Hội chứng về vườn

Hội chứng về vườn

Phạm Thanh Nghiên (Danlambao) – Chiều ngày 19/2/2016, ông Trương Tấn Sang đã có bản Dự thảo báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ 2011-2016 đọc trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội).

Trong đó, ông Sang với cương vị Chủ tịch nước đã khẳng định mình “có phần trách nhiệm trước những hạn chế, yếu kém của đất nước hiện nay”.

Không chỉ dưới thời ông Sang làm Chủ tịch nước, mà trong suốt thời kỳ đảng cộng sản Việt Nam cai trị, đất nước đã trở nên yếu kém và tụt hậu đủ mọi mặt. Đó là một thực tế không thể bao biện hay chối cãi. Chín năm trước, tôi đã từng khẳng định điều tương tự trong một bài viết. Và chi tiết này cũng được Tòa án thành phố Hải Phòng dẫn chứng để kết tội tôi “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”. Nguyên văn câu ấy như sau: Chính sách này (của ĐCSVN) đã làm cho người dân thấp kém cả về dân trí lẫn dân khí, đẩy cộng đồng vào tâm thế ỷ lại, phó mặc.

Các chuyên gia Ngân hàng Thế giới – qua tường thuật của bà Phạm Chi Lan- từng nhận xét Việt Nam là mô hình kỳ lạ nhất thế giới: Nước… không chịu phát triển!

Một số hình ảnh của trẻ em miền núi phía Bắc trong mùa đông 2015 (nguồn hình: Báo lề đảng)

Vào đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, ông Lý Quang Diệu trong một lần thăm Việt Nam và gặp Tổng thống Ngô Đình Diệm đã bày tỏ mong muốn hai mươi năm sau đất nước ông sẽ phát triển và giàu có bằng một phần Sài Gòn. Câu chuyện này khiến cho bất cứ người Việt Nam nào còn quan tâm tới vận mệnh của đất nước phải hổ thẹn và xót xa, đau đớn. Cho đến bây giờ, nhiều người vẫn còn thảng thốt với những câu hỏi “Tại sao…?”. Tại sao người cộng sản lại có thể đưa cả một Dân tộc bước những bước thụt lùi với tốc độ đáng kinh ngạc đến vậy? Bao nhiêu năm nữa, đời sống của người dân Việt Nam thời cộng sản sẽ bằng đời sống của người dân Miền Nam thời Việt Nam Cộng Hòa của mấy chục năm về trước? Và cần bao nhiêu năm nữa để Việt Nam đạt được những thành tựu như của Singapore hôm nay? Định mệnh thật khéo chọn dân tộc này để giáng xuống một đòn lịch sử tàn khốc và trớ trêu, dị hợm như thế. Hai chữ “giải phóng” đã trở thành một cụm từ dơ dáy, tục tĩu mà một người tử tế, có lương tâm, có hiểu biết sẽ không bao giờ dùng để chỉ ngày 30/4/1975.

Một số hình ảnh Sài Gòn trước 1975:

Quay trở lại với phát biểu của ông Trương Tấn Sang. Không biết ông Sang nhìn rõ với mức độ thế nào về cái “hạn chế”“yếu kém” của đất nước trên cương vị người đứng đầu Nhà nước mà ông tự thấy mình “có một phần trách nhiệm”? Điều này lại một lần nữa khiến tôi… tủm tỉm cười khi nghĩ đến cái bình thường và cái không bình thường của giới cầm quyền xứ ta lẫn xứ người. Xứ người, tức ở những nước văn minh, ông tổng thống, thủ tướng hay bất kể một ông/bà lãnh đạo nào nếu để đất nước bị tụt hậu, yếu kém sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước người dân. Để rồi nhẹ thì phải từ chức, nặng thì bị truy tố và ngồi tù tùy thuộc mức độ, hậu quả gây ra. Đấy là điều bình thường…. ở xứ người. Ở xứ ta, điều bình thường này không được áp dụng. Hình thức phổ biến nhất là… phê và tự phê (nghe qua tưởng dân chơi thuốc phiện), cùng lắm là kỷ luật về mặt… đảng.

Và khi “đồng chí” lãnh đạo nào đó lâu lâu nổi hứng phát biểu vài câu mang tính chất “tự kiểm điểm” thì báo chí tha hồ mà phấn khởi múa bút khen tài, khen cương trực thẳng thắn và liêm khiết. Phải tự mình phê bình mình trước quốc dân đồng bào để thiên hạ thấy cái chế độ này “dân chủ gấp triệu lần tư bản”. Hơn nữa, cái sự đồng thuận trăm phần trăm, tốt toàn phần toàn diện bây giờ đã trở nên lỗi thời rồi. Tốt quá dân nó nghi. Phải cho dân thấy rằng đảng và các vị lãnh đạo đảng tuy vĩ đại nhưng rất gần gũi và thẳng thắn. Trong một trăm phần trăm cái tuyệt đối đúng cũng có 1 đến 2 phần trăm cái chưa được chứ. Thế nó mới giống sự thật!

Cho nên có người nói: chưa có thời nào làm quan sướng như thời cộng sản. Và cũng chưa có thời nào làm dân khổ như thời cộng sản.

Ông Sang, cũng giống như nhiều người tiền nhiệm, đồng chí của ông. Tức chỉ khi xế chiều mới phát biểu những câu ra vẻ thẳng thắn hay mạnh mẽ. Mục đích để làm gì thì đã được nhiều người phân tích.

Gọi tên thêm một ông nữa cho bài viết được phong phú. Đó là chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng. Ông Hùng đã phát biểu về dự án Luật báo chí (sửa đổi) sáng 18/2/2016 như sau: “Quyền tự do ngôn luận là quyền hiến định… Các đồng chí nhớ rằng quyền mở mồm ra là quyền của mỗi người dân.

“Quản lý không có nghĩa là cấm đoán, quản lý mà để hiểu rằng siết lò xo lại không cho người ta làm cái gì là vi phạm Hiến pháp đấy. Nếu chúng ta đưa ra những điều cấm mà đúng thì tôi tin chắc là nhân dân ủng hộ, và cấm cái gì thì phải đưa vào luật.

“Tôi hỏi các đồng chí là Cụ Hồ lúc ở Pháp viết báo thì sao đây, Đảng ta khi còn hoạt động bí mật viết báo thì sao đây, Bác Hồ hoạt động bí mật ở Quảng Châu ra báo Thanh Niên thì sao đây? Xã hội cần tự do, dân chủ, cởi mở. Những gì cấm thì phải ghi cụ thể, không cấm thì người ta được làm”.

Cả ông Sang lẫn ông Hùng đều không có tên trong danh sách Bộ chính trị lẫn Ủy viên Trung ương khóa 12. Cả hai sẽ về vui thú điền viên sau khi hết nhiệm kỳ vào tháng 5/2016.

Đấy, vì thế cho nên tôi gọi những thể loại trên là “hội chứng về vườn”.

Nói về ông Dũng và hội nghị thượng đỉnh Sunnylands

Nói về ông Dũng và hội nghị thượng đỉnh Sunnylands

FB Trương Nhân Tuấn

20-2-2016

Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-Hoa Kỳ tổ chức vừa qua (15,16-2-2016) tại Sunnylands, California, báo chí (lẫn học giả) trong nước ca ngợi hết lời VN thắng lớn, mặc dầu bản Tuyên bố chung không có một lời nhắc đến TQ. Còn ông Nguyễn Tấn Dũng thì đặc biệt được tán dương vì đã yêu cầu Mỹ “có tiếng nói mạnh mẽ và hành động thiết thực hơn ở Biển Đông”. Vấn đề là VN thắng cái gì và yêu cầu của ông Dũng, Mỹ có thể nói (hay làm) được cái gì?

Về chuyến đi của ông Dũng, một người bị “trợt đài” quyền lực trong Đại hội 12, đáng lẽ không còn tư cách để được đảng CSVN ủy nhiệm đi tham dự Hội nghị Sunnylands. Có người nói rằng ông Dũng được đi là do vận động của cả hai phía, Việt Nam và Hoa Kỳ. Nếu đọc nội dung Tuyên bố chung được công bố (khoản 17), theo tôi, ông Dũng được đi là do áp lực của Hoa Kỳ chớ không do áp lực của phe thân ông Dũng trong đảng.

Bởi vì Hội nghị Sunnylands là hội nghị “cấp cao”, ở cấp “lãnh đạo nhà nước hay chính phủ”. Ban đầu Phạm Bình Minh được đảng ủy nhiệm cầm đầu phái đoàn đi tham dự. Nhưng ông này chỉ là “bộ trưởng bộ ngoại giao”, không phải là người đứng đầu nhà nước (hay chính phủ). Ông Dũng ở thời điểm này tuy rớt đài quyền lực, nhưng danh nghĩa vẫn còn ở cương vị thủ tướng (cho đến hết tháng 5-2016). Dĩ nhiên phía Hoa Kỳ không thể chấp nhận ông Minh, do nghi thức ngoại giao, buộc VN phải cho ông Dũng đi tham dự.

Lời lẽ của ông Dũng phát biểu trong hội nghị, hay trong buổi gặp mặt Obama, cũng như nội dung bài viết của ông này được đưa lên báo chí, cho thấy việc thiếu chuẩn bị của ông Dũng.

Trong nước, hiện tượng “nhổ cỏ tận gốc” của phe Bắc kỳ do ông Trọng cầm đầu đang có khuynh hướng trỗi lên. Cứ địa Phú Quốc mà con trai ông Dũng là lãnh chúa, hiện đang bị “chiếu tướng”. Các bài báo, phóng sự… có tầm ảnh hưởng xuyên quốc gia như việc phá hoại môi trường, hay việc cẩu thả ở cách thức nuôi thú làm hàng loạt cả ngàn con thú (hiếm) chết…

Rõ ràng phe Bắc kỳ của ông Trọng muốn lấy lại miếng bánh đang ở trong miệng của con trai ông Dũng.

Trong khi phe thân ông Dũng (nếu còn lại một nhóm nào đó gọi là thân ông Dũng) thì không thấy lên tiếng (hay có phản ứng đáp trả).

Vì vậy khi nói rằng ông Dũng được tham dự Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-Hoa kỳ ở Sunnylands là do áp lực của phe thân Dũng trong nước là không có cơ sở.

Về nội dung Tuyên bố chung, nhà báo (và học giả) VN tán dương rằng VN “thắng lớn”.

Vấn đề là Tuyên bố không đề cập một dòng về TQ.

Khoản 8 của Tuyên bố nói “mập mờ” về việc “cam kết duy trì hòa bình an ninh và ổn định trong khu vực… phi quân sự hóa và tự kềm chế trong các hoạt động”.

Vấn đề là TQ đã quân sự hóa đảo Phú Lâm (Hoàng Sa), đã xây dựng các đảo nhân tạo ở Trường Sa, tương lai gần sẽ củng cố các đảo nhân tạo này như các căn cứ quân sự (hải và không quân). Các việc này đã làm thay đổi hiện trạng và đe dọa an ninh khu vực.

Báo chí nước ngoài cảnh báo rằng, một tình huống như chiếc MH 317 của hàng không Mã Lai có thể sẽ xảy ra trên vùng trời Hoàng Sa.

Về câu chữ, việc “tự kềm chế” không có ý nghĩa cụ thể, giải thích sao cũng được. Lại còn không nói đến đối tượng là ai (phải phi quân sự hóa và tự kềm chế?)

Vì vậy người ta hiểu rằng nội dung tuyên bố là cam kết giữa HK và các nước ASEAN hơn là có mục tiêu (hay ám chỉ) Trung Quốc.

Ngược lại, theo tôi, Tuyên bố Sunnylands phần nhiều là ám chỉ cho Việt Nam.

Thật vậy, mặc dầu trước khi Hội nghị khai mạc, báo chí Mỹ đã lên tiếng rằng Obama đón tiếp 10 tên độc tài. Phê bình này thái quá vì dầu sao các nước Mã Lai, Phi, Indonesia, Miến Điện… đã là các nước dân chủ. Mặc dầu không thể so sánh vởi Mỹ hay các nước Châu Âu, nhưng thực chất chế độ các nước này có nền tảng dân chủ. Nhưng phê bình lại đúng cho trường hợp VN.

VN hiện nay là con “chiên ghẻ” trong bầy chiên ASEAN.

Khoản 4 của Tuyên bố hiển nhiên dành cho VN.

“4. Chúng tôi cam kết đảm bảo cơ hội cho tất cả người dân chúng ta, thông qua tăng cường dân chủ, quản trị tốt và tuân thủ các quy định của pháp luật, thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền và quyền tự do cơ bản, khuyến khích tinh thần khoan dung, ôn hòa, và bảo vệ môi trường;”

Các nước ASEAN, ngoài Việt Nam (Brunei và Lào), đều ít nhiều tôn trọng khoản 4.

Về dân chủ, VN là nước độc tài tệ hại nhứt, vì là nền độc tài cộng sản công an trị. Người dân VN không có một cơ hội nào, vì pháp luật không bảo đảm sự công bằng về quyền (tức mọi người bình đẳng trước pháp luật).

Đường vào đồn công an là đường ngắn nhứt để vào nhà thương hay nghĩa địa.

Còn về nhân quyền và các quyền tự do cơ bản ? VN luôn đứng đầu sổ trong các bản thống kê của thế giới về chà đạp, vi phạm nhân quyền. Còn tự do, mỗi người VN đều ở trong tù, khác biệt là tù nhỏ hay tù lớn.

Khoan dung ? cuộc chiến đã qua gần 1/2 thế kỷ, đến nay việc phân biệt bắc-nam, phân biệt hồ sơ lý lịch vẫn còn tồn tại trong các cách đối xử ở cấp lãnh đạo cao nhứt.

Cho đến các bản nhạc (vốn vô tội) viết trước 75 đến nay vẫn còn cấm hát. Một cậu nhỏ mặc quần áo “giống như” quần áo lính VNCH cũng bị kết án ở tù. Huống chi đến các việc khác liên quan đến chế độ cũ…

Còn về môi trường, trong khu vực chỉ có VN là nước mà môi trường bị tàn phá hơn hết. Cái gì bán được là CSVN bán hết, từ rừng gỗ cho đến hầm mỏ, bất kể việc khai thác có tác hại cho môi trường đến mức nào.

Vấn đề đặt ra là VN có tôn trọng và thực thi Tuyên bố này hay không ?

Đây là một tuyên bố về “ý định” hay một tuyên bố mang tính bó buộc pháp lý ?

Người ta sẽ xem xét thái độ của nhà nước CSVN đối với những người tự ứng cử quốc hội vào tháng 5 tới để kết luận.

Những nhà tranh đấu trong nước từ nay cảm thấy yên tâm khi dấn thân ra ứng cử.

Nếu đây là một “tuyên bố” có giá trị pháp lý ràng buộc thì dĩ nhiên nó có giá trị cao hơn là hiến pháp của VN.

Người đã đặt số 4 cho khoản này là có thâm ý ám chỉ điều 4 của HP VN.

Khoản 2 và 3 bản Tuyên bố dĩ nhiên cũng ám chỉ VN. Nhưng hai khoản này chỉ là “ghi nhận” mà không phải là “cam kết”. Dầu vậy cũng nên nhắc tới, nếu có dịp.

Về yêu cầu của ông Dũng, Mỹ cần có “có tiếng nói mạnh mẽ và hành động thiết thực hơn ở Biển Đông”, cũng không có giá trị thực sự.

Những gì Mỹ có thể nói (ở Biển Đông) Mỹ đã nói. Và Mỹ cũng đã làm những gì có thể làm.

Nguyên tắc cơ bản tạo thành nền tảng của luật lệ quốc tế (và nguyên tắc bang giao quốc tế) là “bình đẳng về chủ quyền giữa các nước”.

Hoa Kỳ không thể cho tàu hải quân làm hơn các việc mà luật quốc tế cho phép.

Ông Dũng muốn Mỹ can thiệp để TQ ngưng làm thay đổi hiện trạng cũng như ngưng việc quân sự hóa Biển Đông.

Mỹ chỉ có thể làm các việc này khi (các nước) chứng minh được các hành vi của TQ là sai luật.

Mỹ lên tiếng cảnh cáo TQ phải tôn trọng phán quyết của Tòa Trọng tài trong vụ kiện Phi-TQ. Đây là việc làm “tối đa” mà Mỹ có thể làm để giúp đồng minh Phi của họ.

VN là gì để Mỹ phải giúp ? Và TQ làm gì sai luật (với VN) để Mỹ có thể can thiệp ?

Câu trả lời là không là gì cả (và không có gì cả).

Trước luật quốc tế, các hành vi của TQ là phù hợp, ngoại trừ khi VN thuyết phục được dư luận thế giới ủng hộ chủ quyền của mình ở HS và TS.

Nhà nước CSVN hiện nay chỉ có thể thuyết phục được dân chúng và các học giả (dễ dạy) của mình chớ không thuyết phục được ai.

Trong khi HS và TS hiển nhiên là của VN. Lịch sử chủ quyền của VN, từ thời các chúa Nguyễn cho tới thời bảo hộ Pháp, sang đến VNCH thì được chứng minh. Sự liên tục chủ quyền của VN chỉ bị gián đoạn sau khi CSVN nắm quyền cả nước.

Tức là VN hiện nay vẫn có thể thuyết phục được Mỹ (và dư luận quốc tế) ủng hộ VN nếu vấn đề kế thừa VNCH được thể hiện. Điều này đã nói nhiều lần, không nhắc lại.

Tức là Mỹ chỉ có thể can thiệp sâu xa hơn trong vấn đề HS và TS, như trường hợp Mỹ ủng hộ vụ Phi kiện TQ, nếu vấn đề kế thừa VNCH được CSVN nghiêm túc thực hiện.

Về nội dung bài viết của ông Dũng, rõ ràng đã nói lên việc thiếu chuẩn bị của ông này. Tức là ông Dũng đi tham dự Hội nghị Sunnylands là do áp lực của Mỹ chớ không phải áp lực của phe thân ông này trong nội bộ đảng.

Bài viết có điều gì đáng chú ý?

Theo tôi chỉ có hai điểm. Thứ nhứt là “hoàn thiện hệ thống pháp luật đến đào tạo nguồn nhân lực” để VN có thể “tự vệ” khi gia nhập TPP.

Điều này tôi đã khuyến cáo, sau khi đọc tin “rò rỉ” của wikileaks về nội dung hiệp định TPP. Ý kiến của tôi như sau:

“Về phạm vi pháp quyền (juridiction – quyền xét xử, quyền tài phán), trước đây xí nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ (do cán bộ lãnh đạo thiếu khả năng) thì “trời mưa có đất chịu”, theo luật rừng XHCN, người dân nai lưng trả nợ. Bây giờ, xí nghiệp nhà nước làm ăn “cà chớn” (thí dụ vi phạm các điều khoản về sở hữu trí tuệ, về “hàng nhái”, về vệ sinh an toàn thực phẩm…) việc phân xử sẽ do một “tòa án của TPP”, tức là tòa án “tư nhân” đảm trách. Tức là “chủ quyền” của quốc gia bị mất vào tay tập đoàn tư nhân. Trong lâu dài, nếu VN vẫn không kịp đào tạo những chuyên gia luật học, chủ quyền quốc gia sẽ chuyển sang các tập đoàn luật gia quốc tế.”

Điều thứ hai là “hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân và thượng tôn luật pháp”.

Điều này tôi cũng đã khuyến cáo từ lâu “nhà nước pháp trị” và việc “thượng tôn pháp luật”.

Khi ông Dũng nói “hoàn thiện nhà nước pháp quyền”, tức là “nhà nước” này có vấn đề. Và khi nói “thượng tôn pháp luật” là nói đến “nhà nước pháp trị”.

Tức là, những điều quan trọng trong bài viết của ông Dũng đều lấy từ ý kiến của tôi.

Không phải nói điều này là chê trách ông Dũng, nhưng khen ngợi ông Dũng là người biết nghe lời phải.

Vấn đề là sự việc quá trễ để làm thay đổi hiện trạng.

Lúc còn tại chức, quyền lực trong tay, nịnh thần chung quanh tung hô lên tận mây. Ông Dũng đâu có ngó ngàng gì tới những ý kiến đúng đắn, có lợi cho đất nước.

Hồ sơ Biển Đông, nếu ông nghe tôi thì vấn đề (Biển Đông) VN đã không bị lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan. (Mà số phận của ông cũng không đến đỗi). Ông chỉ nghe gian thần và kẻ nịnh.

Như là thói quen, các lãnh đạo VN chỉ “nói hay, nói đúng” khi không còn nắm quyền lực.

Mà tương lai ông Dũng thì bất định. Ra nước ngoài thì ông Hà Vũ, Điếu Cày, bà Phong Tần có thể kiện ông vì những hành vi bức hại (thể xác và tinh thần). Kiện nhà nước thì khó nhưng kiện ông Dũng thì dễ.

Trong nước thì con cái ông thì đang bị phe Bắc Kỳ tìm cách bứng gốc.

Âu đó cũng là do “tầm nhìn” mà thôi.

Ca ngợi ông Dũng quá, hay đánh giá cao thực lực của ông Dũng còn mạnh trong đảng là không đúng. Ở đời người ta phù thịnh chớ không ai phù suy. Ông Dũng qui tụ được quần hùng là nhờ miếng mồi “quyền lợi và quyền lực”, thì bây giờ cũng vì “quyền lợi và quyền lực” mà những người này trở áo với ông.

Bài học cho các lãnh tụ tương lai: hãy nghe lời đúng chớ đừng bao giờ nghe lời nịnh bợ.

CHÚA KHÔNG ƯA NHỮNG MÊ TÍN DỊ ĐOAN

CHÚA KHÔNG ƯA NHỮNG MÊ TÍN DỊ ĐOAN

(Sống Mùa Chay)

Tuyết Mai

Từ khi Chúa Giêsu đi Rao Giảng Tin Mừng về Nước Trời thì không một lúc nào mà chúng ta nghe thấy Chúa Giêsu lại giảng Nước Trời là điều giả dối, không có thật hay tin vào chính Ngài là tin vào mê tín dị đoan mà không ngược lại là những hành vi tin vào mê tín dị đoan là do chúng ma quỷ xúi biểu chúng ta làm vậy.

Bởi nếu chúng ta tin vào mê tín dị đoan có nghĩa là chúng ta không hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa Đấng quyền năng vô song có thể làm nên tất cả, hủy diệt tất cả và những điều thuộc về chúng quỷ Satan.   Mà hiện nay nhà thờ Satan đã dần mọc lên cách công khai để chiêu dụ nhiều người nhẹ dạ đến theo thờ chúng.

Chúng ta con cái Chúa hãy thành thật và tự kiểm điểm những hành vi bất xứng của mình với Thiên Chúa xem là chúng ta thường ngày đã tin vào những mê tín dị đoan đến bao nhiêu phần trăm và tin tuyệt đối vào Thiên Chúa bao nhiêu phần trăm? Và số còn lại đi hai hàng là bao nhiêu phần trăm?.

Bao nhiêu người hiện đang tin vào bói toán, Tử Vi, coi Phong Thủy hay thỉnh thoảng chơi Cầu Cơ vào ban đêm chỉ để muốn biết rằng khi nào thì chúng ta bỗng chốc giầu có mà không cần dùng đến tài năng, khả năng cùng sức khoẻ mà Chúa đã ban cho … Qua mua vé số, đánh đề, cờ bạc và mọi hình thức của đỏ đen?.

Ai còn nhớ Chúa đã dẹp tan hình thức cờ bạc, đổi tiền, gian xảo ở nơi thờ phượng Chúa như là Đền Thờ theo nghĩa xác thực đã được diễn tả trong Phúc Âm? Nhưng có phải nghĩa bóng thì Nơi thờ phượng Chúa là ngay trong tâm hồn của chúng ta?.   Vì Chúa dạy Đền Thờ của Chúa là ở ngay chính trong tâm hồn và thân xác không phạm tội của chúng ta.

Nên Mùa Chay là mùa chúng ta hãy cố gắng dành thời giờ mà liên kết với Thiên Chúa với Đức Maria nhiều hơn, đến Tòa Giải Tội để xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cùng ăn năn hối cải để được Chúa thương mà cứu vớt linh hồn của chúng ta, nhất là trong giờ lâm tử, trong phút thập tử nhất sinh, chết bất đắc kỳ tử.

Vì chả ai mãi sống đời ở Trần Gian này mà hằng ngày chúng ta cứ phải bám vào những của chóng qua ấy.   Những của mà khi thân xác chúng ta không còn thì của ấy sẽ vào tay người khác tiêu xài, vung vãi, phung phí và rồi nó cứ thế hết vào tay người này đến tay người khác.   Bởi thế mà Hỏa Ngục có vô số kể con người khi còn sống vì tham lam tích góp của cải đã phải mất linh hồn sống đời rất quý và rất vô giá … Thì quả thật là vô phúc lắm thay!!!.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

19 tháng 2, 2016

CHÚA BIẾN HÌNH TRÊN NÚI TABOR

CHÚA BIẾN HÌNH TRÊN NÚI TABOR

(CN II Mùa Chay, Năm C)

Tuyết Mai

Ôi loài người tội lỗi của chúng ta thì sao có thể tưởng tượng được những hình ảnh chợt biến đổi, biến dạng của Chúa Giêsu qua một hình ảnh tuyệt vời mà trên Thế Gian chưa từng có ai có được diễm phúc để thấy được.   Mà chỉ có Chúa muốn cho ai thấy thì người ấy mới thấy được mà thôi dù rằng thấy bằng con mắt thịt như ba tông đồ của Chúa là Phêrô, Giacôbê và Gioan trong bài Phúc Âm của ngày hôm nay.   Hay bằng con mắt Đức Tin mà Thiên Chúa đã biến đổi được tâm hồn của rất nhiều người trong chúng ta.

Và đấy mới thật sự là hạnh phúc Thiên Chúa dành ban cho loài người vì Người đã quá đỗi yêu thương nhân loại mà củng cố thêm Niềm Tin cùng Hy Vọng tràn đầy cho chúng ta thấy được hình ảnh cùng dung mạo sáng ngời qua Chúa Giêsu; thật sự là Con Thiên Chúa.   Từ đó chúng ta có thể hình dung thêm được Nước Trời.   Hình dung thêm được cuộc sống ở Đời Sau trên Thiên Quốc luôn là sáng láng, thánh thiện, trọn lành, đẹp đẽ, tuyệt Mỹ và không hạnh phúc gì bằng.

Quả Chúa Giêsu đã hé mở một tia ánh sáng rực rỡ, sáng ngời, trong luồng ánh sáng đã làm cho ba ông tông đồ không bị chói lòa cái nhìn của con mắt thịt.   Nhưng các ông đã cảm nhận được một thứ ánh sáng rất dịu êm mà tâm hồn cứ muốn được mãi đắm chìm trong luồng ánh sáng ấy.   Do đó mà các ông đã không biết mình đã nói gì?.   Nhưng khi luồng ánh sáng ấy đã biến đi và nghe tiếng Chúa Giêsu nói thì các ông mới hoàn hồn và tỉnh lại giây phút của hiện tại.   Vâng lời Chúa Giêsu các ông đã giữ kín trong lòng và đã không thuật lại điều thấy ấy cho ai hay biết.

Còn chúng ta là con người tội lỗi nhưng đã biết ăn năn, hối cải và Trở Lại cùng Thiên Chúa thì được Người biến đổi ở dạng nào? Có phải Người chọn mạc khải cho chúng ta thấy được qua Con Mắt Đức Tin hay không? Hẳn là phải thế vì chúng ta đã cảm nhận được sự thay đổi nên tốt lành trong ánh mắt nhìn, biết cảm thương, biết chia sẻ cho anh chị em khổ nghèo đang sống lang thang không cửa không nhà, không người thân thương để cảm thông và để an ủi họ!? … Từ tấm bánh, quần áo, thuốc men và những lời an ủi hay khích lệ thật lòng từ trái tim nhân ái.

Ở mọi thời đại đã cho chúng ta thấy hình ảnh Cỏ lùng nhiều hơn Lúa nhưng Thiên Chúa Người vẫn luôn có hy vọng trên chúng ta vì nếu không thì Thế Gian này đã bị sụp đổ và bị nổ tung từ lâu lắm rồi.    Nhưng chỉ cần một tấm lòng mở rộng như cậu bé tốt lành kia đã đem 2 con cá và 5 ổ bánh mì lại cho Chúa để Chúa Giêsu có thể làm phép lạ mà nuôi 5000 ngàn đàn ông, chưa kể số đàn bà và con nít.   Đã thế các tông đồ lại còn lượm lại được 12 thúng đầy những khúc bánh mì vụn.

Hay chuyện của bà góa nghèo có tấm lòng vàng đã bỏ hết 2 đồng xu mà bà có vào thùng tiền, được Chúa Giêsu khen thưởng vì là số tiền có thể nuôi bà sống được 1 ngày nhưng hẳn bà tin rằng Thiên Chúa sẽ luôn luôn nuôi cho bà được đầy đủ.   Do thế mà bà luôn sống trong sự tin tưởng, phó thác trong bàn tay đầy quyền năng của Thiên Chúa là Đấng tối cao và là duy nhất.

Bài Phúc Âm của tuần này Thiên Chúa đã hé mở cho chúng ta thấy một chút quyền uy, lạ lùng, chói ngời và sáng tỏa như phép lạ mà Chúa muốn biến đổi trong tâm hồn tăm tối của chúng ta.   Là có mắt nhìn hướng về những điều thiện cùng việc làm tốt lành để làm cho gia đình chúng ta thay đổi.   Giúp xã hội nên tốt lành và như một cây nến cùng những cây nến khác từ từ biến thành cây đuốc sáng, bùng to lên như lửa trại hay trở thành ngọn Hải Đăng chiếu rọi vào bóng đêm mà nhiều người đang đắm chìm trong biển đời tội lỗi biết đâu là bến bờ của Yêu Thương mà quay trở về để tìm lại được sự sống sung mãn cùng người Mục Tử là Chúa Giêsu và Ràn của Ngài là Nước Trời, Nơi có sự sống muôn muôn đời bên ba ngôi Thiên Chúa.   Amen.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

21 tháng 2, 2016

GIỌT NƯỚC MẮT

GIỌT NƯỚC MẮT

Trầm Thiên Thu

Ai sinh ra cũng khóc.  Đứa bé khóc được là thân nhân vui mừng, đứa bé không khóc thì thân nhân… lo.  Vậy khóc là “tín hiệu tốt” chứ không phải là cười.

Rồi khôn lớn dần, trong cuộc sống, ai cũng đã từng hơn một lần rưng rưng nước mắt hoặc đầm đìa nước mắt.  Mà nói đến nước mắt là nói đến trạng thái khóc.  Thường thì khóc là thể hiện tâm trạng buồn.  Nhưng cũng có thể khóc vì vui, như thi hào Nguyễn Công Trứ mô tả: “Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.”  Buồn mà lại cười, đó là lúc người ta quá buồn, buồn muốn phát điên, buồn muốn khóc, và rồi khóc đến cạn nước mắt.  Có thể đó là “cái bí ẩn” trong cách nói của người Việt Nam thường nói: “Buồn cười quá!”

GIOT NUOC MAT

Cụ Nguyễn Công Trứ đã từng “khóc”, vì ông đã “ngồi buồn mà trách ông xanh” và mong ước:

Kiếp sau xin chớ làm người

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo

Nhưng với chúng ta, những người có niềm tin vào Đức-Kitô-tử-nạn-và-phục-sinh, chúng ta có quyết tâm tích cực hoàn toàn khác:

Kiếp sau xin vẫn làm người

Và làm thánh giữa Nước Trời trường sinh

Chúng ta không chỉ “vẫn làm người”, vì thân xác chúng ta cũng được sống lại và lên trời, đặc biệt là còn làm “thánh nhân.”  Nhưng trước khi “về Nhà Cha” hưởng phúc trường sinh vinh quang, chúng ta không thể không phải chịu đau khổ, nghĩa là có những lúc buồn nẫu ruột, buồn đến chết, buồn đến bật khóc… đến nỗi những người kém lòng tin đã tự tử.

Khóc có nhiều kiểu.  Khóc có nhiều nguyên nhân.  Khóc có nhiều mức độ.  Thế nên nước mắt cũng có nhiều loại, kể cả “nước mắt cá sấu.”  Và tất nhiên, nước mắt không chỉ có vị mặn mà còn có những vị khác nữa!

Với nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, ông có “giọt nước mắt ngà”: “Em đứng bên sông buồn, nhìn cuộc tình trôi qua và lòng người phôi pha.  Trên hai đóa môi hồng, nụ cười đã đi xa.  Ôi giọt nước mắt nào cho cuộc tình đầu… Thôi một giọt nước mắt này, cho cuộc tình đam mê, cho người tình trăm năm… Giọt lệ nào thương vay, tình đành tràn mi cay… Ôi giọt nước mắt ngà cho cuộc tình đầu tiên!”  Giọt-nước-mắt-ngà của NS họ Ngô là giọt-lệ-tình-sầu, một “kiểu” nước mắt của riêng ông.

Người đời có nhiều loại nước mắt, riêng người Công giáo có thêm loại nước-mắt-ăn-năn, nước-mắt-khóc-cho-tội-mình mang vị mặn chát, nhưng đó là loại nước-mắt-thánh-thiện rất cần thiết.  Nước mắt làm cho sáng mắt, và nước mắt có thể làm “trôi đi” phần nào nỗi buồn.

Tác giả Thánh vịnh có kiểu khóc thế này: “Tôi lang thang như người khóc mẹ, tôi tủi buồn cúi mặt xuống mà đi” (Tv 35:14).  Nước mắt chảy nhiều đến nỗi tác giả “xin lấy vò mà đựng nước mắt” (Tv 56:9), và thường đem “nước mắt hoà nước uống” (Tv 102:10).  Có những giọt nước mắt bình thường hoặc tầm thường, nhưng có những giọt nước mắt quý giá – gọi là châu lệ.

Thánh Phaolô cũng đã từng phải khóc: “Tôi phải than khóc nhiều người trước đây đã phạm tội, mà nay chẳng chịu ăn năn hối cải về những việc ô uế, gian dâm và phóng đãng họ đã làm” (2 Cr 12:21).

Thánh sử Luca tường thuật: “Có một phụ nữ tội lỗi cúi sát chân Chúa Giêsu mà khóc.  Chị lấy nước mắt mình mà tưới ướt chân Ngài, lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Ngài và lấy dầu thơm mà đổ lên” (Lc 7:38).  Những giọt nước mắt như vậy thực sự là châu lệ, vì đầy tâm tình sám hối và tin yêu. Do đó, Chúa Giêsu đề cao tấm gương của phụ-nữ-tội-lỗi này: “Yêu nhiều nên được tha nhiều” (Lc 7:47).

Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày Đại Tang của Giáo hội, đúng ra là Thế Giới Tang.  Nhiều người chú trọng nhiều đến “bề ngoài”, lo “bày tỏ” bằng những cách để đánh vào thị hiếu của giới bình dân.  Nếu thực sự ngoại tại có thể giúp nội tại thì cũng tốt, nhưng đừng thái quá.  Điều cần là “đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng” (Ge 2:13).  Khóc cho tội và chết cho tội là thành tâm sám hối và quyết tâm chừa tội, đó mới là cách Chúa muốn.  Cứ lo “diễn” bề ngoài mà không chú ý nội tâm thì chắc chắn Chúa không muốn.

Chính Đức Giêsu cũng đã khóc vì thương tiếc thành Giêrusalem (x. Lc 19:41), nhưng khi người ta than khóc Ngài vì thấy Ngài vác Thập giá, dù Ngài đang rất mệt mỏi và đau đớn mà vẫn ráng quay lại nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì.  Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28).

Đó cũng chính là lời cảnh báo Ngài nói thẳng với chúng ta.  Và rồi khi “Ngài ngự đến giữa đám mây”, nghĩa là lúc Ngài đến thế gian lần thứ hai, “ai nấy sẽ thấy Ngài, cả những kẻ đã đâm Ngài.  Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Ngài” (Kh 1:7).

Cuộc đời là chuỗi-đau-khổ-đầy-nước-mắt, nhưng chính đau khổ lại là diễm phúc: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5:5).  Khóc không bị chê trách mà được chúc phúc.  Giọt-nước-mắt đó đầy vị-mặn-yêu-thương.  Chỉ có một loại nước mắt tệ hại nhất và vô phúc nhất là giọt-nước-mắt-trong-hỏa-ngục, vì phải đời đời “khóc lóc và nghiến răng” (Mt 8:12; Mt 13:42; Mt 13:50; Mt 22:13; Mt 24:51; Mt 25:30; Lc 13:28).

Chúa Giêsu đã dùng chính sự thất bại để chiến thắng, dùng chính đau khổ để đạt vinh quang, và dùng chính cái chết để đạt sự phục sinh.  Đấng Cứu Thế đã vậy thì chúng ta không thể không như Ngài – nghĩa là cũng phải khóc lóc và rơi lệ hằng ngày.  Tuy nhiên, Ngài đã chết để chúng ta được sống, và rồi “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt chúng ta” (Kh 7:17; Kh 21:4).

Lạy Chúa Cha hằng hữu đầy lòng thương xót, vì tội lỗi khốn nạn của chúng con mà Ngài bắt Đức Kitô, Con Yêu Dấu của Cha, phải chết đau thương.  Chúng con thành tâm xin lỗi Đức Giêsu Kitô, xin cho nước mắt của chúng con được hòa với Máu và Nước của Ngài để nài xin lòng thương xót cho chính chúng con và toàn thế giới.  Chúng con khẩn thiết Chúa Cha thương xót và tha thứ cho chúng con, xin giúp chúng con trung tín với Ơn Chúa để đừng làm khổ Đức Giêsu chút nào nữa.  Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.

 Trầm Thiên Thu

Khi Chủ tịch Quốc hội đề cao dân chủ hóa

Khi Chủ tịch Quốc hội đề cao dân chủ hóa

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2016-02-19

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng phát biểu tại phiên thảo luận Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 17/2/2016.

Courtesy quochoi.vn

Your browser does not support the audio element.

Hợp lòng dân

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng và một số Đại biểu Quốc hội đã nặng lời phê bình Chính phủ trì hoãn Dự luật Biểu tình, cũng như làm Luật Báo chí phải dựa vào Hiến pháp chứ không thể đem chỉ thị Bộ Chính trị ra để biện giải. Những phát biểu hợp lòng dân được báo chí ghi nhận trong các phiên thảo luận tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 17 và 18/2/2016.

Một lần nữa chính phủ xin hoãn việc trình Dự luật Biểu tình qua Quốc hội với lý do các bộ ngành xung đột ý kiến và Dự luật dù đã được Bộ Công an soạn xong, nhưng chưa thể trình lên Quốc hội theo dự kiến vào tháng 3/2016. Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường không cho biết là việc đình hoãn kéo dài đến lúc nào, khi ông trình bày vấn đề này trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội hôm 17/2/2016.

Sau khi nghe giải thích của ông Hà Hùng Cường, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng phản ứng gay gắt rằng việc Chính phủ xin lùi trình Luật Biểu tình là thiếu nghiêm túc. Ông Nguyễn Sinh Hùng sẽ rời thế giới quyền lực của Đảng và Nhà nước sau cuộc bầu cử Quốc hội khóa 14 vào cuối tháng 5 sắp tới. Theo Saigon Times Online, Chủ tịch Quốc hội khẳng định quyền biểu tình là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp qui định. Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội về việc nhiều lần xin hoãn việc trình Dự luật. Tờ báo trích lời ông Nguyễn Kim Khoa, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng-An ninh đề nghị khẩn cấp làm ngay để bảo đảm thực thi quyền công dân theo Hiến pháp, nếu chậm mà hạn chế quyền công dân là trái Hiến pháp.

“ Đấy là nỗi hoảng sợ lớn nhất của chính quyền và họ cứ kéo dài mãi chưa cho ra Luật Biểu tình. Tôi nghĩ không chỉ có Luật Biểu tình mà những quyền tự do khác ở Việt Nam cũng thế thôi…
-Nhà báo Phạm Thành”

Theo TS Phạm Chí Dũng Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập, một tổ chức xã hội dân sự tự phát, thì Dự luật biểu tình đã bị đình hoãn nhiều lần mặc dù ngay từ năm 2011 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã xác định là cần có Luật Biểu tình để quản lý hoạt động này. Tuy nhiên, Bộ Công an là đơn vị chủ trì soạn thảo đã xin hoãn 2 lần và lần hoãn mới nhất do Bộ Tư pháp trình bày với Quốc hội là lần thứ 3. Từ Saigon, TS Phạm Chí Dũng nhận định:

“Thực ra vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau chỉ là một lý do rất là bề mặt. Lý do sâu xa thực chất ở Việt Nam có hàng triệu dân oan, hàng trăm ngàn nạn nhân về môi trường. Tất cả những thành phần như vậy họ đều muốn phản ứng đối với nhà nước về những chính sách bất cập và gây hậu quả nghiêm trọng đối với vấn đề sinh kế, mưu sinh và môi trường của họ. Thành thử không có gì ngạc nhiên việc nhà nước rất sợ những thành phần dân oan, nạn nhân môi trường hay gần đây gần đây là tiểu thương biểu tình. Nhưng mà bất chấp việc chưa có Luật Biểu tình thực ra từ mấy năm qua đã diễn ra làn sóng biểu tình liên tục ở Trung Nam Bắc. Năm 2015 vừa rồi đã chính thức hình thành phong trào cứu lấy dân oan ba miền, những người này thường xuyên kéo tới trụ sở văn phòng tiếp dân ở Ngô Thời Nhiệm Hà Nội…”

Nhà báo tự do Phạm Thành cư trú ở Hà Nội nói với chúng tôi về điều ông gọi là nỗi lo sợ của chính quyền và việc trì hoãn Luật Biểu tình trong nhiều năm qua.

“Người dân hiện nay chán ghét chế độ lắm rồi, cho nên bất kỳ một cánh cửa nào mở ra để cho người dân có chút tự do là người ta sẽ ùa lên, tập trung lực lượng để phản đối chế độ này. Đấy là nỗi hoảng sợ lớn nhất của chính quyền và họ cứ kéo dài mãi chưa cho ra Luật Biểu tình. Tôi nghĩ không chỉ có Luật Biểu tình mà những quyền tự do khác ở Việt Nam cũng thế thôi…”

Báo chí Việt Nam không có nhiều thông tin về điều gọi là những ý kiến rất khác nhau của các thành viên Chính phủ, nguyên nhân việc lùi ngày trình Dự luật Biểu tình một lần nữa. Theo báo mạng VnEconomy, Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường nêu ra vấn đề gây tranh cãi là vấn đề thẩm quyền cho đăng ký biểu tình, có cho người nước ngoài tham gia biểu tình hay không, các biện pháp bảo đảm như thế nào…

bieu-tinh-tcb-622

Biểu tình chống ông Tập Cận Bình tại Sài Gòn hôm 5/11/2015.

Báo mạng Một Thế giới trích lời ông Nguyễn Kim Khoa, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng-An ninh đề cập tới những điều gọi là nhận thức không đúng của Bộ Quốc phòng liên quan tới việc Bộ này chưa muốn có Luật Biểu tình. Theo đó Bộ Quốc phòng cho rằng, chờ khi nào Việt Nam bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự xã hội thì mới cho ra Luật Biểu tình, còn bây giờ cứ xây dựng các nghị định để quản lý.

Đại biểu Nguyễn Kim Khoa bác bỏ quan điểm của Bộ Quốc cho rằng ra Luật Biểu tình là đổi mới chính trị. Vị Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng-An ninh của Quốc hội nhấn mạnh, Luật Biểu tình là đảm bảo về quyền con người, quyền công dân ghi trong Hiến pháp chứ không phải là đổi mới chính trị. Ông Khoa cũng phản bác quan điểm của Bộ Quốc phòng đề nghị xây dựng Nghị định trước, tổng kết nghị định rồi mới xây dựng luật. Ông Khoa nhấn mạnh, Nghị định 38 về bảo vệ trật tự công cộng, cấm tụ tập đông người ban hành 2005 bây giờ đã trái với Hiến pháp.Tiếp tục làm Nghị định thì càng trái với Hiến pháp, Nghị định 38 trong đó có rất nhiều nội dung hạn chế quyền con người, quyền công dân.

Càng chế tài càng phẫn uất

Trong thể chế một đảng Cộng sản cai trị toàn dân, Luật Biểu tình dù soạn thảo cách nào cũng phải tuân theo chỉ đạo của Bộ Chính trị Trung ương Đảng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng phát biểu cương lĩnh Đảng cao hơn Hiến pháp, thật khó lý giải tại sao Chính phủ lại không thể hoàn thành dự thảo Luật Biểu tình dù có toàn quyền nhào nặn nó theo đúng quan điểm Bộ Chính trị. Lý giải vấn đề này, TS Phạm Chí Dũng phát biểu:

“Trong nội bộ khi mà có những ý kiến đề nghị cứ cho ra Luật Biểu tình, thì lại có những ý kiến khác phản đối là, thứ nhất những người dân oan, những nạn nhân môi trường nói chung là những người muốn đi biểu tình, kể cả những người bị coi là thế lực thù địch sẽ mượn cớ đó để hợp thức hóa công khai hóa hoạt động của họ. Thứ hai, cho dù Luật Biểu tình có được soạn thảo theo định hướng của Đảng có nghĩa là xiết những thủ tục quan trọng nhất của Luật Biều tình. Thế nhưng cũng không thể cản nổi vì có ai nghe hay không và nếu không nghe thì làm sao để chế tài, dù Luật có thể đưa ra chế tài. Thực tế là có quá nhiều vấn đề bất cập, bất công ở Việt Nam, việc chế tài nạn nhân thì càng làm cho ngọn lửa phẫn uất của người dân tăng thêm thổi bùng lên. Như vậy càng làm cho tình hình rối ren, nghe nói Luật Biểu tình đã soạn tới lần thứ mấy chục rồi cũng như Luật về Hội nhưng mà vẫn chưa quyết định được.”

“ Thực tế là có quá nhiều vấn đề bất cập, bất công ở Việt Nam, việc chế tài nạn nhân thì càng làm cho ngọn lửa phẫn uất của người dân tăng thêm thổi bùng lên.
-TS Phạm Chí Dũng”

Trong hoàng hôn nhiệm kỳ, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng có các phát ngôn ấn tượng hết sức mạnh mẽ. Ngày 18/2/2016 Ủy ban Thường vụ Quốc hội thảo luận Dự án Luật Báo chí, theo Thời báo Kinh tế Việt Nam, Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng phát biểu nguyên văn: “Luật không nên đem chỉ thị Bộ Chính trị ra đọc được mà phải làm theo Hiến pháp, Hiến pháp đã qui định quyền dân chủ, trong đó có quyền tự do ngôn luận của nhân dân…” Ông Nguyễn Sinh Hùng đã phát biểu như vậy khi Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông nhắc đi nhắc lại nhiều nội dung chỉ thị của Bộ Chính trị, đặc biệt quan điểm không tư nhân hóa báo chí.

Vẫn theo Thời báo Kinh tế Việt Nam, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng còn nhận xét là Dự thảo luật Báo chí mà bỏ ra ngoài không đề cập tới mạng xã hội, các trang thông tin điện tử. Trong khi trào lưu xã hội là ít mua báo in, sử dụng điện thoại cũng có thể tiếp cận thông tin. Ông Nguyễn Sinh Hùng nhấn mạnh, dân chủ là làm cho dân mở miệng, nhưng không chỉ nói bằng miệng mà nói bằng báo cũng là quyền của dân.

Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc băn khoăn, trang thông tin điện tử có phải báo chí hay không? thậm chí cả triệu người đọc một bản tin trên đó, tại sao không quản lý bằng Luật Báo chí.

Bộ trưởng Thông tin Truyền thông Nguyễn Bắc Son giải thích, Luật Báo chí chỉ quản lý các loại báo chí, còn các loại hình thức khác thì chịu sự quản lý của Nghị định 72. Theo lời Bộ trưởng, nếu đưa trang thông tin điện tử vào Luật thì vô hình chung thừa nhận truyền thông xã hội là báo chí.

Nhận định về những vấn đề vừa nêu, nhà báo tự do Phạm Thành từ Hà Nội phát biểu:

“Hiện nay báo chí tư nhân mặc dù nhà nước không cho thành lập, nhưng báo chí tư nhân tràn ngập. Thí dụ mỗi một ông chủ facebook, một chủ blog là một tờ báo tư nhân. Trên thực tế những tờ báo đó vẫn hoạt động công khai, tác động dư luận hướng dẫn dư luận cũng làm vai trò thực như báo chí như của bên lề phải quản lý. Thế thì ông Bắc Son không nhìn thấy thực tế đó mà ông ấy cứ tưởng rằng chỉ có báo chí nhà nước mới làm chức năng thông tin, hướng dẫn dư luận, tổ chức quần chúng…trên thực tế bây giờ mấy triệu facebook, hàng chục trang blog cá nhân, nhà nước muốn dẹp cũng không dẹp được…”

TS Phạm Chí Dũng trình bày ý kiến của ông về việc bùng nổ Internet và mạng xã hội làm cho chính quyền bối rối và hầu như bó tay trong việc quản lý. Theo lời ông một nửa dân số Việt Nam sử dụng Internet kèm theo sự phát triển nhanh chóng các mạng xã hội. Ông nói:

“Từ năm 2013 khi Nghị định 72 ra đời để quản lý các trang thông tin điện tử cho tới nay có thể nói hiệu suất quản lý của Bộ Thông tin Truyền thông là rất thấp, chỉ đóng cửa được một số trang thông tin điện tử liên quan đến báo chí nhà nước. Còn đối với mạng xã hội hay những trang thông tin nhà nước coi là lề trái thì hoàn toàn không thể can thiệp được…tình hình càng vượt ra khỏi tầm kiềm soát khi chứng kiến Đại hội 12 từ Hội nghị Trung ương 10 trở đi, mạng xã hội đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, chẳng hạn trang Ba Sàm nơi hội tụ những luồng tư tưởng trái ngược trong đó để xung đột lẫn chia sẻ với nhau và các phe phái được cho là đã chuyển tài liệu cho trang Ba Sàm đăng… Có lẽ Bộ Thông tin Truyền thông nhận thấy là không thể quản lý được, mà đã không thể quản lý được thì có được vào Luật Báo chí thì cũng vô nghĩa…”

Theo tình hình chung người dân Việt Nam sẽ tiếp tục biểu tình bất chấp Nghị định 38 và khi chưa có Luật Biểu tình. Còn Luật Báo chí dù có ra đời thì rõ ràng là chỉ để quản lý truyền thông báo chí nhà nước, vì quan điểm của Bộ Chính trị là không chấp nhận báo chí tư nhân. Còn người dân thì tự xoay sở với quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận qua mạng xã hội như facebook, blog và chấp nhận mọi rủ ro có thể xảy đến.

Xây dựng tình yêu

Xây dựng tình yêu

tinh yeu

Cho tới ngày nào ta chưa yêu, chưa bắt gặp được “một nửa kia” của mình, chưa khỏa lấp mình bằng hình bóng của một ai đó, chưa được tình yêu bao phủ trọn vẹn con người, ta chưa thực sự sống. Ta sinh ra, lớn lên và trải nghiệm sự hiện hữu của mình một cách tự nhiên như dòng chảy của con nước. Và nếu chỉ như thế thôi cho đến khi ta nhắm mắt lìa đời, thì cuộc sống của ta mới nhạt nhẽo và vô vị làm sao. Có thể nói, tình yêu là gia vị giúp mang đến cho ta bao điều tuyệt mỹ. Không có nó, tất cả mọi thứ bày biện ra trước mắt ta đều bình thường và như nhau cả. Nhờ nó mà ta biết thế nào là đắng cay, thế nào là ngọt bùi, thế nào là chua chát. Phúc cho người nào sớm tìm thấy tình yêu mà Tạo Hóa dành cho mình. Người ấy như đã tìm thấy viên ngọc quý và hưởng nếm được nét lung linh của nó vào những khoảnh khắc mới nhất của cuộc đời. Người ấy không phải chịu cảnh phòng trống đơn côi, không bị những giá lạnh đêm đông đụng chạm đến. Dù cho bao nghịch cảnh có đổ ập xuống, xung quanh người vẫn tràn đầy ánh nắng mùa xuân, với bao cành hoa tươi e thẹn bên cánh bướm ve vãn. Thế nhưng, bắt gặp tình yêu là một chuyện, có giữ nó ở mãi bên mình hay không lại là chuyện khác.

Tình yêu là một món quà. Nó đích thực là một món quà vì nó là cái ta nhận lãnh, chứ không phải làm ra. Sự thực là chẳng có ai có thể bằng khả năng của mình mà “làm ra” tình yêu cho riêng mình. Họ chỉ có thể cất công lên đường tìm kiếm, rồi bất chợt một lúc nào đó, họ bắt gặp mà thôi. Có người đã ví tình yêu như một tên trộm, lẻn vào trong mình lúc nào mình chẳng biết; cho đến khi mình giật mình tỉnh giấc thì phát hiện đã bị đánh mất trái tim. Không một lý trí nào có thể trả lời được câu hỏi là tại sao mình yêu người này mà không phải yêu người khác, tại sao mình lại nhớ và mong chờ người này chứ không phải người nọ, tại sao xuất hiện trong tâm trí mình là người này chứ không phải người kia. Tình yêu là thế. Nó hành động lén lút và tấn công bất ngờ. Khi trái tim đã bị đánh cắp rồi, thì ta chỉ có thể mỉm cười và thừa nhận mình yếu đuối. Nhưng chẳng khi nào ta lại vui khi mình bị mất mát như vậy cả, vì “đánh cắp trái tim” có nghĩa là đổ đầy vào đó thần dược của Thiên Đàng.

Nhưng tình yêu không phải là cái lãnh nhận một lần cho tất cả. Tình yêu không phải là cái trơ trơ năm này qua tháng khác. Tình yêu hệt như một em bé dễ thương, nằm ngọ ngậy, khóc oe oe, đòi mẹ chăm sóc. Tình yêu hệt như cây non cần được chăm bón, tưới nước, cắt tỉa. Tình yêu cũng như chiếc bình ngọc thạch quý giá, cần được người khác nâng niu, chìu chuộng và thưởng thức nhẹ nhàng. Không chăm sóc cho tình yêu, không nâng niu tình yêu, nó sẽ lụi tàn đi, héo úa đi, chết đi ngay lập tức. Và cũng như khi nó đến, nó sẽ ra khỏi cuộc đời ta một cách âm thầm, nhưng để lại trong ta một nỗi đau vô cùng tê tái. Khi ra đi, tình yêu sẽ mang đi cùng với nó tất cả mọi sự tuyệt vời nhất của ta, chỉ “dành tặng” cho ta những vết thương rỉ máu khó có thể lành lại. Vậy nên, khi đã yêu, ta hãy chăm lo cho tình yêu bằng những lời nói dịu ngọt, bằng sự nâng đỡ chân thành, bằng những quan tâm sâu sắc. Những bữa ăn thân mật, những cánh hoa bất ngờ, những nụ cười nhẹ, cái nắm tay, một nụ hôn truyền sức sống… tất cả đều là những “lương thực” rất tốt để nuôi dưỡng tình yêu.

Một trong những nét tuyệt vời của tình yêu chính là “sự ích kỷ” của nó. Nó không thích bị chia sẻ. Nó muốn một sự trọn vẹn. Chỉ yêu một nửa thì không phải là yêu. Thậm chí, yêu đến 99% thì cũng không phải là yêu. Trái tim sẽ không thể chịu đựng nỗi khi bị chia cắt làm hai, làm ba hay làm nhiều phần. Chỉ khi nào người ta trao dâng cho nhau một trái tim nguyên vẹn, trái tim ấy mới giúp cả hai thăng tiến và hưởng nếm hương vị ngọt ngào của tình yêu. Khi đã yêu, ta muốn mình trở thành “nhất” trong mắt người yêu và người yêu của mình cũng có một ước muốn như vậy. Một con tim không thể cùng một lúc trao cho nhiều người được. Khi trao con tim mình cho ai, ta trao cho người ấy trọn vẹn con người mình, không để sót lại điều gì cả. Thế nhưng, có một nghịch lý thường tồn tại trong ta là ta đòi hỏi người yêu mình phải chung thủy với mình, còn mình thì lại buông thả, yêu vô tội vạ. Ta cảm thấy đau khi bị người mình yêu phản bội, nhưng ta chẳng hề nghĩ đến cảm xúc của người khác thì mình phản bội người ta. Ta cao ngạo, cho rằng mình quá tuyệt vời đến độ không thể chỉ dành cho một người, nhưng khi người kia cũng có thái độ như vậy thì ta không chấp nhận được. Ta lồng lộn lên với bao cảm giác tức tối. Để tình yêu được triển nở, ta không được phép chia đôi con tim, không được phép thả lỏng mình chiều theo những cảm xúc thấp hèn. Đó là quy luật mà ta không thể phá bỏ được. Nó đòi hỏi ta phải hy sinh rất nhiều.

Dù tình yêu đòi sự độc nhất, nhưng nó cũng không chấp nhận một sự bó buộc hay kiềm kẹp nào. Một tình yêu sẽ chết khi người ta bóp nghẽn nó trong lòng bàn tay, chứ không để cho nó tự do tung tăng bay nhảy. Một tình yêu đích thực thì không làm cho người ta mất tự do, bị tù túng, nhưng làm cho người ta thấy mình được triển nở và thành toàn một cách thật sung mãn. Hãy cố gắng vun đắp và gìn giữ tình yêu, nhưng hãy làm điều đó bằng sự chân thành, bằng con tim nồng ấm, chứ đừng bằng những thủ đoạn và những toan tính đầy ích kỷ và muốn chiếm hữu của ta. Khi một tình yêu được trao ban, nó sẽ tự tìm đường để bắt gặp một tình yêu đồng điệu khác. Ta không cần phải vẽ đường cho nó, không cần lèo lái nó theo ý muốn chủ quan của ta. Lý do là vì lý trí không thể bắt trái tim yêu hay không yêu ai được. Yêu một người, hiển nhiên là mong muốn người ấy thuộc về mình, nhưng không phải là buộc người ấy phải cắt đứt tất cả mọi tương quan và sở thích của người ấy. Yêu một người thì cũng yêu luôn tất cả những thế mạnh và điểm yếu của người ấy. Yêu một người là cùng xây đắp với nhau con đường chung để hai người cùng bước. Yêu một người tuyệt nhiên không phải là đưa người ấy vào trong vòng kiểm soát của mình. Làm như thế, tình yêu sẽ mất đi khoảng không để vùng vẫy. Khi ấy, hoặc là nó sẽ tuột khỏi bàn tay ta, hoặc là nó sẽ vỡ vụn.

Tình yêu có thể là một nguồn mang đến hạnh phúc, nhưng cũng có thể là nguyên nhân gây ra nỗi đau đến vô cùng. Nó sẽ trở thành như thế nào, là tùy thuộc ở thái độ và lối hành xử ta dành cho nó. Hỡi những ai đang yêu, hãy tạ ơn Tạo Hóa thật nhiều vì bạn đã may mắn hơn biết bao người khác. Có những người cho đến bây giờ vẫn chẳng biết thế nào là yêu. Có những người yêu mà chỉ dám giữ trong lòng, không biết làm sao để tỏ lộ. Có những người yêu mà thậm chí không thể nói ra được tiếng yêu. Có những người yêu mà biết rằng mình sẽ chẳng thể nào đưa tình yêu đi đến sự toàn vẹn. Còn các bạn, các bạn đang sở hữu trong tay mình mọi thứ và chẳng có rào cản nào cho tình yêu mà các bạn đang thụ hưởng. Hãy biết trân trọng nó, gìn giữ nó, xây đắp nó bằng sự chân thành, bằng tất cả năng lượng và sáng kiến mà bạn có thể nghĩ ra. Đừng để nó héo mòn đi chỉ vì sự ích kỷ, tính nông nỗi và sự cao ngạo của mình. Tình yêu là thế đấy: quý giá nhưng mong manh vô cùng!

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

ĂN CHAY CHỮA BỆNH THÂN XÁC VÀ TÂM HỒN

ĂN CHAY CHỮA BỆNH THÂN XÁC VÀ TÂM HỒN

(Sống Mùa Chay)

Tuyết Mai

Con người chúng ta ai thường sống trong sự hưởng thụ và chìu chuộng thân xác hay chết này không chóng thì chầy cũng sẽ nhanh chóng chết vì không biết Tiết Độ.   Dễ hiểu là vì khi chúng ta ăn nhậu quá nhiều thì nhanh mang bệnh Tiểu Đường, Cao huyết áp.   Có mỡ nhiều trong máu, trong gan, trong mọi động mạch.   Bị loét bao tử rồi dẫn đến Ung Thư và nhiều chứng bệnh lạ chết người khác mà y khoa ngày nay cũng phải bó tay chịu thua không chữa được.

Còn ai chơi bời nhiều thì bị mang những chứng bệnh Giang Mai, bệnh Liễu, HIV và có thể dẫn đến bại liệt nơi đàn ông con trai.   Nói chung là nếu chúng ta sống một cuộc sống quá buông thùa, bất cần đời, trác táng thì cái chết sẽ đến nhanh hơn vì nhiều cách chết khác nhau.

Còn về Tâm Hồn của chúng ta thì như thế nào trong một thân xác sống buông thả như thế?.   Thưa rằng một thân xác bệnh hoạn thì Tâm Hồn của một người nó cũng bị èo uột, đau bệnh làm ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống Tâm Linh và biến nhanh con người trở thành Vô Cảm.   Là bởi nếu Tinh Thần của một người có khoẻ là do nhờ thân xác được khoẻ mạnh.   Hay đất nước có hùng mạnh, có phú cường là do nhờ ở những thân thể cường tráng của những thanh niên, thiếu nữ.   Biết yêu, biết có trách nhiệm và bổn phận trên bản thân, gia đình, xã hội, Tổ Quốc và Giáo Hội Công Giáo.

Mà nhìn Tổ Quốc VN của ngày hôm nay thống kê cho thấy rõ rệt là số beer mà dân VN tiêu thụ hằng năm, được sắp đứng ở hàng thứ Hai so với cả Thế Giới.   Đồng thời người dân VN ngày càng mê tín dị đoan, kinh tế suy thoái, đồng tiền bị mất giá, buôn bán hàng giả nhiều hơn so với những mấy mươi thập niên trước.   Bây giờ thì mọi thức ăn đều bị tẩm độc và nước uống cũng dơ bẩn không kém do lòng tham của con người đã hãm hại, đã giết chết nhau.   Nay thì hành lý ở phi trường VN người trong nước cũng như người ngoài nước bị rạch cắp một cách công khai, thưa là bởi do ai và do đâu đã làm cho một quốc gia bị tai tiếng như thế?.

Chúng ta thử hỏi xem những tâm hồn như thế có sống tốt được hay không khi mà ngay trong gia đình là cái Lò đào tạo nhân cách và đạo đức cho con cái nhưng cái Lò ấy nay không còn nguồn khí đốt (Là Chúa Thánh Thần) để làm nung nóng lên … Nên mọi điều đẹp đẽ, tốt lành nó hóa ra nguội lạnh và đã chết từ lâu rồi, thưa có phải?.

Nhưng cũng mừng thay là ngày nay chúng ta còn có rất nhiều gia đình họ vẫn sống tốt đẹp như câu “Gần bùn mà chẳng tanh hôi mùi bùn” và mừng vui vì những gia đình ấy luôn có sự hiện diện của Thiên Chúa, của Mẹ Maria.   Họ được Thiên Chúa chúc phúc, ban bình an vì sự cố gắng sống giữ 10 Điều Răn Chúa dạy.   Cùng hiểu rằng Thiên Chúa mới là Đấng ban cho con người Hạnh Phúc đích thực.

Vì hiểu rằng Thiên Chúa mới có nguồn An Ủi, Phù Trợ và là Khiên Thuẫn chắc chắn nhất để bảo bọc cho thân xác, cho tâm hồn và cho linh hồn sống đời của con người luôn yếu đuối, nhẹ dạ và luôn phạm tội mất lòng Chúa nhưng biết kịp dừng lại ở đúng thời khắc.   Cùng hiểu rằng Người luôn gìn giữ yêu thương chúng ta ở ngay tại đời này và mãi mãi ở muôn đời sau.

Do đó mà sự Ăn Chay lại là những liều thuốc bổ chữa lành mọi bệnh tật từ trong thân xác cả đến tâm hồn của từng người chúng ta.   Hiểu được thế thì sự Ăn Chay trong suốt 40 ngày không khác nào là thời gian giúp cho hết thảy chúng ta De-toxic hay gọi là giải độc cho thân xác của chúng ta được khoẻ mạnh hơn, tinh thần được minh mẫn hơn mà phân định được đâu là điều Thiện và đâu là điều Ác để chúng ta con cái Chúa được sống từng ngày một trong tình yêu Thiên Chúa và trong Ân Sủng của Người.   Amen.

Y Tá của Chúa

Tuyết Mai

20 tháng 2, 2016

PHẢI CẦU NGUYỆN THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA?

PHẢI CẦU NGUYỆN THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA?

CẦU NGUYỆN LÀ GÌ VÀ
PHẢI CẦU NGUYỆN THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA
?

  • Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Hỏi: xin cha giải thích cầu nguyện là gì ? Trong Phúc Âm Chúa Giêsu nói “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình và vác thập giá theo Ta.” Như vậy cầu xin Chúa cho khòi bệnh tật và mọi gian nan khốn khó ở đời thì có trái với lời dạy trên của Chúa và có tội hay không ?

Trả lời: Trước hết, xin giải thích cầu nguyện là gì.

Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên với Chúa để tâm sự hay nói chuyện với Chúa trong thân tình Cha con khi vui cũng như lúc buồn, khi gặp gian nan khốn khó hay lúc được những điều vui thỏa vừa ý.

Thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê su cũng nói : “đối với tôi, cầu nguyện là một sự hướng lòng lên, một cái nhìn đơn sơ hướng lên trời. Đó là tiếng kêu của lòng tri ân và của tình yêu trong cơn thử thách cũng như trong lúc hưởng niềm vui.”(St Therese of Licieux, Autobiography C. 25p)

Như thế cầu nguyện là tâm tình thân mật với Chúa trong niềm tin có Chúa là Cha nhân từ luôn lắng nghe mọi lời cầu nguyện, cầu xin của con cái loài người và hằng ban muôn ơn lành cho chúng ta, những người có đức tin và ngay cả cho những người chưa có đức tin, chưa biết Chúa và yêu mến Người, căn cứ vào chính lời Chúa Giêsu đã nói với các mộn đệ xưa như sau:

“Còn Thầy, Thầy bảo anh em : hãy yêu kẻ thù và và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính.” (Mt 5:44- 45)

Vậy chúng ta phải cầu nguyện cách nào cho đẹp lòng Chúa ?

Căn cứ vào kinh Lậy Cha mà Chúa Giêsu dạy các Tông Đồ xưa, chúng ta có thể rút ra được những chỉ dẫn sau đây:

Trước hết, Chúa nói cho chúng ta biết:

1- Chúng ta có một CHA ở trên trời

2- Vì thế, chúng ta phải nguyện xin trước hết cho danh CHA cả sáng, cho Vương Quốc của Cha được lan rộng và nhất là cho thánh Ý Cha được thực hiện dưới đât cũng như trên trời.

3- Sau cùng, chúng ta xin CHA ban cho những nhu cầu cần thiết như cơm ăn áo mặc, để sống, hạnh phúc ở đời này.

Như vậy, cầu xin cho được an vui, mạnh khỏe, có công ăn việc làm và khỏi bệnh tật là điều đẹp lòng Chúa, vì là con người, chúng ta phải cần những nhu cầu ấy bao lâu còn sống trên trần thế này.

Trong tinh thần cầu nguyện trên đây, chúng ta đọc thấy nhan nhản trong Kinh Thánh những lời cầu nguyện có nội dung ca ngợi, cảm tạ và cầu xin Chúa thương cứu giúp như sau:.

a- Cầu xin Ca ngợi (prayer of praises):

“Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa
Câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi
Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa
Xin các bạn nghèo hãy nghe tôi nói mà vui lên
Hãy cùng tôi ngượi khen ĐỨC CHÚA
Ta đồng thanh tán tụng danh Người.” (Tv 34 :2-4)

  1. Cầu nguyện tạ ơn (Prayer of Thanksgivíng)

Chúc tụng Chúa vì Người nghe tiếng tôi khẩn nguyện
Chúa là sức mạnh, là khiên mộc chở che tôi
Lòng tôi đặt tin tưởng nơi Người
Tôi đã được Người thương trợ giúp
Nên lòng tôi vui mừng hoan hỉ, cất cao tiếng hát tạ ơn Người” (Tv 28:6-7)

c- Cầu nguyện xin ơn (prayer of petitions)

Lậy Chúa, xin đoái thương, này con đang kiệt sức
Chữa lành cho con,vì gân cốt rã rời
Toàn thân con rã rời quá đỗi
Mà lậy Chúa, Chúa còn trì hoãn đến bao giờ ?
Lậy Chúa, xin trở lại mà giải thoát con
Cứu độ con, vì Ngài nhân hậu” (Tv 6:2-5)

Trong khi đi rao giảng Tin Mừng cứu độ, Chúa Giêsu cũng đã chữa lành cho biết bao người bệnh tật như đui, mù, què, câm điếc, phong cùi … cũng như làm phép lạ biến bánh ra nhiều để cho hàng ngàn người đói ăn no nê. Điều này cho thấy, Chúa đã quan tâm đến nhu cầu thể lý của con người, ngoài nhu cầu thiêng liêng là cần được cứu rỗi. Vầ để thỏa mãn những nhu cầu đó, Chúa Giếsu đã dạy câc Tông Đồ phải cầu xin với Chúa Cha nhân danh Người như sau:

“Thật, Thầy bảo thật anh em
Anh em mà xin Chúa Cha điều gì, thì Người sẽ ban cho anh em
Vỉ danh Thầy” (Ga 16:23)

Phải cầu xin Chúa CHA vì Người là nguồn ban phát mọi ơn lành và, phúc lộc tối cần cho con người sống vui và hạnh phúc ở đời này và nhất là được cứu rỗi để sống đời đời trên Thiên Quốc mai sau.

Như thế, cầu nguyện là một nhu cầu tối cần thiết cho những ai có niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng giầu tình thương và vô cùng nhân hậu. Phải cầu xin Người vì chúng ta thiều thốn mọi sự, và nhất là không có đủ sức để đứng vững trước mọi thù địch đe dọa niềm tin có Thiên Chúa và hy vọng được sống hạnh phúc với Người, ngay từ đời này trước khi được thực sự chiêm ngưỡng Thánh Nhan Người trên Nước trời mai sau.Cầu nguyện ví được như hơi thở của thân xác. Không có hơi thở thì không thân xác nào có thể sống được. Đó là lý do vì sao Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15:5) Không có Thầy, nghĩa là không có ơn Chúa phù giúp, thì ta không thể đứng vững và thăng tiến trong đời sống tin, cậy, mến, cũng như được an vui, mạnh khỏe khỏe và may lành trong trần thế. này.

Nhưng khi Chúa nói : “Ai muốn theo Thầy,phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24), chúng ta phải hiểu thế nào ?

Trước hết, nói đến thập giá là nói đến sự đau khổ mà bản chất con người không ai muốn chấp nhận. Nhưng đau khổ thập giá lại là phuơng tiện cứu độ hữu hiệu nhất mà Chúa Giêsu đã vui lòng chấp nhận để đền tội thay cho cả nhân loại trong chương trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa. Vì thế, muốn dự phần vinh quang phục sinh với Chúa Kitô, tức là được sống hạnh phúc đời đời với Chúa trên Thiên Quốc thì chúng ta cũng phải chia sẻ phần nào sự đau khổ của Người.

Tuy nhiên, nói chia sẻ đau khổ với Chúa, hay vác thập giá theo Người không có nghĩa là phải xin Chúa trao cho thập giá để vác, nhiều khốn khó để chịu. mà chủ yếu là phải vui lòng chấp nhận những thánh giá mà Chúa muốn gửi đến hay tha phép cho xảy ra trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Nói rõ hơn, khi gặp phải những gian nan khốn khó mà mình không mong muốn, nhưng không tránh được như bệnh tật, nghèo khó, thất nghiệp, bất công v.v. thi phải coi đó như những khổ giá mà Chúa muốn chia sẻ để cho ta được dự phần đau khổ với Chúa hầu được thông phần vinh quang với Người. Nhưng cầu xin Chúa giúp cho có sức chịu đựng và vượt qua những khó khăn, đau khổ này lại là điều phải lẽ và đẹp lòng Chúa vì Người nhân nhậu và vui thích đuợc ban ơn cho ta. Nói khác đi. Chúa không cấm chúng ta cầu xin Chúa cho mình hay cho người thân được khòi bênh tật, được có công ăn việc làm tốt, đươc thành đạt trong học hành v.v. Mặt khác, Chúa cũng không mong muốn chúng ta “anh hùng” xin Người gửi những đau khổ tinh thần và thể xác cho ta chịu để lập công.

Chính Chúa Giê su cũng không tự nguyện vác thập giá xưa kia. Khi đối diện với đau khổ này trong đêm Người bị nộp vì Giuđa phẩn bội, Chúa Giêsu đã thống thiết cầu xin cùng Chúa Cha như sau: “Lậy Cha, nếu Cha muốn, xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo Ý Cha” (Lc 22:42)

Lời cầu nguyện trên đây của Chúa Giêsu chính là khuôn vàng thước ngọc cho chúng ta bắt chước mỗi khi chúng ta muốn xin Chúa bất cứ ơn gì cho mình và cho người khác.Và cách cầu nguyên này chắc chắn đẹp lòng Chúa nhất vì chúng ta không xin theo ý riêng mình mà xin theo ý CHA trên trời như Chúa Giêsu đã xin..

Tóm lại, cầu xin Chúa ban cho những nhu cầu cần thiết như cơm ăn, áo mặc, sức khóe và bình an là điều tự nhiên không có gì sai trái, hay thiếu đạo đức. Điều quan trọng là phải xin cho được vâng theo Thánh Ý Chúa trong mọi sự mà thôi.

 

 

CÁM ƠN CALI (US)

CÁM ƠN CALI

Huy Phương

Huy Phương

mùa đông cali

Hơn một tháng trước đây, 20 tiểu bang của miền Đông nước Mỹ đã chịu một trận bão tuyết lịch sử, trận bão tuyết đã làm khốn khổ 85 triệu dân, gây ra tắc nghẽn giao thông nghiêm trọng, với 42 người chết. Tại nhiều nơi ở Mỹ, nhiệt độ hạ xuống dưới độ âm, băng giá bao phủ mọi nơi, đường sá ngập tràn trong tuyết lạnh. Đài truyền hình CBS đưa tin, chỉ trong ngày 9 Tháng Mười Hai, 2015, đã có đến 1,650 chuyến bay bị hủy, hơn một nửa là tại sân bay quốc tế Dallas-Fort Worth của hãng American Airlines trong tổng số hơn 6,000 chuyến bay đã bị hủy trên toàn quốc. Tình trạng mất điện do tuyết đóng trên các đường dây, làm gãy cột điện cũng phổ biến tại các tiểu bang Virginia, Maryland, và thủ đô Washington, DC. Hàng trăm nghìn gia đình đã phải chịu cảnh sống không có điện trong đợt bão tuyết này.

May quá, tôi là người đang sống ở California với những ngày nắng ấm chan hòa, cũng khó mà tưởng tượng ra cái cảnh tuyết xuống mịt mù, lạnh lẽo, cơn gió thổi buốt xương và những ngày cực nhọc dọn tuyết để kiếm một lối ra cho chiếc xe của mình, như câu chuyện cách đây 20 năm.

Tôi đến Mỹ vào một ngày nắng ấm cuối Tháng Tám, 1990. Quá cảnh tại San Francisco, gia đình tôi được chuyển máy bay đi Ontario, một phi trường khá lớn gần nhà cô em gái đứng ra bảo trợ. Đối với những người từ vùng nhiệt đới đến Mỹ, thời tiết Tháng Tám xem như khá lạnh với chúng tôi. Đến Ontario vào lúc 8 giờ 30 tối nhưng trời vẫn còn rất sáng, làm cho tôi có ý nghĩ là người Mỹ ngủ rất ít mà làm việc quá nhiều.

Một hai tháng sau, tôi nhận ra là người Mỹ làm việc nhiều thật, mỗi người hai ba công việc. Lúc nào cũng thấy họ tất bật, uống cà phê và đôi khi ăn sáng trên xe, phần đông đều thiếu ngủ, nhiều phụ nữ rời nhà rất vội vã, còn kẻ viền mắt qua cái kính chiếu hậu trên xe nữa, nhưng tôi thì không có việc làm. Thời gian bây giờ tôi thấy những người trai trẻ khoảng tuổi tôi, 53, khi đến Mỹ rất mạnh khỏe giỏi giang, mà hồi ấy bằng tuổi này, khi đến Mỹ, tôi cảm thấy mình già nua, ốm yếu quá. Nước Mỹ giàu có, không có công việc nào cho một “thanh niên” như tôi, chỉ mới đặt chân đến Mỹ vài tháng, không biết tiếng Anh, chỉ quen ăn mì gói chứ chưa biết ăn hamburger.

Thế là tôi đành mang mối hận với nước Mỹ, chịu cảnh thất nghiệp. An ủi cho tôi là thỉnh thoảng tôi cũng thấy nhiều anh chàng tóc cả tháng không cắt, râu không cạo mang chữ “homeless” đứng đầu đường. Bạn tôi nói họ lười biếng, nghiệp ngập không chịu đi xin việc làm. Tôi không lười biếng, nghiện ngập mà cũng không kiếm ra việc, kể ra cũng oan cho họ.

Nếu nói Mỹ không có việc làm cho tôi thì cũng không công bằng. Những việc như cắt chỉ, đóng khuy trong shop may, bỏ báo, mang cái bị đi bỏ tờ rơi quảng cáo, đi lượm thùng carton, lượm lon, hay đứng ở chỗ đèn xanh đèn đỏ… thì lúc nào cũng có. Trong hoàn cảnh ấy, tôi đành phải bỏ California bốn mùa nắng ấm, khí hậu ôn hòa mà đi!

Tôi nghe lời “dụ dỗ” của bạn bè nhắm hướng Philadelphia đi tới, người ta nói đi hái trái cây cũng có tiền, mà lại tiền mặt. Tôi nhắm khu South là nơi anh em H.O. đã tụ tập từ lâu, làm việc rất vất vả, nhưng kiếm khá nhiều tiền mà ít tiêu pha. Người ta nói đúng: “Ở Mỹ, không phải có cây đô la mà ai cũng phải vất vả khó nhọc mới có tiền!” Ở đây, một người mới nhập cư vào đất Mỹ phải vất vả gấp hai lần hơn một người sống ở California.

Bạn cứ tưởng tượng có những công việc làm mà bạn phải thức dậy từ 5 giờ sáng, khi trời đất còn lờ mờ, trong cơn gió tuyết lạnh lẽo, như nghề bỏ báo, nghề này, cái cửa xe luôn luôn phải hạ xuống. Hay khổ hơn phải chờ hai, ba chuyến xe bus dưới khí trời lạnh giá để đến sở làm, và chiều đến, giờ tan sở, cũng vậy, khi bạn phải trở về nhà.

Nhưng các bạn tôi ở đây, sau trên dưới 20 năm, ai cũng có một căn nhà tươm tất và con cái khá thành đạt.

Nếu bạn là một người đã đến và sinh sống ở California năm bảy tháng rồi mà phải đến Philadelphia thì bạn sẽ cảm thấy hụt hẫng. Philadelphia là một thành phố lịch sử của Hoa Kỳ có nhiều di tích lịch sử, với những khu phố, đền đài, nhà cửa tráng lệ, những cũng có những khu phố nghèo nàn đành cho những người mới đến nhập cư, đầy tội ác, trong những khu phố da đen, đường dầy dẫy những quán “bar.” Vách phố hay trường học đầy nạn vẽ bậy và trên đường phố những mảnh chai vỡ vất đầy ngoài đường. Mỗi đêm, gần như thường trực, tiếng xe cảnh sát hú còi qua những con phố một chiều, chật hẹp. Trong tâm trạng đó, đứa cháu ngoại tôi, mới lên năm, đã nói với tôi: – “Ông ngoại ơi, mình đi chỗ khác đi, đây đâu phải là Mỹ, ông ngoại!” – “Đi thì đi!” Thế là chưa đầy một tháng, gia đình tôi lại dắt díu nhau, rời bỏ Philadelphia để đi Virginia, như giã từ một mùa Đông u ám để trở lại mùa Xuân. Đúng nơi đây là mùa Xuân vì Virginia không những có lá mùa Thu đẹp mà hoa mùa Xuân cũng ngạt ngào.

Nhưng đến mùa Đông, Viginia thường chịu chung số phận của những cơn bão tuyết của miền Đông nước Mỹ. Cơn nóng chưa tan, trong nhà vừa tắt máy lạnh thì một tuần sau, người ta đã phải mở máy sưởi ấm. Tuyết xuống đêm ngày, đóng băng, rồi tuyết tan. Mùa hoa anh đào đẹp đẽ mới đây, mùa lá Thu vàng của Skyline hình như không hiện hữu ở nơi này. Tôi thấy nơi đây, hình như đời sống vất vả hơn ở California. Những căn phố mua bán, cửa ra vào có hai lớp, có những thứ cây chỉ sống được một mùa, mùa hoa nở trong những tháng Xuân cũng đem lại dị ứng cho mọi nhà, và tôi không thấy cảnh những ông già rỗi công ngồi đánh cờ trong khi một số người khác đứng bâu quanh, ngoài công viên hay trong phố chợ Việt Nam.

Đôi lúc tôi nhớ bạn bè ở xa, những bạn bè mà mỗi lúc tôi gọi họ thì họ chưa thức dậy lúc ban sáng, họ gọi tôi thì tôi đã lên giường vào buổi tối. Trong gia đình nhỏ bé của tôi, chưa có ai có một nghề nghiệp khiến phải giữ chân một chỗ. Những đứa cháu tôi, những năm tiểu học, có năm đổi ba lần trường, vì cảnh nhà thuê. Còn tôi, ngày trước tôi than không tìm ra việc, ngày nay với việc của tôi, chỗ nào cũng có, nếu chỉ cần năm, bảy đồng một giờ chịu khó đứng trong xưởng thợ. Con đường quá dài, tôi không bao giờ đi hết, dù tôi có cố gắng hết sức cũng không có nổi một căn nhà tươm tất, hay số thời gian hưu đủ mỗi năm, cứ đến mùa Hè, đi du lịch một chuyến thế giới. Tôi cũng không cần có một ngôi mộ thật đẹp trong một nghĩa trang đắt tiền đầy bóng mát nhìn xuống một hồ nước. Từ năm 1975 trở đi, tôi đã bỏ phí 25 năm cho một quãng đời thanh xuân không có gì bù đắp nổi. Trong cuộc đua đường dài, tôi không theo kịp bạn đến đích, con người ta không thể chạy lui, thì tôi đứng lại một chỗ.

Ở miền Đông, tôi thường nhớ đến California. Nhớ nắng ấm, nhớ bạn bè. Tôi có những người bạn nghèo, suốt 26 năm nay vẫn còn giữ nguyên một địa chỉ, trong khu chung cư một phòng. Tôi có nhiều bạn bè hình như thích hẹn chung một chỗ về, đó là khu đất trong Peek Family ở cuối con đường Bolsa.

Tôi thường nghe câu nói: “Hòn đá lăn hoài không đóng rêu!” Tôi là một hòn đá như vậy. Tôi đã quyết định trở về California. Các bạn đồng nghiệp người Mỹ tiễn tôi bằng một cái nhún vai hay lè lưỡi với hai chữ “động đất!” và nhiều người tin rằng rồi đây California sẽ trôi ra biển, ra biển rồi California sẽ trôi đi đâu, hay cứ tìm hướng Tây mà trôi tới?

Tôi trở về California cùng với mớ hành trang cũng như lúc bỏ California ra đi, chiếc xe hình như cũng không mới hơn nhiều so với thời gian năm năm qua. Khi tôi trở về, có nhiều bạn tôi đã sớm ra đi, mà từ đó đến nay, bạn bè bỏ tôi cũng không ít. Ít ra tôi còn viếng thăm được, thắp cho bạn một nén nhang và đưa bạn đi một quãng đường ngắn. Phần tôi, cũng như bạn, tôi đã chọn California là trạm cuối cùng.

Ở đây, chỉ cách quê nhà có một vùng biển thôi, khi chúng ta chưa chọn cho mình một quê nhà Việt Nam thì đành chọn mình một mảnh đất California.

California (dù Nam hay Bắc) vẫn được xem là chốn “gió tanh mưa máu,” thậm chí ở đây bây giờ có đến hai cộng đồng, hai hội chợ, hai tượng Đức Thánh Trần… Tại đây cũng có những cái “nhiều” đáng quý như 20 đài truyền hình, năm đài phát thanh, 20 tờ báo, có tờ phải bỏ tiền mua, nhưng cũng có tờ vứt ở chợ. Hai đặc tính của California là vui và… đông. Năm nào ở đây cũng có múa lân, đốt pháo, đôi khi còn có “bầu cua cá cọp” nữa, xem diễn hành Tết, xong ta lại đi hội chợ Tết.

Sáng nay, sau mấy ngày lạnh lẽo, trời nắng ấm, thấy đời bỗng vui, lòng hạnh phúc, muốn ra phố tìm ăn một bát phở hay uống một ly cà phê nóng, tình cờ được gặp anh chị Đàm Trung Pháp ở Houston, Texas, từ 40 năm nay, vừa mới “dọn về Nam California” được mấy tháng nay. Câu trả lời của cư dân mới của California, khi được hỏi lý do chọn nơi đây, là: “Khí hậu California quá tuyệt!”

Chừng đó thôi, cũng đủ!

Xin cám ơn California!*

Vài suy nghĩ nhân đọc 2 bài báo trên báo nhà nước VN

Vài suy nghĩ nhân đọc 2 bài báo trên báo nhà nước VN

Song Chi.

RFA

Bài báo thứ nhất “Đánh bom khách sạn Caravelle ghi dấu lịch sử” đăng ngày 15.2 trên báo Tuổi Trẻ. Đọc xong tự hỏi: Không hiểu sao đến giờ này mà họ còn tự hào về những chuyện như thế này?

Đánh bom một khách sạn ngay giữa trung tâm thành phố, mặc dù viện cớ là “nơi quan chức Mỹ và Việt Nam cộng hòa thường lui tới hội họp” nhưng cũng có rất nhiều nhà báo nước ngoài, dân thường…rõ ràng là coi thường sinh mạng con người, mà mục đích chỉ là “để đối phương không đắc chí”, nhưng thật ra là đánh ai?

“Có điều việc nổ bom hôm đó đã không như dự kiến bởi hầu hết các nhà báo ở khách sạn Caravelle thay vì đi ăn trưa và sẽ lãnh trọn sức nổ của trái bom, thì họ lại bận rộn theo dõi và tường thuật vụ sinh viên đòi Nguyễn Khánh phải từ chức!”

Đánh bom cả những nhà báo quốc tế, những người chỉ làm công việc của họ là đưa tin về những gì đang diễn ra? Như vậy mục đích thật sự là lấy tiếng, đồng thời gây tâm lý hoang mang xáo trộn trong người dân và phá hoại cuộc sống bình thường ở các đô thị miền Nam, bất chấp sinh mạng những người vô tội, không liên can.

Ai sống ở miền Nam thời hai miền Nam Bắc đánh nhau hẳn còn nhớ, những vụ đánh bom, ám sát…thường xuyên xảy ra tại Sài Gòn và các đô thị miền Nam, tại những nơi đông người như khách sạn, rạp hát, nhà hàng… Điển hình là vụ đánh bom Câu lạc bộ Gôn Sài Gòn năm 1960, vụ rạp hát Kinh Đô bị đánh bom năm 1964, khách sạn Caravelle bị đặt bom năm 1964, nhà hàng nổi Mỹ Cảnh trên sông Sài Gòn bị đặt bom năm 1965, vụ trường tiểu học Cai Lậy (Tiền Giang) bị trúng đạn pháo kích năm 1973…

Một số vụ ám sát như Nguyễn Văn Trỗi đặt bom trên cầu Công Lý, dự định ám sát Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ McNamara năm 1963, ám sát ký giả Từ Chung của tờ Chính Luận năm 1965, ám sát Nguyễn Xuân Chữ, Bộ trưởng Bộ Chiến tranh tâm lý năm 1966, ám sát Trần Văn Văn, Chủ tịch Quốc hội Sài Gòn năm 1966, ám sát giáo sư Nguyễn Văn Bông là Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh năm 1971… Ở nông thôn thì đặt mìn, giật sập cầu, phá đường…biết bao nhiêu dân thường phải chết oan.

Những việc làm này có khác gì với những hành động khủng bố của các tổ chức Hồi giáo cực đoan bây giờ? Đừng viện lý do thời chiến tranh. Chiến tranh, hai bên nã súng, ném bom vào nhau ngoài chiến trường là chuyện khác, còn đặt bom, gài mìn, pháo kích vào những chỗ đông người giết hại cả dân thường là khủng bố. Nhưng nếu người miền Nam nói thì người dân miền Bắc hoặc các thế hệ sinh sau đẻ muộn lại không tin, chỉ khi báo chí chính thức hả hê kể lại chiến công như thế này “Những trận đánh nổi danh ‘Biệt động Sài Gòn’ (báo CAND), “Tôi ám sát người sắp làm thủ tướng Sài Gòn” (Dân Việt) hay bây giờ là bài này, “Đánh bom khách sạn Caravelle ghi dấu lịch sử” (Tuổi Trẻ) v.v… thì khỏi còn tranh cãi chuyện có thật hay không nữa!

Bài báo thứ hai “Có một hòa thượng… biệt động Sài Gòn” được báo Tiền Phong đăng lại ngày 19.2 theo nguồn báo An Ninh Thế Giới. Thật ra những loại bài viết ca tụng chiến công “cách mạng”, ca tụng những con người “cách mạng” này lúc nào cũng đầy dẫy trên những tờ báo đậm đặc tính đảng như báo Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân, Công An TP.HCM, An Ninh Thế Giới…Không sao kể xiết. Chỉ là nhân tiện đọc và có những suy nghĩ về hai bài báo này mà thôi.

Bài “Có một hòa thượng… biệt động Sài Gòn” viết về nhân vật Hòa thượng Thích Viên Hảo, từng là trụ trì tại chùa Tam Bảo ở đường Dương Công Trường, quận 10, SG, rồi trụ trì Chùa Thiện Hạnh, nằm trong con hẻm nhỏ trên đường Đinh Tiên Hoàng, quận 1, SG cho đến ngày viên tịch 15.7.2005.

Theo bài báo, Hòa thượng Thích Viên Hảo là người tu hành, nhưng lại tham gia “cách mạng”, tham gia biệt động thành, một tổ chức của Việt Cộng trước đây chuyên hoạt động ngầm trong lòng chế độ VNCH từ dò la, do thám tin tức tình báo cho tới đặt bom, gài mìn, ám sát…các nhân vật có liên quan đến Mỹ và chính quyền VNCH nhưng thường cũng gây ra cái chết cho bao nhiêu dân thường vô tội như vừa nói trên. Nhân vật trong bài báo “đi đó đây hành phật sự, gặp các phật tử, đến các chùa… tụng kinh, niệm Phật và thuyết pháp nhưng đó chỉ là vỏ bọc bên ngoài. Thực chất ông đã trở thành chiến sĩ hoạt động cách mạng, có nhiệm vụ dò la địch tình, giao nhận tin tức tình báo…”, còn ngôi chùa Tam Bảo thì “đã trở thành nơi đi về, hội họp bí mật của đội biệt động thành trong một thời gian dài.”

Trong vụ Mậu Thân 1968, vị sư này ”vận chuyển vũ khí, đạn dược về cho cơ sở nội thành tập kết chuẩn bị cho cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Rất nhiều lần, nhà sư dùng xe gắn máy đi Củ Chi chở chất nổ, súng K54, súng và đạn cối 81 ly”

Đã đi tu, thấm nhuần tư tưởng triết lý của Phật giáo, thế nhưng Hòa thượng Thích Viên Hảo đã phạm luôn những giới luật hết sức nghiêm trọng của đạo Phật. Một là gian dối, khi dùng vỏ bọc tu hành để đi hoạt động tình báo, biến những hoạt động giảng giải Phật pháp thành chuyện khác, biến ngôi chùa thành nơi trú ẩn của biệt động thành…Hai là sát sanh, nhà sư tất thừa biết đạo Phật ngăn cấm sát sanh dù chỉ là một con kiến con muỗi, thế nhưng lại chở vũ khí, lên sơ đồ các trận đánh để giết người, cho dù lúc đó ông ta tin rằng đó là kẻ thù, là địch. Không chỉ thế, cả đời nhà sư hoạt động chính trị, được “thưởng nhiều huân chương cao quý của đảng cộng sản” cho đến tận ngày qua đời.

Bài báo này, cũng như bài báo trên Tuổi Trẻ nói trên và rất nhiều bài báo khác nữa, đã tự mình tố cáo những việc làm của đảng cộng sản VN trước đây, đó là đánh phá chế độ VNCH từ trong lòng phá ra, và không từ bất cứ một biện pháp nào từ đặt bom, gài mìn, ám sát, chuẩn bị cho vụ tấn công Tết Mậu Thân 1968, với âm mưu sẽ tổ chức tấn công bất ngờ vào dịp Tết là dịp mà trong nhiều năm hai bên đã có thỏa thuận không chính thức ngừng bắn 3 ngày Tết để đồng bào vui Xuân. Bài báo vẫn tiếp tục ca ngợi những “chiến công” trong cuộc chiến với Mỹ và với miền Nam VN, vẫn gọi địch, chúng…với giọng điệu căm thù.

Trong suốt thời gian chiến tranh và hơn 40 năm qua, năm nào đảng và nhà nước cộng sản VN cũng tổ chức kỷ niệm, ăn mừng tưng bừng, trọng thể những dịp có liên quan đến cuộc chiến, nhất là ngày 30.4. Báo chí truyền thông vẫn được huy động thường xuyên để nhắc nhớ đến chiến thắng của đảng, đến tội ác của “địch”, những cuốn sách, bộ phim về đề tài này vẫn tiếp tục ra đời…như muốn người dân đừng quên.

Một tỷ lệ khác biệt rất lớn cả về quy mô, số lượng và chất lượng tuyên truyền nếu so với việc nhắc nhở đến cuộc chiến tranh biên giới 1979, 1984, hải chiến Hoàng Sa 1974, Trường Sa 1988… với Trung Cộng. Trong khi trên thực tế chế độ VNCH đã “chết” từ lâu không còn là một mối đe đọa nữa, quan hệ Việt-Mỹ đã trở thành bình thường từ nhiều năm qua, thậm chí nhà nước VN còn đang phải trông cậy ở Mỹ rất nhiều để đối phó với mối nguy bị xâm phạm chủ quyền, độc lập toàn vẹn lãnh thổ lãnh hải từ phía Trung Cộng. Ngược lại, Trung Cộng trước đây và hiện nay vẫn luôn và đang là mối đe dọa lớn nhất, kẻ thù thường trực và thâm độc nhất của VN.

Nếu VN lại phải có một cuộc chiến tranh nào xảy ra trong tương lai thì chắc chắn sẽ là cuộc chiến tranh với Trung Quốc chứ không phải với Mỹ, càng không phải với VNCH đã chết. Vậy nhưng nhà nước cộng sản VN lại sử dụng rất ít công sức, nguồn lực cho sự tuyên truyền về những hành động của Trung Quốc trong quá khứ vả hiện tại. Cuộc chiến tranh biên giới 1979 trong rất nhiều năm không hề được nhắc tới một cách công khai, năm nay tuy báo chí đã nhắc tới nhưng vẫn không phải là nhiều, những hành động biểu tình tưởng niệm cuộc chiến này, tưởng niệm việc mất Hoàng Sa Trường Sa hay phản đối những hành độn hung hăng, xâm phạm chủ quyền, quân sự hóa biển Đông của Trung Quốc của người dân đều bị ngăn cấm, đàn áp, nhiều người còn bị bỏ tù, bị trù dập, xách nhiễu…

Liệu có thể xem đó là những hành động khôn ngoan về mặt ngoại giao, bảo vệ chủ quyền của đảng và nhà nước cộng sản VN?

Và đối với mấy triệu người Việt rời nước ra đi vì lý do không chấp nhận chế độ cộng sản, liệu họ có tin tưởng nổi vào những lời nói ngon nói ngọt “xóa bỏ hận thù, hòa hợp hòa giải” của nhà cầm quyền khi báo chí nhà nước vẫn cứ ngùn ngụt căm thù chế độ VNCH như thế?

Còn đối với người dân trong nước, thời buổi bây giờ không phải như trước đây vài chục năm, mười năm, khi người dân hầu hết còn bị bịt mặt bịt tai tin vào những luận điệu tuyên truyền một chiều, bóp méo sự thật của đảng và nhà nước cộng sản. Khi báo chí nhà nước hồ hởi kể lại những hành động khủng bố thời xưa, hay tự thừa nhận những huyền thoại một thời từ Lê Văn Tám, Nguyễn Văn Bé, Nguyễn Văn Trỗi…là không có thật hoặc có những chi tiết không đúng, hoặc được tô vẽ quá nhiều…thì chính là nhà nước này đã tự vả vào mặt mình, củng cố những điều mà người dân đã không còn tin từ lâu.

Trên bình diện quốc tế, chẳng có một quốc gia văn minh nào chấp nhận một nhà nước từng giành chiến thắng bằng mọi giá, mọi thủ đoạn, bất chấp sinh mạng con người cũng như áp dụng chính sách ngu dân, dối trá để giành và giữ quyền lực cả.

Cuối cùng, có lẽ đã đến lúc nhà nước này nên giành công sức tố cáo Trung Cộng-kẻ thù hiện tại và tương lai thay vì cứ say sưa hoài với quá khứ vàng…mã của đảng.