Tết và những mảnh đời TPB/VNCH bất hạnh

Tết và những mảnh đời TPB/VNCH bất hạnh

Cánh Dù lộng gió (Danlambao)  Lại một cái tết sắp sửa đến. Nàng Xuân hớn hở khoe sắc giữa muôn vàn mai đào. Mọi nhà mọi người vui tươi tấp nập đi sắm đồ tết, kẻ vác, người xách, nhà nào cũng đầy ắp trái cây bánh mức, thịt thà. Năm nay cũng như mọi năm, một nhóm anh em Thương Phế Binh, kẻ cụt tay, cụt chân, người đui mù lại hẹn nhau ăn tết dưới gầm cầu.

Cái nóng bức của Sài Gòn cùng với bụi bặm quyện vào thân xác của những con người này tạo thành mùi khó chịu cho những ai bất chợt đi ngang qua.

Tắm ư? Thỉnh thoảng dăm ba hôm ghé công viên nịnh hót mấy công nhân chăm sóc cây cảnh, tắm ké được một chút, thay bộ đồ rách, nhờ nước tưới cây giặt hối hả bộ quần áo cho kịp khô bỏ vào cái ba lô cũ rồi lại lang thang trên đường.

Năm nay nhờ Dòng Chúa Cứu Thế tổ chức Tri Ân, các anh em TPB bất ngờ gặp nhau hẹn hò nên quân số tăng lên nhiều hơn. Những nụ cười méo mó hằn thêm những nếp nhăn đã thể hiện phần nào những gian truân, khổ sở, đau đớn vì những vết thương tái phát khi tuổi già sức yếu, nhất là ăn uống khem khổ, thất thường, bữa no, bữa đói, mất sức đề kháng, bệnh dễ dàng hành trở lại.

Họ gặp lại nhau mừng mừng tủi tủi, kể nhau nghe những câu chuyện trên đường đi kiếm miếng ăn. Có người lê lết đi ăn xin, ai cho gì ăn nấy, người nào thương hại làm phước bố thí thì cám ơn, rồi lủi thủi đi xin chỗ khác, sáng nhịn đói, trưa đến nếu có gì bỏ bụng thì tìm đến những bóng mát, ghế đá trong công viên nuốt vội rồi ngả lưng ra ghế đánh một giấc cho bõ mấy tiếng nội bộ, tay chân rã rời. Có người đi bán vé số ngày nào hên hết sớm kiếm được 100$, trừ tiền mướn ghế bố và ăn tối cũng để dành được 50$ phòng khi ốm đau bất tử có một chút để mua thuốc uống. Có lúc xui xèo bị những tên bất lương, mất hết tính người cướp giật nguyên xấp vé số thì coi như ngày hôm đó làm lễ treo niêu. Đây là những người độc hành lang thang kiếm ăn một mình.

Anh em đi chung vài ba người thì sao? Họ cũng chia nhau ra khắp các nẻo đường để kiếm ăn, một mù, một què một cụt. Anh cụt tay thì dẫn anh cụt chân và mù, anh cụt chân thì đờn guitar kèm cái micro loa có khuếch đại, lang thang khắp các bên xe liên tỉnh, hay những chỗ chợ búa, quán xá đông người. Ngày nào nhiều tiền thì mua cơm bụi ngồi ăn với nhau, ngày nào ít tiền thì chia nhau những mẩu bánh mì bán ế giá rẻ, khát thì xin nước của những nhà dọc đường đựng trong cái can 4 lít, không cần nấu sôi, chỉ cần có nước là ực cho đỡ khát. May mắn lắm khi đi ngang qua những chỗ để nước từ thiện cho người lỡ đường mới có nước đá và nước sạch.

Nhóm bán vé số cũng không khấm khá hơn, một ngày đi cả 20 cây số, các nẻo đường phố xá đông người, gặp ai cũng mời chào, trưa đến nếu gần thì kéo nhau vào ăn bữa cơm từ thiện 2000$/1 phần, còn xa thì kẻ mua cơm, người mua chút thức ăn, xúm lại chỗ gốc cây hay bóng mát nào đó ăn cho qua bữa rồi nằm ngả lưng nghỉ chân.

Nhớ lại một lần gặp 2 anh em dìu nhau trên một bến phà, có vẻ mệt mỏi, bước đi từng bước nặng nhọc, tôi đi ngang qua thấy vậy hỏi, 2 anh nhìn tôi ái ngại nói từ sáng tới giờ chưa có gì bỏ bụng mà cứ phải người ca, kẻ đờn đi hết chỗ này đến chỗ khác, nghe vậy tôi thấy xót xa, chạy đi mua cho 2 anh 2 ổ bánh mì thịt và 2 ly nước mía, ăn uống xong tôi thấy 2 anh tỉnh táo hơn nhưng 2 anh vẫn chưa chịu nghỉ, lúc đó là 6g chiều rồi. Tôi đề nghị anh mù cho mượn cái kiếng đen đeo vào nói 2 anh dẫn tôi theo, rồi tự tôi đờn và hát, vì tôi cũng biết sơ về Classic và Flamenco, lại thuộc mấy bài ruột, hơn nữa Trời cũng phú cho tôi một giọng stereo nhưng lại ấm nên sau khi hát xong bản “Cho Người Vào Cuộc Chiến” anh mù ngả nón ra nhận tiền, thì mọi người có vẻ cảm động, ai cũng móc túi ra cho, kẻ ít người nhiều, 2 anh khẽ nói chuyện này với nhau và cám ơn tôi, xong xuôi tôi giã từ ngoắc xe về nhà bạn chờ sáng mua vé về Sài Gòn.

Một kỷ niệm để thấy rằng những người TPB/VNCH là những người đáng thương và đáng phục, họ không hề oán trách cuộc đời, tuy đời ngược đãi họ, họ chỉ biết cắn răng vượt qua mọi đau khổ tủi nhục để kiếm sống qua ngày với một nghị lực sắt thép mà người thường chưa chắc đã có được trong mấy chục năm bị đọa đày…
05/02/2016

Cánh Dù lộng gió

danlambaovn.blogspot.com

HÃY ỨNG CỬ ĐỂ BIẾN QUYỀN HÃO DẦN DẦN THÀNH QUYỀN THỰC VÀ GIÚP ÔNG TRỌNG CHỨNG MINH “DÂN CHỦ ĐẾN THẾ LÀ CÙNG”

HÃY ỨNG CỬ ĐỂ BIẾN QUYỀN HÃO DẦN DẦN THÀNH QUYỀN THỰC VÀ GIÚP ÔNG TRỌNG CHỨNG MINH “DÂN CHỦ ĐẾN THẾ LÀ CÙNG”

FB Nguyễn Quang A

5-2-2016

Bầu cử Quốc hội khóa 14 sẽ diễn ra vào ngày 22-5-2016. Nghe nói ĐCSVN đang chuẩn bị đề cử 896 ứng viên (trong đó có 80 ủy viên Ban chấp hành Trung ương của ĐCSVN) cho cuộc bầu cử này. Việc một đảng chính trị chuẩn bị đề cử các đảng viên và cảm tình viên của mình ra tranh cử Quốc hội là việc bình trong một xã hội dân chủ, tuy nhiên trong xã hội “dân chủ đến thế là cùng” của chúng ta việc này không bình thường cho lắm.

Không có các đảng chính trị khác cạnh tranh với ĐCSVN, nên việc đề cử là độc quyền của ĐCSVN và các tổ chức nối dài của ĐCSVN. Cho đến nay đã có rất ít người tự ứng cử. Ngoài vài người được ĐCSVN ngầm chọn để ra tự ứng cử, hầu hết những người tự ứng cử bị các thủ tục “dân chủ đến thế là cùng” loại bỏ một cách không thương tiếc, bất chấp quyền ứng cử của công dân đủ 21 tuổi vào Quốc hội đã được Điều 27 của Hiến pháp long trọng đảm bảo.

1- HÃY BIẾN QUYỀN HÃO THÀNH QUYỀN THỰC MỘT CÁCH TỪ TỪ

Quyền ứng cử cơ bản vẫn chỉ là quyền hão. Phải sửa luật bầu cử để không cho phép bất cứ ai tước quyền ứng cử của người dân, tuy nhiên trong hơn một tháng, từ nay đến 13-3-2016 (70 ngày trước ngày bầu cử, ngày nộp đơn ứng cử cuối cùng), người dân vẫn có thể làm rất nhiều việc để giúp biến quyền hão dần dần thành quyền thực.

Tôi nhấn mạnh sự từ từ, vì rất có thể những người tự ứng cử vẫn bị các thủ tục “hiệp thương” hiện hành loại bỏ khỏi danh sách ứng viên cuối cùng, thậm chí có thể bị “đấu tố” tại các Hội nghị cử tri theo Điều 45 của Luật Bầu cử số 85/2015/QH13 hoặc bị báo của ĐCSVN bới móc đời tư,… Nhiều người có thể nghĩ việc “tự ứng cử” sẽ thất bại, “chẳng xoay chuyển được gì,”… Nhưng việc ứng cử sẽ làm cho dân chúng thấy sự “dân chủ đến thế là cùng” ở nước ta ra sao, gây áp lực để có những sự thay đổi có ý nghĩa trong tương lai, giúp nâng cao dân trí và quan trí. Tôi nghĩ những người đủ tiêu chuẩn hãy ra ứng cử Quốc hội đợt này. Điều 3 của Luật Bầu cử quy định người ứng cử đại biểu Quốc hội “phải đáp ứng các tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội quy định tại Luật tổ chức Quốc hội” được quy định tại Điều 22 Luật Tổ chức Quốc hội (Số: 57/2014/QH13) như sau:

“1. Trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

  1. Có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
  2. Có trình độ văn hóa, chuyên môn, có đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội.
  3. Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, được Nhân dân tín nhiệm.
  4. Có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội.”

Bất kỳ ai cảm thấy mình thỏa mãn 5 tiêu chuẩn trên hãy mạnh dạn làm thủ tục ứng cử vào Quốc hội. Nếu có 896 người tự ứng cử như vậy để cạnh tranh với những người do ĐSCVN đề cử, thì đó là một việc rất hợp pháp, rất hay.

Việc ứng cử như vậy sẽ dần dần biến quyền ứng cử hão thành quyền thực. Hãy chuẩn bị và làm thủ tục ứng cử ngay, đừng chần chừ!

  1. HÃY GIÚP ÔNG NGUYỄN PHÚ TRỌNG CHỨNG MINH “DÂN CHỦ ĐẾN THẾ LÀ CÙNG”

Trên tinh thần xây dựng và tôn trọng các quy định pháp luật không vi hiến, chúng ta có thể làm gì trong việc ứng cử và chuẩn bị cho bầu cử Quốc hội để giúp ông Trọng chứng minh “dân chủ đến thế là cùng”? Tất cả mọi người hãy tận dụng mọi quyền hợp pháp của mình để tham gia ứng cử, động viên những người ứng cử, để tham gia, giám sát các cuộc hiệp thương, các cuộc hội nghị cử tri, các cuộc bầu cử và kiểm phiếu. Dưới đây là một vài gợi ý cho riêng giai đoạn ứng cử.

  1. NHỮNG NGƯỜI ỨNG CỬ

2.1 Hãy tự ứng cử và vận động những người có đủ tiêu chuẩn ra ứng cử;

2.2 Hãy giúp việc thực hiện các quy định hiện hành (dẫu còn rất thiếu sót) một cách công khai, minh bạch và đúng quy định;

2.3 Những người tự ứng cử (không phải do ĐCSVN đề cử) hãy tập hợp thành Nhóm ứng viên ngay từ bây giờ cho đến 13-3-2016 để giúp nhau trong quá trình ứng cử; cho đến 22-5-2016 trong quá trình chuẩn bị bầu cử và giám sát quá trình hiệp thương, quá trình bầu cử và giám sát kiểm phiếu; cho đến ngày Quốc hội mới họp trong việc khiếu nại liên quan đến ứng cử, bầu cử.

  1. NGƯỜI DÂN

2.4 Hãy ủng hộ những người ứng cử trong quá trình hiệp thương và nhất là Hội nghị cử tri theo Điều 45 của Luật Bầu cử Quốc hội (đây là hai khâu rất quan trọng cần nhân dân, các ứng viên và báo giới giám sát vì đây là quá trình then chốt mà sự lạm dụng để tước quyền của những người tự ứng cử, thậm chí đấu tố họ, rất hay diễn ra) bằng cách: a) ký tên ủng ộ người ứng cử mà mình ưa thích như gợi ý ở dưới (đây là cách hoàn toàn hợp pháp để chống lại sự lạm dụng Hội nghị cử tri và quá trình hiệp thương); b) trực tiếp tham gia, giám sát kể cả ghi âm, ghi hình các hội nghị cử tri đó để tăng cường tính minh bạch và dân chủ; c) thực hiện đúng quyền cử tri của mình (phát hiện và tố cáo sự gian lận, sự vi phạm quy định ứng cử, bầu cử và kiểm phiếu,…); d) yêu cầu xóa bỏ vai trò của Mặt trận trong việc chọn ứng viên, xóa bỏ sự hiệp thương và hội nghị cử tri.

  1. CÁC LUẬT SƯ

2.5 Hãy ứng cử và giúp những người ứng cử về các thủ tục pháp lý liên quan đến ứng cử, hiệp thương, bầu cử và giám sát kiểm phiếu.

  1. BÁO GIỚI

2.6 Hãy đưa tin công bằng, khách quan, không thiên vị về các ứng cử viên (không phân biệt người do ĐCSVN đề cử hay người tự ứng cử).

  1. AI NÊN TỰ ỨNG CỬ

2.7 Tất cả những người đủ 5 tiêu chuẩn ứng cử vào Quốc hội nên ứng cử, trước hết là những người trẻ, các luật sư, các nhà hoạt động, các trí thức (chỉ nêu vài gợi ý về những người nên ứng cử mà tôi biết: ở Hà Nội: Gs. Vs. Hoàng Xuân Phú, Gs. Nguyễn Đông Yên, Gs. Nguyễn Huệ Chi, Gs. Phạm Duy Hiển, Ts. Lê Đăng Doanh, nhà văn Phạm Toàn, nhà văn Vũ Ngọc Tiến, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, nhà văn Nguyễn Nguyên Bình, Ts. Phạm Gia Minh, Ls. Trần Vũ Hải, Ls. Hà Huy Sơn, Ls. Lê Quốc Quân và các luật sư khác, Ts. Nguyễn Xuân Diện, ông Nguyễn Tiến Dân, chị Đặng Bích Phượng, anh Nguyễn Chí Tuyến, anh Lã Việt Dũng, chị Phạm Đoan Trang, anh Nguyễn Anh Tuấn, anh Trịnh Anh Tuấn, nghệ sĩ Kim Chi, anh J.B Nguyễn Hữu Vinh, anh Nguyễn Tường Thụy,…; ở Đà Nẵng Gs. Chu Hảo, Gs. Nguyễn Thế Hùng, anh Nguyễn Anh Tuấn; ở Nha trang nhà báo Võ Văn Tạo, chị Nguyễn Ngọc Như Quỳnh,…; ở Phú Yên Ls. Võ An Đôn; ở thành phố HCM Gs. Nguyễn Đăng Hưng, Ts. PGs. Hoàng Dũng, Ts. Phạm Chí Dũng, nhà văn Phạm Đình Trọng, anh Phạm Lê Vương Các, Ts. Nguyễn Tuấn Huy, nhà báo Huy Đức, nhà thơ Bùi Quang Viễn, nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh, nhà hoạt động Hoàng Dũng …; ở Đà Lạt Ts, Nguyễn Văn Tụ (Hà Sĩ Phu), nhà nghiên cứu Mai Thái Lĩnh, nhà thơ Bùi Minh Quốc, nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự,…: ở Đak Lak chị Huỳnh Thục Vy,…; ở Vũng Tàu dịch giả Phạm Nguyên Trường, nhà thơ Hoàng Hưng…; vân vân; các bạn nên vận động những người khác nữa mà tôi chưa biết ra ứng cử)

Do những người tự ứng cử thường gặp khó khăn trong quá trình hiệp thương và tại hội nghị cử tri (họ dễ bị loại bỏ, thậm chí bị “đấu tố” một cách bất công) nên việc lấy chữ ký ủng hộ của cử tri trên cả nước là điều hoàn toàn hợp pháp và giúp giảm sự lạm dụng và đối xử bất công đối với họ. Mẫu thu thập chữ ký ủng hộ người ứng cử vào Quốc hội nên có các mục Chữ ký, Họ và tên, Nơi cư trú (Phường/Xã; Quận/huyện; Tỉnh/Thành phố).

Vận động những người khác ra ứng cử, thế tôi thì sao? Tôi kém ông Nguyễn Phú Trọng 2 tuổi và nghĩ mình thỏa mãn các tiêu chuẩn để ứng cử, nếu ông Nguyễn Phú Trọng được ĐCSVN đề cử thì tôi sẽ đăng ký ứng cử tại đúng khu vực ông được phân công. Nếu ông Nguyễn Phú Trọng không được ĐCSVN đề cử do tuổi tác, tôi cũng sẽ không ứng cử trừ khi có được trên 5.000 chữ ký ủng hộ từ nay đến 12-3-2016.

Đây là một trò chơi hoàn toàn hợp pháp giữa 2 bên: chúng ta (kể cả những người cộng sản muốn cải cách) và những người bảo thủ muốn tước quyền của chúng ta. Trong trò chơi này (tương tự như trò chơi tung đồng xu) nếu kết cục là NGỬA thì chúng ta THẮNG (khả năng chưa cao), còn nếu SẤP (khả năng cao hơn) thì họ sẽ THUA. Họ càng tìm cách cản trở, quấy nhiễu hay bắt bớ chúng ta vì việc làm thực sự hợp pháp và tôn trọng pháp luật hiện hành (dẫu không tốt) thì chúng ta không thể giúp ông Nguyễn Phú Trọng chứng minh “dân chủ đến thế là cùng” được trong việc ứng cử và đề cử lần này và như thế họ càng thua đậm.

Tôi sẽ bàn về việc giám sát, khiếu nại trong quá trình ứng cử, hiệp thương; về quá trình bầu cử; về quá trình kiểm phiếu trong các bài viết tiếp.

Trên đây chỉ là vài gợi ý, các bạn nên chủ động nêu những sáng kiến khác để làm một cách hợp pháp và trên tinh thần xây dựng một nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân.

Danh Hiệu & Nhãn Hiệu

Danh Hiệu & Nhãn Hiệu

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Thực sự, việc tôi được đặc cách phong tặng danh hiệu NSƯT từ trước giờ chưa có tiền lệ … Sự nhìn nhận của Đảng, Nhà nước và các cơ quan quản lý văn hoá cho thấy đã có sự cởi mở hơn trong việc xét danh hiệu.

Hoài Linh

Cuối năm, báo Lao Động hớn hở cho biết một tin vui:

“479 nghệ sĩ xúc động khi được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú… Chúc mừng các nghệ sĩ được nhận danh hiệu cao quý của Đảng, Nhà nước, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đánh giá cao đóng góp của đội ngũ những người có tài năng nghệ thuật, tâm huyết, được đồng nghiệp quý mến, công chúng tin yêu.”

Bên dưới bản tin (vui) tin thượng dẫn – buồn thay – chỉ có vỏn vẹn hai cái phản hồi, cả hai đều hơi ngán ngẩm:

pham van long – 10:41 AM – 11/01/2016

Phong tặng nghệ sĩ quá nhiều …,sẽ tiếp tục phong tặng… ,giống như phong tặng quá nhiều Tướng lỉnh…, phong tặng anh hùng ,huân chương lao động…,hàng loạt giáo sư tiến sĩ …có lẽ ra đường gặp các ông các bà hết , hiếm gặp dân đen bao nhiêu , nhưng XH vẫn xuống cấp ,kinh tế chậm phát triển ,đất nước luôn nguy cơ bị xăm lấn ,khoa học kỹ thuật thuộc loại kém của ĐNA

tranngochung – 05:43 PM – 10/01/2016

Không biết đến khi nào mới chấm dứt việc phong tặng các danh hiệu bắt chước nước ngoài đã quá lỗi thời này???

Hổng dám “bắt chước” đâu! Ban phát danh hiệu, huy hiệu, bằng khen, giấy khen, giấy chứng nhận, giấy ghi công, bằng tuyên dương, bằng tưởng thưởng, và đủ kiểu (đủ cỡ) huân chương, huy chương hay huy hiệu … – xưa nay – vẫn là “sở trường” của nước CSVN mà.

Ảnh: vuonraulochung

Chả riêng gì những nghệ sĩ trình diễn trên sân khấu văn nghệ, đám quan chức trên sân khấu chính trị cũng vẫn được chính phủ ban phát bằng khen hay danh hiệu đều đều – theo như lời than phiền của nhà báo Nguyễn Duy Xuân và nhà giáo Hà Văn Thịnh.

Nguyễn Duy Xuân: Một thực tế đang diễn ra ở các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước là hầu như các danh hiệu thi đua cao quí hoặc khen thưởng danh giá hàng năm đều “chia” cho lãnh đạo theo lệ đến hẹn lại lên, lần trước anh lần này tôi. Phải chăng trong bối cảnh hiện nay người lao động không còn có cơ hội để thể hiện mình ? Chả nhẽ chỉ có tầng lớp lãnh đạo mới là hạt nhân của phong trào thi đua yêu nước ? Khi người lao động đứng ngoài “cuộc chơi” thì liệu phong trào ấy còn có ý nghĩa, tác dụng gì ?

Hà Văn Thịnh: Đến cả cái danh hiệu thi đua cũng giành hết phần của dân …

Nói nào ngay thì quả là qúi vị quan chức có “giành” nhưng sao “hết” được mà lo, ông giáo? Cái gì chớ bánh vẽ thì ở nước ta có bao giờ mà thiếu. Dân có phần riêng của họ chớ. Phần này được chế biến theo công thức “đại táo” và phân phối theo phương thức … đại trà.

Ở đâu mà không có đám “nông dân giác ngộ” hay “công nhân tiên tiến.” Số còn lại nếu không là “trí thức yêu nước” thì cũng cũng là “chiến sĩ thi đua,” “tư sản tiến bộ,” hay “nghệ sĩ nhân dân,” hoặc “nhà giáo ưu tú” cả.

Ở bình diện tập thể, cùng với những gia đình thuộc diện chính sách, gia đình có công với cách mạng, gia đình thương binh, gia đình liệt sĩ … còn có vô số những gia đình mẫu mực và gia đình văn hóa nữa. Nhiều nơi còn nới rộng phạm vi gia đình ra tới đơn vị làng xã (văn hoá) luôn, cho nó tiện việc sổ sách.

Ảnh: vnexpress                                                        Ảnh:  nguoixudoai

Cuối năm 2015, báo Công An Nhân Dân tổng kết:

“Cả nước ta hiện nay có 22 triệu gia đình trong đó có 19 triệu gia đình đạt chuẩn ‘Gia đình văn hoá’, đạt tỉ lệ 85, 03 %. Theo số liệu này, chứng tỏ số lượng gia đình văn hoá của ta đã tăng 2% so với cùng kỳ năm ngoái… Thật hoang mang với sự tồn tại của ‘gần 19 triệu gia đình văn hoá’ trong một khí quyển văn hoá như bây giờ!”

Các anh “công an” cũng làm bộ than “hoang mang” cho nó có vẻ tình cảm (chút xíu) vậy thôi, chớ họ thuộc nằm lòng danh sách số gia đình không được ban phát danh hiệu, và bị dán nhãn hiệu là “gia đình phản động,” “gia đình có kẻ vượt biên, “gia đình có kẻ đi tù” … Và tất cả đều sẽ bị hành cho tới bến.

Tới lúc đó thì người dân mới hiểu thấm thía nỗi lo âu của những kẻ “bị đảng ruồng bỏ” (hay “trừng phạt”) đáng sợ ra sao:

“Khi danh sách cử tri được trương lên quanh khu bầu cử từ nhiều ngày trước đó, vợ chồng tôi nhìn nhau mà đọc thấy mối lo không thành lời: Trong những dòng chữ ghi tên họ cử tri chi chít như kiến bò kia có tên tôi không? Không có tên trong danh sách đi bầu thì không chỉ nhục nhã cho mình, cho vợ mà còn khốn nạn suốt đời mình, khốn nạn suốt đời con.

Vợ tôi đi thám thính, làm như có việc ra Ngã Sáu mua bán cái gì đó, ghé qua xem danh sách như những người vô công rỗi nghề và trở về nhà cố nén để khỏi reo lên: ‘Có tên bố nó. Em xem rồi. Bùi Ngọc Tấn. Mười. Điện Biên Phủ.’ Tôi như vừa qua được căn bệnh hiểm nghèo, thoát khỏi chứng ung thư di căn, dù vẫn còn lo có người nào đó gửi đơn lên trên phản đối.  Tôi lại được vào Nhân Dân rồi! Tôi lại đứng trong hàng ngũ những người được đảng lãnh đạo rồi! Không bị đảng ruồng bỏ trừng phạt nữa!

Tôi đem dán cái chứng chỉ dấu son Gia Đình Văn Hóa Mới, vốn liếng chính trị và tài sản lớn nhất của gia đình, ngay phía trên bàn tiếp khách của tôi và cũng là bàn học của các con tôi. Nơi đập vào mắt mọi người. Để ai đến nhà cũng thấy ngay, biết gia đình tôi đã lại được là một gia đình bình thường như mọi gia đình khác, hơn thế còn là một gia đình văn hóa mới. (Bùi Ngọc Tấn. Hậu Chuyện Kể Năm 2000. Tiếng Quê Hương: Virginia, 2015).

Đã có biết bao nhiêu người Việt vì bị dán cho một cái nhãn hiệu (địa chủ, phú nông, Nhân Văn, xét lại, tư sản …) mà bỏ mạng. Đôi khi, chỉ cần một cái nhãn rất lờ mờ   là (“có vấn đề”) cũng đủ để … tàn đời trong ngõ hẹp:

“Thảm cảnh đầu tiên mà tôi và gia đình phải chịu đó là cái đói… Vợ tôi đã nghĩ đến chuyện bán thuốc lá bên lề đường để kiếm sống, nhưng làm sao có được mớ vốn ban đầu và có chút tiền để bôi trơn móng vuốt làm khó của những tên công an hay cán bộ thuế, để chúng để yên cho chúng tôi khó khăn kiếm sống? … Tôi không thể ra đạp cyclo như một số đồng nghiệp trẻ đang làm, không phải vì chuyện ‘thiên hạ xầm xì’ mà chỉ vì tôi đã không còn ở tuổi để làm chuyện đó: hoặc người ta không dám gọi tôi, hoặc nếu có, số tiền công còm cõi của một hai chuyến đi không đủ để mua thuốc cho tôi lại sức với cái thân thể đã tiều tuỵ lắm rồi…”

“Chúng tôi có một con chó do bạn bè cho. Nó rất khôn và chúng tôi yêu nó lắm. Nhưng nó đã già và chúng tôi không còn khả năng mua cho nó thịt và những thức ăn tăng sức, nó không còn sức đứng lên trong chuồng, ngẩng đầu nhìn tất cả chúng tôi, với một ánh mắt tin yêu của loài vật, chắc chắn với những dòng nước mắt và một nỗi buồn sâu thẳm vì đã đến lúc phải rời chủ. Chúng tôi bật khóc khi nó nấc những hơi thở cuối cùng…”  [Nguyễn Mạnh Tường, Un Excommunié – Hanoi 1954-1991: Procès d’un intellectuel. Trans Nguyễn Quốc Vĩ – “Kẻ Bị Mất Phép Thông Công, Hà Nội 1954-1991: Bản Án Cho Một Trí Thức” (Thông Luận Online)].

Cái thời khốn nạn này, may quá, đã qua. Những cái nhãn hiệu “nguy hiểm chết người” (phản động, tư sản, xét lại, hữu khuynh, vượt biên, phản kháng …) nay không còn giết chết được ai mà còn khiến cho bao người lấy làm … vinh dự. Đã thế, không ít những bản án tù của nhà nước CHXHCNVN còn “phong thánh” hay “chấp cánh” cho nạn nhân.

Hình ảnh “vinh quang” khi dân oan Cấn Thị Thêu bước ra khỏi nhà giam đã khiến cho nhà thơ Nguyễn Tường Thụy phải thốt lên vì xúc động: “Chưa một người tù nào được đón rước long trọng và dạt dào tình cảm đến thế.”

Tương tự, thân mẫu của Việt Khang cũng đã chia sẻ nỗi hân hoan (và niềm hãnh diện) của bà với thông tín viên BBC vào ngày nhạc sĩ mãn hạn tù: “Ngày về của Khang rất ấm áp vì có rất nhiều người cùng chí hướng từ xa đến đón và chúc mừng.”

Nhãn hiệu cùng với mọi hình thức trừng phạt không còn hiệu lực, đã đành, danh hiệu và phần thưởng cũng chả còn khiến cho người nhận lãnh lấy làm vinh dự nữa. Ngày 28 tháng 8 năm 2011, nhật báo Người Việt buồn bã loan tin:

“Bốn nhà văn lớn từ chối giải thưởng Nhà Nước, giải thưởng Hồ Chí Minh. Gia đình nhà văn Sơn Nam là người mới nhất muốn rút khỏi danh sách đề cử hai giải thưởng văn học trong nước năm nay, là giải Nhà Nước và giải Hồ Chí Minh. Các nhà văn, nhà thơ Nguyễn Khoa Ðiềm, Nguyên Ngọc, Sơn Tùng, cũng xin rút ra khỏi danh sách dự giải.”

Ngày 20 tháng 01 năm 2013, Báo Mới ái ngại cho hay tiếp:

“Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam 2012: Chưa trao đã bị từ chối. Trong bức thư gửi lên Chủ tịch và Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, nhà văn Y Ban nêu rõ lý do không nhận bằng khen của Hội: Tôi từ chối không nhận bằng khen. Điều đó đồng nghĩa với việc tôi không thừa nhận Ban giám khảo này. Tại sao tôi lại phải chấp nhận một Ban giám khảo không đủ Tâm đủ Tầm đủ Tài?”

Vô tài, và bất đức không phải chỉ là những thuộc tính “dành riêng” cho nhân sự của Ban Giám Khảo – Hội Nhà Văn Việt Nam. Theo BBC, vào hôm 9 tháng 1 năm 2013, Nghệ sỹ Kim Chi (người từng tham gia nhiều phim lớn của điện ảnh cách mạng Việt Nam, từ chối làm hồ sơ khen thưởng nghệ sỹ của Thủ tướng Việt Nam) còn tuyên bố:

“Tôi không muốn trong nhà tôi có chữ ký của một kẻ đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân. Với tôi, đó là một điều rất tổn thương vì cảm giác của mình bị xúc phạm.”

Ảnh: Dân Trí

Qua năm nay, may thay, mới có nhân vật cảm thấy “vinh dự” vì được Đảng và Nhà Nước phong tặng là Nghệ Sĩ Ưu Tú. Báo Dân Trí, số ra ngày 10 tháng 1 năm 2016, hân hoan loan báo:  “ …  lần đầu tiên một nghệ sĩ hải ngoại được đặc cách nhận danh hiệu này.” Đây là một (D) anh hề, Hoài Linh!

Nếu không nhìn lại, mình sẽ mất quá khứ và tương lai .

Nếu không nhìn lại, mình sẽ mất quá khứ và tương lai .

 Châu Hiển Lý

( Bộ đội tập kết 1954 ).

Đã hơn 3 thập kỷ trôi qua, làm ăn cực nhọc là thế, thành tựu không thể nói là nhỏ, thế mà khoảng cách phát triển của VN so với thế giới sao vẫn xa vời! Không định thần nhìn nhận lại tất cả, không khéo chúng ta sẽ ngày càng đi sâu vào con đường đi làm thuê, đất nước có nguy cơ trở thành đất nước cho thuê với triển vọng là bãi thải công nghiệp của các quốc gia khác! Giữa lúc thế giới đang bước vào thời kỳ kinh tế trí thức!
150 năm đã trôi qua, nhưng bài học này còn nguyên vẹn. Đó là 80 năm nô lệ, 40 năm với 4 cuộc chiến tranh lớn (Pháp, Mỹ, Cam Bốt, Tàu) – trong đó 3 thế hệ liên tiếp gánh chịu những hy sinh khốc liệt, 37 năm xây dựng trong hòa bình với biết bao nhiêu lận đận, và hôm nay VN vẫn còn là một nước chậm tiến.

Thảm kịch của đảng cộng sản thực ra đã bắt đầu ngay từ ngày 30-4-1975. Sự bẽ bàng còn lớn hơn vinh quang chiến thắng. Hòa bình và thống nhất đã chỉ phơi bày một miền Bắc xã hội chủ nghĩa thua kém miền Nam, xô bồ và thối nát, về mọi mặt. “Tính hơn hẳn” của chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành một trò cười. Sự tồi dở của nó được phơi bày rõ rệt cùng với sự nghèo khổ cùng cực của đồng bào miền Bắc.
Nhìn lại sau hơn nửa thế kỷ dưới chế độ CS, hàng loạt các câu hỏi được đặt ra :

_ Năm 1954 sau khi thắng Pháp, tại sao hơn 1 triệu người Bắc phải bỏ lại nhà cửa ruộng vườn di cư vào miền Nam ?
_ Sau năm 1975 , tại sao dân miền Nam không ồ ạt di cư ra Bắc sinh sống để được hưởng những thành quả của CNXH mà chỉ thấy hàng triệu người Bắc lũ lượt kéo nhau vào Nam lập nghiệp ?
_ Tại sao sau khi được “giải phóng” khỏi gông cùm của Mỹ-Ngụy, hàng triệu người phải vượt biên tìm tự do trong cái chết gần kề, ngoài biển cả mênh mông ?
_ Tại sao nhân viên trong các phái đoàn CS đi công tác thường hay trốn lại ở các nước tư bản dưới hình thức tị nạn chính trị ?

Tất cả những thành phần nêu trên, họ muốn trốn chạy cái gì?
_ Tại sao đàn ông? của các nước tư bản Châu á có thể đến VN để chọn vợ như người ta đi mua một món hàng?
_ Tại sao Liên Xô và các nước Đông âu bị sụp đổ?
_ Tại sao lại có sự cách biệt một trời một vực giữa Đông Đức và Tây Đức, giữa Nam Hàn và Bắc Hàn?
Tại sao nước ta ngày nay phải quay trở lại với kinh tế thị trường, phải đi làm công cho các nước tư bản?
_ Tại sao các lãnh tụ CS lại gởi con đi du học tại các nước tư bản thù nghịch?

Hỏi tức là trả lời, người VN đã bỏ phiếu bằng chân từ bỏ một xã hội phi nhân tính. Mọi lý luận phản biện và tuyên truyền của nhà nước cộng sản đều trở thành vô nghĩa.
Sự thực đã quá hiển nhiên nhưng đảng cộng sản không thể công khai nhìn nhận. Họ không thể nhìn nhận là đã hy sinh bốn triệu sinh mệnh trong một cuộc chiến cho một sai lầm. Nếu thế thì họ không còn tư cách gì để nắm chính quyền, ngay cả để hiện diện trong sinh hoạt quốc gia một cách bình thường.

Nhìn nhận một sai lầm kinh khủng như vậy đòi hỏi một lòng yêu nước, một tinh thần trách nhiệm và một sự lương thiện ở mức độ quá cao đối với những người lãnh đạo cộng sản. Hơn nữa họ đã được đào tạo để chỉ biết có bài bản cộng sản, bỏ chủ nghĩa này họ chỉ là những con số không về kiến thức. Cũng phải nói là trong bản chất con người ít ai chịu từ bỏ quyền lực khi đã nắm được.

Thế là sau cuộc cách mạng long trời lở đất với hơn ba chục năm khói lửa, máu chảy thành sông, xương cao hơn núi, Cộng Sản Hà Nội lại phải đi theo những gì trước đây họ từng hô hào phá bỏ tiêu diệt. Từ ba dòng thác cách mạng chuyên chính vô sản, hy sinh hơn bốn triệu mạng người, đi lòng dòng gần nửa thế kỷ, Cộng Sản Hà Nội lại phải rập khuôn theo mô hình tư bản để tồn tại .

Hiện tượng “Mửa ra rồi nuốt lại” này là một cái tát vào mặt các nhà tuyên giáo trung ương.
Cách mạng cộng sản đã đưa ra những lí tưởng tuyệt vời nhất, cao cả nhất, đã thực hiện những hành động anh hùng vô song, đồng thời cũng gieo vào lòng người những ảo tưởng bền vững nhất.

Nhưng thực tế chuyên chính vô sản đã diễn ra vô cùng bạo liệt, tàn khốc, chà đạp man rợ lên đạo lý, văn hóa và quyền con người ở tất cả các nước cộng sản nắm chính quyền. Sự dã man quỷ quyệt mánh lới và sự bất nhân khéo che đậy của Cộng sản chưa hề thấy trong lịch sử loài người.

Con người có thể sống trong nghèo nàn, thiếu thốn. Nhưng người ta không thể sống mà không nghĩ, không nói lên ý nghĩ của mình. Không có gì đau khổ hơn là buộc phải im lăng, không có sự đàn áp nào dã man hơn việc bắt người ta phải từ bỏ các tư tưởng của mình và “nhai lại” suy nghĩ của kẻ khác.

Nền chuyên chính vô sản này làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của một dân tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh thần của nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con người trở thành những con rối, những kẻ mù chỉ biết nhai như vẹt các nguyên lý bảo thủ giáo điều…
Công dân của nhà nước cộng sản luôn luôn sợ hãi, luôn luôn lo lắng không biết mình có làm gì sai để khỏi phải chứng minh rằng mình không phải là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội.
Cơ chế quyền lực cộng sản tạo ra những hình thức đàn áp tinh vi nhất và bóc lột dã man nhất. Vì vậy công dân trong các hệ thống cộng sản hiểu ngay điều gì được phép làm, còn điều gì thì không. Không phải là luật pháp mà là quan hệ bất thành văn giữa chính quyền và thần dân của nó đã trở thành “phương hướng hành động” chung cho tất cả mọi người.
Cơ chế hiện nay đang tạo kẽ hở cho tham nhũng, vơ vét tiền của của Nhà nước. Nhưng cái mà chúng ta mất lớn nhất lại không phải là mất tiền, mất của, dù số tiền đó là hàng chục tỉ, hàng trăm tỉ. Cái lớn nhất bị mất, đó là suy đồi đạo đức. Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống…

Bác và đảng đã gần hoàn thành việc vô sản hóa và lưu manh hóa con người VN (vô sản lưu manh là lời của Lê Nin). Vô sản chuyên chính (đảng viên) thì chuyển sang làm tư bản đỏ, còn vô sản bình thường (người dân) trở thành lưu manh do thất nghiệp, nghèo đói.
Nền kinh tế Việt Nam bây giờ chủ yếu là dựa trên việc vơ vét tài nguyên quốc gia , bán rẻ sức lao động của công nhân và nông dân cho các tập đoàn kinh tế ngoại bang, vay nước ngoài do nhà nước CS làm trung gian.
Huyền thoại giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp do cộng sản Việt Nam dày công dàn dựng đã tan thành mây khói khi giai cấp “vô sản” âm thầm lột xác trở thành các nhà Tư bản đỏ đầy quyền lực và đô la.

Do vậy, lý thuyết CS dần dần mất đi tính quyến rũ hoang dại. Nó trở nên trần trụi và lai căng. Tất cả điều đó đã làm cho các ĐCS trên toàn thế giới dần dần chết đi. Dù GDP có tăng lên, nhiều công trình lớn được khánh thành do vay mượn quỹ tiền tệ Quốc Tế nhưng đạo đức xã hội cạn dần. Thực tế cho thấy rằng sức mạnh không nằm ở cơ bắp. Vũ khí, cảnh sát và hơi cay chỉ là muỗi mòng giữa bầu trời rộng lớn nếu như lòng dân đã hết niềm tin vào chính quyền.

Học thuyết về xây dựng một xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa chỉ là một loại lý tưởng hóa, nó là chiếc bánh vẽ để lừa gạt dân, không hơn không kém; đảng nói một đằng, làm một nẻo.
Chẳng hạn đảng nói “xây dựng xã hội không có bóc lột” thì chính những đảng viên lại là những người trực tiếp tham nhũng bóc lột người ; đảng nói ” một xã hội có nền dân chủ gấp triệu lần xã hội tư bản” thì chính xã hội ta đang mất dân chủ trầm trọng; đảng nói “đảng bao gồm những người tiên phong nhất, tiên tiến nhất” nhưng thực tế thì đảng đầy rẫy những người xấu xa nhất, đó là những kẻ đục khoét tiền bạc của nhân dân.

Sở dĩ ĐCSVN còn cố giương cao ngọn cờ XHCN đã bị thiêu rụi ở tất cả các nước sản sinh ra nó vì chúng đang còn nhờ vào miếng võ độc “vô sản chuyên chính” là… còng số 8, nhà tù và họng súng để tồn tại !

Nhân dân đang hy vọng rằng Đảng sớm tự ý thức về tội lỗi tầy trời của mình. Đảng sẽ phải thẳng thắn sám hối từ trong sâu thẳm chứ không chỉ thay đổi bề ngoài rồi lại tiếp tục ngụy biện, chắp vá một cách trơ trẻn.

Người dân chẳng còn một tí ti lòng tin vào bất cứ trò ma giáo nào mà chính phủ bé, chính phủ lớn, chính phủ gần, chính phủ xa đưa ra nữa. Họ nhìn vào ngôi nhà to tướng của ông chủ tịch xã, chú công an khu vực, bà thẩm phán, ông chánh án, bác hải quan, chị quản lý thị trường, kể cả các vị “đại biểu của dân” ở các cơ quan lập pháp “vừa đá bóng vừa thổi còi” mà kết luận: “Tất cả đều là lừa bịp!”

Do đó XHCN sẽ được đánh giá như một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử VN. Con, cháu, chút, chít chúng ta nhắc lại nó như một thời kỳ… đồ đểu ! vết nhơ muôn đời của nhân loại.
Một thời kỳ mà tâm trạng của người dân được thi sĩ cách mạng Bùi Minh Quốc tóm tắt qua 2 vần thơ :
“Quay mặt phía nào cũng phải ghìm cơn mửa !
Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi!”
Chẳng lẽ tuổi thanh xuân của bao người con nước Việt dâng hiến cho cách mạng để cuối cùng phải chấp nhận một kết quả thảm thương như thế hay sao ?

Chẳng lẽ máu của bao nhiêu người đổ xuống, vàng bạc tài sản của bao nhiêu kẻ hảo tâm đóng góp để cuối cùng tạo dựng nên một chính thể đê tiện và phi nhân như vậy?
Tương lai nào sẽ dành cho dân tộc và đất nước Việt Nam nếu cái tốt phải nhường chỗ cho cái xấu?
Một xã hội mà cái xấu, cái ác nghênh ngang, công khai dương dương tự đắc trong khi cái tốt, cái thiện phải lẩn tránh, phải rút vào bóng tối thì dân tộc đó không thể có tương lai!
Một kết cục đau buồn và đổ vỡ là điều không tránh khỏi.

Châu Hiển Lý
(Bộ đội tập kết 1954)

THIÊN CHÚA CÔNG BÌNH

THIÊN CHÚA CÔNG BÌNH

Nhà tu đức học người Ấn độ là cha Anthony de Mello có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau:

Một hôm, Thiên Chúa đi vào thiên đàng và Ngài ngạc nhiên khi khám phá ra rằng tất cả mọi người đều được vào đó cả, không một ai phải sa hỏa ngục. Ngài dừng lại suy nghĩ. Phải chăng Ngài không phải là Đấng công bình vô cùng? Ngài cho gọi sứ thần Gabriel và nói:

– Ngươi hãy tập trung mọi người lại trước mặt Ta và đọc cho họ nghe 10 giới răn của Ta.

Tất cả mọi người đều đến trình diện trước tòa Chúa. Sứ thần Gabriel đọc giới răn thứ nhất và Chúa lên tiếng phán bảo:

– Tất cả những ai đã phạm giới răn thứ nhất hãy xéo khỏi mặt Ta và đi vào hỏa ngục tức khắc.

Một số người từ từ ra khỏi đám đông và buồn bã đi vào hỏa ngục. Sứ thần Gabriel tiếp tục đọc các giới răn khác, cứ sau mỗi giới răn thì có một người lặng lẽ rời khỏi đám đông để đi vào hỏa ngục. Sau khi sứ thần Gabriel đọc giới răn thứ sáu, thì tất cả đám đông đều tự động đi vào hỏa ngục chỉ còn lại có mỗi người đó là vị ẩn sĩ già, đầu hói, béo mập. Thiên Chúa đưa mắt nhìn vị sứ thần rồi hỏi:

– Phải chăng chỉ có một người này được vào thiên đàng hay sao? Nếu vậy thì hắn sẽ cô độc lẻ loi lắm.

Nói xong, Ngài truyền lệnh cho sứ thần Gabriel gọi đám đông lại và cho họ trở lại thiên đàng. Nhìn thấy đám người tội lỗi xấu xa bỗng nhiên được tha thứ và được vào thiên đàng, vị ẩn sĩ già nổi giận và nói với Chúa.

– Chúa không phải là Đấng công bình. Tại sao Chúa không cho con biết trước điều đó.

***

Quý vị và các bạn thân mến,

Thiên đàng hẳn phải là một ngôi nhà của hòa giải và tha thứ. Tha thứ của Thiên Chúa dành cho con người và nhất là tha thứ của con người dành cho nhau. Thiên Chúa đã ví thiên đàng với một bàn tiệc, trong đó từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc người người không phân biệt màu da, chủng tộc, văn hóa, địa vị và nhất là không phân biệt ngay cả bạn hay thù đều ngồi đồng bàn với nhau. Thiên đàng ấy không chỉ có ở đời sau mà đã bắt đầu ngay cõi đời này. Mỗi khi con người biết tha thứ cho nhau. Mỗi khi con người biết chấp nhận nhau, mỗi khi con người biết nắm tay đồng hành với tha nhân thì đó là lúc thiên đàng thực sự chớm nở.

Chúa Giêsu đã hé mở cánh cửa thiên đàng ấy khi Ngài ngồi đồng bàn với những người thu thuế, những kẻ tội lỗi, những người bị xã hội đẩy ra bên lề và nhất là khi Ngài tha thứ cho chính những kẻ hãm hại Ngài. Cuộc sống đạo của chúng ta hôm nay đã là một loan báo cho thiên đàng chưa hay đó chỉ là một ảo tưởng trong đó chúng ta tự dựng lên cho mình một ốc đảo cô độc lẻ loi vì không được nối kết với tha nhân bằng những hành động của phục vụ, quảng đại, của quên mình, cảm thông và tha thứ.

***

Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã không ngừng tha thứ cho muôn vàn vấp ngã của chúng con. Xn cho chúng con cũng xác tín rằng: con đường tiến về quê trời là con đường của phục vụ, yêu thương và tha thứ. Xin ban cho chúng con cảm nếm được niềm vui của thiên đàng ngay trong cuộc sống tại thế này. Đó là niềm vui vủa cuộc sống vì tha nhân. Amen

  1. Veritas

Ngọc Nga sưu tầm

Khi nhìn lại cuộc đời mình bạn hối tiếc điều gì nhất ?

Khi nhìn lại cuộc đời mình bạn hối tiếc điều gì nhất ?

Suy cho cùng, chính bạn chứ không phải ai khác là người chịu trách nhiệm cho việc bạn sử dụng số ngày còn lại của mình trong cuộc đời này ra sao. Thù hận hay yêu thương, hạnh phúc hay thảm hại đều chỉ là những sự lựa chọn. 
nguoi-gia
 

Theo Business Insider, đây là câu hỏi mà Karl Pillemer, giáo sư về phát triển con người tại trường Đại học Cornell (Mỹ), tác giả của tập sách “30 bài học của cuộc sống: Lời khuyên từ những người thông thái nhất nước Mỹ”, đã hỏi hàng trăm người cao tuổi trên 65 tuổi trong chương trình nghiên cứu Legacy Project (Dự án di sản) của Đại học Cornell.

Tình yêu, sự nghiệp, con cái, v.v…, không phải là câu trả lời mà giáo sư Pillemer được nghe thấy thường xuyên nhất, mà thay vào đó lại là câu:

“TÔI ƯỚC RẰNG TÔI ĐÃ KHÔNG DÀNH QUÁ NHIỀU THỜI GIAN CỦA CUỘC ĐỜI MÌNH CHỈ ĐỂ LO LẮNG”.

Nhiều năm trước, khi giáo sư Pillemer, một chuyên gia lão khoa nổi tiếng thế giới gặp bà June Driscoll, một người phụ nữ đặc biệt. Bà Driscoll lúc nào cũng vui vẻ khi ở tuổi 90 và đang sống tại một nhà dưỡng lão. Bà Driscoll nói với giáo sư: “Sống vui vẻ, hạnh phúc nhất có thể chính là trách nhiệm của tôi, ngay tại đây, ngay hôm nay”.
Câu nói đó đã truyền cảm hứng cho Pillemer đi tìm câu trả lời cho việc làm sao một thế hệ trải qua nhiều mất mát đau thương, qua các sự kiện lịch sử thảm khốc và đau ốm lại có thể là những người hạnh phúc nhất. Ông muốn truyền đạt trí tuệ này lại cho thế hệ trẻ, những người dường như quá mong manh, khi chỉ một sự việc không vừa ý nhỏ nhoi cũng khiến họ mất phương hướng đến nỗi tự kết thúc cuộc đời mình.
Năm 2004, giáo sư Pillemer khởi động dự án Legacy Project và đã hỏi hơn 1.500 người Mỹ trên 65 tuổi về những bài học quan trọng nhất mà họ học được trong suốt cuộc đời mình. Trong cuốn “30 bài học cuộc sống”, ông gọi những người mình phỏng vấn là “chuyên gia của cuộc đời” vì chính họ, qua những hạnh phúc và khổ đau, thành công và thất bại đã nắm giữ những bài học trí tuệ nhiều hơn bất cứ nội dung của cuốn sách dạy kỹ năng sống nào.
Giáo sư Pillemer đã cho rằng những câu trả lời như “ngoại tình, công việc kinh doanh tồi tệ hoặc nghiện ngập” là những điều hối tiếc nhất trong cuộc đời của những người cao tuổi này.
Do đó, ông đã sửng sốt khi nghe đi nghe lại một câu trả lời: Tôi ước rằng mình đừng lo lắng nhiều quá” và “Tôi hối tiếc vì đã lo sợ quá mức về tất cả mọi thứ”.
Trong cuốn “30 bài học cuộc sống”, Pillemer nói rằng ông không thể không ngạc nhiên về bài học này. “Những người này đều trải qua các thời kỳ khó khăn trong lịch sử và các bi kịch của cuộc đời, tôi tưởng rằng họ được phép lo lắng ở mức độ nào đó”.
NHỮNG NGƯỜI HẦU NHƯ ĐÃ ĐI ĐẾN CUỐI CUỘC ĐỜI NÀY GIẢI THÍCH RẰNG THỜI GIAN LÀ TÀI SẢN QUÝ GIÁ NHẤT CỦA CON NGƯỜI. VIỆC LO LẮNG VỀ NHỮNG ĐIỀU CÓ THỂ KHÔNG BAO GIỜ XẢY RA, HOẶC LO SỢ VỀ NHỮNG THỨ CHÚNG TA KHÔNG THỂ KIỂM SOÁT ĐƯỢC LÀ MỘT LÃNG PHÍ TÀI SẢN NÀY MỘT CÁCH XUẨN NGỐC.
Hành trình trên trái đất này của mỗi chúng ta là hữu hạn. Nếu lo lắng quá nhiều, bạn không còn mấy thời gian để tận hưởng, trải nghiệm và hạnh phúc. Vậy làm thế nào để giảm bớt thời gian lo lắng trong cuộc sống này? “Những người thông thái nhất nước Mỹ” nói với giáo sư Pillemer một số cách như sau:
Hãy sống từng ngày, đừng luôn nghĩ tới tương lai quá xa
Khi bạn sống và thấy mình lo lắng quá nhiều, hãy dừng lại và tự nhẩm “Điều gì rồi cũng sẽ qua”.
Sự việc bạn đang phải đối mặt, dù khó khăn, đau khổ đến đâu rồi cũng sẽ trôi đi. Bạn không thể hủy hoại cuộc sống của mình bằng những suy nghĩ lo sợ được.
Tuy nhiên, chắc chắn có những ngày u tối mà bạn cảm thấy lo lắng khủng khiếp, không cách nào ngừng lại. Lúc đó hãy cố nghĩ rằng: lo sợ không có tác dụng gì tốt cả. Nó giống như việc tự mình uống thuốc độc mà hy vọng tên hàng xóm đáng ghét sẽ chết vì đau bụng. Hãy gạt nó ra khỏi suy nghĩ hết mức có thể.
SỐNG VUI VẺ TỪNG NGÀY, ĐỪNG NGHĨ ĐẾN TƯƠNG LAI XA XÔI ẢM ĐẠM. VIỆC LẬP KẾ HOẠCH LÀ TỐT NHƯNG KHÔNG PHẢI LÚC NÀO MỌI VIỆC CŨNG XẢY RA THEO Ý MUỐN CỦA CHÚNG TA. DO ĐÓ, ĐIỀU QUAN TRONG NHẤT LÀ HÃY SỐNG TRON VẸN TỪNG NGÀY. THAY VÌ LO SỢ VÔ CỚ, HÃY HÀNH ĐỘNG
Nếu bạn thấy mình hay có những nỗi băn khoăn lo sợ, hãy tìm hiểu về nó. Ít nhất tìm hiểu nguyên do mà bạn lo lắng là gì, xác định nó rõ ràng. Chỉ việc ngồi lại và phân tích suy nghĩ tiêu cực của bản thân cũng giúp bạn gạt bớt được những muộn phiền vô lý. Tất nhiên, có những lo lắng hoàn toàn hợp lý. Khi đã xác định được chúng, hãy hành động, bắt tay vào làm cái gì đó thay vì ngồi yên và lo sợ.
HỌC CÁCH CHẤP NHẬN 1 CÁCH TÍCH CỰC
Bất chợt có điều gì đó xảy ra với bạn. Ai đó làm bạn tổn thương. Bạn thấy tức giận, bạn muốn trả thù. “Cô ấy không nên làm như thế với tôi, tôi sẽ nói cho cô ta như thế này, như thế này…”. Quan hệ nhân duyên của con người vô cùng phức tạp. Bạn chẳng thể nào biết được nguyên nhân chính xác tại sao tự dưng một người lại rời bỏ bạn, làm bạn bực mình hay bẽ mặt. Trong trường hợp này, những người cao tuổi từ nhà dưỡng lão sẽ mỉm cười và nói rằng: “Không biết bao nhiêu lần tôi đã tự cảm ơn bản thân vì đã không nói lời nào”.
ÍT NHẤT HÃY DỪNG LẠI VÀ ĐỪNG LÀM GÌ KHI TỨC GIẬN. -> BẠN CÓ THỂ NÓI NHỮNG LỜI NẶNG NỀ, GÂY THƯƠNG TỔN ĐỐI PHƯƠNG, NHƯNG SAU ĐÓ THÌ SAO? HÃY NHỚ RẰNG BẠN CHỈ CÓ THỂ ĐIỀU KHIỂN SUY NGHĨ CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ THAO TÚNG TÌNH CẢM, TƯ DUY HAY CUỘC ĐỜI CỦA NGƯỜI KHÁC ĐƯỢC.
Hãy chấp nhận những thực tế mà chúng ta không có thẩm quyền thay đổi, gạt đi những suy nghĩ tiêu cực, nhanh chóng lấy lại cân bằng và tiếp tục trải nghiệm cuộc sống.
Suy cho cùng, chính bạn chứ không phải ai khác là người chịu trách nhiệm cho việc bạn sử dụng số ngày còn lại của mình trong cuộc đời này ra sao. Thù hận hay yêu thương, hạnh phúc hay thảm hại đều chỉ là những sự lựa chọn.

Về xu hướng tăng cường công an trong hệ thống lãnh đạo đảng, chính quyền

 Về xu hướng tăng cường công an trong hệ thống lãnh đạo đảng, chính quyền

nguyenvubinh

Trong thời gian gần đây, việc luân chuyển cán bộ công an sang lãnh đạo đảng, chính quyền ở các địa phương diễn ra tương đối phổ biến. Điển hình là mới gần đây, giám đốc công an thành phố Hà Nội đã được bầu (cơ cấu) làm chủ tịch thành phố Hà Nội. Những thông tin được tiết lộ từ Hội nghị trung ương 14 (khóa XI) và Đại hội toàn quốc ĐCS Việt Nam lần thứ XII vừa qua, bộ trưởng công an Trần Đại Quang có thể sẽ được cơ cấu làm chủ tịch nước. Các địa phương tỉnh, huyện trong cả nước cũng có tình trạng tương tự. Như vậy, rõ ràng có xu hướng tăng cường cán bộ công an trong hệ thống lãnh đạo đảng và chính quyền.

Trước hết, trong hệ thống cơ cấu quyền lực của các chế độ cộng sản nói chung, và chế độ cộng sản Việt Nam nói riêng, ngành công an có một vị thế đặc biệt. Có thể nói, chế độ cộng sản, chế độ toàn trị xây dựng và vận hành được cơ chế triệt tiêu sự phản kháng của người dân có sự đóng góp rất lớn của ngành công an. Đồng thời, việc duy trì và bảo vệ chế độ cộng sản trước những sóng gió của thời cuộc cũng một tay ngành công an tham mưu và lo liệu. Chính vì vậy, quyền lực của ngành công an, so với tất cả các ngành nghề khác là vượt trội và bao trùm. Việc điều chuyển cán bộ ngành công an sang lãnh đạo đảng và chính quyền từ trước tới nay vẫn thường xảy ra, tuy nhiên tỷ lệ không nhiều và chưa trở thành xu hướng như thời gian gần đây.

Giải thích về xu hướng tăng cường công an trong hệ thống lãnh đạo đảng, chính quyền cũng không có gì khó khăn. Trong xã hội Việt Nam hiện nay, việc cơ cấu cán bộ, luật bất thành văn là vấn đề tiền quyết định rất lớn cho các đương sự. Ngành công an, với quyền lực bao trùm, tiếp xúc và quyết định vận mệnh của rất nhiều tầng lớp, trên nhiều khía cạnh nhất của đời sống người dân đương nhiên thu về nhiều bổng lộc nhất. Vì vậy, trong cuộc đua tiền với các ngành nghề khác, các cán bộ ngành công an hầu như không bao giờ chịu lép vế. Đó là vấn đề “thực lực” của các ứng viên ngành công an. Mặt khác, với mạng lưới an ninh, tình báo, đặc tình rộng khắp và sử dụng lý do nghiệp vụ, các cán bộ ngành công an thường có trong tay những tỳ vết của các ứng cử viên các ngành nghề khác, thậm chí các lãnh đạo cao cấp, các địa phương. Việc sử dụng các tỳ vết của các ứng viên đối thủ để chiếm ưu thế trong các cuộc bầu bán là việc thường xuyên hiện nay.

Tuy nhiên, một lý do quan trọng bao trùm lên tất cả, giải thích cho xu hướng trọng dụng cán bộ công an trong hệ thống lãnh đạo đảng, chính quyền hiện nay đó chính là xu thế tăng cường việc duy trì và bảo vệ chế độ độc tài toàn trị cộng sản trong giai đoạn cuối chu kỳ tồn tại của nó. Có thể nói, việc suy sụp của nền kinh tế và những dồn nén xã hội, cùng với ứng xử nhu nhược của nhà cầm quyền Việt Nam trước sự ngang ngược của Trung Quốc, kết hợp với ảnh hưởng của hệ thống Internet và mạng xã hội, phần lớn người dân đã thức tỉnh, đã thấy được và hiểu ra bản chất thật sự của chế độ toàn trị. Sự phản kháng của người dân đã lan rộng khắp nơi, ở tất cả các địa phương, ngành nghề và các lĩnh vực, đủ các tầng lớp, thành phần và độ tuổi. Việc tham mưu và triển khai chiến lược, kế hoạch đối phó với những sự nổi dậy, phản kháng của người dân đã làm tăng vị thế của ngành công an một cách tự nhiên. Để thống nhất và thuận lợi trong việc triển khai các kế hoạch đối phó, đàn áp dân chúng nhằm duy trì sự độc tài không gì bằng những lãnh đạo đảng, chính quyền đã từng trải qua hoạt động của ngành công an. Chính vì vậy, xu thế tăng cường công an trong hệ thống lãnh đạo đảng, chính quyền là một xu thế tất yếu.

     Có nhiều người băn khoăn, thậm chí lo lắng cho việc cán bộ công an chuyển sang lãnh đạo đảng, chính quyền sẽ làm gia tăng sự ngột ngạt, đàn áp người dân hoặc phong trào dân chủ. Tuy nhiên, xã hội Việt Nam hiện nay như một chiếc lò xo đã hết độ nén, như một nồi áp suất sắp nổ tung, nếu có những tác động gia tăng sự dồn nén thì đó là điều đáng mừng chứ không còn là điều đáng lo, bởi vì người dân hiện nay cũng chỉ còn mất xiềng xích nữa mà thôi./.

Hà Nội, ngày 30/01/2016

N.V.B

Người cộng sản cuối cùng

 Người cộng sản cuối cùng

FB Minh Đức Lê

Ông Nguyễn Phú Trọng. Ảnh: Reuters

Ông Nguyễn Phú Trọng. Ảnh: Reuters

Ở VN người ta nói với nhau rằng: Đảng viên nhan nhãn, cộng sản không thấy đâu. Chắc người ta nói thế có nghĩa là ở VN nay chẳng còn cộng sản nữa. Thế thì mừng quá. Đâm ra bất chiến tự nhiên thành?

Chưa đâu. Đại hội 12 vừa qua cho thấy VN vẫn còn một người cộng sản cuối cùng. Đó là ông Trọng, một người cộng sản đầy mình trình độ lý luận và trong sạch, thanh liêm. Và nhan nhãn mọi nơi vẫn còn 4.5 triệu đảng viên… không định hướng.

4.5 triệu đảng viên này không quan tâm VN là cộng sản hay tư bản. Họ không quan tâm đến việc VN cần quan hệ chặt hơn với Trung Quốc hay Hoa kỳ. Họ không quan tâm đến dân chủ hay nhân quyền. Họ không quan tâm đến vấn đề gì khác ngoài bản thân họ và gia đình của họ.

Họ chỉ biết rằng hiện tại ví trí của họ trong xã hội được khẳng định. Họ là đảng viên của đảng độc quyền cai trị VN. Họ có chức và họ có quyền, từ đó họ có tiền và từ tiền họ có thể mua chức cao hơn để có nhiều quyền lực hơn và nhiều tiền hơn. Hỏi trong cuộc đời con người mong được gì hơn thế. Và khi đã có những cái đó trong tay, ai ngu dại gì làm những hành động ngu ngốc để rồi có thể mất tất cả.

Trong bối cảnh đó, họ, 4.5 triệu đảng viên thấy ông Trọng như một vị cứu tinh. Ông già toàn lý thuyết, mê muội tin điên cuồng vào giáo điều cộng sản, từ xưa đến nay chưa bao giờ dám nói đến cải cách thể chế chính trị. Họ biết chắc 100% là ông Trọng sẽ tiếp tục làm việc như ông đã làm từ xưa đến nay, là… không thay đổi gì cả.

Xảy ra thay đổi tại VN theo bất cứ chiều hướng nào đều không có lợi cho 4.5 triệu đảng viên… không định hướng. Họ sợ thay đổi vì thay đổi có thể làm họ mất ít hay mất nhiều. Họ sợ những người hứa hẹn thay đổi hay sẽ thực hiện những thay đổi khi trở thành tổng bí thư, dù sự lo sợ của họ là không có cơ sở, chỉ là tin đồn, hay tin nhãm được tung ra có mục đĩch.

Đó chính là lý do làm cho 100% ủy viên trung ương đại diện cho 4.5 triệu đảng viên không định hướng, quyết định bầu người cộng sản cuối cùng tại VN, để bảo đảm mọi việc tại VN vẫn giữ nguyên trạng như từ xưa đến nay.

Sự thật đã có ai đó nói rồi: VN là một quốc gia không chịu phát triển. Vì 4.5 triệu đảng viên không muốn có bất cứ sự xáo trộn có hại nào cho phúc lợi mà họ đã có từ xưa đến nay.

Quyền lực thuộc về dân

Quyền lực thuộc về dân

Đôi lời: Hoan hô báo GDVN, một tờ báo “lề phải” dám đăng bài viết này! Trích: “Khi lòng dân dậy sóng, sức dân có thể cuốn phăng tất cả những gì được xem là rào cản của quyền lực nhân dân. Sức mạnh của lòng dân là sức mạnh của quy luật lịch sử.  Bất cứ lực lượng nào cũng có thể bị nghiền nát nếu là trở lực muốn ngăn cản hay quay ngược bánh xe lịch sử. Những kết quả khắc nghiệt, những kết cục bi thương của nhiều tổ chức, nhiều cá nhân có những “sai lầm lịch sử” đã minh chứng điều ấy”.

“Vì tham quyền cố vị mà chống lại sức mạnh của nhân dân thì ắt sẽ phải trả giá. Hành động thuận theo quy luật và ứng xử nhân văn thì chắc chắn luôn được lưu danh sử sách và đó cũng được xem là di sản quý giá để lại cho những thế hệ mai sau”.

___

GDVN

Ngọc Việt

2-2-2016

(GDVN) – Khi lòng dân dậy sóng, sức dân có thể cuốn phăng tất cả những gì được xem là rào cản của quyền lực nhân dân. Sức mạnh của lòng dân là sức mạnh của quy luật.

Truyền thông quốc tế ngày 1/2 đưa tin, Quốc hội mới của Myanmar được bầu ngày 8/11/2015 đã nhóm họp lần đầu tại thủ đô Naypyidaw hôm qua. Đây là lần đầu tiên trong hơn 50 năm qua tại đất nước này có một Quốc hội được dân bầu và đảng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ (NLD) của lãnh tụ Aung San Suu Kyi chiếm đa số ghế tại cơ quan lập pháp Myanmar.

Nền chính trị tại Myanmar đã đổi thay theo nguyên tắc dân chủ, quyền lực đã thuộc về những người được nhân dân Myanmar lựa chọn để trao gửi niềm tin và khát vọng của họ. Đất nước Myanmar đã thật sự chuyển mình sau chiến thắng lịch sử của NLD trong một cuộc bầu cử tự do.

Dư luận thế giới hướng về Myanmar với những kỳ vọng tích cực và hy vọng yên bình ở nơi mà chế độ quân phiệt được thay thế bằng nền dân chủ một cách hòa bình với đầy những nghĩa cử nhân văn. Nơi mà lợi ích dân tộc và chủ quyền quốc gia được tôn trọng và là nền tảng cho mọi quyết định đổi thay.

H1

Lãnh tụ NLD Aung San Suu Kyi tham dự phiên họp đầu tiên của Quốc hội mới Myanmar. Ảnh: EPA.

Nghị sĩ Nyein Thit thuộc NLD đã nói với hãng tin AFP rằng: “Chúng tôi sẽ làm việc để có được nhân quyền và dân chủ cũng như hòa bình cho đất nước chúng tôi”.

Với phiên họp đầu tiên của Quốc hội mới sau bầu cử, người ta nhìn thấy những giá trị của nền dân chủ được nuôi dưỡng dưới chính quyền của Tổng thống Thein Sein đã được đảm bảo và trở thành nguyên tắc nền tảng cho mọi sinh hoạt chính trị tại Myanmar.

Tuy nhiên, theo người viết thì những gì diễn ra trên đất nước Myanmar có ý nghĩa không chỉ là một sự đổi thay chính trị – xã hội tại đất nước này.

Chiến thắng của nền dân chủ trước chế độ quân phiệt tại Myanmar còn là sự khẳng định những nguyên lý, nguyên tắc mà con người phát hiện ra, xây dựng nên làm nền tảng cho mọi họat động chính trị nhưng đã bị xóa nhòa ở nhiều nơi, nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Myanmar dưới chính quyền quân sự trong hơn nửa thế kỷ qua.

Quyền lực luôn thuộc về nhân dân

Những nhà chính trị học và xã hội học xây dựng nên các khái niệm của phạm trù quyền lực, đã rất khoa học và thực tế khi xác định quyền lực thuộc về nhân dân. Cho dù quyền được xác lập bởi luật pháp, lực là sức mạnh của lòng dân, nhưng thực ra nền tảng của quyền lực đều là sức mạnh của nhân dân thông qua thực thể chính trị đại diện là nhà nước.

Có nhiều học thuyết chính trị cho rằng, nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị sử dụng để cai trị những giai cấp, những tầng lớp khác – gọi chung là tầng lớp bị trị. Theo người viết, đó là những lý luận thiếu thực tiễn và không phản ánh được bản chất của nhà nước – thực thể quan trong nhất của thể chế chính trị.

Nhà nước là cơ quan quyền lực của nhân dân. Đó là nguyên lý. Nhà nước không thể ra đời hay hình thành bất cứ lúc nào, như thế nào cũng được. Theo sự phát triển của lịch sử nhân loại, khi mâu thuẫn về lợi ích của con người trong chế độ công xã nguyên thủy không tự giải quyết được thì bắt đầu hình thành nên định chế đầu tiên được trao quyền phán xét người khác.

Nghĩa là một tổ chức có quyền lực hết sức sơ khai – cơ sở đầu tiên cho sự ra đời của nhà nước sau này – đã hình thành trong buổi ban đầu của văn minh nhân loại cũng đã xuất phát từ nhân dân và chỉ được nhân dân ủy thác thực hiện quyền lực. Điều đó cho thấy nhân dân là nhân tố quyết định quyền lực hay nói cách khác quyền lực luôn thuộc về nhân dân.

H1

Quyền lực luôn thuộc về nhân dân. Lực lượng cầm quyền chỉ được nhân dân ủy nhiệm nắm giữ quyền lực. Hình ảnh nhân dân Myanmar ủng hộ NLD. Ảnh: Reuters.

Do vậy, không thể có nhà nước của giai cấp thống trị hay quyền lực thuộc về lực lượng nắm quyền mãi mãi. Lực lượng cầm quyền chỉ được nhân dân ủy thác nắm quyền lực trong những giai đoạn nhất định thông qua những sự ủy nhiệm –  nguyên lý ban đầu cho các cuộc bầu cử phổ thông ngày nay – khi lực lượng cầm quyền có khả năng và điều kiện sử dụng quyền lực.

Tất cả những chế độ chính trị, những nhà nước ra đời không theo nguyên lý ấy đều không phải là nhà nước đại diện cho quyền lực của nhân dân – và đó chỉ là “cái gọi là nhà nước” mà thôi. Đó là kết quả của việc tiếm quyền, cướp quyền, dù trực tiếp bằng các cuộc bạo loạn lật đổ, đảo chính hay gián tiếp là những cuộc bầu cử mỵ dân, hình thức.

Một khi không đại diện cho quyền lực của nhân dân thì bất cứ chế độ chính trị nào, bất cứ hình thức nào của “cái gọi là nhà nước” cũng sẽ bị thay thế bằng sức mạnh của nhân dân. Còn việc điều đó diễn ra dưới hình thức nào, vào thời điểm nào sẽ phụ thuộc vào thời thế. Việc đổi thay chế độ chính trị tại Myanmar là một chứng minh rất rõ ràng cho nguyên lý ấy.

BBC ngày 1/2 dẫn lời ông Khin Maung Myint, một Nghị sĩ thuộc đảng NLD nói với AP: “Tôi không bao giờ tưởng tượng rằng đảng của chúng tôi sẽ có thể được thành lập chính phủ. Ngay cả công chúng cũng không nghĩ rằng Myanmar có thể có một chính phủ của NLD. Nhưng bây giờ điều đó đã là sự thật và nó giống như một cú sốc đối với chúng tôi và cả thế giới nữa”.

Nói tóm lại, một chế độ chính trị, một nhà nước ra đời theo nguyên lý, theo quy luật thì đương nhiên là cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân, luôn được nhân dân tin tưởng và tôn trọng. Lực lượng cầm quyền sẽ có quyền và có lực nếu họ được giao nắm giữ quyền lực theo đúng cơ chế ủy nhiệm nhân dân – bầu cử tự do.

Tất nhiên, trong lịch sử nhân loại đã có nhiều sự “sai lầm lịch sử”, nghĩa là lực lượng cầm quyền không nắm quyền lực theo quy luật. Và khi nhân dân đứng lên đòi quyền lực thì sẽ xảy ra hai tình huống. Thứ nhất là lực lượng cầm quyền quyết tâm không từ bỏ quyền lực đã cướp được thì họ sẽ phải trả giá, sự súp đổ của chế độ Gaddafi tại Libya là một ví dụ điển hình.

Thứ hai là lực lượng cầm quyền thuận theo thời thế, hành động theo quy luật lịch sử thì họ sẽ không phải đánh đổi những gì thuộc về quyền con người của họ. Họ chỉ phải trả lại những gì mà họ “giữ”nhưng không được nhân dân “trao”. Và họ vẫn có thể được sự ủy nhiệm của nhân dân nếu họ có đủ khả năng, điều kiện thực hiện quyền lực và được nhân dân ủy thác.

Tổng thống Thein Sein và chính quyền quân sự tại Myanmar đã ngả theo hướng thứ hai khi họ thấy vai trò của họ được trao nắm giữ vận mệnh quốc gia diễn ra không theo cơ chế ủy nhiệm của nhân dân.

Họ đã tạo điều kiện cho quyền lực nhân dân được thể hiện và khẳng định – nghĩa là họ đã sáng suốt trong việc khắc phục “sai lầm lịch sử” tại Myanmar và họ được lịch sử ghi nhận công lao ấy.

Lịch sử luôn khách quan và công bằng

Cuộc bầu cử diễn ra tại Myanmar và mang lại chiến thắng lịch sử cho NLD là một sự khẳng định sức mạnh của lòng dân. Bên cạnh đó cuộc bầu cử còn khẳng định nhân dân rất khách quan khi thể hiện sức mạnh và quyền lực.

Nhân dân là chủ thể của lịch sử dân tộc, họ viết nên những trang sử oai hùng hay đau thương cũng đều rất công bằng với thực tế.

H1

Lịch sử luôn khách quan và công bằng với những ai hành động thuận theo quy luật. Ảnh: AP.

Khi lòng dân dậy sóng, sức dân có thể cuốn phăng tất cả những gì được xem là rào cản của quyền lực nhân dân. Sức mạnh của lòng dân là sức mạnh của quy luật lịch sử.

Bất cứ lực lượng nào cũng có thể bị nghiền nát nếu là trở lực muốn ngăn cản hay quay ngược bánh xe lịch sử. Những kết quả khắc nghiệt, những kết cục bi thương của nhiều tổ chức, nhiều cá nhân có những “sai lầm lịch sử” đã minh chứng điều ấy.

Tuy nhiên lịch sử cũng ghi nhận, nhân dân chưa bao giờ đứng về một lực lượng nào để làm hại những lực lượng khác, nếu những lực lượng ấy không có “sai lầm lịch sử” hoặc nhân văn trong việc sửa chữa, khắc phục những sai lầm của quá khứ.

Đã có bao cá nhân, bao tổ chức “lầm lỡ” được nhân dân tạo cơ hội để thể hiện mình xứng đáng là đại diện cho quyền lực của nhân dân.

“Quốc hội mới của Myanmar họp tại thủ đô Naypyidaw, bắt đầu bằng việc bầu Nghị sĩ U Win Myint của đảng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ làm Chủ tịch như mong đợi và bầu Nghị sĩ U Ti Khun Myat của đảng Liên minh Đoàn kết và Phát triển (USDP), đảng được quân đội hậu thuẫn làm Phó Chủ tịch”, BBC ngày 1/2 đưa tin.

Những gì đang diễn ra trên đất nước Myanmar là sự khẳng định tính công bằng và khách quan của lịch sử. Khi lực lượng nắm quyền hiểu được quy luật lịch sử, hành động thuận chiều lịch sử thì nhân dân được yên bình, đất nước thanh bình và sức mạnh của chính quyền càng được khẳng định vì nó là tựu trung của niềm tin và khát vọng của nhân dân.

Tổng thống Thein Sein và chính quyền của ông đang thực hiện việc chuyển giao quyền lực cho chính quyền của NLD và bà Aung San Suu Kyi, dự kiến sẽ hoàn tất vào tháng 3/2016.

Thein Sein và một số thành viên chính phủ của ông có thể không tiếp tục tham gia vào đời sống chính trị tại Myanmar nữa, nhưng có lẽ không người dân Myanmar nào quên được công lao của họ.

Nền chính trị tại Myanmar nói riêng, xã hội Myanmar nói chung không thể cởi mở và bình yên nếu như chính quyền quân sự không nuôi dưỡng nền dân chủ.

Đất nước Myanmar không thể có được những nền tảng vật chất và những định chế căn bản cho việc phát triển nếu chính quyền quân sự “tham quyền cố vị” mà quyết tâm phá nát những gì đất nước Myanmar có được trong bao năm qua với tâm lý “không ăn được thì đạp đổ”.

Và cuối cùng lịch sử dân tộc Myanmar không phải được viết tiếp bằng những trang sử bi thương bởi xung đột xã hội, bởi mâu thuẫn đảng phái và bởi chính những ích kỷ nhỏ nhen trong những toan tính thấp hèn mà người ta có thể thấy ở nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay, khi lực lượng cầm quyền quyết không từ bỏ quyền lực cho dù đã bị nhân dân tước bỏ.

Có thể thấy rằng, đây là nét nhân văn của một sự đổi thay mang tầm cỡ một cuộc cách mạng xã hội tại Myanmar –  một quốc gia nổi tiếng về bảo thủ và chính quyền quen sử dụng công cụ sức mạnh của thể chế vào việc đối phó với sức mạnh của nhân dân.

Tính nhân văn này được thể hiện bởi cả người về trước, kẻ về sau trong một cuộc bầu cử tự do để nhân dân Myanmar ủy thác quyền lực của họ.

Theo người viết thì giá trị nền dân chủ tại Myanmar, ý nghĩa của sự đổi thay tại Myanmar là nằm ở việc khẳng định giá trị những nguyên lý, nguyên tắc trong cơ chế thể hiện sức mạnh nhân dân. Điều đó được thể hiện đậm nét hơn, sâu sắc hơn ở tính nhân văn của nó được những người trong cuộc thể hiện và tôn trọng.

Vì vậy, mặc dù chính phủ mới tại Myanmar chưa được thành lập, những chính sách mới của NLD chưa được khẳng định trong đời sống xã hội tại Myanmar, nhưng điều đó không làm ảnh hưởng đến ý nghĩa của sự đổi thay ấy.

Bởi lẽ nguyên lý là bất biến, quyền lực nhân dân là vĩnh cửu, còn tất cả những vấn đề khác sẽ biến thiên theo thế và thời.

Ý nghĩa của việc đổi thay chính trị tại Myanmar là bài học rất quý cho những lực lượng cầm quyền, những chính quyền không được xem là đại diện cho quyền lực của nhân dân ở nhiều quốc gia trên toàn thế giới.

Vì tham quyền cố vị mà chống lại sức mạnh của nhân dân thì ắt sẽ phải trả giá. Hành động thuận theo quy luật và ứng xử nhân văn thì chắc chắn luôn được lưu danh sử sách và đó cũng được xem là di sản quý giá để lại cho những thế hệ mai sau.

MÙA XUÂN IM LẶNG TRONG ÐÔI GUỐC

MÙA XUÂN IM LẶNG TRONG ÐÔI GUỐC

LM Nguyễn Tầm Thường, S.J.

Con cái đã quên, không còn ai nhớ đến đôi guốc mộc.  Sau đám tang của mẹ, mấy người con gom quần áo của bà đốt hết.  Riêng đôi guốc gỗ nằm nơi xó tường nên chả người con nào để ý.  Mấy tháng, kể từ ngày bà nằm trên giường bệnh, đôi guốc lúc bị đá vào xó tường này, lúc bị đẩy sang góc tối kia, đến độ người nhà không còn để ý nó là đôi guốc của ai.

Từ ngày theo người mẹ đó về nhà, đôi guốc giã từ những tháng ngày thong thả, mơ mộng trên quầy hàng.

* * *

Thủa xưa, khách vào ra, ngắm nghía, nâng niu, chủ hàng chẳng bao giờ để đôi guốc bám bụi.  Ðôi guốc chả phải làm gì, sống như thế thật nhàn hạ.  Nhưng nếu nghĩ cho cùng, cũng không thiếu nhàm chán, chả có gì mới mẻ trong cuộc sống cả.  Ðôi lúc, đôi guốc nghe như có hai tiếng nói thì thầm trong hồn nó.  Một là bảo nó cứ nằm yên ở đây cho nhàn hạ, hai là bảo nó hãy bỏ đây xuống đời tìm cho cuộc sống một ý nghĩa.

– Chả nhẽ cứ tiếp tục là đôi guốc nằm trên quầy hàng như thế này mãi sao?

Nó không phải là đồ trang sức, không phải là bức tranh cho người ta ngắm.  Có nhàn hạ, nhưng nằm mãi ở đây thế này nó bắt đầu thấy chán, càng ngày càng thấm thía những suy nghĩ về một cõi sống trên những nẻo đường của cuộc đời.  Nhưng mỗi khi nhìn đôi guốc dưới chân các bà mẹ, nó lại nghe tiếng nói khác thì thầm: “Vất vả quá!” Có đôi guốc sứt mẻ.  Có đôi guốc mòn xác xơ.  Ðiều đó làm nó nghĩ ngợi.

Ðời là một chọn lựa.  Cứ tiếp tục suốt đời giam mình ở đây hay bước xuống đường để ra đi đây đó? Sau cùng nó quyết định ra đi.

Một trưa xế nắng kia, có người thiếu phụ vào tìm mua đôi guốc.  Chủ hàng đem nó ra giới thiệu. Nhìn dáng người thiếu phụ, đôi guốc biết người đàn bà ấy thật thà, nhưng thấy dáng bà có vẻ nghèo. Những người nghèo thường vất vả.  Bước chân của người nghèo là bước chân khổ.  Làm thân guốc cho một người nghèo vất vả lắm.  Thật thà mà nghèo chắc cũng chả hạnh phúc.  Cuộc sống bây giờ chẳng ai quý người nghèo.  Càng suy nghĩ, đôi guốc càng lưỡng lự, cứ sợ người đàn bà ấy chọn mua mình.

Nó phân vân không biết có nên theo chân bà ta hay không.  Ðời luôn là phải chọn lựa như thế.  Vất vả, nghèo mà thật thà, đặc tính của người muốn mua nó có vậy thôi.  Ðôi guốc nghĩ thầm: “Ðến lúc muốn ra đi, lại gặp phải người đàn bà nghèo thế này.  Hay ta chờ một người đàn bà khác giàu có.  Theo chân người giàu sẽ sung sướng hơn?”

Trong lúc nó phân vân, người đàn bà cầm đôi guốc ngắm nghía, cho xuống chân ướm thử.  Một làn hương thơm huyền nhiệm toát ra từ đôi chân bụi đường.  Ðôi guốc vô cùng kinh ngạc, làm sao điều ấy có thể xảy ra được.  Nó đã được nhiều đôi chân đẹp ướm thử mà chưa bao giờ có hiện tượng lạ lùng như thế.  Phải là đôi chân dịu dàng mới toát ra vị thanh tao được chứ.  Ðôi chân trần của người đàn bà nhà quê mốc thếch.  Làm sao đôi chân lấm lem lại có thể toát ra một hương nhân đức kỳ bí được.  Nó không ngờ.  Ðiều huyền diệu ấy, tiếng lương tâm đôi guốc bảo cho nó biết rõ là đến từ lòng thật thà, bao dung, vất vả hy sinh của người mẹ kia.  Bấy giờ, nó hối hận vì quá vội nghi ngờ đánh giá khi nhìn sự nghèo khó bên ngoài.  Lòng hối hận ấy làm nó bừng lên một ước ao mãnh liệt là được theo chân bà. Linh tính cho nó biết nơi dấu chân người mẹ này có một thế giới huyền diệu.  Nhưng người mẹ băn khoăn đặt nó vào kệ gỗ vì bà không đủ tiền.

Ðôi guốc gỗ mím môi tiếc xót vì từng bị thử dưới bao đôi chân, chưa thấy bước chân nào kỳ lạ như bước chân của người mẹ này.  Giữa lúc nó muốn theo chân người đàn bà để khám phá thế giới linh thiêng kỳ bí đó, bà lại không đủ tiền mua nó.  Bà tần ngần đặt đôi guốc lại kệ gỗ.

Người chủ hàng chỉ bán rẻ những đôi guốc bị nứt thôi.  Ðôi guốc nghĩ thầm: “Hay là ta đánh đổi đời mình thành đôi guốc nứt?”  Nếu vậy, còn gì dáng vẻ, vì cả một đời sẽ mang dấu vết nứt đó.  Ðôi guốc suy nghĩ quay quắt về một chuyến đi trong đời.

Người đàn bà lại cầm nó trên tay, tiếc vì không đủ tiền.  Ðôi guốc giật mình nghĩ rằng đời không có nhiều cơ hội.  Nếu bà không đủ tiền mua nó, bao giờ bà sẽ quay lại?  Có thể sẽ không bao giờ.  Nếu bà đặt nó trở lại quày hàng, biết đâu nó sẽ vĩnh viễn không bao giờ gặp lại bà?  Nó lấy hết can đảm theo tiếng gọi thâm sâu của linh hồn, chấp nhận một thương đau cho khởi đầu một chân trời kỳ bí kia đang chờ đón.  Nó quyết định chấp nhận đời mình thành đôi guốc nứt.  Tức khắc, ngay khi quyết định xong, nó nghe như trong linh thiêng có một trận chiến vô hình.  Tiếng nói của Bóng Tối gục xuống.  Tiếng nói của Ánh Sáng bừng lên.  Cũng trong lúc ấy, như chiều cao thập giá đổ xuống, một vết thương xước ra, chạy dài toàn thân.  Nó ngất lịm.  Thế là nó thành một đôi guốc nứt.

Người đàn bà giơ lên nhìn kỹ.  Bà ồ lên một tiếng thở nhẹ, vui mừng vì một khám phá:

– Ông chủ tiệm ơi, nhìn kỹ đi, đôi guốc có vết nứt đây này.

Người chủ tiệm tiếc rẻ.  Ngần ngừ, ông đành bán tống nó đi.

Lúc tỉnh dậy, đôi guốc đã về đến nhà người đàn bà.  Bà xoa xoa vết nứt, tìm mũi đinh đóng lại.  Một lần nữa, nó đau buốt thân mình.  Nhưng trong mỗi nhát búa, nó thấy mùa xuân đang về trên những nhánh gai.  Nó bắt đầu cảm thấy ý nghĩa của nước mắt và hạnh phúc.  “Tôi sẽ theo chân bà ta đi đâu bây giờ?”  Trời đang vào hạ hanh nắng hay cúc vàng nhuộm xuân.  Nó hồi hộp tự hỏi.

Ngày hôm sau, ngay chuyến đi đầu tiên nó đã mệt rã rời.  Trời xuống tối, bà vẫn chưa về đến nhà. Quẩy gánh nặng trên vai.  Con đường cứ dài thăm thẳm, toàn thân mình đau ê ẩm.  Ðường đất miền quê sỏi đá gồ ghề, ngay chân bà cũng trượt té trầy da huống chi đôi guốc.  Nó bị nện xuống gập ghềnh. Như vậy mà đã từ bao lâu nay người mẹ này cứ bước chân không, nghĩ đến nỗi đau, nó thấy xót xa cho bà.  Nhìn xuống nỗi đau của mình, nó muốn chia sẻ với bà nỗi đau kia.  Lạ lùng quá, khi mới chợt có ý nghĩ ấy, nó thấy toàn thân nóng bừng, và trên nỗi đau nó thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh.

Qua một buổi chiều mà đôi guốc đã khám phá bao nhiêu bí mật đời sống dưới bàn chân một người mẹ:

– Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm có thể bay ngược chiều gió.

– Chịu đựng bao giờ cũng cho tâm hồn nét đẹp cao thượng.

– Gánh nặng vì tình yêu luôn luôn đi đôi với sức mạnh.

– Thật thà là mật ngọt nuôi dưỡng bình an.

– Nhẫn nại là những đường may nối dài tình thương.

Quá mệt, đôi guốc ngủ thiêm thiếp lúc nào không hay.  Lúc ướt lạnh, nó co người rùng mình thì người mẹ đã đang ở bờ giếng kéo nước đổ vào nồi cám nấu cho heo.  Ðôi guốc bàng hoàng không biết trời đang vào khuya hay đã về sáng.  Chung quanh chỉ là đêm tối lần mò.  Nó lắng nghe bước chân. Người mẹ hết quanh quẩn trong góc bếp lại ra cầu ao.  Khuya thế này rồi sao bà không nghỉ ngơi?  Ðôi guốc mệt đừ.

* * *

Thời gian thấm thoát thoi đưa.  Thoát chốc đã đến ngày đôi guốc mòn quá rồi.  Bây giờ nó không còn là hình dạng đôi guốc ngày xưa trong cửa hàng nữa.  Xấu xí, lem luốc, nứt nẻ.  Nhìn lại quãng đời, đôi guốc không thể biết được nó đã bước bao nhiêu đường dài.  Nếu mỗi ngày bà mẹ quẩy gánh 10 cây số, thì 365 ngày một năm, đã trên 3 ngàn cây số rồi.  Trời ơi!  Ðôi guốc không ngờ nó đã đồng hành với bà trên một dặm đường dài hơn cả đất nước của người đàn bà như thế.

Ðôi guốc không hiểu sao nó có sức chịu đựng trung thành theo chân bà.  Nó còn nhớ ngày xưa nằm trên quầy tủ cửa hàng, mới chỉ nghĩ đến ra đi đã ngao ngán quá rồi.  Vậy đâu là sức mạnh?  Gần đến cuối đời, đôi guốc nhìn lại những bến bờ đã đi qua, nó thấy cộng lại những cây số ngàn ấy, không bước chân nào của bà mẹ không có tình thương.  Từ sớm tinh mơ đến tan chợ chiều, bà vất vả cũng vì các con mà thôi.  Từ đó, đôi guốc khám phá ra khi nó được chia sẻ đời nó trong tình yêu, tình yêu cho nó sức mạnh.  Bất cứ nơi nào có tình yêu thì có sức sống.  Bất cứ gỗ đá nào chạm vào tình yêu cũng thành trái tim mềm mại thiết tha.  Và nó hiểu, nó không đi tìm mùa xuân vì chính nó đang làm nên mùa xuân cho cuộc đời.

* * *

Thưa mẹ, con còn nhớ một đêm kia, khuya quá khuya, mẹ ngồi bên con, nhìn con trong cơn sốt.  Làm sao mẹ có đôi đũa thần của bà tiên quyền phép làm cho con hết cơn đau.  Mẹ cứ ngồi bên con vậy thôi.  Mẹ không an lòng rời xa con.  Mẹ đặt tay lên trán con chờ mong từng giây cho con hết bệnh.  Muốn uống một ly sữa, con chỉ cần đưa chiếc ly lên miệng uống là xong.  Bây giờ nhìn lại, con thấy đêm đó, khi chợt nghe con muốn một ly sữa, mẹ vội thắp thêm đèn, chiếc đèn dầu con tù mù, lệch kệch ra sau vườn kéo gầu nước, nhóm bếp củi mù than đun nước.  Mẹ hối hả không ngại ngùng gõ cửa hàng vào những giờ người ta không muốn thức giấc để mua, hòa cho con một ly sữa.

* * *

Sau khi bà mẹ chết, đôi guốc nằm im lặng nơi góc tường tối.  Không người con nào để ý.  Nó âm thầm một đời theo chân người mẹ, hy sinh, vất vả, chịu đựng.  Lúc người mẹ còn sống, đôi guốc đã âm thầm như thế.  Bây giờ bà chết rồi, nó vẫn tiếp tục cái âm thầm của bao tháng ngày về trước.  Chẳng lẽ bất cứ điều gì liên quan tới mẹ đều lặng lẽ như thế sao?

Tình yêu của những người mẹ dường như bao giờ cũng âm thầm.  Xin những người con hãy khua động tình yêu âm thầm ấy của mẹ bằng một cánh hoa linh hồn.

Kìa, ngoài kia đất trời đã đang chuyển mình tìm mùa xuân.

Lạy Chúa, con cũng đang đi tìm mùa xuân cho cuộc đời.  Chân đi trong đời để tìm mùa xuân nhiều khi rất đau.  Và bây giờ con hiểu, con nhớ tới đôi guốc của mẹ con.

LM Nguyễn Tầm Thường, S.J.

(Trích trong Cô Đơn và Sự Tự Do)

CÓ THỂ LÀ TỘI NHÂN, NHƯNG KHÔNG ĐƯỢC LÀ KẺ HƯ HỎNG

CÓ THỂ LÀ TỘI NHÂN, NHƯNG KHÔNG ĐƯỢC LÀ KẺ HƯ HỎNG

ĐGH Phanxicô

“Chúng ta hãy tha thiết nài xin Thiên Chúa để dẫu chúng ta có yếu đuối phạm tội nhưng đừng bao giờ trở thành những kẻ hư hỏng (corrotti), không cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa nữa.”  Đây là nội dung bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng thứ sáu, ngày 29.01, tại nguyện đường thánh Marta.

Khởi đi từ bài đọc một trích sách Sa-mu-en, thuật lại chuyện vua Đa-vít và bà Bát Se-va, Đức Thánh Cha đã phân biệt giữa tội nhân và kẻ hư hỏng.  Khác với những người hay phạm tội nhưng biết ăn năn, kẻ hư hỏng không còn cảm thấy cần sự tha thứ của Thiên Chúa nữa.

“Con người có thể hay phạm tội nhưng luôn biết chạy đến với Thiên Chúa để chân thành nài xin sự tha thứ.  Chân thành nài xin chứ không bao giờ nghĩ rằng tự sức mình có thể đạt được sự tha thứ ấy.  Nhưng khi con người bắt đầu trở nên hư hỏng, không còn cảm thấy cần sự tha thứ; thì vấn nạn mới thực sự phát sinh.”

Tôi không cần Chúa

Đây là thái độ mà vua Đa-vít vướng phải khi vua say mê bà Bát Se-va, vợ ông U-ri-gia, một sỹ quan quân đội đang chiến đấu trên tiền tuyến.  Sau khi vua Đa-vít ăn nằm với bà Bát Se-va và biết rằng bà đã có thai, vua đã nghĩ ra những mưu kế để che dấu hành vi ngoại tình của mình.  Vua truyền cho ông U-ri-gia từ chiến trận quay về nhà để nghỉ ngơi và có thời gian gần gũi với vợ.  Nhưng ông U-ri-gia lại nghĩ rằng không nên về với vợ mà nằm ở cửa đền vua với tất cả các bề tôi của chúa thượng ông.  Kế hoạch không thành, Vua Đa-vít chuốc rượu cho ông U-ri-gia đến say khướt, nhưng âm mưu vẫn thất bại.

Như thế, vua Đa-vít đã rơi vào một tình huống khó khăn.  Nhưng chắc chắn rằng, vua vẫn có thể tự nói với mình: “Ta sẽ giải quyết được việc này.”  Vua đã viết thứ cho ông Giô-áp và gửi ông U-ri-gia mang đi.  Trong thư, vua viết rằng: “Hãy đặt U-ri-gia ở hàng đầu, chỗ mặt trận nặng nhất, rồi rút lui bỏ nó lại, để nó bị trúng thương mà chết.”  Vua Đa-vít nhất định khiến ông U-ri-gia phải chết.  Người lính can trường và trung thành này – trung thành với lề luật, với dân tộc, tổ quốc – đã phải mang lấy án tử bởi chính vị vua mà ông hết mực trung thành.

Tính “an toàn” của sự hư hỏng

Vua Đa-vít là thánh nhân nhưng cũng là tội đồ.  Vua đã sa ngã vì sự thèm muốn và khao khát nhục dục, nhưng Thiên Chúa vẫn rất yếu mến vua.  Vua Đa-vít cảm thấy an tâm, vì quốc gia đang hưng thịnh. Sau khi ngoại tình, với quyền lực của mình, vua đã làm mọi cách để đẩy người tôi trung đến cái chết, khi bỏ nó lại chiến trường nơi mặt trận nặng nhất.  Và cái chết vì gươm đao là chuyện vô cùng bình thường của nhà binh.

Sự kiện này xảy ra trong cuộc đời của vua Đa-vít khiến chúng ta cũng phải xem xét lại đời sống của mình: Liệu tôi có đang chuyển từ tội nhân đến một kẻ hư hỏng không?  Vua Đa-vít đã bước một chân lên nấc thang đầu tiên dẫn đến sự hư hỏng rồi.  Vua có quyền lực.  Vua có sức mạnh.  Và chính vì lý do đó, sự hư hỏng rất dễ xảy ra với chúng ta là những người có quyền lực, cho dù đó là uy quyền trong Giáo hội, tôn giáo hay trong kinh tế, chính trị…  Bởi vì, ma quỷ sẽ khiến chúng ta an tâm và tự nhủ: “Tôi có thể làm được.  Tôi sẽ giải quyết được mọi sự.”

Tội nhân, có thể chấp nhận; nhưng kẻ hư hỏng thì không

Sự hư hỏng – nhờ ân sủng Chúa, vua Đa-vít đã được giải thoát khỏi tình trạng này – đã làm thương tổn tâm hồn chàng thiếu niên anh dũng, người đã đối diện với tên Gô-li át khổng lồ và hạ hắn bằng một dây phóng đá cùng năm hòn đá cuội nhặt dưới suối.  Bởi vậy, hôm nay, tôi muốn nhấn mạnh với anh chị em một điều thôi:  Đôi khi chúng ta phạm tội hay đời sống của chúng ta quá an toàn, chắc chắn, chúng ta cảm thấy ổn vì có nhiều quyền lực; chính lúc đó sự hư hỏng sẽ bắt đầu.  Một trong những điều tồi tệ nhất mà sự hư hỏng gây ra là khiến người ta không còn cảm thấy cần sự tha thứ của Thiên Chúa nữa.

Bởi vậy, chúng ta hãy tha thiết cầu nguyện cho Giáo hội, cho Đức Giáo Hoàng, các Giám mục, linh mục, các nam nữ tu sĩ và tất cả mọi tín hữu: “Lạy Chúa, xin cứu chúng con.  Xin cứu vớt chúng con khỏi sự hư hỏng.  Chúng con là tội nhân, nhưng lạy Chúa, xin đừng để chúng con trở thành những kẻ hư hỏng, không cần đến sự tha thứ của Chúa nữa.” Chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa ân sủng này.”

ĐGH Phanxicô

Chuyển ngữ:  Vũ Đức Anh Phương, SJ

Tiếng hát liêu trai Thanh Thuý – 40 mùa xuân chưa quay về cố hương

Tiếng hát liêu trai Thanh Thuý – 40 mùa xuân chưa quay về cố hương

Cát Linh, phóng viên RFA
2016-01-31

  • RFA

Pic01.jpg

Nữ danh ca Thanh Thúy

Courtesy of www.thanhthuy.me

Your browser does not support the audio element.

Mời quí vị cùng Cát Linh nghe những ca khúc xuân và tâm tình của người nghệ sĩ đã trải qua 40 mùa xuân ở xứ người. Những ca khúc xuân bà đã từng hát luôn vang lên ở khắp nơi trong những ngày đón năm mới, dù là ở Việt Nam hay hải ngoại.

Tiếng hát liêu trai Thanh Thuý và 40 mùa xuân chưa quay về cố hương.

” Mình hát ra là mình rơi nước mắt, mình khóc. Mà ở dưới khán giả cũng khóc. Khi mình hát những bài về thân phận của người mất nước, người lưu vong. Cái cảnh đó rất là xúc động. Không bao giờ quên được những ngày đầu ở xứ người.”

“Trong thế gian đang vui mừng đón Xuân

Chắc nàng xuân năm nay đẹp bội phần

………………………………………….

Để cho đất nước vui trọn mùa xuân thắm xinh” (Tâm sự ngày Xuân)

“Cái cảm giác lúc đó nó quá buồn. Tại vì là ngày xuân nhưng đâu có ai thấy xuân đâu. Đi hát là ngày xuân đầu tiên của ngày tôi di tản qua Mỹ, nhưng thật sự những người dưới sân khấu nghe tôi hát cũng như tôi đứng hát trên sân khấu, nhưng mà cùng một tâm trạng là quá buồn. Đến nỗi mình hát ra là mình rơi nước mắt, mình khóc. Mà ở dưới khán giả cũng khóc. Khi mình hát những bài về thân phận của người mất nước, người lưu vong. Cái cảnh đó rất là xúc động. Không bao giờ quên được những ngày đầu ở xứ người.”

Xuân đầu tiên 1976, tha hương ngộ cố tri

Quý vị vừa nghe những lời tâm tình của nữ danh ca, Tiếng hát liêu trai Thanh Thuý khi nhắc nhớ lại ngày đầu tiên bà trình diễn cho khán giả của mình trên đất Mỹ, mùa xuân năm 1976.

Sau 40 mùa xuân xa quê, kể từ tháng Tư năm 1975, bà chưa một lần quay về quê hương. Cho dù, như lời bà kể, đã rất nhiều lần người ca sĩ rơi nước mắt khi đọc được, hay nghe được một lời nhắn gửi của khán thính giả yêu thương gọi mình quay về đứng hát trên quê nhà.

Nữ danh ca nhớ lại ngày đầu tiên hát cho khán giả của mình, ở một nơi không phải là quê hương, và lại là những ngày đầu năm mới, bà kể lại thế mà “lúc đó không có hát Xuân nhiều, chỉ hát bài Tâm sự ngày xuân, Chuyện buồn ngày Xuân. Sau đó là những bài như Vĩnh biệt Sài Gòn, gần như là những bài xa quê thôi.”

“Buồn lắm. Những ngày đó bên Seattle cũng có tuyết, lạnh lắm. Không một chút gì giống Việt Nam hết. Ở Việt Nam, những ngày Tết mình đi mua hoa, đi chợ Tết, mua sắm trái cây, mứt bánh để cúng giao thừa. những ngày tết cũng đi hát nhưng gần gũi với gia đình… Buồn lắm, không thể nào là nói giống được hết. Nó quá đau thương, chỉ có khóc. Không thấy mùa xuân là gì hết. Không có gì vui hết.”

“Sao anh đành bỏ em/Để ra đi một mình/ Giữa đêm sương lạnh lùng/ Chim xa bầy còn thương tổ ấm/ Huống chi người tội lắm anh ơi/ Xuân năm nào có nhau/ Mình chung ly rượu đào/ Mùi quê hương ngọt ngào…” (Chuyện buồn ngày xuân)

“Năm đó là năm đầu tiên, nên những người nhạc sĩ đặt những bài rất đúng tâm trạng, buồn lắm. Bữa đó hát cũng nhiều bài, mà phần nhiều là những bài xa quê hương, Sài Gòn niềm nhớ không tên, Quê hương bỏ lại…”

IMG_5796.JPG

Nữ danh ca Thanh Thuý và sáng tác của cố nhạc sĩ Anh Bằng

Có lẽ không phải chỉ riêng nữ danh ca Thanh Thuý, mà tất cả những người phải rời quê hương, đón Tết nơi đất khách năm đó cũng đều có chung một nỗi niềm. Sài Gòn những ngày cận Tết vẫn còn mới nguyên trong tâm trí của họ… nhưng thật ra là đã rất xa.

Xa từ tiếng pháo đì đùng khắp phố phường, đến xác pháo rơi vãi trong từng ngõ hẹp. Xa cả hình ảnh những cô thiếu nữ trong tà áo dài khoe sắc trong nắng xuân. Người nghệ sĩ, trong nỗi niềm nhớ cố hương khôn cùng, cố gắng mang lại cho khán giả của mình hơi ấm mùa xuân ngày cũ trên đất khách.

“Mùa Xuân mang cho thế gian giấc mơ thần tiên nhất đời

Đường xa thăm viếng nhau lời chúc Xuân tha thiết nghe tuyệt vời

Giàu sang đón mùa Xuân lâu

Nghèo không có mùa Xuân đâu

Hai kiếp đời người thì đỉnh núi kẻ thì vực sâu đớn đau…” (Mùa xuân hoa đào)

Khán giả là gia đình trong ngày xuân

“Sau đó tôi cũng đi hát nhiều lắm. Gần như Xuân nào cũng đi hết. Thành ra mình thấy ra đi là đi vậy thôi. Ở bên này có thấy gì là tết đâu. Vì Tết năm nào cũng phải rời xa gia đình để đi đến nơi khác chỗ mình ở là California. Năm nào cũng vậy, hát cho đồng bào mình nghe, hát cho khán thính giả mình nghe. Khán thính giả cũng cùng một tâm trạng với mình lúc đó. Lúc đó, người nào cũng đau buồn, nhớ nhà, nhớ những ngày xuân ở Sài Gòn, nó vui như thế nào. Tôi rất tiếc những ngày vui đó không còn nữa…”

“Nhặt cánh hoa vàng tim ngẩn ngơ

Ngoài hiên tin xuân đến bao giờ

Lòng thấy bồi hồi trong trí nhớ

Nàng Xuân sao vội đến

Không chờ không đợi một ai

Nào có vui gì để đón xuân

Mùa xuân năm nay thiếu ân tình

Từng cánh mai vàng trong xác pháo

Giờ đây đâu còn nữa

Những mùa xuân đẹp ngày xưa…” (Ngày về có tin xuân)

“Ngày về có tin xuân”, sáng tác của cố nhạc sĩ Anh Bằng là ca khúc xuân mà nữ danh ca Thanh Thuý đã thực hiện trong album nhạc đầu tiên sau khi đặt chân đến hải ngoại.

Rồi cứ từng mùa xuân trôi qua, người nghệ sĩ cùng với khán giả của mình nơi quê người mỗi năm “cùng nhau đón thêm mùa xuân”. Dẫu cho “xuân dù thay đổi biết bao lần” nhưng những hình ảnh yêu thương truyền thống của ngày Tết nơi quê nhà vẫn không phai mờ.

Thanh Thuý nói rằng những ngày xuân lưu diễn xa nhà, dù có buồn vì xa gia đình, người thân nhưng bà luôn thấy ấm cúng vì lúc đó, khán giả là tình thân.

“Tất cả những mùa xuân đó phải nói buồn thì buồn thật. Nhưng, phải nói là khán giả đến với mình rất dễ thương và đầm ấm. Coi như khán giả là những người trong gia đình của mình. Họ săn sóc từ những giọt nước mắt cho đến những cái bắt tay, những cái ôm, rồi an ủi nhau. Đó là hạnh phúc của mình đó. Tuy là buồn không được gần gia đình nhưng đó là những cái an ủi mình rất lớn.”

“Trên đường đi lễ xuân đầu năm

Qua một năm ruột rối tơ tằm

Năm mới nhiều ước vọng chờ mong

May nhiều rủi ít ngóng trông

Vui cùng pháo đỏ rượu hồng….” (Câu chuyện đầu năm)

40 mùa xuân trên đất khách

” Tôi cầu trời Phật, Thượng đế cho Việt Nam mình sống trong thanh bình, không còn những gì bất công, không vui nữa. Thiệt tình mà nói ai lại không muốn về. Nhưng bây giờ thì chưa được. Một ngày nào không còn vấn đề mất tự do như bây giờ thì tôi sẽ về. Nhưng ngày đó không biết mình còn sống hay không để về gặp những người thân thương của mình, khán thính giả của mình.”

Thế rồi sau bao nhiêu năm tự nhận là đã bôn ba rất nhiều, giờ đây, bà dành trọn những ngày Tết thiêng liêng cho gia đình, tình thân. Bà nói rằng mình đã có thể cúng ông bà và đón giao thừa với gia đình, nhưng điều mà mấy mươi năm qua, bà đã không có được trong những ngày đầu xuân. Nỗi đau buồn làm người ly hương trong mùa xuân đầu tiên đã nguôi ngoai được phần nào, mặc dù không thể nói là hết được.

“Khoảng 10 năm nay gần như không có Tết nào tôi nhận lời ở đâu hết. Trước đó, mình còn đi hát nhiều, nên mình phải đi. Bây giờ, sau 10 năm nay, tôi từ chối tất cả những show mời Tết, ngay cả những hội từ thiện, hay chùa, hay nhà thờ, tôi đều từ chối hết. Sau thời gian hết bôn ba, tôi thấy rằng mình phải ở nhà những ngày Tết.”

“Thứ nhất là tôi muốn ở nhà để lo sửa soạn đón giao thừa, lo cúng Phật. Đó là điều tôi rất cần. Vì cuộc đời của tôi, tôi nghĩ là Phật đã cho tôi rất nhiều phước lành. Cho nên tôi không đi hát những ngày xuân nữa để 30 là tôi lo cúng Phật, cúng giao thừa, ông bà cha mẹ. Mình phải cúng 3 ngày liền như vậy, từ mùng 1, mùng 2, mùng 3 đến mùng 4 mình mới đưa ông bà đi về trời. Gần 10 năm nay là như vậy rồi.”

Với người ca sĩ, âm nhạc là cuộc đời, là hơi thở, là nghiệp dĩ. Cho dù ở hoàn cảnh đau buồn nhất, là khi quê hương đã nghìn trùng xa cách; hay trong khoảnh khắc làm cho người xa quê nhớ về cố hương nhất là khi mùa Xuân về, thì người ca sĩ đã mang những âm thanh kỳ diệu đầy hoài niệm để xoa dịu nỗi niềm nhớ thương. Thanh Thuý đã mang tiếng hát liêu trai ma mị của bà đến với người Việt ly hương khắp nơi trên thế giới trong mấy mươi năm qua.

Dù thương nhớ, nhưng chưa một lần bà quay về để tìm lại hơi thở của mùa xuân trên mảnh đất chất chứa rất nhiều kỷ niệm, kỷ niệm của Sài Gòn và tiếng hát liêu trai.

“Tôi cầu trời Phật, Thượng đế cho Việt Nam mình sống trong thanh bình, không còn những gì bất công, không vui nữa. Thiệt tình mà nói ai lại không muốn về. Nhưng bây giờ thì chưa được. Một ngày nào không còn vấn đề mất tự do như bây giờ thì tôi sẽ về. Nhưng ngày đó không biết mình còn sống hay không để về gặp những người thân thương của mình, khán thính giả của mình.”

40 năm, một thời gian gần nửa đời người. Nhưng dù thêm 40 năm nữa cũng không thể làm phai nhoà hình ảnh của mùa xuân Sài Gòn trong tâm trí của người Việt Nam. Trong mùa xuân đó, giữa hoa mai, hoa đào, giữa những tiếng pháo mà chỉ còn là hoài niệm, có một tiếng hát liêu trai sẽ mãi vang lên, đưa ký ức người nghe quay về Sài Gòn khi có tin Xuân.

“Vật đổi sao dời ai có hay

Mùa xuân tha hương đất khách này

Nặng trĩu tâm hồn tôi mới nhớ

Tình xuân đâu còn ấm

Để mà nâng rượu mừng xuân”