Mua nghĩa

Mua nghĩa

Phùng Huyên được Mạnh Thường Quân sai đi thu tiền nợ ở đất Tiết (1). Khi từ biệt Mạnh Thường Quân, Phùng Huyên hỏi: “ Nợ thu hết rồi, tôi mua gì mang về?”

Mạnh Thường Quân đáp: “Tiên sinh coi nhà này thiếu thứ gì thì mua thứ đó.”

Phùng Huyên dong ngựa tới đất Tiết sai một viên thơ lại gọi dân tới, ai thiếu nợ thì đối chiếu với tờ khoán. Đối chiếu xong cả rồi, Phùng Huyên đứng dậy, thác lời Mạnh Thường Quân cho hết số nợ, rồi đốt tờ khoán đi. Dân rất vui mừng, đều hô vạn tuế.

Khi trở về, vô yết kiến Mạnh Thường Quân, ông hỏi: “ Nợ thu được hết không, sao mà nhanh thế?.

Đáp:  “Thu hết rồi.”

Hỏi:  “Mua gì về?”

Đáp: Ngài bảo coi nhà này thiếu thứ gì thì mua thứ đó. Thần nghĩ trong cung của

Ngài  chứa đầy châu báu, hậu đình chật cả mỹ nữ, ngài có thiếu chỉ là thiếu nghĩa

thôi, nên thần đã trộm phép mua “nghĩa” về. Cho nên thần nói rằng ngài ra lịnh, cho dân hết số nợ, rồi đốt các bằng khoán đi. Thần mua “nghĩa” về cho ngài là thế.”

Mạnh Thường Quân không vui, bảo: “Được! Thôi tiên sinh về nghỉ”.

Khoảng một năm sau, Tề Tuyên Vương cất chức tể tướng của Mạnh Thường Quân. Ông  phải lui về đất Tiết. Chưa tới, còn cách trăm dặm, dân đất Tiết già trẻ suốt ngày đi đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân bảo Phùng Huyên: “ Tiên sinh mua “nghĩa” cho Văn này, đến hôm nay tôi mới được thấy.

  • Tiết là tên một nước nhỏ bị Tề diệt. Vua Tề tặng Mạnh Thường Quân làm phong ấp.

Sưu Tầm

Trong sách: “Chiến Quốc Sách” nhà xuất bản Trẻ năm 1989, trang 216 của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê

VỤ XỬ ĐỒNG NỌC NẠN VÀ ĐOÀN VĂN VƯƠN

VỤ XỬ ĐỒNG NỌC NẠN VÀ ĐOÀN VĂN VƯƠN

doanvanvuon

Vụ án Nọc Nạn là vụ tranh chấp đất đai xảy ra năm 1928 tại làng Phong Thạnh, quận Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu (nay là ấp 4, xã Phong Thạnh B, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu) giữa một bên là các gia đình nông dân Biện Toại, Mười Chức và bên kia là giới địa chủ cường hào ác bá và quan chức chính quyền thực dân Pháp cùng tham quan Nam triều. Vụ án phản kháng của nông dân Phong Thạnh được chính quyền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn vinh như một biểu hiện của sự đấu tranh và phản kháng của nông dân với chính quyền thực dân Pháp.

Nguyên nhân sâu xa của vụ án là những mâu thuẫn, bất công về đất đai có dính đến tham nhũng, hối lộ.

Trước 1900, một nông dân đến khai phá khu rừng ở rạch Nọc Nạn, được 73 ha. Năm 1908, nông dân này chết, để lại đất cho con là Hương chánh Luông.Luông qua đời, người con trai cả là Biện Toại thừa kế phần đất trên. Năm 1917, Hoa kiều giàu khét tiếng Bạc Liêu là Mã Ngân, thường gọi là Bang Tắc, muốn tranh chiếm đất đai nhà Biện Toại. Là người rành rẽ luật lệ, Bang Tắc mua lại phần đất giáp ranh Biện Toại của bà Nguyễn Thị Dương, nhưng trong hợp đồng ghi bán phần đất với ranh giới, bao trùm luôn khoảnh đất anh em Biện Toại đang sử dụng. Bang Tắc biết rõ đất của nhà Biện Toại mới chỉ có bằng khoán tạm.

Tranh chấp đất nổ ra, hai phía thưa kiện nhau bốn lần lên tỉnh Bạc Liêu và bốn lần lên Thống đốc Nam Kỳ, lên cả Toàn quyền Đông Dương. Năm 1919, Bang Tắc sai tá điền đốt một căn chòi ruộng và giết một con trâu của Biện Toại để dằn mặt. Anh em Biện Toại không phản kháng, chờ nhà chức trách phân xử. Viên quan phủ H. ở quận Giá Rai, theo dư luận nghi ngờ, đã nhận tiền của Bang Tắc, yêu cầu chia đôi phần đất: Biện Toại một nửa, Bang Tắc một nửa.

Cũng năm 1919, quan phủ Ngô Văn H. được cử giữ chức Chủ tịch Hội đồng phái viên (commission administrative), có trách nhiệm khảo sát đất đai, chính thức cấp bằng khoán đất ở làng Phong Thạnh. Hội đồng này xác nhận phần đất của gia đình Biện Toại thuộc về Nguyễn Thị Dương, và nay là của Bang Tắc.

Ngày 13 tháng 4 năm 1926, Thống đốc Nam Kỳ ký Nghị định bán sở đất 50 ha trên phần đất của Biện Toại với giá 5.000 đồng cho Bang Tắc. Đến đây, chính quyền chính thức công nhận phần đất mà gia đình Biện Toại đã hai đời khai thác và sử dụng là của Bang Tắc. Anh em Biện Toại vô cùng căm phẫn, chống đối ra mặt. Bang Tắc không dám làm to chuyện, bèn bán sở đất 50 ha cho một người rất quyền lực là bà Hà Thị Tr., mẹ vợ anh ruột quan phủ H.

Sơ lược về thảm kịch đồng Nọc Nạn

Sáng 16 tháng 2 năm 1928,hai viên cò Pháp là Tournier và Bouzou cùng bốn lính mã tà từ Bạc Liêu đến Phong Thạnh để tiếp tay viên chức làng tịch thu lúa của gia đình Biện Toại. Đến gần đống lúa, Tournier yêu cầu hương chức làng mời một người trong gia đình ra chứng kiến. Mười lăm phút sau, cô Nguyễn Thị Trong, em gái Biện Toại đi ra, dắt theo một bé gái 14 tuổi, tên là Tư. Tournier đuổi Trong, vì cho cô là phụ nữ và còn nhỏ tuổi, không thể chứng kiến việc đong lúa. Trong không đi, còn yêu cầu đong lúa xong phải ghi biên nhận.

Tournier từ chối, tát tai Trọng. Cô lập tức rút ra cây dao nhỏ. Tournier đập báng súng, làm cô ngất đi. Bouzou tước dao khỏi tay Trọng. Trong lúc lấy dao, ông này bị một vết thương nhỏ không đáng kể ở tay. Đứa cháu tên Tư bèn chạy về cấp báo. Anh em Biện Toại từ nhà chạy ra, mang theo dao mác gậy gộc. Họ chia thành hai tốp, tốp đầu do Mười Chức, em ruột Biện Toại, dẫn đầu. Tốp thứ nhì do bà Nghĩa (vợ Mười Chức) dẫn đầu, tổng cộng năm đàn ông, năm phụ nữ. Tournier ra lệnh cho lính chuẩn bị ứng phó, bắn chỉ thiên, nhưng Mười Chức không dừng lại. Tournier bèn bắn Mười Chức. Bị thương nặng, nhưng Mười Chức vẫn gắng nhào đến đâm lưỡi mác trúng bụng Tournier, rồi mới ngã xuống.

Bạo lực trở nên không thể kiểm soát. Bouzou rút súng bắn bị thương nặng bốn người phía Biện Toại. Hết đạn, Bouzou lại lấy súng của Tournier bắn tiếp, làm nhiều người thương vong. Sáng hôm đó, Mười Chức và vợ đang mang thai (bà Nghĩa), một người anh tên Nhẫn, đều chết. Nhịn, Liễu (hai em Mười Chức) bị thương nặng. Ba ngày sau, Nhịn chết tại bệnh viện. Về phía nhà cầm quyền, Tournier thiệt mạng ngày 17 tháng 2 tại bệnh viện Bạc Liêu.

Ngày 17 tháng 8 năm 1928 (Nghĩa là sau vụ án mạng đúng 6 tháng) Tòa Đại hình Cần Thơ xét xử vụ án Nọc Nạn.
Đây là vụ xử công khai của chế độ thực dân nên trừ tờ La Dépâche l’Indochine, tất cả báo chí Sài Gòn đều có mặt: L’Écho Annamite, Đông Pháp thời báo, L’Impartial, l’Opinion, Le Courrier Saigonnais, Le Phare, La Tribune Indochinoise.Nhân dân đến dự phiên tòa rất đông.

Chánh án là De Rozario, công tố viên là Moreau, Hội thẩm là ông Sự. Các luật sư biện hộ (miễn phí) cho gia đình Biện Toại là người Pháp, Tricon và Zévaco, theo lời nhờ của nhà báo Lê Trung Nghĩa.

Kết thúc phiên tòa, Tòa Đại hình Cần Thơ tuyên: Biện Toại, Nguyễn Thị Liễu (em út Toại) và Tia (con trai Toại) được tha bổng. Cô Nguyễn Thị Trọng, sáu tháng tù (đã bị tạm giam đủ sáu tháng). Miều (chồng Liễu), hai năm tù vì có tiền án ăn trộm.

Tuy các quan tòa là người Pháp trong bộ máy tư pháp của thực dân nhưng dư luận nhân dân rất ủng hộ vì công lý đã được tôn trọng. Phiên tòa công khai không có bất cứ sự đe dọa, cấm cản nào của nhà chức trách.

Từ vụ án Nọc nan nghĩ về vụ án Đoàn văn vươn.

Vụ án cưỡng chế đất đai ở Tiên Lãng là vụ án về tranh chấp đất đai giữa ông Đoàn Văn Vươn ở Cống Rộc, Vinh Quang cùng gia đình và Ủy ban nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng. Vụ án thu hút dư luận Việt Nam vì đây được coi là đỉnh điểm về xung đột về đất đai, của những bất cập về cả pháp luật đất đai, việc thực thi pháp luật ở các cấp địa phương và là một tổn thất chính trị to lớn. Kết quả là 4 công an và 2 người thuộc ngành quân đội bị thương,6 người dân bị bắt và bị khởi tố, việc thu hồi đất bị hủy bỏ, một số cán bộ địa phương bị đình chỉ công tác và bị cách chức.

Đoàn Văn Vươn sinh sống tại Cống rộc, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng,từng phục vụ trong quân đội nhân dân Việt Nam, là kĩ sư nông nghiệp tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Từ năm 1993, ông Vươn thực hiện việc quai đê lấn biển để nuôi trồng thủy sản. Ông khởi nghiệp bằng việc bán tài sản, vay mượn bạn bè, người thân và ngân hàng, chịu nhiều thiệt hại mất mát trong quá trình lấn biển, bao gồm cái chết của con gái đầu 8 tuổi bị rơi xuống cống chết đuối trong một lần theo bố mẹ ra đầm.

Theo tài liệu của Wikipedia năm 1993, huyện Tiên Lãng ban hành quyết định giao cho Đoàn Văn Vươn diện tích 21ha đất bãi biển khu vực nam cống Rộc thuộc xã Vinh Quang để sử dụng vào mục đích nuôi trồng thủy sản, thời hạn sử dụng là 14 năm. Trong quá trình sử dụng ông đã đắp bờ bao để sử dụng vượt quá diện tích được giao.

Từ năm 1995, ông đã xây được một con đê cao tạo thành bờ bao cho một vùng đầm rộng lớn hàng chục ha cùng hàng ngàn cây sú, vẹt mọc lên tạo thành cánh rừng chắn sóng.Gia đình ông đã có đầm nuôi tôm, cá để sinh sống.

Tháng 3 năm 1997, ông Vươn làm đơn xin giao đất bổ sung phần diện tích lấn biển ngoài diện tích được giao. Tháng 4 năm 1997, huyện Tiên Lãng ra quyết định giao bổ sung cho ông Vươn 19,3ha giáp với diện tích đã giao, thời hạn 14 năm. Tổng cộng ông Vươn được sử dụng 40,3ha đất để nuôi trồng thủy sản.

Đê lấn biển của ông còn được cho rằng đã góp phần giúp nhân dân trong vùng không phải lo vỡ đê mỗi khi bão lũ.Ông Vươn đã đắp được một số đoạn đê để bảo vệ đầm thủy sản của mình, ví dụ như đoạn đê công vụ. Chính quyền huyện sau này cũng đắp thêm được một số đoạn nhỏ của đê công vụ, nhưng lại nhận rằng chính quyền đã có công đắp đê chứ không phải ông Vươn. Việc này đã bị người dân địa phương phản đối.

Đến thời điểm hết hạn giao đất, năm 2009, huyện Tiên Lãng đã làm thủ tục thu hồi toàn bộ 40,3 ha của ông Đoàn Văn Vươn ( ? ). Tuy nhiên, ông Vươn đã khiếu nại việc thu hồi gộp cả 19,3ha của ông lên huyện, sau đó không đồng tình quyết định của huyện, ông khởi kiện lên Tòa án.

Ngày 27 tháng 1 năm 2010, Tòa án huyện Tiên Lãng đã xét xử sơ thẩm và bác đơn khởi kiện của ông Vươn; giữ nguyên quyết định thu hồi. Đoàn Văn Vươn tiếp tục kháng cáo bản án sơ thẩm. Tóa án Nhân dân thành phố Hải Phòng đã thụ lý hồ sơ và tiến hành “hòa giải” bằng “Biên bản thỏa thuận”: nếu ông rút đơn thì UBND huyện Tiên Lãng sẽ tiếp tục cho thuê đất.

Sau khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử ngày 19 tháng 4 năm 2010, ông Vươn rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo. Ba ngày sau, Tòa án Nhân dân thành phố Hải Phòng quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm vụ án hành chính này. Sau đó, huyện Tiên Lãng đã nhiều lần gửi thông báo làm việc với ông Vươn về việc thu hồi đất đã hết thời hạn sử dụng. Ông Vươn vẫn yêu cầu huyện tiếp tục cho ông thuê đất để nuôi trồng thủy sản.

Sáng 5 tháng 1 năm 2012, huyện Tiên Lãng đã tiến hành cưỡng chế với lực lượng đông đảo hơn 100 người bao gồm cả lực lượng công an và quân đội do phó chủ tịch huyện Nguyễn Văn Khanh làm trưởng ban cưỡng chế nhưng đã bị gia đình ông Đoàn Văn Vươn chống trả. Đoàn Văn Vươn vắng mặt vì lúc đó bận lên Viện Kiểm sát nhân dân Hải Phòng kháng cáo nhưng gia đình đã dùng mìn tự chế và đạn hoa cải bắn trả nhằm vào lực lưỡng cưỡng chế, hậu quả là 4 công an và 2 người thuộc ngành quân đội bị thương.

Vụ án chấn động này đã gây nên một làn sóng bất bình trong cả nước.

Nguyên Chủ tịch nước Việt Nam, Lê Đức Anh nói, trong vụ cưỡng chế này, chính quyền huyện, xã đều sai và đây là bài học mà chính quyền cả nước phải rút kinh nghiệm.Ông cũng cho rằng “Thành ủy Hải Phòng và UBND TP Hải Phòng phải có trách nhiệm xử lý, làm sai chỗ nào thì phải nhận sai ở chỗ đó, không được trả lời loanh quanh và không được che giấu sai phạm. Trả lời tiền hậu bất nhất là không thể được” và “sử dụng bộ đội để cưỡng chế với dân là tuyệt đối sai”

Theo Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, đây có thể coi là một tổn thất chính trị lớn.

Ngày 2/2/2012, văn phòng Chính phủ cho biết thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng quyết định sẽ chủ trì họp chỉ đạo giải quyết vụ việc. Ngày 10/2, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kết luận chính quyền đã sai toàn diện trong vụ Tiên Lãng.

Ngày 18/3, TAND TP Hải Phòng đã ấn định thời điểm xét xử hai vụ án liên quan đến vụ cưỡng chế thu hồi đất của gia đình ông Đoàn Văn Vươn ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng (Hải Phòng). Theo lối dùng văn phạm hành chính của ngành Tư pháp XHCN Việt nam thì đây là vụ xử Đoàn Văn Vươn với tội danh “Giết người, chống người thi hành công vụ. Cách dùng ngôn ngữ có vẻ “thực dân” hơn cả tòa đại hình thực dân Pháp. Điều này gây ra rất nhiều bức xúc cho dư luận xã hội.

Như đã so sánh ở trên, vụ án Nọc Nạn do các quan tòa thực dân người Pháp xét xử những người nông dân Việt nam hóa ra khá công bằng thể hiện trong kết quả nghị án. Vậy, trong vụ án Đoàn Văn Vươn, các quan tòa của đảng xẽ hành xử ra sao khi phía bị cáo là những người nông dân bị cướp đất, cướp thành quả lao đang là một dấu hỏi lớn đặt ra cho cả xã hội.

Trong vụ xử sắp tới đây, quan tòa là những người Việt nam, đại diện cho ngành Tư pháp Việt nam sẽ xử những người thuộc giai cấp “tiền phong” của đảng chưa kể họ còn là cựu chiến binh đã từng cầm súng bảo vệ đảng.

Dù mất niềm tin vào công lý khi có quá nhiều vụ xử án kiểu “bỏ túi”, dù biết rằng bộ máy thực thi công lý bị đặt dưới cơ quan công quyền và cơ quan công quyền lại bị dẫn dắt bởi những cá nhân lãnh đạo trong đảng, dù biết rằng với thiết chế nhà nước như vậy, thực chất luật pháp chỉ để trang trí cho đẹp nhưng nhân dân vẫn hy vọng ngành Tư pháp Việt nam sẽ không vì bảo vệ cho cơ quan công quyền mà đưa ra một bản án thiên lệch và mất lòng dân.

Khi con sói giết, ăn thịt cừu thì đó chỉ là hành động được dẫn dắt bởi bản năng sinh tồn của giống vật không có tư duy. Nhưng nếu con người có tư duy, hành động chà đạp lên chính đồng loại của mình bất chấp lẽ phải thì con người như thế không thể được đặt ngang bằng với loài lang sói.

Theo Mai Xuân Dũng

 

Thái độ bán nước

Thái độ bán nước

Người Buôn Gió

29-2-2016

Biển Đông trở nên căng thẳng sau hội nghị Asean và Hoa Kỳ họp tại Cali hồi tháng 1 năm 2016 vừa qua. Việc Hoa Kỳ tổ chức các nước Asean họp trên đất Hoa Kỳ ai cũng thấy đó là hành động Hoa Kỳ muốn kéo các nước Asean lại gần nhau để đối phó với sự bành trướng gia tăng của Trung Quốc tại biển Đông.

Đương nhiên Trung Quốc lo ngại trước việc này, thế nhưng thay vì phải dè dặt quan sát các bước tiếp theo của hội nghị trên. Trung Quốc ráo riết, trắng trợn có những hành động gây hấn gia tăng khi đưa vũ khí hạng nặng như tên lửa, chiến đấu cơ ra các hòn đảo họ đang chiếm đóng trái phép. Đồng thời còn khẩn trương biến những hòn đảo này thành căn cứ quân sự.

Hành động của Trung Quốc như vậy có thể là manh động hay không? Thực ra là không, đó là hành động có tính toán hợp lý, bởi Trung Quốc biết rõ Asean và Hoa Kỳ nếu có đạt được thoả thuận thì những thoả thuận đó cũng khó trở thành hiện thực. Nguyên nhân là thái độ thực lòng của các nước trong Asean. Trong đó có hai nước bị ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi nhiều nhất là Việt Nam và Phi Luật Tân. Các nước còn lại quyền lợi va chạm với Trung Quốc ở biển Đông ở mức độ vừa phải Brunay Malaisia. Đáng chú ý là hai nước không có quyền lợi liên quan đến những xung đột ở biển Đông như Lào, Cam Pốt đang có chiều hướng không muốn mất lòng Trung Quốc.

Các tờ báo khác ở Phi đều liên tiếp đưa trên trang nhất những tít lớn về tình hình biển Đông. Tờ Ngôi Sao Phi Luật Tân ngày 29 tháng 2 năm 2016 có bài viết trên trang nhất về cuộc họp thường kỳ của các bộ trưởng ngoại giao Asean tổ chức tại Lào. Nhưng trái lại trên các trang nhất của các tờ báo lớn Việt Nam thiếu vắng tin tức về hội nghị này.

Nhiều thứ cho thấy, chính thái độ của Việt Nam khiến Trung Quốc an tâm tăng cường gia tăng gây hấn trên biển Đông. Dường như mọi thứ Việt Nam đối phó với hành động của Trung Quốc đều ở mức độ trong vòng kiểm soát của Trung Quốc. Những phản ứng Việt Nam chỉ là có lệ. Một cuộc biểu tình phản dối Trung Quốc tại Manila của người Phi và người sinh Việt diễn ra vào ngày 25 tháng 2 năm 2016. Nhưng trong đó 90 % người mặc áo quốc kỳ Việt Nam là người dân nghèo Phi được phía Việt Nam thuê đóng giả làm người Việt. Tất cả những chính khách của Phi cũng như những nhà quan sát quốc tế đều bày tỏ sự thất vọng về cách tổ chức biểu tình của người Việt Nam đã tham gia cuộc biểu tình trên.

Chính sách ngoại giao mà Việt Nam gọi là khéo léo giữ chủ quyền thực ra là những trò gian vặt  thể hiện đúng bản chất những người lãnh đạo Việt Nam. Một mặt họ kích động, trông chờ người Phi dưới sự hỗ trợ của Hoa Kỳ sẽ có những động thái mạnh mẽ khiến Trung Quốc phải e dè hoạt động trên biển Đông. Mặt khác họ vẫn âm thầm đi lại với Trung Quốc để mong mỏi được một sự thương hại của Trung Quốc với thái độ cầm chừng của mình.

Người Phi khảng khái đưa Trung Quốc ra toàn án quốc tế, không chấp nhận những gợi ý   gặp gỡ ngoài lề tác động để Phi rút đơn kiện. Lãnh đạo của Phi tuyên bố họ sẵn sàng chiến đấu với Trung Quốc kể cả họ yếu hơn và nắm chắc phần thua. Những tin tức về biển Đông và quan điểm đấu tranh rõ ràng của họ luôn được những tờ báo lớn nhất của Phi đưa trên trang nhất hàng ngày.

Nhưng thái độ của Việt Nam thật đáng buồn thay. Mặc dù đại hội đảng cộng sản 12 đã qua hơn một tháng, ngay sau khi đại hội đảng CSVN kết thúc. Phái viên của Tập Cận Bình đã sang Việt Nam nghe thông báo kết quả và trao đổi ý kiến lãnh đạo Trung Quốc. Thế nhưng đúng lúc Trung Quốc gia tăng gây hấn trên biển Đông, người Phi đang hừng hực quyết tâm sống mái để giữ gìn chủ quyền của họ trên biển Đông. Thì ĐCSVN lại cho đặc phái viên sang Trung Quốc để báo cáo tình hình đại hôi Đảng CSVN khoá 12, thực chất là sang để cam kết thái độ của Việt Nam sẽ trong khuôn khổ vừa phải như Trung Quốc mong muốn trước những căng thẳng trên biển Đông.

Phái viên Hoàng Bình Quân của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng khi hội đàm với Trung Quốc đã bàn chi tiết đến những hợp tác về mọi mặt kinh tế, văn hoá, chính trị. Thế nhưng, trong phần bày tỏ quan điểm về biển Đông, đặc phái viên này chỉ đề nghị Trung Quốc một cách chung chung là chú trọng gìn giữ hoà bình khu vực, giải quyết theo ứng xử khu vực… hoàn toàn không có thái độ nào mạnh mẽ. Tức dù Trung Quốc có gia tăng bước tiến thế nào đi nữa thì Việt Nam cũng… chưa có cách đối phó như người Phi. Việt Nam sẽ tiếp tục bày tỏ quan điểm lấy lệ qua phát ngôn của Bộ Ngoại Giao.

Chính thái độ của Việt Nam, Lào, Căm Pốt… đăc biệt là Việt Nam, nước có thiệt hại nghiêm trọng nhất tại Biển Đông là nguyên nhân người Trung Quốc đi đến quyết định tăng tốc quân sự ở khu vực Biển Đông. Việt Nam chuyển vai trò từ người bị nạn lại bởi Trung Quốc, giờ lại thành  tay trong của Trung Quốc tại Asean. Thái độ của Việt Nam sẽ khiến tinh thần liên kết Asean cùng nhau chống sự bành trướng của Trung Quốc sẽ chẳng đi đến đâu. Chế độ cộng sản Việt Nam đang tận dụng tranh chấp trên biển Đông, tận dụng vai trò nạn nhân của mình để hòng buộc Trung Quốc phải có những động thái bảo vệ chế độ của họ. Cũng như trông chờ ngân hàng Đầu Tư Cơ Sở Hạ Tầng châu Á sẽ cấp những khoản vay mượn trong lúc Việt Nam đang túng quẫn không thể vay thêm từ Ngân Hàng Thế Giới và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế vì mất uy tín.

Ngân hàng Đầu Tư Cơ Sở Hạ Tầng Châu Á viết tắt là AIIB được thành lập mới năm 2015 vừa qua do sáng kiến của Trung Quốc. Như thế, cơ hội phát triển kinh tế của Việt Nam trước TPP vẫn trong vòng kiểm soát của người Trung Quốc nếu như việc xây dựng các cơ sở hạ tầng sản xuất ở Việt Nam vay từ ngân hàng này. Khả năng Việt Nam vay tiền từ ngân hàng AIIB R để làm nội lực tiếp đón hiệp định TPP là điều khó thể tránh khỏi.

Cuối cùng thì có thể nói rằng, chính Việt Nam một nước nhìn bên ngoài đang là nạn nhân xâm lược của Trung Quôc tại biển Đông. Lại chính là nước đang đi đêm với Trung Quốc để giúp cho Trung Quốc yên tâm cát cứ tại biển Đông. Để đổi lại bảo trợ của Trung Quốc về sự tồn tại của chế độ Cộng Sản Việt Nam. Nói một cách khác những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam đang bán chủ quyền biển đảo cho Trung Quốc một cách cực tinh vi.

Nếu như thế, chuyện biển Đông lọt vào tay Trung Quốc là tất yếu, sẽ không có phản ứng nào của Việt Nam với Trung Quốc như người Phi đã làm. Mọi sự lên tiếng của bộ ngoại giao Việt Nam chỉ là che mắt quốc tế cũng như người dân Việt Nam, đôi khi những lời lên tiếng này mạnh mẽ và gay gắt hơn cũng chỉ là chuyện người bán hàng nói thách giá, đòi cao hơn chút nữa.

Ngoài những điều đó ra, Việt Nam sẽ không có động thái gì đáng kể khiến người Trung Quốc phải bận tâm. Ít nhất là trong vòng 20 năm nếu Đảng cộng sản vẫn còn tồn tại cai trị ở Việt Nam.

Chuyện đầu năm xứ Việt, ai vô văn hóa hơn ai?

Chuyện đầu năm xứ Việt, ai vô văn hóa hơn ai?

Blog RFA

VietTuSaiGon

29-2-2016

Đầu năm, bắt đầu từ mồng Một tháng Giêng, câu chuyện đầu năm xứ Việt có vẻ như không giống xứ nào bởi có quá nhiều chuyện để kể và càng kể càng thấy sợ. Từ chuyện các lễ hội cho đến chuyện đi chùa xem bói, đi chùa xin lộc, đến đền miếu vay vốn cõi âm rồi ngày thơ Việt Nam, dâng bánh chưng nặng vài tạ cho mẹ bác Hồ… Kính thưa các loại lễ. Đó là chưa muốn nói đến số lượng người chết, bị thương vì đi chơi Tết, gặp tai nạn xe, đánh nhau, cướp lộc, tranh lộc, đâm chém nhau vì lộc… Dường như chuyện nào cũng nổi cộm.

Từ thị trường lộc đầu năm béo bở

Chỉ riêng chuyện đánh nhau và tai nạn, con số đã lên đến vài vạn, môt con số kinh đầu Bác! (nói theo cách của người miền Bắc), miền Nam gọi là con số kinh đầu gà! Đó là chuyện tai nạn, đánh nhau, chặt chém, chuyện mà nhà nước xem là vô văn hóa, là nằm ngoài khả năng quản lý của họ, họ đang cố gắng khắc phục và chấn chỉnh. Còn chuyện lễ hội, chuyện tranh ấn, cướp lộc, chà đạp lên nhau thì sao?

Phải nói rõ rằng đây là những lễ hội do nhà nước tổ chức. Nếu không có nhà nước đứng ra tổ chức thì không có đền miếu, ông từ hay ông thầy nào dám đứng ra tổ chức một lễ hội to lớn như vậy. Và cũng không phải ngẫu nhiên hay vô tư mà các đài truyền hình nhà nước đưa tin, loan tải những hình ảnh tranh ấn, cướp lộc. Nói cách khác, đây là một kiểu PR cho lễ hội mà nhìn bề ngoài khó thấy được. Mọi năm, lễ hội chỉ có những người nông dân xứ Bắc tranh lộc, giành giật nhau một cách vui vẻ, không đến mức đổ máu, ngất xỉu như hai năm trở lại đây. Vì sao?

Vì cách đây năm năm, các đài truyền hình đã đưa hình ảnh tranh giành, cướp lộc một cách hồ hởi, vui vẻ của người nông dân miền Bắc. Và điều này gây tò mò cho những nhà giàu miền Nam. Đương nhiên những người giàu họ không có thời gian, sự liều lĩnh cũng như sức khỏe để xông vào cướp lộc mà họ chỉ mua lại lộc của người đã cướp được. Ví dụ như lộc hoa tre ở Đền Gióng chẳng hạn, giá sẽ dao động từ vài trăm triệu đồng đến một tỉ đồng. Tương đương với vài chục ngàn đến năm chục ngàn đô la Mỹ. Một con số có thể kích thích cho các băng nhóm, các tổ chức xã hội đen vào cuộc để giành lấy.

Trước lễ phát lộc một ngày, giới nhà giàu cả Bắc lẫn Nam có một cuộc đấu giá bên ngoài đền, họ làm rất có tổ chức, ngồi đấu giá hẳn hoi, có giá sàn, giá trần. Giá sàn lộc hoa tre của lễ hội đền Gióng năm nay là một trăm triệu đồng, và mức đấu cuối cùng là bốn trăm bảy chục triệu đồng, sau năm lần bảy lượt mua qua bán lại, giá cuối là một tỉ một trăm triệu đồng, rơi vào một tay nhà giàu người Bình Dương.

Thường những tay nhà giàu rất tin vào lộc và phép ở các lễ hội miền Bắc. Kể cả giới nghệ sĩ, ví dụ như Hoài Linh và Xuân Hinh, hai nghệ sĩ này thường đến các các đền ở Hải Phòng, Lạng Sơn, Lào Cai… để hầu đồng và hát chầu văn.

Riêng Hoài Linh có cả một CD anh ngồi đồng và cậu nhập vào anhh để hát múa, cho lộc, CD này bán khá nhiều ở các thành phố Hải Phòng, Hà Nội. Nhưng trong giới đi đền miếu phía Bắc kháo nhau rằng Hoài Linh ngồi đồng xấu hơn Xuân Hinh và cho lộc cũng không linh nghiệm bằng Xuân Hinh ngồi đồng. Nhưng đó chỉ là những chuyện ngoài lề, vấn đề vẫn là cướp lộc.

Một khi lộc ở đền miếu được biến thành một sản phẩm có giá hời, trong đó có cả những quan chức đứng sau những “đại gia” mua lộc thì câu chuyện sẽ còn đi xa nữa. Bởi tay mua lộc hoa tre người Bình Dương mua lộc một tỉ một trăm triệu đồng không phải để mang về nhà mà để mang đến biếu cho một anh cả đang công tác trong trung ương đảng. Đương nhiên không có cách đầu tư và lót tay nào chắc và khôn hơn cách lót tay này. Vài chục tỉ lót tay cho anh cả cũng chỉ là cái phong bì. Nhưng một tỉ mốt trầy vi tróc vảy để có được lộc hoa tre mang về cho anh cả thì còn gì hơn!

Và cũng theo thông tin của giới giang hồ phía Bắc, hai năm nay họ tổ chức được những đội chuyên đi tranh lộc, cướp lộc để bán. Những nông dân không bao giờ vào tranh được lộc và nếu có tranh được chăng nữa cũng sẽ bị cướp trên đường về. Lộc chỉ rơi vào tay các quan và giới quyền lực, có nhiều tiền, lộc ở các đền miếu không bao giờ rơi vào tay dân nghèo. Điều này giống như một chân lý thời bây giờ.

Và chuyện tranh cướp lộc, giẫm đạp lên nhau, chém giết nhau vì cướp lộc chỉ dừng lại, chỉ chấm dứt khi nó không còn giá tiền tỉ. Hay nói cách khác, chuyện tranh lộc, cướp ấn sẽ không còn lộn xộn như hiện tại nếu các quan biết từ chối món quà cầu may đầu năm của đàn em tặng. Thị trường lộc cầu may ở các đền miếu trở nên lộn xộn và phức tạp bởi vì các quan quá tin vào lộc và đàn em sẵn sàng bỏ ra hàng núi tiền để mua lộc tặng cho các quan. Một khi các quan cùng với đàn em trọc phú biến các lễ hội thành thị trường mua bán lộc đầu năm thì chuyện người ta giết nhau vì lộc vẫn có thể xảy ra.

Đài truyền hình nhà nước, trong thời điểm này đưa tin về chuyện cướp lộc và thả sức chê trách người dân vô ý thức là một chuyện hoàn toàn sai phạm với nhân dân. Bởi không có người dân nào sai trong chuyện cướp lộc, không những thế, người dân đi lễ với tâm thành kính bị ảnh hưởng không nhỏ do giẫm đạp cướp lộc. Nếu các đài trong nước còn một chút tự trọng thì phải tìm hiểu, điều tra tận gốc rễ vấn đề. Mà vấn đề dễ tìm nhất là thử điều tra các ấn, lộc, hoa tre, tú cầu may… trong ba năm nay đang nằm trên bàn thờ gia đình nào. Kết quả điều tra này sẽ nói lên tất cả!

Đến cúng nhương sao và ngày thơ Việt Nam

Nếu như chuyện mua bán lộc đầu năm béo bở chừng nào thì chuyện nhương sao và ngày thơ Việt Nam cũng béo bở không kém phần. Bởi theo qui luật, người ta gây bao nhiêu tội thì sợ bấy nhiêu, tham nhũng, hối lộ, đút lót càng nhiều thì lễ nhương sao, cầu an càng đắt đỏ bấy nhiêu. Khi cả một xã hội nháo nhào lên vì lòng tham thì cái xã hội đó cũng cuống cuồng lo sợ tội lỗi. Chính vì vậy những ngày tháng Giêng là ngày hốt bạc ở các chùa chiền, đền miếu nhờ vào lễ nhương sao, cầu siêu…

Nhưng còn ngày thơ Việt Nam thì liên quan gì đến lộc? Có đó, đây là ngày mà những ban bệ tổ chức (gồm các nhà văn, nhà thơ quốc doanh) hốt bạc. Họ hốt ở cả hai phía, từ tiền tổ chức đến thành phần tham gia, tham dự. Về phía tiền tổ chức, một đêm thơ nguyên tiêu cấp huyện tốn ít nhất ba trăm triệu đồng, cao nhất chừng một tỉ đồng. Tiền chuẩn của nhà nước rót là ba trăm triệu, tiền mạnh thường quân cho thêm thì không biết được. Ban tổ chức thả sức chi tiêu và ghi hóa đơn.

Về phía người tham gia, hầu hết những đêm nguyên tiêu đều là đêm thăng hoa của các nhà thơ hưu trí. Họ làm thơ Đường, thơ lục bát, vè lục bát và kính thưa các loại ò e í e vần vèo. Nếu xét về mặt nghệ thuật thì không có gì nhưng họ lại được lăng xê hết mức như những nghệ sĩ lớn trong đêm nguyên tiêu. Và, phía ban tổ chức đã có sẵn những tham luận về thơ của mấy vị hưu trí. Họ viết phê bình, tham luận, bình luận để đọc trước khi vị nhà thơ hưu trí lên đọc thơ.

Và để được như vậy, các nhà thơ hưu trí đã có một cuộc chạy đua ngấm ngầm trước đó, từ tháng Chạp, họ đã quà cáp, biếu xén, lót tay ban tổ chức. Thậm chí có những vị hưu trí mạnh tiền sẵn sàng bỏ ra vài trăm triệu đồng để ban tổ chức mạnh tay làm riêng cho mình một đêm thơ nguyên tiêu.

Xét trên khía cạnh này, ngày nhà thơ cũng là một ngày cầu lộc, cầu siêu. Nếu như việc đọc thơ của các nhà thơ hưu trí là một cái lộc cho ban tổ chức thì đêm thơ nguyên tiêu lại là nơi cầu siêu, làm cho những bài thơ hưu trí được siêu thoát sau một năm mắc kẹt trong giấy bút của các vị. Và không chừng, tuy nghỉ hưu nhưng các vị vẫn còn đàn em, chân rết trong hệ thống nhà nước rất mạnh. Như vậy, nịnh những nhà thơ hưu trí cũng là cách để nhanh chân bước lên ghế cao của ban tổ chức nếu các nhà thơ hưu trí thấy đẹp lòng, chịu cúi xuống để gởi gắm, nhờ đàn em giúp đỡ cho “đứa cháu văn nghệ” đang công tác tại chỗ cơ quan A, B, C… nào đó!

Có thể nói rằng câu chuyện đầu năm ở Việt Nam là một câu chuyện hết sức lộn xộn và chợ búa. Mà sở dĩ nó trở nên lộn xộn và chợ búa như vậy là do hệ thống lãnh đạo đã không những tìm cách làm cho nó giảm đi mà còn nhúng tay vào để khuấy cho nó đục thêm. Nó đục đến cỡ nào thì phải hỏi chính các ông lãnh đạo. Và các ông lãnh đạo, các đài truyền hình nhà nước cũng nên thôi huênh hoang chê dân vô văn hóa. Chính các ông và hệ thống tuyên truyền, truyền thông của ông mới là những kẻ vô văn hóa đúng nghĩa!

Những Quả Nho Dữ Dội

Những Quả Nho Dữ Dội

Nancy Nguyễn
QUA NHO

Đất nước tôi, một rẻo đất tẻo teo khốn khó nép mình bên rìa Thái Bình Dương quanh năm giông bão, của cả trời đất lẫn nhân sinh, trong suốt gần một thế kỷ, chưa có một ngày đứng gió.

Mỗi một mười năm, là một cơn dâu bể đầy khinh ngạc của kiếp người, của dân tộc. Không cơn dâu bể nào giống cơn dâu bể nào, ngoài một điểm chung duy nhất: niềm đau.

Những người sinh ra vào khoảng năm 20 phải chứng kiến đất nước bị xâm lăng và đô hộ. Một đất nước không chùn bước trước vó ngựa Nguyên Mông, bỗng một ngày trở thành thuộc địa, đó, chẳng phải là một biến cố lớn?

Nhưng chỉ 10 năm sau đó, những người sinh ra thời 30, phải chứng kiến cảnh đau thương hơn nhiều lần: Đất nước chia đôi, nồi da nấu thịt. Súng của ngoại bang chĩa vào da thịt người mình. “Xương chất đầy đồng, máu chảy thành sông”. “Niềm đau” có là một danh từ quá nhẹ?

Mười năm sau, hơn hai triệu con người người sinh vào những năm 40 phải gồng gánh nhau, dắt díu nhau bỏ lại nhà cửa ruộng vườn, bỏ lại phần mộ tổ tiên để chạy loạn. Dân tộc tôi chứng kiến một cuộc di cư lớn chưa từng có trong lịch sử. Và nếu không phải do bị cấm cản, cuộc thiên di ấy có lẽ sẽ còn vĩ đại hơn nhiều. Và như thế, dân tộc tôi đã bắt đầu rách bào, chia đôi, bắt đầu viết những trang sử sau đó bằng nước mắt và bằng máu.

Những người sinh khoảng năm 50, ngắn gọn là: Một dân tộc, hai định mệnh! Tôi không còn chữ nghĩa nào hơn để diễn tả nỗi bất hạnh cùng cực ấy.

Những người sinh khoảng năm 60, chứng kiến sự sụp đổ của một thể chế, sự tái thống nhất một đất nước, và sự chia đôi vĩnh viễn của lòng người. 40 năm qua đi mà vết cứa vẫn rịn máu tươi. Vết thương lòng chưa thấy ngày se mặt.

Những người sinh khoảng năm 70 có cơ hội chứng kiến cuộc thiên di thứ 2 trong lịch sử. Hàng triệu triệu con người phải mạo hiểm tính mạng bản thân, gia đình, để tháo chạy khỏi quê hương. Đất nước tôi đó, những năm tháng lầm than, kêu trời không thấu, kêu đất chẳng nghe. Dân tộc tôi lạc lõng, bơ vơ như những con thuyền lênh đênh trên biển.

Và những người sinh vào những năm 80, là tôi đây, 10 năm sau “giải phóng”, những-tháng-năm-cấm-vận.

Có lẽ ký ức tuổi ấu thơ là những ký ức hằn dấu nhất, ám ảnh nhất của một đời người. Tôi nhớ hoài mẹ tôi, bà đáng ra còn trẻ lắm, mà dáng đã còm cõi, bà bòn từng đồng, lo chạy bữa cho con. Có những ngày trời mưa, mẹ tôi ngồi co ro bên vệ đường, gánh hàng quạnh hiu. Bà chẳng lo mình sẽ nhiễm phong hàn, chỉ lo làm sao? cho đủ sống! Có đất nước nào khốn nạn như đất nước tôi? Có bà mẹ nào khốn nạn như mẹ tôi, người mẹ Việt Nam? Tôi lớn lên, mang theo trong tiềm thức vóc dáng mẹ tôi, còm cõi như đòn gánh, co ro như một dấu chấm hỏi. Một dấu chấm hỏi xiêu vẹo trong những ngày mưa.

Tuổi thơ tôi gắn với những ngày mưa Sài Gòn, xoong chảo nồi niêu, có gì … hứng nấy bởi cái mái tôn nhà tôi … “đưa ánh nắng vào nhà” (mẹ tôi bảo thế), đêm nằm có thể nhìn thấy trăng sao. Những khi trời trở bão, gió giật từng cơn, tôi sợ sấm sét chui qua lỗ đinh vào nhà.

Tôi nhớ đôi dép cọc cạch, bên trái con trai, bên phải con gái, mẹ tôi bảo dép “uyên ương”. Chiếc bên trái là của anh Hai để lại, chiếc bên phải mới là của tôi. Và cả hai chiếc đều vá chằng vá đụp, bằng chỉ bố, mẹ để dành từ quân phục của ba. Quần áo mới chỉ được bận 3 ngày Tết, và cũng là của anh hai tôi để lại. Mẹ luôn mua rộng ra mấy tuổi, anh Hai bận chật rồi đến phiên tôi. Quần áo của con trai đấy, nhưng chỉ cần mới, chỉ cần không … vá đít là đủ hấp dẫn rồi!

Và quả nho, những quả nho … dữ dội nhất của tuổi thơ tôi. Tết năm đó, chỉ duy nhất Tết năm đó, mẹ tôi mua nho Mỹ về biếu nội. Những quả nho mẹ chắt chiu từ gió sương của cả năm trời, gom góp lại để biếu mẹ chồng dịp Tết đến. Những quả nho mập ú, căng tròn, hệt như trong phim Mỹ, giống y chang mấy chùm nho … giả, loại những quán sinh tố trong xóm hay treo làm cảnh. Trời ơi! Dòn! Mọng! Ngọt! Mẹ đã dặn đi dặn lại không được ăn, mẹ còn cất tuốt lên nóc tủ. Vậy mà mấy trái nho như có ma lực, cái đứa tôi như bị thôi miên! Tôi lén trộm một trái. Trời ơi! Ngon! Rồi 1 trái nữa, rồi trái nữa! Từng trái, từng trái một, như một kẻ đã hoàn toàn mộng muội, không còn có thể cưỡng lại được sự quyến rũ phát ra từ mấy trái nho. Mẹ sẽ đánh nát tay tội ăn vụng, tôi nghĩ, tay … vẫn tiếp tục công cuộc … mưu cầu hạnh phúc. Cảm giác tôi lúc đó vừa hoảng loạn, vừa lo sợ, vừa … sung sướng , vừa sung sướng, vừa hoảng loạn sợ hãi. Tột cùng của sự hoảng loạn sợ hãi là khi chùm nho của mẹ chỉ còn trơ lại cọng. Khốn nạn thân tôi! Rồi tôi sẽ phải sống tiếp phần … ngày còn lại ra sao đây? Vậy mà mẹ không đánh tôi. Bà chỉ ôm tôi vào lòng … và khóc, khóc gào lên, khóc trào ra. Khóc như một đứa trẻ. Mẹ tôi đó. Ôm con vào lòng, gào khóc lên như trút hết hơi sinh vào từng tiếng nấc.

Năm tháng qua đi, cuộc đời mang lại cho tôi thừa mứa. Giờ tôi muốn ăn gì thì ăn, muốn đi đâu thì đi, muốn mua gì thì mua. Tôi ngán đủ thứ, chả muốn ăn gì, chỉ còn ăn được mỗi nho. Bởi với nho, tôi không ăn bằng trực giác, mà thưởng thức bằng mùi vị của ký ức. Và vì với nho, tôi mua được một vé đi tuổi thơ. Hai mươi mấy năm trôi qua, ký ức vẫn chưa ráo mực. Mỗi lần ăn nho, tôi thấy mình bé lại, và được một bàn tay vô hình kéo tuột về thủa ấy, những-năm-tháng-cấm-vận.

Tôi chỉ là một cá nhân, một cá thể, trong một tập thể những con người thế thệ 8x. Và chỉ là 1 thế hệ, trong nhiều thế hệ con người. Nhưng nói như một nhà văn Nga: “Cây đời có hàng triệu chiếc lá, và nói về một chiếc lá, là cũng đang nói về hàng triệu chiếc lá khác”.

Cứ mỗi mươi năm, con Tạo quái ác xoay vần, là dân tộc tôi lại được gán cho một định mệnh mới. Tôi đã nghe rất nhiều người bảo tôi “thời em sướng rồi, thời của anh khổ lắm”, còn tôi, tôi chỉ thấy thời nào cũng khổ. Và chẳng cái khổ nào giống cái khổ nào. Cái nào cũng “đặc thù” và cái nào cũng “nhất”!

Người mình khổ quá, đất nước mình đau thương quá. Phải không mẹ? Phải không anh?

BÍCH-VÂN-THIÊN

BÍCH-VÂN-THIÊN

Lang Thang Chiều Tím

“Bích-Vân-Thiên” là một trong những tiểu thuyết của nữ văn sĩ Quỳnh Dao.  Chuyện kể về mối tình tay ba giữa hai người phụ nữ Bích, Vân và một người chồng chung tên Thiên.  Vì người vợ không thể sinh con nối dõi tông đường cho chồng, nên nàng đành chấp nhận người em kết nghĩa như người vợ lẽ cho chồng.  Dù là tự nguyện, nhưng những ích kỷ ghen tương của kiếp nhân sinh đã khiến họ nhận ra rằng, cả ba không thể cùng hạnh phúc chung dưới một mái nhà.  Một người chấp nhận ra đi để hai người ở lại hạnh phúc hơn.
Những tưởng chuyện tình thơ mộng sầu muộn chỉ có trong tiểu thuyết, qua sự tưởng tượng phong phú của nhà văn.  Nhưng đâu ai biết rằng cuộc sống muôn màu sắc cũng đang dệt nên một chuyện tình tay ba đẹp lãng mạn như một bài thơ, trắc trở với những cảnh đời éo le, với phần kết vẫn còn dang dở.   “Bích-Vân-Thiên” của đời thực là một chuyện tình tay ba giữa Thu Bích, người con gái vô tư hồn nhiên, duyên dáng như viên ngọc xanh biếc giữa đời, và một Đình Vân thư sinh trắng trẻo nho nhã với cặp kiếng cận, như một áng mây lững lờ quyện lấy viên ngọc bích trong trời thu.  Hiện diện giữa họ là một Thiên Chúa vô hình lúc ẩn, lúc hiện, lúc hiền hòa yêu thương, lúc thinh thặng đến lạnh lùng.

Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình sùng tín đạo Phật có lòng thờ kính ông bà tổ tiên, Vân đến với Bích khi chẳng biết Thiên Chúa là ai.  Đúng rồi, Thiên là Trời, là Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật, dạy cho con người những điều hay lẽ phải.  Thiên Chúa của Đạo Công Giáo cũng là Ông Trời thân thiện gần gũi của dân tộc Việt Nam đấy mà, người quen cả chứ có phải ai xa lạ đâu.  Nhưng ngược với sự suy nghĩ đơn giản của Vân, người con gái mà anh đem lòng yêu mến ở đảo, trước biến cố 30 tháng Tư năm 1975 là một đệ tử đã từng được nuôi dưỡng bởi câu kinh ê a mỗi sáng chiều trong nhà dòng các Sơ.  Nàng mong muốn vợ chồng sẽ cùng chia sẻ và đồng hành bên nhau trong đời sống tự nhiên cũng như trong đời sống thiêng liêng.
Bản chất vốn dĩ hiền lành và chân thật, mang trong tâm hồn phần nào vẻ đẹp của Đấng Chân Thiện Mỹ, Vân tự ý tìm hiểu Thiên Chúa của Bích là ai.  Khởi đầu Vân cảm thấy khó hiểu, chuyện một Thiên Chúa từ bỏ vương quyền cao sang để sinh ra làm người trong máng cỏ nghèo nàn, rồi lại lang thang bồng bế nhau đi tị nạn xứ người.  Cũng là kiếp tị nạn cả thôi, nghe sao đồng cảm quá, giống như cảnh đời của Vân-Bích đang vất vưởng ở đảo chờ ngày định cư.  Lạ thay, càng tìm hiểu anh lại càng thấy mến thương một Thiên Chúa với tình yêu bao la dành cho con người hay phản bội chóng quên, một Thiên Chúa mặc lấy xác phàm để rồi cuối cùng bị chết thảm thương nhục nhã trên cây thập giá.

Sau những tháng ngày học hỏi tìm hiểu về Đạo Thiên Chúa, năm 1984 Vân cúi đầu nhận lãnh Bí Tích Rửa Tội trong nỗi ưu phiền của người cha già ở phương xa, mà sau này khi đại gia đình được đoàn tụ, ông thường hay trách cứ: “Anh con theo Đạo để lấy vợ thì ba không buồn, nhưng con theo Đạo thì ba rất buồn vì con quá sùng tín.  Con là một đứa con bất hiếu, bỏ ông bà cha mẹ mà theo Đạo vợ.”  Trái tim Vân tan nát, anh chỉ biết cúi đầu im lặng mỗi khi nghe lời phiền trách của người cha yêu dấu.  Cha Vân đâu ngờ rằng đứa con trai này chịu phép rửa tội bằng con tim thổn thức của tuổi trẻ đi tìm chân lý, bằng nỗi khát khao nhiệt tình của người vừa tìm ra được lẽ sống đời mình, chứ không phải rửa tội chỉ để lấy vợ, như người đời thường nói: “Con quỳ lạy Chúa trên cao, con lấy được vợ con thôi nhà thờ.”

Từ đó Thiên Chúa luôn luôn hiện diện giữa Bích-Vân trong mọi biến cố buồn vui, thăng trầm của cuộc sống.  Cuộc tình nhẹ nhàng êm đềm như một bài thơ qua dòng thời gian lững lờ trôi.  Mối tình tay ba “Bích-Vân-Thiên” được triển nở khi Bích-Vân chính thức nên một trong Thiên Chúa qua bí tích Hôn Phối vào tháng 12 năm 1985.  Hạnh phúc gia đình thêm viên mãn với sự góp mặt của hai thiên thần nhỏ, một trai một gái.  Hơn 30 năm trôi dạt xứ người, phồn hoa phú quý nơi xứ sở giàu có văn minh chỉ làm Vân tăng thêm lời tạ ơn.  Đức tin của Vân ngày càng lớn dần theo thời gian cùng với tình yêu anh dành cho cả hai, Thiên Chúa và Bích.   Không chỉ giữ riêng đức tin cho mình, với tình yêu mãnh liệt mà anh cảm nhận được từ Thiên Chúa, anh mạnh dạn chia sẻ đức tin đó cho người cha và anh em trong gia đình mình.  Gương sống và hạt giống đức tin đã sinh hoa kết trái nơi người em gái mà lần này với sự đồng thuận của người cha: “Con đã quyết định theo Đạo Công Giáo thì theo cho đến nơi đến chốn.” Người anh kế và cậu em trai cũng một lòng tin kính Chúa mặc dầu chưa chính thức vào Đạo, nhưng bản thân họ đã tự nhận mình là Kitô hữu.  Vân không chỉ ngừng lại nơi đây, anh tích cực chia sẻ đức tin đó cho những người nghèo khó bệnh tật, cho những người già yếu trong viện dưỡng lão, cho ban Giáo Lý Dự Tòng, ban Tĩnh Tâm Linh Thao, phong trào Cursillo, cho các sinh hoạt mục vụ khác của giáo xứ, và là cánh chim đầu đàn cho phong trào Canh Tân Đặc Sủng ở Thung Lũng Hoa Vàng.  Với cây đàn guitar, với giọng hát sôi nổi trầm ấm, với những lời nguyện chân thành bộc phát từ trái tim cháy bỏng, đức tin mạnh mẽ của anh đã sưởi ấm bao cõi lòng băng giá vì vắng bóng niềm tin.  Trong bất cứ sinh hoạt mục vụ nào, Bích-Vân cùng sát cánh, chia sẻ và hổ trợ cho nhau như hai người bạn thiêng liêng tâm đầu ý hợp.

Ấp ủ trong tim lời mời gọi thầm thì nhưng tha thiết yêu thương của Thiên Chúa, Bích-Vân mơ ước dành trọn cuộc đời còn lại để ra đi phục vụ tha nhân.  Nhưng cuộc đời không như là mơ, dẫu giấc mơ đó thật là cao quý!  Làm chứng cho đức tin của mình bằng cuộc sống tông đồ nhiệt thành hình như chưa đủ.  Thiên Chúa muốn đức tin của Bích-Vân và gia đình phải được thử thách tôi luyện, chứng nhân của Ngài phải đổ máu trong một bi kịch oan nghiệt trớ trêu.  Trong một buổi sáng định mệnh ngày 3 tháng 3 năm 2011, khi bệnh tình trở nặng vì những ảnh hưởng nguy hại của các thuốc an thần, anh cần phải được khẩn cấp nhập viện.  Tổng đài 911 đã nhận được thông báo để cấp cứu…  Xe cứu thương và xe cảnh sát đã tới.  Nhưng than ôi, trong khoảnh khắc tích tắc, một viên đạn oan nghiệt từ một người cảnh sát không quen biết, không thù oán đã kết thúc cuộc đời anh.  Anh ra đi đột ngột không hiểu tại sao mình lại bị giết ngay trong chính ngôi nhà của mình, nơi vừa được một vị linh mục làm phép nhà cách đó ba hôm, nơi mà hai vợ chồng mơ ước sẽ làm nhà tĩnh tâm, là nơi hội họp cầu nguyện cho anh chị em… Cuối cùng anh đã trở về bên Giêsu, Đấng mà anh được rước vào lòng mỗi ngày qua bí tích Thánh Thể.  Anh đã vĩnh viễn trở về với Đấng Tạo Hóa, Đấng Chân Thiện Mỹ, Đấng mà suốt cả cuộc đời anh khát khao tìm kiếm, và cũng chính vì Ngài mà anh mang tội bất hiếu.
Từ khi bị bịnh, anh đã chuẩn bị sẵn sàng để ra đi, cho dù là cách nào, vào bất cứ lúc nào.  Nhưng thực tế cái chết tức tưởi oan ức của anh đã gây đau khổ, khó chấp nhận cho những người thân còn ở lại.  Đức tin của người vợ, hai con đang chập chững bước vào đời, hai bên cha mẹ già, anh em đạo cũ, đạo mới, chưa theo đạo bị thử thách dữ dội.  Trong giây phút mà sự dữ lên ngôi, thần chết tưởng như chiến thắng, cái ác cười ngạo nghễ trên sự thiện, người ta khó lòng mà giải thích được tại sao một người đạo đức, sống tốt lành thánh thiện như anh lại có một cái kết thúc bi thảm như vậy.  Người đời sẽ chẳng bao giờ giải thích được, trừ phi họ nhìn lên cây thập giá, nơi Chúa Giêsu Kitô chịu chết treo ô nhục trên đồi Canvê.  Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh bi ai trùm kín một màu tang tóc buồn bã, không phải là đích đến của những Kitô hữu.  Đàng sau ngày Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày Chúa Nhật Phục Sinh chiến thắng khải hoàn.  Nhưng trong cơn sầu khổ tuyệt vọng, lệ nhòa mi mắt thì bóng dáng ngày Chúa Nhật Phục Sinh xa vời mờ nhạt quá.

Giữa những tiếng xì xầm của thế gian, tiếng cười đắc chí đắc thắng của thần dữ, người thiếu phụ gục xuống trước nỗi mất mát quá tang thương này.  Chị rút vào thanh vắng một thời gian dài, xa lánh phần lớn bạn bè người thân quen.  Chị tránh những ánh mắt thương hại tội nghiệp, né những câu hỏi han tò mò, ngại ngùng khi phải nghe những lời an ủi nhiệt tình nhưng vô duyên lạc điệu:  “Thôi đừng khóc, đừng buồn nữa, hãy chấp nhận thánh giá Chúa gởi đến, như thế Chúa và anh mới vui.”  Không, Bích không muốn che dấu nỗi buồn vô tận của mình.  Bích càng bối rối hơn khi nghe người ta đổ tội cho Thiên Chúa.  Vô lý quá, làm sao mà một “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”  (Ga 3,16), lại có thể gởi những sự dữ đến cho con cái của mình được.  Sự dữ đâu đến từ Thiên Chúa!  Ngài tôn trọng sự tự do chọn lựa của người cảnh sát vô cảm kia, cũng như Ngài đã từng tôn trọng sự tự do lựa chọn của Bích-Vân vậy.
Trong bóng tối cô đơn trước cây thánh giá, với cõi lòng tan nát, Bích muốn để những tiếng rên xiết quằn quại trong cõi lòng của mình được tự do òa vỡ.  Chị kiệt sức gục đầu lên vai Chúa để mặc cho dòng nước mắt thỏa sức tuôn rơi.  Chúa không bảo chị thôi đừng khóc, bớt buồn, mà chị lờ mờ thấy Chúa lau nước mắt cho mình, cùng buồn, cùng khóc với mình.  Chị để mặc cho Chúa vuốt ve, an ủi trái tim đang gào thét lên nỗi thương nhớ.  Chúa xót xa băng bó vết thương tâm hồn bê bết máu, xoa dịu nỗi buồn gặm nhấm tâm can.  Trong cõi một mình vắng lặng, Bích cố gắng tìm lại Lời Chúa, Ý Chúa, và hình ảnh Thiên Chúa ngày xưa của mình đang ở đâu trong biến cố này.  Bích cũng đang tập làm quen dần với cảnh đời mất chồng nơi xứ lạ.

Hơn hai năm sau, khi cơn đau vẫn chưa nguôi trong trái tim mới chớm lành của người goá phụ, Bích lại tiếp tục nhận được thất bại khác.  Chị đã thua trong vụ kiện người cảnh sát bắn chồng chị.  Bích kiện không phải vì tiền, vì chẳng có đồng tiền nào có thể đánh đổi được sinh mạng của anh.  Kiện để chân lý được sáng tỏ, để tránh cho người dân thấp cổ bé miệng sau này khỏi lâm vào hoàn cảnh oan ức như anh.  Kiện để những người cầm súng đại diện cho pháp luật ở một xứ sở tự do phải ý thức hơn về những gì họ đã làm, đang làm và sẽ làm.  Nhưng thương thay, tiếng nói yếu ớt của một sắc dân tị nạn thiểu số, tại một nơi mà đa phần là da trắng, tiếng bào chữa của một văn phòng luật sư bé nhỏ, làm sao có thể thắng được với một tập đoàn luật sư hùng hậu của thành phố, của quận hạt.  Chân lý một lần nữa lại đứng về phía kẻ mạnh.  Thần dữ lại một lần nữa vỗ tay cười hả hê, khoái trá chờ ngày người vợ và hai con đang tuổi nổi loạn từ bỏ đức tin, trút cơn giận lên Thiên Chúa chẳng chút nhân từ.  Chuyện tình ba người “Bích-Vân-Thiên” chắc rằng sẽ tan rã từ đây….

Dù không còn cảm giác với tình yêu ngọt ngào của Thiên Chúa, nhưng Bích cũng ráng đến nhà thờ mỗi ngày theo thói quen, đến nhóm cầu nguyện hàng tuần dù không cảm nhận được gì.  Sự thinh lặng của Ngài trong những giây phút cầu nguyện, trong các khóa tĩnh tâm dài ngày càng làm cho chị thêm khó hiểu.  Mỗi lần nhìn lên cây thánh giá, Bích không bao giờ dám hỏi Chúa tại sao những sự dữ lại xảy đến với gia đình mình.  Người Con Một của Ngài cũng có tội tình gì đâu sao phải chết treo trên thập giá?  Nhìn vào quan tòa xét xử Giêsu trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, nhìn vào đôi tay Người Con Một Thiên Chúa đang bị trói chặt lại trước những tiếng la hét đòi xử tử, như chân lý và tình yêu bị trói buộc trước sự dữ, chị không muốn tiếp tục vụ kiện nữa.  Chúa Giêsu có thắng đâu trước quan tòa ngày hôm ấy!  Ngài đã thua thảm bại trước một tên tướng cướp giết người khét tiếng, đã thất bại chua cay trước những vị kinh sư Pharisêu đại diện cho tôn giáo của dân tộc mình.  Cũng như viên đạn bắn anh không phải xuất phát từ một tên cướp, mà là từ một nòng súng của người thi hành pháp luật dành cho một người dân vô tội.  Cay đắng quá!  Trò mà làm sao hơn được thầy!  Chén đắng đã hai lần nhấp thử, chị phần nào cảm nhận được nỗi thống khổ tột cùng của Chúa Giêsu trong vườn Gethsemane.  Cũng như Giêsu ngày xưa, Bích xuôi tay chấp nhận mình thua để khép lại vụ kiện, chị không muốn kháng án lên toà trên, không muốn vết thương lòng lại bị khơi ra khuấy động lên, chị muốn sự bình an sâu thẳm trong tâm hồn, thấm thía mầu nhiệm thập giá… Từng ngày, từng ngày, trong tâm hồn chị vẫn vang lên lời nguyện xin tha thiết: “Chúa ơi, xin cứu con!  Chúa cho phép sự việc xảy ra như thế này thì sinh ích gì cho con?  Con xin tạ ơn Chúa mặc dù giờ này con chưa hiểu, nhưng con tin vào Ý Muốn Tốt Lành của Chúa vì Chúa đã nói mọi đau khổ đều sinh ích cho những ai yêu mến Chúa.”

Qua những tháng ngày đau khổ đến tê dại không còn cảm giác, qua những lúc ngã lên gục xuống, thầm khóc đến không còn nước mắt, qua những cay đắng khi nhận được tin thất bại của vụ kiện, người goá phụ từ từ cảm nhận được những nâng đỡ ủi an kín đáo của Người Cha Nhân Từ đang ẩn mặt đâu đó trong lúc này.   Gia đình, bạn bè, cộng đoàn Đức Tin, các Bí tích, Lời Chúa, Thánh Vịnh, và những bài Thánh Ca đong đầy yêu thương là những điểm tựa nương của Bích trong lúc sầu khổ lao đao: “Lạy Chúa, khi con nói: “Này chân con lảo đảo”, tình thương Ngài đã đỡ nâng con” (TV 94, 18), “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành” (TV 147, 3), “Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta… Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Is 53:4-5).  Bích không trách Thiên Chúa đã cất anh về sớm, trong cõi lòng sâu thẳm chị chỉ biết dâng lời tạ ơn Chúa đã ban cho chị một người chồng tốt lành, một người cha gương mẫu cho các con, một người bạn thiêng liêng thánh thiện đã cùng đồng hành với chị trong suốt hai mươi lăm năm hôn phối, mà anh chị vừa long trọng lập lại lời thề hứa ba tháng trước ngày anh đi về cõi vĩnh hằng.  Bích tạ ơn cho những gì đã có, chứ không trách móc về những gì đã mất.  Chị biết, anh vui khi được ở bên chị và anh cũng hạnh phúc khi được xum vầy cùng Thiên Chúa, Đấng mà anh hằng khát khao được diện kiến.  Chị tin rằng hình ảnh của chị và hai con luôn ở trong tim anh, và anh sẽ tiếp tục cầu khẩn cùng Thiên Chúa cho ba mẹ con.

Thời gian thấm thoát thoi đưa, thế mà đã năm năm trôi qua kể từ ngày Vân về với Thiên Chúa.  Trên bia mộ đá nơi anh an nghỉ, có hình của cả ba “Bích-Vân-Thiên”, với một bên còn trống để dành chỗ cho Bích, với lời ca Hallelujah của ngày Chúa Nhật Phục Sinh khải hoàn trong vinh quang.  Thiên Chúa chưa bao giờ vắng bóng trong cuộc tình của Bích-Vân.  Trong những tháng năm đầu, trên mộ Vân không lúc nào thiếu vắng hoa tươi do Bích mang lại.  Bạn bè kẻ khen người chê trước hành động lãng mạn không thiết thực đó, lãng phí cả thời gian và tiền bạc.  Nhưng Bích có cần gì đâu, chị làm theo tiếng nói con tim.  Sự chết không chia rẽ được tình yêu của anh chị.  Mỗi lần viếng nghĩa trang nơi anh an nghỉ, chị cảm nhận được tình yêu ba người “Bích-Vân-Thiên” quyện lẫn vào nhau trong gió, trong mây để chỉ còn là một.  Chẳng còn thế giới vô hình hay hữu hình nữa, cũng chẳng còn ranh giới sự sống hay sự chết.  Bích đến không để khóc than, chị đến để trái tim chị được sưởi ấm, đến để cảm nhận tình yêu chung thủy của ba người được thăng hoa.  Bó hoa tươi trên mộ anh là ngôn ngữ tình yêu nói thay cho con tim chị.  Anh yêu nhạc, chị thích hoa, cả hai cùng say mê vẻ đẹp chân thiện mỹ, Bích-Vân đang cùng hát lên bản Tình Ca Tạ Ơn bên Thiên Chúa – Hallelujah!

Năm năm với biết bao ân sủng tuôn đổ từ trời cao đủ để làm sống dậy tin yêu hy vọng trong Bích.  Tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn sự mất mát và thất bại đã làm tươi mới lại con người Bích, chị trở lại với con người hồn nhiên yêu đời như những ngày trước có anh đi bên cạnh.  Nụ cười rạng rỡ lại trở về trên khuôn mặt nhân hậu duyên dáng của chị.  Không những thế, chị được mời gọi để làm chứng cho những mảnh đời bất hạnh, những tâm tư giận hờn Thiên Chúa vì những khổ đau bịnh tật, hay những mất mát chia lìa đớn đau, những con chiên tự tách mình ra khỏi đàn vì mải mê oán than…. Chị đến để mang câu trả lời cho những câu hỏi không lối đáp, tại sao Thiên Chúa lại để sự này xảy đến với tôi, với gia đình tôi?  Tại sao Ngài không nhận lời?  Tại sao Ngài không ngăn cản sự dữ xảy ra?  Tại sao Ngài không cất đi căn bịnh hiểm nghèo cho tôi, cho người thân của tôi?  Tại sao và tại sao?  Chị đến không để nói, để thuyết phục hay hùng biện, chị chỉ nhẹ nhàng kể về câu chuyện tình của đời chị… và Thiên Chúa sẽ làm việc với những tâm hồn tan nát đó.

Tác phẩm “Bích-Vân-Thiên” của nữ văn sĩ Quỳnh Dao được khép lại khi trang sách cuối cùng được lật qua.  Trong đầu người đọc chỉ còn lưu lại thoang thoáng vài nét về một cốt chuyện hay, một tình yêu lai láng sầu muộn chỉ có trên tiểu thuyết.  Còn “Bích-Vân-Thiên” trong đời thường, không chỉ là tên của ba người trong một cuộc tình ghép lại, mà còn là tựa đề của cuốn sách mang niềm hy vọng – cuốn sách chứng nhân đức tin – đang được tiếp tục lật từng trang mỗi ngày.  Ba nhân vật chính “Bích-Vân-Thiên” vẫn luôn nắm tay cùng đồng hành với nhau.  Đình Vân đã đi xong quãng đường của mình.  Chặng đường của Thu Bích vẫn còn dài đăng đẳng trước mắt nhưng Bích không đi lẻ loi một mình.  “Vân-Thiên” vẫn luôn cùng đồng hành với Bích và chờ ngày đoàn tụ để đóng lại cuốn sách chứng nhân đức tin “Bích-Vân-Thiên”.

Nguyện xin Thiên Chúa Tình Yêu chúc lành cho thiên tình sử tay ba “Bích-Vân-Thiên” được đẹp mãi đến trang sách cuối cùng.  Mong rằng trong ngày sau hết cả ba sẽ được tái ngộ để cùng nhau kết hợp nên một mối tình tuy ba nhưng chỉ là một.

Lang Thang Chiều Tím

Kỷ niệm năm năm ngày giỗ anh Phêrô Lê Đình Vân, 03/03/2011 – 03/03/2016

10 sự thật của xã hội hiện đại

  10 sự thật của xã hội hiện đại

 Thời đại thông tin số có thể mang lại tác động tiêu cực tới cuộc sống và xã hội loài người. Dưới đây là 10 hình vẽ cho thấy những thay đổi tiêu cực của xã hội chúng ta.

Rõ ràng chúng ta đang sống trong thời đại kỹ thuật số, và việc quay trở lại xã hội trước đây là điều không thể.

Một trong số những ảnh hưởng lớn nhất tới xã hội ngày nay một cách tiêu cực cũng như tích cực chính là truyền thông xã hội.

Truyền thông xã hội vốn được thiết kế để cho phép con người chia sẻ những điều thú vị trong cuộc sống của họ với bạn bè, nhưng giờ đây mọi chuyện không chỉ đơn giản như vậy.

Truyền thông xã hội giờ đây là con đường vận chuyển thông tin toàn cầu. Nhiều khi chúng ta biết về những sự kiện đang diễn ra thông qua Twitter hay Facebook trước khi biết về nó qua các nguồn tin chính thống.

Chúng ta cũng bắt đầu dựa vào các thiết bị công nghệ trong hầu hết mọi việc. Ngày nay con người dường như không thể đi bất kỳ đâu hay làm bất kỳ điều gì mà không mang theo điện thoại thông minh, máy tính bảng,máy tính xách tay

Họ cần có một mối liên lạc thường trực với nhau thông qua các thiết bị điện tử. Tuy nhiên, kết nối quá nhiều với truyền thông xã hội và các thiết bị có liên quan cũng có mặt tiêu cực của nó.

Chúng ta có thể trở nên phụ thuộc quá mức, hoặc trở nên thờ ơ với những gì chúng ta đang làm với cuộc sống của chúng ta.

Thời đại thông tin số có thể mang lại tác động tiêu cực tới cuộc sống và xã hội loài người. Dưới đây là 10 hình vẽ cho thấy những thay đổi tiêu cực của xã hội chúng ta.

1. Facebook đang ngấu nghiến thời gian của bạn

10 sự thật đáng xấu hổ của xã hội hiện đại

Mỗi ngày bạn dành bao nhiêu thời gian trên Facebook hoặc các trang mạng xã hội khác? Điều này có đang ảnh hưởng tới hiệu quả công việc của bạn không? Bạn có thấy mình lãng phí thời gian tới mức bạn không hề nhận ra nó đã trôi nhanh thế nào không? Nếu bạn trả lời “có,” tôi tin chắc rằng bạn không phải là người duy nhất.

2. Chúng ta trở thành những kẻ ‘nghiện Like’

10 sự thật đáng xấu hổ của xã hội hiện đại

Nói tới Facebook, khi bạn đăng tải một thứ gì đó, bạn có làm vậy chỉ để xem sẽ có bao nhiêu bạn bè ấn ‘Thích’ không? Đối với một số người, những cái ‘Thích’ trên Facebook cũng như một loại chất gây nghiện họ cần bơm vào mạch máu của mình.

3. Các thiết bị điện tử còn quan trọng hơn mạng sống

10 sự thật đáng xấu hổ của xã hội hiện đại

Lựa chọn giữa việc điện thoại hết pin và mạng sống của bạn, bạn sẽ chọn thứ gì? Trong trường hợp này, người đàn ông trong hình vẽ đã chọn chiếc điện thoại thay vì thiết bị hỗ trợ sống của chính anh ta. Xã hội loài người cần đưa ra những lựa chọn đúng đắn hơn.

4. Các thiết bị đang hủy hoại sự thân mật

Bạn và những người thân yêu đã bao giờ dành thời gian bên nhau chỉ để mỗi người cầm một chiếc điện thoại nhắn tin, đăng tweet, Facebook hay lướt web thay vì giao tiếp với nhau chưa? Xã hội phải chăng đã tới mức chúng ta không thể dành thời gian cho nhau mà không cầm trên tay chiếc điện thoại?

5. Các gia đình không còn dành thời gian quây quần bên nhau

10 sự thật đáng xấu hổ của xã hội hiện đại

Đây là một bà mẹ đang nướng bánh quy cho cả gia đình. Nhưng những đưa con thì đang làm gì kia? Chúng không cùng làm bánh với mẹ, mà đứa con nào cũng đang dán mắt vào thiết bị của mình. Trước đây, các bậc cha mẹ dùng TV để trông con; giờ đây máy tính bảng, điện thoại, laptop hoặc trò chơi điện tử đang đảm nhận công việc đó.

6. Chúng ta thà quay video một ai đó còn hơn giúp đỡ họ

10 sự thật đáng xấu hổ của xã hội hiện đại

Một người đàn ông da màu đang đuối nước và giơ tay ra cầu xin sự giúp đỡ. Một kẻ đang chĩa súng, còn kẻ còn lại thì chĩa chiếc iPhone về phía người đàn ông- cả hai đều không có ý định giúp đỡ người bị nạn.

7. Xã hội đang lãng phí thời gian

10 sự thật đáng xấu hổ của xã hội hiện đại

Thời gian là tiền bạc. Khi chúng ta tiêu phí thời gian trên các phương tiện truyền thông xã hội, chúng ta đang đánh mất thứ quý giá nhất chúng ta có: thời gian.

8. Dù đã có công nghệ, chúng ta vẫn muốn thứ thuộc về người khác

10 sự thật đáng xấu hổ của xã hội hiện đại

“Đứng núi này trông núi nọ” là một câu tục ngữ đã có từ lâu đời. Dù đã có những gì ta có, nhưng ngay cả những người giàu vẫn cần tình yêu, gia đình, … để được hạnh phúc.

9. Chiêu giật gân vẫn câu kéo được khách

10 sự thật đáng xấu hổ của xã hội hiện đại

Với lượng thông tin tràn đầy như hiện nay, truyền thông vẫn luôn tìm kiếm yếu tố giật gân. Người phụ nữ này rõ ràng đang muốn nói lên điều gì đó quan trọng, nhưng liệu giới truyền thông có còn quan tâm tới cô nữa hay không nếu cô không còn trong tình trạng bán khỏa thân nữa?

10. Cuối cùng, chúng ta vẫn đang tàn phá trái đất

10 sự thật đáng xấu hổ của xã hội hiện đại

Dù đã có nhiều tiến bộ về công nghệ, song con người vẫn đang tàn phá trái đất tới mức chúng ta gần như đang chĩa súng vào “Mẹ Thiên nhiên”. Với những thành phố ngày càng lớn và mức độ ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng, đến khi nào những gì chúng ta làm sẽ khiến chính chúng ta sụp đổ?

. Kế hoạch dự bị của Hoa Kỳ trong trường hợp chiến tranh với Trung Cộng

. Kế hoạch dự bị của Hoa Kỳ trong trường hợp chiến tranh với Trung Cộng

 National Interest

Tác giả: Robert Beckhusen

Dịch giả: Phạm Ðức Duy

25-2-2016

Ảnh: National Interest

Hoa Kỳ không còn có thể dựa vào các căn cứ không quân của mình tại Thái Bình Dương để tránh khỏi các cuộc tấn công tên lửa trong một cuộc chiến tranh với TC. Trái lại, một bài báo đăng vào năm ngoái 2015 của cơ quan RAND đã lưu ý rằng trong trường hợp xấu nhất, “nếu phòng thủ thiếu kín đáo, các cuộc tấn công lớn hơn, chính xác và kéo dài có thể sẽ đưa đến những tàn phá, thiệt hại lớn về máy bay và đóng cửa các phi trường trong một thời gian dài”.

Căn cứ không quân Hoa Kỳ Kadena ở Okinawa tại Nhật, tương đối gần đại lục, sẽ bị ảnh hưởng nặng nhất. Vào tháng 9 năm 2015, TC cũng đã công khai tiết lộ loại tên lửa đạn đạo mới DF-26, từ đại lục có thể tấn công căn cứ không quân Hoa Kỳ Andersen ở Guam, cách xa 3.000 dặm. Andersen và Kadena là hai căn cứ lớn nhất và quan trọng nhất của quân đội Hoa Kỳ ở nước ngoài.

Tinian, hòn đảo nhỏ gần đảo Guam đang từ từ trở thành một trong những căn cứ dự bị của Không quân Mỹ. Ngày 10 tháng 2 vừa qua, Tinian đã được chọn như một sân bay chuyển hướng “trong trường hợp căn cứ không quân Andersen ở Guam, hoặc các căn cứ khác ở vùng tây Thái Bình Dương bị hạn chế hoặc phong tỏa.”

Trong ngân sách dành cho năm 2017, Ngũ Giác Ðài đã yêu cầu 9 triệu đô la để mua 17,5 mẫu đất “trong việc hỗ trợ các hoạt động chuyển hướng và các đề nghị ​​tập luyện quân sự”, báo Saipan Tribune đưa tin. Trong thời bình, Không quân Mỹ ước lượng sân bay Tinian sau khi được mở rộng sẽ chứa “lên đến 12 máy bay tiếp nhiên liệu và một đội ngũ nhân viên hỗ trợ cho các hoạt động chuyển hướng”.

Tinian hiện giờ là một nơi buồn tẻ.

Trong Thế chiến II, Sư đoàn 2 và 4 Marine của Mỹ đã chiếm hòn đảo, và sau này các phi cơ B-29 Superfortress Enola Gay và Bockscar đã cất cánh từ sân bay North Field tại Tinian và thả hai trái bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasakị Từng là một kho vũ khí trong thời chiến, hiện nay hầu hết các đường băng tại North Field bị bỏ hoang, không được sử dụng. West Field, một căn cứ không quân khác trên đảo lúc trước, hiện chỉ là một sân bay quốc tế nhỏ, ít được biết đến.

Lúc đầu Hoa Kỳ muốn dùng Saipan làm phi trường quân đội. Cách Tinian không xa, Saipan có dân số 15 lần hơn Tinian, một phi trường lớn hơn và một bến cảng. Nhưng đề xuất này đã gặp phải sự phản đối của các nhà hoạt động địa phương do các hiệu ứng về “san hô, nước sạch, giao thông vận tải địa phương và các yếu tố kinh tế xã hội đối với cộng đồng xung quanh,” báo Stars and Stripes đã đề cập.

Phe chống đối lập thậm chí bao gồm cả giới ủng hộ việc kinh doanh trong đó có cả Phòng Thương mại của Saipan. Họ lo ngại rằng phi trường rỉ sét Tinian sẽ bị bỏ rơi trong lần chi tiêu lớn của Ngũ Gia’c Ðài kỳ này. Phi trường Saipan hiện cũng đang quá tải, và dân địa phương không hài lòng về triển vọng của hàng trăm phi công bay đến cho các khóa diễn tập quân sự kéo dài tới tám tuần mỗi năm.

Có thể nói đây là một sự lập lại quá khứ. Lúc trước Hoa Kỳ đã phân tán các căn cứ không quân ở những mức độ khác nhau và ở nhiều nơi trên thế giới trong thời chiến tranh lạnh. Nhưng từ khi mối đe dọa của một cuộc tấn công tên lửa từ phía Liên Xô không còn nữa và lúc ngân sách quốc phòng sau Persian Gulf War bị cắt giảm nhiều trong thập niên ‘90, Hoa Kỳ đã chuyển sang xu hướng dùng những căn cứ rất lớn (mega-base) hoạt động theo quy mô kinh tế.

Tuy nhiên trong thời chiến mô thức phân tán các căn cứ quân sự có xác suất tồn tại nhiều hơn, Alan Vick của RAND đã nghiên cứu và kết luận trong năm 2015:

“Phân chia những phi cơ trên nhiều căn cứ khác nhau tạo ra khả năng phòng hờ, dư bị trong lãnh vực điều hành trên mặt đất và các cơ sở. Điều này giúp tăng cường sự an toàn cơ bản của các chuyến bay bằng cách cung cấp nhiều chỗ đáp hơn cho những trường hợp cần chuyển hướng khẩn cấp hoặc lúc thời tiết xấu. Nó còn làm tăng số lượng các sân bay mà địch phải theo dõi và có thể gây khó khăn hơn cho kẻ thù lúc nhắm mục tiêu (một phần vì số lượng di chuyển giữa các căn cứ của các lực lượng bạn gia tăng).”

“Ít nhất, so với mô thức tập trung, phân tán (vì làm tăng tỷ lệ đường băng và máy bay) buộc phía địch phải sử dụng nhiều năng lực đáng kể hơn để tấn công những đường băng. Mô thức phân tán cũng làm tăng chi phí xây dựng và điều hành các phi cơ trên nhiều căn cứ chính. Để giảm thiểu những chi phí này, mô thức phân tán có xu hướng dùng những căn cứ nhỏ, khiêm tốn hơn, đôi khi, có thể chỉ là những đường băng.”

Dân oan đến thế là cùng

Dân oan đến thế là cùng

Nguyễn Bá Chổi (Danlambao)Tại sao Dân oan đến thế là cùng! Dân nước người ta, ngay cả dân Việt Nam mình thời Thực dân Phong Kiến nói chung, thời “Mỹ Ngụy kìm kẹp cực kỳ, bóc lột hoành tráng” nói riêng, dân oan không phải là không có, nhưng còn được mở miệng kêu oan, thậm chí kêu lên tòa án, được tòa xử đúng theo luật pháp, chẳng hạn như vụ Nọc Nạn năm 1928 (1). Tức là dân oan còn có lối thoát, nếu không được giải oan, thì nỗi oan cũng ngừng lại ở mức đó. Phải đợi cho đến thời đại Hồ Chí Minh, dân Việt Nam mới… oan đến thế là cùng!….

*

Nếu Đạo Phật và Đạo Chúa dạy rằng, lấy oán báo oán, oán chồng chất, thì trong “Đạo Bác” đang hành dân trong nước Việt Nam, Dân oan kêu oan, chỉ chuốc thêm oan.

Như ai cũng đã biết, “đức tính” của oán và oan: chữ chỉ khác nhau một cái dấu sắc, ý thì cùng là “của nợ” cả, song “tinh thần” mỗi thứ “của nợ” lại khác nhau xa: một bên nên quên đi, một đàng phải đòi lại.

Đã bị oán rồi, nay lại lấy oán đi báo oán, tuy có được “đã nư” chốc lát nhưng hậu quả là chuốc thêm oán vận mãi vào thân, nên người ta có thể bỏ qua việc báo oán. Trái lại, khi bị oan, mấy ai trên đời này mà chẳng kêu oan, nhất là nỗi oan mất nhà mất đất, mất tự do, mất quyền làm người, mất đủ thứ, kể cả mất mạng trong đồn Côn an.

Xưa nay, trong cõi người ta, không ai thoát được khỏi tay “Tứ trụ”: Sinh, Lão, Bịnh, Tử. Nhưng từ sau ngày Việt Nam bị “Đạo Bác” nó hành, người dân nước này bị thêm một “trụ” nữa là Oan, thành “Ngũ trụ”: Sinh, Lão, Bệnh, Tử và Oan!

Nói dân Việt Nam bị “Ngũ trụ” như trên, thế nào cũng bị Dư luận viên “bức xúc”, phản bác ngay, rằng dân oan chứ cán bộ đảng viên đâu có bị oan. Đúng là trình độ hiểu biết về lịch sử Đảng của DLV quá kém cỏi: người tuổi tác cỡ ông bà cố tổ nội ngoại của DLV mà cũng phải gọi cậu Cu Côn bằng Bác thì không oan là cái gì; chẳng những thế, chính bản thân cha già DT cũng bị oan khi bị đám nhi đồng cỡ cháu của DLV gọi phạm thượng là “Bác Hồ”, thay vì “Cụ cố ”, “Cụ tổ”, “Cụ tỷ”… Hồ.

Trở lại chủ đề “Dân Oan đến thế là cùng”. Sở dĩ tác giả có được cái tựa “nghe quen quen” như trên, cũng là vì nhập tâm lời bác Cả Lú oánh giá kết quả Đại họa Đảng thành công rực rỡ vừa rồi, là “…Dân chủ đến thế là cùng”. Xin gửi nơi đây một phát cảm ơn bác Lú gợi hứng thú… Dân Oan đến thế là cùng!

Tại sao Dân oan đến thế là cùng! Dân nước người ta, ngay cả dân Việt Nam mình thời Thực dân Phong Kiến nói chung, thời “Mỹ Ngụy kìm kẹp cực kỳ, bóc lột hoành tráng” nói riêng, dân oan không phải là không có, nhưng còn được mở miệng kêu oan, thậm chí kêu lên tòa án, được tòa xử đúng theo luật pháp, chẳng hạn như vụ Nọc Nạn năm 1928 (1). Tức là dân oan còn có lối thoát, nếu không được giải oan, thì nỗi oan cũng ngừng lại ở mức đó.

Phải đợi cho đến thời đại Hồ Chí Minh, dân Việt Nam mới… oan đến thế là cùng! Vì oan mà không được mở miệng kêu oan. Nếu ai can đảm mở miệng kêu oan hoặc chống lại bọn cướp trắng ngang xương tài sản mình là bị tòa án XHCN buộc tội “chống nhân viên nhà nước thi hành công vụ”. hoặc khi bị bắt oan vào đồn Côn an, không chịu nhận tội vu oan là bị CA“cho” chết oan luôn tại chỗ, còn bị bồi thêm một lần oan nữa là chết vì tự vận hoặc đột tử do bệnh nan y.

Mà nào đâu phải dân oan chỉ lác đác đây đó dăm ba người lẻ tẻ, dân oan nổi lên đầy dẫy ba miền đất nước. Hình ảnh mới nhất là Ngày 27 Tháng 2 vừa qua, dân oan cả nước xuống đường kêu oan, nhưng họ đã bị nhà nước tự cho là “của dân do dân vì dân” CSVN đã đối xử với đồng bào mình như thế nào, báo đài đã nói viết đầy dẫy trên mạng lưới toàn cầu…xin được phép miễn kể ra đây .

Thật là không dân nào bằng dân Việt trong “Thời đại Hồ Chí Minh”, Đảng quang vinh muôn năm là nhờ… Dân Oan đến thế là cùng!

Nguyễn Bá Chổi

danlambaovn.blogspot.com

Ghi chú:

(1) https://tiengnoidanchu.wordpress.com/2012/02/21/t%E1%BB%AB-v

Cái nhìn nội tâm,

Cái nhìn nội tâm,

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Mùa Chay là mùa sám hối. Sám hối là đổi mới tâm hồn. Muốn đổi mới tâm hồn, phải đổi mới cách nhìn về con người và cuộc đời, về bản thân và tha nhân. Hôm nay, Chúa Giêsu dạy ta những cách nhìn thời cuộc và biến cố theo tinh thần của Người.

Thông thường, trước một biến cố, ta dễ có cái nhìn chính trị. Hôm nay, người ta thuật lại việc Philatô giết những người Do Thái trong Đền Thờ. Thời ấy, đế quốc Rôma đang thống trị nước Do Thái. Philatô là viên tổng trấn của Rôma. Tường thuật biến cố đau thương này, người ta mong Chúa Giêsu có cái nhìn chính trị, dấn thân vào chính trị. Người ta mong Chúa Giêsu kết án Philatô. Không bàn chính trị, không làm chính trị, cho dù sau này Chúa Giêsu vẫn bị kết án vì một tội chính trị. Không kết án Philatô, dù sau này chính Người bị viên tổng trấn này kết án.

Trước mọi biến cố, Chúa Giêsu muốn ta có một cái nhìn tôn giáo, vượt lên trên lĩnh vực chính trị. Từ một câu hỏi thuộc bình diện chính trị, Chúa Giêsu đã đưa ra một giải đáp thuộc bình diện tôn giáo. Từ một biến cố gây xôn xao dư luận, Chúa Giêsu mời gọi ta hãy ăn năn sám hối. Từ cái chết của thể xác, Chúa Giêsu hướng suy nghĩ ta tới cái chết của linh hồn: “Các ông tưởng mấy người Galilê đó bị như vậy là vì họ tội lỗi hơn những người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”.

Đối với người khác, ta dễ có cái nhìn kết án. Khi gặp một người mù từ thuở mới sinh, người ta hỏi Chúa Giêsu: “Đây là do tội nó hay tội của cha mẹ nó?”. Gặp người phụ nữ phạm tội ngoại tình, người ta muốn kết án chị. Nga có thói quen cho rằng thành công là một ân huệ Chúa thưởng cho người đạo đức, còn tai hoạ là hình phạt Chúa dành cho kẻ tội lỗi. Hôm nay, chứng kiến những nạn nhân bị thiệt mạng, những người tường thuật đều nghĩ rằng những nạn nhân ấy chết vì họ tội lỗi, còn tôi vô sự, điều đó chứng tỏ tôi vô tội. Chúa Giêsu lên tiếng cảnh báo họ: Các ông cũng là kẻ tội lỗi. Nếu các ông không ăn năn hối cải, các ông sẽ chết thảm khốc hơn những nạn nhân kia nữa. Chúa Giêsu dạy ta có cái nhìn bao dung. Nếu có phải xét đoán, hãy xét mình trước khi xét người. Nếu có phải lên án, hãy lên án chính bản thân mình trước khi lên án người khác: “Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt ngươi trước, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em”. “Ai trong các ông vô tội hãy ném đá chị này trước đi”.

Sau cùng, ta thường có cái nhìn ảo tưởng. Ta xây dựng những chương trình to lớn, những tham vọng đổi mới xã hội. Chúa Giêsu dạy ta hãy có cái nhìn thực tế: Đừng ảo tưởng với những chương trình to tát, lấp biển vá trời. Hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ bé. Đừng có ảo tưởng đổi mới xã hội, cải tạo thế giới. Trước hết, hãy đổi mới chính mình, cải tạo bản thân mình. Tục ngữ Trung quốc có câu: Nếu mỗi người trông hoa trước cửa nhà mình, cả thế giới sẽ biến thành một vườn hoa đẹp. Đổi mới chính mình đó là góp phần vào đổi mới thế giới.

Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng ánh mắt ta lên cao, vượt thoát lĩnh vực tự nhiên để vươn tới lĩnh vực siêu nhiên. Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng cái nhìn của ta xuyên qua những lớp bì phủ bên ngoài để soi chiếu vào chiều sâu nội tâm. Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng cái nhìn của ta ra khỏi những ảo tưởng, đối diện với thực tế bản thân để trước mỗi biến cố ta tự xét và đổi mới chính mình.

Lạy Chúa, xin đổi mới trái tim con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Trong các biến cố, bạn có tìm thấy ý Chúa không?
    2. Bạn có nghĩ rằng hễ ai gặp may thì đó là người đạo đức, ai gặp tai nạn thì đó là người tội lỗi không?
    3. Muốn đổi mới gia đình, xã hội, phải đổi mới bản thân trước. Bạn nghĩ sao về điều này?

VN Chết Vì Hàng TC

VN Chết Vì Hàng TC

Vi Anh
CHET VI T Q
Hồi năm 2001, Đảng Nhà Nước CSVN nhập siêu của TC chỉ có 200 triệu Mỹ kim. Đến năm 2014 CSVN lại nhập siêu lên đến 28,9 tỷ Mỹ kim, tăng 144 lần. CSVN là một chế độ lệ thuộc hàng hoá TC nhiều nhứt trong khối ASEAN. Phó giám đốc Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại – tiến sĩ Lê Quốc Phương cho biết trong 94 ngành nghề của Việt Nam, đã có tới 40 ngành chết dính với nguồn từ Trung Quốc. Đồ của TC thịt heo thúi, trái cây hư, thuốc tàu ô nhiễm, đồ gian, đồ giả, đồ độc, từ cây kim, sợi chỉ, cái khoá quần, đến nút áo các nước trả lại, TC dồn qua bán cho VN, giá rẻ như bèo. Dân VN nghèo cái gì rẻ thì mua xài.

Chính Mỹ đệ nhứt siêu cường kinh tế thế giới còn phải báo động, dân chúng coi “made in China” là dấu hiệu nguy hiểm cho sức khoẻ. Dân chúng Mỹ chống Wall Mart bán hàng TC, tập đoàn bán lẻ này phải đóng cửa mấy trăm cửa hàng.

Thế nhưng chưa thấy cán bộ đảng viên nào trong chánh phủ, quốc hội VNCS và ban chấp hành trung ương Đảng CSVN lên tiếng về tai hoạ lệ thuộc kinh tế đối với TC.

Nhơn dịp Tết, một lễ truyền thống lớn nhứt của quốc gia dân tộc VN, tin RFA, Bác sĩ chuyên khoa dinh dưỡng, Tạ Thị Tuyết Mai, thuộc bệnh viện nhân dân Gia Định, Sài Gòn nói về những đồ ăn này như sau: “Mứt thì sợ người ta bỏ phẩm màu vào. Thứ hai là măng khô mà mình hay nấu với giò heo. Nếu măng mình mua phải loại người ta bỏ phốt pho thì độc. Cái thứ ba là hạt dưa thì phẩm màu trong hạt dưa cũng rất có hại, độc…. thường thường những cái đó không gây ngộ độc ngay mà ngộ độc mãn. Sợ nhất là ngộ độc mãn, lâu dần sẽ làm tổn thương gan, thận, dẫn đến ung thư.” Còn cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường công an TP/HCM đã phát hiện một cơ sở làm mứt Tết đang ngâm tẩm các loại khoai lang, gừng, bí làm mứt trong các thùng hóa chất công nghiệp là sodium hydrosulfite và vôi công nghiệp. Chất sodium hydrosulfite là hóa chất dùng tẩy trắng trong công nghiệp. Mà hầu hết hoá chất độc hại người Việt xài cho đồ ăn thức uống là mua của TC đem qua VN bán.

Báo chí trong ngoài luồng trong nước còn báo động. Rằng một số quốc gia phát giác, hàng dệt may của Trung Cộng có hàm lượng formaldehyde vượt mức cho phép nhiều lần, khiến người sử dụng có thể bị ung thư. VN chưa có giải pháp nào bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam trước những hiểm họa tiềm ẩn trong hàng hóa TC. Hàng của TQ lại bán rẻ, người dân VN nghèo thường mua để xài nên dễ bị ung thư do hàm lượng formaldehyde quá cao.

Dân chúng VN không những chết vì bị ung thư do quần áo made in China mà còn vì đồ ăn thức uống, trái cây tươi, khô tẩm thuốc mau lớn, bảo quản lâu, thuốc bắc phơi hay sấy ô nhiễm made in China, do TC xuất cảng hay tuồn hàng lậu qua VN. Dân VN đại đa số nghèo nên phải mua hàng rẻ. Nhà cầm quyền CSVN lệ thuộc TC nên TC coi thị trường VN như một nơi TC gỉai quyết hàng gian, hàng giả, hàng độc bị các nước khác trả lại. TC tuồn hàng tràn ngập sang VN còn để giết nông nghiệp và kỹ nghệ phôi thai của VN.

Các nước lớn như Mỹ, Pháp đã cho TC ra ngoài rìa thị trường lâu rồi vì hàng gian, hàng giả, hàng độc made in China của TC. “Made in China” đã phần nào đồng nghĩa với “nguy hiểm”. Nhưng phân tích cho thấy, người dân trên thế giới cảm thấy khó mà thoát khỏi đồ độc của Trung Cộng. Vì những lý do sau. Một, Trung Cộng là nước xuất cảng thực phẩm đứng hàng thứ ba trên thế giới. Hàng hoá TC rẻ nên nhiều người mua, nhứt là dân nghèo, mà dân nghèo lúc nào và nước nào cũng đông hơn dân giàu. Nói tới Trung Quốc, trên thế giới người ta chỉ chú ý như là một nước, một công xưởng sản xuất và xuất cảng hàng hoá rẻ tiền như quần áo, giày vớ, đồ điện tử, đồ gia dụng rẻ tiền, nhưng ít ai chú ý TC là nước xuất cảng lương thực, thực phẩm, nông sản – đứng hàng thứ ba trên thế giới. Thực phầm chiếm phần lớn nhứt.

Lấy nước Pháp làm thí dụ. Từ năm 2008, nhà báo Tristan de Bourbon, viết trên tờ La Croix của Pháp, tài liệu của Quan Thuế TC cho biết trong quí một, từ tháng 01/2008 đến tháng 03/2008, TC xuất cảng gần 7 triệu tấn lương thực, tăng hơn 11% so với cùng thời kỳ 2007, tăng mạnh nhất là sang Châu Âu, khách hàng thứ nhì của Trung Quốc sau Châu Á (gần 900,000 tấn).Trung Quốc đứng đầu trong mặt hàng thủy sản, cũng như các loại rau quả hộp, từ cà chua, nấm, cho đến các mặt hàng đông lạnh, và trái cây. Theo tài liệu của Quan Thuế Pháp, năm 2007 Pháp đã nhập 411 triệu euros thực phẩm từ TC. Phần lớn các hộp nấm Paris, champignon de Paris, bán tại Pháp, đều đến từ TC. Một mặt hàng khác, mà TC cũng đứng đầu là nước táo, loại đậm đặc, để chế tạo những loại nước trái cây bán trong hộp giấy.

Hai, nông phẩm gốc như sữa, đường không phải chỉ bán dưới dạng thực phẩm sữa đường, mà có thể dùng để biến chế ra hàng trăm phó phẩm và thực phẩm khác. Sữa độc có chứa chất melamine của TC chẳng những TC đã dùng làm ra kẹo Thỏ Trắng: “Made in China” xuất cảng sang nhiều nước thì dễ biết. Sữa của TC được các công ty của các nước khác mua dùng như nguyên liệu để chế ra thực phẩm của ngoại quốc, thì người tiêu thụ thông thường làm sao biết được. Theo nhà báo Tristan de Bourbon viết trên tờ La Croix của Pháp, hãng của Pháp Nestlé, Unilever dùng sữa nhập cảng từ TC để biến chế thành sữa, cà phê sữa Nestle, Unilever, thì ngưòi tiêu thụ đâu có biết nguyên liệu là sữa có độc chất của TC. Cụ thể cà phê sữa bột Trung Nguyên, Vinacaphe của Việt Nam xuất cảng ra ngoại quốc, người uống đâu có biết sữa có chất melamine của TC hay không. Hoạ may chỉ có nhà nước sau khi kiểm nghiệm chất lượng, công bố thì người tiêu thụ mới biết thôi. Tuy nhiên, dân chúng ở Tây Phương sẽ không thể tránh được nạn thực phẩm bị nhiễm độc như trong vụ sữa vừa qua.

Ba, thuốc Bắc của TC, chế thành thuốc hay bán dưới hình thức nguyên liệu, cũng là một thứ nông sản. Nếu tính số nông sản này vào thì hầu như nước nào cũng có nhập cảng từ TC. Người Trung Hoa có mặt gần như khắp hoàn cầu. Hầu hết tại thủ đô và các thành phố lớn của các nước đều có “China Towns”. Dược thảo Trung Quốc không những người Á Châu thích mà ngay người Âu Mỹ cũng thích.

Bốn, luật lệ về “kiểm soát chất lượng và an toàn thực phẩm” của TC có, có nhiều và gắt nữa là đằng khác, nhưng không được áp dụng nghiêm minh. Là vì chủ trương kinh tế của TC đặt nặng xuất cảng hơn là phẩm chất và an toàn. Thêm vào đó nạn tham nhũng của những cán bộ có chức có quyền đã biến những luật lệ kiểm tra chất lượng và an toàn thực phẩm trở thành mớ giấy lộn. Một viên chức Liên Âu làm việc ở Bắc Kinh xác nhận ở TC, từ nhãn hiệu, cho đến giấy phép, tất cả đều có thể được mua hay làm giả một cách dễ dàng. Báo chí là của Đảng Nhà Nước chỉ viết khi được phép.

Sau cùng, với một số lượng nông sản TC xuất cảng hầu như khắp thế giới, thành phẩm hay dưới hình thức nguyên liệu lớn như vậy; với nông sản nguyên liệu TC xuất cảng sang các nước và các nước biến chế ra thành thực phẩm made in France, in VN, in Thailand, v.v…, có thể nói rất khó mà tránh khỏi đồ hàng hoá của TC độc hại sức khoẻ cho người dân trên thế giới, nhứt là dân nghèo./. (VA)

Niềm tin có Chúa ở cùng.

Niềm tin có Chúa ở cùng.

   Tác giả Phùng văn Phụng

Trong cuộc đời mỗi người, ai ai cũng có những biến cố vui, buồn, đau khổ hay hạnh phúc, riêng tôi, tôi đã ghi nhận vài sự việc sau đây, với cái nhìn của đời sống tâm linh, tôi nghĩ là tôi đã “có Chúa ở cùng” trong cuộc đời trôi nổi của tôi:

I ) Những điểm nổi bật cần ghi nhận như sau:

  • 1) Tôi bị tai nạn hồi còn nhỏ lúc 7, 8 tuổi. Ngồi trên bàn, phía sau bàn là tủ kiếng chứa đồ tạp hóa, sơ ý, tôi ngồi bật ngửa ra sau, té, đập đầu sau ót vào tấm kiếng. Chở lên nhà thương quận cách chợ núi khoảng 5,6 cây số bằng xe ngựa. Sau khi khám vết thương, kiếng chỉ đâm vào giữa hai đưòng gân, không chạm vào đường gân nào hết. Chích thuốc cầm máu, rửa vết thương, băng bó và cho về nhà ở với ông cậu bảy. Thoát chết.
  • 2) Năm 1978, khi cộng sản đưa chúng tôi từ Lào Cai về Vĩnh Phú trên chiếc xe bít bùng, xe chạy trong mưa gió. Hai người tù chúng tôi bị còng chung với nhau trong một cái còng.   Tay người tù này bị còng chung tay với người tù kia . Chúng tôi lên xe trước, ngồi gần tài xế. Khi đổ đèo, xuống dốc, tất cả mấy chục người phía sau xe đổ dồn một lúc lên phía trước, đè lên người tôi, ngộp thở. Tưởng chết, nhưng chưa chết. Khi đỗ đèo, dưới cơn mưa tầm tả, sợ rơi xuống đèo, nhưng nhờ trời thương vẫn về tới trại giam Vĩnh Phú. Tôi cũng không chết.
  • 3) Sống ở trại tù K3 Vĩnh Phú chịu đựng cái lạnh thấu xương, chắc khoảng 10 độ C, gió bấc, mưa phùn liên tục hơn hai tháng. Dầu trời lạnh và mưa gió như thế, chúng tôi phải đi ra đồng nhổ cỏ, trồng khoai lang, khoai mì. Gió lạnh, mưa phùn lất phất suốt ngày đêm. Chúng tôi tù nhân bị đói triền miên. Đói quá anh em thường nói “con gì nhúc nhích thì ta ních liền” .

Ăn rau tàu bay, rau má, rau dấp cá, lá khoai mì … con nhái, con cá, con đuông… đói quá, có người ăn cóc, nướng sơ sơ mà ăn nên bị trúng độc mà chết .

Buồi sáng đi làm, buổi chiều về trại, áo quần ướt hết, không thể khô được. Ngày hôm sau mặc áo ướt đó lại đi ra đồng, dưới trời mưa phùn, gió bấc vừa đói, vừa lạnh . Mỗi ngày chỉ ăn bo bo không xay, loại bo bo cho trân bò ăn . Ăn vô 10, 15 phút sau thì tống ra ngoài hết . Ăn khoai mì lát hay củ khoai mì chỉ có hai đầu toàn xơ không có bột . Ăn vô, mấp mấp lấy nước rồi nhả ra hết . Loại khoai mì người dân miền Bắc đóng nghĩa vụ, đóng thuế. Canh rau muống vài cọng rau với nuớc muối . Một năm được ăn thịt ba lần ngày 2 tháng 9, Tết ta và ngày 30 tháng 04. Có lần nấu da trâu, ninh hơn một ngày, một đêm rồi phát cho tù ăn.

Sau vài tháng ở Vĩnh Phú, anh em tù nhân chỉ còn là những bộ xương cách trí biết đi . Cứ vài ngày đóng hòm đưa tù nhân ra chôn. Anh Quế là Giáo sư trung học, người Quảng Nam, đi tù vì tham gia đảng Dân Chủ. Anh người ốm yếu,vì ăn thiếu thốn, bị đói mà còn cuốc đất vất vả nữa , nên anh bị kiệt sức . Một hôm, đang đêm khuya người bạn nằm gần bên la lớn lên “Anh Quế chết rồi.”

Bị bỏ đói triền miên như vậy tôi thường xuyên bị cảm, cứ mỗi lần đi ra đồng trở về là tôi bị cảm . Nóng hâm hấp. Tim đập mạnh . Y tá trại nói tôi bị bịnh tim. Chân bước lên thềm không nổi phải lấy tay nâng đỡ chân lên. Đi muốn không nổi. Cảm tới, cảm lui hoài Thường xuyên  ăn cháo. Chân bị phù thủng . Bạn bè ra đi nhiều quá .Tôi nghĩ rằng chắc sẽ tới phiên mình không biết lúc nào ? Chắc sẽ không còn nhìn thấy gia đình, cha mẹ, vợ con. Vậy mà tôi không chết nên bây giờ mới viết bài này.

  • 4)   Chuyển về trại giam K4 Vĩnh Phú bị sốt vàng da, đi không nổi, anh bạn cỏng lên bịnh xá, nhờ có bác sĩ Thịnh trữ thuốc trụ sinh trị mới hết bịnh sốt vàng da này. Ở đây người ta gọi là Mai Côi ,Thác Guồng, nằm giữa thung lũng chung quanh là rừng núi, ban đêm chỉ nghe tiếng chim kêu “bắt cô trói cột” mà thôi. Nơi đây, anh em tù ở ngoài Bắc gọi là nơi “đi dễ khó về”, bị đày đến đó rồi khó mà sống sót trở về nhà.
  • 5) Qua tới Mỹ một tai nạn tưởng như đã ra đi . Đang chạy trên đường Beechnut, đến ngả tư đường wilcrest, đèn xanh vừa bật lên tôi tiếp tục chạy tới bình thường . Nhưng xe bên trái của tôi chạy trên đường wilcrest, vượt đèn đỏ, đâm vào đầu xe của tôi làm cho xe tôi quay 90 độ. Nhờ đâm vào gốc của đầu xe nên xe tôi xê dịch, người không sao, nhưng xe thì bị hư hại nặng . Nếu tôi chạy nhanh hơn chừng hai giây thì xe bên trái đã đụng ngay vào chỗ ngồi của tôi, không chết thì cũng bị thương nặng vì họ vượt đèn đỏ và chạy rất nhanh . Tôi lại thoát chết .

II ) Suy ngẫm: Nếu nhìn vào cuộc sống bằng cái nhìn tâm linh thì trong suốt cuộc đời tôi, tôi phải tạ ơn Thiên Chúa và Đức Mẹ vì nhiều lần tôi suýt chết, mà không chết.

 Phải tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh (1) dù thành công hay thất bại cũng phải tạ ơn .Tạ ơn khi thất bại mới có ý nghĩa, vì biết đâu thử thách này để mình cần Chúa hơn , cần cầu nguyện với Chúa, xin Chúa nâng đỡ mình, an ủi mình, mình sẽ càng gắn bó, gần gủi với Chúa nhiều hơn .

Có những điều chúng ta hiểu biết được do kiến thức của chúng ta. Nhưng hiểu biết của chúng ta luôn luôn bị giới hạn . Tất cả biến động của thế giới hay của một nước thì vô cùng. Làm sao biết hết được.

Cho nên phải cầu nguyện trong mọi sự và mọi sự đều phải cầu nguyện .

Trước năm 1975 tôi đâu có thể tin rằng miền Nam thua miền Bắc được. Một thế giới tự do văn minh không thể thua một chế độ độc tài, man rợ.

Và đâu có ai tin rằng phía đã chiến thắng rồi còn giam giữ người thua trận đến thời gian

quá lâu dài đến như thế. Nhiều người ở tù 10, 15 năm, 17 năm.

Làm sao biết được có chương trình H.O. ra đi trong trật tự .

Làm sao biết được công ăn việc làm sẽ ra sao ? khi qua Mỹ sinh sống.

Nếu nhìn mọi sự việc với cái nhìn của đời sống tâm linh thì ta cũng phải tạ ơn Chúa mọi việc, ngoài khả năng tính toán của ta.

Câu chuyện “tái ông mất ngựa” hay chuyện “thánh Gióp” nói lên rất nhiều ý nghĩa của cuộc đời chúng ta. Lúc sung sướng, lúc khổ sở, lúc có công ăn việc làm, lúc thất nghiệp, lúc nghèo, lúc khá giả, lúc khỏe mạnh, lúc đau yếu. Làm sao ta có thể biết trước được. Cho nên phải chấp nhận cuộc đời, chấp nhận mọi sự, tạ ơn Chúa khi thất bại, đau khổ, thì cuộc sống ta mới bình an được.

III ) Kết : Trong gia đình tôi có Bác hai là người biết trước được ngày chết của mình. Hôm đó ông tắm rửa sạch sẽ, măc bộ đồ trắng, thắp nhan trên bàn thờ , rồi ông nằm trên giường và ra đi trong bình an không than khóc.

Một người khác cũng trong dòng họ tôi gọi là ông Út, ông thường ngồi thiền . Ông cũng biết được ngày mất. Ông ngồi thiền khoảng 7 ngày và ông đã ra đi trong lúc ngồi thiền . Hòm để chôn cất ông có hình bát giác.

Khi làm đám tang, bà út,vợ ông khóc, người con trai là chú sáu Rẩy kéo ra phía sau nói:  “Tía dặn chết không được khóc sao má lại khóc.” Vì vậy, bà út khi khóc phải ra phía sau nhà mà khóc, chứ không khóc ở nhà trên lúc có nhiều người bà con đến thăm viếng nữa.

Tôi cứ suy nghĩ hoài: “Làm sao lúc ra đi, lúc chết, người thân xung quanh đều khóc lóc mà mình ra đi thì mỉm cười”.

    Tác giả Phùng văn Phụng

(1)  Thơ của Thánh Phao lô (1TX5, câu 17)

viết xong ngày 27 -02-2016