Đại hội Đảng và tính chính danh cầm quyền

Đại hội Đảng và tính chính danh cầm quyền
Võ Tấn Huân Gửi tới BBC Tiếng Việt từ Canada

• BBC

Reuters
Sau hơn 70 năm cách mạng tranh đấu giành lại quyền làm chủ của người dân, Việt Nam đang đứng trước thách thức để cụ thể hóa quyền này vào trong cuộc sống thường nhật.
Việt Nam hiện đang có gần 60 phần trăm dân số trong độ tuổi dưới 35. Đội ngũ nhân công trẻ và năng động, cùng với nguồn đầu tư nước ngoài dồi dào, là những động lực để Việt Nam phát triển và vươn xa.

Tuy nhiên, bước vào năm 2016 – hơn bảy thập niên sau cuộc cách mạng – tương lai Việt Nam do Đảng Cộng sản tự phong quyền lãnh đạo, vẫn còn nhiều bấp bênh.
Giữa lúc đại hội lần thứ 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra, điểm gây nhiều chú ý nhất trong dư luận không phải là chủ trương, chính sách, hay tầm nhìn cho quốc gia mà là ai sẽ giữ chức vụ này, ghế kia.

Thiếu tính chính danh

Hơn một nghìn năm trăm đại biểu đại diện cho một thành phần thiểu số cộng sản trong xã hội chỉ đặt trọng tâm làm thế nào để tiếp tục độc quyền nhà nước và tiếm quyền của hơn 90 chục triệu dân Việt Nam.
Những phát biểu “đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta” vẫn là những câu nói sáo rỗng, cũ kỹ, không mang tính thực chất lẫn thực tế. Dù bất kỳ nhân vật cộng sản nào lên nằm quyền thì chế độ hiện hành của đất nước vẫn không chính danh.

Từ lâu nay, giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam luôn đề cao quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Điều này đồng nghĩa với việc nhân dân làm chủ đất nước là yếu tố trung tâm trong cơ chế quyền lực của quốc gia. Cụ thể nhân dân làm chủ là quyền được ứng cử, bầu cử, phúc quyết hiến pháp và các vấn đề hệ trọng khác, cũng như quyền được thay đổi chính phủ và quyền làm chủ chính đáng mảnh đất của mình.

Tuy nhiên, qua các đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như lần Đại hội 12 này và các cuộc bầu cử quốc hội suốt mấy thập niên qua, đã cho thấy rõ người dân không có quyền bầu ra các lãnh đạo quốc gia.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã tự đặt mình lên trên nguyện vọng và quyền của nhân dân, tự chọn nhân sự cho đất nước mà không có đối lập – tương tự như việc cầm quyền mà không qua bầu cử.


AFP
Các cuộc đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ mang màu sắc của một đảng chính trị hơn là đại diện cho tương lai của đất nước.

Người dân không có tiếng nói trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước cũng như bầu chọn những người chính trực để lãnh đạo đất nước. Các cuộc bầu cử quốc hội với những kết quả gần một trăm phần trăm thì hầu như ai cũng rõ đó chỉ đậm tính phô diễn hình thức.
Thắng cuộc mà không thắng cử là vẫn chưa đủ để hợp thức hóa tính chính danh cầm quyền.
Cầm quyền không chính danh hiển nhiên không đúng với pháp lý, không phù hợp với tinh thần nhà nước pháp quyền – bất kể đó là nhà nước pháp quyền theo chủ nghĩa hay tư tưởng nào.

Về phương diện chính trị và quốc gia, việc này không thể chấp nhận nếu không muốn nói đây là tội ác đối với lương tâm lãnh đạo và đối với đồng bào của chính mình.
Hậu quả của việc nhân dân không có quyền làm chủ đã dẫn đến việc chính phủ không chính danh.

Danh xưng của chế độ chỉ là tên gọi. Tính chính danh cầm quyền mới thực chất thể hiện sự tôn trọng quyền của người dân trong một xã hội đa dạng, và thực tâm của lãnh đạo chính trực để xây dựng đất nước với một nền tảng vững chắc.
Bắt đầu từ pháp luật chuẩn mực

Quyền lực của chế độ nếu không được nhân dân chuẩn thuận trao quyền – cơ bản nhất là bản quy ước xã hội, tức bản hiến pháp dân chủ – thì dù nhà nước cộng hòa với tư tưởng hay chủ nghĩa gì thì cũng không chính danh.

Pháp luật không chuẩn mực, tùy tiện như Việt Nam hiện nay không chỉ là môi trường thuận lợi cho các phe nhóm lợi ích, tham nhũng và lũng đoạn xã hội mà trên tất cả, đó là lá chắn để phục vụ cho một đảng chính trị tiếm quyền của nhân dân và độc quyền nhà nước. Hiến pháp hiện hành chỉ là công cụ phụ vụ cho một đảng chính trị.

Nguy hại hơn hết, pháp luật không chuẩn mực tiếp tục cản trở quốc gia hướng tới xã hội công bằng và thịnh vượng. Và hơn nữa, nó để lại biết bao hậu quả tai ương cho tương lai đất nước mà các thế hệ sau phải gánh chịu.


AFP

Dù theo tư tưởng hay chủ nghĩa nào thì cũng cần điều hành xã hội bằng pháp luật, và việc này cần phải cụ thể hóa bắt đầu từ nền tảng cơ bản của hiến pháp thay vì chỉ phát biểu chung chung trong các diễn văn hình thức hoặc bên trong nội bộ của một đảng. Lãnh đạo đất nước nói quanh co, né tránh pháp luật chuẩn mực là ngụy biện, không chính trực.
Pháp luật chuẩn mực – bắt đầu từ bản hiến pháp của toàn dân – là cơ bản của pháp luật quốc gia, là đòi hỏi của xã hội công bằng, là điều kiện cho cơ chế nhà nước minh bạch, và là nhu cầu để Việt Nam phát triển toàn diện.

Nền tảng hiến pháp đặc thù với bản sắc dân tộc bao gồm nhiều thành phần trong xã hội sẽ là động lực để Việt Nam phát triển, hội nhập, tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người, mở đường cho Việt Nam cất cánh và trường tồn.

Việc bầu chọn lãnh đạo của riêng một đảng chính trị nào đó là chuyện nội bộ không thể đánh đồng với việc bầu chọn lãnh đạo quốc gia và nhân sự cho đất nước. Quyền làm chủ của nhân dân đối với việc bầu chọn lãnh đạo quốc gia là yếu tố quan trọng để tạo tính chính cầm quyền.

Chấm dứt lũng đoạn quyền làm chủ của nhân dân để họ tham gia và có tiếng nói chính trị cũng sẽ giúp ổn định xã hội và ổn định chính trị để đất nước phát triển bền vững. Đây là trách nhiệm của những người cầm quyền. Đây đồng thời cũng là nguyên tắc quốc gia.
Phải chăng phối hợp từng bước chuyển đổi để đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân và tạo tính chính danh cầm quyền là mục tiêu để Việt Nam xây dựng sự ổn định lâu dài cho đất nước?

Bài thể hiện quan điểm và văn phong riêng của người viết, Trưởng ban Thường vụ TW của Đảng Dân chủ Việt Nam tại Canada, hưởng ứng chuyên mục ‘Viết về Đại hội Đảng CSVN lần thứ 12’ của BBC Tiếng Việt.

Mặc kệ Đại hộị đảng

Mặc kệ Đại hộị đảng

Phạm Thanh Nghiên
2016-01-26

000_Hkg10248026-622.jpg

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12 hôm khai mạc 21/1 tại Hà Nội.

AFP

Đại hội đảng cộng sản lần thứ 12, và cái lạnh cắt da cắt thịt của miền Bắc, đặc biệt là ở vùng cao có lẽ là hai trong nhiều mối bận tâm của người Việt gần đây.

Cuộc sống vẫn không được cải thiện

Bản chất của cụm từ “đại hội đảng”, xét một cách thẳng thắn chỉ là cuộc sắp xếp nội bộ của những chóp bu cộng sản nhằm tự ý định đoạt số phận của toàn dân Việt Nam. Xin trích một đoạn viết của tác giả Tiến Văn trong chuyên mục “Nói với người cộng sản”được đọc trên đài phát thanh Đáp Lời Sông Núi hôm 17/1/2016 để minh họa cho nền chính trị thực chất tại Việt Nam suốt thời kỳ cộng sản nắm quyền.

“…để che giấu, giảm bớt sự lộ liễu cho sự tự ý tiếm quyền lãnh đạo đất nước, đảng cộng sản Việt Nam đã dùng nhiều thủ thuật khác nhau để che mắt, đánh lạc hướng nhằm tránh sự bức xúc, phẫn nộ của dư luận. Một trong những thủ thuật căn bản đó là các cuộc bầu cử Quốc hội có bản chất trá hình thường kì được tổ chức không lâu sau mỗi kì Đại hội đảng cộng sản. Các cuộc bầu cử đó gọi là trá hình vì tất cả mọi ứng cử viên đều do đảng cộng sản ấn định và tất cả các Ủy viên trung ương mới đắc cử trong Đại hội đảng sẽ chắc chắn 100% được đắc cử vào “Quốc hội”. Và 3 vị trí cao nhất đứng đầu Quốc hội, Chính phủ và Nhà nước do cái “Quốc hội” đó bầu ra cũng sẽ chắc chắn thuộc về 3 Ủy viên Bộ Chính trị của đảng cộng sản – những kẻ đã chiến thắng trong những cuộc bầu bán, tranh giật quyền lực trong kỳ Đại hội đảng diễn ra trước khi bầu “Quốc hội”.

Với thủ đoạn cơ bản đó, đảng cộng sản Việt Nam luôn tự rêu rao rằng bộ máy lãnh đạo đất nước đã được toàn dân tín nhiệm và bầu chọn với tỉ lệ số phiếu tán thành rất cao, thường xấp xỉ 100%.

Như vậy, thực chất rút lại, hệ thống lãnh đạo của Việt Nam chúng ta hoàn toàn chỉ do một nhóm người rất nhỏ xoay quanh cái gọi là Bộ Chính trị của đảng cộng sản Việt Nam tự ý quyết định.” (Hết trích).

Đã xuất hiện nhiều ý kiến, nhiều lời bình luận trên các trang mạng về đại hội 12. Có ý kiến ủng hộ Nguyễn Tấn Dũng lên làm tổng bí thư (dù không người dân VN nào được quyền bầu) với hy vọng ông này sẽ đưa đất nước thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung cộng. Và dự đoán (hoặc mong muốn) ông Dũng sẽ mạnh dạn giải tán đảng cộng sản như Mikhail Gorbachev từng làm ở Liên Xô hồi 1991. Nhưng đại đa số cho rằng, dù ông nào trong cái nôi cộng sản ấy lên thì vẫn thế mà thôi, dân vẫn khổ và đất nước vẫn lụn bại. Chỉ có con đường duy nhất là thay đổi thể chế mới đưa đất nước thoát khỏi diệt vong.

Cho nên, việc quan tâm hay không quan tâm đến đại hội 12 cũng không làm thay đổi, hay nói rõ hơn là cuộc sống vẫn không được cải thiện.

Trong khi những kẻ tự cho mình quyền định đoạt số phận của hơn 90 triệu đồng bào còn mải đấu đá, đóng kịch với nhau trong cái hội trường rực màu đỏ máu thì ở nhiều nơi trên vùng cao, các trẻ em vẫn cởi truồng dưới cái lạnh âm độ C.

tre-em-400

Trẻ em vùng cao. Courtesy photo.

Trẻ em, những “mầm non của đảng”, “tương lai của đất nước” theo cách gọi của người cộng sản đã, đang và có thể sẽ vẫn là nạn nhân phải chịu đựng nhiều nhất những hậu quả mang tính hệ thống. Tất nhiên, tình cảnh các em bé Việt Nam dưới thời đại Hồ Chí Minh trần truồng chịu rét, ăn cơm độn, đu dây vượt suối đi học, tiêm vacxin bị chết, thất học, bị bạo hành cả trong gia đình, trường học lẫn xã hội, là nạn nhân của tệ buôn bán trẻ em v.v … không còn là chuyện hy hữu. Nó đã trở nên phổ biến và được xã hội coi là “chuyện thường ngày ở huyện”. Chỉ có điều, báo chí không được và không muốn phản ảnh một cách trung thực và đầy đủ mà thôi. Còn các quan phụ mẫu (kiêm đầy tớ của dân) thì đương nhiên ngậm miệng ăn tiền. Thậm chí, chính bọn họ là nguyên do gây ra những tệ trạng xã hội và là thủ phạm gây tổn thất lớn nhất cho trẻ nhỏ.

Chỉ còn vài ngày nữa là kết thúc Đại hội đảng, cũng là những ngày giáp Tết. Trên ti- vi, đài báo, các phương tiện truyền thông đại chúng “lề đảng” sẽ nhan nhản những hình ảnh ông to bà lớn đi phát quà cho người nghèo. Ông bà nào khéo diễn sẽ mạo hiểm bế một đứa trẻ nghèo, mặt mũi bẩn thỉu lấm lem rồi nở một nụ cười tươi rói trong lúc nín thở (vì đứa trẻ hôi hám quá) để lấy điểm trước ống kính máy quay. Các bé được túi quà rồi nghèo vẫn hoàn nghèo, nhưng các ông bà lớn sẽ được lợi rất nhiều từ những màn diễn như thế.

Dẫu biết rằng tham nhũng là bản chất của độc tài, nhưng vẫn ước. Ước một điều không bao giờ xảy ra. Đó là: Giá chúng nó bớt tham nhũng đi thì trẻ em không còn phải cởi truồng chịu rét.

Còn bây giờ thì, mặc kệ đại hội đảng, các em vẫn cởi truồng.

 

BỆNH QUÊN

BỆNH QUÊN

Có một gia đình nghèo, thất nghiệp.  May thay lại có một chủ xưởng cưa chịu nhận cả gia đình vào làm.  Ông lo cho cơm ăn, áo mặc, chỗ ở, và có việc làm mỗi ngày.  Mọi chuyện tốt đẹp.

Nhưng ít sau, đến giờ đi làm thì:

– Người thì nói: trời hôm nay nắng quá, khi nào trời mát rồi tính.

– Kẻ thì lên tiếng: khúc cây còn tươi, nên dai, khó cưa.

– Người thì nói: lưỡi cưa không sắc, khi nào có lưỡi tốt thì làm.

– Người khác kêu ca: loại gỗ này già tuổi, gỗ cứng chắc làm sao mà cưa.

– Một người lớn tiếng: khúc gỗ hôm nay cong quá, làm sao bây giờ.

– Người thì than rằng hôm nay mình chán nản, mệt mỏi quá.

Và thế là cả gia đình nghỉ việc.

********************************************

Dân Israel trong thời nô lệ ở Ai cập rất là khổ cực, bất hạnh.  Bị hành hạ, ngược đãi và đối xử bất công.  Họ phải làm những việc nặng nhọc, dù thời tiết có mưa bão hay nắng cháy, dù người khoẻ hay yếu đều phải làm việc.  Ăn uống thì chỉ được ăn cho khỏi chết mà thôi.  Học hành, giải trí… quần áo, nhà cửa, thuốc men ư?  Bị đối xử như là súc vật thì làm gì có những thứ tốt và làm gì có quyền đòi hỏi quyền lợi.

TUONG VANG

Thế rồi, họ được Đức Chúa thương cứu họ cho khỏi cái nhục nhằn của đói khổ và công việc. Họ thoát được cảnh bất công giữa chủ và nô lệ.  Họ được Moses dẫn qua sa mạc đến vùng đất hứa, vùng đất đầy sữa và mật ong, vùng đất hứa hẹn cho cả dòng dõi họ và con cháu.

Thế nhưng, họ đâu có nhớ.  Họ kêu ca than phiền và đưa ra mọi thứ yêu sách.  Tại sao chúng tôi phải như vậy.  Nào là trời nắng, khó chịu, bực bội quá.  Rồi đến ăn bánh manna nhạt nhẽo không bổ béo gì.  Nào là muốn nước trong, nước sạch nước mát, rồi đến đòi ăn thịt chim.  Chưa hết, họ còn chê trách Thiên Chúa, bỏ rơi Ngài để thờ thần khác, thờ bò vàng.

Trình thuật của Luca cho biết đến cái thế hệ khó hiểu là: “thổi sáo vui mừng thì không nhảy múa.  Hát bài đưa đám thì không khóc than” (Lc 7, 31).  Chúa Giêsu còn dẫn chứng: Gioan tẩy giả sống đơn sơ nghiệm nhặt; sống chay tịnh, không ăn bánh, chỉ ăn châu chấu và mật ong, không uống rượu chỉ uống nước lã.  Thì họ cho là đồ ngốc đồ khùng, người bị quỷ ám.  Còn Con Người đến cũng ăn, cũng uống như ai thì lại kêu là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.

Đúng là con người, lưỡi không xương nhiều đường lắt léo.

Chúa Giêsu nói đến thế hệ này, để giúp cho ta thấy con người có một lịch sử không tốt lành, ít là thời gian dân Israen thoát khỏi ách nô lệ Ai cập trên con đường qua sa mạc về đất hứa, dưới hướng dẫn của Moise.  Và cũng là lời cảnh báo cho những người nghe Ngài phải đặt lại vấn đề về sự cứng lòng không nhìn nhận, không chịu nghe Ngài hướng dẫn để có thể đi qua sa mạc đời mình mà về được đất hứa thật là Nước Trời.

Vậy nguyên nhân bởi đâu?  Bởi con người bị mắc một thứ bệnh khó trị, bệnh di truyền.  Ấy là bệnh Quên.

Những người trong câu truyện trên, họ đã đưa ra đủ lý do để nghỉ việc.  Họ quên hẳn thân phận của mình rằng, nếu không được ông chủ giúp đỡ thì còn bi đát khốn khổ hơn.  Nhờ ông chủ mà gia đình họ nhìn thấy mặt trời, nhìn thấy tương lai tươi sáng và nhiều hy vọng.  Đáng lẽ họ hăng say, nhiệt tình và chịu khó làm việc để đền ơn đáp nghĩa, thì họ lại đòi hỏi, ra điều kiện với ông chủ, rồi nghỉ việc.

Những người Israel, đã được Đức Chúa cứu giúp, thoát khỏi ách thống trị áp bức của Ai cập.  Họ được trả tự do, được phục hồi nhân phẩm.  Giờ đây, mỗi người có quyền xây dựng cuộc đời mới tốt hơn trong tin yêu và hy vọng.

Đáng lẽ họ phải hết lòng biết ơn và một mực trung thành với hướng dẫn của Đức Chúa qua Moises trên con đường trở về với vùng đất phì nhiêu, vùng đất của hạnh phúc mà Người đã hứa. Thế nhưng họ lại quên.  Quên đi thân phận hẩm hiu bọt bèo của mình.  Hành trình ở sa mạc cho biết rõ con người thật mau quên của họ.  Họ dần quên Đức Chúa.  Họ bắt đầu càm ràm về thời tiết nắng cháy, về ăn không ngon, uống không ngọt, ngủ không yên.  Họ nghĩ mình là người phải được phục vụ mọi thứ tốt lành.  Họ chê trách Moses, oán hờn Đức Chúa.  Rồi bỏ Người mà theo các thần khác, đúc bò vàng để thờ.

Những người đương thời với Chúa Giêsu cũng vậy, đáng lẽ họ phải vui mừng phấn khởi hân hoan vì điều họ hy vọng về Đấng Cứu Thế đến, giờ đã thành hiện thực.  Đáng lẽ họ phải lắng nghe, chiêm ngắm và cộng tác, phải vui mừng và vỗ tay, kính trọng và biết ơn, tôn kính và thờ phượng.  Thế nhưng họ lại thờ ơ dửng dưng, hiểu lầm coi thường, chê bai trách móc, hãm hại chống đối, vu khống giết chết.  Cái nghịch lý là chính họ muốn Đấng Tốt lành đến, nhưng khi Ngài đến thì họ lại không chấp nhận, và muốn trở về với truyền thống tổ tiên.

Quên quả thật rất tai hại.  Quên sẽ đánh mất chính mình, đánh mất Thiên Chúa và là cửa đưa tới đau khổ.

Nhìn vào Ađam và Eva, nhìn vào nhân loại xưa cũng như nay, đời cũng như đạo, biết bao thứ trục trặc xảy ra cũng bởi vì quên.

Quên làm cho ta thành kẻ vô ơn bạc nghĩa.

Quên làm cho ta thành người bất hiếu bất trung.

Quên làm cho ta thành loại bạc nghĩa bất lương.

Quên làm cho ta thành kiêu căng tự phụ.

Quên làm cho ta thành căng thẳng khó tính.

Quên làm cho ta thành lo âu bất ổn.

Quên làm cho ta thành đau khổ bất hạnh.

Quên làm cho ta xao xuyến lao đao.

Quên làm cho ta xa rời ân sủng Chúa, cắt đứt liên lạc với Ngài.  Và ta sẽ bị cô lập khỏi ân sủng Chúa.  Dù ân sủng Ngài nhiều như mưa, như nắng, như không khí.

Xin Chúa cho ta biết khiêm nhường nhìn nhận sự thật về mình và về Thiên Chúa để bày tỏ lòng thành kính tri ân về mọi ân lộc Chúa đã ban cho ta.

Thanh Thanh

Đất nước tiếp tục bị dìm trong độc tài, tụt hậu, tham nhũng, thối nát và đứng trước nguy cơ lệ thuộc!

Đất nước tiếp tục bị dìm trong độc tài, tụt hậu, tham nhũng, thối nát và đứng trước nguy cơ lệ thuộc!

Âu Dương Thệ (Danlambao) – Sáng ngày 21.1.16 Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đương nhiệm, đã trình bày suốt gần một giờ trước trên 1500 đại biểu tham dự Đại hội 12 bản tóm lược Báo cáo chính trị-kinh tế 5 năm vừa qua của Khóa 11 (2011-16) và mục tiêu cũng như kế hoạch cho Khóa 12 (2016-20). Trong toàn bộ Báo cáo dài 13 trang, ông Trọng đã vạch ra một sợi chỉ đỏ không ai có thể lầm lẫn được, đó là ĐCS vẫn muốn giữ độc quyền toàn diện trong mọi lãnh vực và chủ nghĩa Marx-Lenin vẫn là kim chỉ nam của ĐCSVN. Nghĩa là sau hơn một phần tư thế kỉ Liên xô và các nước CS Đông Âu đã chầu trời và luồng gió mát Dân chủ đa nguyên đang tràn vươn tới nhiều nước trên thế giới, nhưng Nguyễn Phú Trọng vẫn ngủ mê, nuôi giấc mơ muốn tiếp tục duy trì chế độ độc tài toàn trị lên đầu lên cổ trên 90 triệu nhân dân VN. Dù ngay cả ông đã thừa nhận là, không biết bao giờ mới thực hiện được chế độ Xã hội chủ nghĩa ở VN!

Chúng ta đang sống trong một bối cảnh thế giới đang thay đổi toàn diện từ chính trị, kinh tế tới khoa học và kĩ thuật vào đầu Thế kỉ 21. Nhân loại đang bước vào kỉ nguyên toàn cầu hóa và cách mạng truyền thông điện tử, nhưng Nguyễn Phú Trọng lại cố lôi kéo đất nước phải lùi lại thời kì tiền bán Thế kỉ 20, như Ủy viên Trung ương kiêm Bộ trưởng kế hoạch-đầu tư Bùi Quang Vinh vừa cảnh báo nghiêm khắc ngay trước Đại hội 12:

“70 năm qua, cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể các cấp trong hệ thống chính trị gần như không thay đổi.” (BBC 22.1.16)

Nhưng tình hình và điều kiện hoàn toàn mới của thế giới vào đầu Thế kỉ 21 đối nghịch triệt để với những tư duy cực kì giáo điều bảo thủ của ông Trọng. Chính vì thế Nguyễn Phú Trọng và phe cánh đã phải nặn óc vận dụng những lí luận sai trái và ngụy biện, bằng cách dựng lên các định đề và học thuyết kiểu như rắn độc có thể ngủ chung với rồng, hổ sống chung được với heo… để ru ngủ nhân dân và đánh lừa thế giới!

Khi sinh thời chính tướng Võ Nguyên Giáp, một đại thần khai sáng chế độ, vào những năm cuối đời và sau khi Liên xô tan rã một thập niên đã thức tỉnh đưa ra lời cảnh báo đanh thép “Cái thời đại dựa vào sách vở để tranh luận cương lĩnh Chủ nghĩa xã hội đã qua rồi”:

“Chủ nghĩa xã hội ở ngay trong thực tiễn… Không nên chỉ dựa vào kinh nghiệm để bàn về Chủ nghĩa xã hội…Cái thời đại dựa vào sách vở để tranh luận cương lĩnh Chủ nghĩa xã hội đã qua rồi. Ngày nay tất cả đều do thực tiễn…, lí luận được thực tiễn cung cấp sức sống, được thực tiễn sửa đổi và thực tiễn kiểm nghiệm.”(Võ Nguyên Giáp, “Thấm nhuần hơn nữa quan điểm thực tiễn, phát triển sáng tạo lí luận, đưa đất nước tiến lên nhanh hơn, vững vàng hơn”, Tạp chí Cộng sản số 15, 5.2002, tr. 13)

Nhưng 15 năm sau Nguyễn Phú Trọng đã không biết nghe lời cảnh báo đúng đắn của tướng Giáp! Hãy nhìn vào kết quả thực tiễn hơn 70 năm thực hành Chủ nghĩa xã hội Marx-Lenin đất nước phất lên hay đang tụt hậu, nhân dân được hưởng dân chủ hay vẫn phải chịu ách độc tài, độc lập vững vàng hay đang đứng trước nguy cơ lệ thuộc phương Bắc?

Những định đề chính trị, kinh tế, giáo dục, văn hóa… theo chiều hướng giáo điều và ước muốn chủ quan trong Báo cáo của Nguyễn Phú Trọng đã bị thực tiễn bác bỏ, đã rơi vào sọt rác, hoặc chứa đựng đầy mâu thuẫn như nước với lửa, trắng với đen! Thay vì thành thực nghiêm túc học hỏi những điều mới, cơ hội tốt; nhưng ông Trọng lại dùng quyền lực của người cầm đầu chế độ toàn trị tìm cách ngụy biện, trí trá vẫn đề cao một ý thức hệ đã sai lầm và cổ vũ độc tài bạo lực để bảo vệ quyền lợi cá nhân và phe nhóm. Chính thái độ này đã tự minh chứng tư cách rất xấu và đạo đức rất tồi của những người cầm quyền, đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng!

Trong Báo cáo trước Đại hội 12, Nguyễn Phú Trọng đã lập lại “con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”, và “vận dụng sáng tạo, phát triển, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đây là một định đề, một khẳng định cực kì chủ quan và sai trái đã bị thực tế phủ nhận, như tại Liên xô cũ và Đông Âu. Từ định đề tư tưởng và ý thức hệ sai lầm này ông Trọng đòi duy trì tiếp tục toàn bộ hệ thống xã hội theo mô hình đảng trị, trong kinh tế “Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa”, trong pháp luật “pháp quyền Xã hội chủ nghĩa”, quân đội và công an phải trung thành tuyệt đối với đảng… Thế rồi Nguyễn Phú Trọng phóng tay kết luận bản Báo cáo bằng một câu để ru ngủ 1500 đại biểu: “Chúng ta nhất định thành công trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội”! 

Định đề cực kì sai trái khác của Nguyễn Phú Trọng khi ông khẳng định, phải “bảo vệ Đảng“, “bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa” thì mới bảo vệ được độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Khi diễn tả ý này Nguyễn Phú Trọng cố dùng lối lí luận ngụy biện hạ cấp theo kiểu “ta với mình tuy hai mà một“. Trong bản Báo cáo, ông Trọng -tự coi là nhà lí luận uyên bác- đã đưa ra một khẳng định cố tình chắp vá lối tam đoạn luận ngụy tạo, trong đó các vế hoàn toàn không ăn khớp với nhau: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ Xã hội chủ nghĩa luôn luôn gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau.

Trong khoa học chính trị hiện đại thì độc lập, chủ quyền, thống nhất của một nước thuộc bình diện toàn dân, toàn quốc, chứ không tùy thuộc hay là sở hữu riêng của một nhóm hay đảng nào. Một chính đảng và ý thức hệ của nó chỉ liên hệ tới đảng này và các đảng viên của nó. Nó không có quyền tự đặt cho mình là “quốc đảng” và bắt toàn dân phải theo! Một đảng ra đời, tồn tại hay mất đi qua thời gian, nhưng dân tộc đó vẫn trường tồn, giữ được độc lập, chủ quyền và thống nhất… và vẫn vươn lên. Ngày nay đó là trường hợp của hầu hết các nước trên thế giới, từ các quốc gia trong khu vực như Nhật, Đại hàn, Nam dương, Ấn độ, hay trên thế giới như Hoa kì, Gia nã đại và EU… Tại đó các chính đảng với các ý thức hệ khác nhau và các chính sách khác nhau đã thay nhau cầm quyền, tùy theo quyết định của nhân dân trong các cuộc bầu cử tự do dân chủ!

Cả trong lãnh vực kinh tế, xương sống của một nước, Nguyễn Phú Trọng cũng đưa ra một định đề cực kì mâu thuẫn. Một mặt ông đưa ra mục tiêu rất cao, “phát triển nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại“. Ông còn hô hào “vận hành đầy đủ, đồng bộ, hiệu quả theo qui luật Kinh tế thị trường” và “tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh“. Nhưng đồng thời Nguyễn Phú Trọng vẫn đòi phải gò bó nền kinh tế của VN trong khuôn khổ Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và ông đưa ra định nghĩa cực kì ngụy biện và đầy mâu thuẫn, đó là:

Nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.” Và “Nhiều thành phần kinh tế, trong đó Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.” Rõ ràng ông Trọng đang cố dựng lên một truyền thuyết, rắn độc ngủ chung với rồng và hổ sống chung với heo!

Như vậy các tập đoàn và tổng công ti nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo và được độc quyền cũng như ưu tiên trong vay tiền của Ngân hàng Nhà nước, tiếp nhận độc quyền mỗi năm nhiều tỉ Mĩ kim từ nguồn vay các nước ngoài (ODA), tự do sử dụng mặt bằng và xây dựng các cơ sở từ ngân sách nhà nước… Như thế làm sao lại bảo là “cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh” được?! Suốt mấy chục năm nay tư doanh luôn luôn bị bạc đãi, thiệt thòi. Không những thế, mỗi khi có tranh chấp đất đai, nhà cửa thì bọn quan tham cấu kết với công an đàn áp dân lành; nếu phải ra tòa án thì các thẩm phán (đảng viên) lại xử theo “pháp chế Xã hội chủ nghĩa” rất tùy tiện!

Như thế thật là rõ, định đề phát triển kinh tế trong Báo cáo của Nguyễn Phú Trọng cực kì mâu thuẫn; duy trì “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo“, tức là cố tình thủ tiêu “cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh” của một nền Kinh tế thị trường thực sự! Ông Trọng thừa nhận rằng, thời gian tới phải giải quyết nợ công ngày càng cao chống chất, trong đó các tập đoàn và tổng công ti nhà nước chiếm phần nợ lớn nhất. Chính nó từ nhiều năm nay, nhất là thời Nguyễn Tấn Dũng làm Thủ tướng, đang trở thành ổ tham nhũng của bọn tham quan. Duy trì Kinh tế nhà nước làm chủ đạo là duy trì những cách làm ăn bất công, cổ vũ cho nạn tham nhũng, làm cho kinh tế tư nhân không thể đi lên. Như vậy thì làm sao có thể làm cho kinh tế phát triển, đất nước giầu mạnh, làm sao chống được tham nhũng?

Chính định đề phát triển kinh tế mà Nguyễn Phú Trọng đã trình bày trong Báo cáo tại Đại hội 12 chứa đầy những mâu thuẫn và sai trái, mơ ra biển lớn mà lại chỉ loay hoay bằng chiếc thuyền thúng và người lái lại chẳng biết coi địa bàn, cho nên sau hơn 40 năm thống nhất nhưng VN vẫn tụt hậu so ngay với các nước trong khu vực. Tuy thế, Nguyễn Phú Trọng vẫn ngang ngược chống lại đổi mới toàn diện cả kinh tế và chính trị. Vì thế ông vẫn đội lên đầu chủ nghĩa Marx-Lenin, giữ chế độ độc đảng, kinh tế nhà nước làm chủ đạo, biến quân đội và công an thành công cụ đàn áp nhân dân để bảo vệ chế độ toàn trị!

Kinh tế suy yếu, nhân dân nghèo đói, giáo dục lạc hậu và chính quyền thối nát, chia rẽ là cửa mở mời các thế lực đế quốc can thiệp và thôn tính. Chính vì thế trong khi Đại hội 12 đang họp thì Bắc kinh đưa giàn khoan HD 981 trở lại biển Đông, lập phi trường quân sự trên các đảo chiếm đóng của VN, cho phi cơ xâm phạm không phận VN và bắn phá các tầu đánh cá và giết hại ngư dân VN!

***

Một chính trị gia chỉ có khả năng làm thủ lãnh một đảng, hay có thể trở thành một chính khách quốc gia có uy tín, điều này tùy thuộc ở tầm nhìn, tiêu chuẩn giá trị và ý chí của họ, chứ không tùy thuộc ở tham vọng và ước muốn chủ quan của họ. Nếu họ chỉ lợi dụng quyền lực để thu vén cho gia đình và phe nhóm thì họ chỉ là người lo xôi thịt, như trường hợp Nguyễn Tấn Dũng. Nếu họ chỉ biết đội lên đầu chủ nghĩa không tưởng và sẵn sàng sử dụng cả bạo lực để bảo vệ cho phe đảng, bất kể những giá trị chính đáng và cao đẹp khác, cùng lắm họ chỉ là thủ lãnh của một đảng độc tài bảo thủ, đây là trường hợp của Nguyễn Phú Trọng.

Muốn trở thành một chính khách quốc gia, lãnh tụ của dân tộc thì chính trị gia đó phải có tầm nhìn sâu và rộng, có tâm và trí, có lí có tình, dứt khoát phải đặt và thực hành đúng tiêu chuẩn giá trị đảng dưới dân trên, quyền lợi của dân tộc và đất nước cao hơn sự tồn tại của đảng, nhân dân hạnh phúc thì đảng mới vui…

Đảng CSVN với trên 4,5 triệu đảng viên đang đứng trước một chọn lựa quan trọng, nhưng rất khó khăn về nhân sự cấp cao tương lai. Liệu đảng này có còn tư cách tồn tại, có còn chính danh cầm quyền nữa không? Câu hỏi rất quan trọng và khẩn thiết này tùy thuộc vào 4,5 triệu đảng viên, trong đó với trên 1.500 đại biểu đang tham dự Đại hội 12, có đủ ý chí và ý thức được rằng, không phải chỉ phải chọn giữa Nguyễn Phú Trọng hay Nguyễn Tấn Dũng, như thế có khác nào chọn giữa bệnh dịch tả hay bệnh dịch hạch…!

24.1.15

Âu Dương Thệ

danlambaovn.blogspot.com

____________________________________

Ghi chú:

* Các phần trích trong bài không ghi xuất xứ là từ “Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, vững bước tiến lên trên con đường đổi mới” trên báo CS điện tử ngày 21.1.:

http://dangcongsan.vn/chinh-tri/xay-dung-dang-trong-sach-vung-manh-vung-buoc-tien-len-tren-con-duong-doi-moi-367589.html

* Về tình hình Đại hội 12 mời xem bài phân tích của cùng tác giả: “Đại hội 12 đi về đâu? Nguyễn Phú Trọng quyết dùng cả giải pháp bạo lực để thanh toán đối thủ trong đảng”: http://www.dcpt.org/thoisu/baithoisu2016/adt901.htm

Mục Thời sự Tạp chí Dân chủ & Phát triển điện tử:

www.dcpt.org hay www.dcvapt.net

Email: dcvapt@gmail.com

Khi lòng yêu nước bị từ khước

Khi lòng yêu nước bị từ khước

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đặt vòng hoa tại lăng Hồ Chí Minh trước Đại hội đảng 12, ngày 20/1/2016.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đặt vòng hoa tại lăng Hồ Chí Minh trước Đại hội đảng 12, ngày 20/1/2016.

Nguyễn Hưng Quốc

Suốt mấy tuần vừa qua, hầu như ngày nào tôi cũng vào các trang báo mạng trong nước cũng như trên facebook để tìm tòi các tin tức liên quan đến đại hội lần thứ 12 của đảng Cộng sản Việt Nam. Hết theo dõi hội nghị 13 lại theo dõi hội nghị 14 và bây giờ thì chờ diễn tiến của đại hội được chính thức khai mạc vào ngày 21 tháng 1.

Mà hình như không phải chỉ có tôi. Trên facebook, tôi bắt gặp cả hàng trăm người cũng có sự tò mò tương tự. Có người cho ông Nguyễn Phú Trọng được tái ửng cử; người khác lại bảo không phải: người được đề nghị ra tranh cử chức tổng bí thư đảng sắp tới là ông Nguyễn Tấn Dũng. Rồi người ta xôn xao bình luận về người được cho là tân tổng bí thư ấy: người thì khen, kẻ thì chê. Ầm ĩ. Tôi đoán là không có ai thực sự biết chính xác những gì đã diễn ra trong hai kỳ hội nghị cuối cùng vừa qua. Người ta bàn luận không phải dựa trên sự kiện mà chủ yếu dựa trên những gì người ta tưởng tượng và mong ước.

Điều thú vị là hầu như ai cũng biết dù Nguyễn Phú Trọng hay Nguyễn Tấn Dũng được bầu làm tổng bí thư, tình hình chính trị Việt Nam cũng không có gì thay đổi. Với ông Nguyễn Phú Trọng, không có gì thay đổi đã đành: Ông đã nắm giữ chức tổng bí thư từ đại hội khoá 11, năm 2011; trong suốt năm năm ấy, ông không đưa ra được một chính sách nào mới cả. Thêm năm năm nữa thì cũng vậy. Với Nguyễn Tấn Dũng, người được cho là thân Mỹ, người ta hy vọng ông sẽ cương quyết hơn trong nỗ lực thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc. Nhưng hy vọng ấy chỉ là một ảo vọng. Thứ nhất, chuyện ai thân Mỹ và ai thân Trung Quốc trong Bộ chính trị vẫn là một bí mật. Trừ một vài câu tuyên bố mị dân, không ai biết chắc chắn Nguyễn Tấn Dũng thân Mỹ hơn Nguyễn Phú Trọng. Đó là chưa kể Nguyễn Tấn Dũng bị mang tai tiếng rất nhiều về việc tham nhũng và gắn liền với các “nhóm lợi ích”: Với ông, tư lợi không chừng còn quan trọng hơn cả tương lai của đất nước. Thứ hai là sự lãnh đạo của đảng Cộng sản thường có tính chất tập thể. Mọi chính sách quan trọng đều phải thông qua Bộ chính trị gồm 16 người. Không phải cứ tổng bí thư là muốn làm gì thì làm. Thời của những tổng bí thư “mạnh” và chuyên quyền như Lê Duẩn đã qua rồi.

Biết vậy, hầu như ai cũng biết vậy, nhưng người ta, trong đó có tôi, vẫn cứ tò mò theo dõi từng động tĩnh mơ hồ trước đại hội và vẫn cứ tưởng tượng cũng như mong đợi sẽ có một thay đổi nào đó trong vận mệnh của đất nước.

Tôi cho đó là biểu hiện của lòng yêu nước.

Lâu nay, chúng ta vẫn nói nhiều đến lòng yêu nước. Nhưng thế nào là yêu nước? Tôi cho trong cái gọi là lòng yêu nước có ba biểu hiện chính: Một là cảm thấy mình là một thành viên không tách rời của cả cộng đồng dân tộc; hai là quan tâm đến những sự thay đổi dù nhỏ dù lớn của cộng đồng ấy; và ba, sẵn sàng hy sinh, nếu cần, để bảo vệ dân tộc. Biểu hiện thứ ba chỉ xảy ra trong những trường hợp hoạ hoằn khi đất nước lâm vào chiến tranh. Hai biểu hiện đầu phổ biến và dễ thấy hơn, ngay cả trong các cộng đồng lưu vong đang sống ở hải ngoại: Dù ở đâu và làm gì, người ta cũng đau đáu hướng về đất nước, vui với những thành công và thắng lợi của đất nước, buồn trước những thất bại và những sự khốn cùng của đất nước, và phập phồng lo lắng khi đất nước đối diện với những thử thách và nguy hiểm. Lúc nào người ta cũng thấy mình là một phần tử trong cái khối đất nước mênh mông và cực kỳ đa dạng ấy.

Chính vì vậy, tôi xem những lời bàn luận sôi nổi của người Việt trên các trang mạng xã hội trong mấy tuần vừa qua về các diễn biến chung quanh đại hội lần thứ 12 của đảng Cộng sản, dù thuộc bất cứ khuynh hướng nào, với bất cứ thái độ nào, cũng là biểu hiện của lòng yêu nước. Không yêu, người ta không có sự quan tâm như thế. Không yêu, người ta không có những sự tưởng tượng và mong đợi về một sự thay đổi trong cục diện chính trị Việt Nam như thế.

Nhưng chính quyền Việt Nam đã làm gì trước những tình cảm yêu nước nồng nhiệt như thế?

Họ hoàn toàn im lặng. Trên báo chí chính thống trong nước suốt mấy tuần vừa qua, người ta loan tin rất nhiều về hội nghị 13 và 14 cũng như những công việc chuẩn bị cho đại hội thứ 12, nhưng người ta tuyệt đối không hề tiết lộ bất cứ một chi tiết nào liên quan đến tình hình nhân sự trong bộ máy lãnh đạo trong tương lai. Người ta nói đến những nguyên tắc lựa chọn lãnh đạo; người ta khoe đã bỏ phiếu đến hai lần để chọn ra những người lãnh đạo cao cấp nhất cho cả nước; người ta tuyên bố là những việc lựa chọn ấy rất dân chủ, từng lá phiếu được tôn trọng, nhưng người ta lại giấu nhẹm điều quan trọng nhất: những người được lựa chọn để bầu cho những chức danh cao nhất trong dàn lãnh đạo ấy là những ai?

Việc giấu nhẹm tình hình chọn lựa nhân sự cho đại hội đảng ấy chứng tỏ hai điều:

Thứ nhất, người ta tự thú là họ hoàn toàn đi ngược lại mọi nguyên tắc của dân chủ. Việt Nam hay tự xưng là nước dân chủ, thậm chí, có người còn cho dân chủ tại Việt Nam còn cao gấp vạn lần hơn các nền dân chủ ở Tây phương. Nhưng dân chủ không phải là những khẩu hiện của dân, do dân và vì dân chung chung. Chính trị, tự bản chất, là quan hệ quyền lực. Điều khác nhau căn bản giữa độc tài và dân chủ là dưới chế độ dân chủ, quyền lực được/bị kiểm soát còn dưới chế độ độc tài thì không. Để được kiểm soát, chính quyền cần có ít nhất hai yếu tố: minh bạch (transparency) và khả kiểm (accountability). Hai yếu tố ấy chỉ thành hiện thực với hai điều kiện: dân chúng được quyền tự do thông tin và tự do ngôn luận. Có thể nói, với việc giấu giếm các chọn lựa về nhân sự trong các cuộc hội nghị chuẩn bị cho đại hội, người ta tự từ khước tính chất dân chủ mà người ta vẫn ồn ào tuyên truyền.

Thứ hai, người ta coi dân chúng là những người ngoại cuộc. Tất cả các sự dàn xếp về nhân sự chỉ liên quan đến 175 uỷ viên Ban chấp hành trung ương đảng. Dân chúng không cần biết và không đáng để được biết. Có thể nói nếu sự tò mò và quan tâm của dân chúng đối với việc chuẩn bị nhân sự cho dàn lãnh đạo quốc gia, như đã phân tích ở trên, là biểu hiện của lòng yêu nước, việc giấu nhẹm kết quả bàn thảo trong nội bộ Ban chấp hành trung ương đảng là một sự từ khước đối với lòng yêu nước ấy.

Đại hội Đảng CSVN trong con mắt một nhà báo nước ngoài*

Đại hội Đảng CSVN trong con mắt một nhà báo nước ngoài*

 Bọn côn đồ bặm trợn đang lãnh đạo Việt Nam sẽ không thử nghiệm dân chủ

Thomas A. Bass

Foreign Policy, 21 tháng Một 2016

Dịch giả Trần Ngọc Cư

Việt Nam là một mô hình trùng chập (a moiré pattern): Nhìn quốc gia theo hướng này thì bạn sẽ thấy một xã hội có nguyện vọng vươn cánh vào tương lai. Nhưng nhìn theo một hướng khác thì bạn sẽ thấy nó là một nhà tù lỗi thời giam giữ bất cứ người nào không chịu đi theo đường lối của Đảng. Những người ngồi sưởi nắng trên boong tàu chỉ tập trung vào những bãi biển đẹp, thức ăn ngon, sự thu hút như một điểm đến của du lhách. Trong khi đó, những người theo dõi nhân quyền lại tập trung vào những mô hình đàn áp của chế độ.

Vâng, quốc gia này đang mở cửa với phương Tây và phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên – mặc dù có những duyên dáng sáng sủa – Việt Nam là một văn hóa suy đồi. Chế độ kiểm duyệt đã bóp nghẹt tiếng nói của những văn nghệ sĩ ưu tú và đẩy họ vào con đường lưu vong. Những tiểu thuyết gia và thi sĩ xuất chúng không còn viết lách công khai, ngoại trừ việc lưu hành tác phẩm của họ bằng những hình thức xuất bản chui. Ngành báo chí là một doanh nghiệp thối nát do nhà nước kiểm soát. Ngành xuất bản cũng thế. Sử học là một ngành nhạy cảm [nguy hiểm] không ai dám nghiên cứu. Các tự do tôn giáo, tư tưởng, ngôn luận – trưởng ban tuyên giáo thẳng tay ngăn chặn tất.

Từ 20 đến 28 tháng Giêng, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) tổ chức tiệc heo quay ngũ niên thứ 12 mệnh danh Đại hội Đảng. Khoảng 1.500 đảng viên sẽ tụ tập ở Hà Nội để thông qua một kế hoạch kinh tế ngũ niên và chuẩn thuận danh sách đề cử các ứng viên vào Ủy ban Trung ương Đảng, Bộ Chính trị gồm 16 nhân vật chóp bu, và Tổng bí thư Đảng (cha nội ngồi đầu bàn tiệc). Tham nhũng từ trên xuống dưới, bị trương lên vì hệ thống ô dù và trung thành với chủ nghĩa xã hội thân hữu cũng như lợi ích nhóm, ĐCSVN ra sức duy trì sự kềm kẹp đối với chính phủ, quân đội, báo chí, và 93 triệu dân Việt Nam. “Chế độ Mác-xít cần đến một nhà độc tài, và một nhà độc tài cần đến cảnh sát mật vụ, và đó là tận thế,” một người tị nạn đồng thời là một nhà văn Nga, ông Vladimir Nabokov phát biểu như vậy.

Các nhà quan sát quốc tế nghiên cứu các đại hội ĐCSVN để tìm những dấu hiệu cho thấy phe phái nào trong đảng sẽ thắng thế. Trong vài tuần tới, bạn đọc hãy trông chờ những bài báo nói về phe thân Tây phương thắng phe thân Trung Quốc, hay trái lại. Hội chứng tự mê hoặc về những dị biệt tiểu tiết này đánh mất điểm chính. Điều mà khoảng 4,5 triệu đảng viên muốn là tiền huê hồng trong trò cá cược [their vig]. “Nom như thiên hạ đang đấu đá nhau dưới một tấm thảm,” nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh nói về những buổi họp kín để đưa ra những lãnh đạo Việt Nam.

Vâng, ĐCSVN đã diễn biến từ khi thống nhất đất nước sau Chiến tranh Việt Nam vào năm 1975. Đối diện với nạn đói đang diễn ra ở vùng quê, Đại hội đảng thứ sáu tổ chức năm 1986 đã từ bỏ nền kinh tế chỉ huy kiểu Xô-viết để chạy theo chủ nghĩa xã hội thị trường [market socialism, đúng hơn nên gọi “Market Leninism”, ND.] ĐCSVN cho phép thị trường tự do phát triển ở tầng thấp nhất của xã hội và khuyến khích “tư bản đỏ” xuất hiện ở giới trung lưu, đồng thời họ nắm giữ trong tay công nghiệp đóng tàu, ngân hàng, khai thác khoáng sản, và các doanh nghiệp nhà nước ở tầng cao nhất của xã hội.

Cùng với những cải tổ kinh tế này đã xuất hiện một giai đoạn cải tổ văn hóa ngắn ngủi. Mạng lưới giám sát u ám của nhà nước được tháo gỡ đủ lâu để bốn tác giả lớn của Việt Nam thời hậu chiến có thể xuất bản những tác phẩm nổi tiếng nhất của họ: Nhà văn viết truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Tướng hồi hưu) và các tiểu thuyết gia Bảo Ninh (Nỗi buồn chiến tranh), Dương Thu Hương (Tiểu thuyết vô đề), và Phạm Thị Hoài (Thiên sứ). Nhưng mạng lưới u ám đó đã được áp đặt lại vào năm 1991, khi công an văn hóa tư tưởng (culture police) xông vào nhà Nguyễn Huy Thiệp và tiêu hủy các bản thảo của ông. Kể từ đó, Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh sống lưu đày trên chính quê hương mình, xuất bản các tác phẩm được kiểm duyệt và được các bồi bút của đảng biên tập lại. Sau khi trải qua tám tháng trong tù vào năm 1991, Dương Thu Hương hiện sống tại Paris, và Phạm Thị Hoài sống lưu vong ở Berlin.

Các sửa sai chính sách khác của ĐCSVN đã diễn ra sau khi tái lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ năm 1995 và Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới 2007. Việc vào WTO đã mở nút cho các đầu tư nước ngoài tuôn vào, chỉ để bị bốc hơi một năm sau đó trong cuộc Đại Suy thoái kinh tế. Nhắm mắt trước biến cố đang diễn ra, ĐCSVN tiếp tục bơm tiền vào các doanh nghiệp nhà nước. Hành động này đưa đến nạn lạm phát có lúc nhảy lên 60 phần trăm của tỉ lệ hàng năm, một bong bóng địa ốc tan vỡ nhanh chóng, và sự phá sản của nhiều doanh nghiệp nhà nước, gồm cả công ty đóng tàu quốc gia, Vinashin, chìm dưới núi nợ 4,5 tỉ USD.

Tai tiếng này gần như đủ nghiêm trọng để làm Nguyễn Tấn Dũng mất chức Thủ tướng Việt Nam. Nhưng Dũng được các thân hữu trong Bộ Chính trị cứu vớt và ông bắt tay vào việc vận động địa vị cao nhất ĐCSVN là chức tổng bí thư, nhưng hình như ông đang thất bại trong nỗ lực này. Trên thực tế, Việt Nam trong giờ phút hiện tại hình như đang kinh qua một loại đảo chính kiểu phim quay chậm, trong đó Nguyễn Phú Trọng, 71 tuổi hiện đứng đầu ĐCSVN – mặc dù theo luật định là phải về hưu – đang vận động để tiếp tục giữ quyền lực, chí ít thêm hai năm nữa.

Bên cạnh ĐCSVN, một hằng số khác trong chính trị Việt Nam là ảnh hưởng của Trung Quốc. Năm 2008, Tập đoàn Nhôm dồi dào vốn của Trung Quốc đã mua quyền khai thác bô-xít tại cao nguyên trung bộ Việt Nam [Tây Nguyên]. Năm tiếp theo, Bắc Kinh phục hồi bá quyền trên hầu hết Biển Nam Trung Hoa [Biển Đông Việt Nam]. Năm 2014, Bắc Kinh đưa giàn khoan vào vùng biển ngoài khơi của Việt Nam và tiến hành xây các đường băng cho máy bay phản lực trên các đảo nhân tạo từ các cụm san hô bị băm nát. (Hà Nội lên án Bắc Kinh đưa giàn khoan trở lại trong lãnh hải Việt Nam vài ngày trước khi khai mạc Đại hội Đảng mới đây). Tinh thần bài Trung – mà các lực lượng công an không còn chặn đứng được nữa – sôi sục khắp nơi. Tháng Năm 2014, hàng trăm nhà máy được cho là do Trung Quốc làm chủ đã bị cướp phá hoặc đốt cháy, khiến 21 người thiệt mạng. Người ta không ngạc nhiên, phe thân Trung Quốc tại Việt Nam đang che giấu thế lực của mình.

Tuy vậy, tinh thần bài Trung chưa biến thành sức mạnh cụ thể làm suy giảm ảnh hưởng của Trung Quốc tại Việt Nam. Trung Quốc vẫn tiếp tục xây dựng các đảo, cày xới khai thác quặng mỏ ở Tây Nguyên, và thực hiện bất cứ một ý đồ nào khác để giữ chặt Thằng Út Việt Nam trong quĩ đạo của Anh Hai Trung Quốc. Sự liên minh này thắt chặt đến nỗi một đa số đáng ngạc nhiên người dân Việt Nam – thường trích dẫn Hội nghị Thành Đô – cho rằng đất nước mình đã thật sự lọt vào tay Trung Quốc. (Ở một cuộc họp kín tại Thành Đô, Trung Quốc, ĐCSVN đã tự bán mình cho Đảng Cộng sản Trung Quốc: đảng đàn anh đã đổi các món tiền hối lộ khổng lồ để lấy dầu lửa ngoài khơi, bauxite, và các tài nguyên thiên nhiên khác, hoặc dư luận rộng rãi đã tin như thế).

Hà Nội đã khéo dùng thủ đoạn để khai thác các quan hệ với Hoa Kỳ hơn là để khai thác các quan hệ với người láng giềng khổng lồ ở phương bắc. ĐCSVN có thể sẽ thi hành Hiệp định xuyên Thái Bình Dương (TPP), một thương ước của 12 quốc gia được ký kết vào tháng Mười Một vừa qua. Được Washington thiết kế để tạo ra một tường thành thương mại xanh nhằm chặn đứng làn sóng đỏ của Trung Quốc, Hiệp định TPP đưa ra trước mắt Việt Nam tiềm năng của một món quà trời cho. Bản hiệp định có một số điều khoản gây khó chịu cho ĐCSVN liên quan đến quyền của người lao động, nhưng Hà Nội có thể sẽ làm ngơ những điều khoản này – cũng như các nghị định thư quốc tế khác mà họ từng ký kết và vô hiệu hóa sau đó. Việt Nam đứng gần chót trong mọi chỉ số về nhân quyền, nhưng nó vẫn kênh kiệu như một con công tiến tới chiếc ghế của mình trên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc. Mấy ai sẽ quan tâm nếu có thêm một vài người đứng ra tổ chức công đoàn bị bắt vào tù cùng với 300 tù nhân chính trị khác tại Việt Nam?

Sau khi thi hành Hiệp định TPP, Việt Nam sẽ nhắm tới việc Hoa Kỳ và Liên Âu hủy bỏ danh xưng kinh tế “phi thị trường”. (“Các nền kinh tế thị trường” được che chắn vững vàng hơn trong việc chống lại các vụ kiện bán phá giá). Điều này rất quan trọng đối với Việt Nam, nước đang hi vọng TPP sẽ mở cửa thị trường Mỹ cho các sản phẩm Việt Nam, kể cả một món hàng mà hai nước giằng co qua nhiều năm – cá basa [ngay tại Mỹ loại cá này phải gọi là basa để tránh từ catfish của Mỹ, ND.] Tháng Bảy 2015, nhằm tạo điều kiện thuận lợi để đưa hiệp định thương mại này vào chương trình nghị sự, Tổng thống Mỹ Obama mời Tổng Bí thư [Nguyễn Phú] Trọng đến Nhà Trắng để thể hiện điều mà ông Trọng gọi là “cuộc họp thực sự mang ý nghĩa lịch sử”. Nhưng tại sao cuộc thăm viếng Nhà Trắng đầu tiên của nhà lãnh đạo CSVN lại “mang ý nghĩa lịch sử”? Vì “Nhà Trắng đã nhìn nhận cơ cấu chính trị Việt Nam và vai trò lãnh đạo của Đảng” – do đó, theo ông Trọng, hợp thức hóa chế độ cai trị của ĐCSVN.

Nhưng ta hãy nhìn xem chế độ cai trị này là như thế nào: Ban Tuyên giáo Trung ương có những chiếc vòi bạch tuộc chạy qua Bộ Thông tin và Truyền thông để vào “phòng an ninh” PA 25 – và từ đó vào trong từng chi bộ ĐCSVN có trách nhiệm kiểm soát phương tiện truyền thông tại Việt Nam. Trong tư cách là thống soái kiểm duyệt của Việt Nam, Trọng chịu trách nhiệm điều hành cái mà tổ chức giám sát báo chí Phóng viên Không Biên giới (Reporters Without Borders) gọi là “nhà nước băng đảng” tung ra hàng loạt “các đợt bắt bớ, xét xử, đánh đập và sách nhiễu”. “Nội trong năm 2012 mà thôi,” theo một báo cáo do tổ chức này công bố vào tháng Bảy 2015, thuộc hạ của Trọng tại các tòa án đã “truy tố không dưới 48 blogger và những người bảo vệ nhân quyền, kết án họ tổng cộng 166 năm tù ở và 63 năm quản chế”.

Những người ngồi sưởi nắng trên boong tàu có thể chê những điều vừa nói là gieo hoang mang sợ hãi. Thật vậy, nó có vẻ không hợp thời, như một cái gì đó do méo mó thời gian đã trở về từ những thập niên 1950. Nhưng tin tức từ Việt Nam thật đáng báo động. Nó đáng báo động với Việt Nam, một quốc gia phải đối phó với sự đổ vỡ văn hóa này, và nó cũng báo động cho phần còn lại của chúng ta, những người đang đối đầu ngay trong xã hội mình những sức ép của chế độ kiểm duyệt, sự trỗi dậy của hệ thống giám sát quần chúng, và sự ngự trị của các lợi ích thương mại bất chấp tất cả các giá trị khác. Từ quan điểm này, Việt Nam không phải là một sự méo lệch thời gian từ quá khứ, mà là một cửa sổ để chúng ta nhìn vào tương lai của mình. Liệu chuyện quái đản bên ngoài này một ngày kia có thể trở thành chuyện bình thường mới của chúng ta không?

Một điều mà chúng ta biết chắc về Đại hội Đảng 12 của Việt Nam là nó sẽ không chặn đứng sự tàn bạo của công an. Vào đầu tháng Mười Hai, công an mặc thường phục đã dùng đùi sắt đánh lập Luật sư Nguyễn Văn Đài, một nhà vận động nhân quyền. Mười ngày sau, Đài bị bắt trên đường đi đến gặp phái đoàn Liên Âu tới Hà Nội dự cuộc đối thoại nhân quyền EU-Việt Nam lần thứ năm. Blogger và ký giả nổi tiếng nhất Việt Nam, ông Nguyễn Hữu Vinh (còn gọi là Anh Ba Sàm) hiện đang ở trại giam, với cáo buộc “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước.” Phiên toà xét xử Vinh, trước đó dự dù mở ra vào hôm 20 tháng Một – cùng ngày khai mạc Đại hội Đảng – đã được hoãn lại vô thời hạn.

Là trung tâm của sự tàn phá văn hóa trong một nhà nước cảnh sát đã đánh đập các nhà vận động dân chủ bằng đùi sắt, Việt Nam thoát khỏi tai tiếng của một kẻ có hành động xấu, vì nhiều người nước ngoài muốn đến làm ăn với các công dân Việt Nam tháo vác hoặc hưởng các lạc thú của xứ này. Việt Nam sẽ chào đón du khách và mặc cả để thu hút tài chính toàn cầu và chủ nghĩa tư bản xuyên quốc gia, việc đó không có vấn đề. Nhưng nếu bạn muốn đi dự bữa tiệc heo quay nói trên, xin quên chuyện này đi. Chỉ dành cho Đảng viên mà thôi.

T.A.B.

Dịch giả gửi BVN

Rạn nứt nghiêm trọng tại Đại hội Đảng: nỗi sợ hãi của Nguyễn Phú Trọng đã thành hiện thực

Rạn nứt nghiêm trọng tại Đại hội Đảng: nỗi sợ hãi của Nguyễn Phú Trọng đã thành hiện thực

Người Cấp Tiến

Theo thông tin chính thức, 35/68 đoàn đại biểu tham dự Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII đã đề cử Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào Ban chấp hành Trung ương khóa XII. Số đề cử này đã biến Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thành người có số đề cử cao nhất trong số hơn 60 người do Đại hội đề cử. Những người này nằm ngoài danh sách Ban chấp hành Trung ương khóa 11 giới thiệu.

Tuy nhiên, hiện giờ theo thông tin nội bộ con số chính xác đã đề cử Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là 38/68 đoàn. Hiện Đại hội đang rà soát lại sự nhầm lẫn trong khâu thống kê số đoàn đề cử Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Ngày mai sẽ có thông tin chính thức về danh tính 3 đoàn đã bị “bỏ quên” và thông tin về khả năng 3 đoàn có “kiện” hay không “kiện” đòi giải thích chính thức cho sự sai lệch này.

3 đề cử không phải là quá lớn và cũng không thay đổi gì được tình hình của ngày làm việc hôm nay. Tuy nhiên nó cho thấy sự sợ hãi đang ngày một lớn dần của đương kim Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Bất chấp các thủ đoạn của Nguyễn Phú Trọng, sự ủng hộ của các đại biểu dành cho đương kim Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vẫn nằm ngoài tầm kiểm soát.

Theo thông tin từ rất nhiều các đại biểu nhắn ra ngoài, một loạt các đệ tử thân tín của Nguyễn Phú Trọng mà dẫn đầu là Tô Huy Rứa, Đinh Thế Huynh, Vương Đình Huệ, Vũ Ngọc Hoàng, Nguyễn Xuân Phúc… đi gặp từng người có quyền đề cử để vận động. Nội dung cơ bản là “Em nghĩ kỹ chưa? Em còn tương lai, em làm vậy là khiến Đại hội không tập trung, gây mất đoàn kết. Như thế không tốt cho sự nghiệp của em”. Đối với các Trưởng, Phó đoàn những nhân vật này đến tận phòng tặng phong bì chúc Tết và khuyên nhủ cá nhân.

Hài hước nhất là trường hợp Nguyễn Xuân Phúc. Phúc hứa với tất cả các tỉnh chưa có sân bay nếu ủng hộ Phúc chắc chắn Phúc sẽ “cho” một dự án sân bay tại địa phương. Sau khi trao đổi bên ngoài, các Đại biểu được Phúc vận động đùa nhau rằng chắc hẳn nếu không thất hứa Phúc sẽ đi vào lịch sử với tư cách một Thủ tướng “sân bay hóa” đất nước.

Tư cách cá nhân kém cỏi, cách hành xử bất chấp và trình độ hạn chế của Nguyễn Phú Trọng cộng thêm cách “quản thúc” Đại biểu như trên đã gây sự bất bình và sự phản ứng mạnh mẽ. Chính vì thế mọi toan tính đã phản tác dụng khi các Đại biểu đã dũng cảm thể hiện chính kiến của mình. Dù đều biết quy định 244 và những đề cử này là công khai nhưng họ vẫn đề cử Nguyễn Tấn Dũng bất chấp những nguy hiểm có thể phải gánh chịu.

Như vậy trái với thông tin của một loạt các cơ quan báo chí chính thống, việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng xin rút không hề làm uy tín và vai trò chính trị của ông suy giảm. Trước khi hoạt động đề cử theo nguyên tắc dân chủ của Đảng diễn ra, nhiều phát ngôn của các quan chức đã nhấn mạnh việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về nghỉ là điều tất yếu. Nổi bật trong các hoạt động tuyên truyền này là các ông Vũ Ngọc Hoàng (Phó ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương), ông Võ Tiến Trung (Giám đốc Học viện Quốc phòng)…

Thực tế đây là hoạt động tuyên truyền chưa từng có trong tiền lệ các Đại hội Đảng. Thông thường thông tin về các ứng viên trong danh sách giới thiệu của Ban Chấp hành Trung ương thường không được công khai. Do đó hoàn toàn không cần thiết phải để các quan chức đương nhiệm phải tập trung lên tiếng giải thích cho việc xin rút của một cá nhân. Việc tuyên truyền này thể hiện sự thiếu tự tin trong công tác nhân sự cũng như thể hiện rõ mong muốn áp đặt suy nghĩ và áp đặt lá phiếu của các Đại biểu tham dự Hội nghị.

Tuy nhiên bất chấp những hành động mang tính trù dập cá nhân trên, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vẫn giành được sự ủng hộ cao nhất từ các đoàn tham dự Đại hội. Trong một không gian rộng mở hơn, trên các mạng xã hội Thủ tướng cũng là người được dư luận dành nhiều tình cảm và hy vọng. Các cuộc bỏ phiếu ảo do cộng đồng mạng tổ chức cho thấy ông giành được một sự tín nhiệm vượt trội so với các thành viên còn lại trong tứ trụ. Điều đặc biệt hơn Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, người đang được tuyên truyền là nhận sự ủng hộ cao nhất của Trung ương lại là người nhận được sự ủng hộ thấp nhất trong các cuộc “thăm dò dư luận” của các tầng lớp dân chúng.

Ngay sau khi có kết quả đề cử, Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo bộ máy tuyên truyền trong nước truyền thông dày đặc theo hai hướng tôn trọng ý kiến xin nghỉ của các đồng chí trong Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương thống nhất cao với việc chỉ có duy nhất một ứng viên cho chức Tổng Bí thư là Nguyễn Phú Trọng. Tuy nhiên Đại hội đang đi theo những xu hướng nằm ngoài khả năng kiểm soát của Nguyễn Phú Trọng cùng các đồng minh.

Trước đó, bằng cách sử dụng những quy định trái với điều lệ Đảng, đương kim Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã giành được lợi thế tuyệt đối trong việc tranh chức Tổng bí thư. Đại tướng Lê Đức Anh, Chủ tịch Mặt trận tổ quốc Nguyễn Thiện Nhân, Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương Bùi Thanh Quyến… cùng nhiều đại biểu khác đã có những ý kiến gay gắt phản đối những hành động phản bội các nguyên tắc cơ bản của Đảng và yêu cầu ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ.

Cũng nên nhắc lại rằng ông Nguyễn Phú Trọng năm nay đã 72 tuổi và là người có số tuổi cao nhất trong Ban chấp hành Trung ương Đảng. Cũng theo chính ông Trọng người làm Tổng Bí thư phải có yếu tố “không tham quyền cố vị”.

Hệ quả không định trước

Hệ quả không định trước

Nguyễn Quang Dy

“Quyền lực thường tha hóa và quyền lực tuyệt đối sẽ tha hóa tuyệt đối”.

(Lord Acton)

“Hệ quả không định trước” (unintended consequences) là một quy luật diễn ra trong nhiều lĩnh vưc, nhưng ít người để ý, lại càng ít người biết cách vận dụng để lý giải thực tế trái chiều hoặc tác động làm thay đổi hiện trạng. Có thể do vướng chấp nên người ta dễ bị “điểm mù” (blind spot) che khuất tầm nhìn, nên tuy mắt sáng nhưng không nhìn thấy, hoặc thấy nhưng không chịu thừa nhận. Vì thế mới có câu, “người mù nhất là người không chịu nhìn” (Hoặc người điếc nhất là người không chịu nghe).

Hãy thử tìm hiểu quy luật này để vận dụng nhằm lý giải một số thực tế hoặc tác động làm thay đổi dòng chảy của sự kiện, trong bối cảnh tranh giành quyền lực đang diễn ra hiện nay.

Càng gần Đại hội, không khí càng nóng lên, tuy giữa Mùa Đông. Có nhà bình luận nói chưa thấy Đại hội Đảng nào lại căng thẳng, kịch tính và quyết liệt như lần này. Trong khi các phe nhóm phân hóa sâu sắc, choảng nhau quyết liệt một mất một còn, để tranh giành quyền lực (và lợi ích), thì giới trí thức đòi dân chủ và nhân quyền cũng như giới truyền thông cũng phân hóa không kém. Một số ngộ nhận, ủng hộ “ông này”, chống “ông kia” một cách quyết liệt, thâm chí thóa mạ nhau. Việt Nam chưa đa đảng nhưng đã “đa nguyên” một cách bất bình thường (như kinh tế thị trường định hướng XHCN). Vì truyền thông trực tuyến có vai trò ngày càng lớn, nên bị các phe nhóm thao túng (như công cụ của họ) trong cuộc chiến truyền thông, tung tin thật giả lẫn lôn, làm dư luận càng dễ ngộ nhận. Tuy chưa biết ai thắng ai thua, nhưng thấy rõ người Việt càng bị chia rẽ thì đất nước càng suy yếu, trước hiểm họa bành trướng của Trung Quốc.

Xét theo khía cạnh này thì đó là một hệ quả đáng buồn và nguy hiểm (vì dễ mất nước). Nhưng xét theo khía cạnh khác, thì những gì tồi tệ đang diễn ra có thể dẫn đến một “hệ quả không định trước”, làm xuất hiện cơ hội thay đổi đột phá, biến điều không thể thành có thể. Nói cách khác (theo “quẻ biến”), thì “càng xấu xa lại càng tốt”, theo tư duy đột phá “ngoài cái hộp” (out-of- the- box thinking).

Một vài dẫn chứng

Năm 1983, tại một hội nghị quốc tế về bệnh lý “erectile dysfunction” (liệt dương) ở Las Vegas, nhà nghiên cứu Giles Brindley đã bất ngờ tụt quần để trưng bày “của quý” đang cương cứng, trước khi thuyết trình về vấn đề này. Bằng một hành động gây ấn tượng mạnh, Brindley đã có công thức tỉnh cộng đồng y khoa về một vấn nạn của xã hội loài người mà lúc đó chưa có lời giải. Các hãng dược phẩm lớn đã nhận ra cơ hội thị trường tiềm năng và đổ xô vào nghiên cứu. Nhưng mãi đến năm 1995 hãng dược Pfizer mới nghiên cứu và bào chế thành công thuốc Viagra, làm cải thiện chất lượng cuộc sống cho hàng triệu người trên thế giới bị bệnh lý ED (thiểu năng tình dục), và do đó họ thu được hàng tỷ đô-la lợi nhuận.

Nhưng ít người biết rằng Viagra là “hệ quả không định trước” của một dự án nghiên cứu của Pfizer (từ năm 1991) về hóa chất Sildenafil dùng để điều trị bệnh nhồi máu cơ tim (chứ không phải “cơ chim” đâu). Trong khi làm thí nghiệm lâm sàng, các nhà nghiên cứu đã tình cờ phát hiện ra một dược tính kỳ diệu khác của Sildenafil có thể làm cương dương. Và thế là trong mấy năm sau đó, Pfizer đã quyết định đầu tư lớn cho các trung tâm nghiên cứu về Sildenafil tại Anh, Mỹ và các nước khác, để tìm ra bằng được phương thuốc điều trị bệnh lý ED, và đến năm 1995 họ đã thành công, đáp ứng nhu cầu thị trường theo “Chỉ số Quốc tế về Chức năng Cương dương” (International Index of Erectile Function).

Hãy lấy một ví dụ khác cho đỡ “nhạy cảm”. Ai cũng biết trong thế kỷ 18 và 19, những người Pháp thực dân đã đến Việt Nam (và Đông Dương) để chiếm và khai thác thuộc địa, gây nhiều đau khổ, oán hận cho người dân bản địa, dẫn đến cách mạng giải phóng dân tộc và chiến tranh khốc liệt (đến tận 1954). Đấy là một trang sử đau buồn về chế độ thực dân cũ (cho cả hai dân tộc). Nhưng bên cạnh những người Pháp thực dân tham lam, còn có những người Pháp tử tế đã làm nhiều việc tốt lành để khai minh cho người dân bản địa, đóng góp phát triển một đất nước còn lạc hậu. Đó là cha Alexandre de Rhodes (1591-1660) và những người khác, đã có công sáng tạo ra chữ quốc ngữ cho người Việt, một bước ngoặt về văn hóa. Đó là Louis Pasteur (1822-1895) và Alexandre Yersin (1863-1943) và những người khác, là những nhà khoa học và bác sỹ mà tên tuổi và việc làm của họ đã gắn bó với người dân bản địa như là ân nhân đã tìm cách cứu họ khỏi những nạn dịch. Đó là danh họa Victor Tardieu (1870-1937) và đồng nghiệp, đã sáng lập ra trường Mỹ thuật Đông dương (Ecole des Beaux Arts de l’Indochine, 1925), cái nôi của một thế hệ danh họa Việt Nam, đã để lại những kiệt tác bất tử cho đời sau. Đó là các kiến trúc sư C. Batteur và E. Hébrard và những người khác, đã thiết kế hầu hết các biệt thự và công sở tại Hà Nội (và Sài Gòn). Đó là vài dụ về “hệ quả không đinh trước” trong lịch sử quan hệ Pháp-Việt, đã để lại những di sản văn hóa, y học, hội họa, kiến trúc… như “sức mạnh mềm” kết nối hai dân dân tộc, bất chấp trang sử thực dân đau buồn.

Một ví dụ khác là Chiến tranh Việt Nam đẫm máu (kết thúc 1975) cũng để lại một trang sử đau buồn mà 40 năm sau vẫn còn ám ảnh người Mỹ và người Việt, như bóng ma của quá khứ. Mãi 20 năm sau (1995) hai nước mới bình thường hóa quan hệ, và cựu bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara mới thừa nhận sai lầm về Việt Nam. 40 năm sau, hai nước trở thành đối tác toàn diện (và đang trở thành đối tác chiến lược) để ngăn chăn sự trỗi dậy đầy hiếu chiến của Trung Quốc, đặc biệt là tại Biển Đông. Trước đây Mỹ đánh (Bắc) Việt Nam để ngăn chặn Trung Cộng. Sau đó họ lại bắt tay với Trung Cộng (bằng Shanghai Communique và “Constructive Engagement”) để chống Liên Xô và Việt Nam. Nay Mỹ lại “xoay trục”, hơp tác với Việt Nam để ngăn chặn Trung Cộng. Lịch sử đang lặp lại, với những “hệ quả không định trước”.

Bên cạnh những di họa của chiến tranh (như bom mìn, chất độc da cam), còn có những “hệ quả không định trước” như “sức mạnh mềm” gắn kết hai dân tộc. Đó là mối quan hệ “vừa yêu vừa ghét” (love hate) giữa hai cựu thù, nay trở thành đối tác chiến lược. Đó là thế hệ những cựu chiến binh của Vietnam War như thượng nghị sỹ John Kerry và John McCain, đại sứ Pete Peterson, và rất nhiều người khác (cả cựu binh và nhà báo, nhà văn và nhà buôn…) đã không quên được Việt Nam vì ám ảnh của quá khứ và lương tâm, làm chiếc cầu nối giữa hai dân tộc. Họ đã dũng cảm trong hòa bình (cũng như trong chiến tranh) để góp phần hòa giải hai dân tộc và hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng một thế giới tử tế hơn.

Một “hệ quả không định trước” khác của Vietnam War là sự hình thành cộng đồng người Viêt tại Mỹ, với gần 2 triệu người đã định cư vào các thời điểm khác nhau. Bên cạnh đặc điểm phức tạp do bị phân hóa sâu sắc (như bộ phim “Terror in Little Sai gon” đã phần nào phản ánh), cộng đồng người Viêt ở Mỹ đã đóng góp đáng kể vào xã hội đa sắc tộc của Mỹ (như “melting pot”) cũng như làm cầu nối để gắn kết hai quốc gia cựu thù, nay đang trở thành đồng minh chiến lược. Tại các nước khác (Canada, Úc, Anh, Pháp, Đức, v.v. ) cộng đồng người Việt tuy nhỏ hơn, nhưng cũng có vai trò tương tự. Có thể nói, công đồng người Việt tại Mỹ (và các nước khác) là một “hệ quả kép” của Vietnam War, là một tài sản tiềm năng làm cầu nối cho quan hệ hợp tác Mỹ-Việt. Bên cạnh đó, tính đến năm 2015 đã có khoảng 16.500 sinh viên Việt Nam sang Mỹ du học (đông nhất trong số các nước Đông Nam Á).  Dự án Đại học Fullbright (đã được ký kết) là một ví dụ khác về tiềm năng hợp tác xây dựng “sức mạnh mềm”, để gắn kết hai dân tộc.

Liên hệ thực tiễn

Năm 1990-1991, Chủ nghĩa Cộng sản đã sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, cùng với bức tường Berlin, chủ yếu vì những nguyên nhân nội tại của hệ thống. Nhưng cũng không thể phủ nhận vai trò lịch sử của Gorbachev như một tác nhân đã thúc đẩy quá trình sụp đổ đó, như một “hệ quả không định trước”. Ngày nay, tại Trung Quốc, Tập Cận Bình đang cố gắng làm ngược lại với Gorbachev, nhằm duy trì CNCS, bằng “Giấc mộng trung Hoa” (China Dream) và “Đả hổ Diệt ruồi” để thanh trừng các phe phái đối lập bằng lá cờ chống tham nhũng. Có lẽ Tập Cận Bình “đâm lao phải theo lao”. Nhưng càng cố làm ngược lại, thì Tập Cận Bình càng đẩy nhanh quá trình sụp đổ không thể tránh khỏi, mà kết cục của nó không khác những gì Gorbachev đã làm. Đó là một nghịch lý, như một “hệ quả không định trước”.

Nói cách khác, “màn chót của chế độ cộng sản Trung Quốc đã bắt đầu, và các biện pháp mạnh tay của Tập Cận Bình chỉ đưa đất nước đến đến gần hơn sự đổ vỡ” (David Shambaugh, “the Coming China Crackup”, Wall Street Journal, March 6, 2015:).  Kết luận của David Shambaugh trùng hợp với nhận xét của Paul Krugman (và nhiều học giả khác) là Trung Quốc đã “đến điểm giới hạn” (Paul Krugman, “Hitting China’s Wall”, New York Times, July 18, 2013).  Tại sao tỷ Phú Lý Gia Thành phải “bỏ chạy” khỏi Trung Quốc?  Tại sao 64% người giàu Trung Quốc (có tài sản trên 1,6 triệu USD) đã hoặc đang di cư khỏi Trung Quốc? (Elizabeth Economy at Council on Foreign Relations). Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hay CNXH mang màu sắc Trung Quốc, hay “Giấc mộng Trung Hoa” cũng không ngăn được người Trung Quốc đang “bỏ phiếu bằng chân” hàng loạt (en masse). Đó là “gót chân Asin” của gã khổng lồ Trung Quốc.

Để đối phó với những mâu thuẫn nội tại, nhằm duy trì nguyên trạng (bên trong), Tập Cận Bình gây căng thẳng để thay đổi nguyên trạng (bên ngoài). Với Nhật thì Trung Quốc tranh chấp đảo Điếu Ngư (Senkaku), với Việt Nam và ASEAN thì tranh chấp Trường Sa và Hoàng Sa, để kiểm soát Biển Đông. Trung Quốc muốn khuấy động tinh thần dân tộc cực đoan của người Trung Quốc, bành trướng ra ngoài để đánh lạc hướng sức ép bên trong. So với các hướng bành trướng khác, hướng Biển Đông là dễ thôn tính nhất. Trung quốc đã âm mưu chiếm đoạt Biển Đông từ lâu, nhưng nay mới có cơ hội. Tháng 5/2014, Trung Quốc cho rằng cơ hội đã đến nên quyết định đưa dàn khoan HD981 vào vùng biển tranh chấp với Việt Nam, gây ra khủng hoảng quan hệ Trung-Việt, tạo ra một bước ngoặt làm thay đổi cuộc chơi (game changer).

Sự kiện dàn khoan HD981, cũng như việc Trung Quốc ráo riết san lấp đảo và xây dựng hạ tầng quân sự (sân bay và cảng) trên các đảo nhân tạo, đã làm cho phái thân Trung Quốc ở Việt Nam bị mất uy tín và suy yếu trong cuộc khủng hoảng lãnh đạo, đã xô đẩy Việt Nam xích lại gần Mỹ. Mỹ buộc phải xoay trục, ngày càng cứng rắn hơn trong việc tuần tra Biển Đông để đảm bảo tự do hàng hải (FONOP) và tăng cường hợp tác quân sự với Việt Nam như một đối tác chiến lược (bỏ dần lệnh cấm bán vũ khí sát thương). Đó cũng là một “hệ quả không định trước”. Trung Quốc càng hung hăng, càng chơi xấu với Việt Nam, thì họ càng xô đẩy Việt Nam vào vòng tay người Mỹ. Nhưng trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam tuy xích lại gần Mỹ nhưng không dám quá gần, tuy tách xa Trung Quốc nhưng không dám quá xa. Việt nam tuy đang xoay trục thân Phương Tây hơn, nhưng không dám quá thân. Tóm lại, chừng nào cái bóng của Trung Quốc còn quá lớn, bàn tay của Trung Quốc còn quá dài, trong khi Mỹ vẫn tiếp tục “tiếng kèn ngập ngừng”, thì lãnh đạo Hà Nội vẫn lo sợ cả hai (bên ngoài), và lo sợ lẫn nhau (bên trong). Lo sợ là một căn bệnh tâm thần khó chữa.

Đáng lẽ Việt Nam phải mạnh lên để “Thoát Trung”, thì gần mười năm qua Viêt Nam đã “phát triển giật lùi”, xóa sổ gần hết những thành quả cải cách kinh tế trước đó. Tham nhũng tràn lan và quản trị vĩ mô yếu kém đã dẫn đến thua lỗ lớn và nợ công chồng chất. Những “quả đấm thép” (như Vinashin và Vinalines) đã tan chảy thành bùn, đẩy nền kinh tế vào vòng xoáy suy thoái và cái “bẫy thu nhập trung bình”. Kinh tế và chính trị lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc. Quá trình thay đổi thể chế và chuyển đổi cơ cấu diễn ra quá chậm, đến bây giờ vẫn còn giữ “định hướng XHCN”, lấy kinh tế quốc doanh làm chủ đạo, mặc dù các tập đoàn nhà nước đã trở thành thảm họa. Chẳng ai muốn thế, nhưng đó là hệ quả của một tầm nhìn sai. Nó vừa là lỗi của Chính phủ (đứng đầu là Thủ tướng), vừa là lỗi của hệ thống (do Đảng độc quyền lãnh đạo). Những gì đang diễn ra sẽ tiếp tục làm vô hiệu hóa mọi cố gắng cải cách (do tham nhũng và quản trị yếu kém), làm người dân càng bất mãn (do bị chiếm đất, bóp nghẹt dân chủ và nhân quyền), đẩy chế độ đến gần hơn sự đổ vỡ (crackup) chẳng khác gì Trung Quốc. Vậy “thoát Trung” thế nào?

Trong bối cảnh đó, chỉ có hai kịch bản. Kịch bản xấu nhất (worst case scenario) là trì hoãn cải cách thể chế, tiếp tục lệ thuộc vào Trung Quốc (cả kinh tế và chính trị), mất dần chủ quyền và lãnh hải, dẫn đến “Bắc thuộc Kiểu mới”. Kịch bản tốt nhất (best case scenario) là đẩy nhanh cải cách thể chế và dân chủ hóa, thoát khỏi định hướng XHCN (theo kinh tế thị trường), từng bước “Thoát trung” bằng cách xoay trục để hợp tác chiến lược với Mỹ và đồng minh (qua TPP). Giữa hai kịch bản trên là một vùng xám (grey area), nơi có thể xảy ra bất cứ điều gì, với “hệ quả không định trước” (hoặc tốt hơn hoặc xấu hơn). Trong vùng xám đó, nếu các phe nhóm (hay cá nhân) tranh giành quyền lực một cách cực đoan, bất chấp luật chơi (lawless), chỉ vì lợi ích cá nhân, không vì lợi ích quốc gia, thì họ chỉ phục vụ ý đồ của Trung Quốc.

Tranh giành quyền lực ở VN (cũng như ở Trung Quốc) là một trò chơi cực đoan và bạo liệt, vì họ không từ một thủ đoạn nào để triệt hạ lẫn nhau. Nhà thơ Nguyễn Duy nói, “phe nào thắng thì nhân dân đều thua”. Nếu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bị dồn vào tình huống xấu nhất, không phải chỉ mất cơ hội làm Tổng Bí Thư mà còn có thể mất tất cả, chẳng lẽ Nguyễn Tấn Dũng lại khoanh tay chịu chết, mà không có đòn cuối tại Đại Hội này (như tại Đại hội XI và Hội nghị TƯ 6), có thể đem lại một kết cục bất ngờ (không theo kịch bản), vượt ra khỏi tính toán của các bên, như một “hệ quả không định trước”. Đến giờ phút này, khi mọi thông tin về Đại hội XII vẫn bị bưng bít trong màn sương mù bí mật, thì mọi khả năng đều có thể (như lời đồn đoán).

Những yếu tố làm thay đổi cuộc chơi

Thứ nhất, ai kiểm soát được luật chơi (thủ tục) người đó có lợi thế quyết định cuộc chơi. Trong trường hợp này, Tổng Bí thư và Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã nắm quyền chủ động cuộc chơi và giành được thế thượng phong, làm cho đối phương bất ngờ (nếu chủ quan, mất cảnh giác). Luật chơi (thủ tục bầu cử) có ý nghĩa quyết định trong việc sắp xếp nhân sự (Bộ Chính trị, các vị trí chủ chốt (như “tứ trụ”), Ban Chấp hành Trung ương, Đại biểu dự Đại hội) có lợi cho phe cánh của mình (để giành phiếu). Nhưng thay đổi luật chơi quá mức lộ liễu (Quyết định 244-QĐ/TW ngày 9/6/2014) có thể vi phạm điều lệ Đảng (luật chơi cơ bản), gây phản ứng ngược lại. Quy định Tổng Bí Thư phải là người “Miền Bắc và có lý luận”, sẽ gây phản cảm và phản ứng, dẫn đến “hệ quả không định trước”. Thư của cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh có thể tác động đến thái độ của nhiều người tham gia cuộc chơi, trong trận chiến cuối cùng.

Thứ hai, ai nắm được quân đội và an ninh (nhất là Quân khu Thủ đô) người đó có lợi thế quyết định cuộc chơi (như “quyền lực cứng” có tác dụng răn đe trong trường hợp có bạo động). Việc Chủ tịch Quốc hội đột ngột sang thăm Trung Quốc trong bối cảnh chuẩn bị Đại hội, và khi Trung Quốc có những động thái mới như ra luật chống khủng bố (có thể điều quân can thiệp vào nước khác), tăng cường các chuyến bay vi phạm không phận VN, điều tàu và giàn khoan HD981 vào hải phận VN, là những biện pháp răn đe để tác động vào kết quả Đại hội. Nhưng các động thái này có thể tác động ngược lại đến thái độ của những người VN tham gia cuộc chơi (vẫn còn ý thức dân tộc), như một “hệ quả không định trước”.

Thứ ba, ai có nhiều tiền hơn và nắm được thế giới ngầm (underworld) người đó có lợi thế trong cuộc chiến  quyết liệt, để giành giật phiếu và thế thượng phong. Điều này đã từng xảy ra (không có gì lạ), vì tham lam và lo sợ luôn là huyệt yếu của con người trong các xã hội lạc hậu và độc tài.

Thứ tư, ai nắm được công cụ truyền thông, người đó có lợi thế lớn trong cuộc chiến giành phiếu hiện nay, có thể trực tiếp hay gián tiếp tác động đến thái độ những người tham gia (như “quyền lực mềm”). Nhưng vì báo chí “lề phải” dường như mất tác dụng trong trò chơi này, nên báo chí “lề trái” (social media và blogosphere) đã trở thành những kênh thông tin hiệu quả mà các phe phái thao túng trong cuộc chiến truyền thông quyết liệt hiện nay. Nhiều thông tin rò rỉ không thể kiểm chứng được vì các phe phái tung ra nhằm triệt hạ lẫn nhau, làm cho môi trường thông tin bị ô nhiễm. Những nhà báo (hay bloggers) thiếu bản lĩnh và sáng suốt có thể bị phân hóa, trở thành công cụ của các phe nhóm (như bồi bút). Sự phát triển của thế giới mạng và truyền thông kỹ thuật số cũng là một “hệ quả không định trước”.

Thứ năm, trong khi giới truyền thông bị phân hóa, thì giới trí thức đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền cũng bị phân hóa theo. Có lẽ người Việt Nam có truyền thống dễ bị phân hóa (?) Một số nhảy vào tham gia cuộc chơi, ủng hộ “ông này” chống “ông kia” vì nhiều lý do khác nhau (không nhất thiết vì ông này tôt, hay ông kia xấu). Một số khác thì đứng ngoài cuộc (như vô can), quan sát như xem đá bóng, chờ kết quả trận đấu. Người ta nói chính trị là bẩn thỉu (ở đâu cũng vậy), nhưng đứng ngoài hay tham gia thế nào là một chuyện không dễ, đòi hỏi một tầm nhìn. Người ta nói im lặng hay phản kháng đều là chính trị. “Ngay cả khi bạn không làm chính trị, thì chính trị sẽ đến với bạn” (Aung San Suu Kyi).

Thay cho lời kết 

Robert Merton đã liệt kê năm nguyên nhân chủ yếu thường dẫn đến “hệ quả không định trước”: (1) Do ngu dốt nên không dự báo được trước, không phân tích và phán đoán được tình thế; (2) Do sai sót khi phân tích vấn đề, dựa vào thói quen cũ nên không phù hợp với tình thế mới; (3) Chỉ nhìn thấy lợi ích trước mắt mà không nhìn thấy lợi ích lâu dài; (4) Những giá trị cơ bản có thể tác động làm thay đổi tình thế vào lúc cuối; (5) Do quá lo ngại về hậu quả, mà người ta hay vội vã tìm giải pháp trước khi vấn đề xảy ra, nên không có vấn đề lại trở thành vấn đề. (Tại sao điều 5200 quân bảo vệ Đại hội).

Con người dễ bị nhầm lẫn, và bệnh nhầm lẫn (hay lú lẫn) là một tai họa. Khi nhầm lẫn thì những người tài giỏi và ngu dốt cũng nguy hiểm như nhau. Hệ quả của ngộ nhận không phải chỉ do ngu dốt mà còn do chấp và ngã, do quá lo sợ, làm tầm mắt bị che khuất bởi điểm mù (blind spot). Những người cực đoan và bảo thủ thường hay nhầm lẫn, vì chấp và ngã của họ quá lớn và quá lâu. Vì luôn cho mình là đúng, nên họ thường không chịu lắng nghe, nên không nhìn thấy và không chịu thừa nhận những cái khác bên ngoài cái hộp tư duy kín mít của họ. Cực đoan và bảo thủ gây ách tắc cho đổi mới (bottleneck).

Có lẽ lúc này Việt Nam đang trong tình thế hiểm nghèo nhất (từ sau chiến tranh lạnh), đứng trước một “hiểm họa kép” (double danger) rất khó hóa giải. Đó là hệ quả của suy thoái kinh tế và thể chế (bên trong) đồng thời với đe dọa chủ quyền (bên ngoài). Nhưng dường như lãnh đạo Việt Nam vẫn đang lúng túng và nhầm lẫn trong việc tìm lối thoát. Muốn thoát hiểm, để trở thành một nền kinh tế “rồng bay” tại Đông Á, vấn đề không phải chỉ phụ thuộc vào lựa chọn lãnh đạo nào (ông X hay ông Y), chọn lối đi nào (TPP hay “Giấc mộng Trung Hoa), mà còn tùy thuộc vào hệ quả của cuộc chiến giành quyền lực đang diễn ra tại Hà Nội. Thay đổi lãnh đạo mà không thay đổi tầm nhìn thì vẫn là bi kịch.

21/1/2016

N.Q.D.

Nguồn: http://www.viet-studies.info/kinhte/NQuangDy_HauQuaKhongDinhTruoc.htm

 

CSVN xác nhận tin của ‘thế lực thù địch’ là ‘đúng’

CSVN xác nhận tin của ‘thế lực thù địch’ là ‘đúng’
Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Thông tin mà ông Vũ Trọng Kim, ủy viên Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN, vừa cung cấp cho báo giới, đã xác nhận tin đồn về nhân sự lãnh đạo Đảng CSVN nhiệm kỳ mới là… đúng.

Từ trái – ông Trần Đại Quang, ông Nguyễn Xuân Phúc, bà Nguyễn Thị Kim Ngân – ba nhân vật được chọn làm chủ tịch Nhà Nước, thủ tướng, chủ tịch Quốc Hội, sau Đại Hội 12. (Hình: Tuổi Trẻ)

Sáng 24 tháng 1, 2016, khi trò chuyện với báo giới về những nội dung xoay quanh chuyện lựa chọn nhân sự lãnh đạo Đảng CSVN cho nhiệm kỳ tới, ông Kim bảo rằng, tin đồn về chuyện Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng khóa 11 đã chọn bà Nguyễn Thị Kim Ngân (phó chủ tịch Quốc Hội) làm chủ tịch Quốc Hội, ông Trần Đại Quang (bộ trưởng Công An) làm chủ tịch Nhà Nước và ông Nguyễn Xuân Phúc (phó thủ tướng) làm thủ tướng là… đúng.

Ông Kim cũng xác nhận, ông Nguyễn Phú Trọng (tổng bí thư) là “trường hợp đặc biệt” đã được 75% thành viên Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN nhiệm kỳ trước chọn làm ứng viên tổng bí thư Đảng CSVN nhiệm kỳ mới.

Trước đó, các viên chức lãnh đạo Đảng CSVN liên tục cảnh báo cán bộ, đảng viên và dân chúng Việt Nam không nên tin vào những tin đồn về nhân sự bởi đó là “âm mưu thâm độc” của các “thế lực phản động, thù địch” nhằm phân hóa nội bộ,…

Tuy Đảng CSVN là “tổ chức chính trị duy nhất lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối” tại Việt Nam nhưng tổ chức chính trị này có rất nhiều băng nhóm. Mỗi lần Đảng CSVN tổ chức Đại hội Đảng để lựa chọn lãnh đạo, những băng nhóm này lại tìm đủ mọi cách để triệt hạ đối thủ nhằm đoạt vai trò chi phối.

Trước Đại hội Đảng CSVN lần này, các băng nhóm trong Đảng CSVN đã khai thác tối đa Internet để phát tán đủ loại thông tin nhằm bôi nhọ nhau với sự quyết liệt chưa từng thấy. Thông tin liên quan đến các cá nhân đang đảm nhận vai trò lãnh đạo Đảng, Quốc Hội, Nhà Nước, Chính Phủ,… phong phú đến mức làm người ta kinh ngạc vì sự bẩn thỉu của cả hai phía (chống và bảo vệ) và mâu thuẫn tới mức khó phân biệt thật hư.

Giờ chót, để tăng tính khả tín, việc bạch hóa những thông tin nhằm triệt hạ đối thủ đã chuyển từ nặc danh sang có đầy đủ họ tên, địa chỉ của người viết, khiến tình hình chính trị tại Việt Nam càng lúc càng hỗn loạn. Tổng thanh tra Chính Phủ Việt Nam, phải tuyên bố, sẽ “xử lý nghiêm khắc” những người “tố cáo sai sự thật để bôi nhọ lãnh đạo.”

Dường như điểm tích cực nhất của cuộc chiến giành quyền lực giữa các băng nhóm trong Đảng CSVN là những thông tin vừa kể khiến dân chúng thêm chán ngán và căm giận “tổ chức chính trị duy nhất” vẫn tìm đủ mọi cách “lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối” tại Việt Nam.

Dù xác định là tổ chức chính trị “của dân, do dân và vì dân” nhưng chưa bao giờ dân chúng Việt Nam được biết giới lãnh đạo Đảng CSVN lựa chọn nhân sự như thế nào và tại sao lại là cá nhân này mà không phải là cá nhân kia.

Cho tới ngày Đại Hội Đảng CSVN lần thứ 12 chính thức khai mạc, tổng bí thư Đảng CSVN chỉ đề cập đến “trường hợp đặc biệt là ủy viên Bộ Chính Trị khóa 11 quá tuổi” nhưng được Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN khóa 11 “chọn tái cử để đảm nhiệm vai trò lãnh đạo chủ chốt” trong khóa 12 nhưng vẫn không công bố đó là ai.

Giới lãnh đạo Đảng CSVN liên tục khẳng định việc lựa chọn nhân sự lãnh đạo là “hết sức dân chủ” nhưng trước khi hết nhiệm kỳ, Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN khóa trước đã chọn sẵn cả “tổng bí thư” lẫn những nhân vật sẽ đảm nhiệm các vai trò: Chủ tịch Quốc Hội, chủ tịch Nhà Nước, thủ tướng kèm quy chế, nếu không được Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN nhiệm kỳ trước giới thiệu tái cử thì các ủy viên Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN nhiệm kỳ trước sẽ không được ứng cử, đề cử hoặc nhận đề cử!

Hôm 21 tháng 1, 2016 vừa qua, 1,510 đảng viên đại diện cho 4.5 triệu đảng viên CSVN đã họp phiên trù bị, chuẩn bị cho đại hội chính thức sẽ diễn ra trong tám ngày, từ 21 đến 28 tháng 1, 2016. Trong phiên họp trù bị, các đại biểu tham dự Đại Hội 12 của Đảng CSVN đã bỏ phiếu thông qua “quy chế bầu cử” có nội dung như vừa kể. Những nhân vật nào được chọn vào các vị trí chủ chốt đã được loan báo chính thức song chuyện dường như chưa rồi.

Song song với việc ông Kim loan báo Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN nhiệm kỳ trước đã chọn tổng bí thư, chủ tịch Quốc Hội, chủ tịch Nhà Nước, thủ tướng, một viên tướng mang lon thượng tướng, khẳng định, tuy ông Nguyễn Tấn Dũng (thủ tướng đương nhiệm – người vẫn được coi là có tham vọng trở thành tổng bí thư kiêm chủ tịch Nhà Nước và được xem là đối thủ chính trị của ông Nguyễn Phú Trọng) được Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN khóa trước “cho rút” (phải nghỉ hưu).

Nhưng nếu có đại biểu dự Đại Hội lần thứ 12 đề cử thì có “xin rút” nữa hay không là do chính ông Dũng quyết định. Nếu ông Dũng vẫn “xin rút” thì các đại biểu sẽ “bỏ phiếu hoặc biểu quyết để cho hay không.” Trong trường hợp có hơn 50% đại biểu “không cho rút” thì ông Dũng “không được rút.”

Nói cách khác, cuộc chiến giành quyền lực trong Đảng CSVN vẫn còn gay cấn đến giờ chót. Với Đảng CSVN, nói vậy – tưởng vậy nhưng không phải vậy là… bình thường. (G.Đ)

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ‘xin rút’, ông Trọng ‘ở lại’

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ‘xin rút’, ông Trọng ‘ở lại’

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Đại hội đảng 12 hôm 21/1.

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Đại hội đảng 12 hôm 21/1.

24.01.2016

Một quan chức trong nước xác nhận như vậy hôm nay, 23/1, liên quan tới cuộc đua vào chức Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.

“Trung ương khoá 11 giới thiệu bốn người ở lại, cùng với đồng chí Nguyễn Phú Trọng là năm. Nhưng cả bốn người, trong đó có đồng chí Nguyễn Tấn Dũng đều xin rút”, Thượng tướng Võ Tiến Trung, Ủy viên trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Quốc phòng, trả lời báo chí trong nước bên hành lang Đại hội XII.

Ông Trung nói rằng ông Trọng là “trường hợp đặc biệt” vì “lớn tuổi nhưng ở lại để ứng cử vào chức Tổng Bí thư khóa XII”.

Trả lời câu hỏi, “bốn người xin rút đã được Trung ương cho rút, nhưng trong Đại hội có đại biểu ngoài Trung ương đề cử họ thì sao”, Thượng tướng Võ Tiến Trung nói rằng khi ấy, “việc xin rút hay không do đồng chí đó quyết định”.

“Nếu họ vẫn xin rút thì Đại hội sẽ thực hiện quyền cao nhất, là cho đại biểu bỏ phiếu hoặc biểu quyết để cho rút hay không rút. Nếu Đại hội bỏ phiếu quá bán, không cho rút thì đồng chí đó không được rút”, ông Trung nói.

Thông tin được quan chức quốc phòng Việt Nam đưa ra trong bối cảnh có nhiều đồn đoán về người sẽ lên lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam sắp tới.

Đương kim Nguyễn Tấn Dũng chiếm được nhiều cảm tình của các cư dân mạng hơn so với ông Nguyễn Phú Trọng.

Trong một cuộc thăm dò ý kiến của độc giả trên trang web cũng như mạng xã hội của VOA tiếng Việt, ông Dũng giành được đa số đề cử.

Trong một cuộc thăm dò ý kiến kể từ ngày 18/1, trả lời câu hỏi, “ai sẽ là Tân tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam?” trên trang voatiengviet.com, ông Dũng vẫn duy trì một khoản cách khá xa với ông Trọng với hơn 65% trong số hơn 6 nghìn người trả lời cho biết muốn chọn ông làm người lãnh đạo đảng.

Phát biểu tham luận tại Đại hội Đảng XII sáng 23/1, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Đặng Ngọc Tùng nói rằng Việt Nam “đang đứng trước thử thách rất to lớn là phải bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền biển đảo quốc gia trong điều kiện Trung Quốc không từ bỏ âm mưu độc chiếm Biển Đông”.

Ông sau đó lên tiếng cho rằng “nhân dân cần lãnh đạo khí phách” đồng thời “bày tỏ sự kính trọng đến Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vì kịp thời lên tiếng khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”.

Khi được hỏi lý do vì sao mà nhiều người Việt Nam lại đặt lòng tin vào ông Dũng, tiến sĩ Lê Hồng Hiệp, nghiên cứu viên tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS) tại Singapore, nhận định:

“Về mặt chính sách đối nội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhìn chung được đánh giá là, mặc dù có những sai lầm và sự cố trong việc điều hành nền kinh tế, đặc biệt là quản lý các doanh nghiệp nhà nước, nhiều người nhìn ông là con người dám hành động, và sẵn sàng cải cách nhiều hơn so với một số các nhà lãnh đạo khác, bảo thủ hơn. Tất nhiên ông có những sai lầm, nhưng một phần bắt nguồn từ việc ông dám hành động, dám đưa ra các quyết định để mà thúc đẩy Việt Nam đi lên. Cái thứ hai, về mặt đối ngoại, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dường như có những phát biểu, những hành động thể hiện cái tinh thần dân tộc, chủ nghĩa dân tộc và đặc biệt là có sự thẳng thắn phê phán Trung Quốc trong một số trường hợp. Và yếu tố thứ ba, tôi nghĩ rằng nếu như xét tổng thể trong dàn lãnh đạo hiện tại, thì sự ủng hộ của người dân đối với thủ tướng Dũng không phải là sự lựa chọn hoàn hảo. Tuy nhiên, nếu mà so với các lựa chọn khác thì có thể họ nhận thấy vẫn khả dĩ hơn trong bối cảnh hiện nay.”

Đại hội đảng 12 diễn ra từ ngày 20 cho tới ngày 28/1, với sự tham gia của hơn một nghìn đại biểu.

Trung Quốc dùng Biển Đông để tác động lên Đại hội Đảng?

Trung Quốc dùng Biển Đông để tác động lên Đại hội Đảng?

Thanh Phương

RFI

media

Giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc trên Biển Đông. Ảnh tư liệu.Petrotimes

Trang mạng The Diplomat ngày 23/01/2016, đã đăng một bài viết nêu lên khả năng là Trung Quốc biểu dương lực lượng ở Biển Đông để tác động lên Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12, vào lúc mà cuộc đấu đá giành chức tổng bí thư Đảng giữa hai ông Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng chưa thật sự ngã ngũ.

Hôm thứ ba 19/01/2016, Việt Nam đã tố cáo Trung Quốc lại đưa giàn khoan Hải Dương 981 đến hoạt động tại khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và đã yêu cầu Bắc Kinh rút ra khỏi vị trí này.

The Diplomat nhắc lại rằng vụ giàn khoan Hải Dương 981 được đưa đến khu vực Hoàng Sa vào năm 2014 đã từng gây ra nhiều cuộc biểu tình bạo động chống Trung Quốc ở Việt Nam.

Vào lúc đó, phản ứng cứng rắn của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và phản ứng nhẹ nhàng hơn của ông Nguyễn Phú Trọng đã phản ánh bất đồng trong nội bộ Đảng về cách đối phó với những hành động ngày càng mạnh mẽ của Bắc Kinh nhằm xác quyết chủ quyền của họ ở Biển Đông.

Vụ di chuyển giàn khoan Hải Dương 981 đến khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ xảy ra sau khi Trung Quốc đưa các máy bay dân dụng bay thử nghiệm đến đá Chữ Thập, một đảo nhân tạo mà họ xây dựng ở Trường Sa.

Hà Nội đã ra tuyên bố phản đối vụ bay thử nghiệm nói trên và sau đó tố cáo Trung Quốc đã thực hiện hàng chục chuyến bay vào vùng thông báo bay Thành phố Hồ Chí Minh mà không báo trước cho phía Việt Nam, trong đó có ba chuyến bay đến đá Chữ Thập, một hành động bị xem là gây nguy hại cho an toàn hàng không dân dụng khu vực.

Nhưng phía Trung Quốc đã bác bỏ cáo buộc đó, khẳng định họ đã thông báo trước cho phía Việt Nam biết về các chuyến bay đó và theo họ, vì là ngang qua lãnh thổ thuộc chủ quyền Trung Quốc, nên những chuyến bay này không cần tuân thủ các quy định của hàng không dân dụng quốc tế.

Cơn sóng gió ngoại giao Việt-Trung nổ ra vào đúng dịp Đại hội Đảng, với cuộc đấu đá giữa hai phe Trọng – Dũng ngày càng quyết liệt. Trái với dự đoán ban đầu, hội nghị trung ương lần thứ 14 đã quyết định sẽ đề nghị ông Nguyễn Phú Trọng tái cử chức tổng bí thư. Thông tin này cũng đã được một viên tướng Việt Nam xác nhận hôm nay.

Theo The Diplomat, một số nhà phân tích cho rằng chính Trung Quốc đã tác động lên Ban chấp hành Trung ương để họ ra quyết định gạt bỏ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Trang mạng này cũng nhắc lại chuyến đi của chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cùng một số uỷ viên trung ương đến Bắc Kinh ngày 23/12/2015 để gặp các lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc, trong đó có cả chủ tịch Tập Cận Bình.

Báo chí Nhà nước thì khẳng định chuyến đi này chỉ nhằm thắt chặt quan hệ song phương. Thế nhưng, các nhà phân tích độc lập cho rằng Bắc Kinh đã nhân chuyến đi của phái đoàn Nguyễn Sinh Hùng để bày tỏ quan ngại về khả năng ở Việt Nam sẽ có một chính phủ ngả theo Mỹ, do phe ông Dũng chiếm đa số.

Trang web nguyentandung.org vào lúc đó đã không ngần ngại đả kích thái độ này của Bắc Kinh, trong một bài viết tựa đề: ”Không để Trung Quốc can thiệp vào nội bộ Việt Nam sau cái bắt tay thân mật”.

Trước đó, trong một bài phát biểu gần như mang tính chất tranh cử, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã kêu gọi các lãnh đạo tỉnh thành chống mọi hành động và âm mưu nhằm can thiệp vào công việc nội bộ Việt Nam trước Đại hội Đảng. Ông Dũng cũng đã nhấn mạnh đến việc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

Trong một hành động có vẻ là nhằm đối lại với ông Dũng, ông Nguyễn Phú Trọng vào ngày 2/01 đã đi thăm nhiều đơn vị an ninh để yêu cầu bảo đảm “an ninh tuyệt đối” cho Đại hội Đảng.

Ba ngày sau đó, công an và quân đội Việt Nam đã mở cuộc thao dượt quy mô ở thủ đô Hà Nội, một dấu hiệu cho thấy là phe ông Trọng vẫn kiểm soát lực lượng vũ trang và mọi cuộc biểu tình chống Trung Quốc hoặc biểu tình khác nhân Đại hội Đảng sẽ bị trấn áp ngay lập tức.

Làm gì có… mà đợi với chờ!

Làm gì có… mà đợi với chờ!

Trần Hồng Tâm

Tác giả gửi tới Dân Luận

Khi tôi viết những dòng này thì Đại hội XII đã bắt đầu. Tôi lướt qua những trang báo quốc doanh và cả quốc lậu. Đâu đâu cũng thấy người đang trông đợi một đấng minh quân, một cuộc cải cách.

Tôi thở dài xót thương cho những người nhẹ dạ cả tin. Làm gì có minh quân trong cái Đảng này mà đợi. Làm gì có đổi mới hay cải cách mà chờ. Nhìn vào chiến dịch huy động 5500 quân nhân đặc biệt tinh nhuệ, trang bi hiện đại, tập luyện trong mọi tình huống, để bảo vệ Đại hội XII, bạn có suy nghĩ gì không?

Bao nhiêu người thắc mắc. Có ai phá phách gì đâu mà Đảng phải làm ghê rợn thế. Còn tôi nhìn thấy ở Đảng vẫn giữ nguyên não trạng của một kẻ gian. Bởi vì, mình luôn gian lận, nên cho rằng người khác cũng như mình, phải ra đòn phủ đầu. Một người bạn làm ngành Y bảo: Đảng mang đầy đủ mọi dấu hiệu của chứng tâm thần phân liệt thể hoang tưởng bị hại, luôn luôn cho rằng có người ta đang rình mò phá hoại mình.

Tuần báo Time của Mỹ, phát hành khoảng 3.3 triệu bản mỗi tuần, số ra đầu tuần này nhận định về Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam rằng chính trị của Đảng này là không có đất sống cho những người có cá tính, chớ đừng nói gì đến chuyện đột phá hay cải cách.

Người nước ngoài không hiểu Đảng Cộng sản Việt Nam bằng dân Việt, nhưng nhận xét của họ khá tinh vi. Có hằng hà những bằng chứng để chứng minh, nhưng sợ mất thì giờ của bạn, cho tôi nêu lên chỉ vài thí dụ.

Lê Duẩn chết tháng Bảy năm 1986. Cả nước reo vui. Có người sung sướng phải thốt lên “đất nước này giờ sống được rồi đây”. Cả Hà thành đổ ra đường, không phải vì thương xót anh Ba, mà vừa muốn thấy mặt bà Tư, bà Năm của anh Ba trẻ đẹp cỡ nào, vừa để mừng một con khủng long đã chết, một chướng ngại vật của lịch sử đã được tạo hóa gỡ bỏ.

Công cuộc “Đổi Mới” bắt đầu từ đó. Đại hội VI bầu ra Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Ông Linh ném ra vài khẩu hiệu: “Cởi trói”, “Nói và làm”, “Những việc cần làm ngay”, “Chống im lặng đáng sợ”. Giới trí thức Bắc Hà tung hô ông chẳng tiếc lời, ví ông như Đấng Cứu Thế.

Lê Duẩn phá tan xiềng xích Trung Hoa, chết chửa xong tang. Ông Linh lén lút qua Tầu làm đĩ đực. (Ấy chết, xin bạn đừng bảo tôi là tục tĩu. Cụm từ “những thằng đĩ đực” là của ông Linh gọi Lê Giản và Trần Văn Trà – Đèn Cù, Chương 21). Ông Linh đập đầu khấn vái với Giang Trạch Dân rằng Lê Duẩn chống Trung Quốc là sai. Ông hứa sửa sai. Rồi ông tâm sự: Ngay từ nhỏ ông đã thần tượng và học tập Mao, nay thề trung thành với Mao.

Tàu nắm được huyệt hiểm, mang quân chiếm đảo Gạc Ma vào tháng Ba 1988. Tàu bắn chết 64 lính hải quân Việt Nam trong khi phía Việt Nam không được phép nổ súng. Tàu chiếm không đảo Gạc Ma, không sứt cái móng tay.

Đấy cũng là một dạng của đổi mới. Nhưng đổi mới theo kiểu của ông Linh. Đánh đổi chủ quyền một hòn đảo và 64 nhân mạng để có đồng minh chống lại phe Lê Duẩn – Lê Đức Thọ đang đe dọa đến sự an toàn cho chiếc ghế của ông. Đó là chưa kể tới cuộc mật đàm ở Thành Đồ vào tháng 9/1990.

Ông Linh là Tổng bí thư của đổi mới nhưng tại sao lại loại bỏ tất cả những nhân vật có tư tưởng đổi mới: Trần Xuân Bách, Nguyễn Cơ Thạch, Võ Văn Kiệt ra khỏi ban lãnh đạo. Rồi ông chọn Đỗ Mười, một người vừa bảo thủ vừa có tiền sử tâm thần, văn hóa thấp, để làm Thủ tướng và Tổng Bí thư kế nhiệm.

Hôm nay, nhiều người lại đặt hy vọng vào 200 Ủy viên Trung ương, hay 1510 Đại biểu dự Đại hội có thể xoay chuyển được tình hình. Thưa bạn! Đó chỉ là bầy cừu không hơn không kém. Họ gặm cỏ tuyên huấn, uống nước tuyên giáo, và được chăn dắt bởi tuyên truyền, được nhốt trong cái chuồng Mác – Lê – Mao. Cộng thêm là cái ghế quyền lực và xấp đô-la đã làm cho họ hôn mê sâu, không còn tri giác, mất khả năng tư duy.

Xin bạn đừng bảo tôi là ngoa ngôn. Nếu họ biết tư duy sao họ lại bầu ra những nhân vật Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, và Nguyễn Phú Trọng làm Tổng bí thư trong suốt năm kỳ đại hội, trải dài trong ba thập kỷ. Bạn hãy chỉ ra những con người trên ai là người đổi mới. Hẳn bạn có câu trả lời.

Bữa qua, tờ New York Time có trích đăng ý kiến của Luật sư Nhân quyền nổi tiếng Lê Công Định, đang bị quản thúc tại gia, về Đại hội XII. Anh Định bảo: “hoàn toàn thờ ơ” (totally indifferent) với sự kiện này. Anh coi đó chỉ là trò thay nhau giữ ghế và giữ vững nồi cơm.

Một blogger đưa ra một nhận xét thú vị. Đại hội nào Đảng cũng bảo là một “bước ngoặt quan trọng”, “bước ngoặt lịch sử” … Cứ ngoặt mãi, ngoặt mãi thì Đảng đưa dân tộc đi đâu?

Trần Đĩnh, tác giả của cuốn Đèn Cù viết “Hy vọng không trọng lượng nhưng đã đè sập bao đời người”.

Bạn còn trông mong gì ở cái Đảng này mà đợi mà chờ, mà hy vọng. Hơn năm thế hệ người Việt Nam đã bị Đảng đè sập. Thế hệ của con bạn cũng bị đè sập nốt sao?

Thôi về đi. Không có đổi mới đâu mà đợi. Chẳng có minh chủ nào mà chờ. Đã 72 tuổi, tài năng lơ mơ, ăn nói lờ mờ, muốn ở lại thêm khóa nữa, nhưng miệng lại rao giảng không “tham vọng quyền lực”… Bạn có dám gởi gắm niềm tin vào con người đó không?

January 22, 2016
Trần Hồng Tâm