Hội nghị Biển Đông: ‘Cần nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc’

Hội nghị Biển Đông: ‘Cần nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc’
Nguoi-viet.com

Châu Văn Thi
(Gởi cho Người Việt từ Manila)

MANILA (NV) – “Tất cả hành động quân sự hóa của Trung Quốc trên Biển Đông trong thời gian vừa qua nhằm khẳng định chủ quyền của họ, tạo ra sự đã rồi, để mà họ tìm một thế thượng phong nếu như họ không còn đường thối lui mà bắt buộc phải ra tòa.” Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc bình luận về những hành động quân sự mới đây của Trung Quốc ở Biển Đông.

Cựu Nghị Sĩ Roilo Golez trình bày bản tham luận về những sự mở mang, cải tạo đảo của các quốc gia ở Biển Đông, đặc biệt là Trung Quốc. (Hình: Châu Văn Thi/Người Việt)

Sáng 4 Tháng Ba 2016, các tổ chức Xã Hội Dân Sự (XHDS) Việt Nam và Philippines tổ chức hội nghị Biển Đông lần thứ 2 tại Manila, Philippines.

Đến tham dự có tổ chức VOICE, nhóm họp mặt dân chủ của Việt Nam cùng với 2 liên minh MARCHA, USPGG của Philippines.

Đặc biệt có sự tham dự của ông Đinh Kim Phúc, nhà nghiên cứu độc lập về Biển Đông đến từ Việt Nam. Ông Phúc cho rằng tổ chức ASEAN hiện giờ là một tổ chức yếu, các thiết chế còn lỏng lẻo và nếu không giải quyết những bất đồng nội bộ liên quan đến quần đảo Hoàng Sa thì khó mà chống Trung Quốc được.

Ông cũng đề nghị, “Về mặt chiến lược quân sự thì nên chăng giữa Việt Nam và Philippines đàm phán vấn đề 2 đảo Song Tử Đông và Song Tử Tây, biến nó thành hòn đảo nhân tạo và một căn cứ quân sự nhằm phá vỡ được trận địa trên 7 đảo nhân tạo của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa.”

“Có một số người nói rằng, việc mà Trung Quốc triển khai radar, tên lửa là để cô lập và đối đầu với Mỹ, tôi thì không nghĩ như vậy!”

Nhà nghiên cứu bình luận: “Tất cả hành động quân sự hóa của Trung Quốc trên Biển Đông trong thời gian vừa qua nhằm khẳng định chủ quyền của họ, tạo ra sự đã rồi, để mà họ tìm một thế thượng phong nếu như họ không còn đường thối lui mà bắt buộc phải ra tòa.”

Hội nghị có trên 20 người tham dự, đến từ 4 tổ chức XHDS Việt-Phi. (Hình: Châu Văn Thi/Người Việt)

Tại hội thảo, ông Roilo Golez, cựu Thượng Nghị Sĩ Philippines trình bày bài phân tích về sự mở mang mới nhất của Trung Quốc ở vùng biển South China Sea (Philippines gọi là Tây Philippines, Việt Nam gọi là Biển Đông).

Ông Roilo Golez cho rằng cần có thêm nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc và nhiều những cuộc hội thảo như thế này nhằm giáo dục người dân về mối nguy cơ của Trung Quốc ở Biển Đông.

Tuyên bố chung Việt-Phi

Kết thúc hội nghị, 4 nhóm Xã Hội Dân Sự của Việt Nam và Philippines cùng đồng ý ký tên vào tuyên bố chung Việt-Phi trong đó nêu rõ: “Các tổ chức Xã Hội Dân Sự cần phải có một tiếng nói độc lập.

“Chúng ta không muốn nói những gì chính quyền nói, chúng ta sẽ có tiếng nói riêng của mình.

“VOICE đồng ý để tiếp tục tổ chức những hội nghị như thế này.

“Các tổ chức Xã Hội Dân Sự như USPGG và MARCHA có thể tổ chức các cuộc biểu tình chống Trung Quốc,” tuyên bố chung ký bởi 4 tổ chức cho biết những việc cần làm.

Nhà nghiên cứu Biển Đông Đinh Kim Phúc đề nghị Việt-Phi hợp tác quân sự hóa 2 đảo Song Tử Đông, Song Tử Tây để đối chọi với Trung Quốc. (Hình: Châu Văn Thi/Người Việt)

Luật Sư Trịnh Hội, giám đốc điều hành của tổ chức VOICE cho biết hội nghị đã đồng ý 2 điều chính đó là: “Những người tham gia đồng ý sẽ tiếp tục vận động những tổ chức XHDS ở Philippines và Việt Nam cùng hợp tác để tiếp tục ủng hộ Philippines kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế. Cùng đồng ý sẽ phải thúc đẩy chính phủ Việt Nam thực hiện điều tương tự là kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế.”


Tưởng nhớ Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích

Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích, một diễn giả của hội nghị Biển Đông lần 2 mất vào ngày 3 Tháng Ba khi đang trên máy bay từ Mỹ đến Philippines.

Hội nghị Biển Đông lần 2 dành 1 ghế trống để tưởng nhớ Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích, diễn giả của hội nghị qua đời khi trên đường đến tham dự. (Hình: Châu Văn Thi/Người Việt)

Trước khi bắt đầu hội nghị, mọi người cùng dành một phút mặc niệm để tưởng nhớ về ông, đồng thời hội nghị để trống 1 ghế đề tên ông như có sự hiện diện của ông trong cuộc hội thảo lần này.

Theo dự định, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích sẽ có bài tham luận bàn về quan hệ Việt-Trung và ông cho rằng mối quan hệ 2 nước đang ở “một khúc quanh phức tạp.”

Thi hài của Giáo Sư Bích sẽ được đưa về Hoa Kỳ vào tối 6 Tháng Ba, 2016.

Nhân sự giảng dạy như vậy thì biết cái gì để dạy?

Nhân sự giảng dạy như vậy thì biết cái gì để dạy?

FB Trương Nhân Tuấn

Hổm rày cáo chí đăng lai rai ý kiến các trí thức phàn nàn về việc “hàng trăm ngàn cử nhân tốt nghiệp không có việc làm”. Hôm nay đặc biệt có ý kiến của TS Nguyễn Tiến Luận: “Cứ cung cách dạy dỗ kiểu này thì cử nhân không ngóc đầu lên được“. Ông Luận cho rằng nguyên nhân (các cử nhân) thất nghiệp là do “kỹ năng quá kém”.

Tôi hoàn toàn đồng ý với nhận xét của TS Luận: các cử nhân mới tốt nghiệp không tìm được việc làm là do kỹ năng quá kém. Nhưng nếu nhìn sâu vào vấn đề, theo tôi, có hai nguyên nhân đưa đến nạn thất nghiệp (của các chuyên gia vừa được đào tạo).

Thứ nhứt là lý do kinh tế. Kinh tế không phát triển thì không tạo ra công ăn việc làm. Điều này không hẵn chỉ có (một cách trầm trọng) ở VN, mà các nước tiên tiến cũng bị vấp phải.

Thứ hai mới là “chất lượng” của chuyên gia vừa được đào tạo.

Ở status ngắn này mình chỉ nói về “chất lượng đào tạo”.

Theo tôi, vấn đề không hẵn (như TS Luận nói) là do nhà trường “dạy cái gì”, mà là trường (giáo sư) biết cái gì để dạy cho học trò ?

Bởi vì về kỹ thuật, ở đâu, trường nào… chương trình học cũng ná ná như nhau. Thí dụ về “tin học”, trường bên Tây, bên Mỹ, hay ở VN… đều dạy như nhau về cách sử dụng các ngôn ngữ tin học (C, C++, Java, Ruby, PHP, HTML…). Ta có thể nói tương tự cho các ngành kỹ sư khác, hay ngành luật, kinh tế v.v…

Tôi thường hay đọc các bài viết được ký tên dưới đó là giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ… nọ kia. Tôi cũng thường hay tìm đọc các “giáo trình” của họ được in thành sách. Không biết TS Nguyễn Tiến Luận thẩm định giá trị các tác phẩm này thế nào ? Theo tôi, nội dung các “giáo trình” này đều có vấn đề.

Các giáo trình về khoa học, kỹ thuật… không nói làm gì. Nhiều lắm thì chuyên gia VN đào tạo đi làm công nhân, làm thợ vịn, thợ ngó… Nếu gia đình “có thần có thế”, thì được đảng “bố trí” vào làm lãnh đạo một nơi nào đó.

Tệ hại nhứt là các giáo trình về “luật”. Điều này thể hiện lên các vận hành xã hội. Xã hội VN phải nói là một xã hội “vô pháp”.

Một thí dụ, vừa rồi có vụ lùm sùm một đài truyền hình đã “sử dụng sản phẩm trí tuệ của người khác” mà chưa được sự đồng ý của tác giả. Chưa biết vụ này sẽ đưa đến đâu. Nếu ra tòa thì tòa sẽ xử ra sao? Nhưng khi VN vào TPP, các vi vi phạm quyền “sở hữu trí tuệ” thế này sẽ được phân xử bằng một tòa án của TPP (tức của tư nhân). Lúc đó VN bán cả đất nước này chưa chắc đủ để bồi thường.

Điều này nói lên sự thiếu hiểu biết về luật pháp (nhưng thừa phách lối và ngạo mạn) của cấp lãnh đạo đài truyền hình. Vấn đề là ai đưa người (thiếu hiểu biết) này lên làm lãnh đạo ?

Thì không phải đảng thì còn ai, phải không ?

Mọi nơi, mọi chỗ… đều là người của đảng. Các trường trung, đại học, người của đảng đã đành, cán bộ phường, huyện… cũng có bằng tiến sĩ, thạc sĩ… Học đâu ra lắm tiến sĩ đến như vậy ?

Vấn đề kiến thức, khả năng của những tiến sĩ, thạc sĩ… của đảng có đúng với khả năng của tiến sĩ, thạc sĩ… thực sự hay không ?

Đọc những “giáo trình” của họ, từ tiểu học đến đại học, nếu không chết vì tức cười, thì cũng chết ngất vì mắc cở.

Nhân sự giảng dạy như vậy thì biết cái gì để dạy ?

Tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân… đào tạo ra, nếu không làm cán bộ nhà nước thì đều thất nghiệp.

Nói thật, chủ xí nghiệp ai mà mướn nhân sự được “đào tạo” như vậy ?

Bởi vậy, trước khi nói “dạy cái gì” thì phải đặt câu hỏi: biết cái gì để dạy ?

Đã bốn thế hệ thanh niên VN đều là thế hệ bỏ không. Vài thập niên tới, số người già của VN tăng cao, lúc đó dân tộc này trở thành một dân tộc ươn hèn. Đơn giản vì dốt.

YÊU KẺ THÙ

Trong khi Tố Hữu, người cộng sản , từng là phó Thủ Tướng đặc trách kinh tế, đã viết:

Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt

để cổ súy cho sự giết chóc dân tộc Việt Nam, đem tang thương đau khổ cho hàng trăm ngàn

người vô tội, để tôn thờ Mao Trạch Đông, thờ Staline , thì sau này lịch sử chứng minh Staline và Mao Trạch Đông là hai kẻ giết người nhiều nhất hơn cả Hitler nữa.

Trong gocnhinalan:

“Cho mãi đến khi chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ năm 1991, người Nga mở kho tài liệu. Con số đúng của Kremlin là 27 triệu.

http://www.gocnhinalan.com/bai-tieng-anh/su-dien-loan-cua-hoang-de-stalin.html”      

Trong Đại kỹ nguy ên:

“Trong 10 năm Đại Cách mạng Văn hóa, hơn 20 triệu người bị giết chết, tự sát và thảm sát. Đây là tội ác giết người vô tội, tàn khốc và vô nhân tính lớn nhất trong lịch sử nhân loại.

http://www.daikynguyenvn.com/y-kien/7-toi-ac-lon-nhat-cua-mao-trach-dong-duoc-phoi-bay-sau-39-nam-ngay-ong-mat.html ‘’

Cộng sản đã phát động đấu tranh giai cấp, giết chóc vô tiền khoáng hậu trong lịch sử nhân loại.

Trong khi đó gần hai ngàn năm trước Chúa Giê su luôn dạy yêu thương, mời các anh chị em đọc lại bài “ Yêu kẻ thù” của Martin Luter King để thấy sự khác biệt giữa lòng căm thù và tình yêu thương, tha thứ.

Chính sự căm thù làm tan nát đất nước Việt Nam., làm ly tán lòng người, nghèo đói lạc hậu.

Chính sự yêu thương, khoan dung, tha thứ làm nên một nước Mỹ hùng cường, lảnh đạo thế giới ngày hôm nay.

YÊU K THÙ

Martin Luther King

Martin L King JrHãy yêu k thù và cu nguyn cho nhng k ngược đãi anh em.
Nh
ư vy anh em mi tr nên con cái ca Cha anh em, Ðng ng trên tri“.
Mt 5,44-45

Có lẽ không có lời khuyên nào của Ðức Giêsu lại khó đem ra thực hành cho bằng lời khuyên “Hãy yêu kẻ thù”. Một số người chân thành nghĩ rằng, trong thực tế, không ai có thể giữ được lời khuyên này. Yêu người yêu mình thì dễ, còn ai lại đi yêu kẻ tìm cách làm hại mình một cách công khai hay âm thầm? Ðối với một số người khác như triết gia Nietzsche chẳng hạn, lời khuyên “Hãy yêu kẻ thù” cũng đủ để chứng minh rằng đạo đức Kitô giáo chỉ dành cho những kẻ bạc nhược, nhát đảm, chứ không phải cho những người can đảm, dũng mạnh. Họ cho rằng Ðức Giêsu là người quá lý tưởng và thiếu thực tế.

Mặc dầu các câu hỏi này có được nhấn mạnh đến đâu chăng nữa và các thắc mắc có được lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần, lời khuyên của Ðức Giêsu vẫn tra vấn chúng ta hơn bao giờ hết. Hết biến động này đến biến động khác không ngừng nhắc nhở chúng ta rằng con người thời đại ngày nay đang đi trên con đường hận thù dẫn đến diệt vong và trầm luân. Thay vì là lời khuyên đạo đức của một kẻ mộng tưởng, thì lời khuyên “Hãy yêu kẻ thù” lại là một điều cần thiết tuyệt đối, nếu chúng ta muốn sống còn. “Hãy yêu kẻ thù” là chìa khóa giúp chúng ta giải quyết các vấn đề trong thế giới ngày nay. Ðức Giêsu không phải là con người quá lý tưởng để quên mất thực tế; Người là con người thực tế đích thực.

Tôi tin rằng Ðức Giêsu biết rõ khó khăn khi nói phải “yêu kẻ thù”. Người không toa rập với những kẻ cho rằng sống đúng theo các đòi hỏi luân lý là chuyện dễ. Người biết rõ rằng mọi biểu hiện của tình yêu đích thực đều xuất phát từ sự phó thác hoàn toàn và dứt khoát vào Thiên Chúa. Khi Ðức Giêsu nói: “Hãy yêu kẻ thù”, thì không phải là Người không biết đến các đòi hỏi của lời khuyên này. Mỗi từ trong câu này đều có nghĩa của nó. Các Kitô hữu có trách nhiệm khám phá ý nghĩa của lời khuyên này và đem ra thực hành trong đời sống hàng ngày.

I

Chúng ta hãy tỏ ra thực tế và đặt cho mình câu hỏi sau đây: Làm thế nào chúng ta yêu kẻ thù được?

Thứ nhất, chúng ta phải phát huy và cng c kh năng tha th. Không biết tha thứ thì cũng không biết yêu thương. Không thể bắt đầu yêu kẻ thù mà trước đó không chấp nhận cần phải không ngừng tha thứ cho những kẻ làm hại chúng ta. Cũng cần phải hiểu rõ rằng người tha thứ trước tiên phải là người đã bị lừa gạt và bị ám hại, người bị áp bức và gánh chịu bất công. Kẻ phạm tội có thể xin tha thứ, có thể quay về với chính mình và, như đứa con hoang đàng, đang rảo bước trên con đường đầy gió bụi nào đó, với lòng ao ước được tha thứ. Nhưng chỉ có người thân cận đã bị xúc phạm, người cha giàu lòng thương xót mới có thể đưa kẻ có tội vào ngôi nhà ấm áp và mới có thể tha thứ.

Tha thứ không phải là không biết điều đã phạm là một hành vi xấu hay gọi hành vi xấu này bằng một tên gọi không đúng với thực chất của nó. Ðúng hơn, tha th là xem hành vi xu này không còn là mt chướng ngi đ thiết lp nhng quan h mi. Tha thứ là một chất xúc tác tạo nên một bầu khí cần thiết cho một cuộc lên đường, một khởi đầu mới. Tha thứ là cất đi một gánh nặng, hay xóa bỏ một món nợ. Chúng ta có thể nói: “Tôi tha thứ cho anh, nhưng tôi sẽ không bao giờ quên điều anh làm cho tôi”. Nói như vậy không phải là tha thứ thật. Ðành rằng chúng ta không bao giờ quên, nghĩa là xóa bỏ hoàn toàn trong tâm trí điều người khác đã làm cho mình. Nhưng nếu chúng ta tha thứ, thì chúng ta cũng quên, nghĩa là điều người khác đã làm cho chúng ta không còn là một chướng ngại khả dĩ ngăn cản các quan hệ mới. Cũng không bao giờ chúng ta có thể nói: “Tôi tha thứ cho anh, nhưng tôi không muốn quan hệ với anh nữa”. Tha thứ là hòa giải, là gặp lại nhau. Nếu không, chẳng có ai có thể yêu kẻ thù. Mức độ chúng ta có thể tha thứ là thước đo mức độ chúng ta có thể yêu kẻ thù vậy.

Thứ hai, người thân cn làm tn thương chúng ta chính là k thù. Nhưng phải nhìn nhận rằng hành vi xấu của con người đó không bộc lộ hết toàn diện con người đó. Nơi kẻ thù tệ nhất, chúng ta có thể khám phá ra những điểm tốt lành. Nhân cách của mỗi người chúng ta có cái gì đó mang dáng dấp tâm thần phân lập, làm chúng ta tự chựng lại một cách bi thảm. Một cuộc chiến trường kỳ luôn diễn ra nơi mỗi cuộc sống, và có cái gì đó làm chúng ta phải thốt lên như thi sĩ Ovide: “Tôi nhận biết sự thiện, tôi chấp nhận sự thiện nhưng tôi lại làm sự ác”, hay như triết gia Platon khi nghĩ rằng con người giống như một cỗ xe song mã, nhưng mỗi con kéo theo một hướng, hoặc như thánh Phaolô: “S thin tôi mun thì tôi không làm, nhưng s ác tôi không mun, tôi li c làm (Rm 7,19).
Ðiều này đơn giản có nghĩa là nơi người xu nht vn có cái tt và nơi người tt nht vn có cái xu. Một khi khám phá ra chân lý này, chúng ta sẽ ít chiều theo khuynh hướng tự nhiên là ghét kẻ thù. Nếu nhìn kỹ bên dưới bề mặt, bên dưới những hành vi xung động, chúng ta có thể tìm thấy nơi kẻ thù một điều tốt lành, đồng thời chúng ta cũng nhận thấy rằng điều ác họ làm cũng không biểu lộ hết con người họ. Nhìn kẻ thù trong một ánh sáng mới, chúng ta mau chóng nhận thấy rằng hận thù nơi họ xuất phát từ sợ hãi, kiêu căng, ngu dốt, tiên kiến, hiểu lầm. Nhưng, dù sao, hình ảnh Thiên Chúa nơi họ không thể bị xóa nhòa. Như thế, chúng ta yêu kẻ thù vì biết rằng họ không hoàn toàn xấu về mọi phương diện và họ cũng không ở ngoài tầm tác động của tình yêu cứu chuộc mà Thiên Chúa dành cho họ.

Thứ ba, chúng ta phải tránh làm nhc k thù. Trái lại, phải tìm cách gây thiện cảm và cảm thông với họ. Có thể chúng ta có thừa khả năng cũng như các điều kiện thuận lợi để làm nhục kẻ thù. Ðiều không thể tránh được là họ cũng có những sơ hở, những giây phút yếu đuối và chúng ta có thể tận dụng các cơ hội này để thẳng tay tiêu diệt họ. Nhưng đây lại là điều chúng ta không bao giờ được phép làm. Trái lại, mỗi lời nói, mỗi hành vi của chúng ta phải góp phần làm tăng thêm sự hiểu biết, cảm thông với kẻ thù, đồng thời tạo điều kiện để khai mở dòng thiện chí đã bị ngăn chặn bởi bức tường hận thù.

Chúng ta đừng lầm lẫn tình yêu chân thành với tình cảm ướt át. Tình yêu có cái gì đó sâu lắng hơn cảm xúc. Ở đây có lẽ tiếng Hy Lạp sẽ giúp chúng ta làm sáng tỏ ý nghĩa của tình yêu. Trong Tân Ước, tiếng Hy Lạp sử dụng ba từ để nói về tình yêu. Eros là tình yêu mang tính cách thẩm mỹ lãng mạn. Trong các đối thoại của Platon, eros là sự vươn lên của linh hồn tới lãnh vực thần linh. Philia là tình yêu liên kết cách mật thiết các bạn hữu. Chúng ta yêu người chúng ta ưa thích, và chúng ta yêu vì được người khác yêu. Agapè là tình yêu đặt nền tảng trên hiểu biết và cảm thông, ước muốn sáng tạo và cứu chuộc dành cho tất cả mọi người. Là tình yêu đầy tràn, không chờ đợi điều gì cho mình từ phía người khác, agapè là tình yêu Thiên Chúa tác động lòng trí con người. Ở mức độ này, chúng ta yêu mọi người không phải vì họ làm vừa lòng chúng ta, hay vì chính họ lôi kéo chúng ta, cũng không phải vì nơi họ có cái gì đó thuộc thần linh. Chúng ta yêu mi người ch vì Thiên Chúa yêu h. Ở mức độ này, chúng ta yêu kẻ làm điều ác trong khi vẫn ghê tởm điều ác họ làm.

Bây giờ, chúng ta có thể nói gì khi nói “Hãy yêu kẻ thù”. Có lẽ chúng ta hãy vui mừng vì Ðức Giêsu đã không nói “Hãy quý trọng kẻ khác”, vì đây quả là điều chúng ta không thể làm được đối với một số người nào đó. Làm sao chúng ta có thể quý trọng một người muốn tiêu diệt chúng ta bằng cách đặt các chướng ngại trên đường đời chúng ta? Làm sao chúng ta có thể quý trọng một người đang đe dọa mạng sống con cái chúng ta, phá hoại nhà cửa chúng ta? Quả thật, đây là điều không thể làm được. Nhưng Ðức Giêsu cho chúng ta biết tình yêu thì ở một mức độ cao hơn quý trọng. Khi khuyên chúng ta yêu kẻ thù, Ðức Giêsu không nói đến tình yêu theo nghĩa eros hay philia; nhưng Người muốn nói tình yêu theo nghĩa agapè – một tình yêu đặt nền tảng trên cảm thông và ước muốn sáng tạo cứu chuộc dành cho mọi người. Chỉ bằng cách đi theo con đường này và dấn thân vào tình yêu này, chúng ta mới có thể trở thành con cái Cha chúng ta, Ðấng ngự trên trời vậy.

II

Bây giờ, chúng ta hãy từ thực tế sang lý thuyết, từ làm thế nào sang tại sao. Tại sao chúng ta phải yêu kẻ thù?

Lý do thứ nhất thật là hiển nhiên. Lấy oán báo oán chỉ có thể làm tăng thêm hận thù, chỉ có thể làm cho đêm tối lại càng thêm tối tăm mù mịt bởi thiếu vắng ánh sáng các vì sao. Bóng ti không th nào xóa tan bóng ti. Ch có ánh sáng xóa tan bóng ti. Hận thù tăng thêm hận thù; bạo lực kéo theo bạo lực; tàn nhẫn nhân thêm tàn nhẫn, như một cơn gió xoáy ập tới tiêu diệt tất cả. Như vậy, khi khuyên chúng ta yêu kẻ thù, Ðức Giêsu đưa ra một lời cảnh giác mạnh mẽ về cái chung cuộc cuối cùng mà chúng ta không thoát khỏi, nếu không đem lời Người ra thực hành. Trong thế giới ngày nay, phải chăng chúng ta đang bị dồn vào chân tường là yêu kẻ thù, nếu không… thì điều gì sẽ xảy ra? Phản ứng dây chuyền của sự ác – hận thù tăng thêm hận thù, chiến tranh kéo theo chiến tranh, chúng ta phải chận đứng phản ứng này, nếu không tất cả chúng ta sẽ rơi vào hố diệt vong.

Lý do thứ hai chúng ta phải yêu kẻ thù là vì hn thù làm tn thương tinh thn và hy dit nhân cách. Quá nhấn mạnh đến hận thù như là một sức mạnh xấu, nguy hiểm, chúng ta thường quan tâm đến các tác hại nơi người bị oán ghét. Ðây là điều dễ hiểu vì hận thù gây nhiều tác hại không thể cứu vãn nỗi nơi các nạn nhân. Chúng ta đã chứng kiến các tội ác ghê tởm khi thấy hơn sáu triệu người Do Thái bị tiêu diệt man rợ bởi một tên điên rồ có tên là Hitler, khi thấy các người anh em da đen bị đọa đày bởi một tầng lớp người da trắng, khi thấy cảnh điêu tàn đổ nát do chiến tranh gây nên, khi thấy các bất công khổ nhục mà con cái Thiên Chúa phải gánh chịu.

Nhưng cũng có một điều mà chúng ta không bao giờ được phép quên, đó là hận thù cũng gây tác hại cho chính con người oán ghét kẻ khác. Như một căn bệnh ung thư tiềm ẩn, hận thù làm tổn thương và phá vỡ thế thống nhất của nhân cách. Hận thù làm con người không còn biết nhận thức các giá trị khách quan, coi cái đẹp là xấu, cái xấu là đẹp, lầm lẫn cái thật với cái giả và cái giả với cái thật.

Trong một cuốn sách về tính cách bệnh hoạn của nạn kỳ thị chủng tộc, E. Franklin Frazier cho chúng ta thấy một số trường hợp người da trắng bình thường, dễ mến trong quan hệ hàng ngày với những người da trắng khác, nhưng lại có những phản ứng rất phi lý, bất bình thường khi được mời gọi xem các người da đen là những người bình đẳng với mình hoặc chỉ thảo luận về các bất công do nạn kỳ thị chủng tộc gây nên. Ðây là điều xảy ra khi hận thù ngự trị lòng người. Các nhà phân tâm học cho biết rằng có những điều kỳ lạ như thế tồn tại và phát triển nơi tiềm thức, có những cuộc xung đột ác liệt diễn ra nơi nội tâm con người: đa số những điều này thường phát xuất từ hận thù. Họ đặt chúng ta trước một sự lựa chọn: “Yêu thương hoặc tiêu diệt”. Tâm lý học hiện đại nhìn nhận điều Ðức Giêsu đã dạy thuở xưa: hn thù hy dit còn tình yêu phát trin và thng nht nhân cách mt cách l lùng và hu hiu.

Lý do thứ ba chúng ta phải yêu kẻ thù là vì tình yêu là sc mnh duy nht có kh năng biến thù thành bn. Chúng ta không bao giờ có thể loại bỏ kẻ thù bằng cách lấy hận thù đối lại hận thù. Chúng ta chỉ có thể loại bỏ kẻ thù bằng cách loại bỏ hận thù chiếm ngự lòng chúng ta. Tự bản chất, hận thù phá hoại, hủy diệt; còn tự bản chất, tình yêu sáng tạo và xây dựng. Tình yêu đổi mới bằng sức mạnh cứu chuộc.

Abraham Lincoln đã có một kinh nghiệm như thế về tình yêu và đã trở thành một gương mẫu tuyệt vời cho hậu thế. Trong cuộc vận động tranh cử chức vụ Tổng Thống Hoa Kỳ, Stanton là người chống đối Lincoln kịch liệt nhất. Vì một lý do nào đó, Stanton thù ghét và tìm hết mọi cách để hạ nhục Lincoln trước công chúng. Stanton chế diễu dáng điệu của Lincoln với lời lẽ khiếm nhã, đả kích mãnh liệt và gây bối rối cho Lincoln. Nhưng các cố gắng của Stanton đã không ngăn cản Lincoln đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ. Khi lập nội các, Tổng Thống Lincoln đã chọn một số cộng sự viên thân tín nắm giữ các bộ trong chính phủ nhằm thực hiện chương trình đã được đề ra. Ðến ngày phải chọn người giữ chức vụ quan trọng nhất là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng, các bạn có biết Tổng Thống Lincoln đã chọn ai không? Không ai khác ngoài Stanton! Quyết định này đã làm dư luận xôn xao và các cố vấn thân tín đã phải lên tiếng can gián Tổng Thống: “Ngài đã phạm sai lầm. Ngài có biết Stanton là ai không? Và đã chống lại ngài quyết liệt như thế nào không? Stanton là kẻ thù của ngài và sẽ tìm cách phá hoại chương trình ngài đã đề ra. Ngài đã suy nghĩ kỹ chưa?” Tổng Thống Lincoln đã trả lời một cách lịch sự và thẳng thắn: “Tôi biết Stanton cũng như những điều Stanton đã nói và đã làm để chống lại tôi. Nhưng, tại quốc gia này, nhìn kỹ, tôi thấy Stanton là người thích hợp nhất để giữ chức Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng”. Và trong cương vị của mình, Stanton đã tận tình phục vụ Tổng Thống và Quốc Gia mình. Vài năm sau, Tổng Thống Lincoln bị ám sát. Nhiều người đã hết lời ca ngợi Lincoln. H. G. Wells xem Abraham Lincoln là một trong sáu người vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Nhưng một trong số những lời đã được nói để ca ngợi Tổng Thống Lincoln, không một lời nào có thế sánh được với những lời Stanton đã nói. Ðứng trước thi hài của người một thời đã là kẻ thù của mình, Stanton đã nói về Abraham Lincoln như một con người vĩ đại nhất đã sinh ra trên trái đất này, và ông tuyên bố: “Từ nay, Abraham Lincoln thuộc về lịch sử”.

Nếu Lincoln thù ghét Stanton, thì cả hai đều xuống mồ như kẻ thù. Nhưng nhờ sức mạnh tình yêu, Lincoln đã biến thù thành bạn. Ông cũng đã có một thái độ tương tự như vậy đối với Miền Nam trong cuộc nội chiến, khi chiến sự đến hồi ác liệt nhất. Một trong số quý bà nghe ông diễn thuyết, đã tỏ thái độ bất bình về cách phát biểu của Tổng Thống. Ông nói: “Biến thù thành bn, phi chăng đã là tiêu dit được k thù ri? Ðây chính là sức mạnh của tình yêu có sức cứu độ.

Tuy vậy, chúng ta phải nói ngay rằng các lý do trên khiến chúng ta yêu kẻ thù cũng chưa phải là lý do quyết định. Lý do căn bản nhất và được diễn tả rõ ràng nhất chính là lý do Ðc Giêsu đã nêu lên khi nói: Anh em hãy yêu k thù ?. Như vy, anh em mi được tr nên con cái ca Cha anh em, Ðng ng trên tri. Chúng ta được mời gọi làm công việc khó khăn này cốt là để cùng với Thiên Chúa tạo nên được một mối tương quan độc nhất vô nhị. Chúng ta có thể trở thành con cái Thiên Chúa. Nhờ yêu thương, chúng ta có thể biến khả năng này thành hiện thực. Chúng ta phải yêu kẻ thù vì, như vậy, chúng ta mới có thể biết được Thiên Chúa và nhận biết Thiên Chúa là Ðấng Thánh.

Hiển nhiên là những điều tôi vừa nói có liên quan đến vấn đề phân biệt chủng tộc. Sẽ không bao giờ có được một giải pháp lâu dài cho vấn đề này bao lâu các người bị áp bức chưa yêu kẻ thù. Bóng ti ca nn k th chng tc ch có th b xóa tan bi ánh sáng ca tình yêu tha th. Hơn ba thế kỷ, các người Mỹ da đen đã bị ngược đãi, ban ngày thì chịu đòn vọt, ban đêm thì bị ức hiếp một cách bất công và tàn nhẫn. Sống trong tủi nhục, hẳn chúng ta cũng muốn lấy ác báo ác, lấy hận thù đối lại hận thù. Nhưng nếu điều này xảy ra, thì trật tự mới chúng ta muốn xây dựng chẳng qua cũng chỉ là bản sao của trật tự cũ. Với tất cả sức mạnh và lòng khiêm nhường, chúng ta phải lấy tình yêu đối lại hận thù.

Dĩ nhiên làm như vậy quả là không thực tế. Sống là chiến đấu, cạnh tranh, giành giật, ăn miếng trả miếng. Thế mà tôi lại nói với các bạn rằng Ðức Giêsu dạy chúng ta phải yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ đã ngược đãi các bạn. Cũng như đa số các nhà giảng thuyết, phải chăng tôi cũng chỉ là một người quá lý tưởng để quên mất thực tế? Các bạn có thể nghĩ rằng, trong một thế giới mộng tưởng nào đó, thì điều tôi nói còn có thể nghe được, còn trong thế giới lạnh lùng, nghiệt ngã như thế giới chúng ta, thì hẳn là không nghe được rồi.

Thưa các bạn, trong quá khứ, chúng ta đã đánh mất quá nhiều thời gian khi đi theo một đường lối tạm gọi là thực tế, và nó đã dẫn chúng ta đến xáo trộn sâu xa và hỗn loạn. Nhiều cộng đồng đã lún sâu vào hận thù và bạo lực. Vì lợi ích của quốc gia chúng ta, vì lợi ích của toàn thể nhân loại, chúng ta phải từ bỏ đường lối này. Làm như vậy không có nghĩa là chúng ta không còn cố gắng đấu tranh cho công lý. Còn chút sức lực nào, chúng ta sẽ dùng nó để giải thoát quốc gia này khỏi cơn ác mộng của nạn kỳ thị chủng tộc. Nhưng trong quá trình đấu tranh, chúng ta không bao giờ từ bỏ bổn phận phải yêu kẻ thù. Dấn thân chống lại nạn kỳ thị chủng tộc, chúng ta hết lòng yêu thương những kẻ kỳ thị chủng tộc. Không có cách nào khác để chúng ta tạo nên một cộng đồng trong đó mọi người yêu thương nhau. Với những người thù ghét chúng ta nhất, chúng ta nói: “Quý vị làm chúng tôi đau khổ; để chống lại, chúng tôi chịu đựng đau khổ. Quý vị dùng bạo lực; để chống lại, chúng tôi dùng sức mạnh tinh thần. Ði vi chúng tôi, quý v mun làm gì tùy ý; chúng tôi vn hết lòng yêu thương quý v. Theo lương tâm, chúng tôi không thể tuân theo những luật lệ quý vị áp đặt, vì không cộng tác làm điều ác cũng quan trọng như cộng tác làm điều lành. Quý vị tống chúng tôi vào ngục, chúng tôi vẫn yêu thương quý vị. Quý vị sai các tên khủng bố gieo rắc khiếp sợ trong các cộng đồng chúng tôi vào ban đêm, chúng tôi vẫn yêu thương quý vị. Xin quý vị biết cho rằng khả năng chịu đựng đau khổ của chúng tôi sẽ làm quý vị nản lòng, kiệt sức. Một ngày kia chúng tôi sẽ giành được tự do, nhưng không chỉ cho chúng tôi mà thôi. Chúng tôi sẽ gửi đến quý vị một lời kêu gọi đủ sức thức tỉnh lương tâm, lay chuyển con tim và biến đổi quý vị thành những người anh em trong khi chúng ta cùng nhau tiến bước trên đường đời. Như vậy, chúng tôi đã chiến thắng hai lần rồi vậy”.

Tình yêu là sức mạnh tồn tại lâu dài nhất ở thế gian này. Như được minh chứng một cách rõ ràng nơi đời sống Ðức Giêsu, tình yêu sáng tạo là công cụ hữu hiệu nhất mà nhân loại có thể sử dụng trong công cuộc tìm kiếm hòa bình và an toàn. Napoléon Bonaparte là một thiên tài quân sự vĩ đại. Người ta kể lại rằng, sau nhiều năm chinh chiến, ông đã nhận định như sau: “Alexandre, César, Charlemagne và tôi đã lập được những đế quốc rộng lớn. Nhưng nhờ vào gì? Nhờ sức mạnh. Thế mà, nhiều thế kỷ trước đây, Ðức Giêsu đã lập một đế quốc đặt nền tảng trên tình yêu và, cho đến ngày nay, hàng triệu người vẫn sẵn sàng chịu chết vì Người”. Ai có thể nghi ngờ tính xác thực của lời nhận định này? Các thiên tài quân sự đã biến mất; các đế quốc rộng lớn đã sụp đổ. Còn đế quốc mà Ðức Giêsu đã lập và đặt nền tảng vững chắc trên tình yêu thì vẫn tồn tại và không ngừng phát triển rộng lớn. Ðức Giêsu đã bắt đầu với một nhóm người dấn thân, thấm nhuần tinh thần của Người. Nhờ vậy, họ đã mở toang cánh cửa đế quốc Rôma, và rao giảng Tin Mừng khắp mọi nơi. Ngày nay, đế quốc trần thế của Ðức Kitô gồm hơn chín trăm triệu người, sinh sống khắp trên mặt đất. Ngày nay, chúng ta lại nghe nhắc lại lời hứa về một cuộc chiến thắng:

Ðc Giêsu ng tr khp nơi
bao lâu m
t tri chiếu soi ban ngày;
Tri
u đi Người lan rng khp nơi
bao lâu m
t trăng chiếu soi ban đêm.”

Và một đoàn hợp xướng khác hân hoan đáp lại:
Nơi Ðc Kitô chng có Ðông và chng có Tây,
ch
ng có Nam và chng có Bc.
N
ơi Ðc Kitô tình yêu huynh đ
liên k
ết mi người trên toàn cõi đt.”

Ðức Giêsu luôn có lý. Lịch sử để lại biết bao cánh đồng đầy ắp xương khô tại những quốc gia đã từ chối nghe lời Người. Thế kỷ XX này, ước gì chúng ta biết nghe lời Người và đem ra thực hành, trước khi quá trễ! Ước gì chúng ta ý thức được rằng chúng ta sẽ không bao giờ là con cái đích thực của Cha chúng ta ở trên trời, trừ khi chúng ta yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi chúng ta.

Martin Luther King: “Aimer les ennemis” trong “La Force d’aimer”, Ed. Casterman, Paris 1965, trg.63-74.

Cộng sản Bắc Việt xâm lăng Miền Nam lần nữa

Cộng sản Bắc Việt xâm lăng Miền Nam lần nữa

Giáo Già (Danlambao) – Ngay sau khi hoàn tất cuộc xâm lăng Miền Nam Việt Nam ngày 30-4-1975, Cộng Sản Bắc Việt đã cho toàn bộ người Miền Bắc vào Nam cai trị vùng đất bị chúng cho là “phồn vinh giả tạo”, từ viên chức ở cấp cao nhứt trong Ban Quân Quản ở các thành phố cho đến viên chức cấp thấp nhứt ở khóm phường, ấp xã…; nhưng sự “phồn vinh” đó đã khiến toàn bộ cán bộ Miền Bắc, từ cấp lãnh đạo hàng đầu ở Bắc Bộ Phủ cho đến từng tên lính từ núi rừng về thành say mê cướp bóc khiến toàn Miền Nam bị tan nát trên khắp mọi lãnh vực, từ kinh tế đến xã hội, văn hóa, giáo dục…, qua từng chiến dịch:

– Đổi tiền, $500 đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa lấy $1 đồng tiền Việt Cộng, mỗi gia đình chỉ được “sở hữu” tối đa $200 đồng; rồi sau đó tiến hành đổi tiền thêm mấy lần nữa; để cướp sạch sự trù phú của người dân Miền Nam, để mọi người Miền Nam đều “nghèo như nhau”…, “nghèo” đến độ mỗi gia đình dễ dàng sở hữu trong tay bạc triệu tiền “Hồ”, do việc trao đổi mua bán được tính theo đơn vị bằng số “ngàn đồng”, khiến họ trở thành những người “nghèo” nhưng là những “triệu phú đỏ”…

– Cướp bóc “sạch sành sanh” tài sản của người dân Miền Nam dưới đủ mọi hình thức, từ xin xỏ cho đến lường gạt, giành giựt… từ nhà cửa cho đến ruộng vườn, từ 16 tấn vàng trong ngân hàng quốc gia cho đến chiếc đồng hồ đeo tay, chiếc radio, xe đạp…

– Bắt các viên chức chánh quyền, quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tập trung trong các trại tù cải tạo, giam nhốt dài ngày, hành hạ dưới đủ mọi hình thức, từ đói khát cho đến bịnh tật không thuốc men chữa trị, tàn sát không nương tay… để vừa trả thù vừa ngăn ngừa mọi hình thức nổi loạn có thể xảy ra…

– Xua đuổi từng đoàn dân Miền Nam đi các vùng “kinh tế mới” hoang dã, như một thứ “tù khổ sai” không bản án… để vừa cướp của người bị gán cho tội “dân ngụy”vừa trừng phạt người có của…

– Vét sạch tài sản của dân mà chúng chưa vét hết, nên tiếp tục vét tiếp, qua hình thức cho người còn có của có tiền “vượt biển bán chánh thức”, bằng cách hiến nhà đất, nộp vàng “đổi chỗ vượt biển” trên đủ loại tàu, thuyền… trong đó có những chiếc thuyền nhỏ đi sông chưa từng ra biển…, khiến nhiều nạn nhơn chết thảm, chết chìm…

Người Miền Nam bị vùi dập vào mộ huyệt của tử thần nhưng họ không bao giờ chết, cho dầu có bị lừa mị nhốt giam vào nhà tù vĩ đại, là nơi họ đang sinh sống, bằng đủ mọi thủ đoạn gian manh khủng khiếp. Họ vẫn tồn tại cho dầu có bị đói nghèo thê thảm, bị trầm luân trong khổ đau cùng cực…; bị đẩy khỏi cuộc sống êm đềm hạnh phúc, phồn vinh, trù phú; khiến có người bị tù giam không có ngày về, người không bị tù thì phải lao động khổ sai, ai ai đêm đêm đều sợ từng tiếng chó sủa bâng quơ, sợ từng tên công an, từ công an khu vực, đến công an bảo vệ chánh trị thành phố…; khiến có người đã mỉa mai, xót xa định nghĩa “hạnh phúc là thấy xe công an đậu trước nhà, nhưng tên công an xuống xe lại đi vào nhà hàng xóm…”

Khi xâm chiếm được Miền Nam, Cộng Sản Bắc Việt hối hả cào bằng sự phồn vinh trù phú của Miền Nam, sao cho Miền Nam nghèo ngang với Miền Bắc, lấy tài sản của Miền Nam chở ra Bắc, mong cho Miền Bắc được giàu lên. Chúng đã lưu manh đến độ dồn tiền viện trợ của quốc tế cho Miền Bắc, nuôi dân nghèo Miền Bắc, phát triển Miền Bắc; ngay cả tiền “vay” của ngoại quốc cũng lươn lẹo dành ưu tiên cho Miền Bắc “rút ruột”, làm thành đủ loại “quý tộc đỏ”, “đại gia đỏ”, “dân oan đỏ“, “lưu manh đỏ”… mà “nợ” thì “chia đều” cho người Miền Nam cùng trả…

Nhưng, sau 40 năm không “cào bằng” được Miền Nam, mà Miền Nam đã và đang từng lúc phục hồi… Cán bộ Miền Bắc vào Nam chẳng những không “giải phóng” được người Miền Nam; mà trái lại chúng rất “sung sướng” được người Miền Nam “giải phóng”, từ miếng ăn cho đến cách sống, say mê phong cách “thanh lịch” của người Miền Nam mà trước đó chúng cho là “đồi trụy”; hãnh diện thưởng thức văn nghệ “cao sang” từng bị chúng cho là “đồi trụy”, từ cuốn sách triết cho đến cuốn tiểu thuyết lãng mạn… say mê thưởng thức những bản nhạc “mùi”, nhạc “sến”… từng bị chúng lên án là “đồi trụy”.

Bây giờ, để ngăn Miền Nam “nổi dậy”, có cơ nguy làm sụp đổ “thiên đường xã hội chủ nghĩa”, ngay sau đại hội đảng lần thứ XII, chúng hấp tấp cho tiến hành lần nữa cuộc “xâm lăng miền Nam”, do Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng phát động, thể hiện qua câu nói tại một cuộc họp bàn nhân sự, trước khi khai diễn đại hội, rằng:Tổng bí thư phải là người có lý luận và phải là Người Miền Bắc”.

Từ đó, tên đầu đảng Nguyễn Phú Trọng này đã vận dụng mọi thủ đoạn để được tái cử thêm lần nữa chức Tổng Bí Thư, để chức vụ này đừng lọt vào tay một người Miền Nam là Nguyễn Tấn Dũng; để người Miền Nam tiếp tục bị cai trị bởi người Miền Bắc…

Xin xem lại bảng liệt kê các Tổng Bí Thư Cộng Sản Việt Nam từ năm 1956 cho đến nay, 2016:

Tên  – Nơi sinh – Nhiệm kỳ

  1. Hồ Chí Minh – Nghệ An (miền Trung) – 10/1956 – 09/1960
  1. Lê Duẩn – Quảng Trị (miền Trung) – 09/1960 – 07/1986
  1. Trường Chinh – Nam Định (miền Bắc) – 07/1986 – 12/1986
  1. Nguyễn Văn Linh – Hưng Yên (miền Bắc) – 12/1986 – 06/1991
  1. Đỗ Mười – Hà Nội (miền Bắc) – 06/1991 – 12/1997
  1. Lê Khả Phiêu – Thanh Hóa (miền Trung) – 12/1997 – 04/2001
  1. Nông Đức Mạnh – Bắc Kạn (miền Bắc) – 04/2001 – 01/2011
  1. Nguyễn Phú Trọng – Hà Nội (miền Bắc) – 01/2011 – hiện nay

Ngoài ra, việc phân bố 19 tân ủy viên Bộ Chính trị coi như được bầu tại Đại hội XII cũng cho thấy rõ:

– 13 người miền bắc;

– 2 người miền trung;

– 4 người miền nam.

Đến khi Quốc Hội chưa bầu, đảng cũng đã chọn xong 3 viên chức hàng đầu điều khiển việc nước là:

– Chủ tịch Quốc Hội là Bà Nguyễn Thị Kim Ngân, người Miền Nam;

– Chủ tịch Nhà Nước là Đại tướng Công an Trần Đại Quang, người Miền Bắc;

– Thủ tướng Chánh phủ là Ông Nguyễn Xuân Phúc, người Miền Trung.

Điều trớ truê là theo Hiến Pháp, Bà Ngân phải ghi danh ứng cử làm Đại biểu Quốc Hội; nếu Bà đắc cử, sau ngày Chủ nhật 22/5/2016, Quốc hội khóa 14 mới họp bàn; chừng đó nếu Bà được đa số đại biểu chọn Bà mới đủ tư cách làm Chủ tịch Quốc Hội.

Cũng theo HIến Pháp, điều 87 quy định: “Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội.” Do vậy Đại tướng Công an Trần Đại Quang phải ứng cử vào Quốc Hội, nếu Quang đắc cử, sau đó, phải được Quốc Hội bầu chọn, Quang mới đủ tư cách làm Chủ tịch Nhà Nước.

Cũng theo Hiến Pháp, điều 98 quy định: “Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội.” Do vậy Nguyễn Xuân Phúc phải ứng cử vào Quốc Hội, nếu Phúc đắc cử, sau đó, phải được Quốc Hội bầu chọn, Phúc mới đủ tư cách làm Thủ tướng.

Như vậy 3 chức danh hàng đầu điều khiển guồng máy cai trị đất nước được đảng tự chọn rồi ngang nhiên công bố đã vi phạm Hiến Pháp, nên vị thế của 3 viên chức được chỉ định này giá trị.

Mặt khác, cứ coi như sự áp đặt của đảng thành tựu, thì sự áp đặt đó đã thể hiện sự cứng rắn của đảng dành ưu thế cho cuộc xâm lăng Miền Nam lần nữa của Cộng sản Bắc Việt. Ngoài ra, Bà Ngân, người Miền Nam, trong tư cách Chủ tịch Quốc hội, chẳng có quyền hành gì. Bà được đặt ngồi đó để trang hoàng Quốc Hội, cho nó có vẻ đẹp của một phụ nữ chịu chưng diện, thường xuất hiện với chiếc áo dài hợp thời trang, như một “người mẫu” [xem hình], dể thu hút tầm nhìn của người ngoài; để người ngoài, nhứt là quốc tế, vốn kính trọng phụ nữ sẽ “nhẹ tay” khi có điều “công kích” những oan sai đo đảng và nhà nước gây hại người dân, những lúc vi phạm nhân quyền, tướt đoạt mọi tự do căn bản của người dân, được quy định trong Hiến pháp như tự do ngôn luận, tự do tôn giáo…

Hơn nữa, theo Nguyễn Văn Tuấn, trong bài viết được đưa lên các diễn đàn, ngày 9-2-2016, thì, xin trích nguyên văn:

“Thật ra, không chỉ trong chính trị, mà trong khoa học và giáo dục cũng xảy ra tình trạng mất cân bằng nghiêm trọng giữa ba miền. Tôi thử đếm con số giáo sư được phong năm 2014 và 2015 thì thấy đa số ứng viên được phong là người từ miền Bắc. Chẳng hạn như năm 2015, có 52 người được phong hàm giáo sư; trong số này, 41 (hay 79%) là người từ các trường viện miền Bắc. Năm 2014, con số này là 73%. Phân bố cụ thể số giáo sư được phong như sau:

Năm 2015:

– Bắc: 41 người

– Trung: 3

– Nam: 8

Năm 2014:

– Bắc: 43 người

– Trung: 6

– Nam: 10

Trong khoa học cũng vậy. Tôi đếm thử số đề tài được Quĩ Nafosted tài trợ trong năm 2009 thì thấy trong số 321 đề tài được phê chuẩn, các trung tâm phía Bắc chiếm 285 đề tài (89%), còn các trường viện từ phía Nam chỉ có 21 đề tài (6%), và miền Trung còn thấp hơn nữa 15 đề tài”…

Trở lại chuyện 3 viên chức hàng đầu cai trị đất nước bất hợp Hiến đó, người có quyền hành cao hơn hết là Chủ tịch Nước Đại tá Công an Trần Đại Quang. Ông này sẽ không “bù nhìn” như 2 Chủ tịch tiền nhiệm là Trương Tấn Sang và Nguyễn Minh Triết, vì ông từng là kẻ chỉ huy hàng đầu Bộ Công an, một Bộ trưởng Công an độc ác, tàn bạo, từng khét tiếng trong việc gian xảo đàn áp các dân tộc vùng Cao nguyên Trung phần, trấn áp dân oan, đàn áp tín đồ các tôn giáo, cũng như đồng bào yêu nước biểu tình chống Trung Cộng xâm lược. Đồng thời chỉ định một phó thủ tướng kiêm phó trưởng ban phòng chống tham nhũng làm Thủ tướng lại là tên trùm tham nhũng khét tiếng Nguyễn Xuân Phúc.

Còn nhớ, ngay sau khi Đại hội XII kết thúc một ngày, Tập Cận Bình đã cử ngay Đặc phái viên Tống Đào, Trưởng ban Liên lạc Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, để ông này có mặt ở Hà Nội ngày 29/1/2016. Dịp này, Tống Đào đã chuyển bức điện của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình, chúc mừng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được tái cử. Tống Đào [xem hình] cũng nói “Trung Quốc coi trọng cao độ quan hệ hữu nghị truyền thống và quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc”.

Sau lời cảm ơn, Nguyễn Phú Trọng lên tiếng nói “Việt Nam luôn coi trọng việc duy trì quan hệ láng giềng hữu nghị và đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc”.

Cùng ngày, Tống Đào cũng đã gặp Vương Đình Huệ, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, để nghe Huệ nói: “Hai nước cần “thúc đẩy tăng trưởng thương mại bền vững, lành mạnh, từng bước cân bằng cán cân thương mại”; nhưng thực tế không có cân bằng, vì “Tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc đạt gần 20 tỷ USD; còn trị giá hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc đạt 45 tỷ USD”. Ông Huệ cũng nói thêm Việt Nam hoan nghênh các nhà đầu tư có thực lực của Trung Quốc đầu tư vào các lĩnh vực mà Việt Nam đang ưu tiên.

Mặc dầu đạp qua Hiến Pháp để cử Nguyễn Xuân Phúc làm Thủ tướng, nhưng nhiệm kỳ Thủ tướng của Nguyễn Tấn Dũng chưa kết thúc, nên trước con mắt quốc tế, đặc biệt là Tổng thống Mỹ Obama, Nguyễn Phú Trọng không hành xử được quyền Tổng Bí thư để ngăn không cho Dũng đi dự Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ-ASEAN ở California ngày 15/2. Trọng đã lúng túng để Dũng lên đường gặp Tổng thống Mỹ Obama [xem hình Tổng thống Obama đón Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị thượng đỉnh Mỹ-ASEAN ở California ngày 15/2 (Ảnh: AP)].

Nhưng, để trấn an Tập Cận Bình, sau khi Dũng gặp Tổng thống Obama xong, Nguyễn Phú Trọng hối hả cho đặc phái viên Hoàng Bình Quân đi Bắc Kinh, ngày 1/3/2016, báo cáo nội vụ cho Tập Cận Bình rõ “thế kẹt” của thái thú; với danh nghĩa “Chuyển một thông điệp từ Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Chủ tịch Tập Cận Bình”.

Tin từ VOA nói rằng: “Trong thông điệp, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam cho biết, hai nước là láng giềng gần gũi chia sẻ hệ thống chính trị giống nhau và có nhiều lợi ích chung”. Dịp này Tập Cận Bình “Kêu gọi xử lý đúng đắn sự khác biệt giữa các đối tác hợp tác chiến lược toàn diện để phát triển một cách bền vững, lành mạnh và ổn định”. Phần mình, Ông Hoàng Bình Quân không quên “Giới thiệu với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình về kết quả tốt đẹp của Đại hội 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh…”

Như vậy, sự thần phục của Nguyễn Phú Trọng với Tập Cận Bình đã rõ. Vấn đề tiếp theo sau Đại hội XII là phải làm ngay những gì cho “thỏa hiệp Thành Đô” được tiến hành “như ý”. Để việc Hán hóa Việt Nam được mau lẹ, Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chánh trị CSVN cho tiến hành ngay 2 việc quan trọng, đó là:

– Bổ nhiệm một thành viên gốc Hoa làm Bí thư Thành ủy Hà Nội là Hoàng Trung Hải, để dễ dàng Hán hóa người dân thủ đô, làm gương Hán hóa toàn cõi Việt Nam;

– Đồng thời cử ngay một người Miền Bắc là Đinh La Thăng vào làm Bí thư Thành ủy thành Hồ, để vừa thực hiện lần nữa cuộc xâm lăng Miền Nam, vừa đồng nhịp Hán hóa toàn dân Việt cả nước.

Khi có dịp Giáo Già sẽ nhận diện Hoàng Trung Hải trong một Thư Cho Con khác. Phần Đinh La Thăng, trong lúc chờ xem hắn ra tay “xâm lược” Miền Nam bằng chuyện cài đặt toàn người Miền Bắc trên các chỗ ngồi “béo bở”, trong các nghiệp vụ “ăn ngon”, như đợt xâm lăng lần trước, ngay sau ngày Quốc Hận 30/4/1975; Giáo Già xin được điểm mặt kẻ nổi tiếng “nổ” ở Miền Bắc, đi đâu cũng mang theo một “thùng đạn”, vung tay “trảm kẻ dưới tay” và “tự sướng” [xin lỗi phải dùng chữ của VC mới đúng “tầm” của Thăng] cho báo chí ca tụng.

Xin kể ra đây một số thành tích nổi bật của Đinh La Thăng:

– Ở Sông Đà Thăng quậy cho thất thoát 10 ngàn tỷ;

– Về PetroVietnam Thăng làm mất 18 ngàn tỷ. Chưa kể việc Thăng dẫn tập đoàn này đầu tư khai thác dầu ở Venezuela làm lỗ thêm một mớ nữa;

– Làm mất hơn 28 ngàn tỷ của dân xong Thăng được lên chức bộ trưởng;

– Qua Bộ Giao Thông Vận Tải, Thăng đứng ra giải trình nhận trách nhiệm thay cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vụ bổ nhiệm Dương Chí Dũng ở Vinalines, giúp Nguyễn Tấn Dũng thoát vụ kỷ luật của Trung Ương Đảng [Xem hình Thăng đứng giữa bên cạnh Dương Chí Dũng bên trái Thăng].

Đinh La Thăng có được danh vọng tột đỉnh tất nhiên phải có kẻ chống lưng, trong khi sai phạm của Thăng nhiều đếm không hết; vì việc giải tỏa xảy ra ở khắp nơi, việc gì Thăng cũng dám làm, mồ mả người chết Thăng cũng thẳng tay, mạng lưới giao thông cầu đường chưa xài đã hỏng, lập một rừng trạm thu phí moi tiền dân không nương tay, cho Trung quốc trúng thầu hơn 90%, tính luôn cơ giới phế thải, hể kéo qua được bên này biên giới là tính tiền như xe mới…, chỉ cần cho đám bồi bút tung hô là Thăng đã “tự sướng” rồi.

Đến khi thấy đa số nhóm “lợi ích” kéo nhau bỏ Dũng theo Trung quốc, thì Thăng cũng “quay mặt” với đàn anh, ôm thùng đạn theo Trọng, liền được bố trí cho vào Bộ Chính trị và sau đó được cho làm “vua thành Hồ”, cầm quân Nam tiến.

Chưa biết cho đến nay Thăng nổ đã dàn quân tới đâu rồi, bao nhiêu cán bộ “ưu tú” đã có chỗ ngồi yên ổn chưa, có kế hoạch từng bước xâm lăng thành phố và toàn Miền Nam như thời quân quản chuyển sang “hành chánh đỏ” chưa, nhưng món quà ra mắt Thăng tặng người dân Sài Gòn quá đặc biệt; với từng đoàn công an, côn đồ thẳng tay phá phách, đàn áp khoảng 50 người thường dân cùng những cựu đảng viên cán bộ nhà nước thuộc Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, tập hợp tưởng niệm những người đã hy sinh trong cuộc chiến biên giới năm 1979, chống quân xâm lược Tàu cộng, để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, sáng ngày 17/2/2016, tại tượng đài Trần Hưng Đạo, Sài Gòn.

Họ chỉ đến đó để dâng hoa tưởng niệm; vậy mà bị đám công an và côn đồ của Thăng ồ ạt bao vây, đàn áp. Quang cảnh buổi tưởng niệm được nhiều người quay phim lại, với cảnh được mô tả là người đến tưởng niệm bị “giật phá vòng hoa” và nhiều ô dù xuất hiện để che lấp biểu ngữ [Xem ảnh của CTV Danlambao]. Nhiều người tham gia nhặt lại hoa bị giựt và hô các khẩu hiệu chống Trung Quốc.

Vài giờ trước khi buổi tưởng niệm diễn ra, lực lượng công an và côn đồ của Thăng tung quân đi bao vây canh gác nhà các thành viên CLB Lê Hiếu Đằng như chị Sương Quỳnh, các ông Huỳnh Kim Báu, Tô Lê Sơn, Kha Lương Ngãi,… Chính ông Huỳnh Ngọc Chênh từ Sài Gòn nói trên Facebook: “Các nhân viên an ninh quyết liệt ngăn cản không cho tôi ra khỏi nhà để đi dự lễ tưởng niệm các liệt sĩ.” Ông cho biết từ một ngày trước đã xuất hiện một số an ninh trước cổng nhà ông và họ đã cản chân không cho ông tới dự lễ sáng nay. Ông chia sẻ: “Hầu hết những người trong CLB Lê Hiếu Đằng, những người đứng ra kêu gọi tổ chức lễ tưởng niệm các liệt sĩ trong cuộc chiến biên giới, đều bị chặn hết, có tới vài chục người. Cũng có vài người đến được. Họ không cho những người hay tham gia các sự kiện này ra khỏi nhà. Một mặt, họ cho an ninh quậy phá chỗ làm lễ là Tượng Đài Trần Hưng Đạo. Như sáng nay, họ cho an ninh đi giật vòng hoa, lấy dù che hết những băng-rôn và vòng hoa lại để không chụp ảnh hay quay phim được.”

Từ đó, vấn đề là người dân Sài Gòn có đủ khôn để biết tương lai nằm ở đâu, nên nhiều người đã không ngần ngại nói: “Đã đến lúc chúng ta chứng tỏ chúng ta không vô cảm, không phải là những con cừu để đảng chăn dắt. Sau bốn mươi năm thì người miền Nam đã quá rõ về bản chất của giặc miền Bắc rồi. Hy vọng là người miền Nam sẽ khôn ngoan và không để cho giặc miền Bắc phá hại Sài Gòn một lần nữa. Hãy vùng lên trước khi tất cả đã là quá muộn”.

Dân oan và sự sợ hãi của chế độ

Dân oan và sự sợ hãi của chế độ

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2016-03-04

Ngày Quốc Tế đồng hành cùng dân oan Việt Nam được dân oan ở Hà Nội hưởng ứng hôm 27/2.

Citizen photo

Your browser does not support the audio element.

Cần có sự thay đổi về chính sách đất đai

Mặc dù Việt Nam chưa có Luật Biểu tình để người dân có thể phản kháng hợp pháp, nhưng ngày càng xảy ra nhiều vụ biểu tình tự phát với số lượng tham gia từ vài chục, hàng trăm, hàng ngàn tới hàng chục ngàn người.

Những vụ việc hệ trọng nhất phải kể đến cuộc đình công biểu tình của 90.000 công nhân Công ty Pouyuen Khu Công nghiệp Tân Tạo TP.HCM vào cuối tháng 3 năm 2015. Đây là cuộc đình công biểu tình không phải để chống giới chủ, mà chống lại chính sách của Chính phủ qua việc tu chính Luật Bảo hiểm Xã hội gây bất lợi cho người lao động. Gần đây là cuộc đình công biểu tình đòi quyền lợi của 20.000 công nhân Công ty  Pouchen ở Biên hòa Đồng Nai trong ba ngày cuối tháng 2 năm 2016.

Nhưng diễn biến mới nhất là vụ hàng trăm ngư dân biểu tình trước Ủy ban Nhân dân tỉnh Thanh Hóa để phản đối chính quyền tước đoạt kế sinh nhai của họ. Vụ việc kéo dài trong 3 ngày đầu tháng 3 năm 2016 và gây sự chú ý với khẩu hiệu đấu tranh đòi chính quyền trả lại biển cho người dân Sầm Sơn.

“ Bởi vì sở hữu luôn luôn phải là một người cụ thể, một pháp nhân rõ ràng thì mới có thể thực hiện được quyền sở hữu đó. Chứ còn bây giờ toàn dân sở hữu thì điều ấy không rõ ràng.
-TS Lê Đăng Doanh”

Biểu tình của dân oan mất đất dưới thời xã hội chủ nghĩa được coi là khởi phát của những hoạt động biểu tình sau này, dù với các nguyên nhân khác nhau. Thí dụ đòi thực thi nhân quyền, chống xử án oan sai, hoặc chống Trung Quốc lấn chiếm biển đảo. Sau này còn có phong trào tiểu thương bãi thị biểu tình vì chợ bị giải tỏa để chính quyền giao cho tư nhân làm dự án. Biểu tình, tập trung khiếu kiện đông người vì oan sai đất đai được xem là hậu quả của chính sách đất đai sở hữu toàn dân, thực chất là sở hữu nhà nước và dành quyền thu hồi đất cho chính quyền.

TS Lê Đăng Doanh, thành viên Ủy ban Chính sách Phát triển của Liên Hiệp Quốc cho rằng cần có sự thay đổi về chính sách đất đai của Việt Nam. Ông nói:

“Đúng là Việt Nam hiện nay cần phải bảo đảm qui định pháp lý rõ ràng hơn nữa về quyền tài sản đối với đất đai và người dân. Hiện nay người nông dân chỉ có quyền sử dụng còn quyền sở hữu thì đấy là sở hữu toàn dân. Nhưng mà sở hữu toàn dân là ai thì đấy là một trong những điều chưa được rõ ràng. Bởi vì sở hữu luôn luôn phải là một người cụ thể, một pháp nhân rõ ràng thì mới có thể thực hiện được quyền sở hữu đó. Chứ còn bây giờ toàn dân sở hữu thì điều ấy không rõ ràng.”

Trong vụ biểu tình đáng chú ý mới xảy ra, Báo điện tử VnExpress đưa lên mạng nhiều tin về sự kiện từ ngày 1 đến ngày 3/3/2016 hàng trăm người dân liên tục biểu tình ở Thành phố Thanh Hóa làm tắc nghẽn đường Trần Phú đại lộ lớn nhất ở thành phố này.

Đỉnh điểm của vụ biểu tình chưa từng có ở Thanh Hóa xảy ra vào chiều 3/3/2016, VnExpress mô tả lúc 15g30 chiều 3/3, hàng trăm người dân nằm, ngồi la liệt dưới lòng đại lộ Lê Lợi, đoạn trước UBND tỉnh Thanh Hóa. Họ mang theo nhiều tấm bìa ghi những dòng chữ như ‘Trả lại biển cho người dân Sầm Sơn’ hoặc ‘Biển là của dân’.

Sự phẫn nộ của người dân Sầm Sơn được báo chí giải thích là vì Chính quyền Thanh Hóa giải tỏa bờ biển để thực hiện dự án du lịch ven biển. Điều hệ trọng là dọc bờ biển dài 3,5 km hiện có 705 bè, mảng và mủng, là những phương tiện đánh bắt truyền thống của ngư dân địa phương. VnExpress trích lời ông Ngô Văn Tuấn, Phó chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa xác nhận tỉnh có kế hoạch di chuyển số thuyền bè này đi nơi khác hoặc hỗ trợ ngư dân chuyển đổi nghề phục vụ du lịch.

223542-bieu-tinh-400.jpg

Người dân Sầm Sơn ngồi trước cổng ủy ban tỉnh Thanh Hóa hôm 1/3 để biểu tình phản đối việc lấy đất bến thuyền. Courtesy NLĐ.

Theo lời giới chức Thanh Hóa, tỉnh sẽ hỗ trợ ngư dân tháo dỡ, phá bỏ các loại tàu, bè nhỏ có công suất dưới 20CV với mức 70 triệu đồng. Riêng về thuyền thúng là 50 triệu đồng mỗi chiếc. Tuy nhiên tàu bè khi phá bỏ ngư dân phải cam kết không đóng mới, không mua mới.  Ngoài ra chính quyền cũng sẽ hỗ trợ khẩu phần gạo trong vòng 6 tháng cho ngư dân có tàu thuyền bị phá dỡ. Khi ngư dân tìm nghề mới, chính quyền sẽ hỗ trợ mỗi hộ ngư dân từ 8 triệu đồng tới 12 triệu đồng, tùy theo hộ có bè hoặc mủng.

VnExpress trích lời ông Trịnh Tú Trọng ở phường Trung Sơn, một nạn nhân trực tiếp của dự án du lịch ven biển Thanh Hóa. Theo lời ông Trọng, vài năm trước chính quyền đã lấy đất nông nghiệp, đất rừng, giờ lại cấm không cho ngư dân khai thác hải sản. Người dân ở đây đã mưu sinh chài lưới qua nhiều thế hệ. Nay tỉnh thu sạch toàn bộ bến thuyền ở đây và dự định chuyển ngư dân đến tận xã Quảng Hùng, cách xa cả chục cây số, mang vác ngư cụ rất khó khăn. Nguyện vọng của người dân là xin chính quyền để lại một khoảng đất ven biển để họ neo đậu tàu thuyền, giữ nghề truyền thống. Ông Trịnh Tú Trọng nói với nhà báo là các dự án du lịch nghỉ dưỡng ở bãi biển đã khiến cuộc sống bà con đảo lộn.

Được biết sự lo ngại lớn nhất của ngư dân Sầm Sơn là mất kế sinh nhai lâu dài, con cháu rơi vào cảnh thất nghiệp, do vậy không ai muốn nhận tiền hỗ trợ. Các nạn nhân trực tiếp của Dự án du lịch ven biển còn cho rằng, mấy chục triệu đồng hỗ trợ chẳng thấm vào đâu, tiêu hết rồi biết làm gì. Như vậy ngư dân Sầm Sơn cũng chính là dân oan không những mất bến mất thuyền, mất luôn cả biển và cuộc mưu sinh.

Ngày càng có nhiều vụ biểu tình

Những câu chuyện về biểu tình, chặn đường giao thông càng ngày càng trở nên phổ biến. Điển hình như cuộc biểu tình ngày 15/4/2015, hàng ngàn người dân thuộc huyện Tuy Phong Bình Thuận đã chiếm lĩnh Quốc lộ 1 A đoạn qua xã Vĩnh Tân, huyện Tuy Phong tỉnh Bình Thuận và cắt đứt giao thông trên tuyến đường huyết mạch, xe cộ ùn tắc kéo dài cả 50 km, thậm chí có cả bạo động đốt phá xe cộ và một khách sạn. Trong cuộc biểu tình này những người tham gia không phải là dân oan mất đất nhưng là dân oan môi trường. Người dân địa phương phản đối một nhà máy nhiệt điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã phá hủy môi trường sống của người dân Vĩnh Tân, khí xả thải bụi xỉ than mờ mịt không khí. Dân oan môi trường đã trở thành một từ mới trong tiếng Việt theo sau Dân oan mất đất.

“ Ở Việt Nam có hàng triệu dân oan, hàng trăm ngàn nạn nhân về môi trường. Tất cả những thành phần như vậy họ đều muốn phản ứng đối với nhà nước về những chính sách bất cập và gây hậu quả nghiêm trọng đối với vấn đề sinh kế, mưu sinh và môi trường của họ.
-TS Phạm Chí Dũng”

Trước đó vào ngày 27/10/2013, theo báo mạng Dân Trí, hơn 300 người dân xã Nghĩa An, huyện Tư Nghĩa Quang Ngãi đã đi bộ 10km lên tuyến QL 1A thuộc địa phận TP.Quảng Ngãi và huyện Tư Nghĩa để biểu tình phản đối chính quyền cho hút cát quá độ làm xói lở bờ biển, hồ tôm và rừng dương làm hơn 945 tàu cá xã Nghĩa An không thể ra vào Cửa Đại. Cuộc biểu tình tuần hành kéo dài đến chiều tối 28/10/2013 làm lưu thông bị gián đoạn một số nơi trên Quốc lộ 1A. Ngoài ra người biểu tình còn bắt trói 3 nhân viên doanh nghiệp hút cát.

Trong sự kiện gần đây nhất chiều ngày 17/2/2016, hàng trăm dân oan môi trường đã sử dụng những khối bê tông chặn Quốc lộ 38 khu vực xã Hưng Thịnh, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Theo mạng tin Trí Thức, người dân địa phương đã chặn đường cấm xe để phản đối nhà thầu thi công trên tuyến đường này đã không chịu tưới nước, làm cả khu vực bụi mù mịt mỗi khi xe cộ qua lại.

Phải chăng những cuộc biểu tình càng ngày càng nhiều ở Việt Nam khiến cho Chính phủ đắn đo, 19 lần soạn thảo Dự luật Biểu tình mà vẫn chưa xong, cho dù Quốc hội hối thúc.

Nhận định về vấn đề liên quan, TS Phạm Chí Dũng chủ tịch Hội nhà báo độc lập, một tổ chức xã hội dân sự tự phát, từ Sài Gòn phát biểu:

“Ở Việt Nam có hàng triệu dân oan, hàng trăm ngàn nạn nhân về môi trường. Tất cả những thành phần như vậy họ đều muốn phản ứng đối với nhà nước về những chính sách bất cập và gây hậu quả nghiêm trọng đối với vấn đề sinh kế, mưu sinh và môi trường của họ. Thành thử không có gì ngạc nhiên việc nhà nước rất sợ những thành phần dân oan, nạn nhân môi trường hay gần đây là tiểu thương biểu tình. Bất chấp việc chưa có Luật Biểu tình thực ra từ mấy năm qua đã diễn ra làn sóng biểu tình liên tục ở Trung Nam Bắc. Năm 2015 vừa rồi đã chính thức hình thành phong trào cứu lấy dân oan ba miền, những người này thường xuyên kéo tới trụ sở văn phòng tiếp dân ở Ngô Thời Nhiệm Hà Nội…”

Như TS Phạm Chí Dũng cho rằng dân oan ở Việt Nam có thể lên tới hàng triệu người thuộc đủ thành phần và đủ mọi loại oan sai. Danh từ dân oan do chính các nhà báo công dân khai sinh và có thể nói nó là hậu quả của một xã hội bất công do các chế độ cai trị độc đoán gây ra.

Có nhà báo lề dân nói với chúng tôi, thế lực có khả năng làm lung lay chế độ không phải là diễn biến hòa bình, hay điều gọi là tự diễn biến mà chính là lực lượng dân oan hàng triệu người.

BIỂN MÙA NÀY LẶNG SÓNG

BIỂN MÙA NÀY LẶNG SÓNG

Tìm đến biển vào một ngày cuối xuân, dường như cái nắng nhẹ vàng đang nhuộm màu biển cả, làm làn nước ấy thêm xanh.  Nhưng lạ một nỗi, sóng biển hôm nay đã bớt rì rào, và có lúc lắng lặng.

BIEN

Người ta thường tìm đến biển để cảm được một chút nào đó sự bé nhỏ của phận người.  Quả thật không sai.  Khi đứng trước biển bao la kia, con người chỉ còn là một chấm phết, chẳng đủ lớn lao để có thể góp phần vào bức tranh kỳ vĩ xanh một màu mang tên biển cả.  Nhỏ bé vô cùng!

Có người lại tìm đến biển để mong bắt gặp một cõi bình yên.  Giữa biển chiều vắng, thả bộ thong dong, nghe làn gió mát, để hồn phiêu diêu theo từng nhịp sóng vỗ bờ; bình yên.  Hay đơn giản chỉ là nhìn ngắm, trông về phía xa ngoài khơi nơi những con tàu ẩn hiện, nơi ngọn hải đăng chốc chốc vụt sáng rồi tắt đi, nơi đôi mắt chẳng còn nhìn thấy bờ; bình yên đơn giản là thế.  Nhưng liệu biển đất trời kia có thể mang bình yên vào hồn người đang mong ngóng?

Thật ra, sóng biển kia chỉ vỗ theo nhịp sóng trong lòng kẻ ngắm nhìn.  Hãy để ý mà xem, khi lòng người xô bồ nhộn nhịp, họ chẳng thể đụng chạm được cái nhẹ êm của biển, dù chỉ với những con sóng lăn tăn.  Còn nếu lòng tịnh lắng, sóng biển kia dù vồn vã xô nhau vẫn chỉ là những cú vỗ êm đềm.  Vậy ra, biển của trời đất kia lặng hay nổi sóng chẳng phải vì tự nó vốn thế, nhưng vì sóng trong lòng người đang lắng hay đang mãi xô bờ, từ đó hòa điệu với nhịp vỗ của tự nhiên.

Và biển mùa này lặng sóng.  Thật ra sóng biển cả vẫn vỗ, nhưng sóng lòng đang lắng để có thể khắc khoải trong một mùa thánh thiêng, mùa sám hối, mùa trở về.

Nói cho cùng, nếu biển của đất trời lặng sóng, nó sẽ chẳng còn là biển.  Nhưng còn lòng người, nó vẫn mãi là nơi mà ta gọi là tâm hồn, và tâm hồn ấy sẽ tĩnh hơn, đẹp hơn, hấp dẫn hơn, nếu những cơn sóng ở đó tan đi.  Bạn mệt mỏi và quay quắt với bài vở, công việc, bạc tiền; sóng lên.  Bạn ngập chìm trong cảm giác cay đắng của thất bại, của tổn thương; bạn tức tối, hận thù, kiệt sức vì mãi tranh giành, để tìm chỗ đứng; lòng bạn nổi sóng.  Bạn yêu, bạn ghét, bạn nhớ thương đợi chờ trong những mối tình nhân loại; lòng bạn yên được sao?  Đôi khi sự giả trá và cả những đổ vỡ bất công nơi môi trường bạn sống cũng khiến lòng bạn sóng lên.

Mùa Chay đã qua nửa chặng đường, bạn có muốn lòng mình lắng một chút với những con sóng thế gian?  Mời bạn ngồi xuống, ngồi trước biển lòng bạn trong cõi riêng tư, và nghe những tiếng sóng vỗ vào hồn.  Chúng sẽ lặng đi trong cõi tĩnh mịch của riêng bạn.  Chính khi để những cơn sóng ngủ yên là khi bạn trở về.  Và lúc đó bạn sẽ nghe rõ tiếng tình yêu Thiên Chúa đang ngỏ cùng bạn, từ muôn thuở.

Mùa Chay 2016,

Nguyễn Minh Vương, S.J.

ĐCS vẫn muốn duy trì chủ nghĩa Mác Lê Nin

ĐCS vẫn muốn duy trì chủ nghĩa Mác Lê Nin

Việt Hà, phóng viên RFA
2016-03-03

Một công an và một dân phòng đứng bảo vệ trước bức tượng Lenin tại công viên bên cạnh đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội vào ngày 18 tháng 5 năm 2014.

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

Đại hội đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 12 đã kết thúc với sự ở lại của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, và ra đi của những vị trí chủ chốt khác. Trong năm nay, Việt Nam sẽ có một dàn lãnh đạo mới bao gồm chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội, thủ tướng và các bộ trưởng trong chính phủ. Hiện đã có những thông tin đồn đoán về những người sẽ nắm giữ các chức vụ quan trọng này. Vậy ai là những người có nhiều khả năng nhất nắm giữ các chức vụ quan trọng sắp tới, và liệu những thay đổi này có ý nghĩa thế nào đối với đường lối đối nội, đối ngoại trong 5 năm tới của Việt Nam?

Việt Hà phỏng vấn giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, chuyên gia về quan hệ quốc tế thuộc trường đại học George Mason, Hoa Kỳ.

Việt Hà: Thưa ông, đại hội đảng cộng sản VN 12 đã kết thúc, nhìn vào danh sách những ủy viên trung ương đảng và bộ chính trị, ông có thấy điểm gì khác biệt so với đại hội lần trước? liệu điều này có mang đến thay đổi nào đáng kể trong chính sách đối nội và đối ngoại của VN?

Nguyễn Mạnh Hùng: Trong bộ chính trị và nhất là trong Ban Chấp hành TƯ mới số người ủng hộ ông Dũng không nhiều như trước. Tại Đại hội này giải quyết tranh chấp cá nhân và loại ông Dũng quan trọng hơn sự thảo luận về chính sách. Thành phần của bộ chính trị lần này gồm một số người có khuynh hướng giáo điều (TBT Nguyễn Phú Trọng, Thường Trực ban Bí thư  kiêm Chủ tịch Hội đồng lý luận TƯ Đinh Thế Huynh, Trưởng ban Tổ chức TƯ Phạm Minh Chính, Trưởng ban Tuyên giáo TƯ Võ Văn Thưởng.). Tương đối nhiều người có gốc công an nắm các chức vụ trọng yếu (Đại tướng Trần Đại Quang, Trung tướng Tô Lâm, ông Phạm Minh Chính), và khá nhiều người có kiến thức hoặc kinh nghiệm quản lý kinh tế (bà Nguyễn Thị Kim Ngân, ông Nguyễn Xuân Phúc, Chủ nhiệm ban kinh tế trung ương Vương Đình Huệ, Thống đốc Ngân hang nhà nước Nguyễn Đức Bình, Bộ trưởng Giao Thông Vận Tải Đinh La Thăng, Phó Thủ Tướng Hoàng Trung Hải.).

Người phụ trách tuyên giáo, ông Võ Văn Thưởng sinh năm 1970 là người trẻ nhất và, nếu cần, có thể trụ trong Bộ chính tri nhiều nhiệm kỳ. Với việc đặt ông Đinh thế Huynh, nguyên trưởng ban tuyên giáo TƯ vào chức vụ Thường trực ban Bí thư với triển vọng kế nghiệp ông Trọng khi ông rút lui trước nhiệm kỳ và đặt một người trẻ tuổi nhất kế nhiệm ông Huynh ở chức vụ trưởng ban tuyên giáo, ông Trọng hay đảng của ông ấy sắp xếp nhân sự để kiên trì chủ nghĩa cộng sản, kiên định con đường Mác Lê nin, duy trì sự độc tôn của đảng, không đi chệch hướng, không bị tự diễn biến.

Việt Hà: Có thông tin cho rằng ông Trọng sẽ chỉ ở khoảng nửa nhiệm kỳ để đảng tìm người thay thế, theo ông, ai là những gương mặt sáng giá cho vị trí này, vì sao?

Nguyễn Mạnh Hùng: Trước đại hội 12 ông Trọng muốn ông Nghị làm tổng Bí thư nhưng ông Nghị không làm được thì người ta thấy là ông Trọng nghiêng về phía ông Đinh Thế Huynh. Ông này mới được đôn lên làm Thường Trực ban Bí Thư, nhân vật thứ hai sau TBT Trọng. Tuy nhiên, nếu muốn gộp hai chức vụ Chủ Tịch nước và TBT đảng thành một để có thể chỉ huy thống nhất và làm dễ dàng thủ tục ngoại giao đồng thời tăng uy thế cho TBT khi tiếp xúc với các nguyên thủ khác, đảng có thể bầu luôn ông Trần Đại Quang vào chức vụ TBT đảng.

Việt Hà: Đại hội đảng đã kết thúc nhưng danh sách của những người đứng đầu chính phủ, nhà nước về mặt chính thức vẫn phải chờ đến khi quốc hội 14 nhóm họp vào giữa năm nay để quyết định. Tuy nhiên đã có những thông tin đồn đoán về những người sẽ nắm các vị trí quan trọng là thủ tướng, phó thủ tướng, chủ tịch nước,… ông có những thông tin gì có thể chia sẻ về những lãnh đạo mới của VN sắp tới?

Nguyễn Mạnh Hùng: Tại hội nghị toàn quốc lần thứ 12 của ĐCSVN, đảng đã quyết định giới thiệu ông Trần Đại Quang làm Chủ tịch nước, bà Nguyễn Thi Kim Ngân làm Chủ tích Quốc Hội, và ông Nguyễn Xuân Phúc làm Thủ tướng chính phủ. QH chỉ làm công việc chính thức hóa quyết định của đảng mà thôi, vấn đề là làm lúc nào. Trên nguyên tắc thì tháng 5 bầu cử quốc hội, tháng 7 quốc hội mới họp thì lúc bấy giờ mới có mấy ông mới. Nhưng ông Obama sang thăm tháng 5, không có gì cấm quốc hội hiện tại họp tín nhiệm mấy ông này. Như vậy khi ông Obama sang thì có dàn lãnh đạo mới để tiếp. Đó là một giải pháp, nếu không thì đến tháng 7 mới làm. Còn đến tháng 7 thì mấy nhân vật này gần như là chắc chắn.

000_Hkg9081458-400

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng. AFP photo

Việt Hà: Theo ông di sản mà ông Nguyễn Tấn Dũng để lại cho người kế nhiệm là gì, đâu là những thuận lợi và khó khăn cho thủ tướng VN tiếp theo?

Nguyễn Mạnh Hùng: Ông Nguyễn Tấn Dũng là một người quyết đoán và dám làm, nhưng với kỷ luật “cá nhân lãnh đạo, tập thể chỉ huy” ông không có toàn quyền làm những điều ông muốn. Dưới chính quyền của ông Dũng, người ta thấy có mấy điểm đặc biệt sau đây: Về ngoại giao thì khuynh hướng thân Mỹ tăng khuynh hương thân Tàu giảm.

Về kinh tế thì VN đẩy mạnh chính sách hội nhập khu vực và hội nhập quốc tế với một số các thương ước quan trọng, nhưng đồng thời nền kinh tế củng có một số khó khăn: tăng trưởng thấp, lệ thuộc nhập cảng vào TQ tăng nợ công lớn, ngân sách thiếu hụt, các công ty nhà nước không được cải tổ đến nơi đến chốn và hoạt động thiếu hiệu quả.

Về xã hội thì nạn tham nhũng lan tràn làm xói mòn tính chính thống và lòng tin vào chế độ đồng thời là một sức cản cho cải tổ kinh tế. Về chính trị thì người ta thấy sự hình thành và lớn mạnh của các nhóm lợi ích song song với hình thức vận động chính trị qua internet và sự lấp ló của các tổ chức dân sư. Đó là những vấn đề mà chính quyền kế nhiệm sẽ phải đối phó.

Việt Hà: Một số chuyên gia nước ngoài cho rằng một số ủy viên trung ương đảng là những nhà kỹ trị, trong đó có thủ tướng mới, ông có đồng ý với ý kiến này không? Nếu có theo ông điều này mang lại thuận lợi và bất lợi gì cho VN sắp tới?

Nguyễn Mạnh Hùng: Ứng cử viên thủ tướng duy nhất đảng đưa ra là ông Nguyễn Xuân Phúc. Ông này có thể coi là một nhà kỹ trị. Trong Bộ Chính Trị mới người ta thấy một số người hoặc có kiến thức chuyên môn về kinh tế hoặc đã từng có kinh nghiệm thi hành chính sách kinh tế, như bà Nguyễn Thị Kim Ngân, ông Nguyễn Xuân Phúc, Chủ nhiệm ban kinh tế trung ương Vương Đình Huệ, Thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Đức Bình, Bộ trưởng Giao Thông Vận Tải Đinh La Thăng, Phó Thủ Tướng Hoàng Trung Hải.

Sự hiện diện của các nhà kỹ trị rất cần thiết vì VN đã ký một số thương ước quan trọng với những cam kết cải tổ cụ thể; họ sẽ phải thực hiện các cải tổ kinh tế cần thiết để nền kinh tế VN có khả năng cạnh tranh và lợi dụng được cơ hội do các hiệp ước mở rộng thị trường này mang lại.

Việt Hà: Vai trò của chủ tịch nước từ trước đến nay vẫn rất mờ nhạt, có chuyên gia nước ngoài cho rằng trong cương vị chủ tịch nước, ông Trương Tấn Sang không làm được gì nhiều nhưng ông cũng cho thấy vai trò nhất định của mình trong việc ủng hộ đổi mới doanh nghiệp nhà nước, xích lại gần hơn với Mỹ qua TPP. Theo ông vị chủ tịch nước mới có thể làm được gì để khẳng định vai trò của mình?

Nguyễn Mạnh Hùng: Hiến Pháp VN cho Chủ tịch nước nhiều quyền hành, nhưng ông Sang chọn không thi hành hết các quyền ấy.

Hiến Pháp 2013 giao cho Chủ tịch nước tư cách “đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại,” và quyền đề cử để Quốc Hội bầu và mãn nhiệm các vị trí quan trọng của nhà nước, kể cả Phó chủ tịch nước và Thủ tương.

Chủ tịch nước “thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân,” giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; quyết định thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng; Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; Căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; Trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương.

Với tư cách nguyên Bộ trưởng CA, ông Trần Đại Quang có căn cứ quyền lực lớn hơn ông Sang và, nếu ông ấy có bản lĩnh, ông có triển vọng đóng vai trò quan trọng hơn so với ông Sang trong chính quyền mới trong khi đó người ta không nghĩ rằng ông Phúc sẽ là một Thủ tướng có nhiều quyền uy như ông Dũng.

Việt Hà: Xin cảm ơn ông.

HAI CON NGƯỜI

HAI CON NGƯỜI

TRM THIÊN THU

 

Trong mỗi chúng ta đều có hai con người – hai bộ mặt. Một con người luôn hướng thiện với lương tâm tốt, nhân chi sơ tính bổn thiện, đó là tiếng nói động viên của Thiên Chúa: “Hãy hoàn thin như Cha trên tri (Mt 5:48). Một con người theo hướng ác với lương tâm lệch lạc, đó là tiếng nói xúi giục của ma quỷ: “Chng chết chóc gì đâu! (St 3:4). Hai con người, nhưng chỉ một cuộc đời. Vì thế, với hai con người đó, chúng ta gọi là “hai nửa cuộc đời”.

Hai con người hoặc hai “nửa” đó luôn giằng co khiến chúng ta phải thực sự can đảm và dứt khoát mới có thể hành động đúng. Khó thật! Thánh Phaolô đã phải than thở: “Điu tôi mun, thì tôi không làm, nhưng điu tôi ghét, thì tôi li c làm (Rm 7:15).

Mỗi chúng ta có hai con người nên mỗi chúng ta cũng có hai bộ mặt và hai tính cách: Hiền và dữ, tươi cười và nhăn nhó, đẹp và xấu, mềm và cứng, đen và trắng,…

Trình thuật Lc 15:11-32 là dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu” (trước đây gọi là dụ ngôn “Đứa Con Hoang Đàng”). Đây là dụ ngôn điển hình nhất trong ba dụ ngôn về Lòng Chúa Thương Xót, và là dụ ngôn rất thực tế – hai dụ ngôn kia là “Con Chiên Bị Mất” (Lc 15:4-7; Mt 18: 12 -14) và “Đồng Bạc Bị Mất” (Lc 15:8-10).

Trong dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu” có hai người con, một BƯỚNG BỈNH và một NGOAN NGOÃN. Đó là hình ảnh “hai con người” trong chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta thường chỉ “nhắm” vào tội của người con thứ mà “làm ngơ” tội của người con trưởng (con cả).

Một hôm, khi thấy các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Ngài giảng, những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường ti li và ăn ung vi chúng (Lc 15:2). Có thể chúng ta không nói ra, nhưng có lẽ chúng ta cũng đã từng “liếc mắt sắc như dao cau” hoặc dè bỉu, hoặc có các động thái tương tự câu nói đó của họ.

Nghe họ rỉ tai nhau như vậy, Chúa Giêsu kể một hơi dài với ba dụ ngôn về Lòng Thương Xót. Một trong ba dụ ngôn (Lc 15:11-32) là câu chuyện “rất quen” như thế này…

Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha: “Thưa cha, xin cho con phn tài sn con được hưởng. Và người cha đã chia ca ci cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.

Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư go tha, mà ta đây li chết đói! Thôi, ta đng lên, đi v cùng cha và thưa vi người: Thưa cha, con tht đc ti vi Tri và vi cha, chng còn đáng gi là con cha na. Xin coi con như mt người làm công cho cha vy. Thế ri anh ta đng lên đi v cùng cha.

Bấy giờ người con nói rằng: “Thưa cha, con tht đc ti vi Tri và vi cha, chng còn đáng gi là con cha na. Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đp nht ra đây mc cho cu, x nhn vào ngón tay, x dép vào chân cu, ri đi bt con bê đã v béo làm tht đ chúng ta m tic ăn mng! Vì con ta đây đã chết mà nay sng li, đã mt mà nay li tìm thy. Và họ bắt đầu ăn mừng.

Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: “Em cu đã v, và cha cu đã làm tht con bê béo, vì gp li cu y mnh kho. Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: “Cha coi, đã bao nhiêu năm tri con hu h cha, và chng khi nào trái lnh, thế mà chưa bao gi cha cho ly được mt con dê con đ con ăn mng vi bn bè. Còn thng con ca cha đó, sau khi đã nut hết ca ci ca cha vi bn điếm, nay tr v, thì cha li giết bê béo ăn mng!.

Nhưng người cha nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng vi cha, tt c nhng gì ca cha đu là ca con. Nhưng chúng ta phi ăn mng, phi vui v, vì em con đây đã chết mà nay li sng, đã mt mà nay li tìm thy.

Vâng, chẳng cần đọc lại hoặc nghe lại vì chắc hẳn tất cả chúng ta đã “thuộc lòng” dụ ngôn này rồi, càng nhiều tuổi càng nghe nhiều. Người cha không dùng quyền mà ép nó. Thiên Chúa hoàn toàn cho chúng ta tự do, không hề bắt buộc, thế nên chúng ta không thể trốn tránh trách nhiệm hoặc tự biện hộ với bất cứ lý do gì – nghĩa là chúng ta không thể việc cớ “tại, vì, bởi, nếu, giá mà…”.

B MT TH NHT: NGƯỜI CON TH

Bản chất con người luôn muốn chứng tỏ “bản lĩnh” của mình, nghĩa là chúng ta muốn nổi dậy, thích tự do, không muốn bị gò bó. Người con thứ là “bản chất xấu” trong chúng ta. Lúc nào nó cũng tìm dịp để nổi dậy, sơ hở một chút là nó vùng lên ngay. Nó biết “đi hoang” là sai trái, nhưng nó có nhiều lý do để chống chế, tự biện hộ, và tự cho là mình hành động đúng. Trong khi đó, thằng quỷ kiêu ngạo lại cứ rỉ rả bên tai: “Chng chết chóc gì đâu mà s! (St 3:4). Thế là chúng ta cứ “vô tư” mà phạm tội!

Cám dỗ nào cũng ngọt ngào, cám dỗ nào cũng đẹp, không ngọt ngào và không đẹp thì làm sao lôi cuốn? Cũng như quảng cáo nào cũng bắt mắt, bùi tai, mua và dùng rồi mới biết là… bị lừa! Những người đi lừa người khác luôn khéo nói, như thế mới có thể chiếm dụng tài sản của người khác, như thế nhiều người mới mắc lừa.

Miệng ăn, núi lở. Tiền rừng cũng hết, bạc biển cũng cạn. Sau khi ăn chơi phung phí và trác táng, không còn một xu dính túi, người con thứ mới nhận thấy mình… sai, vì sống khổ sở quá, đến nỗi thèm cám heo cũng không ai cho mà ăn. Đắn đo, nghĩ tới nghĩ lui, hết cách, bị triệt buộc, chỉ còn “đường binh” cuối là trở về với cha mà thôi.

Sự trở về nghe chừng đơn giản, ngắn gọn, nhưng thực ra không hề dễ dàng, cam go lắm. Trước khi cất bước trở về, người con thứ phải chiến đấu với chính mình rất dữ dội, giằng xé nát lòng, suy nghĩ nát óc. Đi xa về mà te tua tơi tả thì ai mà coi được! Phải “mặt dày” lắm mới có thể trở về. Một sự giằng co nữa là ngại với cha, xấu hổ lắm, không biết cha có nhận mình về hay lại đuổi đi. Gay go thật!

Vì ở bước đường cùng, người con thứ phải quyết trở về để tìm đường sống, bất đắc dĩ phải làm vậy thôi. Nó không dám mong gì hơn, chỉ dám hy vọng mong manh là cha sẽ nhận nó như đầy tớ hoặc người làm công thôi. Nhưng thật bất ngờ, người cha không chỉ tha thứ tội lỗi cho nó mà còn phục hồi cương vị làm con yêu dấu và mở tiệc liên hoan y như nó là quan trạng vinh quy bái tổ vậy. Nước mắt vẫn chảy xuôi. Tình phụ tử kỳ diệu thật!

B MT TH NHÌ: NGƯỜI CON TRƯỞNG

Người con trưởng là con cả hoặc anh hai. Chúng ta tưởng đứa con này khôn ngoan, lễ phép, nhưng không phải vậy, có thể có “khôn” nhưng chưa “ngoan”. Tại sao? Nó đã nhẫn tâm phủ nhận tình huynh đệ, tình máu mủ ruột rà, lại còn kiêu ngạo khi tự nhận mình là đứa con hiếu thảo, đồng thời so đo và đố kỵ: “Cha coi, đã bao nhiêu năm tri con hu h cha, và chng khi nào trái lnh, thế mà chưa bao gi cha cho ly được mt con dê con đ con ăn mng vi bn bè. Còn thng con ca cha đó, sau khi đã nut hết ca ci ca cha vi bn điếm, nay tr v thì cha li giết bê béo ăn mng!. Rõ ràng anh ta ở bên cha nhưng không hề thật lòng yêu thương cha, chỉ nhắm tới gia tài. Vì thế, khi thấy thằng em “trời đánh” trở về và được cha mở tiệc mừng, thằng anh ghen tức, sợ phần gia tài còn lại sẽ bị thằng em “ăn chia”.

Không chỉ ghen tương và đố kỵ, thằng anh còn mặc nhiên coi thường tình phụ tử, nó ở gần cha mà lòng lại xa cha. Nhìn người con trưởng, chúng ta thấy nó có vẻ bình thường và là đứa con ngoan ngoãn, nhưng thực ra nó nhiều tội lắm! Loại “con người” này cũng vẫn thường xuất hiện ở trong mỗi chúng ta. Có thể chúng ta không nói ra bằng lời, nhưng qua các động thái, chúng ta vẫn ngầm cho mình là người đạo đức hơn người khác: Tưới cây trong khu nhà thờ, quét nhà thờ, tham gia hội đoàn Legio, huynh đoàn Đa-minh, hội Con Đức Mẹ, hội Phạt Tạ Thánh Tâm, hội Cầu Nguyện, cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót, ca đoàn, giúp lễ, đọc sách thánh, làm việc từ thiện,… Tham gia như vậy cũng rất tốt, nhưng hãy coi chừng: Đừng chỉ chú trọng bề nổi mà thiếu chiều sâu. Hãy hoạt động để sáng danh Chúa thực sự chứ đừng “đánh bóng” chính mình!

Điều MUỐN và điều CẦN không giống nhau. Có rất nhiều điều chúng ta ước muốn lắm, nhưng trong số đó vẫn có những điều thực sự không cần thiết. Ví dụ, chúng ta mua quần này, áo nọ, giày nọ, dép kia, thay đổi điện thoại đời mới, máy chụp hình,… Thế nhưng có những thứ đó hoàn toàn là lãng phí, chỉ là đua đòi, chứ thực sự chưa hoặc không cần thiết. Chúng ta thường bị ảo giác trước vẻ hào nhoáng của các vật, bị chúng làm lóa mắt, do đó mà chúng ta sẵn sàng “vung tay quá trán” và hoang phí. Đó là chúng ta bị những ham muốn lừa dối. Về lĩnh vực tâm linh cũng tương tự!

Cuộc đời như sân khấu vậy, người ta hóa trang đủ kiểu khiến người khác khó nhận biết. Các sản phẩm ngày nay cũng khó nhận ra cái nào thật hoặc giả, hàng hiệu hoặc hàng nhái. Trong cuộc sống tâm linh cũng vậy, chúng ta vẫn có nhiều loại “mặt nạ”. Phải thực sự can đảm mới đủ sức lột mặt nạ để có thể luôn luôn cứ là chính mình!

Trong chúng ta cũng có hai “con người” như hai người cầu nguyện tại Đền Thờ – người thu thuế và người Pha-ri-sêu (x. Lc 18:9-14). Ước gì chúng ta “mặc lấy” con người của người-thu-thuế-khiêm-nhường, nhưng “cởi bỏ” con người của người-Pha-ri-sêu-kiêu-ngạo.

Mùa Chay, chúng ta hãy cùng nhau “lột xác” theo lời khuyên của Thánh Phaolô: “Anh em phi ci b con người cũ vi nếp sng xưa, là con người phi hư nát vì b nhng ham mun la di, anh em phi đ Thn Khí đi mi tâm trí anh em, và phi mc ly con người mi, là con người đã được sáng to theo hình nh Thiên Chúa đ tht s sng công chính và thánh thin (Ep 4:22-14).

Ly Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin cho con biết Chúa và biết con, đ con sng đúng theo Thánh Ý Ngài và nhân t vi tha nhân; xin giúp con can đm chết cho ti li đ được sng li vinh quang vi Đc Kitô Giêsu. Amen.

TRM THIÊN THU

Tin Tưởng Vào Tình Thương Của Chúa

Tin Tưởng Vào Tình Thương Của Chúa

Ngọc Nga sưu tầm

Một thương gia nọ rất giàu có và nổi tiếng là hay kiêu hãnh. Một hôm, trong cuộc giao tranh vì tiền bạc, ông ta lỡ tay sát hại thù địch. Lần đầu tiên bàn tay nhà thương gia bị dính máu và từ ngày đó mối ân hận trở nên như khối đá đè nặng tâm hồn ông. Hình ảnh người thù địch bị sát hại oan ức luôn theo đuổi ông như hình với bóng, làm ông ta ban đêm thao thức mất ngủ, ban ngày mất an bình không làm được gì nữa. Cuối cùng, ông quyết định tìm đến một linh mục để xưng thú tội mình với hy vọng tìm lại được sự an bình cho tâm hồn. Vị linh mục khuyên bảo ông thực lòng ăn năn sám hối và cương quyết đền bù tội phạm. Ông ta về nhà bán hết mọi tài sản bố thí cho kẻ nghèo khó rồi rút lui vào rừng vắng cầu nguyện, ăn chay, phạt xác để đền tội. Thế nhưng, người ấy vẫn không thể nào tìm được chút an bình cho tâm hồn.

Một hôm, trong đêm tối, người thương gia nằm mơ thấy Chúa Giêsu đến và phán bảo:

– Hỡi con, con còn một điều nữa vẫn chưa dâng hiến hết cho Cha.

Run sợ, người ấy thưa:

– Lạy Chúa, con đâu còn gì để dâng hiến Chúa nữa. Con đã dâng hiến cho Chúa tất cả rồi, nào là tiền bạc, của cải, nhà cửa, vợ con và mọi thứ thú vui thế trần. Cả đời sống con nữa, con cũng đã dâng hiến cho Chúa hết rồi, con chỉ còn tấm thân xơ xác này đây thôi. Nếu Chúa thấy con còn gì có thể dâng hiến Chúa nữa thì xin Chúa hãy phán bảo, con xin sẵn sàng hiến dâng Chúa ngay.

Với cặp mắt đầy nhân từ, tha thứ, Ngài phán:

– Hỡi con yêu dấu. Ta biết, con vẫn còn một tài sản riêng của con nữa chưa hiến dâng cho Ta, con hãy trao cho Ta các tội lỗi của con. Ta muốn nhận tất cả mọi tội lỗi của con. Nếu con vẫn còn muốn giữ lại những tội lỗi ấy thì làm sao Ta có thể tẩy rửa hết để ban tặng cho con niềm vui sướng, an bình và ơn tha thứ của Ta được.

* * *

Mỗi người chúng ta thử đặt mình dưới chân Chúa và để cho lời nói của Ngài vang dội trong tâm hồn chúng ta. Lời của Chúa là lời đầy an ủi và khích lệ biết bao, nhất là những khi chúng ta nhận ra con người xấu xa và những tội phạm của mình. Ðối với những người thành tâm thống hối và quyết tâm cải tà qui chính, lời của Chúa không phải là lời tuyên án tử hình, nhưng là lời tha thứ, là lời ân xá của tình thương vô biên không đạt giới hạn. Chính vì thế mà Ngài đã tự hạ mình và tự nguyện sống hòa mình giữa loài người để cảm thông những yếu hèn của chúng ta và để cùng đồng hành với mỗi người. Chính vì biết nhân loại cần được tha thứ nên Ngài đã tự hiến mình để chuộc lại những gì đã hư mất. Vì thế, càng tiếp xúc với thực tại sứt mẻ của mình, chúng ta càng cảm thấy cần được Ngài giơ tay chữa lành và nâng chúng ta dậy khỏi những bùn lầy của tội lỗi. Ðó cũng là lúc chúng ta làm cho Chúa hài lòng, vì chúng ta nhìn nhận Ngài thực sự là Thiên Chúa toàn năng và đầy lòng nhân từ xót thương.

Khi Chúa Giêsu đồng hành với các môn đệ trên biển cả yên lặng, Ngài nằm ngủ trong thuyền nhưng các môn đệ đâu có ý thức được sự hiện diện của Ngài giữa các ông. Ðến khi sóng to gió lớn nổi lên làm thuyền họ suýt bị chìm, lúc đó họ mới tới đánh thức Ngài dậy và cầu xin để được Ngài cứu vớt.

Cũng vậy, đối với những người còn có lòng tin tưởng vào tình thương của Chúa, thì sự ý thức được tội lỗi của mình không phải là lý do để thất vọng hoặc để trốn chạy xa Chúa. Trái lại, đó là thời điểm của ơn thánh, là tiếng Chúa gọi để chỗi dậy trở về với tình thương tha thứ của Ngài, đó là lúc chúng ta có thể tuyên xưng một cách chân thực rằng:

Lạy Thiên Chúa là Ðấng cứu độ con, là nơi con nương tựa và con sẽ không bao giờ phải hổ ngươi thất vọng.

Con đặt hết tin tưởng vào Lời Chúa, cho dù tội lỗi của con đỏ như gấc và đen như mực, nhưng chỉ cần một cái nhìn xót thương của Chúa thôi, chỉ cần một giọt máu của Chúa thôi, cũng đủ để thanh tẩy con trở nên trắng hơn.

Lạy Chúa,

Con trông cậy vào tình thương tha thứ của Chúa.

Veritas

Ngọc Nga sưu tầm

MẸ TÍNH SAO ?

MẸ TÍNH SAO ?

Gởi những bà “mẹ” Miền Nam

Đầu năm khơi lại vài chuyện cũ
Gởi về thăm các mẹ Miền Nam
Ngày xưa… Mẹ từng nuôi bao đứa
Bóp bụng sớt từng… từng chén cơm

Mẹ moi cho nó hầm bí mật
Dưới đáy chuồng heo, dưới gầm giường
Tội nghiệp “nó đi làm cách mạng…
…rạng ngời chính nghĩa, thấy mà thương”

Cây kim sợi chỉ nó không lấy
Nó lấy của mẹ vài đứa con
Cái bằng liệt sĩ. Nhuộm máu đảng…
Mẹ đã khóc thầm cùng khói nhang

Vỗ tay, mẹ mừng vui chiến thắng
Mẹ hể hả reo đón hòa bình
Cái thằng chân đất lên trị nước
Đất nước đâu còn cảnh điêu linh

Mới được vài năm, Mẹ chưng hửng
Mẹ đã nuôi nhầm lũ đầu trâu
Cướp tình, cướp của… nó cướp sạch
Mồ mả Ông Cha, biến phố Tàu

Huênh hoang nó cướp lòng yêu nước
Tiếp tục đẻ toàn lũ đầu trâu
Dân oan xuống phố đòi quyền sống
Nó bắt bỏ tù. Mẹ đứng đâu?

Ngày xưa… lỡ đỡ đần nuôi chúng
Giờ đến nước nầy, Mẹ tính sao?

What now, Mama?
To “mamas” of the South

As the new year begins, let’s look at the old accounts
Addressed to you — mama of the South
Long ago, you tightened your belt
To offer your bowl of rice to scores of them

You sheltered them with makeshift hideouts
Pits dug in pig pens or under your bed
Have mercy on them “the revolution supporters
with their noble principles”

They cared not for your sundries
But the ultimate sacrifice of your sons
In return, you received a blood-stained patriotic martyr award
Incense smoke wafting, you mourned their death in silence

You clapped your hands in celebration of the victory
And shouted for joy welcoming peace
The barefooted guy took the reign
The country would no longer be in ruins

A few passing years left you flabbergasted
You realized your blunder:
The hoodlums snatched and plundered everything
Even ancestral graveyards turned into China towns

Much patriotic devotion were greedily exploited
And more and more hoodlums sired by them
The oppressed people taking to the streets
Were all imprisoned — Where do you stand?

Long ago you fostered them
Now then, what to do, Mama?

Trạch Gầm
Yên Nhiên chuyển sang Anh ngữ
Nguồn: Dịch giả

Chi Xuan Lang goi

NGƯỜI CHA NHÂN HẬU

NGƯỜI CHA NHÂN HẬU

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Ta thường gọi là dụ ngôn “Người con hoang đàng.”  Cách gọi này không được chính xác.  Trước hết vì sự trở về của đứa con không đáng làm khuôn mẫu cho ta.  Hơn nữa, xét theo bối cảnh và nội dung, Chúa Giêsu, khi kể dụ ngôn này, có ý đề cao tình yêu thương, lòng khoan dung nhân hậu của người cha.
Bối cảnh: Nhóm Pharisêu và các Kinh sư chê trách Chúa Giêsu vì Người ngồi ăn với những kẻ tội lỗi. Để trả lời họ, Chúa Giêsu kể một chuỗi 3 dụ ngôn: Con chiên đi lạc, Đồng bạc bị mất và Người cha nhân hậu.
Nội dung: Có thể coi đây là một vở kịch 2 màn.

NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON ÚT
Đứa con ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Sự ích kỷ được biểu lộ trước hết trong việc xin chia gia tài, ở nhà chung mà chỉ nghĩ đến vun quén riêng.  Không đóng góp mà chỉ muốn rút tỉa.  Không làm việc mà chỉ muốn hưởng thụ.  Sự ích kỷ đạt đến mức tồi tệ đáng kinh tởm khi nó dám mở miệng xin chia gia tài.  Theo truyền thống phương đông, gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời.  Xin chia gia tài lúc cha mẹ còn sống có khác nào cầu mong cha mẹ mau chết đi!
Có tiền bạc trong tay, nó bắt đầu ăn tiêu phung phí.  Cách ăn tiêu nói lên tính ích kỷ của đứa con.  Nó tiêu tiền mà không nghĩ gì đến mồ hôi nước mắt của cha mẹ.  Nó tiêu tiền chỉ để thoả mãn dục vọng.  Nó dùng tiền bạc để cung phụng bản thân.  Khi có tiền nó chẳng nghĩ đến ai, nên khi hết tiền, chẳng còn ai gắn bó, sẵn sàng giúp nó qua cơn túng thiếu.  Túng cùng quá mới phải trở về.
Sự ích kỷ vẫn còn đó trong toan tính trở về.  Nó không hề nghĩ đến cha mẹ.  Nó không hề nghĩ đến tình thương.  Nó chỉ nghĩ đến cái bụng.  Về nhà để được ăn no.  Chỉ có thế.
Người cha hoàn toàn quên mình vì con.
Khi đứa con xin chia gia tài, ông đã chia ngay, không so đo tính toán, không hạch sách khó khăn.  Ông không nghĩ đến bản thân, không tự ái, chỉ mong sao con cái được vui lòng.
Khi con đã ra đi, ông ngày đêm thương nhớ, ngày nào cũng ra ngõ đứng chờ.  Thật tội nghiệp, con ra đi chẳng nhớ nhung gì đến cha mà cha không phút giây nào ngừng thương nhớ con.  Con chỉ biết tìm vui cho bản thân trong khi cha mỏi mòn trông đợi.  Con chỉ biết đến tiền bạc, còn cha chẳng quan tâm gì đến tiền của, nhưng chỉ cần có con.
Cảm động nhất và cũng chan chứa tình thương nhất là phút giây gặp gỡ.  Một phút giây vắn vỏi mà nói lên bao nhiêu điều về tình thương của cha.  “Anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy.”  Khi con chưa nhìn thấy cha thì cha đã nhìn thấy con.  Mắt chàng trai trẻ hẳn phải tinh anh hơn mắt ông cụ đã nhoà dòng lệ vì thương nhớ chứ.  Thế mà cha đã nhìn thấy con trước.  Vì cha không nhìn bằng mắt nhưng nhìn bằng trái tim.  Trái tim yêu thương có đôi mắt tinh tường giúp nhận ra ngay bóng người yêu dấu.  Trái tim con không còn yêu thương nên nhìn chẳng thấy cha.  Trái tim con khô cằn nên mắt vẫn sáng mà chẳng khác mù lòa.  Trái tim cha đầy ắp yêu thương nên đã lòa rồi mà vẫn thấy rõ con ngay từ đàng xa.
“Ông chạnh lòng thương.”  Trái tim dạt dào yêu thương quên hết tất cả lầm lỗi của đứa con.  Tình cảm đầu tiên dâng lên trong tim ông không phải là tiếc xót nửa gia tài đã mất, cũng không phải là tức giận thằng con phá gia chi tử, nhưng lại là chạnh lòng thương.  Yêu quá nên người cha chẳng còn nhìn thấy gì khác hơn là đứa con tiều tuỵ rách rưới.  Yêu quá nên người cha chẳng nhìn thấy lầm lỗi mà chỉ nhìn thấy nỗi khổ của con.  Trong trái tim ông, chỉ có tình thương dành cho con, nên vừa gặp con là tim đã rộn ràng xúc động.
“Chạy lại ôm cổ con.”  Lại một cử chỉ lạ lùng.  Cha không chờ con tới theo đúng lễ phép mà đã vội vàng chạy lại ôm con.  Tình yêu thương thúc đẩy, niềm vui dâng dạt dào khiến người cha không chần chờ được nữa.  Bất chấp thân phận cao quý của mình, ông chạy đi như một đứa trẻ được quà.  Bất chấp tuổi tác của mình, ông nhanh nhẹn như một thanh niên sung sức.  Đứa con tuổi còn trẻ mà sao chẳng nhanh nhẹn bằng ông già?  Vì trong tim nó thiếu tình yêu.  Trái tim không tình yêu cũng giống như cơ thể không sức sống.  Ông già mà nhanh nhẹn vì ông không chạy bằng sức lực của đôi chân.  Ông chạy bằng trái tim.  Ông bay bằng tình yêu.  Tình yêu chắp cánh cho ông.
“Hôn lấy hôn để.”  Chẳng còn bút nào tả xiết niềm vui của người cha khi gặp lại đứa con.  Những nụ hôn không ngớt đủ nói lên tình cảm dạt dào ông dành cho nó.  Ông ôm chặt như để giữ không cho nó ra đi nữa.
Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn.  Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn.  Ông thật là người cha phung phí.  Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về.  Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dãi.  Ông đã phung phí khi đem áo mới, giầy mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy để đón đứa con đi hoang trở về.  Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười cho!  Nói tóm lại ông đã phung phí tình yêu thương.  Yêu thương quá độ.  Yêu thương đến vô lý.  Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương?  Chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.

MÀN 2: NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON CẢ
Đứa con cả đi hoang trong tâm hồn.

Đứa con cả vẫn ở nhà, nhưng thực ra chỉ có thân xác ở nhà, còn tâm hồn nó đã đi hoang từ lâu.  Tuy ở trong gia đình, nhưng tâm hồn nó không thuộc về gia đình.  Nó làm việc không phải với tâm tình của một người con hiếu thảo coi “mọi sự của cha là của con.”  Nó muốn vun quén riêng tư.  Nó làm việc với tinh thần nô lệ, mong được trả công, chỉ nghĩ đến con “bê nhỏ,” đến “bạn bè” riêng của nó.
Sống bên cha mà tâm hồn nó xa tâm hồn cha biết bao.  Nó không sao chia sẻ được những tình thương, những ưu tư, hoài bão của cha.  Cha là tình thương nhưng con chỉ là ích kỷ.  Cha là bao dung nhưng con chỉ là hẹp hòi.  Tâm hồn cha rộng mở bao nhiêu thì tâm hồn con khép kín bấy nhiêu.  Cha chỉ biết tha thứ trong khi con chỉ biết kết án.  Thật là khác biệt ngàn trùng.
Cha đi tìm con
Một lần nữa, người cha lại phải bỏ nhà ra đi, bỏ dở bữa ăn để tìm đứa con đi hoang trong tâm hồn.  Vẫn với cử chỉ dịu dàng cố hữu; vẫn với những lời lẽ ôn tồn; vẫn với ánh mắt chan chứa cả một trời bao dung, cha cố gắng thuyết phục đứa con cả trở về.
Nếu đứa con út cần một cuộc trở về thì đứa con cả cần tới hai cuộc trở về: về với cha và về với em.  Đi hoang trong tâm hồn xa xôi diệu vợi thế!
Qua dụ ngôn này Chúa cho thấy dù tôi là con út hay con cả, tôi vẫn cần trở về.  Vì nếu tôi chưa đi hoang trong đời sống, chắc chắn đã rất nhiều lần tôi đi hoang trong tâm hồn: suy nghĩ và hành động của tôi khác hẳn với đường lối của Thiên Chúa là Cha; tôi vẫn không muốn chấp nhận anh em tôi.
Nhưng dụ ngôn cũng cho tôi an tâm trở về.  Hình ảnh người cha hiền đứng đợi mời gọi tôi mau bước. Chúa là người Cha yêu thương tôi trước khi tôi yêu Người, đi tìm tôi trước khi tôi đi tìm Người, tha thứ cho tôi trước khi tôi xin lỗi Người.
Lạy Chúa là Cha nhân từ, con cảm tạ tình yêu thương vô vàn của Cha.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Trở về Mái Nhà Xưa nơi Thư Viện Quốc Hội Mỹ

Trở về Mái Nhà Xưa nơi Thư Viện Quốc Hội Mỹ

Bút ký của Đoàn Thanh Liêm

*     *     * Năm 1960, hồi làm chuyên viên nghiên cứu luật pháp tại văn phòng Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa ở Saigon, thì tôi được cử đi học tập tu nghiệp và quan sát tại những cơ sở thuộc Quốc Hội Mỹ ở thủ đô Washington DC. Tại đây, tôi được hướng dẫn đến học tập trong thời gian dài với cơ sở gọi là “Legislative Reference Service” (LRS = Sở Tài Liệu Lập Pháp) nằm trong tòa nhà được gọi là Jefferson Building của Thư Viện Quốc Hội Mỹ (Library of Congress = LOC).

Vào năm 1960, dưới trào Tổng thống Eisenhower, thủ đô nước Mỹ thật là thanh bình êm ả, đường phố sạch sẽ xinh đẹp tươi vui hết chỗ nói. Và riêng đối với một thanh niên đã từng phải trải qua cuộc chiến tranh tàn khốc nơi miền quê đất Bắc hồi đầu những năm 1950 – thì Washington có thể được coi như là một thứ bồng lai tiên cảnh, một thiên đường dưới thế gian này vậy.

Nhà tôi ở trọ nằm trong khu Tây Bắc gần với Tòa Bạch Ốc, nên ngày ngày phải đi xe bus để đến LOC tọa lạc tại phía Đông Nam của trụ sở Quốc Hội chiếm một khỏang diện tích khá rộng trong một khu đồi gọi là Capitol Hill. Vào những ngày mát mẻ đẹp trời, tôi có thể thả bộ đi hết chừng hơn một giờ qua nhiều dãy phố ở downtown, thì cũng đến được khu vực Điện Capitol. (Người Mỹ viết chữ “US Capitol” hay là “Capitol Building” là để chỉ Điện Capitol – Trụ sở của Quốc Hội Liên Bang)

Ở vào độ tuổi 25 – 26, vốn tính tò mò hiếu học tôi say mê quan sát học hỏi tìm kiếm theo sát với sự hướng dẫn của các vị đàn anh trong ngành nghiên cứu luật pháp của LOC. Và vào buổi chiều tối thì còn đi học thêm về chuyên môn luật pháp tại trường Luật của đại học George Washington University (GWU Law School) cũng ở gần nhà mình ở, nên có thể đi bộ mà tới lui dễ dàng được.

Nói chung thì sau thời gian 6 tháng du học tu nghiệp tại Washington DC, tôi thu thập được một số kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn thật là bổ ích cho việc nghiên cứu luật pháp của mình. Đàng khác, thành phố thủ đô Washington nói chung và Thư Viện Quốc Hội Mỹ nói riêng đã để lại trong tôi một kỷ niệm thật đẹp đẽ dễ thương, một ấn tượng sâu sắc kỳ thú và duyên dáng vô cùng. Đó là từ cái thời kỳ năm 1960 – 61 mà cách nay đã trên nửa thế kỷ.

Nhưng quả thật là tôi có cái duyên bền bỉ tái hồi với Washington và LOC rất nhiều lần – đặc biệt là kể từ năm 2000 cho đến nay là năm 2014. Dưới đây tôi xin lần lượt tường thuật chi tiết hơn về một ít công chuyện gần đây của riêng mình tại khu vực Đồi Capitol danh tiếng này.

I – Mái nhà LOC ngày trước thì nay đã gồm đến ba tòa nhà thật đồ sộ.

Hồi năm 1960, thì LOC chỉ gồm có mỗi một tòa nhà lớn gọi là Jefferson Building được xây cất từ thế kỷ XIX. Mà đến năm 2000, khi trở lại thăm viếng nơi đây, thì tôi thấy LOC đã có thêm 2 tòa nhà thật lớn lao đồ sộ và thật hiện đại nữa, nhà nào cũng cao đến 7 – 8 tầng lầu – đó là Madison Building và Adams Building cũng kề sát với Jefferson Building. Cả ba tòa nhà này đều có đường hầm ăn thông với nhau, nên việc di chuyển lui tới của các nhân viên với nhau thì thật là thuận tiện.

Vào buổi trưa, tôi thường tới dùng bữa tại phòng ăn rất rộng lớn chiếm cả một tầng lầu cao tại Madison Building. Nơi đây, thực khách có thể dễ dàng nhìn thấy máy bay lên xuống tại phi trường Reagan ở phía bên kia sông Potomac – quang cảnh trông thật nhộn nhịp và thóang đãng.

Cơ sở vật chất thì vĩ đại như vậy, còn về công trình do LOC đảm nhiệm thực hiện, thì thật là bao quát nhiều lãnh vực mà phải viết cả một cuốn sách họa may mới trình bày cho độc giả có được một khái niệm tương đối chính xác về cái định chế văn hóa lớn vào bậc nhất của thế giới và là niềm tự hào của nước Mỹ. Vì thế, ở đây tôi chỉ xin ghi lại một vài chuyện riêng tư của mình mà có liên hệ đến mấy người bạn là những chuyên viên sáng giá tại một bộ phận trong cơ sở này mà thôi.

LOC quá đông nhân viên, tổng cộng lên đến trên 4,000 người được phân bố ra thành hàng trăm đơn vị ban ngành chuyên biệt. Nhưng riêng tôi, thì gần đây vì nhu cầu nghiên cứu nhỏ nhoi hạn chế của mình, tôi chỉ lui tới có mấy phòng trong Madison Building để tham khảo tài liệu và thăm viếng chuyện trò trao đổi với một số chuyên viên gọi là Legal Analyst làm việc trong một bộ phận gọi là Law Library. Tôi đã có dịp viết về chuyện này trong mấy bài trước đây rồi, nên thấy không cần nhắc lại các chi tiết đó ở đây nữa.

II – Những người bạn thân thiết trong Trung Tâm Nghiên Cứu Luật Pháp Tòan Cầu (The Global Legal Research Center).

1 – Chị Elisabeth Moore phụ trách Kho Tài Liệu có tên gọi là : “The Global Legal Resource Room”.

Elisabeth ở vào độ tuổi 50, người tầm thước mà bặt thiệp. Chị là người rất tận tình hỗ trợ cho tôi trong việc tìm kiếm tài liệu chuyên môn về luật pháp. Phòng của chị chứa đựng khá nhiều tài liệu luật pháp của các nước trên thế giới. Chị có nhiệm vụ sưu tầm lưu trữ và cung ứng ưu tiên cho các chuyên viên của Legal Research Center trong Law Library. Elisabeth cho biết chị theo tôn chỉ xây dựng hòa bình của tôn giáo Quaker. Chị sống và làm việc nhiều năm với Thư viện ở New Orleans và góp phần mau chóng khôi phục sinh hoạt của ngành thư viện tại đây sau vụ bão Katrina.

Hiện chị sinh sống gần thành phố Annapolis Maryland để được gần gũi với con cháu, mà vì thế mỗi ngày phải đi chuyến xe bus riêng biệt mất đến cả giờ mới đến được sở làm. Mỗi lần ghé đến Madison Building, thì người tôi đến nhờ vả đầu tiên, thì chính là chị Elisabeth này đấy.

2 – Peter Roudik, Director of The Global Legal Research Center.

Peter Roudik cỡ ngòai 50 tuổi là người gốc Nga. Chúng tôi quen biết thân thiết với nhau dễ đến 7 – 8 năm nay. Peter cho tôi biết nhiều về hiện tình xã hội ở Nga và một số quốc gia mà đã tách rời khỏi Liên Xô từ vài chục năm nay. Peter là một luật gia chuyên nghiên cứu về ngành Luật pháp đối chiếu và đã làm việc tại Law Library từ trên 15 năm, được xếp vào ngạch Senior Legal Analyst. Và gần đây được bổ nhiệm làm Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Luật pháp Tòan cầu.

Gặp lại Peter hồi đầu tháng Năm, tôi đùa bỡn hỏi anh : “Chuyện ở Ukraine bây giờ ra sao rồi?” Anh biết tôi đùa giỡn, nên chỉ cười trừ; và dĩ nhiên là tôi cũng không nói gì thêm về chuyện này nữa.

3 – Luật sư Sayuri Umeda là Senior Foreign Law Specialist.

Sayuri Umeda vào độ tuổi 40, chị học luật và làm luật sư ở Nhật một thời gian. Rồi qua Mỹ học tiếp bậc cao học về Luật tại GWU, nơi tôi đã theo học năm 1960. Ông xã của chị là một giáo sư người Mỹ hiện cũng dậy về môn luật tại GWU. Sayuri là một chuyên viên cao cấp về luật pháp của Nhật và một số quốc gia khác ở Á châu, trong đó có ba nước Đông Dương. Tôi đang đợi Sayuri gửi cho tôi các bài nghiên cứu của chị về luật pháp tại Việt nam hiện nay.

Dịp này, tôi gửi cho Sayuri bài tôi mới viết về vụ án chính trị của tôi ở Việt nam đầu thập niên 1990 và cả Bản Tường trình về Tình hình Nhân quyền ở Việt nam trong năm 2013 do Mạng Lưới Nhân Quyền VN vừa mới cho phổ biến. Sayuri tỏ vẻ chú ý đến những vấn đề được trình bày trong các tài liệu này.

4 – Luật sư Laney Zhang là Foreign Law Specialist.

Laney Zhang là người trẻ nhất so với 3 người trên đây, chỉ mới ngòai 30 tuổi. Cô học luật ở Trung quốc rồi sau được học bổng qua học bậc Cao học ở Mỹ. Với khả năng chuyên môn cao và tính tình năng động tháo vát, Laney đã hòan thành được nhiều bài nghiên cứu về các vấn đề luật pháp ở Trung quốc ngày nay. Các bài này đã được phổ biến rộng rãi trên các website và được sự phản hồi thuận lợi của giới thức giả trong ngành nghiên cứu luật pháp.

Tại Law Library này, tôi còn thấy mấy chuyên viên khác cũng là người Trung hoa, nhưng tôi chưa có dịp quen biết hay trao đổi chuyện trò với họ. Đối với tôi, Laney tỏ ra có mối thiện cảm như giữa những người hàng xóm láng giềng sống gần gũi nhau mà cụ thể là tôi hay nhắc đến cái chuyện ông nội của tôi xưa kia là một ông đồ dậy chữ Hán – mà rất tiếc là vì ông cụ mất sớm lúc tôi mới được 5 – 6 tuổi, nên đã không được học chữ Hán. Mà thay vào đó, tôi lại được học tiếng Pháp và tiếng La tinh. Laney cười nói : Ông học tiếng Pháp, La tinh rồi cả tiếng Anh, thì rất có lợi cho việc nghiên cứu luật pháp.

Nói chung, thì đây tòan là các chuyên viên đày tài năng, ai nấy đều say mê yêu thích cái nghề nghiên cứu luật pháp và họ được cơ quan cung ứng cho đủ thứ tài liệu tham khảo – mà ít có cơ sở nào khác lại có thể thu thập cho thật đày đủ nếu đem so sánh với kho tư liệu khổng lồ của LOC.

Khi nghe tôi nói là tôi đã từng đến học hỏi tại LOC từ năm 1960 – 61, thì ai nấy đều lác mắt, họ nói : “Năm đó, thì chúng tôi chưa được sinh ra trên cõi đời này!” Nhưng rõ rệt đây là những “hậu sinh khả úy, mà cũng khả ái nữa”. Và mỗi lần ghé thăm Law Library để tìm kiếm tài liệu nào, thì tôi thật phấn khởi vui mừng vì gặp lại được những đồng nghiệp Legal Analyst vừa trẻ tuổi, dễ thương mà cũng vừa rất tài ba nữa.

Về thăm lại Mái Nhà Xưa mà gặp được những con người dễ mến như thế ấy, thì quả thật đó là một niềm vui kỳ thú và sự an ủi rất lớn lao vậy./

Thành phố Baltimore Maryland ngày 15 tháng Năm 2014

Đoàn Thanh Liêm