tây Ban Nha), trong khi một người da đen di cư đang dần kiệt sức sau chuyến hành trình lênh đênh trên biển. Những người di cư từ châu Phi tới châu Âu với hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Lính cứu hỏa nỗ lực cắt một phần đường ống và khống chế đám cháy tại giếng dầu ở Kuwait năm 1991. Bức ảnh của nhiếp ảnh gia Russell Boyce cho thấy cảnh đám lửa cháy rực và vụ nổ đã thổi bay mũ bảo hiểm của một lính cứu hỏa.

Lính cứu hỏa nỗ lực cắt một phần đường ống và khống chế đám cháy tại giếng dầu ở Kuwait năm 1991. Bức ảnh của phóng viên Russell Boyce cho thấy cảnh đám lửa cháy rực và vụ nổ đã thổi bay mũ bảo hiểm của một lính cứu hỏa.

Cảnh tượng tan hoang tại thành phố London, Anh sau hai vụ đánh bom do nhóm khủng bố Cộng hòa Ireland (IRA) thực hiện. Vụ việc khiến hàng chục người bị thương.

Cảnh tượng tan hoang tại thành phố London, Anh sau hai vụ đánh bom do nhóm khủng bố Cộng hòa Ireland (IRA) thực hiện. Vụ việc khiến hàng chục người bị thương.

Phóng viên Robert Galbraith chụp cảnh một người đàn ông bám chặt nóc xe ô tô và chờ cơ lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ tới giải cứu sau khi cơn bão Katrina tấn công bang Louisiana, năm 2005.

Phóng viên Robert Galbraith chụp cảnh một người đàn ông bám chặt nóc ôtô và chờ cơ lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ tới giải cứu sau khi cơn bão Katrina tấn công bang Louisiana, năm 2005. . Galbraith chớp được hình ảnh ấn tượng này khi anh đang ở trên máy bay.

Lính cứu hỏa nỗ lực cắt một phần đường ống và khống chế đám cháy tại giếng dầu ở Kuwait năm 1991. Bức ảnh của nhiếp ảnh gia Russell Boyce cho thấy cảnh đám lửa cháy rực và vụ nổ đã thổi bay mũ bảo hiểm của một lính cứu hỏa.

Bức ảnh của phóng viên ảnh Yannis Behrakis cho thấy cảnh hàng chục dân tị nạn người Kurd chen chúc nhau để giành ổ bánh mỳ khi các nhân viên cứu trợ nhân đạo phân phát cho họ tại vùng núi Isikveren, biên giới giữa Iraq và Thổ Nhĩ Kỳ.

 Phóng viên ảnh Viktor Korotayev ghi lại khoảnh khắc một cảnh sát Nga bế em bé trên tay và rời khỏi khu vực nguy hiểm sau cuộc khủng hoảng con tin đẫm máu tại trường học Beslan, Bắc Ossetia, tháng 9/2004. Bức ảnh sau đó xuất hiện trên trang nhất của nhiều ấn phẩm báo chí toàn cầu.

Phóng viên ảnh Viktor Korotayev ghi lại khoảnh khắc một cảnh sát Nga bế em bé trên tay và rời khỏi khu vực nguy hiểm sau cuộc khủng hoảng con tin đẫm máu tại trường học Beslan, Bắc Ossetia, tháng 9/2004. Bức ảnh sau đó xuất hiện trên trang nhất của nhiều ấn phẩm báo chí toàn cầu.

Ký ức kinh hoàng về vụ bắt cóc con tin ở Nga 10 năm trước

Tròn 10 năm sau cuộc khủng hoảng con tin trường học Beslan tại Cộng hòa Ossetia thuộc Nga, hình ảnh về vụ bắt cóc vẫn ám ảnh tâm trí nhiều người.

 Hình ảnh bé Glassa Galisou, 1 tuổi, mắc chứng suy dinh dưỡng đang đặt bàn tay gầy gò lên miệng của mẹ em tại khu vực cung cấp thức ăn khẩn cấp ở thị trấn Tahoua, phía tây bắc Niger.

Hình ảnh bé Glassa Galisou, 1 tuổi, mắc chứng suy dinh dưỡng đang đặt bàn tay gầy gò lên miệng của mẹ em tại khu vực cung cấp thức ăn khẩn cấp ở thị trấn Tahoua, phía tây bắc Niger.

 Người phụ nữ gào khóc và gọi tên chồng và con gái sau một trận động đất ở tỉnh Tứ Xuyên, tây nam Trung Quốc. Đây là bức hình của Jason Lee.

Người phụ nữ gào khóc và gọi tên chồng và con gái sau một trận động đất ở tỉnh Tứ Xuyên, tây nam Trung Quốc. Đây là bức hình của phóng viên Jason Lee.

 Phóng viên ảnh Ahmed Jadallah chụp cảnh tượng nhiều thi thể nằm giữa đường tại trại tị nạn Jabalya ở phía bắc dải Gaza sau một cuộc không kích. Bức ảnh của Jadallah đã giành giải Ảnh báo chí thế giới ở thể loại tin nóng.

Phóng viên ảnh Ahmed Jadallah chụp cảnh tượng nhiều thi thể nằm giữa đường tại trại tị nạn Jabalya ở phía bắc dải Gaza sau một cuộc không kích. Bức ảnh của Jadallah đã giành giải Ảnh báo chí thế giới ở thể loại tin nóng.

 Một người đàn ông Lebanon hét to để tìm kiếm sự giúp đỡ sau khi thấy một người bị thương nặng tại khu vực gần nơi vụ đánh bom xe xảy ra tại Beirut. Vụ nổ đã khiến cựu Thủ tướng Lebanon Rafik al-Hariri và 8 người khác thiệt mạng.

Một người đàn ông Lebanon hét to để tìm kiếm sự giúp đỡ sau khi thấy một người bị thương nặng tại khu vực gần nơi vụ đánh bom xe xảy ra tại Beirut. Vụ nổ đã khiến cựu Thủ tướng Lebanon Rafik al-Hariri và 8 người khác thiệt mạng.

 Người dân Palestine cố chạy thoát khỏi loạt hơi cay do các binh sĩ Israel bắn trong một cuộc đụng độ tại thị trấn Khan Younis, phía nam của dài Gaza.

Bức ảnh chụp cảnh người dân Palestine cố chạy thoát khỏi loạt hơi cay do các binh sĩ Israel bắn trong một cuộc đụng độ tại thị trấn Khan Younis, phía nam của dải Gaza.

Từ Nguyễn Hữu Đang đến Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Văn Đài

Từ Nguyễn Hữu Đang đến Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Văn Đài

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến 

RFA

Quản giáo hống hách như các “cô mậu” thời bao cấp.

Đoan Trang

Có lẽ vì tuổi đời chưa được nhiều, và vì không am hiểu rõ  về phong tục cùng tập quán của dân tộc Việt nên mới đầu năm/ đầu tháng – thay vì kiêng cữ cho nó lành – blogger Đoan Trang đã buông đôi lời không được nhã nhặn cho lắm đối với bộ công an (nói chung) và giới quản giáo coi tù (nói riêng) như sau:

Quản giáo hống hách như các “cô mậu” thời bao cấp…

Buổi sớm 2/1/2016, Hà Nội vẫn hơi lạnh và mờ mờ tối như những sáng mùa đông khác, nhưng chị Lê Thị Minh Hà (vợ blogger Ba Sàm) và chị Vũ Minh Khánh (vợ luật sư Nguyễn Văn Đài) đã dậy từ sớm để chuẩn bị đồ tiếp tế, mang vào trại B14 nuôi chồng.

Đây là lần thăm nuôi đầu tiên của họ trong năm 2016. Từ tháng 11 vừa qua, Trại tạm giam B14 (thuộc Cục An ninh Điều tra, Bộ Công an) đã lên lịch “gửi quà” cho người bị tạm giam, tạm giữ trong cả năm 2016. Theo đó, mỗi tháng Trại ấn định hai ngày cho thân nhân đến thăm nuôi người bị nhốt bên trong – nói trắng ra là NUÔI, vì chẳng ai sống nổi nếu không có đồ tiếp tế mà chỉ dựa vào trại.

Có đến đây mới thấy vô vàn cái bất cập và vô nhân đạo của hệ thống nhà tù, trại giam ở Việt Nam. Hay nói đơn giản hơn, đây là nơi mà sự chà đạp quyền con người trong xã hội được thể hiện một cách thô thiển và trêu ngươi nhất…

Cán bộ quản giáo nắm quyền xét duyệt đồ thăm nuôi, coi như có toàn quyền quản lý dạ dày của người bị giam, nên oai lắm, hống hách lắm, hét ra lửa mửa ra khói y như mậu dịch viên thời bao cấp. Ở họ, toát lên một thái độ kỳ lạ: luôn sẵn sàng ngồi lên đầu dân ngay lập tức, nếu thấy dân có vẻ run, yếu thế, dễ bị bắt nạt.

 Trong căn phòng đăng ký chật chội ở bên ngoài trại (là nơi người nhà khai báo và gửi đồ vào trong trại, cán bộ tiến hành kiểm tra, kiểm duyệt, cân đong đo đếm v.v.), luôn nghe thấy tiếng cán bộ la lối: “Chị Vinh đâu nhở?”, “Bà X. khai xong chưa? Làm cái gì lâu thế?”. Hễ viết sai một chữ là người đi thăm nuôi phải làm lại tờ khai mới, trong khi liên tục bị thúc giục, quát lác xơi xơi.

Chị Lê Thị Minh Hà đang nộp phiếu gửi đồ cho trại thì Thiếu tá Nguyễn Thị Kim Oanh, số hiệu 204-291, cao giọng: “Lần sau đi thăm nuôi thì chị đi một mình thôi. Một mình chị. Nhá”. Chị Hà hỏi có chuyện gì, cô thiếu tá này trỏ tay vào mấy bạn trẻ đi cùng (đưa chị Hà và chị Khánh đến trại): “Thì chị nhìn đấy. Họ đến đây làm mất trật tự”.

Thiếu tá Nguyễn Thiện Khánh, số hiệu 009-268, tranh thủ ngay: “Mời các anh chị ra ngoài. Đi về. Về”. Mọi người bực bội: “Chưa xong việc, về cái gì mà về?”.

Cô Kim Oanh lại hống hách: “Tôi không làm việc với các anh các chị. Tôi chỉ làm việc với chị Hà đây thôi. Nhá. Mời các anh chị về”…

Khách quan mà nói thì qúi vị quản giáo của trại giam B14 đã làm việc hoàn toàn theo “đúng qui trình,” và ngôn từ  của họ (nghe) cũng đâu đến nỗi nào:

– Chị Vinh đâu nhở?

Bà X. khai xong chưa? Làm cái gì lâu thế?

– Mời các anh chị ra ngoài. Đi về. Về.

Thì cũng ông/bà hay anh /chị đàng hoàng, chứ có phải là thằng này/ con nọ gì đâu – đúng không? Thế mà Đoan Trang vội vàng kết luận là “quản giáo hống hách như các ‘cô mậu’ thời bao cấp!”

Tôi e rằng nhà báo của chúng ta cũng chả rõ gì mấy về cái thời bao cấp này đâu. Trong lúc nóng giận cô chỉ nói (đại) thế thôi.

Muốn biết thực/hư ra sao, phải nghe qua đôi lời từ những người tù thời đó kìa. Trước hết, xin giới thiệu ông Nguyễn Hữu Đang, một người tù nổi tiếng hồi thập niên 60, nói qua (chút xíu) về nội qui của trại mình:

“Án bao nhiêu năm chẳng quan trọng, chẳng đáng kể. Không một mối liên hệ với bên ngoài, không thư từ, không thăm nom, không tiền hay quà hay lương thực gửi tới – không, anh không nhận được chút gì của bạn bè hay gia đình. Anh không có quyền nhận thăm nom, không tiếp xúc với bên ngoài. Anh chỉ sống chuyên giữa các anh với nhau, những người tù, những tù nhân chính trị. Thế giới của anh, nhân loại đối với anh là 200 người tù – không có những người đồng tổ quốc, đồng công dân; với anh, không có gì hết, chỉ có 200 người đồng ngục cùng một số phận…”

Kế tiếp là một người tù nổi tiếng (không kém) khác, cũng bị bắt giam vào năm 1959, ông Kiều Duy Vĩnh:

“Mẹ tôi đến Bộ Công An ở phố Trần Bình Trọng hỏi về anh con bị tù. Gác cửa không cho vào. Nhưng từ nhà tôi ở chợ Hôm ra hồ Thiền Quang chưa đến 1 km nên hầu như liên tục khi nào mẹ tôi đi đâu là mẹ tôi lại tạt vào Bộ Công An quấy rầy họ. Đến nỗi người thường trực cứ trông thấy mẹ tôi là tránh mặt không tiếp.

Mẹ tôi cứ đến hỏi. Hỏi mãi. Riết rồi họ phải trả lời. Nhưng cũng mất hơn 3 năm họ mới cho mẹ tôi cái địa chỉ trại tù Cổng Trời: Công Trường 75A Hà Nội. Mẹ tôi lại hỏi tiếp: Thế cái công trường này nó ở chỗ nào ở cái đất Hà Nội này? Họ bảo họ không biết…”

Đến thập niên 70 thì tình trạng ở trại giam ở Việt Nam đã được cải thiện rất đáng kể, tử tế hơn thấy rõ. Thân nhân người tù được cho biết nơi giam giữ và được cho phép vào thăm nom, và chuyện trò với phạm nhân – theo lời của người tù Bùi Ngọc Tấn:

“Hắn bước lên bậc cấp. Người đầu tiên hắn nhìn thấy là ông Thanh Vân. Vợ hắn và Bình ngồi ở phía cuối chiếc bàn hình chữ nhật to dài. Ông Thanh Vân ngồi đầu này.

– Báo cáo ông, tôi có mặt.

Ông Thanh Vân chỉ tay vào một cái ghế ở giữa:

– Anh ngồi xuống. Trại giải quyết cho anh được gặp chị ấy, nhưng anh không được nhận đồ tiếp tế.

Lại thế nữa. Nhưng thôi. Không đề nghị, không van xin. Đồ tiếp tế là những thứ cứu sống mình nhưng cũng không là gì cả. Điều quan trọng là được gặp vợ, hai vợ chồng đôí thoại. Được nhìn nhau. Được nhìn Bình, người bạn không bao giờ bỏ hắn.

Những câu đối thoại không biết bắt đầu từ đâu, luôn bị ám ảnh bởi sợ hết giờ. Những câu đối thoại có sự hiện diện của ông quản giáo, chỉ là những điều dối trá. Thì thôi, hãy nói cho nhau nghe những điều dối trá. Chúng ta đã học cách nghe những lời dối trá để qua đấy biết được sự thật. Ông Thanh Vân đã lại lúi húi vào quyển sách giáo khoa. Lần này là quyển Vật lý lớp 10. Ông là một người vừa thâm canh, vừa quảng canh trí tuệ.

Vợ hắn lên tiếng trước:

– Anh có khoẻ không?

Hắn nhìn vợ. Nhìn thẳng vào mắt vợ. Vợ hắn cũng nhìn vào mắt hắn. Hai người nhìn nhau. Họ đọc trong mắt nhau tình yêu thương, nỗi khổ cực, sự đau đớn, niềm tin, sự phẫn uất, nỗi tuyệt vọng, lòng xót thương không bờ bến, sự khao khát bên nhau và nỗi hận không làm được cả vũ trụ nổ tung lên…

Hắn thở dài.

Hắn không muốn thở dài trước những ông quản giáo, vì hắn cho rằng tiếng thở dài của người tù sẽ đem lại niềm vui cho họ. Hắn không muốn tỏ ra mềm yếu trước mặt người khác. Nhưng lúc này tiếng thở dài là cái van xả xúp-páp an toàn. Nếu không người hắn sẽ nổ tung lên mất. Cả người hắn như một quả núi lửa, nghẹn ngào…

Ngọc giàn giụa nước mắt, những dòng nước mắt lặng lẽ. Hắn nhìn vợ không bằng lòng. Cái nhìn ấy muốn nói: Đừng khóc em. Có ai thương chúng mình đâu. Những giọt nước mắt của em anh không trả được.”  (Bùi Ngọc Tấn. Chuyện Kể Năm 2000, tập I. CLB Tuổi Xanh, Hoa Kỳ: 2000, 31- 34).

Đến đây – hy vọng – bà Lê Thị Minh Hà, bà Vũ Minh Khánh, cũng như nhà báo Đoan Trang, nếu không hoàn toàn hạ hoả thì cũng đã nguôi (giận) phần nào. Từ thời Nguyễn Hữu Đang đến thời của Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Văn Đài mới có hai thế hệ, hay nửa thế kỷ thôi – chỉ một cái chớp mắt của lịch sử chứ mấy – vậy mà lịch sử của hệ thống lao tù ở nước ta đã tiến một bước rất dài, gần như là nhẩy vọt (great leap forward) chứ đâu phải bỡn.

Lịch sử (vốn) tính bằng thế kỷ mà, không thể nào vội vàng được. Và cũng chả phải vội làm gì. Cứ từ từ vì  sẽ còn nhiều thế hệ người Việt vào tù nữa, nếu chế độ hiện hành vẫn còn có thể tiếp tục hoành hành ở Việt Nam.

Nỗi buồn cuối năm, nỗi buồn cuối đời

Nỗi buồn cuối năm, nỗi buồn cuối đời

Tạp ghi Huy Phương

 Nguoi-viet.com

Câu chuyện đi thăm Tướng Đỗ Kế Giai tại một nhà dưỡng lão ở Garland, Texas, đã ám ảnh tôi suốt một đêm khó ngủ. Đó là một buổi chiều Chủ Nhật vào cuối Tháng Mười Hai Dương Lịch, trời đã bắt đầu se lạnh, bãi đậu xe trống vắng bóng xe, gần như không có một người khách thăm viếng. Nhưng ông bà cụ già, ngồi trên xe lăn, dồn ra phòng khách, trên lối đi vào, với đôi mắt đờ đẫn không nhìn ai, hay gục mặt nhìn xuống thân mình, trong thói quen chờ đợi, hy vọng có một người thân của mình hiện ra trên ngưỡng cửa với một nụ cười, bó hoa hay món quà trên tay.

(Hình minh họa: Thomas Bjorkan/Wikipedia.org)

Tôi biết trên thế giới Tây phương có nhiều đứa con không dám đi du lịch xa, vì sợ con mèo, con chó hay bầy cá ở nhà không ai cho chúng ăn hay săn sóc, nhưng cha mẹ già thì đã có những nhà dưỡng lão. Thậm chí trong tình vợ chồng, người vợ còn mạnh khỏe, siêng đi lễ hay lên chùa, nhưng chồng thì cô đơn, trên chiếc xe lăn trong một nhà già quạnh hiu nào đó.

Chúng ta có bao nhiêu lý do để bào chữa, biện minh cho việc bỏ bê cha mẹ già trong một cơ quan y tế, được cho ăn mỗi bữa, áo quần có người giặt, vài ba ngày được đẩy xe vào phòng tắm, trần truồng và được cô y tá hay một nam nhân viên dội nước, xát xà phòng, vo đầu. Những việc săn sóc này dù có mang chút tình người đi nữa thì cũng là những công việc hằng ngày bắt buộc, thương ghét hay xúc động chỉ là những cảm tính vô ích.

Có những đứa con nại cớ bù đầu với công việc ở sở, và việc con cái bếp núc ở nhà nên không có thời gian dành cho cha mẹ già, đành phải đưa cha mẹ vào nhà dưỡng lão. Gần đây người ta lên tiếng hoan nghênh những người phụ nữ hy sinh lợi tức để ở nhà toàn thời gian chăm nom, săn sóc con cái, nhưng nào có ai nghe chuyện có những đứa con bỏ việc làm vì còn cha mẹ cần sự giúp đỡ lúc về già! Người ta thường kêu than không có thời giờ, “đầu tắt, mặt tối” nhưng còn có thời gian mua sắm trong các cửa hàng thời trang, mất một hai tiếng đồng hồ trong gym mỗi ngày, năm giờ cho một chương trình ca nhạc ở sòng bài, không tính thời giờ đi về. Đó là chưa kể thời gian “bắt buộc” phải ngồi trước máy điện toán, vào Facebook, hay trao đổi tin nhắn với bạn bè.

Người ta có thể mỗi năm tổ chức những chuyến du lịch bắt buộc, ra ngoài để mở tầm mắt trước thế giới, nhưng “nhắm mắt” làm ngơ về một lần sắp xếp thời gian đi thăm cha mẹ già.

Ngày xưa một người mẹ nuôi được năm mười đứa con, ngày nay cả năm mười đứa con không nuôi nổi được một mẹ, phải chăng vì vậy mà phải đẩy mẹ vào nhà dưỡng lão, để cho những người xa lạ trông coi. Ở đây có khi mẹ thiếu ăn, cơ thể mất nước, dơ bẩn trong mớ phân và nước tiểu, bị đối xử tàn tệ, cũng chẳng hề ai biết đến. Ngày xưa “bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn,” không có bậc cha mẹ nào có thể ngoảnh mặt trước cảnh con đói khát hay bị lăng nhục bởi một người khác.

Con biết giờ đây, “một ông già bằng ba đứa trẻ” cha “lẩm cẩm” bước đi, và mẹ phải nương lưng nhờ gậy chống.

Xưa kia khi các con còn thơ ấu, thân xác chưa trưởng thành và tâm hồn con yếu đuối, điều một điều hai vẫn là mẹ. Một đứa trẻ có thể biết lạnh, biết nóng, biết đói, biết khát, biết đau, nên khóc la, nhưng chóng quên, khóc đó rồi cười đó. Trái lại, một ông già còn biết buồn, biết tủi thân, biết xót xa mà chỉ biết gậm nhấm mang lấy nỗi buồn của riêng của mình, nên tuổi già cũng cần chăm sóc, gần gũi, ân cần như là một đứa trẻ, có khi còn hơn thế nữa!

Thói quen của người đời, người ta thường hỏi nhau có được mấy con, mấy ai quan tâm xem song thân còn hay mất! Đối với cha mẹ, con là tất cả, nhưng đối với con, cha mẹ là một thứ quá khứ cần xếp lại.

Ngày xưa, niềm vui của cha mẹ là nghe tiếng đứa con chập chững bi bô, hay toét miệng cười, ngày nay cha mẹ về già, các con ở xa, chỉ mong nghe tiếng điện thoại reo vui vào những ngày lễ, Tết, và đầu điện thoại bên kia có tiếng nói: “Mẹ ơi!” hay “Mẹ đó hả?”Trong cái tổ ấm cúng ngày xưa, và là cái tổ trống hoác ngày nay, khi các con đã đi xa, những cái phòng của các con vẫn để trống, biết đâu có ngày con về thăm bố mẹ. Con búp bê bằng nhựa, con gấu nhồi bông vẫn còn trên chiếc dương cầm phủ bụi của con gái, tủ sách, nhiều giải thưởng và những lá cờ kỷ niệm của trường đại học vẫn còn gắn trên bức tường trong phòng đứa con trai. Và ngôi vườn kia, đã đầy lớp lá vàng vào Thu hay phủ tuyết mùa Đông, cái ghế xích đu ngoài vườn ngày trước con thích ngồi, vẫn rung khẽ cùng cơn gió nhẹ.

Nhiều lúc cha mẹ muốn bán ngôi nhà cũ đầy ắp kỷ niệm, nhiều phòng, để đi tìm một cái condo, nhưng cứ nghĩ khi con về, và còn những đứa cháu nữa, sẽ ở đâu?

Cha mẹ Việt Nam tự an ủi, ru mình bằng bốn tiếng “nước mắt chảy xuôi” là mọi chuyện đều cho qua, nhận thức đời sống một phần cũng cho là duyên, là phước. Phải chi cha mẹ như cha mẹ nơi quê người, không hề lưu luyến, bịn rịn, ngay từ lúc đứa con đã trưởng thành rời mái ấm ra đi.

Nhưng có lẽ mọi điều không phải như vậy, dù bên trời Tây hay bên phương Đông.

Chúng tôi vừa được xem một đoạn phim rất ngắn kể chuyện một người già cô đơn ở phương Tây.

Những ngày lễ lớn năm nay, cô con gái tin cho biết là cô không về thăm cha được vì bận việc. Ông cụ lủi thủi một mình, cô đơn trong căn nhà nhỏ với những bữa cơm lặng lẽ hàng ngày. Nhưng rồi, cô con gái nhận được tin cha mình qua đời đột ngột, cô thu xếp cùng chồng trở về nhà.

Trên bậc cửa, cô thấy người cha thân yêu của cô hiện ra với tấm lưng còng và mái tóc bạc phơ. Cô bật khóc. Phải chăng vì nghe tin cha chết, cô mới trở về, trong khi còn sống, người cha cần có con, thì không có cô bên cạnh.

Nhưng cũng còn may. Cách đây mười mấy năm ở Paris, vào mùa Hè, có một trận nóng kinh khủng giết hàng trăm cụ già trong nhà dưỡng lão. Nhà nước thông báo cho những đứa con trở về lo chôn cất. Nhưng chúng, nhiều đứa đành xin lỗi, vì đang kẹt trong chuyến du lịch dài ngày ở xa!

Đường cùng của lưu manh đỏ và quy luật “cùng tất biến”

Đường cùng của lưu manh đỏ và quy luật “cùng tất biến”

WEB BA SA`M

Dân Luận

Nguyễn Xích Long

Trong bộ phim Chu Nguyên Chương có một câu ông này dạy con “triều đình là nơi tập hợp những kẻ ghê gớm nhất thiên hạ”, nhưng ông ta không được sống ở thời “Đại Vệ chí dị” để hiểu rằng những kẻ tập hợp về triều đình bây giờ đã phát triển đến mức thái cực cửa sự ghê gớm trở thành “lưu manh đỏ” và sự lưu manh cũng đã đi đến bước đường cùng như nhiều người đã từng phân tích.

Trong xã hội “Đại Vệ chí dị” từ lâu người ta đã có cụm từ “lưu manh trí thức” để chỉ ra loại lưu manh cao cấp đã thâm nhập vào khắp triều đình từ cấp cao nhất đến cấp cơ sở,mức độ lưu manh thì đểu cáng vô nhân kinh khủng vượt xa loại lưu manh hạ cấp đầu đường xó chợ. Loại lưu manh này phát triển đến nay đã trở thành “lưu manh đỏ” biết dựa vào lý luận triết học để lừa bịp mị dân, nhưng do vẫn chỉ là đầu óc lưu manh nên cũng chỉ là trình độ lừa bịp mà qua những phát ngôn gần đây của cả đống “lưu manh đỏ” cấp cao trong triều đình thiên hạ đã nhìn thấy sự biến thái đến bế tắc của đường cùng.

Có thể thấy rõ sự cùng quẫn khi không còn biết cách nào để lý luận bịp bợm mà đành ăn nói bừa bãi quàng xiên một cách láo lếu kiểu của bọn lưu manh đầu đường xó chợ không coi dân chúng ra gì, thiên hạ không còn ai hiểu biết nữa. Những câu nói mà nhiều người đã đưa lên FB dưới dạng “Mỗi ngày một thằng ngu” với rất nhiều ví dụ như “Tăng giá điện toàn dân đều có lợi”, “bán vé số có thu nhập cao cần nghiên cứu phát triển”, “công khai tài sản công chức là vi hiến”, “biên cương bờ cõi biển đảo để cho con cháu đòi”, “Ngậm tăm khi giặc cướp biển dảo là đúng nếu không bây giờ chúng ta có ngồi đây mà họp hành bầu bán được không”, “trận đánh lớn của nghành giáo dục là bỏ môn sử”, “Tâm lý người dân ai cũng ghét Trung quốc rất nguy hiểm”, “luật sư bị đánh do gây bụi đường”, “Dân xem pháo hoa để quên đói nghèo”….. Sau những câu nói cùng quẫn là những chính sách cùng quẫn kiểu tận thu bóc lột đến đồng tiền cuối cùng của người dân như thu bảo hiểm y tế bắt buộc toàn dân, thu phí đường bộ xe máy, chặt cây xanh hàng loạt, tăng giá điện, nước, vô tội vạ, giảm giá xăng nhỏ giọt khi giá dầu thế giới giảm, tăng phí dịch vụ y tế vô tội vạ…. tất cả những điều này thể hiện sự bế tắc của “lưu manh đỏ” đã đến đường cùng được thấy rõ bằng các biểu hiện cạn kiệt ngân sách, nhiều địa phương đã không có tiền trả lương, nợ công tăng vọt, các công trình dự án vô bổ kém hiệu quả đua nhau mọc ra….

Theo quy luật tất yếu “cùng tắc biến” thì ta thấy sắp tới sẽ có rất nhiều biến, cuộc đại hội “lưu manh đỏ” phân chia lại quyền lực đang diễn ra khốc liệt đến mức triệt tiêu nhau sẽ có nhiều biến cố không lường, ngân sách cạn kiệt, tài nguyên cạn kiệt dẫn đến miếng ăn tham nhũng không còn đủ chia chác tất dẫn đến đánh nhau tranh giành miếng ăn quyết liệt lộ ra những sai phạm, tội lỗi nội bộ. Các phong trào đấu tranh của dân oan ngày càng phát triển rộng, sâu, các phong trào dân chủ phát triển mạnh về nhiều mặt, ý thức hệ cũng đã thay đổi sâu sắc trong xã hội đặc biệt là lớp trẻ đã có nhiều người tham gia nhiệt huyết năng nổ, hiện tượng ở Ninh Hiệp thiếu nhi cũng đã tham gia có tổ chức đông đảo chống chiếm đất đã trở thành điểm mẫu, mô hình đấu tranh có hiệu quả. Như vậy các pháp biến tất yếu sẽ xảy ra từ nội bộ “lưu manh đỏ” đến áp lực xã hội dân chúng bên ngoài và kể cả quốc tế, chắc chắn “Đại Vệ chí dị” sẽ có biến lớn trong thời gian ngắn sớm thôi. Các tổ chức dân sự và phong trào dân chủ cần chuẩn bị tinh thần, tổ chức, lực lượng để nắm bắt cơ hội thay đổi thể chế phát triển đất nước. Ai nắm bắt được đúng cơ hội sẽ trở thành lãnh đạo đất nước.