Họat động xã hội dựa vào Niềm Tin

Họat động xã hội dựa vào Niềm Tin

( Faith –based Social Action )

( Bài viết để hưởng ứng cuộc Hội thảo về Vai trò Tôn giáo)

Đòan Thanh Liêm

Kinh nghiệm họat đông về nhân đạo từ thiện của các tôn giáo thật là phong phú và đã khởi sự từ rất lâu, không những tại một địa phương nhỏ bé ở thôn xóm miền quê hẻo lánh, mà cả ở trong các ngõ hẻm tối tăm lụp xụp của thành phố. Nguyên do là các tín đồ thuần thành nào thì cũng giàu lòng trắc ẩn, thương cảm với nỗi khổ đau, bất hạnh của các nạn nhân thiên tai bão lụt hay các bệnh nhân mắc chứng nan y như bệnh phong cùi, bệnh Aids, các

người vô gia cư, các trẻ em bụi đời v.v…Và từ đó mà các tổ chức từ thiện của các tôn giáo dễ dàng kêu gọi sự yểm trợ của các tín đồ này cho các chương trình phục vụ xã hội của mình.

Và cùng với sự phát triển của ngành khoa học xã hội, cũng như của ngành tổ chức quản lý điều hành, các tôn giáo đã xây dựng được một mạng lưới dịch vụ xã hội rất chu đáo trong phạm vi các cộng đồng cơ sở địa phương, cũng như trên phạm vi tòan quốc (nationwide) và cả trên phạm vi tòan thế giới nữa (worldwide). Nhà nghiên cứu xã hội học Robert Wuthnow, trong tác phẩm “Saving America : Faith-based Services and the Future of Civil

Society” (Cứu vãn nước Mỹ : Dịch vụ Xã hội dựa vào Niềm Tin và Tương lai của Xã hội Dân sự) do Nhà xuất bản Đại học Princeton ấn hành năm 2006, đã đưa ra những con số thống kê khá chi tiết về các họat động xã hội của các tôn giáo tại Mỹ trong thời gian gần đây. Và ông đã đưa tới kết luận rằng : Chúng ta có quyền tin tưởng rằng các tôn giáo đã và đang đóng một vai trò trọng yếu trong các họat động xã hội để phục vụ quần chúng trong

những nhu cầu càng ngày càng nhiều và phức tạp, mà cơ quan xã hội của nhà nước không thể nào một mình cáng đáng hết được.

Cũng từ mấy năm nay, Tổng Thống George W Bush đã phát động một chương trình yểm trợ cho các “Faith-based Organisations” (FBO) để cùng hợp tác với chánh quyền trong các chương trình xã hội. Mặc dầu bị chỉ trích từ nhiều phía với lý do là “vi phạm nguyên tắc tách rời Nhà nước khỏi Tôn giáo”, chương trình này vẫn được Tổng Thống đương nhiệm Barack Obama tiếp tục với một số điều chỉnh nhằm tăng cao năng xuất, cũng như tránh

được sự lạm dụng với sự phân biệt kỳ thị vì lý do tôn giáo  Lại nữa có một số Viện nghiên cứu và Đại học đã chủ trì một Diễn đàn lấy tên là “Roundtable on Religion and Social Welfare Policy” (Hội nghị Bàn tròn về Tôn giáo và Chánh sách An sinh Xã hội) để trao đổi về tình hình sinh họat xã hội và tìm kiếm phương hướng xây dựng chánh sách xã hội thích

hợp với thời đại. Trên phạm vi quốc tế, ta có thể ghi nhận sự hợp tác rất chặt chẽ và hiệu quả

giữa Quỹ Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) và Hội Đồng Giám Mục Châu Mỹ La Tinh( CELAM = Latin American Episcopal Conference) nhằm mục đích chăm sóc cho giới thiếu nhi trong các quốc gia vùng Châu Mỹ  Latinh. Và còn rất nhiều sự hợp tác thuận thảo giữa Tôn giáo và các tổ chức xã hội văn hóa quốc tế nữa. Đó là một dấu hiệu đày phấn khởi, lạc quan chứng tỏ càng ngày khu vực Xã hội Dân sự càng lớn mạnh và mở rộng phạm vi họat động cùng khắp mọi nơi, mọi chốn.

Nói vắn tắt lại, các tổ chức xã hội dựa vào niềm tin (FBO) đã và đang góp phần tích cực trong việc xây dựng “Nguồn vốn Xã hội” (Social Capital) cho các công đồng từ cấp cơ sở địa phương nhỏ bé, lên đến cấp tòan quốc, cũng như đến phạm vi tòan cầu. Đó là sự tín nhiệm và tin tưởng gắn bó lẫn nhau giữa các thành viên của một cộng đồng, mà tập thể tạo dựng được thông qua những việc công ích, mà mọi người luôn có cơ hội thường xuyên cùng nhau

“nối vòng tay lớn”, nhằm góp phần vào công cuộc xây dựng cụ thể, thiết thực để cải thiện môi trường sinh họat ngay tại địa phương nhỏ bé của chính mình. Rõ ràng là các Tôn giáo vẫn còn tiếp tục cái truyền thống phục vụ công ích bằng sự dấn thân nhập cuộc với quảng đại quần chúng, ngay tại các đơn vị cơ sở hạ tầng nơi thôn quê nghèo túng, hay tại các khu phố chật hẹp lầm than của các đô thị hỗn tạp./

California, Tháng Bảy 2009

Đòan Thanh Liêm

Về Việt Nam ăn Tết – Tại sao về? Tại sao không?

Về Việt Nam ăn Tết – Tại sao về? Tại sao không?
Nguoi-viet.com

Ngọc Lan/Người Việt

WESTMINSTER, Calif. (NV) – Mỗi năm, khi tiết trời Calif. bắt đầu trở nên bớt lạnh, đêm về muộn hơn một tí, và đặc biệt, nhìn thấy chợ hoa Phước Lộc Thọ khai trương, là lòng người xa xứ dường như lại mênh mang một cảm xúc, có thể vui, có thể buồn, bởi Xuân đang sắp chạm ngõ sân nhà.

Bên cạnh những người vẫn trôi theo vòng quay hối hả của cuộc sống nơi đây, không còn thời gian nghĩ đến chuyện Ông Táo về trời, không có nỗi xôn xao khi biết Tết đang rất gần, thì lại có nhiều người mang tâm trạng đầy háo hức chuẩn bị hành trang về quê ăn Tết sau một năm hay nhiều năm trông ngóng khoảnh khắc này.

Ăn Tết ngay tại quê người, hay bằng mọi cách phải về quê nhà đón Giao Thừa, tất cả đều có lý do rất riêng, với mỗi người.

 
Một góc chợ Tết tại Little Saigon (Hình: Ngọc Lan/Người Việt)

“Mua vé về Việt Nam ăn Tết mỗi ngày một đông”

“Dựa vào thông tin trên hệ thống bán vé máy bay thì thời điểm này không còn vé về Việt Nam trong dịp Tết nữa. Nếu có cũng phải trên $2,000, hoặc không thì sau Tết hai tuần mới có vé,” chị Mỹ Tiên, nhân viên công ty du lịch ATNT ở thành phố Fountain Valley, gần Little Saigon, cho biết.

Theo chị Mỹ Tiên, “thông thường mùa Tết số người về Việt Nam đông lắm. Lượng khách mua vé tại ATNT mỗi năm mỗi nhiều lên.”

“Vé năm nay rẻ hơn những năm trước, dù rơi vào mùa nào. Ví dụ mùa Tết năm nay có khách mua vé khứ hồi chỉ khoảng hơn $600, chưa có visa, trong khi những năm trước giá rẻ nhất phải từ $750-$800. Năm nay hầu hết các hãng máy bay đều có giá vé rẻ hơn những năm trước. Có thể do giá xăng rẻ,” đại diện công ty ATNT giải thích thêm.

Dĩ nhiên, đó là giá vé cho những ai đã có sẵn chương trình về Việt Nam ăn Tết từ lâu, và mua vé từ ba, bốn tháng trước.

Cô Kiều Nguyễn, đại diện cho Kiều Nguyễn Travel ở Austin, Texas, cũng nhận thấy “lượng người đi Việt Nam dịp Tết này tăng gần gấp đôi.”

“Cách đây ba tháng, giá vé khứ hồi từ Austin về Sài Gòn chỉ vào khoảng $600-$700, rất rẻ, cho nên có nhiều người không có ý định về Việt Nam dịp Tết này, nhưng vì thấy giá vé rẻ quá nên sắp xếp công việc về chơi, có gia đình đó rủ nhau đi hơn 20 người luôn,” cô Kiều nói.

Nhận xét của chị Mỹ Tiên là “khách về Việt Nam mùa Tết hầu như là người lớn tuổi, vì người trẻ thì có gia đình con cái, bận đi làm đi học nên cũng khó đi. Tuy nhiên cũng có gia đình thu xếp được thì họ cũng đi bốn, năm người cùng lúc.”

Với cô Kiều Nguyễn thì “người lớn tuổi và người làm nail” là số người về Việt Nam ăn Tết đông nhất, bởi “người già thì về thăm con cháu, người làm nail thì mùa này luôn là mùa vắng khách nên tranh thủ đi chơi.”

Tết Mỹ nhạt? Tết Việt Nam ấm áp tình thân?

 
Bà Đỗ Tú Nhạn (trái), cư dân quận Cam, “Năm nào cũng về Việt Nam ăn Tết để có chút thời gian gắn bó với người thân.” (Hình: Nhân vật cung cấp)

Ông Ngọc Huỳnh, cư dân thành phố Garden Grove, về Sài Gòn ăn Tết lần đầu tiên sau bốn năm định cư tại Mỹ để “được sống trong tình cảm ấm áp của gia đình.”

“Sự có mặt của mình trong gia đình vào thời khắc ấy xúc động và thiêng liêng lắm,” ông Ngọc nói.

Ông kể, “Năm đầu tiên đến Mỹ đón Tết thấy lạt lẽo quá. Buồn vì nhớ Sài Gòn, buồn khi thấy ngày Tết mà không có cha mẹ, anh em ở bên cạnh như mấy chục năm qua, dù rằng ở đây thì có gia đình vợ, nhưng thiếu vẫn thiếu.”

“Muốn nói gì nói, Tết ở đây không thể nào vui bằng Tết ở Việt Nam. Tết ở đây, tôi được nghỉ có một ngày, nên coi như cũng chẳng có Tết, trong khi ở Việt Nam thì nghỉ Tết cả một thời gian dài, mình mới hưởng trọn cái Tết,” ông Ngọc tâm sự.

Ông nhận xét thêm, “Về Sài Gòn ăn Tết thấy ngộ lắm. Bối cảnh xung quanh rất vui, khiến mình xôn xao lạ lắm. Còn ở đây thì bình thường. Sau mấy năm ở đây, tôi vẫn thấy Tết ở Mỹ nhạt nhẽo, giả giả làm sao đó, như có một cái gì gán vào trong đời sống thường ngày của mình chứ không phải là Tết của mình.”

Bà Đỗ Tú Nhạn, hiện sống ở Westminster, thì “năm nào cũng về Việt Nam ăn Tết.”

“Lúc trước con gái tôi còn ở bển, năm nào tôi cũng về. Nay thì nó đã sang Mỹ rồi nhưng tôi còn chị chồng, anh chồng bên đó cũng cô đơn quạnh quẽ nên tôi về để có chút thời gian gắn bó với gia đình,” bà Nhạn cho biết.

Bà chia sẻ, “Tôi qua Mỹ đã mười mấy năm, chỉ có một năm ăn Tết ở Mỹ thôi, thấy vô vị quá! Lúc đó tôi còn đi làm ở Santa Monica, Tết vẫn phải đi làm, chẳng thấy không khí Tết gì hết, mọi chuyện đều bình thường. Trong khi về Việt Nam ăn Tết thì tâm trạng khác lắm, nôn nao chờ đợi và chuẩn bị cả… nửa năm trước.”

Một lý do nữa mà bà Nhạn vẫn thường về Đà Nẵng đón Xuân là “để đi tìm lại kỷ niệm xưa của chính mình.”

“Chồng tôi chết trước khi tôi đi Mỹ định cư. Mỗi lần về quê, tôi thích đi lang thang trên biển một mình, để nhớ về chồng, nhớ những câu thơ ông từng viết cho tôi. Tôi về để đi tìm lại kỷ niệm xưa của chính mình,” bà trầm giọng.

Với bà Jennifer Nguyễn, một cư dân Garden Grove, thì “về quê ăn Tết có được cái không khí Tết, nhất là trước Tết vui, nhộn nhịp, có người này người kia đi ra đi vào, cùng gói bánh tét, dọn dẹp nhà cửa. Còn ở Mỹ thì chỉ nhà nào có người lớn mới còn có sự chuẩn bị cho Tết, chứ không thì mọi thứ đều bình thường.”

Về Việt Nam ‘tốn kém và căng thẳng thần kinh’

 
Bà Jennifer Nguyễn, “về quê có không khí Tết nhưng luôn luôn bị ‘chém đẹp’ và tốn tiền lì xì.” (Hình: FB Jennifer Nguyễn)

Về Sài Gòn ăn Tết là điều ông Ngọc cảm thấy vui vì được trở lại trong vòng tay ấm áp của gia đình. Tuy nhiên, ông Ngọc cũng không ngần ngại “tiết lộ,” “lần tới có về thì tôi không chọn đi dịp Tết nữa, trừ khi tôi trúng số.”

Tại sao? “Vì về dịp Tết tốn tiền nhiều quá!”

“Lần về thăm nhà dịp Tết, tôi đem theo gần $10,000 mà coi như sạch túi luôn, thấy không thấm vô đâu hết. Bao nhiêu cũng không đủ. Tốn tiền rất nhiều, vì gặp ai cũng phải lì xì hết,” ông Ngọc vừa kể vừa cười một cách đau khổ vì quan niệm “ai cũng nghĩ mình là Việt Kiều nên mình phải cư xử cho … giống Việt Kiều.”

Tuy nhiên, một trong những nguyên nhân khiến ông “tốn tiền” nữa là “sau mấy năm sống ở Mỹ trở về, nhìn thấy nhiều người khổ quá, thấy tội nghiệp quá, nhất là mấy người bán vé số, đạp xích lô, chạy xe ôm, ăn xin, mà nhất là dịp Tết nữa nên càng thấy thương họ, nên cứ gặp là cho tiền.”

Ông giải thích, “Ngày còn ở Việt Nam, khi thấy mấy anh em bà con Việt kiều về hay cho người nghèo tiền, tôi thường cản, nói không cần phải cho nhiều như vậy. Không dè đến khi chính mình trở về, tôi lại có cảm xúc y chang, mới hiểu vì sao ngày trước họ làm như thế.”

Bà Jennifer dù đang chuẩn bị hành trang để ra sân bay về Đà Lạt ăn Tết, dù cho rằng “Tết ở quê có không khí hơn” nhưng cũng thẳng thắn nói “không thích về dịp Tết vì về dịp này luôn bị ‘chém đẹp’, lại tốn tiền lì xì cho con cháu dưới quê.”

Đó là kinh nghiệm bà có được trong lần đầu về Việt Nam ăn Tết sau gần 20 năm không đón Xuân tại quê nhà. Giờ là lần thứ hai bà lại về vào dịp Tết nhưng chẳng qua “phải đi vì có công việc.”

Với bà Nhạn, dù đều đặn về quê mỗi dịp cuối năm, chuyện luôn phải chuẩn bị tinh thần đối phó với “hải quan sân bay hay công an cửa khẩu” vẫn là điều bà phải bận tâm.

“Tôi vẫn căng thẳng thần kinh để đối đầu với tụi nó, nhưng may là tôi đối đầu được, tức là cách hành xử của họ vẫn làm cho mình mệt mỏi, nhưng tôi vẫn cứ đi,” người phụ nữ nhỏ nhắn nói bằng giọng chắc nịch.

 
Bà Lê Ngô ở Westminster, “Tôi thấy Tết ở Bolsa này là nhất thế giới, không ham đi đâu nữa cả.” (Hình: Ngọc Lan/Người Việt)

Những chuyện “bực bội” mà bà Nhạn từng phải đối diện khi về đến sân bay Tân Sơn Nhất, và sau này là sân bay Đà Nẵng, là sự vòi vĩnh, hạch sách của nhân viên hải quan khi làm thủ tục nhập cảnh. Đây cũng chính là một trong những lý do mà nhiều người không muốn về quê. Bởi, như ông Phú Nguyễn ở quận Cam, người đã đôi lần trở về Sài Gòn sau 25 năm sống ở Mỹ, nhận xét, “chẳng đặng đừng khi có chuyện cần thì tôi mới phải bay về, chứ vừa xuống máy bay, nhìn thấy thái độ của hải quan Việt Nam là tôi muốn quay ngược về Mỹ liền lập tức.”

“Thiệt là ngán ngẩm. Tôi phải đối đầu từ khi bước xuống sân bay Sài Gòn ra tới Đà Nẵng, khi thì bắt đóng thuế thùng hàng dư ra, mặc dù mình đã đóng tại sân bay LAX rồi, khi thì họ hỏi trắng trợn ‘chị về có mang quà gì cho em không?’ rồi lật tới lật lui coi mình có kẹp tiền vào passport không… Ui chao mệt là mệt,” bà Nhạn nhớ lại.

Nói thì nói vậy, nhưng người phụ nữ ngoài 60 này vẫn về mỗi khi Tết đến, và chưa bao giờ cảm thấy “tốn kém” bởi vì “khi tôi có kế hoạch về thì tôi đã phải chuẩn bị từ nửa năm trước, muốn mua quà cáp gì cho ai, cái quần cái áo cái giỏ tôi đều tính trước và tha lần tha lần cho đến ngày đi nên không thấy tốn kém. Mà có tốn thì cũng xứng đáng vì nó mang lại cho tôi một mùa Xuân rất ấm áp trong tình gia đình người thân.”

Lần này bà Nhạn về quê ăn Tết cùng con dâu, 2 cháu nội và người chị ruột.

Không về, vì chẳng còn ai và Tết chẳng như xưa

Chị Châu Diệp, chủ một gian hàng bán hoa đào hoa mai giả trong chợ Tết Phước Lộc Thọ, cho biết, “Mình ở đây từ năm 79 đến giờ, chưa bao giờ về Việt Nam ăn Tết. Nhưng nghe nói Tết ở đây vui hơn vì ở đây được đốt pháo.”

“Lý do chính mà mình không về Việt Nam ăn Tết là vì gia đình bà con mình đều ở Mỹ. Tết là sum họp mà cả gia đình đã sum họp tụ tập ở đây hết rồi thì còn đi đâu nữa,” chị nói thêm.

Bà Lê Ngô ở Westminster tâm sự, “tôi ở California này 20 năm là 20 năm tôi đều đi chợ Tết Phước Lộc Thọ, nghĩa là tôi không về Việt Nam ăn Tết. Tôi thấy Tết ở Bolsa này là nhất thế giới, không ham đi đâu nữa cả. Vừa ấm áp vừa vui vẻ. Đi ra đi vào thấy người Việt mình chào nhau, hỏi thăm nhau là vui rồi.”

Ông Nam Đặng, chủ nhân một gian hàng bán cây quýt, tắc, bưởi trong chợ Tết Phước Lộc Thọ cho biết khoảng 10 năm trước ông có về Việt Nam ăn Tết một lần, vì “mấy đứa em kêu về.”

Nhưng theo ông thì “Tết ở Mỹ vui hơn, còn ở Việt Nam thì mình không được tự do nên đâu bằng bên này được.”

Với ông Nam, “Tết đến, chỉ cần thấy có thịt kho dưa giá, dưa hấu, là thấy y như Tết ở Việt Nam mình thôi.”

Cô Kiều Lưu, cư dân Fountain Valley, lại nghĩ khác, “Thật ra Tết Việt Nam bây giờ cũng đâu giống ngày xưa nữa! Tết bây giờ là thời gian người ta nghỉ ngơi, đưa gia đình đi chơi xa, thậm chí là đi chơi nước ngoài chứ đâu còn cảnh ‘Mùng Một Tết cha, Mùng Hai Tết bạn, Mùng Ba Tết thầy’ như xưa nữa, không thấy còn gì là truyền thống hết. Cũng chẳng mấy ai tụ tập gói bánh chưng bánh tét gì nữa đâu.”

Cô Kiều từ Áo sang Mỹ định cư cách đây 5 năm, “lúc còn ở Áo thì năm nào cũng về Việt Nam ăn Tết. Từ lúc sang Mỹ thì chưa về bao giờ.”

 
Cô Kiều Lưu, Fountain Valley, “Tết ở đây cũng như ngày thường, không có gì rộn rã như ngày xưa, ngày càng thấy thờ ơ.” (Hình: Kiều Lưu cung cấp)

Lý do chị Kiều không về vì “Tết rơi vào thời gian các con bận đi học, không nghỉ được.”

“Nếu nghĩ chuyện Tết về Việt Nam thì tôi muốn chồng tôi về ăn Tết với ba mẹ chồng vì ông bà còn ở bên đấy. Riêng tôi thì thấy chuyện về không quan trọng vì cả nhà tôi ở đây hết rồi.”

Nói về cảm xúc sau khi trải qua năm cái Tết tại Mỹ, Kiều cho rằng, “năm đầu tiên tôi có tham gia gói bánh chưng với bạn, thấy cũng vui. Nhưng rồi nhạt dần, thấy cũng bình thường. Tết ở đây cũng như ngày thường, không có gì rộn rã như ngày xưa, ngày càng thấy thờ ơ. Không biết tại sao, có thể do mình già rồi. Thêm nữa, Tết ở đây cũng đâu có được nghỉ, cũng như ngày thường thôi.”

***

Về hay không về, ở Mỹ hay ở Việt Nam, cuối cùng điều quan trọng là nơi đâu cho mình cảm giác ấm áp của sự sum vầy, của tình yêu thương gia đình thì nơi đó mang ý nghĩa Tết trọn vẹn.

Liên lạc tác giả: ngoclan@Nguoi-viet.com

“… CŨNG CẦN CÓ NHAU”

“… CŨNG CẦN CÓ NHAU”

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

 Tri’ch EPHATA 677

Chúng tôi dược biết tin cha cố GB. Lê Đăng Niêm, chánh xứ Thủ Thiêm năm nay kỷ niệm 50 năm lãnh nhận sứ vụ Linh Mục. 89 Tuổi, bệnh tật nhiều năm nay, nhưng ngài vẫn kiên trì với sứ mạng, vẫn một tấm lòng sôi sục với Giáo Hội và với đàn chiên. Cha nhắn chúng tôi: “Năm nay con kỷ niệm 50 năm chịu chức Linh Mục, nhưng con xin sống như một Tu Sĩ, nghĩa là âm

thầm cầu nguyện và tạ ơn Chúa, con sẽ không tổ chức gì hết !” ( Ảnh chụp cha Lê Đăng Niêm ngồi xe lăn bên cạnh các dì Mến Thánh Giá Thủ Thiêm ).

Tuổi già, sức yếu, bệnh tật cùng với hoàn cảnh éo le, chúng tôi bảo nhau đi thăm ngài. Những lúc cô đơn, chúng ta cần bạn bè và những người thân yêu nhất. Những lúc sóng gió tơi bời, chúng ta cần được nâng đỡ nhất. Trong một lần đi Đà Lạt, theo chân bạn bè đến Công Viên Đất Sét, khi viếng Vườn Thư Pháp, tôi đọc được một câu viết hờ hững trên mảnh gỗ treo trên một thân cây, câu viết lạc lõng giữa bao nhiêu hiện vật khác trong vườn: “Khi ta say, ta biết ta yêu ai. Khi ta đau, ta biết ai thương ta. Khi ta đứng lên, mọi người biết ta là ai. Khi ta nằm xuống, ta biết ai là bạn bè”. Có thể đúng cũng có thể chẳng đúng, nhưng câu thư pháp ấy cứ theo tôi nhiều ngày, nó giúp tôi suy nghĩ. Hôm nay, câu thư pháp đó đẩy tôi đến thăm cha cố Niêm, tôi đến vì tôi muốn đến, đơn giản vậy.

Một ông già mệt mỏi với gánh thời gian, tiều tụy vì căn bệnh bám đeo dai dẳng, nặng nề vì

những lo toan cùng đàn chiên và Giáo Hội, nhưng bỗng như tràn sức sống, cha cố nói chuyện với chúng tôi như một người am tường thời sự, thâm thúy trong tu đức và vững mạnh trong mục vụ. Cụ kể rằng từ khi còn trong Đại Chủng Viện, quan sát những sinh hoạt của giới Giáo Sĩ, suy gẫm về tâm lý của cuộc đời, cụ đã quyết định sau này làm Linh Mục, cụ sẽ không bao giờ tổ chức các lễ của mình, kể cả lễ mừng Bổn Mạng, nhưng nguyện sẽ lo chu toàn việc tổ chức lễ của anh em. Đơn giản vì mình lo cho mình rồi lấy sức đâu mà còn lo thêm cho anh em ! Rồi cụ nói, càng về gìa càng thấy điều đó đúng, vì quyết định như vậy lòng thấy vui hơn, bình an hơn và hạnh phúc hơn.

Đi thăm một ông già, ngỡ tưởng mình nâng đỡ cụ, nhưng thật ra lại được chính cụ nâng đỡ thật nhiều, cha cố nói: “Con thường cầu nguyện cho các cha, cầu cụ thể cho từng cha mà con nhớ đến, bệnh tật đã làm cho con có nhiều thời gian để nhớ đến từng người. Cha là người con hay nhắc đến khi vào giờ cầu nguyện”. Tôi ứa nước mắt khi cụ cầm tay tôi mà nói những lời chân tình.

( Ảnh chụp Đức Cha Hoàng Đức Oanh đến thăm cha Lê Đăng Niêm ).

Tôi vừa trải qua một biến cố khá nặng nề. Khi đang làm việc ở Hà Nội, một buổi tối, tôi nhận được điện thoại của một người thân, vợ của người con tinh thần của tôi, cô N. báo tin anh ấy vừa đột ngột qua đời, có thể là do nhồi máu cơ tim. Trong giọng nói hoảng loạn và tiếng khóc nức nở, sau khi cố gắng bình tĩnh, cô N. đã nói với tôi: “Bố ơi, con không biết phải làm gì bây giờ, con cần bố”. Sau khi chỉ dẫn một vài việc, liên lạc những nơi cần thiết, tôi đặt vé về Sàigòn ngay sáng hôm sau. Sau tang lễ, cô N. nói với tôi khi gia đình ngồi lại với nhau để bàn soạn công việc: “Bây giờ con mới thấy cần người lớn tuổi, xưa nay chúng con không để ý chuyện này, thật sự có những tình huống chúng con cần người lớn tuổi có mặt bên cạnh chúng con”.

Tuổi già không chỉ đáng kính nhưng còn cần thiết cho cuộc đời, chỉ những ai khám phá ra điều này mới chân nhận được hạnh phúc của Chúa thương mình, bằng không họ coi nhau là gánh nặng hoặc chỉ là những ụ đất cản đường. Hãy có một ngôi nhà hưu tử tế dành cho người cao tuổi giữa cộng đoàn tu, nơi đó ý Chúa được thực hiện bằng những giờ cầu nguyện liên lỉ trong hy sinh đau đớn của bệnh tật và tuổi già. Đó cũng là một trong các công việc truyền giáo hữu hiệu nhất.

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

22.1.2016

Tựa đề lấy từ câu hát “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”

trong bài Diễm Xưa của Trịnh Công Sơn

CÕI TẠM

CÕI TẠM

(Mai Thảo)

Nghỉ hè nghỉ phép, ta thường đi chơi xa, trú ngụ tạm tại khách sạn. Dăm ba bữa nửa tháng, lại trở về nhà. Thường khi về nhà, lọt vào khung cảnh cũ, ngả mình trên chiếc giường quen thuộc, ta luôn luôn cảm thấy thoải mái, thú vị. Khách sạn là cõi tạm, nhà là cõi thực. Cuộc đời này là một cõi tạm. Hầu như mọi người đều nghĩ như vậy. Nhưng cái cõi tạm này, chúng ta tạm trú hơi lâu, quen hơi quen tiếng, nên khó rời. Biết là tạm mà vẫn cứ thích ở… khách sạn!
Ông bạn da đen của tôi, rất tha thiết được chầu Chúa, đạo Cơ Đốc thuần thành, Chủ Nhật nào cũng đi nhà thờ, trong túi không bao giờ quên tờ giấy hai chục đô cúng dường, cuốn Thánh Kinh luôn luôn đeo theo người, nói câu nào cũng mời Chúa về góp tiếng cho chắc ăn. Một bữa, thấy ông vất vả với công việc, tôi giỡn.
“Này, Gabriel, cuộc sống coi bộ nhiều mồ hôi quá nhỉ?”
Bạn tôi cười nhe hàm răng trắng lạnh.
“Đời mà! Chúa đã phán “Con phải đổ mồ hôi trán lấy bát cơm ăn”. Mình cứ phải theo ý Chúa vậy chứ sao.”
Tôi làm bộ tỉnh phán theo.
“Tôi thấy cậu là con cưng của Chúa, sao không xin Chúa cất về ngồi bên chân Chúa cho nhàn hạ cái thân!”
Gabriel lắc đầu quầy quậy.
“Còn sớm quá! Tôi còn mấy đứa con nhỏ phải nuôi, chắc Chúa cũng hoãn cho một thời gian nữa chứ!”
Bạn tôi không nói rõ một thời gian là bao lâu, nhưng bằng vào cái lắc đầu hung hãn như vậy, tôi dè chừng chắc là phải lâu lắm!
Một ông bạn khác, ung thư thời kỳ cuối, con cái đã chồng vợ đâu vào đấy, đời chẳng còn gì phải lo lắng, cuộc sống rất thoải mái về vật chất, nhưng cái đau đớn của tật bệnh thật khôn lường, chép miệng than thở khi tôi tới chơi.
“Mình cũng tới tuổi rồi. Nhưng nếu Trời cho ít năm nữa thì quý hóa quá!”
Sống có vất vả, đau đớn đến thế nào chăng nữa, vẫn cứ thích bám vào cõi tạm. Sao vậy? Bởi vì cái cõi mà người ta gọi là vĩnh hằng, miên viễn, vô ưu… ta chưa hề biết tới chăng? Hay là bởi vì từ cõi tạm bước qua cõi thật đó, người ta phải xuôi tay nằm dưới ba tấc đất hoặc uốn người trong ngọn lửa thiêu? Toàn những trò khó chơi cả.
Nhà sinh học Susanne Wiigh-Maesak, người Thụy Điển, vừa phát minh ra một trò mới. Trò này coi bộ dễ chịu hơn. Thi hài người chết sẽ được làm lạnh cực nhanh đến -18 độ C và sau đó nhúng vào nitơ lỏng có nhiệt độ -196 độ. Thi hài, sau khi được lấy ra khỏi dung dịch siêu lạnh, trở nên giòn tan như kính và vỡ vụn thành một hợp chất dạng bột. Tất cả số nước còn lại được hút vào một khoang chân không, trước khi cho chạy qua một màn kim loại để lọc bỏ tất cả những vật thể còn sót lại (những thứ cấy ghép trong thân thể) chưa phân hủy. Bột thi hài, sau đó, có thể được thiêu đốt, hoặc được chôn trong một quách làm bằng tinh bột bắp, đặt trong hố nông khoảng 30 phân. Sau khoảng một năm, oxy và vi khuẩn sẽ phá hủy chúng hoàn toàn, biến thi hài trở thành cát bụi. Bà Wiigh-Maesak cho biết bà đã đăng ký bản quyền phương pháp này ở 35 quốc gia. Phương pháp này giúp tránh làm vẩn đục môi trường như hai phương pháp thông dụng hiện nay là hỏa thiêu và chôn dưới đất quá sâu làm trì trệ quá trình phân hủy.
Không phải là các nhà sinh học, mấy ông bạn tôi cũng bầy ra nhiều cách… vượt biên từ cõi sống qua cõi chết vui lắm. Như ông Du Tử Lê chẳng hạn.
khi tôi chết hãy đưa tôi ra biển
đời lưu vong không cả một ngôi mồ
vùi đất lạ thịt xương e khó rã
hồn không đi sao trở lại quê nhà
Ông Luân Hoán còn cãi cọ với… thinh không.
không từ đất sao phải về với đất
thịt xương này không thể mất khơi khơi
khi tôi chết xin đem giùm thi thể
chia cho thù lẫn bạn nhậu chơi
Ông Lưu Nguyễn cứ thiên thai lơ lửng.
mai này ta sẽ ra đi
người ơi có nhớ có gì nhắn không
trăm năm mây trắng bềnh bồng
về nơi đã đến mà lòng thảnh thơi
Dặn dò rối rít xong các ông ấy đi… uống cà phê. Bởi vì cái chết vẫn chưa trong tầm mắt. Cõi tạm này mới đích thực trong tầm tay. Tạm lâu ngày dễ có ảo tưởng đây mới là cõi thật.
Đời người được bao lâu? Trăm năm trong cõi người ta. Trăm năm? Mấy người được trăm năm? Bà cụ 114 tuổi của kỷ lục Guinness vừa qui tiên, nhà cầm quyền Việt Nam đang vận động cho một cụ bà Việt nam, cũng 114 tuổi, được ghi vào thay thế. Lóng rày, coi bộ Việt Nam ham giữ kỷ lục thế giới dữ. Hết bánh dầy, bánh chưng, bánh tét lớn nhất thế giới (có ở đâu khác làm thứ bánh này không nhỉ?), nay muốn đầu tư vào kỷ lục tới sự sống của con người (bệnh kỷ lục có phải là một biến tấu thời mở cửa của bệnh thành tích ngày cũ chăng?). Kỷ lục là thứ xịn. Thường thường bực trung khó với tới. Ông anh tôi bảo cứ sáu chục cái xuân già là gỡ đủ sở hụi rồi. Thêm được năm nào là bonus của trời đất, cứ hân hoan mà cám ơn!
Trong cái thời gian sống chỉ là tích tắc so với đời sống của vũ trụ, con người quậy như điên. Đủ món ăn chơi. Kèn cựa, khích bác, tranh dành, lừa đảo, xô đẩy, chém giết… nhau. Mỗi người cố thu vén cho riêng mình. Nhà sang, xe xịn, lợi danh, tiền bạc… Mặc sức mà vung tay vung chân. Mặc sức mà lèn cho đầy túi tham. Nhiều người sống trong cái sân si tối tăm trong suốt cuộc sống. Trẻ, tiết vịt còn chảy rần rần trong người, hung hăng con bọ xít đã đành. Già, máu tưởng đã phải nhiễm lạnh mà vẫn cứ sân sân si si phát khiếp. Như Bà Margaret Ann Thomas-Irving, 58 tuổi, cư dân ở Hartford, Connecticut chẳng hạn. Từ tháng 10/2002 đến tháng 7/2003, trong vòng chưa đầy một năm, đã một mình cướp nhà băng tới 12 lần. Tổng cộng số tiền cướp được là 19 ngàn đô. Vũ khí của bà chỉ là khẩu súng đồ chơi con nít, hoặc ngon hơn, chẳng súng siếc gì cả chỉ dọa nhân viên ngân hàng là trong ví có súng là họ nộp tiền ngon ơ!
Cướp có nghệ thuật hơn là hai vợ chồng James Roland Clark, 71 tuổi, và Deloris Jane Clark, 66 tuổi, dân Florida. Ông chồng xách một bao cát vào ngân hàng dọa là chất nổ, bà vợ rồ sẵn máy xe chờ ở ngoài cửa. Cướp xong ông chạy ra phóng lên xe vù mất. Nhờ một gói thuốc nhuộm cho phát nổ sau đó cảnh sát mới tóm được hai ông bà già chịu chơi này.
Bà già Connie Parker, 74 tuổi, cư ngụ ở Nassau, tiểu bang Nữu Ước vừa trúng số độc đắc 25 triệu. Khi đi lãnh thì, sau khi trừ thuế má, bà cầm tay được 7,3 triệu. Bà ôm chặt lấy tiền, nhất định không chia cho ông chồng Kenneth Parker, 77 tuổi, đang bị ung thư phổi thời kỳ cuối. Ông chồng cho biết là ông đã đưa cho bà 20 đô để bà đi mua số nhưng bà cãi lại bà đã mua số bằng tiền riêng của bà. Ông chồng tức giận đâm hai đơn một lúc. Một đơn đòi chia tiền, một đơn xin ly dị sau 16 năm rưỡi chung sống. Rút cục, cụ đi đường cụ tôi đường tôi, và bà Connie phải thỏa thuận chia cho ông chồng một số tiền không rõ là bao nhiêu nhưng, theo tiết lộ không chính thức, là một phần ba số tiền bà lãnh.
Thất thập cổ lai hy. Hiếm có thiệt! Sống đã từng ấy tuổi tưởng tay chân đã làm biếng nhấc lên nhấc xuống, ai ngờ vẫn cứ chụp giật như máy. Để làm chi? Ôm về cõi viên mãn chăng? Cõi bình an đó có cần những thứ phù phiếm của cõi tạm này không?
Một cặp vợ chồng già đã trên 80 tuổi mà vẫn khỏe mạnh. Họ ăn uống kiêng khem và tập thể dục hàng ngày. Không may hai cụ qua đời do một tai nạn xe buýt, họ lên thiên đàng và được thánh Phêrô đón tiếp nồng hậu. Thánh Phêrô đưa hai người đi coi nhà bếp khổng lồ, hồ bơi, phòng tắm hơi, sân chơi golf… Lóa mắt vì sự sang trọng của ngôi nhà, cụ ông hỏi thánh Phêrô.
“Chúng tôi có phải trả tiền cho những thứ này không?”
“Tất cả đều miễn phí, đây là thiên đàng mà!”
Đến giờ ăn, thánh Phêrô đưa hai cụ đến môt phòng ăn sang trọng, thức ăn ê hề. Cụ ông hỏi.
“Thưa Ngài, tất cả các món ăn này cũng miễn phí cả sao?”
“Tất nhiên!”
Cụ ông lại rụt rè hỏi tiếp.
“Chúng tôi có thể ăn tùy thích, không phải lo ngại dư mỡ, đường, cholesterol chứ ạ?”
“Không, tôi đã bảo là cụ đang ở trên thiên đường cơ mà! Cụ có thể ăn uống no say tùy thích mà không sợ bị mập phì, đái đường hay nhồi máu cơ tim gì cả.”
Bỗng nhiên mặt cụ ông trở nên đỏ gay, quay sang cụ bà quát to.
“Tất cả do lỗi của bà! Nếu bà không ép tôi phải ăn uống kiêng cữ và tập thể dục hàng ngày thì tôi đã lên đây sớm hơn mười năm rồi!”
Cái cõi mông lung đó đâu phải chỉ có thiên đường. Những nơi khác có vui như vậy không?
Hai bợm nhậu ngồi bên chai rượu đã cạn quá nửa. Một ông hỏi.
“Ông bạn nghĩ là có thế giới bên kia hay không?”
Ông bạn gục gặc đầu.
“Có chứ! Mà chắc ở bển cũng vui vẻ lắm, nhậu nhẹt lu bù.”
“Sao ông biết?”
“Thì ông thấy đấy. Mấy chả đi có cha nào thèm quay về đâu!”
Dương sao âm vậy. Dân gian vẫn cứ tin như thế. Cái cõi đầy bí ẩn đó được hiểu như là một nối dài của cõi tạm này, cũng có cuộc sống và những cung cách sống cụ thể như nhau. Vậy nên mới có dịch vụ gửi UPS không thiếu thứ gì qua cõi mờ ảo đó. Nhà cửa, xe cộ, quần áo, nồi niêu soong chảo, vàng bạc, tiền đô giấy lớn 100.000, và cả… điện thoại di động nữa! Mấy bà thương chồng cũng không quên gửi những nàng hầu trắng trẻo xinh đẹp xuống cho các ông chồng bớt cô đơn. Dĩ nhiên, trước khi hóa vàng, mấy bà không quên rạch mặt, chọc mù mắt hình nhân để thỏa cơn ghen kéo dài qua hai cõi!
Tin như thế bị coi là tin nhảm. Mê tín! Nhưng mâm cơm cúng ngày giỗ ngày tết chắc có ý nghĩa khác. Không ai nghĩ là người từ cõi kia về ăn như chúng ta ăn (cơm canh còn nguyên đó chứ có hụt đi chút nào đâu!) nhưng làn khói nhang ấm áp mời người quá cố về thụ lộc được hiểu như là một cách tưởng nhớ tới người thân đã bước sang cõi khác trước chúng ta. Tấm lòng thương tưởng của chúng ta thể hiện qua cách cúng những món ăn mà người thân quá cố ưa thích khi còn sinh tiền.
Trong nghĩa trang, một ông dọn cơm canh cúng trên mộ vợ. Một ông người bản xứ thành kính đặt bó hoa trên ngôi mộ bên cạnh. Lễ bái, cầu kinh xong, ông bản xứ hỏi ông Việt nam.
“Bộ ông tin rằng vợ ông có thể về ăn được những thức ăn ông cúng như vậy chăng?”
Ông Việt nam bình thản hỏi lại.
“Bộ ông cũng tin rằng vợ ông có thể về ngửi được bó hoa ông đặt trên mộ kia chăng?”
Chỉ một bước ngắn, chúng ta chuyển từ cõi này qua cõi khác. Ai cũng ngại ngần trước nhịp bước vô định này. Cõi tạm, cõi… khách sạn, chúng ta đã quen nếp sống. Cõi thực, cõi… nhà, chúng ta u u minh minh. Cái bước dùng dằng từ một chỗ đứng cân bằng trên mặt đất sang chỗ chênh vênh mây trời là cái bước mỗi con người phải trải qua. Cái điều chắc chắn sẽ xảy ra này chúng ta không muốn nghĩ tới. Càng thêm tuổi, chúng ta càng làm lơ không muốn nghĩ tới. Không nghĩ thì làm sao mà hiểu được.
Thế giới có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.
(Mai Thảo)

02/2004

CẢM TẠ ƠN CHÚA THÁNH THẦN

CẢM TẠ ƠN CHÚA THÁNH THẦN

Tuyết Mai

Ơn Chúa Thánh Thần nếu kể ra thì thật tình không mấy ai có thể kể ra cho hết được bởi vì Người ban ơn cho mỗi người cách đặc biệt tùy theo khả năng của người ấy nữa!. Ta có thể biết được điều này nếu trước kia ta không thể làm được gì hữu ích ngay cả cho chính cá nhân ta mà nay bởi đâu ta lại có thể làm được những điều lạ lùng như thế?. Đặc biệt hơn nữa là những khả năng ấy phải được dùng trước tiên cho sự hữu ích của linh hồn sống đời của chúng ta và của anh chị em ta. Như Chúa muốn chúng ta hết thảy phải có trách nhiệm chung với nhau là cùng đem nhau về Trời chứ không chỉ muốn lên một mình.

Còn khả năng mà làm hại cho chính linh hồn mình hay cho anh chị em mình thì đó là khả năng của sự tối tăm, của ma quỷ chúng đang cố gắng hướng dẫn chúng ta đến gần Hỏa Ngục ngày một hơn. Nên chúng ta phải thật cẩn trọng và đề phòng nhiều hơn nữa để khỏi sa chước cám dỗ và để không mất linh hồn!.

Để nghiệm ra được những ơn mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta điều cần thiết nhất là chúng ta phải luôn có sự liên lạc và liên hệ với Thiên Chúa hay với Mẹ Chúa là Đức Trinh Nữ Maria qua chuỗi Mân Côi của Mẹ. Điều rõ ràng để cảm nhận nhất vẫn là sự Bình An mà Người ban cho chúng ta, từ đó ta sẽ nhận thấy rất rõ ràng là Người muốn chúng ta làm những công việc gì cho Người. Rồi thì Người sẽ ban cho chúng ta khí cụ để chúng ta có thể làm được những gì Người muốn trên khả năng dư thừa mà trước đây chúng ta chưa bao giờ có khả năng để làm.

Cảm tạ Chúa nhất vẫn là sự bình an mà ngày qua ngày chúng ta nhận được từ Thiên Chúa ban cho chúng ta rất nhưng không. Cảm nhận ấy thật rõ ràng hơn nữa khi chúng ta biết dâng lên Người tất cả mọi lo lắng, muộn phiền, buồn giận, và sợ sệt. Biết nhường nhịn, khiêm nhường, thông cảm, hy sinh, bác ái, và tha thứ cho người cách dễ dàng hơn.

Biết phân tích những lời chê bai của người. Tại sao họ lại có thể nói vậy hoặc họ muốn mình đau buồn? Khi ta biết rằng vì họ chưa từng biết cách đối xử với người cách lịch sự bao giờ và chưa từng có một ngày đến trường. Nhờ ơn Chúa ta sẽ tự biết sửa đổi chính mình và sống trong hòa thuận với anh chị em. Biết nhìn nhận cái sai của ta và xin lỗi ngay. Biết cách sửa đổi người trong lời ăn tiếng nói thật nhã nhặn và thật tử tế của ta, mà không làm người xấu hổ hay bị mất mặt cách không cần thiết.

Người được Chúa thay đổi thì từ thường dân cho đến mọi phẩm trật trong Giáo Hội, không ai còn có lòng tự cao tự đại trong họ nữa. Điều này cũng cho ta thấy rất rõ ai có ơn Chúa hay không. Bởi nên giống Chúa Giêsu và bước theo con đường của Chúa đi mà không có lòng khiêm hạ, không có tinh thần sống khó nghèo, sống bác ái, biết thông cảm, dễ tha thứ, hăng hái trong công việc làm hy sinh, hay muốn được phục vụ anh chị em mình, thì không chóng thì chầy cũng làm ô danh Thiên Chúa và bị trục xuất khỏi cộng đoàn cách ngoài y muốn của ta. Nên mới có câu “chiếc áo dòng không làm nên thầy tu” là vậy, dù là ta theo đạo nào.

Con người trần thế thì không ai xa lạ trong vấn đề muốn cho được nổi nang, giầu có, tiếng tăm, và càng thâu vào ngân hàng nhiều bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu bởi ai cũng có cái túi tham không đáy ấy!. Nhưng với ơn Chúa Thánh Thần thì như một chiếc đũa thần giáng trên đầu chúng ta thì ngay lập tức ta không còn muốn hay giữ những của cải mà nguyên thủy không phải của ta ấy!.

Điều này thì người trần gian khó có ai có thể cắt nghĩa cho được là tại sao một người từ giầu có ăn chơi trác táng nay lại muốn bỏ tất cả mà đi theo Chúa?. Có thể vì sự cầu thay nguyện giúp của ai đó thật mãnh liệt mà Chúa Thánh Thần không thể từ chối lời cầu nguyện ấy chăng như cha mẹ của ta hay chính là của ta rất liên lỷ rất tha thiết?. Như chuyện thay đổi khá đặc biệt cuả Thánh Phaolô trở lại, Thánh Phanxico Assasi khó nghèo của chúng ta và rất nhiều những Thánh nam nữ khác. Hoặc đó là duyên tiền định mà Thiên Chúa muốn chúng ta là … hay trở thành người khá hơn ở ngay giai đoạn đời đó, phải được sửa đổi hay phải được thực thi ấy?.

Điều thay đổi con người toàn diện của chúng ta thật không thể cắt nghĩa cho xuông mà chỉ có thể hiểu rằng Thiên Chúa muốn cho chúng ta được sửa đổi như thế là do Thiên Thần Thiên Chúa muốn cho chúng ta đóng góp với Người một bàn tay?. Bởi người thì đông mà nhân sự và nhân tài thì thiếu!?. Như “lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt” chẳng hạn!. Điều này cũng cho chúng ta hiểu rằng sự gì Thiên Chúa muốn, thì Người sẽ làm. Vả có phải đó là điều may mắn lắm thay khi Chúa cần đến chúng ta?. Thiên Chúa luôn muốn trong mọi thời đại phải có những con người dâng hiến trọn vẹn cho Chúa để nhu cầu làm cho thế giới biết Danh Thánh Chúa và tình yêu của Người ngày càng được lan rộng và đi xa tới mãi tận cuối chân trời?.

Con người chúng ta bình thường thì ai cũng yếu đuối và rất làm biếng khi phải làm gì cho ai hay ngay cả làm cho chính mình. Nhưng khi ta được ơn Chúa Thánh Thần tự nhiên con người của ta biến đổi cách lạ lùng, cách ngạc nhiên mà ai cũng có thể nhận biết. Như cười với người nhiều hơn. Vui tươi cách rất tự nhiên, nhiều sinh lực dù thiếu ăn thiếu ngủ, yêu người và hăng say trong những công tác thiện nguyện, luôn nghĩ cách giúp người trong khả năng. Rõ nhất là biết chấp nhận đời dù đời có đối xử với ta không đẹp, v.v….. Luôn biết cảm tạ Thiên Chúa vì biết rằng Người sẽ định liệu tất cả, cho ta những gì là tốt đẹp và thích hợp với ta nhất. Cho ta chịu được những thích ứng thật bất ngờ với người, với đời, và với công việc chưa từng bao giờ biết làm hay ứng xử bao giờ.

Do đó ai có được ơn Chúa Thánh Thần chúng ta phải luôn cảm tạ Người và an tâm với những gì Người ban, nhất là an tâm cho linh hồn sống đời của ta, vì Người luôn gìn giữ và phù trợ cho ta luôn mãi. Chúc tụng Thiên Chúa của chúng ta đến muôn đời, vì không có Người trong cuộc đời thì chúng ta chẳng làm được điều chi cho có hữu ích mà không là thành phần vô dụng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt anh chị em. Amen.

** Xin bấm vào mã số để hát theo:
http://www.youtube.com/watch?v=2tZRdg0FdNw
(Tình Yêu Chúa Thánh Thần)

Y Tá của Chúa,
Tuyết Mai
(01-17-13)

Trãi thảm cho cửa địa ngục, vì sao?

Trãi thảm cho cửa địa ngục, vì sao?

tuankhanh

RFA

Có phải con người Việt Nam đang sống ở dưới mức cam chịu, luật pháp Việt Nam thì quá yếu ớt hoặc ngành giáo dục hiện nay không còn đủ ý thức mình đang là gì trên đất nước này? Sự kiện trẻ em trong trường học bị công an tự tiện xông vào bắt đi, dẫn đi và tra tấn, dẫn đến thương tật hoặc tử vong đang diễn ra nhức nhối, nhưng mọi thứ cứ như bị dằn xuống, im lặng và trôi qua.

Điều thất nhân tâm mới nhất, là chuyện công an thôn ở huyện Tịnh Sơn, Quảng Ngãi đã tự ý đi vào trường THCS Tịnh Bắc, xã Tịnh Bắc để bắt em Nguyễn Tấn Tâm giữa giờ học, đem về đồn tra tấn để buộc em phải nhận tội ăn trộm. Sau đó, công an thôn – như một cách che chở lộ liễu qua việc cung cấp thông tin hạn chế từ địa phương, chỉ được cho biết tên là Danh – đã buộc mẹ em Tâm đến ký giấy xác nhận tội của em. Như mọi gia đình thôn quê ở miền trung, sợ hãi đồn công an và chốn công quyền, bà Trương Thị Thái, mẹ của em vội vã ký vào giấy vì nghe lệnh của công an là “ký vào, mới được cho về”, hơn nữa bà quá lo lắng khi thấy con mình bị bắt từ sáng, mà đến 7 giờ tối mới được công an thôn cho gọi.

Đầu năm 2016, lá thư tuyệt mệnh của học sinh Tâm gửi lại cho gia đình sau khi uống thuốc trừ sâu, chọn cái chết để đòi lại danh dự của mình, trở thành tuyên ngôn máu của hiện thực học đường mà ngành giáo dục Việt Nam phải cúi mặt, nếu còn chút lương tri.

Từ lúc nào, nhà trường ở Việt Nam trở thành cánh cổng phụ dẫn đến đồn công an một cách công khai như vậy?

Trường hợp công an đột nhập trường THCS Tịnh Bắc bắt em Tâm đi, có thể được coi là điều bất ngờ của thầy cô, ban giám hiệu nhà trường, nhưng lẽ ra em Tâm phải được nhà trường bảo lãnh đi về cho hết giờ học, thông báo hiện tượng bất thường này cho phụ huynh em Tâm để tránh điều đáng tiếc nói trên. Hoặc ít nhất nhà trường đã phải cử người đến đồn công an để làm người giám hộ cho em Tâm.

Rất nhiều người khi đọc bản tin về cái chết của học sinh Nguyễn Tấn Tâm, đã thở dài nói rằng với tình trạng cường quyền và vô pháp của công an ở các vùng nông thôn, nhà trường có biết thì cũng đành cam chịu. Bạn có tự hỏi, nếu sự sợ hãi không có bóng dáng của pháp luật đó cứ được duy trì mãi, liệu sẽ có bao nhiêu sinh mạnh trẻ nhỏ còn treo lơ lửng trong môi trường học đường?

Hãy nhìn lại biểu đồ của ngành giáo dục, liên quan đến đến vấn nạn công an ngang nhiên dẫn độ trẻ em giữa giờ học (trong đó cũng không ít vụ chính nhà trường làm “mai mối” cho những tội ác đó). Biểu đồ đó tăng dần trong hình ảnh lạm quyền của công an địa phương, cũng như coi thường luật pháp. Từ năm 2007, khi dư luận xã hội bùng lên chuyện em Huỳnh Thị Ngọc Trâm, học lớp 5 ở trường tiểu học An Hiệp, tỉnh Đồng Tháp bị chính nhà trường giao cho công an tra tấn để xét xem em có lấy trộm tiền quỹ 47.000 đồng của lớp không, khiến em trở nên hoảng loạn và bị câm trong một thời gian dài mà không hề có sự bồi thường thoả đáng nào. Ghê sợ hơn, học sinh tiểu học mới 7 tuổi như em Lại Thị Thắm ở trường tiểu học Trung Lập Thượng, Củ Chi, Tp.HCM cũng từng bị dắt giao cho công an thẩm tra, ngay trong lúc em đang ở lớp, vì nghi em trộm tiền. Chuyện vừa diễn ra vào năm 2012, là một trong những cột mốc chạy dài đến hiện tại, với vô số sự kiện bạo lực học đường bắt đầu từ người lớn, và hôm nay là cái chết của em Nguyễn Tấn Tâm.

Chẳng lẽ, đối với học đường, ngành công an không thể tiêu hoá nổi khoản 9 điều 7 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, nghiêm cấm các hành động có tính chất xúc phạm, hạ thấp danh dự, nhân phẩm hoặc dùng nhục hình đối với trẻ em tình nghi vi phạm pháp luật? Và điều luật được in rành rành công khai đó, đối với các thầy cô, vẫn không đủ là chỗ dựa để bảo vệ học trò mình thay vì cam chịu, như biến nhà trường thành cánh cổng phụ của đồn công an, trong trường hợp em Tâm?

Cách đây không lâu, Bộ Giáo dục có ra thông báo, kêu gọi phụ huynh cẩn trọng trước nạn bắt cóc trẻ em ở trước cửa trường. Chua chát thay, số liệu về bắt cóc của kẻ lạ thì rất thấp, nhưng số liệu về việc công an bắt đi công khai, nhục hình và gây thương tật cho học sinh thì rất rõ, thậm chí được ghi ở trang bách khoa điện tử. Thật ngạc nhiên, khi cần thì Bộ giáo dục có thể vận dụng mọi ngành công an địa phương trong việc để bảo đảm cho những kỳ thi “sạch” theo ý muốn của mình, nhưng gần 10 năm, kể từ sự kiện em Ngọc Trâm, Bộ Giáo dục sao không thể gửi nổi một công văn khuyến cáo các công an địa phương nên hợp tác văn minh để giữ gìn môi trường cao quý của ngành giáo dục?

Nói về chuyện giá trị riêng tư của ngành giáo dục, lại chợt nhớ câu chuyện của anh bạn định cư ở nước ngoài. Những ngày đầu ở xứ người, do không quen đường xá, anh bạn khi đưa con lên xe bus của nhà trường, liền lái xe đi theo để học thuộc đường, phòng trường hợp phải đi đón về sớm. Được 2 ngày, cảnh sát đến tận nhà kiểm tra xem có đúng là phụ huynh không, còn nếu không thì sẽ bị cấm đi theo xe bus học sinh, do bị nghi ngờ là kẻ bắt cóc. Sau khi nghe chuyện, cảnh sát còn dặn anh bạn rằng phải nhớ ghé vào trường làm một I.D tag (thẻ nhận dạng phụ huynh) thì mới có thể được phép đón con về. Viên cảnh sát cho biết thêm, ngay cả trường hợp ông được nhờ đưa học sinh về, ông phải ký vào sổ và ghi rõ họ tên, chức vụ của nhà trường.

Chuyện nhà trường ở xứ người thì vậy, còn trong trường hợp em Tâm, sau khi công an thôn thấy chuyện trở nên rắc rối từ cái chết của em, nơi này đã vội vàng tuyên bố rằng học sinh Tâm từng có tiền án trộm cắp hơn 10 vụ. Ngay cả cô phó hiệu trưởng trường THCS Tịnh Bắc, cô Nguyễn Thị Thu Hoanh nghe mà phải sửng sốt trước trò tiểu xảo này. Cô khẳng định rằng mình vẫn biết em Tâm là một học sinh ngoan. Đúng là người chết hai lần, thịt da nát tan.

Một môi trường giáo dục được tôn trọng là ước muốn không của riêng ai. Một không gian văn minh và riêng tư của nhà trường phải thuộc về pháp luật, chứ không thể thuộc vào quyền lực riêng của một bí thư hay một công an xã. Nỗi đau của các phụ huynh có con cái đối diện với vấn nạn lạm quyền vô pháp phải trở thành những bài học cho đất nước. Cái chết của học sinh Nguyễn Tấn Tâm không thể bị lãng quên vô ích, nó là tiếng kêu về một tương lai khác của học đường Việt Nam: nơi đó phải là nơi trải thảm cho đường đến tương lai, chứ không thể là đường trải thảm dành cho cửa địa ngục.

Comments

Wed, 01/20/2016 – 02:23 — anonymous

Địa ngục việt nam

Chuyện này xảy ra ở việt nam thì đâu có gì là lạ…chỉ có mới là vì thông tin bây giờ khó bưng bít thôi. Cũng như bắc hàn hay trung cộng lũ quỉ cộng sản có thể bất hoặc giết bất cứ ai chúng muốn. Trường học thì thầy giáo còn bắt học trò bán dâm, du đãng hoành hành, nộp tiền để được điểm cao….sau khi phá nát nền giáo dục việt nam, lũ quỉ đỏ gởi con của chúng đi học trường quốc tế mở ra ở sài-gòn, hà-nội…hoặc có tiền hơn thì gởi đi các nuớc phương tây để ăn học. Còn dân đen không tiền thì ở trong nước tiếp tục học đạo đức hồ chí minh…để đi làm tôi mọi hoặc osin cho các nước láng giềng. Nếu các bậc cha mẹ muốn con cháu mình tiếp tục được đảng đào tạo thì cứ việc tiếp tục cúi đầu cam chịu.

Hoài Việt

Ba nữ tài tử xinh đẹp từ bỏ tất cả để trở thành nữ tu.

Ba nữ tài tử xinh đẹp từ bỏ tất cả để trở thành nữ tu

Làm sao để có một cuộc sống hạnh phúc? Điều gì khiến cuộc sống này đáng sống? Phải chăng đó là tiền tài, danh vọng, thành đạt…? Chúng ta không phủ định rằng những yếu tố kể trên không đem lại hạnh phúc cho con người nhưng nó không phải là tất cả. Và ai trong chúng ta cũng biết, cũng hay và cũng rõ, duy chỉ có Thiên Chúa, chỉ nơi Đức Ki-tô, con người ta mới có được một hạnh phúc tròn đầy và viên mãn.
Và cũng chỉ có cách hiểu như vậy thì chúng ta mới lý giải được lý do khiến ba nữ tài xinh đẹp được nói dưới đây quyết định từ bỏ tất cả để bước vào cánh cổng Tu viện. Họ bỏ lại sau lưng sự nghiệp, tiền tài, danh vọng để theo đuổi hạnh phúc trên con đường dân hiến.
1, Dolores Hart – “Nếu bạn được nghe những gì tôi đã nghe…”
Cô sinh năm 1938 và tên thật là Dolores Hicks. Cô đổi tên thành Dolores Hart khi bắt đầu sự nghiệp diễn xuất của mình từ khi còn rất trẻ. Ở tuổi 18, cô đã là một nữ diễn viên trong vai người yêu của ông hoàng Rock & Roll – Elvis Presley trong bộ phim Loving you. Cô đã nhận được nụ hôn đầu tiên của Elvis trên màn ảnh.
Dolores còn đóng nhiều vai diễn khác nữa trong 9 bộ phim trong vòng 5 năm sau đó. Cô đóng phim cùng các diễn viên nổi tiếng như Stephen Boyd, Montgomery Clift, George Hamilton và Robert Wagner.
Dolores Hart (thời trẻ) và “ông hoàng Rock & Roll” Elvis Presley từng cùng xuất hiện trong hai bộ phim được thực hiện hồi thập niên 1950-1960.
24 tuổi, cô quyết định từ bỏ tất cả để bước vào nhà dòng khi trên đà trở thành một ngôi sao Hollywood. Sau này, cô giải thích rằng, lúc đó cô được đóng vai Thánh Clara trong bộ phim Thánh Phanxico Assisi. Cô đã được gặp Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII tại Ý trong thời gian quay bộ phim. Cô giới thiệu với Ngài rằng: “Thưa Cha, con là Dolores Hart, nữ diễn viên trong vai Thánh Clara”. Ngài trả lời rằng: “Không phải như vậy. Con chính là Thánh Clara thành Assisi.”
Fan hâm mộ và bạn bè của cô đã bị sốc và thậm chí còn phát điên khi họ nghe tin này. Hart nhớ lại: “Thậm chí, người bạn thân nhất của tôi là linh mục, cha Doody, nói rằng: “Cậu thật điên rồ. Quá dại dột khi cậu quyết định như vậy.” Một người bạn của cô còn viết là thư đầy tức tối sau khi cô nhập tu và cố gắng thuyết phục cô ra khỏi nhà dòng. Và cô đã trả lời rằng: “Nếu cậu đã từng nghe thấy những gì tớ được nghe, cậu cũng sẽ làm như tớ, sẽ tới đây mà thôi!”
 
Sơ Dolores Hart hiện nay
2, Olalla Oliveros – “Thiên Chúa chẳng bao giờ lầm…”
Olalla Oliveros là một siêu mẫu nổi tiếng người Tây Ban Nha. Cô cũng là diễn viên, hoạt động trong lĩnh vực gioi trẻ trong nước và quốc tế.
Sau khi ghé tham Fatima, Portugal – một linh địa mà Mẹ Maria đã hiện ra với ba đứa trẻ năm 1917, cô đã bị đánh động. Olalla nói, trong đầu cô hiện lên hình ảnh của mình trong bộ áo dòng giống các nữ tu và một vài điều nữa mà thoạt đầu cô cho là phi lý.
Cô không thể nào bắt theo những hình ảnh đó. Và rồi cô nhận ra rằng, Chúa đang gọi mình. Chúa đang gọi cô từ bỏ cuộc sống hiện tại để trở thành một nữ tu.
“Thiên Chúa chẳng khi nào nhầm lẫn cả”, cô nói. “Ngài hỏi tôi rằng tôi có theo Ngài không và tôi chẳng thể nào chối từ”.
Hiện tại, cô đang sống trong dòng Thánh Micae, một nhà dòng bán kín.
3, Amada Rosa Pérez – “Tôi đang sống trong bình an…”
Amada Rosa Pérez là một trong những siêu mẫu thành đạt và nổi tiếng nhất ở Colombia 10 năm trước đây, trước khi cô “mất tích” khỏi công chúng. Sau 10 năm, cô quay trở lại và giải thích cho mọi người về sự vắng bóng của mình. Cô đã có một cuộc chuyển mình lớn và giờ Amada đang sinh hoạt trong Tu hội Đức Mẹ. (Tuy nhiên, cô không phải là một nữ tu mà chỉ cộng tác trong đó).
Trên đỉnh cao của sự nghiệp, cô được chẩn đoán là mắc bệnh về thính giác. Việc này đã khiến cô tự đặt một câu hỏi về cuộc sống hiện tại của mình. Cô nói: “Tôi cảm thấy tuyệt vọng, mất phương hướng và ngập chìm trong những thú vui thoáng qua… Tôi luôn băn khoăn để tìm kiếm lẽ sống nhưng cuộc đời lại chẳng trả lời giúp tôi.
Giờ đây, cô thường xuyên tham dự Thánh LỄ, đi xưng tội, đọc kinh Mân Côi và kính Lòng Thương Xót Chúa. “Trước đây, tôi luôn trong tình thế gấp gáp, vội vàng, căng thằng là dễ phiền muộn”, cô giải thích. “Thế nhưng, giờ lại khác. Tôi được sống trong bình an, thế gian kia chẳng còn đủ sức để cám dỗ tôi được nữa. Bởi, tôi luôn yên và quý trọng tựng phút giây mà Thiên Chúa ban tặng.”
Cô cũng nhận định là điều gì mới thực sự làm nên một hình tượng “người mẫu”. Cô chán ghét với một hình tượng chỉ được cái vẻ bên ngoài. Thực sự, đó là một thế giới của sự giả tạo, hình thức, dối trá, đạo đức giả và sự lừa gạt. Một xã hộ đầy dẫy những điều vô luân, bạo lực, dâm tục, ma túy, đánh hại nhau, một xã hội tôn thờ tiền tài, tình dục và lừa dối.
“Tôi muốn trở thành một người mẫu, người mà giúp cho nhân phẩm của người phụ nữ được coi trọng chứ không phải là để với mục đích thương mại”.

 

CHẲNG VỊ THÁNH NÀO KHÔNG CÓ MỘT QUÁ KHỨ, CŨNG CHẲNG TỘI NHÂN NÀO KHÔNG CÓ MỘT TƯƠNG LAI

CHẲNG VỊ THÁNH NÀO KHÔNG CÓ MỘT QUÁ KHỨ, CŨNG CHẲNG TỘI NHÂN NÀO KHÔNG CÓ MỘT TƯƠNG LAI

 Vũ Đức Anh Phương, SJ

Trong bài giảng thánh lễ sáng thứ ba, ngày 19.01, tại nhà nguyện thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ rằng: “Chẳng vị thánh nào không có một quá khứ, cũng chẳng tội nhân nào không có một tương lai.  Thiên Chúa không bao giờ dừng lại ở dáng vẻ bề ngoài mà luôn nhìn sâu vào tận tâm tư cõi lòng của con người.”

Khởi đi từ bài đọc một, kể lại việc Thiên Chúa đã tuyển chọn cậu bé Đa-vít để sau này trở thành vua của Ít-ra-en, Đức Thánh Cha chia sẻ rằng: “Ngay cả những vị thánh, trong cuộc đời của mình, cũng đã gặp phải những cám dỗ và tội lỗi, giống như cuộc đời của vua Đa-vít vậy.

Thiên Chúa đã gạt bỏ vua Sa-un vì vua có một tâm hồn đóng kín, chiều theo ý dân chúng hơn là vâng phục Thiên Chúa.  Thiên Chúa đã quyết định chọn cho dân Ngài một vị vua khác.

Thiên Chúa đã chọn Đa-vít.  Sự chọn lựa ấy nếu dựa theo tiêu chuẩn của con người sẽ chẳng thể nào hiểu được, vì Đa-vít chỉ là một đứa trẻ và lại còn là đứa con nhỏ nhất của ông Gie-sê.  Nhưng Thiên Chúa đã phán rất rõ ràng với tiên tri Sa-mu-en rằng Ngài không xét theo hình dáng bên ngoài và những tiêu chuẩn theo kiểu người phàm.  Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Thiên Chúa thì thấy tận đáy lòng.

Chúng ta thường bị chi phối bởi dáng vẻ bề ngoài và tự cho phép chúng ta theo đuổi những dáng vẻ ấy.  Nhưng Thiên Chúa là Đấng biết sự thật và những điều kín ẩn bên trong.  Ông Gie-sê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Sa-mu-en, nhưng Thiên Chúa không chọn ai trong số họ.  Sa-mu-en cảm thấy khó khăn, bối rối và nói với ông Gie-sê: “Đức Chúa không chọn những người này.  Các con ông có mặt đầy đủ chưa?”  Ông Gie-sê trả lời: Còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên.”  Trước mắt người đời, đứa trẻ này không được tính, không đáng để quan tâm đến.

Đứa bé chẳng có gì khiến người ta phải lưu ý, nhưng Thiên Chúa đã chọn cậu và truyền cho Sa-mu-en xức dầu tấn phong cậu.  Và Thần Khí Đức Chúa ở với Đa-vít từ ngày đó trở đi.  Trọn cuộc đời của Đa-vít là cuộc đời của một người được Thiên Chúa xức dầu, được Thiên Chúa tuyển chọn.

Nhưng ngay lúc đó, Thiên Chúa có biến cậu Đa-vít thành một vị thánh không?  Câu trả lời là không.  Mặc dù vua Đa-vít là một thánh vương, điều này là sự thật, nhưng ngài chỉ trở thành thánh sau khi sống một thời gian lâu dài.  Trong cuộc sống đó, ngài cũng phạm tội, cũng vướng mắc bao lỗi lầm.

Vua Đa-vít là một vị thánh và cũng là một tội nhân.  Ngài là người có khả năng lãnh đạo con cái Ít-ra-en thống nhất đất nước, nhưng lại yếu đuối để rơi vào cám dỗ.  Không chỉ phạm tội, ngài còn là kẻ sát nhân.  Để che dấu ham muốn, dục vọng của mình (tội ngoại tình), vua Đa-vít đã mưu sát người khác.  Khi Thiên Chúa sai tiên tri Na-than đến chỉ cho vua thấy tội lỗi mà vua đã phạm – vì quả thực ngài không ý thức hết sự tàn ác, man rợ trong thủ đoạn của mình – vua Đa-vít đã ăn năn thú tội và nài xin sự tha thứ của Thiên Chúa.  Vua Đa-vít đã không lợi dụng Thiên Chúa cho những tính toán riêng tư của mình.  Khi bị truy đuổi buộc phải chạy trốn khỏi Giê-ru-sa-lem, ngài đã gởi trả lại Hòm Bia Giao Ước, vì không muốn dùng Thiên Chúa như vật thế thân cho mình.  Và sau này, khi bị xúc phạm, ngài cũng khiêm nhường thú nhận: “Tôi đáng bị như vậy.”

Vua Đa-vít cũng thật hào hiệp và trượng nghĩa.  Có thể hạ sát vua Sa-un nhiều lần, nhưng ngài đã không ra tay.  Ngài là một thánh vương và cũng là một đại tội đồ, nhưng đã ăn năn sám hối.  Tôi thực sự được đánh động khi nhìn ngắm cuộc đời của con người này.  Và cuộc đời ấy cũng khiến chúng ta phải suy nghĩ về chính cuộc sống của mình.  Tất cả chúng ta đã được Thiên Chúa tuyển chọn qua Bí Tích Thánh Tẩy, để được thuộc về Đoàn Dân Chúa, được trở nên những vị thánh.  Tất cả chúng ta đã được thánh hiến nhờ Đức Giêsu Kitô, để trở nên tinh tuyền, thánh thiện.  Khi đọc lại cuộc đời của vua Đa-vít từ khi còn là một chàng trai trẻ cho đến lúc tuổi già, chúng ta nhận thấy ngài đã làm nhiều điều tốt, nhưng cũng có những điều chẳng tốt lành gì.  Điều ấy khiến tôi xác tín rằng, trong hành trình của người Kitô hữu, cuộc hành trình mà Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta đảm đương lấy, chẳng vị thánh nào không có một quá khứ và cũng chẳng tội nhân nào không có một tương lai.”

 Vũ Đức Anh Phương, SJ

Nguồn: R. Vatican

CHĂM LO CHO LINH HỒN MÌNH

CHĂM LO CHO LINH HỒN MÌNH

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Lợi ích gì nếu được cả thế gian mà phải đau khổ vì mất linh hồn mình?

Chúa Giêsu đã dạy chúng ta như thế, và tôi ngờ rằng chúng ta thường không nắm bắt được trọn vẹn ý nghĩa của lời này.  Chúng ta thường hiểu những lời của Chúa Giêsu như thế này: Có gì tốt khi ai đó được giàu có, danh tiếng, khoái lạc, và vinh quang rồi chết đi và xuống hỏa ngục?  Có gì tốt nơi vinh quang và khoái lạc trần gian, nếu chúng ta lỡ mất sự sống đời đời?

Đúng, lời dạy của Chúa Giêsu chắc chắn có ý như thế, nhưng có những bài học quan trọng khác nữa trong lời dạy này, chỉ cho chúng ta biết về sức khỏe và hạnh phúc ngay ở đời này.  Chúng ta đánh mất linh hồn mình như thế nào?  “Đánh mất linh hồn” ngay trong thế gian này nghĩa là gì?  Linh hồn là gì, và làm sao có thể mất linh hồn?

Do bởi linh hồn là vô hình và thiêng liêng, nên không thể họa ra được.  Chúng ta phải dùng các khái niệm mơ hồ để cố hiểu được linh hồn.  Các triết gia, từ thời Aristotle, đã có khuynh hướng định nghĩa linh hồn như một nguyên tắc đôi trong mọi đời sống.  Với họ, linh hồn vừa là nguyên tắc sự sống và năng lượng trong chúng ta, vừa là nguyên tắc của sự kết dính thấm nhập.  Về căn bản, linh hồn là hai sự: Là ngọn lửa bên trong, cho chúng ta sự sống và sinh lực, và linh hồn cũng là chất keo kết dính chúng ta lại với nhau.  Trong khi điều này có vẻ mơ hồ, nhưng không phải thế, bởi chúng ta đã được cảm nghiệm mắt thấy tai nghe về ý nghĩa của linh hồn.

Nếu có bao giờ bạn ở bên một người hấp hối, bạn biết chính xác lúc nào linh hồn rời bỏ thân xác.  Bạn biết khoảnh khắc đó, không phải bởi bạn thấy có sự gì đó thoát ra khỏi thân xác người đó, nhưng đúng hơn là một phút trước, bạn thấy một con người, đầy đấu tranh và đau đớn, có sinh lực và ngọn lửa trong mình, rồi một phút sau, thân xác đó hoàn toàn trơ ra, hoàn toàn không có sinh lực và sự sống.  Không còn sinh khí nữa.  Thân xác đó trở thành một xác chết.  Cũng vậy, dù già nua hay bệnh tật, thì cho đến trước giây phút cái chết, thân xác đó vẫn là một cấu thành hợp nhất.  Nhưng ngay giây phút cái chết, thân xác đó không còn là một cơ thể, nhưng chỉ là một loạt sinh hóa bắt đầu phân rã.  Một khi linh hồn ra đi, thì mọi sự sống và kết dính cũng ra đi.  Thân xác không còn bất kỳ sinh khí nào cũng như không còn gắn kết với nhau nữa.

Và bởi linh hồn là một nguyên tắc đôi, làm cho chúng ta hai sự, thì cũng có hai con đường song song tương ứng của việc mất linh hồn.  Chúng ta có thể khiến cho sức sống của chúng ta chết đi, hay chúng ta có thể trở nên xa cách tách rời, trong cả hai trường hợp, chúng ta đều đánh mất linh hồn mình.

Nếu thật như thế, thì điều này gợi lên một chất vấn khác về cách chúng ta làm sao để chăm lo cho linh hồn mình.  Thức ăn bổ dưỡng cho linh hồn là gì?  Ví dụ như, tôi đang xem truyền hình, điều gì tốt cho linh hồn tôi?  Một kênh tôn giáo?  Kênh thể thao?  Một bộ phim hài vô nghĩa?  Kênh về thiên nhiên?  Một talk-show đả phá tôn giáo nào đó?  Điều gì là lành mạnh cho linh hồn tôi?

Đây là một câu hỏi chính đáng, nhưng cũng là một câu hỏi gài bẫy.  Chúng ta mất linh hồn theo một cách đối lập hẳn, và do đó việc chăm lo cho linh hồn như một thuật giả kim tinh xảo, phải biết lúc nào thêm lửa lúc nào cho nguội bớt.  Xác định những gì là lành mạnh cho linh hồn tôi, dựa nhiều vào những gì tôi đang phải đấu tranh ngay lúc đó.  Tôi có đang đánh mất linh hồn, vì tôi đang mất đi sức sống, năng lượng, hi vọng, và lòng nhân từ trong đời?  Tôi có đang ngày càng cay đắng, khắc nghiệt, cằn cỗi, trở nên một con người đau đớn hay không?  Hay ngược lại, tôi có đầy sinh lực nhưng lại quá đầy, đến nỗi tôi đang rời xa, phung phí, đánh mất ý thức về bản thân mình hay không?  Tôi có đang bị tê liệt hay tan rã dần hay không?  Cả hai đều là mất linh hồn.  Trong dạng thứ nhất, linh hồn cần thêm lửa, một sự gì đó thổi bùng sinh khí trở lại.  Trong dạng sau, linh hồn đã có quá nhiều lửa, cần phải dịu bớt và thêm chất kết dính.

Sự căng thẳng này giữa nguyên tắc của sinh lực và nguyên tắc kết dính, bên trong linh hồn con người, cũng là một trong những căng thẳng điển hình giữa tự do và bảo thủ.  Nói một cách tối giản, nhưng dễ hiểu, sự thật là những người theo chủ nghĩa tự do có khuynh hướng bảo vệ và thúc đẩy cho nguyên tắc sinh lực, còn người theo chủ nghĩa bảo thủ lại có khuynh hướng bảo vệ và thúc đẩy cho nguyên tắc chung hiệp, chất keo kết dính.  Cả hai đều đúng, cả hai đều cần thiết, và cả hai đều cần phải tôn trọng bản chất của người kia, bởi linh hồn là một nguyên tắc đôi, và cả hai nguyên tắc đều cần được bảo vệ.

Sau khi chết, chúng ta có thể vào thiên đàng hay hỏa ngục.  Đây cũng là một cách nói về việc đánh mất hay cứu được linh hồn mình.  Nhưng thần học Kitô giáo dạy chúng ta rằng, thiên đàng và hỏa ngục đã có ngay lúc này.  Ngay ở đây, trong đời này, chúng ta có thể làm suy yếu hay hủy hoại sự sống Thiên Chúa ban trong chúng ta, bằng cách làm tê liệt hay tan rã sự sống đó.  Chúng ta có thể đánh mất linh hồn mình bằng việc không có đủ lửa mến hay không đủ kết dính chung hiệp.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Những Người Ở Lại

Một mặt trận hai kẻ thù

Giặc cộng bán nước, giặc tầu xâm lăng

Những Người Ở Lại

 Tạp Ghi Huy Phương

Người ta thường nói: “Chúng ta đi mang theo quê hương!” Nhưng quê hương là gì? Phải chăng đó là ngôn ngữ, thói quen trong cuộc sống, câu hò, giọng hát và miếng ăn, thức uống hàng ngày. Nhưng quê hương đâu phải chỉ có vậy, và như vậy là hết!

Bước chân lên bờ mà người ta gọi đó là mảnh đất tự do, bước chân xuống đất một phi trường nào đó mà người ta gọi là đất hứa, chẳng mấy chốc mà chúng ta đã quên hết. Mang theo quê hương nhưng chúng ta đã bỏ lại rất nhiều thứ, như người chăn chiên bỏ bầy chiên lại cho lũ sói rừng. Chúng ta bỏ lại người sống lẫn người chết, người chết đã đành, người sống thì cũng như người đã chết. Người sống hôm nay là những anh em thương binh quặt què của chúng ta, những người trong một đất nước tối đen mà mắt mình thì không còn trông thấy ánh sáng, sống đời sống lây lất trong cái thảm cảnh lê lết của những ngày tháng vô vọng còn lại.

Một người tù binh còn lành lặn, còn lại sau chiến tranh, đã mất đơn vị, không còn hàng ngũ, lạc bạn bè trên trận địa, sống giữa thù hận, kỳ thị, sống đã là một chuyện đau khổ. Chúng ta nghĩ thế nào một người thất trận, mù hai mắt, cụt hai chân, không còn hai tay, giữa rừng người thắng trận kiêu ngạo mà vô nhân tính, mà không thể chết.

Không ít người chỉ còn biết sống trong tình thương của người qua đường không quen biết, mà người qua đường cũng không cần biết con người khốn khổ đó là ai, khi chúng ta còn ngồi trong ghế nhà trường, sống hạnh phúc trong một thành phố chan hòa ánh sáng, nơi quán cà phê hay những đêm vũ trường, bên bữa cơm gia đình ấm cúng khi họ còn ba ngày lương khô, hai cấp số đạn, băng rừng lội suối.

Chúng ta có gần 100 vị tướng lãnh, những người mà “cấp bậc là xương máu của thuộc cấp,”(*) được may mắn ra đi trước khi Sài Gòn thất thủ, bỏ lại gần một triệu quân tinh nhuệ, hàng chục nghìn thương binh bị đuổi ra khỏi quân y viện, đã có ai có cái ý nghĩ kêu gọi đồng bào ở hải ngoại nghĩ ra chuyện “lon gạo thương binh.” Phải đợi đến 20 năm sau, mới có những người bạn đồng ngũ, mới ra khỏi nhà tù tập trung, thoát nạn, quần tụ nơi đây, ngồi lại với nhau, nghĩ cách kiếm đồng tiền cho bạn bè. Cho đến bây giờ, mỗi năm, cả thế giới, nhiều lắm là chúng ta mới có khoảng $2 triệu cho thương binh, trong con số $13 tỷ gửi về Việt Nam, mà đã có người kêu la bài bác, hô hào thương binh ngưng nhận tiền cứu trợ, vì đồng tiền gửi về này, giúp cho chế độ Cộng Sản vững mạnh và sống còn!

Có người còn dạy khôn các cơ quan cứu trợ thương binh ngưng gửi tiền giúp cho các thương binh, để dành năng lực ủng hộ cho một cuộc vận động không tưởng. Cũng có người dối trá với chính mình, khi khai tử đồng đội, cho rằng việc cứu trợ thương binh là một việc làm “dối trá,” vì bây giờ, sau 40 năm, làm gì còn có thương binh nữa!

Về việc đối xử với thương binh thua trận của chính phủ Cộng Sản hiện nay, thì chính phóng viên trong nước, Bùi Minh Quốc cũng đã công nhận: “Chính sách của chính quyền Việt Nam lâu nay từ sau 1975 tới nay rất tệ. Tức là họ phân biệt đối xử và họ không quan tâm tới cái quyền sống của số anh chị em thương phế binh của phía VNCH này.”

Việc cởi mở “có giới hạn” như những diễn tiến liên quan đến thương binh VNCH tại chùa Liên Trì hay Dòng Chúa Cứu Thế ở Sài Gòn trong thời gian gần đây, và chưa lúc nào danh xưng Việt Nam Cộng Hòa được nói đến nhiều như hôm qua, hôm nay sau 40 năm bị chôn vùi và lăng mạ. Nhưng những điều này cũng không thay đổi được cuộc sống đen tối của những người đã chịu khổ 40 năm qua, nhất là những anh em ở xa vùng phố thị. Điều đáng buồn hơn là ngoài các chức sắc tôn giáo, một triệu người miền Nam trong 3 triệu người Sài Gòn hôm nay, vì đang chạy theo “cơm áo gạo tiền,” hay ký ức đã xói mòn, như người mất trí, chẳng còn ai lo âu, đoái hoài đến những người anh em năm cũ.

Trước khi nói đến những gì mà những người có lòng ở hải ngoại đang cố gắng tìm con đường sống cho các thương binh, công việc cấp bách hiện nay là tăng cường sự cứu trợ, vì con số thương binh chết càng ngày càng nhiều, vì tuổi tác, bệnh tật và đói nghèo. Hãy nhìn thẳng vào sự thật, anh em thương binh cần chén cơm, viên thuốc hơn là những lời hứa hẹn hão huyền.

 Chiến dịch “Một Gia đình-Một Thương Binh” đã được Hội HO Cứu Trợ TPB phát động cách đây vài ba năm, tuy thấy đơn giản, nhưng thật khó khăn. Người có hảo tâm dễ dàng gửi đến hội một số tiền, nhưng thấy phiền phức khi phải có trách nhiệm, cưu mang lấy một gia đình, thường trực vài ba năm, lo lắng cho họ. Đồng tiền bảo trợ giờ đây ấm áp thêm những lời thăm hỏi, thấm đượm tình người.

Chiến dịch này không phải là để trút gánh nặng cho quần chúng, để các hội đoàn thiện nguyện phủi tay, đóng cửa, mà chỉ là lời kêu gọi sự quan tâm của chúng ta đối với từng hoàn cảnh riêng của mỗi một người, mà người cho kẻ nhận gặp nhau trong sự ân cần, gần gũi.

Công việc này đòi hỏi sự kiên nhẫn đầy tình người, lẽ tất nhiên là khó khăn hơn khi chúng ta gửi đến các hội thiện nguyện một số tiền, mà thường là chúng ta chẳng hề quan tâm đến người nhận là ai.

Chỉ tính riêng những gia đình những người cựu quân nhân trong tập thể cựu tù nhân chính trị, hay những quân nhân đã vượt thoát ra đi vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến, là những người đã từng chiến đấu bên cạnh anh em thương binh ngày nay, đôi khi còn là cấp chỉ huy, con số này lên đến hằng trăm nghìn. Một trăm nghìn gia đình bảo trợ cho 15,000 hồ sơ thương binh, không phải là chuyện khó khăn không làm được, nhưng cũng phải nói đây là chuyện khó khăn.

Phần lớn, có những chuyện chúng ta hay quên phải có người khác nhắc nhở, phần lớn chúng ta “có lòng” nhưng trong cuộc sống lại thường “vô tâm,” chúng ta đi nhưng thường ít khi quay đầu ngó lại.

Có những người chết cho chúng ta được sống, có những người thương tật cho chúng ta lành lặn, có những người đành ở lại để chúng ta có cơ hội ra đi.

Tạp ghi Huy Phương

Nguyễn Phú Trọng đẩy Nguyễn Tấn Dũng về vườn

Nguyễn Phú Trọng đẩy Nguyễn Tấn Dũng về vườn
Nguoi-viet.com


HÀ NỘI (NV) – Theo các nguồn tin ngoại giao và những tiết lộ từ nội bộ cấp cao của đảng CSVN, Nguyễn Phú Trọng và phe cánh, rất có thể, đã đẩy văng Nguyễn Tấn Dũng ra khỏi bộ tứ quyền lực trong đại hội 12 đang diễn ra tại Hà Nội.

Các lãnh đạo đảng CSVN cùng các đảng viên cao cấp trước ngày khai mạc đại hội 12. (Hình: AP)

Hôm Thứ Năm, 21 Tháng Giêng, 2016, đại hội đảng CSVN kỳ thứ 12 chính thức bắt đầu cuộc họp kéo dài 8 ngày với điểm chính yếu là thành lập Ban Chấp Hành Trung Ương đảng khóa mới để từ đó, đẻ ra những chức vụ chóp bu của Đảng gồm Bộ Chính Trị, Ban Bí Thư, Ủy Ban Kiểm Soát Trung Ương và trên hết là “tứ trụ triều đình” gồm tổng bí thư đảng, chủ tịch nước, thủ tướng và chủ tịch quốc hội nhiệm kỳ 2016-2020.

Những gì bí mật của cuộc đấu đá tranh ghế tổng bí thư trong đảng CSVN, người ta đã thấy phần nào phơi bày trên một số trang mạng không biết là của ai. Nhưng ít nhất, người ta thấy các tài liệu, hình ảnh, bài viết kể cả thư tố cáo và lời phản bác, nhắm nhiều nhất vào ông Nguyễn Tấn Dũng đã hết 2 nhiệm kỳ thủ tướng, đang nhăm nhe cái ghế tổng bí thư.

Hiến Pháp CSVN sửa đổi năm 2013 xác định ở điều 2 rằng “Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân…” Nhân dân tuy “làm chủ” đất nước nhưng không ai có tiếng nói nào đối với cái “lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội” và cả những chức danh như chủ tịch nước, thủ tướng, chủ tịch quốc hội.

Cũng giống như những kỳ đấu đá trước đây tranh giành các ghế chóp bu trong đảng, kỳ đại hội đảng CSVN lần này không thiếu những mánh khóe hạ địch thủ bị xì ra. Guồng máy tuyên truyền của chế độ, nhiều hơn một lần, kêu rằng những thứ đó “thông tin bịa đặt, nói xấu lãnh đạo” trước đại hội đảng, nhằm “gây rối, bôi xấu nhân sự, phá hoại sự thành công của đại hội…”

Tựu trung, theo thông tấn AP, cuộc đấu đá giành ghế tổng bí thư, gay gắt nhất là giữa đương kim tổng bí thư (mới được một khóa nhưng hiện đã 71 tuổi) Nguyễn Phú Trọng, và đương kim thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (đã hết 2 nhiệm kỳ thủ tướng, hiện đã 66 tuổi). Cả hai ông này, và 8 ông bà khác, đều đã quá tuổi nghỉ hưu, trên nguyên tắc phải về vườn.

Hôm Thứ Tư, 20 tháng 1, ngày mà 1,510 “đại biểu” về Hà Nội dự đại hội đảng XII bước vào “họp trù bị” tức họp về các nguyên tắc và chương trình đại hội, thông tấn AP nói rằng, nhiều phần, ông Nguyễn Phú Trọng giữ được cái ghế tổng bí thư thêm khóa nữa.

Các trò đấu đánh trong thượng tầng đảng CSVN được nhìn thấy khi báo chí chính thống của chế độ đề cập đến trường hợp “quá tuổi nghỉ hưu” được ngồi lại. Hoặc như ông Lê Quang Vĩnh, viên chức “phó văn phòng Trung Ương đảng CSVN” giải thích thì chức vụ tổng bí thư “không có giới hạn tuổi.”

Vài tuần trước, một số nguồn tin nói gần như chắc chắn rằng ông Nguyễn Tấn Dũng sẽ nhảy từ ghế thủ tướng sau 10 năm ở đó, lên ghế tổng bí thư, một điều hiếm xảy ra, nhờ đông phe cánh. Ông ta đã từng thoát nạn sau những lần biểu quyết trong trung ương đảng những năm trước khi bị cáo buộc làm hại nền kinh tế quốc gia qua các vụ vỡ nợ của Vinashin, Vinalines năm 2012 và kỳ bỏ phiếu tín nhiệm hồi năm ngoái.

Giới bình luận quốc tế cho rằng Nguyễn Tấn Dũng có khuynh hướng cải cách, muốn nghiêng hơn về phía Tây phương, cũng từng lên tiếng đả kích (gián tiếp) Trung Quốc bá quyền bành trướng trên biển Đông. Trong khi đó, Nguyễn Phú Trọng bị coi là một kẻ bảo thủ, nghiêng hơn về phía Trung Quốc, có thể sẽ làm giới đầu tư quốc tế âu lo.

Nền kinh tế của Việt Nam vốn trông cậy phần lớn vào sản xuất và xuất cảng của giới đầu tư nước ngoài. Nếu họ bỏ chạy, Việt Nam khó tránh khỏi khốn đốn và lại càng lún sâu hơn nữa vào lòng lệ thuộc nền kinh tế Trung Quốc.

“Một số nhà đầu tư quốc tế đang khựng lại để xem diễn biến chính trị của Việt Nam ra sao. Tôi chưa bao giờ thấy có một cuộc thay đổi lãnh tụ lại chia rẽ nặng nề như tại một nước Cộng Sản.” Lời một nhà đầu tư tài chính Tây phương giấu tên nhận xét trên bản tin của hãng thông tấn Reuters.

Reuters cũng dẫn nguồn tin từ một số đảng viên cấp cao giấu tên tham dự cuộc họp Trung Ương đảng hồi đầu tuần trước, nói rằng tên ông Nguyễn Tấn Dũng không nằm trong số “tứ trụ triều đình” được Trung Ương đảng đề cử cho kỳ họp đại hội đảng lần này.

Lý do gạt ông Nguyễn Tấn Dũng ra ngoài, theo giới phân tích gia cũng như giới ngoại giao có những quan hệ với các đảng viên cấp cao được Reuters đề cập, là đòn đánh phủ đầu của phe bảo thủ vì họ sợ nếu ông ta lên làm tổng bí thư, ông ta có thể thay đổi chiều hướng của đảng CSVN bây giờ.

“Họ bằng tất cả mọi cách ngăn chặn ông ấy leo thang quyền lực.” Ông Jonathan London, giáo sư tại đại học Hongkong và là một người theo dõi sát tình hình Việt Nam nhận xét.

Tuy nhiên, điều này chưa có nghĩa là phe của Nguyễn Phú Trọng đã toàn thắng. Như Vũ Ngọc Hoàng, phó trưởng ban thường trực “Ban tuyên giáo Trung Ương” nói trên tờ Thanh Niên ngày 18 tháng 1, 2016 thì “Hội Nghị Trung Ương 14 (đầu tuần trước) thông qua danh sách đề cử nhân sự cho khóa tới chỉ là bước chuẩn bị đầy trách nhiệm của khóa tiền nhiệm đối với khóa sau. Đại hội đảng 12 sẽ quyết định cuối cùng về nhân sự khóa mới và quyết định 244 của Trung Ương không cản trở các nhân sự mới được quyền ứng cử tại đại hội.”

Chính vì vậy, ông J. London cho rằng không nên loại trừ khả năng ông Nguyễn Tấn Dũng tìm cách lật ngược tình thế.

“Dũng có nhiều hậu thuẫn ở trong đảng và ở cấp gần thượng tầng. Nếu có ai có thể mở chiến dịch lật ngược được tình thế thì có thể là ông ta,” ông London nói.

Khi trả lời phỏng vấn của tờ Thanh Niên, ông Vũ Ngọc Hoàng xác nhận, sau nhiều cuộc thảo luận của Trung Ương đảng cũng như Bộ Chính Trị CSVN, lúc đầu thì có đề nghị hai hay 3 ông trong nhóm “tứ trụ” ngồi lại, nhưng cuối cùng “Bộ Chính Trị họp thảo luận và thống nhất đề nghị với Trung Ương chọn phương án chỉ ở lại 1 trường hợp để bảo đảm tính kế thừa, ổn định và tạo điều kiện trẻ hóa cán bộ, nên không chọn phương án ở lại 2-3. Trung Ương đã thảo luận qua 2 kỳ và quyết định chọn phương án giữ lại 1 trường hợp đặc biệt để giới thiệu tổng bí thư. Tập thể Bộ Chính Trị họp, thảo luận và thống nhất rất cao, giới thiệu 1 đồng chí ở lại tham gia khóa 12…”

Dù bất cứ ai trong nhóm này ngồi lại, vẫn chỉ là trò đấu đá “rượu cũ, bình cũ” của những kẻ tham quyền cố vị, giành giật ngôi thứ đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Trong chế độ độc tài đảng trị, người dân Việt Nam không có quyền quyết định vận mệnh chính trị của mình. (TN)

Những Mái Chèo Lơi

Những Mái Chèo Lơi

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Đàn cá sẽ chết khi dòng sông nghẽn mạch giữa hàng lớp thủy điện dàn trận từ Lan Thương về Lào, Campuchia rồi kiệt sức ở Cửu Long xa xôi.

Lan Phương – BBC

Khác với Sài Gòn và Phnom Penh, và tựa như Bangkok, Vientiane gần như vắng bóng hành khất. Trong suốt thời gian long nhong ở thủ đô Vạn Tượng, chỉ duy nhất mỗi lần tôi thấy một người khiếm thị vịn vai cô con gái nhỏ đang lần dò băng ngang qua đường Lane Xang – trước khu Chợ Sáng.

Hình ảnh này khiến tôi nhớ đến những những người mù trong quãng đời thơ ấu của mình. Họ thường ngồi ở cầu thang chợ (Đà Lạt) gẩy những tiếng đàn buồn bã, và cất tiếng những lời ca u uất, giữa  đám đông hờ hững.

Hơn năm mươi năm đã trôi qua rồi. Tôi cứ tưởng là không còn ai lê la hát xẩm trên thế gian này nữa chứ. Chúng ta đã bước vào thế kỷ XXI lâu lắm rồi mà!

Ảnh:NgyThanh

Lại có hôm, ở Phnom Penh, nằm chờ hoài mà trời vẫn không chịu sáng. Chán, tôi mở cửa khách sạn tản bộ dọc theo bờ sông. Đi mãi trời mới hừng đông. Trong ánh nắng mai yếu ớt đầu ngày, tôi ngạc nhiên khi thấy những chiếc thuyền con mong manh (cùng những mái chèo mỏng mảnh) đang lững lờ trên dòng Mê Kông bao la và trầm lặng.

Ảnh chụp năm 2015

Bất giác, tôi bật hát khẽ những lời ca (thiết tha) của Văn Phụng năm nào:

Ai qua bến Đà giang cho tôi nhắn vài câu, thương về mái tranh nghèo bên hàng cau. Chia ly đã từ lâu. Ôi mong nhớ làm sao, bao nhiêu bóng người thân mến năm nào. Tôi thương mái chèo lơi, bên manh áo tả tơi, những người lái con đò trên dòng nước.

Tôi không biết bến Đà Giang ở nơi nao, và cứ ngỡ rằng những “mái tranh nghèo bên hàng cau” chỉ là hình bóng xa xôi (thuộc Thời Trung Cổ) vẫn còn rơi rớt đâu đó – trên đất nước mình – vào hồi đầu thế kỷ trước mà thôi. Có ngờ đâu “những mái chèo lơi” vẫn lặng lẽ khua nước ngay giữa Biển Hồ, và trên vô số sông rạch của Cambodia, cho mãi đến bây giờ.

Ảnh chụp năm 2015

Điều bất ngờ hơn nữa là chủ nhân của “những manh áo tả tơi” này, phần lớn, lại không phải là dân bản xứ. Họ chính là những đồng hương khốn khổ của tôi, chứ nào có phải là ai xa lạ. Theo tường trình (“The Situation of Stateless Ethnic Vietnamese in Cambodia”) của MIRO – Minority Rights Organization – vào năm 2014 có khoảng năm phần trăm, hay 750.000 người gốc Việt đang sinh sống ở đất Miên. Đây là sắc dân thiểu số đông nhất ở đất nước này.

Hầu hết họ đều là dân ngụ cư, không khai sinh, không căn cước, không được quyền tiếp cận với bất cứ dịch vụ xã hội nào, và (tất nhiên) không có quyền sở hữu tài sản hay đất đai gì ráo trọi. Bởi vậy, phần lớn kiều bào ở Miên (theo như cách gọi rất lịch sự của Đại Sứ Quán Việt Nam ở Phnom Penh) đều sống lêu bêu – rầy đây mai đó – trên những túp lều nổi xung quanh Biển Hồ, hoặc dọc theo những nhánh sông phụ thuộc.

Họ sống làm sao?

Cũng giản dị thôi. Chỉ cần một chiếc thuyền con, cùng một mái chèo, và hai ba người miệt mài quăng chài hay thả lưới suốt ngày – bất kể nắng mưa – là có cá ăn, phần dư dôi cũng đủ để đổi lại một hai ký gạo, ít mắm muối, và vài ba xị đế.

Y tế, giáo dục, thể thao, giải trí … đều là những khái niệm mơ hồ – nếu chưa muốn nói là xa xỉ – và chả ai có bao giờ nghĩ đến. Đời sống giản dị, và giản lược, từ tay đến miệng thế thôi. Có lẽ không nơi nào trên trái đất này mà đám Việt kiều trông lam lũ và thảm thương đến vậy!

Ảnh chụp năm 2015

Cũng đã đôi lần (vào thập niên 1970) cái đám người trôi sông lạc chợ này cũng đã đàn đúm dắt díu nhau tìm về tổ quốc nhưng rồi họ nhận thức ra ngay rằng quê hương cũng không phải là nơi nương náu được nên rồi lại đành phải tiếp tục tha phương cầu thực. Ở xứ người họ bị gọi một cách khinh miệt là  Duồn: “Tụi Duồn về quê tụi bay hết đi.” Qua bên kia biên giới thì họ bị chửi … là Miên: “Đám Miên chạy qua đây làm gì?”

Tuy bị chính quyền và dân chúng của cả hai nước Việt/Miên bạc đãi nhưng bù lại họ nhận được thiên nhiên dung chấp. Sự bao dung này, tiếc thay, nay không còn nữa. Từ Bankok, vào hôm 25 tháng 12 năm 2015, thông tín viên Lan Phương (BBC) vừa buồn bã cho hay:

“Những người đàn ông giăng lưới ở Đồng Tháp không hiểu vì sao năm nay không có nước lên xứ đồng bằng.

Cá linh đi xa dần, đắt đỏ như món đặc sản không biết tìm đâu ra. Lưới cá treo ở góc nhà, quên mất đã có thời Cửu Long cá nhiều đến mức ứ đầy thủng lưới.

Người nông dân không biết diễn tả điều gì đã hủy hoại sự sung túc một thời trên đồng bằng châu thổ của mình. Dân ở Biển Hồ (Campuchia) cũng chỉ biết im lặng nhìn vào mắt lưới trống rỗng lập lờ dưới nước mùa thiếu cá về.”

Qua lại hồ Tonlé Sap, và lui tới những sông rạch dọc ngang của xứ Chùa Tháp – cả năm qua – nơi đâu tôi cũng thấy những ánh mắt lo âu cùng với những lời hỏi han (nghe) như những tiếng than dài: “Không biết tại sao mà cá mỗi năm một ít, ông à!”

Tôi im lặng, tất nhiên, dù thiệt tình thì lờ mờ có biết nguyên do – sau khi đọc được Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng do nhà Văn Nghệ xuất bản năm 2000. Tác phẩm này của Ngô Thế Vinh vừa được nxb Giấy Vụn tái bản, lần thứ ba, vào năm 2014. Xin xem qua đôi lời giới thiệu nội dung của nhà báo Ngô Nhân Dụng :

Ðầu mối tai họa này là chính sách khai thác điện lực và dẫn thủy nhập điền của chính quyền Cộng sản Trung Quốc. Sông Mekong, tại Trung Quốc mang tên là Lan Thương (Lancang, 澜沧) chảy qua Tây Tạng và các tỉnh Thanh Hải, Vân Nam, trước khi đổ xuống phía Nam. Theo tạp chí World Rivers Review của cơ quan Sông quốc tế (International Rivers, IR), thì vào năm 2014, Trung Cộng đã xây dựng bảy đập thủy điện lớn ở đầu nguồn sông Mekong thuộc nước Tàu, con sông phát nguyên từ Tây Tạng chảy xuống Biển Ðông nước ta. Họ sẽ xây thêm 21 đập ngăn nước lớn khác trong 10 năm tới. Các nước hạ nguồn cũng bắt chước xây các đập nước khác; với dự án xây 11 con đập nữa.

 Nhưng tai họa lớn nhất là nước biển lấn dần vào đất liền thì chỉ dân Việt ở đồng bằng sông Cửu Long gánh chịu. Ðập Don Sahong đang xây ở Hạ Lào, nhằm cung cấp điện cho Lào và Thái Lan sẽ ảnh hưởng lớn trên đời sống dân Campuchia và miền Nam Việt Nam.

Trong cuốn sách biên khảo viết dưới hình thức vừa tiểu thuyết vừa ký sự, Cửu Long Cạn Dòng, Biển Ðông Dậy Sóng, Bác Sĩ Ngô Thế Vinh đã mô tả hành động của chính quyền Trung Quốc: “Vào Tháng Tư năm 2001, Trung Quốc đã ký một thỏa hiệp về thủy vận trên sông Cửu Long nhưng chỉ với 3 quốc gia Miến Ðiện, Thái và Lào với kế hoạch vét lòng sông, cả dùng cốt mìn chất nổ phá tung những khối đá trên các đoạn ghềnh thác, các đảo nhỏ trên sông để khai thông mở rộng đường sông cho tàu lớn trọng tải từ 500-700 tấn có thể di chuyển từ cảng Tư Mao xuống Chiang Khong Chiang Sean Bắc Thái xuống thẳng tới Vạn Tượng. Trong khi Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia cuối nguồn, trực tiếp chịu ảnh hưởng của kế hoạch ấy thì bị gạt ra ngoài.”

Thảo nào mà ở Phnom Penh đã có kẻ bỏ lại “những mái chèo lơi” cho sông nước, chỉ còn khoác mỗi “manh áo tả tơi” thất thểu bước lên bờ, rồi nằm dài giữa công viên phố thị.

Ảnh chụp năm 2015

Khi mà ở thượng nguồn sông Tiền, và sông Hậu ngư dân phải đi ăn xin thay vì đi chài lưới thì ai cũng có thể tiên đoán được hậu vận của hàng chục triệu người dân Việt – ở Đồng Bằng Sông Cử Long – mà không cần phải là thầy bói.