Đảng CSVN lãnh đạo đã đưa đất nước đến nguy cơ diệt vong

Đảng CSVN lãnh đạo đã đưa đất nước đến nguy cơ diệt vong

FB Trương Nhân Tuấn

9-3-2016

Đến bây giờ, khi nước mặn xâm nhập ngược dòng sông Cửu Long, vào đất liền, nhiều nơi hàng trăm cây số, thì ông X mới bắt đầu gởi “công hàm” yêu cầu các nước ở thượng nguồn xả nước ở những con đập thủy điện nhằm cứu vãn tình trạng.

Vấn đề cực kỳ nghiêm trọng vì đời sống hàng chục triệu người dân miền Nam bị đe dọa, cũng như nền kinh tế của đất nước có thể bị sụp đổ.

Hành động của nhà nước CSVN đúng là chuyện chờ nước đến chân mới nhảy. Trong khi nhiều người VN đã cảnh báo tình trạng “sông Cửu Long cạn dòng”, vì hậu quả việc xây đập bừa bãi của các quốc gia trên thượng nguồn.

Cá nhân tôi, từ khoảng 15 năm trước, đã có bài viết cảnh báo. VN không thể ngăn chận các quốc gia xây dựng các đập thủy điện ở thượng nguồn sông Cửu Long. Vì vậy VN bằng mọi cách phải “kiểm soát” nguồn nước này, điển hình là đầu tư xây dựng những con đập ở Lào.

Rốt cục VN đã không thực hiện việc này. Các con đập ở Lào đều do Thái Lan và TQ đầu tư (và làm chủ).

VN đã để vận mạng của đất nước mình cho người ngoài nắm giữ.

Vấn đề là tầm nhìn của lãnh đạo.

Ông X gởi công hàm yêu cầu, điều chắc chắn là các quốc gia này sẽ không đáp ứng. VN không có cách gì, ngoài cách sử dụng chiến tranh để giải quyết. Nhiều nhà tương lai học quốc tế dự đoán, chiến tranh thế kỷ 21 bắt nguồn từ việc tranh chấp các nguồn nước.

VN không có khả năng dùng chiến tranh như là một biện pháp răn đe hữu hiệu.

Tình hình sẽ tệ hại hơn, nếu các quốc gia thượng nguồn dẫn nước sông Cửu Long vào một hệ thống dẫn thủy khác. Lúc đó sông này sẽ cạn. Lúc đó VN cũng không làm gì được.

Hệ quả của việc sông Cửu Long cạn dòng là ruộng vườn ở nhiều tỉnh miền Nam sẽ bị nhiễm mặn. Cái tên gọi là “miệt vườn” ở miền Nam sẽ xóa sổ. Bởi vì khi đất vườn bị nước biển xâm thực, đất này sẽ trở nên vô dụng, không còn trồng trọt được thứ gì. Ruộng nương cũng vậy, khi muối đã thấm nhập vào đất thì ruộng đó cũng bỏ không. Muốn “cải tạo” lại, hàng chục năm sau chưa chắc đã khắc phục.

Nhiều biện pháp đã đề nghị, như đào hồ chứa nước mưa. Vấn đề là các hồ nước này có thể thỏa mãn việc tiêu tưới, nhưng không thể ngăn nước biển chảy ngược vào sông Cửu Long.

Trong khi VN, với trình độ kỹ thuật hiện tại, không thể xây dựng những hệ thống đê, đập trị thủy như ở Hòa Lan.

Đảng CSVN lãnh đạo đã đưa đất nước đến nguy cơ diệt vong. Về giáo dục, họ đào tạo ra những con người không có giá trị (kinh tế). Về kinh tế họ đã đưa VN xuống hàng chót ASEAN. Về xã hội, họ hứa hẹn thiên đàng nhưng họ xây dựng một đia ngục. Về việc bảo vệ lãnh thổ, họ đã dâng hiến Biển Đông cho TQ…

Về chính trị, những ngươi cộng sản miền Bắc đã sử dụng đảng để loại dân miền Nam ra khỏi cuộc chơi. Theo tập quáng, bí thư tỉnh ủy (hay thành ủy) đều là người địa phương. Bây giờ ông Trọng (và đồng bọn) chỉ sử dụng người miền Bắc, như trường hợp Đinh La Thăng, người Bắc lên nắm Sài Gòn. Sắp tới, ông Trọng (và đồng bọn) sẽ phất ngọn cờ chống tham nhũng để triệt hạ và loại trừ dân miền Nam ra khỏi các vị trí lãnh đạo.

Miền Nam ngập mặn, đe dọa đã hiện hữu từ nhiều thập niên, nhưng ngân sách dành cho miền Nam (nhằm đối phó việc nhiễm mặn) là con số không to tướng. Miền Nam kho gạo thế giới, kho dầu khu vực, kho dự trữ cá mắm… quan trọng… GDP đóng góp thì nhiều, mà ngân sách đầu tư môi trường, giáo dục, hạ tầng cơ sở… thì không có bao nhiêu…

Sắp tới, con số nhỏ nhoi “không có bao nhiêu” cũng không còn. Dân miền Bắc do ông Trọng thống lĩnh chính trị, sẽ thâu tóm tất cả.

Tương lai của dân miền Nam có nên để cho miền Nam tự quyết ? Câu hỏi trở thành cấp thiết đặt ra, nếu chủ trương “thống lĩnh” của chính trị “người Bắc kỳ biết lý luận” tiếp tục áp dụng.

Ông Nén kháng nghị ‘đòi sự công bằng’

Ông Nén kháng nghị ‘đòi sự công bằng’

Facebook Tran Van Dat

Việc điều tra những người gây oan sai cho ông Huỳnh Văn Nén chưa có kết quả

“Người tù thế kỷ” Huỳnh Văn Nén hôm 8/3 vừa gửi đơn lên Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đề nghị giám đốc thẩm tội hủy hoại tài sản trong bản án đối với ông.

Người sát cánh bên ông nhiều năm nay, ông Nguyễn Thận, nói quyết định kháng nghị của ông Nén là để ‘đòi lại sự công bằng’.

Đây là một phần bản án đã tuyên cho ông Nén hồi năm 2000. Theo bản án đó ông bị mức chung thân cho tội giết người (bà Lê Thị Bông), 3 năm tù tội cướp tài sản của công dân và 2 năm tù tội hủy hoại tài sản công dân. Tổng hợp hình phạt là mức án chung thân.

Trước đó ông cũng bị kết án oan trong một vụ giết người xảy ra năm 1993.

Hôm 3/12/2015, cơ quan tố tụng tỉnh Bình Thuận đã công khai xin lỗi ông Huỳnh Văn Nén, ‘người tù thế kỷ’ bị buộc tội, giam oan hơn 17 năm trong hai vụ án giết người.

Hôm 9/3, trao đổi với BBC qua điện thoại từ TP. Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Thận, cựu chủ tịch xã Tân Minh, Hàm Tân, Bình Thuận, cho hay: “Thực chất của việc kháng nghị đến Viện Kiểm sát nhân dân tối cao lần này của ông Nén là muốn đòi lại sự công bằng”.

“Thực tế thì hai năm tù tội hủy hoại tài sản công dân thì ông ấy đã thụ án trong số 17 năm tù rồi. Tôi cho là ông ấy muốn làm rõ rằng mình không phạm phải các tội, giết người, cướp tài sản và hủy hoại tài sản công dân như Tòa Bình Thuận đã tuyên”, ông Thận nói thêm.

Cựu chủ tịch xã cũng cho hay: “Cuộc sống của ông Nén đang dần trở lại bình thường. Các luật sư vẫn đang trợ giúp ông ấy về thủ tục để nhận tiền bồi thường nhưng vẫn chưa rõ thời điểm”.

Ông Thận cũng xác nhận đến thời điểm này, những người gây oan sai trong hai vụ án giết người như điều tra viên Cao Văn Hùng không hề liên lạc với ông Nén để gửi lời xin lỗi.

‘Điều chắc chắn phải làm’

Trước đó, báo trong nước đưa tin trong cuộc gặp với Cục Điều tra Hình sự, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao hôm 3/3, ông Nén “giữ nguyên quan điểm đề nghị xử lý 14 cán bộ công an, Tòa án Nhân dân, Viện Kiểm sát tỉnh Bình Thuận thiếu trách nhiệm gây oan sai cho ông cũng như cho người nhà của ông.

Hôm 4/3, luật sư Trần Vũ Hải nói với BBC rằng việc điều tra vụ làm oan Huỳnh Văn Nén “diễn ra hơi chậm, do vướng thời điểm Tết Bính Thân”.

“Việc điều tra, làm rõ tội danh của những người gây oan sai cho ông Nén và người nhà là điều chắc chắn phải làm. Bộ Tư pháp cũng thông báo với tôi là họ đang làm rõ lý lịch ông Cao Văn Hùng có thích hợp để tiếp tục hành nghề luật sư hay không”, luật sư nói.

Ông Hải nhấn mạnh: “Trong số 14 người mà ông Nén tố cáo, ông Hùng cùng với ông Đinh Kỳ Đáp, cựu Phó thủ trưởng Cơ quan Điều tra Công an tỉnh Bình Thuận là hai người đáng bị truy cứu trách nhiệm hình sự trước nhất, vì họ xử lý cả hai vụ án này”.

Luật sư cũng cho biết thêm là ông Huỳnh Văn Nén đang chữa bệnh và sửa sang nhà cửa, rất cần khoản tiền bồi thường nhưng “việc này muốn nhanh cũng khó, vì những tranh cãi quanh mức bồi thường. Ngay vụ người tù oan Nguyễn Thanh Chấn cũng phải đợi hai năm mới nhận được tiền bồi thường”.

Suy ngẫm về lá thư của một bạn sinh viên quê Sầm Sơn trên Facebook

 Suy ngẫm về lá thư của một bạn sinh viên quê Sầm Sơn trên Facebook

Bauxite Việt Nam

Giải đất hình chữ S nằm về một góc Đông Nam châu Á này bao gồm núi sông, trời biển, rừng suối, gò đồi, đồng ruộng, đầm lầy… tất tật đều là tài sản chung của cả cộng đồng dân lộc Việt từ thuở khai thiên lập địa đến nay. Cả một dân tộc đã chung lưng đấu cật cùng nhau, ngày này qua tháng khác đổ không biết bao nhiêu máu, mồ hôi, góp tay xây dựng, gìn giữ, mở mang suốt mấy nghìn năm mới tạo nên được. Vì thế, ngay dưới thời phong kiến, tuy vua chúa có quyền ban cấp đất đai cho quan lại bề tôi có công nhưng mỗi khi làm việc động chạm đến quyền lợi tối thiêng liêng của dân, triều đại nào cũng nhìn vào lòng dân mà cân nhắc rất kỹ lưỡng. Có loại đất phong cấp trên giấy tờ hàng nghìn mẫu mà không hề có trên thực địa và có loại đất gọi là thực phong, thực cấp thì chỉ giới hạn ở một diện tích rất nhỏ, nhiều lắm là một làng. Và Triều đình cũng chỉ ban phong để các công thần hàng năm thu thêm một khoản ngoài thuế của nhà nước, chứ không phải tự tiện muốn chiếm lấy đất của hộ dân nào thì chiếm, hoặc tự tiện giao đất của gia đình này cho gia đình kia làm cho dân chúng nhiều người trắng tay, lâm vào tình cảnh lầm than đói khát. Nếu cả một vùng không còn yên sống, đi ngược với chính sách yên dân thì sẽ mắc tội lớn với Triều đình. Nghĩa là dù vai trò của ông vua trong chế độ phong kiến được coi là là tối thượng (Thiên tử con trời) thì vẫn không vua chúa nào dám liều lĩnh làm càn đến mức trắng trợn cướp đất của dân.

Dưới thời Pháp đô hộ cũng vậy. Tuy là kẻ xâm lược đến chiếm nước ta, các nhà tư bản Pháp muốn mở đồn điền đều phải có đơn xin Nhà nước Bảo hộ cho phép mình trưng khẩn. Mà trưng khẩn ở đây là khai khẩn đất hoang vô chủ, phần lớn là đất cao nguyên, đồi núi, để biến thành đất trồng trọt, sau một số năm sẽ đóng thuế cho Nhà nước theo luật định. Còn đất đai của dân chúng đang sinh sống và nhiều đời truyền nối cho nhau làm phương tiện sinh sống, nhằm bảo tồn sự sống của gia đình, họ mạc, làng xóm mình, thì ngoại trừ một vài trường hợp hãn hữu, những nhà tư bản Pháp đâu có dại nhảy vào tranh cướp. Ngay pháp luật của chế độ thực dân cũng không cho phép họ cái quyền phi lý kia.

Chỉ có dưới chế độ XHCN Việt Nam ngày nay mới nảy sinh ra một thứ luật, đúng hơn là một thứ quyền, rất lạ: quan chức nhà nước đứng đầu cả nước hay đứng đầu một vùng, mỗi khi nhìn thấy một mảnh đất, một bãi biển, một ngọn núi hay một đầm hồ nào đấy có vẻ ngon mắt, có khả năng sinh lời khi chuyển đổi mục đích kinh doanh, thì họ liền ngỏ lời với “đối tác” – có thể là các doanh nghiệp, nhóm lợi ích, thậm chí là đối tác nước ngoài – và nếu được đối tác tán đồng mua với giá cao để biến thành đất thổ cư, làm khu vui chơi giải trí, làng sinh thái hoặc khu chung cư…, là y như các vị quan lớn nhà ta tự cho mình cái quyền cắm cây cọc gọi là “quy hoạch” vào đấy rồi định một giá rẻ mạt bắt dân phải bán, cũng định ra một thời hạn để xuống lệnh đuổi dân đi. Nếu dân không chịu bán, không chịu đi thì lập tức cho đội quân chức năng – trong đó có cả tầng lớp lưu manh đầu gấu do chính quyền trực tiếp chiêu mộ – đến cưỡng chế bằng đủ mọi cách; cách thường dùng nhất là trấn áp, phá tan nhà cửa ruộng vườn trồng trọt của dân. Rất nhiều người dân tay lấm chân bùn đang yên đang lành bỗng nhiên một sớm tỉnh dậy thấy mình mất đi tất cả. Mất trắng. Họ trở thành dân oan, phải kéo nhau đội đơn đi kêu cứu hết nơi này nơi nọ suốt năm này tháng khác. Có người quá bức xúc kéo đến trụ sở chính quyền phản đối thì bị kẻ cầm luật trong tay “khởi tố”, như trường hợp người dân Sầm Sơn mất bãi biển hành nghề ngư nghiệp cha truyền con nối hàng nghìn năm, rộ lên từ hơn một tuần nay. Tình cảnh của họ đúng là tình cảnh lớp người tha hóa, nhưng tha hóa không phải do quy luật đào thải tự nhiên – mà do chính kẻ cầm cân nẩy mực đẩy họ đến bước đường cùng.

Mà đâu phải chỉ có nông thôn. Một thành phố như Hà Nội, có bao nhiêu chợ cổ truyền như chợ Hôm, chợ Hàng Da, chợ Bưởi, chợ Mơ, chợ Cửa Nam… cho đến hết thời Pháp vẫn để dân yên ổn buôn bán làm ăn, bởi họ biết người Việt vốn còn rất nghèo, tầng lớp tiểu thương đông đảo thường chỉ có một gánh hàng cỏn con ngày ngày tất tả mua từ ngoại ô đem vào phố bán, các loại chợ đó là nơi “hạ gánh” thuận tiện nhất của họ. Mà người mua cũng vậy, với túi tiền vốn không xông xênh gì mấy, các bà phụ nữ nội trợ thường mỗi sáng chỉ đạp xe vào chợ một chốc là ra về với mớ rau, con cá đèo trên giỏ là xong. Ấy thế mà người đứng đầu nhà nước hoặc đứng đầu Kinh đô đã để mắt đến không gian của những chợ cổ truyền nọ từ lâu. Họ chỉ cần ra một cái lệnh giải thể các chợ đó để xây “trung tâm thương mại”, thế là một sớm những chị tiểu thương bừng mắt dậy bỗng không còn đất ngồi bán hàng nữa. Họ phải long tong chạy xuôi chạy ngược khắp các phố phường Hà thành. Đâu có thể ngả gánh ra bán là họ ngả gánh ra. Rồi họ tụ tập nhau lại (phải tụ tập nhau đông đúc thì mới bán được hàng, tâm lý người bán và người mua xưa nay là thế). Và các chợ cóc cứ thế hình thành, chiếm hết vỉa hè của nhiều phố xá, làm cho Hà Nội ngày càng nhếch nhác bẩn thỉu hơn, trong khi diện tích các chợ cũ bán xong, tiền vào túi lãnh đạo rồi lại rơi vãi vào đâu không biết, nhưng các trung tâm thương mại hoành tráng xây lên thì chẳng ma nào thèm vào. Không có tiền để mua một chỗ ngồi bán đã đành, ngay người mua tìm cho được chỗ gửi xe để leo lên các tầng chỉ mua một mớ rau, vài ký gạo là điều quá chừng cực nhọc. Không ít trung tâm thương mại ở Hà Nội trở nên vắng teo. Ấy thế mà chẳng một ai trong các thế hệ ngồi trên đầu dân chịu rút kinh nghiệm, chợ này đuổi dân xong để bán cho nhà doanh nghiệp rồi chợ khác lại đuổi dân tiếp, càng lâu về sau thì đội quân lang thang trong hàng ngũ tiểu thương ngày một thêm đông đảo. Họ chưa đến nỗi là dân oan nhưng cũng mấp mé loại người một sớm phải đứng đường, lúc này lúc khác bị công an bố ráp giật hết các gánh hàng tấm quẳng lên xe đem về đồn…

Thử hỏi, cái việc làm hoàn toàn trái ngược với truyền thống nói trên đây, vừa thất nhân tâm, vừa đẩy dân chúng đến chỗ hết đường sinh sống, có thể gọi tên đúng là gì nhỉ? Xã hội chủ nghĩa chăng? Lấy dân làm gốc chăng? Không được. Đối với những người còn chút lương tri giải thích bằng những lời như thế là không đứng đắn. Đành phải tìm một từ chính xác để gọi cho đúng bản chất, dù rằng lâu nay chúng ta vẫn cố tránh, bởi không phải một ai cũng muốn đóng vai chú bé nói về vị Hoàng đế cởi truồng. Nhưng hiện tại đất nước đang hào hứng với khí thế “dân chủ đến thế là cùng” kia mà. Vậy thì đành xin thưa, chỉ có hai từ đơn giản thôi, hai từ hoàn toàn thích hợp với hành động không tiền khoáng hậu của các vị – ĂN CƯỚP. Và nếu nói như người xưa thì có thể thêm ĂN CƯỚP CÓ MÔN BÀI.

Cực chẳng đã phải gọi tên những việc làm vốn bị nhân loại ghét bỏ này, thực lòng chúng tôi không lấy gì làm thích thú. Nhưng nếu không nói thì chính mình lại tự đánh mất nhân cách, tự mình rơi vào tình thế nuốt nhục. Nói ra, dẫu có thể mang tiếng là lăng mạ những ai ai đó, thì đối với người còn tỉnh táo, mà chúng tôi tin rằng còn, sau khi đã trải qua cú sốc, hẳn sẽ có lúc giật mình về món “thuốc đắng” gửi gắm trong mấy lời thô thiển này. Và chỉ cần giật mình thôi cũng đủ là sự cảnh báo với mình để quyết tâm tìm cách “dã tật”, khi mà khuyết tật đang lồ lộ ra khắp nơi mọi chốn.

BVN

Thư bạn đọc

FB Sầm Sơn – Vẻ đẹp bất tận

Kính gửi: Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa cùng các công nhân viên cán bộ trong hệ thống chính quyền tỉnh.

Tôi là: Văn Thị Hương SN 1996
tại: Sầm Sơn-Thanh Hóa
hiện là sinh viên năm nhất Khoa Ngôn ngữ Anh Đại học Đông Đô.

Tôi gửi bức thư này đến Cổng thông tin điện tử của Tỉnh để kính mong cán ban ngành, các đồng chí lãnh đạo xem xét, giải quyết vấn đề quy hoạch bãi biển Sầm Sơn một cách sáng suốt, hợp lý, hợp tình nhất.

Tôi tin rằng, khi đã được ngồi vào các vị trí lãnh đạo ở cấp Tỉnh, hay bất kì cấp nào khác, các đồng chí đã hơn những người dân rất nhiều phương diện từ văn hóa, trình độ học vấn… cho đến công việc, địa vị xã hội. Tôi chắc rằng, các đồng chí cũng hiểu rất rõ về Sầm Sơn, bởi nó đang là mối quan tâm hàng đầu, nóng hổi và bức xúc nhiều ngày qua.

Người dân Sầm Sơn chúng tôi bao đời nay, từ cha ông cho đến thế hệ chúng tôi, tất cả đều nhờ biển mà sống, mà lớn lên, mà học hành, mà thành người. Biển cho chúng tôi cá ăn, cũng cung cấp cá cho các đồng chí và nhiều người khác. Biển cho chúng tôi được đến trường, được học hành, giúp hàng nghìn hộ chúng tôi có công ăn việc làm, xóa đói, giảm nghèo, đóng góp một phần cho Ngân sách Nhà nước. Điều đó tôi không nói, các đồng chí cũng hiểu rõ.

Du lịch Sầm Sơn khá phát triển song là du lịch mùa vụ, là ngành kinh tế mũi nhọn của địa phương song không giải quyết hết số lượng lao động thất nghiệp trong địa bàn thị xã, không xóa đói giảm nghèo cho tất cả các hộ dân. Du lịch phát triển mà không cho ngư dân kiếm sống, các đồng chí có thấy hố sâu ngăn cách nghèo giàu ngày càng lớn?

Nhìn về hệ thống tổ chức bộ máy chính quyền ở Tỉnh và địa phương Sầm Sơn, các đồng chí nghĩ gì khi mình đang ngồi ở vị trí lãnh đạo, khi đang đảm nhiệm những chức vụ công quyền? Khi mà gần đây nhất, ông Trịnh Huy Triều, nguyên là Chủ tịch UBND thị xã Sầm Sơn đã sai phạm hàng loạt trong dự án khu nghỉ dưỡng và Sân Gofl của Tập đoàn FLC cũng như việc xây dựng các ki-ốt kinh doanh du lịch ở địa bàn thị xã đang đương chức ở một vị trí cao hơn – Bí thư Thị ủy? Thân là lãnh đạo cấp cao hơn, các đồng chí tự vấn bản thân mình như thế nào? Trong khi đó, vụ việc về giải phóng mặt bằng ở TX Sầm Sơn đã bao lần người dân có đất bị thu hồi đã gửi đơn kiến nghị đến các đồng chí?

Giờ đây, các đồng chí bất chấp lời kêu van, ý kiến của nhân dân chúng tôi, phớt lờ trước sự an toàn đến thân thể, tính mạng của chúng tôi để quy hoạch bãi biển, các đồng chí thấy thế nào? Hiến pháp 1992 quy định “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”, xin hỏi, các đồng chí đã thực hiện đúng mực theo Hiến pháp nước ta chưa?

Ngư nghiệp là một nét đặc trưng văn hóa của Sầm Sơn. nhìn về khía cạnh khác, hàng trăm năm nay, họ bám biển, đấu tranh với thiên nhiên để bảo vệ con người. Thử hỏi, khi những cơn bão đến, các đồng chí có ai sẵn sàng xắn tay áo lên, đẩy tàu bè của dân vào bờ cùng họ, có ai bất kể mưa gió, tình nguyện dứt mình trong chăm ấm nệm êm với vợ với con cùng họ đấu tranh với thiên nhiên để bảo vệ tính mạng, bảo vệ tài sản chưa? Hay tất cả chỉ là mím môi thực hiện chỉ đạo suông ở trên? Các đồng chí có thấy hổ thẹn với nhân dân vì không thể cùng họ những thời khắc một mất một còn như thế?

Tôi đồng ý rằng, quy hoạch và xây dựng bờ biển nó làm thay đổi căn bản bộ mặt của thị xã, song, bộ mặt của nhân dân trong thị xã sẽ như thế nào? Có chăng cũng là thay đổi, nhưng là thay đổi tương đồng với bộ mặt thị xã, hay là các tệ nạn, thất nghiệp, thất học, mù chữ?

Tôi thử hỏi, 100 triệu các đồng chí bồi thường cho mỗi hộ dân, họ làm gì khi nguồn thực phẩm chính của họ bị mất, đất đai ruộng vườn không còn, khu công nghiệp không có, giá đất tăng vọt, lạm phát tăng, tệ tham nhũng chưa hết? Thử hỏi, các đồng chí lương bổng một tháng bao nhiêu, hay các đồng chí làm những gì mà đi xe ô tô đắt tiền hạng sang, nhà tầng vài ba khu, bữa ăn hàng triệu đồng không sót? Nếu các đồng chí có cách làm ăn gì khấm khá đến thế, sao không chỉ cho dân để cùng làm giàu?

Dân chúng tôi ít học, không hiểu rõ luật pháp, song vẫn biết cái gì là nên, cái gì không được làm. Thử hỏi, các đồng chí có bao giờ quan tâm đến trình độ học thức của từng người dân, tuyên truyền và phổ biến cho họ biết về Hiến pháp và pháp luật nước ta, chủ trương, đường lối của Đảng để từ đó họ biết mà thực hiện? Lấy ví dụ thực tế trong chính bản thân các đồng chí, [nếu dân chài] không chỉ cho các đồng chí cách kéo lưới sao cho đúng, cho an toàn, các đồng chí có làm được không?

Giờ dân chúng tôi đang kêu khóc ngoài cổng trụ sở các đồng chí làm việc, người ở nhà thì bị đánh bị thương nặng, các đồng chí làm gì trước tình hình đó? Chúng tôi bầu các đồng chí lên làm lãnh đạo, không phải chỉ để các đồng chí giải quyết trên bàn giấy, trên lý thuyết mà là để các đồng chí nhìn về thực tế đời sống của người dân chúng tôi mà làm việc. Chúng tôi đánh bắt cá trên biển kiếm sống, phục vụ hàng triệu lượt khách du lịch, thế thì chúng tôi neo đậu tàu thuyền là mất mĩ quan đô thị, là sai trái sao? Như cái xe ô tô của các đồng chí đang đi, các đồng chí có muốn gửi nó ở một nơi cách xa nhà đồng chí 10km khi mà từ nhà đến trụ sở chỉ cách 1km? các đồng chí thử trưng cầu ý dân xem, hình ảnh người ngư dân kéo lưới dưới ánh bình minh đẹp hơn hay là hình ảnh một con đường nhựa trơn nhẵn?

Dọc nhiều tuyến phố tại TP Thanh Hóa, hàng nghìn người dân kêu khóc, từ người lớn đến trẻ nhỏ, người đáng tuổi cha, mẹ các đồng chí, kẻ đáng tuổi con, tuổi cháu các đồng chí, có nhà không thể về, mưa nắng dãi dầu vẫn ở đó đợi chờ sự đồng ý của các đồng chí, các đồng chí có động lòng mảy may? Tôi chắc là không đâu, bởi các đồng chí còn thực hiện cả một kế hoạch khởi tố chúng tôi vì tội “gây rối trật tự công cộng” cơ mà. Thực sự chúng tôi không thể hiểu các đồng chí nghĩ gì khi dân khóc than, nằm vạ vật dọc đường, đấu tranh, biểu tình vì cuộc sống của hàng nghìn người, ấy thế mà, các đồng chí, người ngồi nhà cao chỉ tay năm ngón, kẻ đứng quay phim lấy bằng chứng kiện dân? Các đồng chí sinh ra từ dân, hoạt động cho nhân dân, sống nhờ đồng tiền của nhân dân, các đồng chí không thấy hổ thẹn với chính mình, với nhân dân, với Đảng, với Bác, với các thế hệ cha anh đã hi sinh để cho các đồng chí cuộc sống yên bình như ngày nay sao?

Các đồng trả lời báo giới rằng là vì dân chúng tôi sao? Vì dân chúng tôi mà tính mạng của chúng tôi đang bị đe dọa, cuộc sống bình yên no đủ của chúng tôi đang đứng trước nguy cơ mất đi, là do lời nói của các đồng chí, thế là vì chúng tôi sao? Các đồng chí nói rằng đang tìm ra biện pháp tốt nhất sao? Hàng trăm người, với hàng trăm cái đầu hơn cả hàng chục nghìn cái đầu của dân đen chúng tôi mà vẫn chưa tìm được sao? Để tôi cho các đồng chí một biện pháp thiết thực nhất nhé; các đồng chí có thể quy hoạch tất cả tàu bè lại một điểm đỗ trên tổng số 3,5km bờ biển đó, xây dựng thành một bến đỗ có quy mô, tổ chức và quy định, phát triển điểm đỗ đó thành một trong những điểm tham quan của du khách, chẳng phải là vẹn cả đôi đường sao?

Tôi hy vọng rằng, các đồng chí sẽ tự vấn bản thân mình từ những việc đã qua, tôn trọng ý kiến của dân và đưa ra quyết định đúng đắn nhất.

Tôi xin cảm ơn!

[Văn Thị Hương]

Nguồn:https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=767249210042033&id=443076695792621

Nếu muốn con lớn lên là CEO không phải tử tù, các bà mẹ hãy đọc hai bức thư này…

Nếu muốn con lớn lên là CEO không phải tử tù, các bà mẹ hãy đọc hai bức thư này…

Sự khác biệt giữa hai bức thư, hay nói rõ hơn là hai cuộc đời khiến chúng ta phải suy ngẫm lại về cách giáo dục con cái. 

Người xưa vẫn thường nói “sai một ly, đi một dặm”, giáo dục con cái không đúng cách, có thể khiến cuộc đời của con trôi xa và không cách nào quay đầu lại được nữa…
Dưới đây là bức thư của tử tù viết cho mẹ:

Thưa Mẹ!

Con của mẹ ngày mai là phải ra pháp trường rồi. Con cũng không biết tại sao mình lại đi đến bước đường cùng như thế này, hiện tại con chỉ thấy mọi ký ức như đang trở về và hiển hiện trước mắt con…

Khi con được 3 tuổi, con chạy rất nhanh, vấp phải hòn đá và té ngã. Mẹ đã chạy đến và đỡ con đứng dậy. Mẹ vừa dỗ dành con không khóc vừa mắng hòn đá: “Sao mày lại làm con tao khóc, để mẹ đánh cho hòn đá một trận“. Con đang cố chịu đau để cầm nước mắt, nhưng nghe xong câu nói của mẹ, con đã khóc trong lòng mẹ rất lâu mới chịu nín. Mẹ đã cho con biết rằng, lý do con ngã là do hòn đá, nhưng con lại không hiểu rằng, mẹ chỉ muốn dỗ dành cho con không khóc nữa.

Khi con được 4 tuổi, do con muốn xem tivi nên không muốn ăn cơm tối. Mẹ đã ân cần mang cơm đến và bón cho con ăn. Mẹ đã dạy cho con biết cách tận hưởng cuộc sống, nhưng con lại không hiểu rằng, mẹ sợ con làm vãi cơm làm bẩn quần áo, rồi tự mẹ lại phải đi giặt.

Khi con được 6 tuổi, mẹ đưa con đến trung tâm mua sắm để mua quà giáng sinh, mẹ đã nói với con là chỉ được mua một thứ đồ chơi. Nhưng khi con được mua “người sắt biến hình” con lại muốn mua máy bay. Khi mẹ không đồng ý, con đã nằm xuống đất và khóc cho đến khi mẹ chịu mua cho con mới thôi. Mẹ đã cho con biết dùng chiêu này là con có thể đòi được đồ mà mình yêu thích, nhưng con không biết rằng, mẹ mua cho con, chỉ vì không muốn mất mặt chỗ đông người.

Khi con được 8 tuổi, con muốn tự mình giặt tất, mẹ đã sợ con giặt không sạch, con muốn rửa bát, mẹ đã sợ con làm vỡ, con muốn tự mình xới cơm, mẹ đã sợ con bị bỏng. Mẹ đã cho con thấy, trong cuộc sống này, hóa ra có rất nhiều khó khăn và nguy hiểm mà con không thể đối diện. Nhưng con đã không hiểu rằng, mẹ chỉ không muốn mất công thu dọn và làm các việc do con có thể sơ ý gây ra.

Khi con được 10 tuổi, mẹ đã đăng ký cho con 3 lớp phụ đạo văn hóa, và 2 lớp học năng khiếu. Khi con cảm thấy mệt mỏi đến mức không chịu nổi, mẹ đã nói: “Nếu con không chịu được khổ thì làm sao thành người tài giỏi được“. Mẹ đã cho con biết rằng, học tập là việc rất cực khổ, nhưng con không hiểu rằng, mẹ chỉ muốn con sẽ có ngày thành đạt để có thể mở mày mở mặt trước mọi người.

Khi con được 13 tuổi, con đá bóng, do sơ ý đã làm vỡ của kính của nhà hàng xóm, mẹ đã dùng tiền để bồi thường và dắt con đi xin lỗi họ. Mẹ đã cho con biết rằng, khi gây ra chuyện chỉ cần nói “xin lỗi” là xong, nhưng con đã không biết, mẹ đang oán trách nhà hàng xóm đã đòi mình bồi thường quá nhiều tiền.

Khi con được 15 tuổi, con đòi chơi đàn piano, mẹ đã vay tiền để mua cho con một chiếc đàn. Nhưng chỉ sau một tháng, con đã không còn động đến nó nữa, mẹ đã cho con thấy, hóa ra không có tiền cũng có thể tùy ý sở hữu những đồ mà mình thích. Nhưng con đã không biết rằng, mẹ đã phải vất vả làm việc 3 năm mới trả được hết nợ.

Năm 19 tuổi, con chuẩn bị thi vào đại học, mẹ nói rằng, làm luật sư không những có nhiều tiền mà còn có địa vị trong xã hội, và nhất định muốn con học ngành luật. Mẹ đã cho con thấy rằng, chỉ cần con đi theo những gì mẹ sắp đặt là được. Nhưng con không biết rằng, mẹ chỉ muốn thông qua con để thực hiện giấc mơ mà trước đây mẹ đã không làm được.

Năm con 20 tuổi, con muốn thay điện thoại mới, với lý do có thể liên lạc với mẹ thường xuyên hơn. Mẹ đã không cần cân nhắc nhiều và chuyển ngay cho con 10 triệu đồng. Nhưng con chỉ dùng điện thoại để liên lạc với bạn gái, trong vòng 1 năm con chỉ gọi cho mẹ có mấy lần. Mẹ đã cho con thấy rằng, mẹ là một ngân hàng miễn phí mà con có thể lấy bất cứ lúc nào. Nhưng con đã không biết rằng, mẹ đã nhiều lần chờ đợi con gọi điện để chúc mừng trong ngày sinh nhật mẹ.

Năm con 24 tuổi, sau khi con tốt nghiệp đại học, mẹ đã dùng tiền để con được vào làm tại đơn vị hành chính sự nghiệp. Mẹ đã cho con thấy, 4 năm đại học chơi bời, khi ra trường vẫn có thể có được một công việc ổn định. Nhưng con đã không biết rằng, vì con mà mẹ đã phải đi cầu cạnh biết bao người.

Năm con 27 tuổi, quan hệ của con với các bạn gái đều không được lâu dài, các cô gái đều nói con là người không có trách nhiệm, vẫn là một cậu bé chưa trưởng thành. Mẹ đã nói rằng, do duyên chưa đến, các cô gái đó đều không xứng với con. Mẹ đã cho con thấy rằng, những cô gái không lấy được con là do họ kém phúc phận. Nhưng con đã không biết rằng, mẹ đã vì con mà đi rất nhiều nơi để dò hỏi cho con người ưng ý.

Năm con 32 tuổi, do con đánh bạc thua, và nợ rất nhiều tiền, mẹ đã rất tức giận đến mức sinh bệnh, nhưng cuối cùng thì mẹ cũng trả hết nợ cho con. Mẹ đã cho con thấy, cho dù con có gây ra tội tình gì đi nữa, thì mẹ cũng đều giúp con gánh vác trách nhiệm. Nhưng con đã không biết rằng, mẹ đã vì con mà tiêu hết đi khoản tiền mẹ dành dụm cho tuổi già của mình.

Năm con 35 tuổi, khi con biết mẹ đã không còn đồng nào trong người, con đã đi cướp của giết người. Khi con nghe thấy họ tuyên án tử hình, mẹ đã khóc và trách ông trời không công bằng, vất vả cả đời vì con, vậy mà cuối cùng lại ra nông nỗi này. Cuối cùng con đã biết, mẹ đã vì yêu con mà hết lần này đến lần khác cướp đoạt đi cơ hội trưởng thành của con, hết lần này đến lần khác bóp chết đi năng lực sinh tồn của con, lấy đi trách nhiệm đối với cuộc đời của chính con. Hóa ra cho đến lúc cận kề cái chết, con vẫn chưa trưởng thành. Mẹ đã dùng phương pháp sai lầm và vất vả cả đời vì con cái, để đổi lấy sự đau khổ cho cả 2 thế hệ. Hóa ra giáo dục con cái không có cơ hội để lặp lại lần thứ 2, hóa ra, mẹ đã tự tay đưa con lên đoạn đầu đài… Mẹ hãy bảo trọng! Ngày mai con phải đi rồi. Hy vọng ở một thế giới khác, con có thể học được cách có trách nhiệm với chính mình, tự mình tìm được hạnh phúc cho chính mình…

TU TU VA CEO

 Dưới đây là bức thư, một CEO viết cho mẹ:

Thưa Mẹ!

Con của mẹ ngày mai sẽ khởi công xây dựng một công xưởng mới. Để con có được thành công như ngày hôm nay, đều là do công dạy dỗ của mẹ. Bỗng nhiên mọi ký ức như đang trở về hiển hiện trước mắt con…

Khi con được 3 tuổi, con chạy rất nhanh, vấp phải hòn đá và té ngã. Mẹ đã để con tự đứng dậy và nói: “Lần sau cần phải cẩn thận hơn“. Mẹ đã dạy cho con biết phải tự chịu trách nhiệm trước hành động của mình.

Khi con được 4 tuổi, do con muốn xem tivi nên không muốn ăn cơm tối. Mẹ đã nói, nếu không ăn thì phải chịu đói cho đến ngày hôm sau, con đã đồng ý, và nghĩ rằng mẹ chỉ nói vậy thôi. Nào ngờ, đến buổi tối con lục tìm đồ ăn… ngay cả một hạt cơm cũng không còn trong nồi. Mẹ đã dạy cho con biết, phải tự chịu trách nhiệm với sự bướng bỉnh của mình.

Khi con được 6 tuổi, mẹ đưa con đến trung tâm mua sắm để mua quà giáng sinh, mẹ đã nói với con chỉ được mua một thứ đồ chơi. Nhưng khi con được mua “người sắt biến hình” con lại muốn mua máy bay. Khi mẹ không đồng ý, con đã nằm xuống đất và khóc, nào ngờ mẹ quay lưng bước đi để mặc con ở đó. Khi đó con chỉ biết đứng dậy, vừa lau nước mắt vừa chạy theo mẹ. Mẹ đã dạy cho con biết phải tự chịu trách nhiệm trước sự lựa chọn của bản thân.

Khi con được 8 tuổi, con muốn tự mình giặt tất, mẹ đã dạy con làm thế nào để giặt cho sạch, con muốn rửa bát, mẹ đã dạy con phải cẩn thận để bát không bị vỡ, con muốn tự mình xới cơm, mẹ đã dạy con xới cơm cẩn thận để không bị bỏng. Mẹ đã dạy cho con biết phải có trách nhiệm với cuộc sống của mình.

Khi con được 10 tuổi, mẹ thấy các buổi học thêm của con kín mít, mẹ nói rằng : “Đến lớp hãy cố gắng học, khi nghỉ hãy chơi cho thỏa thích, nếu còn thời gian thì đọc thêm sách vở, thì con sẽ không sợ thua kém ai cả“. Mẹ đã dạy cho con biết phải tự chịu trách nhiệm trước sở thích của mình.

Khi con được 13 tuổi, con đá bóng, do sơ ý đã làm vỡ của kính của nhà hàng xóm. Mẹ đã đưa con đến cửa hàng để mua kính, sơn và đinh, sau đó mẹ đã bảo con giúp mẹ cùng lắp lại cửa kính cho họ. Sau đó còn trừ tiền tiêu vặt của con vào tháng sau. Mẹ đã dạy cho con biết phải tự chịu trách nhiệm trước những sai lầm của bản thân.

Khi con được 15 tuổi, con đòi chơi đàn piano, mẹ đã mua cho con kèn ác-mô-ni-ca. Mẹ nói với con rằng: “Thổi được kèn ác-mô-ni-ca đi đã rồi hãy nói đến chuyện mua đàn piano“. Con đã thổi kèn ác-mô-ni-ca cho đến bây giờ, còn nguyện vọng muốn chơi đàn piano, con đã quên từ lúc nào không biết. Mẹ đã dạy cho con biết phải kiên trì và có trách nhiệm với chính kiến của mình. Năm con 19 tuổi, con chuẩn bị thi vào đại học, mẹ đã giúp cùng con phân tích những chuyên nghành mà con yêu thích, và để cho con tự quyết định chuyên nghành mà mình muốn theo đuổi. Mẹ đã dạy cho con biết phải tự chịu trách nhiệm cho tương lai của bản thân.

Năm con 20 tuổi, con muốn thay điện thoại mới, mẹ nói rằng điện thoại cũ chưa hỏng thì không được đổi. Nếu như con nhất định muốn đổi thì tự đi làm ngoài giờ học lấy tiền mà tự mua. Khi con kiếm đủ tiền để mua điện thoại mới nhờ đi dạy thêm, cái cảm giác vui sướng khi thành công đó vượt xa hơn hẳn giá trị của một chiếc điện thoại mới.

Năm con 24 tuổi, sau khi con tốt nghiệp đại học con đã muốn tự gây dựng sự nghiệp. Mẹ đã khuyên con không nên nóng vội, mà hãy bắt đầu làm những việc mà con yêu thích, khi có kinh nghiệm rồi hãy tính. Hai năm sau, con quyết định mở công ty, mẹ nói, nếu như con có thể chấp nhận một kết quả tồi tệ nhất, thì hãy mạnh dạn và đặt tâm vào mà làm. Mẹ đã cho con vay 300 triệu đồng, và yêu cầu con 4 năm sau phải trả. Con đã vỗ ngực và nói, con không những trả tiền cho mẹ, mà còn tặng mẹ một căn hộ nữa. Mẹ đã dạy con biết có trách nhiệm với sự nghiệp của chính mình.

Năm con 27 tuổi, con đã đưa một cô gái thông minh và xinh đẹp về nhà, đó là lần đầu tiên mẹ khen ngợi con trước mặt cô ấy. Mẹ còn nói, chuyện vợ chồng là tự con quyết định, chỉ cần chúng con thành tâm thành ý thì mẹ đã rất hạnh phúc rồi. Mẹ đã dạy cho con biết phải tự có trách nhiệm với hạnh phúc của bản thân.

Năm con 32 tuổi, con đã đưa chìa khóa của một căn hộ mà con mua để tặng mẹ, khi tay mẹ cầm chìa khóa và lập tức quay lưng ra sau. Nhìn thấy đôi vai mẹ khẽ rung rung, con biết rằng mắt mẹ đang nhòa đi vì hạnh phúc. Mẹ đã dạy cho còn biết phải có trách nhiệm với lời hứa của mình.

Năm con 35 tuổi, công ty của con không ngừng mở rộng, và phải xây dựng nhà máy mới, những người thường trách cứ mẹ nhẫn tâm, nay đã không còn gì để nói. Con vẫn thường dạy cho con của con biết phải có trách nhiệm với bản thân mình, giống như mẹ đã từng dạy con khi xưa. Con hy vọng rằng chúng sẽ làm được những điều còn to lớn hơn nữa.

Con yêu của mẹ!

Theo NTDTV

Luồng gió mới có lay động bức tường công lý?

Luồng gió mới có lay động bức tường công lý?

Xuân Dương

(GDVN) – Tại sao bắt giam người dân vô tội thì rất nhanh, bắt giam cán bộ có tội lại rất chậm?

“Người tù thế kỷ” Huỳnh Văn Nén bị bắt vào tháng 5/1998, ngày 28/11/2015, cơ quan điều tra Công an tỉnh Bình Thuận trao quyết định đình chỉ điều tra bị can đối với ông Huỳnh Văn Nén, chấm dứt 17 năm 5 tháng ngồi tù oan của ông.

Huỳnh Văn Nén là người duy nhất tại Việt Nam 2 lần bị kết án oan trong hai vụ án giết người.

Ngày 18/1/2016 Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã có văn bản xác nhận thụ lý đơn khiếu nại tố cáo của ông Nén.

Ngày 3/3/2016, ông Nén đó có buổi làm việc với cơ quan chức năng bổ sung tố cáo 14 người liên quan đến hai vụ án oan mà ông là nạn nhân.

Trong “Đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự – Đơn tố giác tội phạm” gửi Cục Điều tra hình sự Viện Kiểm sát nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, ông Nén viết:

Những người này đã lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình, sử dụng những biện pháp bất minh để buộc tội và kết án tôi và gia đình tôi.

Họ đã dựa trên những tài liệu lời khai giả mạo, gian dối hoặc có được từ việc bức cung nhục hình đối với tôi và những người thân trong gia đình tôi”[1].

Có những câu hỏi khiến bất kỳ người có lương tri nào cũng phải đặt ra là tại sao các cơ quan tố tụng hình sự không tự khởi tố điều tra những kẻ đã gây nên oan sai cho người vô tội mà phải chờ tố cáo, vì sao khi đã có đơn tố cáo mà sự việc vẫn chưa có kết luận cụ thể.

Điều tra những kẻ cố ý bỏ tù công dân vô tội trong hai vụ án oan Huỳnh Văn Nén có khó không?

Câu trả lời là không hề khó bởi những người này có họ tên, địa chỉ, chức vụ rõ ràng, họ đang sống tại Việt Nam, thậm chí một số trong đó đang đảm nhận những chức vụ trong các cơ quan bảo vệ pháp luật.

Thu thập chứng cứ để chứng minh hành động tội phạm của những người đó có khó không?

Câu trả lời là quá dễ vì ông Huỳnh Văn Nén đã được minh oan, đã được xin lỗi thì đương nhiên những kẻ cố tình đưa ông vào vòng lao lý phải có tội, họ đã vi phạm pháp luật một cách hết sức nghiêm trọng.

Một khi điều tra không khó, thu thập chứng cứ không khó thì vì sao vẫn còn phải chờ? Có gì uẩn khúc trong việc này? Tại sao bắt giam người dân vô tội thì rất nhanh, bắt giam cán bộ có tội lại rất chậm?

Trong một phiên tòa, tù nhân Huỳnh Văn Nén đã cởi áo quay lưng về phía Hội đồng xét xử để chỉ những vết sẹo do ông bị đánh trong tù.

Những con người đại diện cho pháp luật trong phiên tòa đó phải chăng có khối óc nhưng thiếu lý trí, có trái tim nhưng ít xúc động.

clip_image001
Ông Huỳnh Văn Nén cởi áo, chỉ những vết sẹo mà ông nói là do bị đánh khi ở trong tù. (Ảnh: Laodong.com.vn)

Nói theo ngôn ngữ đời thường, đó là những con người vô cảm thực sự nhưng lại giả câm, giả điếc, giả mù trước nỗi đau đồng loại.

Cùng với vụ án oan Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang), Vũ Ngọc Dương (Hà Nội),… Công lý không phải chỉ một lần bị bịt mắt.

Liệu rồi đây Công lý có một lần nữa bị bịt mắt khi xét xử tội trạng của những kẻ phạm tội hiện vẫn còn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật?

Liệu vụ án Huỳnh Văn Nén có lặp lại với vụ án Nguyễn Thị Bạch Tuyết mà công luận đã nhiều lần lên tiếng?

Các bài báo với những chứng cứ cụ thể cho thấy cơ quan tố tụng đã rất “dễ dãi” khi ra lệnh bắt giam công dân, thời hạn tam giam kéo dài đã hơn 800 ngày.

Tòa án nhiều lần trả hồ sơ vì chưa đủ chứng cứ buộc tội nhưng công dân vẫn bị giam vì Viện Kiểm sát nhân dân TP Hồ Chí Minh vẫn “cố thủ”, vẫn “kiên quyết” buộc tội?

Thậm chí ngay cả Viện trưởng VKSTC cũng đã chỉ ra “hàng loạt những điểm chưa được làm rõ” nhưng VKS TP HCM vẫn cứ phớt lờ, vẫn buộc tội bằng những căn cứ đã bị bác bỏ…

Hơn 800 ngày đưa đẩy giữa tòa án và điều tra, kiểm sát mà chưa thể kết luận, chưa thể xét xử, luật pháp không nghiêm hay tâm đức của người cầm cân nảy mực có vấn đề?

Liệu có chuyện có ai đó cố tình bẻ cong công lý, đứng trên pháp luật?

Chỉ có Tòa án mới có quyền quyết định bị cáo Nguyễn Thị Bạch Tuyết có tội hay vô tội, vì sao Tòa án nhân dân TP HCM không dám xét xử dựa vào những gì mà bên Điều tra và Kiểm sát cung cấp, sợ oan sai cho công dân, sợ trách nhiệm hay sợ “nhóm lợi ích”?

Không cần hiểu biết nhiều về pháp luật cũng có thể thấy, một khi buộc phải thả người bị bắt giam oan thì tiếp theo đó là phải xin lỗi, phải đền bù oan sai… và đương nhiên uy tín, địa vị của cá nhân, tổ chức gây oan sai sẽ bị ảnh hưởng. Có phải vì thế nên người ta sẵn sàng vứt bỏ lương tâm, trách nhiệm để bảo vệ bản thân và “nhóm thân hữu” của mình?

Trở lại vụ án Huỳnh Văn Nén, có hay không sự tác động nào đó để “câu giờ” dựa vào quy định tại điều 27 Luật Hình sự 2015 “Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự”, theo đó:

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự” là: a) 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; b) 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng; c) 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng; d) 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện”.

Những người tham gia tố tụng vụ ông Nén đã vi phạm điều 10 Bộ Luật Hình sự 2015 “Cố ý phạm tội” bởi vì:

1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;

2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra”.

Vấn đề là hành vi phạm tội của họ thuộc loại tội phạm nào?

Nếu xác định là “tội phạm rất nghiêm trọng” thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 15 năm và đương nhiên sau hơn 17 năm họ sẽ được miễn truy cứu.

Tuy nhiên, căn cứ vào khoản 4 điều 9 Bộ Luật hình sự 2015 thì: “Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”.

Tội trạng những người gây ra cho ông Nén đã khiến dư luận xã hội phẫn nộ, khiến ngân sách phải bồi thường một khoản tiền lớn, khiến công dân bị kết án tù chung thân và quan trọng hơn là đã khiến người dân mất niềm tin vào hệ thống tư pháp quốc gia, tội đó  phải thuộc loại đặc biệt nghiêm trọng nghĩa là thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 20 năm.

Đài Tiếng nói Việt Nam ngày 5/3/2016 đưa tin: “Ngày 4/3, nguồn tin riêng cho biết TAND tỉnh Bình Thuận vừa có cuộc họp kiểm điểm đối với hai thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân trong HĐXX sơ thẩm xử vụ hủy hoại tài sản, giết người, cướp tài sản đối với ông Huỳnh Văn Nén vào ngày 31/8/2000 (vụ bà Lê Thị Bông bị sát hại).

TAND tỉnh Bình Thuận đã thống nhất áp dụng hình thức phê bình, rút kinh nghiệm đối với HĐXX sơ thẩm kết án oan ông Nén và gửi văn bản về TAND Tối cao để báo cáo”[2].

Phê bình, rút kinh nghiệm với những người xử án (Hội đồng xét xử) là chuyện riêng của Tòa án nhân dân Bình Thuận.

Hình thức “phê bình, rút kinh nghiệm” vốn là “truyền thống” tồn tại trong các cơ quan công quyền, các tổ chức đoàn thể xã hội từ xưa đến nay đã góp phần vào việc “động viên, cổ vũ” một bộ phận không nhỏ người có trách nhiệm “yên tâm công tác”.

Chỉ có điều với người dân như Nguyễn Thanh Chấn, Huỳnh Văn Nén,… thì ai cho họ quyền được tự phê bình, rút kinh nghiệm hay cứ yên tâm ngồi tù?

Sau Tòa án, liệu Cơ quan điều tra và Kiểm sát có họp, có thống nhất áp dụng hình thức phê bình, rút kinh nghiệm như Tòa án với các đối tượng liên quan đến vụ án?

Hình như luồng gió mới từ chủ trương Đổi mới sau Đại hội Đảng 12 vẫn còn một quãng đường khá dài để thổi tới bức tường công lý?

Hy vọng những người chịu trách nhiệm với lá đơn tố cáo của ông Nén sẽ sớm có câu trả lời khách quan, trung thực, thượng tôn pháp luật với ông Nén và trước công luận.

X. D.

Tài liệu tham khảo:

[1] http://laodong.com.vn/su…/danh-sach-den-cua-huynh-van-nen-524633.bld

[2] http://vov.vn/vu-an/hdxx-lam-oan-ong-huynh-van-nen-chi-bi-phe-binh-rut-kinh-nghiem-485739.vov

Nguồn: http://giaoduc.net.vn/Goc-nhin/Luong-gio-moi-co-lay-dong-buc-tuong-cong-ly-post166187.gd

Xã hội dân chủ và bầu cử

Xã hội dân chủ và bầu cử

Kính Hòa, phóng viên RFA

000_Hkg10118130

Cư dân địa phương và khách du lịch nước ngoài tại một quán ăn vỉa hè khu phố cổ Hà Nội ngày 13 tháng 11 năm 2014.

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

Sau đây là phần thời gian dành cho Tạp chí điểm blog do Kính Hòa thực hiện. Phần trích lời trực tiếp của các blogger được thực hiện qua giọng đọc của các anh chị em ban Việt ngữ đài Á châu tự do.

Tập dân chủ

Du lịch thì có liên quan gì đến một xã hội dân chủ?

Nhà văn Phạm Thị Hoài cho rằng những tệ hại của nền du lịch Việt Nam hiện nay không nằm ngoài sự tệ hại của một xã hội Việt Nam:

Tôi không thấy nạn lừa gạt chặt chém du khách ở Việt Nam là cái gì quá khác thường. Người Việt lừa gạt chặt chém mọi lúc mọi nơi và trong mọi lĩnh vực, cớ sao ngành du lịch phải làm một ngoại lệ? Chính quyền thì tham nhũng và kém hiệu quả, dân chúng thì lầm than và mông muội, luật pháp thì bát nháo, luân lý thì chao đảo, văn hóa thì nhộn nhạo, ngôn ngữ thì thô bỉ phũ phàng, con người thì hành hạ nhau và là nạn nhân lý tưởng của nhau, thời của nước đục thả câu, một đất nước như thế ắt phải có một ngành du lịch như thế.

Nhà văn cho rằng người Việt Nam cũng như bao dân tộc khác, cũng mơ ước làm giàu, nhưng người Việt lại đang ở trong một giai đoạn, một hoàn cảnh đặc biệt:

Song giấc mơ Việt hoang đường hơn những giấc mơ ở nơi khác. Xuất phát từ một số không tròn hơn số không thông thường, hành trình từ không đến có của chúng ta nhuộm màu siêu thực. Là người đến muộn, chúng ta phải chạy nước rút. Phải cuống cuồng mọc cho bằng hết những ung nhọt của du lịch đại chúng khắp thế giới, cho đến khi cơ thể không còn chỗ nào lành. Như chúng ta đã học khóa cấp tốc về chủ nghĩa tư bản, để sống bản tóm tắt kinh dị của nó cho đến khi có lịch lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta không muốn, không thể và không biết đợi, trong khi tất cả những gì tốt lành bền vững đều cần rất nhiều thời gian.

“ Dân chủ có thể đến với dân tộc ta chậm, nhưng chúng ta phải đi đúng đường, sợ nhất là đi lạc đường, rồi lạc lõng trước loài người.
– Nhà báo Lê Phú Khải”

Sự chờ đợi đó được nhà báo Lê Phú Khải gọi là Tập dân chủ trong bài viết của ông trên trang Bauxite Việt Nam. Trong giai đoạn Tập dân chủ đó, trách nhiệm cần có từ hai phía, những người cộng sản đang cầm quyền và dân chúng:

Con đường “tập dân chủ” của Việt Nam là con đường đúng đắn nhất. Tốt đẹp và vinh quang cho cả Đảng cầm quyền và dân tộc. Không súng đạn, xe tăng, đại bác, quân đội, công an nào chống lại được xu thế dân chủ của thời đại, của lịch sử. Dân chủ có thể đến với dân tộc ta chậm, nhưng chúng ta phải đi đúng đường, sợ nhất là đi lạc đường, rồi lạc lõng trước loài người.

Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Từ Huy, thì trong tình trạng nước Việt Nam ngày nay, những áp lực từ phía dưới lên, từ phía dân chúng là quan trọng nhất trong thời gian Tập dân chủ đó:

Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất tác động tới sự chuyển động của cơ chế chính trị để dẫn tới các cải cách căn bản, đó là : áp lực từ bên dưới của dân chúng, áp lực đòi cải cách của xã hội. Từ « xã hội » ở đây có nghĩa là : các cá nhân trong xã hội, nghĩa là tất cả mọi người. Nếu thiếu áp lực này, hoặc nếu áp lực này không đủ mạnh, thì bộ máy lãnh đạo hiện tại (vốn đã quá trì trệ, quá ì ạch, quá tham nhũng, với hệ hình tư duy lạc hậu, đồng thời lại quá tự mãn về những thắng lợi trong quá khứ, mất cảnh giác, thiếu khả năng đối diện với thực tế, với sự thật) sẽ không có đủ động lực để cải cách. Nếu mỗi người (cũng có nghĩa là mọi người) còn có lý do để chấp nhận cơ chế chính trị này, thì nó vẫn sẽ tồn tại, và đảng sẽ không có nhu cầu cải cách.

Ứng cử và bầu cử

Chuyện Tập dân chủ từ phía người dân đang rất sôi động trong mùa xuân năm nay với phong trào tự ứng cử vào Quốc hội mới.

Các ứng viên độc lập không thuộc đảng cộng sản đang đứng trước nhiều thách thức rất lớn từ phía những người cầm quyền. Câu chuyện nổi bật nhất trong tuần là một nghệ sĩ hài tự ứng cử vào Quốc hội bị một tờ báo của nhà nước chỉ trích, và nhân đó chỉ trích tất cả những người dám ra tự ứng cử mà không cần sự giới thiệu của đảng cộng sản.

Trong khi đó thì trong một lần trao đổi với chúng tôi, ông Vũ Ngọc Hoàng, Phó ban tuyên giáo trung ương đảng cộng sản cho rằng việc các công dân ra ứng cử độc lập là một điều tốt.

Phân tích những chỉ trích đối với người nghệ sĩ hài, blogger Nguyễn Anh Tuấn cho rằng điều đó không phải đến từ một chủ trương tấn công người nghệ sĩ, mà đến từ những nhà báo cơ hội đã quen với không khí không lành mạnh của một xã hội toàn trị, và anh kêu gọi đảng cộng sản nên đưa những kẻ cơ hội này ra ánh sáng:

“ Họ muốn tạo ra một sân chơi tranh luận tại Quốc Hội với hy vọng thức tỉnh những cái đầu đã bị mê ngủ bấy lâu nay với cái tự sướng mà không dám nhìn rõ sự thật của đất nước này.
– Tác giả Vũ Hoàng Anh”

Ở những nước mà vai trò giáo điều ý thức hệ vẫn còn nặng nề như Việt Nam, nhưng kẻ hồng vệ binh nhất, bảo thủ cùng cực nhất lại chính là những kẻ CƠ HỘI NHẤT, vì lẽ ở vị trí bảo thủ đó, họ luôn luôn được an toàn và mặc sức phán xét bất kì động thái hoặc con người đổi mới nào bằng những cái mũ “thiếu kiên định”, “thiếu bản lĩnh”, “chệch hướng”…

Bởi vậy trong tư cách một đảng chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam một khi đã đưa ra thông điệp “đổi mới chính trị gắn liền với đổi mới kinh tế” thì cần chỉ ra kẻ thù lớn nhất của đảng này không ai khác là những thành phần bảo thủ, giáo điều, lớn tiếng về ý thức hệ, hay nói chuyện lý luận để phán xét người đổi mới. Đây là những kẻ cơ hội nhất trong những kẻ cơ hội. Không làm được điều này thì mọi người sẽ nghi ngờ thông điệp đổi mới của đảng.

Nhận định về hiện trạng của bầu cử hiện nay tại Việt Nam, một tác giả mang bút danh Café Ban Mê viết trên trang blog Ba Sàm rằng nó không mang tính chính danh, một sự không chính danh đến từ bản thân nền chính trị Việt Nam,

000_Hkg10250097-400

Các đại biểu giơ thẻ hội viên trong lễ bế mạc đại hội đảng 12 tại Hà Nội vào ngày 28 tháng 1 năm 2016. AFP photo

Nói đến chính trị ở Việt Nam là một sự dè dặt, sợ sệt, không chỉ ở phía người dân mà ngay cả đối với các lãnh đạo trong nội bộ Đảng, từ đó tạo nên những vùng tối, vùng cấm hoặc những vùng mờ ảo mà người dân không còn muốn quan tâm tới các hoạt động chính trị. Dẫn đến quy trình, thủ tục bầu cử ra sao không được sự giám sát, quan tâm của người dân. Những con số hơn 90%, 100% phiếu bầu gần như trở thành những con số bình thường mặc dù điều đó nói lên sự phản khoa học, phản dân chủ trong một cộng đồng xã hội thực tế luôn đa dạng, luôn tồn tại tính đa nguyên.

Việc đi bầu cử đại biểu Quốc Hội là một hoạt động được coi là trực quan nhất, gần gũi nhất, nó thuộc vùng sáng hơn cả, tuy nhiên nó lại được bao bọc, chi phối bới các vùng tối, vùng mờ ảo và chúng ta sẽ không thể biết chắc chắn được vùng sáng đó là trung thực, phản ánh đúng sự lựa chọn của người dân hay không.

Và Quốc hội Việt Nam hiện nay với đại đa số là đảng viên cộng sản được Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc đặt tên là một chi bộ đảng mở rộng.

Những người tự ứng cử hoàn toàn biết được rằng Quốc hội Việt Nam hiện nay là một chi bộ đảng mở rộng như lời Giáo sư Quốc, nhưng họ vẫn quyết định ra ứng cử dù gặp nhiều trở ngại, là vì theo tác giả Vũ Hoàng Anh viết trên blog Ngàn Lau rằng,

Họ muốn tạo ra một sân chơi tranh luận tại Quốc Hội với hy vọng thức tỉnh những cái đầu đã bị mê ngủ bấy lâu nay với cái tự sướng mà không dám nhìn rõ sự thật của đất nước này. Họ muốn tạo ra nền móng dân chủ cho thế hệ kế tiếp. Họ muốn thế giới thấy được cái dân chủ giả hiệu trước và sau khi có sự tham dự của các ứng cử viên độc lập thì nền dân chủ này cũng chỉ là dân chủ giả hiệu bởi sẽ hoàn toàn không có dân chủ thật sự dưới cái cơ chế của hôm nay.

Một người đang sống ở nước ngoài là Bùi Nghĩa ca ngợi sự can đảm của những người này là phải vô cùng cố gắng trong một tình thế gần như hoang tưởng để có thể hưởng một không khí bầu cử và ứng cử như những quốc gia tự do khác.

Những gì cần phải làm

Đa số những người tự ra ứng cử trong mùa xuân năm nay là những người hoạt động mạnh mẽ trong các nhóm xã hội dân sự phát triển trong thời gia gần đây. Tuy vậy, theo blogger Nguyễn Vũ Bình, còn có rất nhiều khuyết điểm trong các nhóm  hoạt động xã hội và dân chủ đó,

Có thể nói, ngoài sự thống nhất về những mục đích rất lớn là dân chủ và nhân quyền thì những gì còn lại là một sự hỗn loạn trong nhận thức. Chúng ta hầu như không thống nhất được với nhau về thực trạng tình hình đất nước, về tình hình phong trào dân chủ, về nguyên nhân của những vấn nạn hiện nay và cuối cùng là về giải pháp để giải quyết các vấn nạn của đất nước. Là một người tham gia vào phong trào dân chủ khá lâu, tiếp xúc với rất nhiều người đấu tranh dân chủ đủ mọi lứa tuổi và thành phần, cá nhân tôi nhận thấy, sự khác biệt, chia rẽ và hỗn loạn trong nhận thức là một thực trạng nhức nhối của phong trào dân chủ Việt Nam.

Sự kiêu ngạo và bảo thủ, hướng ngoại và hình thức. Kiêu ngạo và bảo thủ khiến cho chúng ta không nhìn nhận được những hạn chế, sai sót và khiếm khuyết để bổ túc kịp thời, sửa chữa những sai lầm trong nhận thức. Hướng ngoại và hình thức thì không thể đi sâu tìm hiểu bản chất sự việc, khó tiếp cận được với dòng chảy của sự thật.

Nhận định về những gì mà người Việt Nam hiện nay cần phải làm để đi đến một xã hội tốt hơn, blogger Trần Minh Khôi cho rằng có một điều quan trọng là cần rút ngắn khoảng cách về nhận thức chính trị và dân chủ giữa một tầng lớp tinh hoa ở đô thị và những người lao động:

“ Cái khoảng cách giữa trí thức đô thị và người lao động ở vùng ngoài đô thị sẽ quyết định tính chất của một cuộc chuyển đổi chính trị xã hội, ở đây là dân chủ hoá. Ở Việt Nam, tại thời điểm này, khoảng cách này rất lớn.
– Blogger Trần Minh Khôi”

Cái khoảng cách giữa trí thức đô thị và người lao động ở vùng ngoài đô thị sẽ quyết định tính chất của một cuộc chuyển đổi chính trị xã hội, ở đây là dân chủ hoá. Ở Việt Nam, tại thời điểm này, khoảng cách này rất lớn. Và đây là điều đáng lo ngại nhất: ngay cả khi những đòi hỏi về quyền của trí thức đô thị, như các quyền tự do căn bản, được đáp ứng thì vấn đề công lý cho người lao động ngoài đô thị vẫn còn nguyên vẹn ở đó. Điều quan trọng này cần được lặp lại: các quyền tự do căn bản tự chúng không giải quyết được vấn đề công lý cho người lao động. Đây chính là lý do tại sao vận động xã hội trở nên bức thiết. Nó giúp rút ngắn khoảng cách nhận thức giữa những công dân của một quốc gia.

Nhắn gửi những người hoạt động dân chủ đang dấn thân tại Việt Nam, blogger Nguyễn Lân Thắng nói rằng đối diện với một chế độ độc tài thì không bao giờ dễ dàng, nhưng ông tin  rằng khao khát tự do và mong ước được sống trong một xã hội bình đẳng, tôn trọng phẩm giá con người là những giá trị tiềm ẩn trong mỗi con người Việt Nam chúng ta.

Còn nhà văn Nguyễn Đình Ấm thì cho rằng phong trào tự ứng cử đang là cơ hội vàng để Đảng Cộng sản Việt Nam “lặng lẽ” chuyển sang thể chế dân chủ, là chiến lược duy nhất để xây dựng đất nước hùng cường.

Không chỉ là phường chèo, mà còn là sân khấu hài

Không chỉ là phường chèo, mà còn là sân khấu hài

J.B Nguyễn Hữu Vinh

RFA

nguyenhuuvinh's picture

Mới đây, phong trào tự ứng cử vào “Quốc hội Việt Nam” được nhiều người chú ý và cố súy. Điều này gây nhiều chú ý của dư luận xã hội. Nhiều người dân đồng tình và quan tâm, bởi đây là lần đầu tiên, người dân sôi nổi hưởng ứng một công việc mà xưa nay họ cứ mặc cho đảng tự tung tự tác và biểu diễn trước bàn dân thiên hạ màn bầu cử “dân chủ đến thế là cùng”.

Thế nhưng, khi một số người quyết định sử dụng quyền của mình được Hiến pháp và pháp luật Việt Nam minh nhiên công nhận, thì lập tức dàn báo đảng vào cuộc tấn công bằng những đòn hạ cấp mà theo ngôn ngữ dân gian, thì đó là những đòn “đánh dưới thắt lưng’.

Dẫn đầu phong trào này, lại không ai khác, mà vẫn là kẻ xung phong đốt đền: Nguyễn Như Phong với tờ báo ngành dầu khí Petrotimes bằng bài viết: “Quốc hội không phải phường chèo”.

Đọc qua bài báo, người ta không khỏi phải giật mình cho sự hèn hạ, bẩn thỉu của cái gọi là “báo chí cách mạng”. Bởi từ lý luận đến câu văn… tất cả chỉ là những chuyện bới móc đời tư để công kích, để châm biếm nhưng lại rất… hài hước mà không đưa ra được bất cứ điều gì khả dĩ có trí tuệ để thuyết phục độc giả rằng việc tự ứng cử của Nguyễn Công Vượng và một số người khác được tờ báo nêu tên là trái pháp luật, là tội lỗi, là cần lên án!

Có những con vật bình đẳng hơn!

Trước hết, việc nghệ sĩ Nguyễn Công Vượng tự ứng cử vào “Quốc hội” là việc hiển nhiên anh ta có quyền, thậm chí là có quyền bình đẳng như Nguyễn Phú Trọng hoặc Trần Đại Quang, Nguyễn Sinh Hùng… chẳng thiếu một ly, một lai nào trong tư cách công dân.

Thế nhưng, nếu như tờ báo của Nguyễn Như Phong không hề dám mở miệng hỏi nửa lời với Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng hay Nguyễn Sinh Hùng xem với tư cách đại biểu “Quốc hội” rồi Chủ tịch “Quốc hội”, trong vai trò Tổng bí thư đã làm được những gì sau bao năm ngồi mòn cái ghế ở đó? Các ông ấy đã làm được gì? Có ai cử ông ấy vào đó không, ngồi đó làm gì hay chỉ để qua ngày, đoạn tháng ngồi giữ cái ghế mà bất chấp việc ngồi ấy có đem lại lợi ích gì cho dân nước nhay không? Hay chỉ như Nguyễn Tấn Dũng đã từng chỉ thẳng vào mặt Đảng mà rằng “Đảng giao thì tôi làm chứ không xin xỏ ai” nên không cần từ chức, dù cái làm đó là tham nhũng ngày càng nặng nề, pháp hoại nền kinh tế đến kiệt quệ?

Thì ngược lại, tờ báo này đã công kích đời tư của công dân ứng cử? Phải chăng, tờ báo của Nguyễn Như Phong muốn chứng minh câu chuyện trong Trại súc vật của George Orwell rằng “Mọi con vật đều bình đẳng nhưng có một số con bình đẳng hơn”?

Trong khi, một người đứng ra tự ứng cử đã cam kết một chương trình rõ ràng, hẳn hoi rằng “sẽ giúp làm tốt nhiều công việc như bảo tồn bảo tàng, chấn chỉnh văn hóa và giáo dục chỉ sau 1 năm đến 3 năm, hơn hẳn nhiều đại biểu Quốc hội hiện nay” (Trích bài báo), thì tờ báo này lấy để chế giễu và đánh phá? Phải chăng, chỉ khi nào những đại biểu, thậm chí Chủ tịch Quốc hội nhắm mắt làm ngơ trước quân xâm lược rằng thì là “Biển đông không có gì mới” khi mà quân giặc đang xâm chiếm bờ cõi, ngư dân đang ngày đêm bị giết trên biển. Còn việc làm tốt nhiều công việc, chấn chỉnh nền văn hóa… là chuyện đáng lên án?

Mà sự công kích cũng lạ đời. Tờ báo của Nguyễn Như Phong kể lên mặt báo tiểu sử của gia đình người nghệ sĩ này, rằng thì là bố và mẹ đều là đảng viên, đã học qua đại học và theo nghề diễn viên. Nghĩa là người có nòi giống từ đảng mà ra, có học hành, nhận thức hẳn hoi mà lại khẳng định rằng “Đảng, Nhà nước là xấu xa”“hèn với giặc, ác với dân”, “dâng biển đảo cho giặc”… Thì  thiết nghĩ đảng, nhà nước phải xem lại mình. Bởi đây rõ ràng không phải lời của những con em thế lực thù địch hoặc không có nhận thức. Mà theo cách nói của Nguyễn Phú Trọng thì “Mình có thế nào, người ta mới nói thế’.

Hài nhất là đọc đoạn này: “Hỏi Vượng: Chỉ rõ xem Đảng dâng đảo, bán đảo ở chỗ nào, đảo nào thì không nói được, một kiến thức sơ đẳng về Trường Sa cũng không biết”. Thực ra, không biết Nguyễn Như Phong đã hỏi Nguyễn Công Vượng lúc nào và ở đâu? Nhưng, tôi tin đó là sự bịa đặt, bởi nếu chỉ cần hỏi đưa trẻ con, nó cũng có thể giải thích Hoàng Sa hiện nay ở đâu và Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng là cái gì? Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc của cha ông để lại, dưới tay đảng thì nó thuộc về ai? Những hòn đảo ở Trường Sa như Gạc Ma nay thì ai quản lý. Đó là những kiến thức mà hình như Nguyễn Như Phong đã quên.

Duy có điều này, thì người đọc thấy được căn bệnh “suy bụng ta ra bụng người” của Nguyễn Như Phong là khá rõ. Rằng “Công Vượng ít được tham gia các chương trình lớn, các sân khấu tầm cỡ quốc gia… Và dường như để “bù” lại, mấy năm gần đây, Vượng liên tục gây sự chú ý của công luận bằng những phát ngôn và hành vi gây sốc, thậm chí phản cảm“. Đọc đến đó, Công Vượng có hành động như vậy hay không thì chưa rõ, bởi đó mới chỉ là sự quy kết hậm hực của một bút nô. Nhưng người ta thấy rõ điều này: Cũng làm báo, nhưng khi không được nổi danh, được kính trọng bằng người khác, Nguyễn Như Phong đã không ngần ngại làm người lính xung kích, làm kẻ đốt đền, bất chấp sự thật và sẵn sàng bịa đặt, hại người. Phải chăng đó chính là để “bù” lại cho khả năng của mình? 

“Quốc hội” không chỉ là phường chèo, mà còn là sân khấu hài

Tờ báo đặt khẳng định “Quốc hội không phải là phường chèo”, thiết nghĩ là chưa chính xác. Lẽ ra cần phải nói: Không chỉ là phường chèo, mà thậm chí còn là sân khấu hài mới chuẩn.

Sở dĩ, đặt chữ “Quốc hội” trong ngoặc kép, chỉ vì nghĩa của từ Quốc hội trong thể chế cộng sản không còn đúng nghĩa của nó. Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên 1946 đã viết “Điều thứ 22: Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”.

Vậy nhưng, chính Nguyễn Phú Trọng đã nói rằng: “Nghị quyết của Quốc hội, chỉ đứng sau nghị quyết của đảng”. Vậy có nghĩa là trên cái “cơ quan có quyền cao nhất” lại còn một cơ quan quyền lực cao hơn?

Đến mức, muốn sửa đổi Hiến Pháp, phải chờ Nghị quyết của Đại hội đảng(?). Và, các vai diễn trong cái “cơ quan quyền lực cao nhất nước” này, cứ vẫn đóng trọn vai diễn hết năm này qua tháng khác.

Chỉ nói về nghĩa đen của những từ ngữ trên và trong thực tế, thì có lẽ so sánh với một gánh hát không khác gì nhiều.

Nhắc đến nghệ thuật chèo, trước hết phải nói đến nghệ thuật sử dụng lời văn. Ở “Quốc hội” Việt Nam, nói về trình độ sử dụng lời văn, thì Chèo còn phải gọi bằng… cụ tổ.

Hãy nghe vài câu nói của những đại biểu Quốc hội là những người có chức quyền hẳn hoi:

Bộ Trưởng Quốc phòng: “Thưa các quý vị! Quan hệ giữa Việt Nam và nước bạn láng giềng Trung Quốc về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông nên đôi khi cũng có những va chạm gây căng thẳng”.. Và Bộ trưởng chỉ lo: ” “Không phong tướng, anh em tâm tư”. Khi giặc Tàu đã vào tận thềm nhà, ông vẫn nói: “Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già có xu thế ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực cho Trung Quốc là ngại. Tôi cho rằng, cái đó là nguy hiểm cho dân tộc”.

..tình hình đi làm thuê và bán vé số rất phổ biến nhưng có thu nhập cao, họ đủ trang trải cho một ngày ăn”. Bộ trưởng Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc.

“QH tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai?” – Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch “Quốc hội”.

“đánh con chuột đừng để vỡ bình, làm sao diệt được chuột mà bảo vệ được bình hoa. Tức là phải giữ cho được cái ổn định”– Nguyễn Phú Trọng.

“người bạn láng giềng lớn, muốn hay không cũng phải ăn đời ở kiếp với nhau, có ai chọn được láng giềng đâu”. – Nguyễn Phú Trọng.

“Đời tôi, đời các bạn chưa đòi lại được, thì đời con cháu chúng ta phải tiếp tục đòi…. – Nguyễn Đức Đam nói khi Tàu đưa dàn khoan vào thềm lục địa Việt Nam khoan dầu. Thậm chí ông còn đưa ra quan niệm: “nếu chúng ta không giáo dục cho con cháu rưng rưng khi hát Quốc ca thì đất nước không thể giàu mạnh”.

–  “Còn Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội cũng thừa nhận đường Trường Chinh có cong, nhưng là ‘cong mềm mại…”. – Dương Đức Tuấn, PGĐ Sở Quy hoạch kiến trúc TP Hà Nội.

Nghe những lời nói đó, thì quả là ngôn ngữ Chèo chưa ăn thua gì so với diễn đàn “Quốc hội” Việt Nam.

Trong nghệ thuật Chèo ngoài sử dụng ngôn ngữ, lời nói để diễn tả, thường có hai loại vai chính: Vai chín (thường để miêu tả những người tốt, người có tài) và Vai lệch (đại diện cho những con người độc ác, xấu xa hoặc không theo đúng chuẩn mực đạo đức).

Ở “Quốc hội” Việt Nam thì các “vai chín” đếm trên đầu ngón tay, là vô cùng hiếm hoi. Nhưng các “vai lệch” thì nhan nhản.

Ở đó, người ta thấy vai sư kêu gọi “xây dựng Quân đội ta mạnh như quân đội Bắc Hàn”, hoặc “Thời nhà Lê, vua Lê còn xử oan cho Nguyễn Trãi, một công thần của mình trong vụ án Lệ Chi Viên. Nhà Phật chúng tôi, có nghìn mắt, nghìn tay nhưng vẫn có câu chuyện xử oan cho Thị Kính đến khi chết” để thanh minh và đồng tình với việc án oan sai nhan nhản.

Ở đó, người ta thấy một Chủ tịch “Quốc hội” nói rằng: “Cứ vi phạm mà kỷ luật hết thì lấy ai mà làm việc”.

Ở đó, người ta cũng nghe ông Chủ tích Quốc hội khẳng định rằng: Đến 2013, Vinashin sẽ có lãi”. Để rồi sau đó không lâu, Vinashin sụp đổ.

Ở đó, người ta nghe Bộ trưởng Tài Chính khuyên người dân: “Nếu có tiền tôi cũng mua chứng khoán”. Để rồi sau đó, chứng khoán xuống dốc không phanh.

Ở đó, người ta thấy ông sư giải thích về Kinh tế thị trường định hướng như sau: “Bản chất thị trường không phải là xấu mà là tốt. Đặc biệt chúng ta định hướng vào đấy nữa thì càng tốt” – Thích Thanh Quyết.

Thậm chí, nghe ông Bộ trưởng Bộ giáo dục nói những câu như: “Đã học kém thì không thể có đạo đức tốt được”. Rồi thì “Quá trình dạy và học đã thay đổi, từ chỗ dạy cho số đông sang chú ý đến hình thành phát triển từng cháu. Trước đây giáo viên nói dạy 1 lớp 40 cháu nay chuyển sang dạy 40 cháu trong 1 lớp”…

Thì “Quốc hội” quả là không chỉ là hề chèo, mà còn là trại tâm thần.

Không phải ngẫu nhiên, mà một đại biểu quốc hội đã phải đề nghị: “Đừng để người tâm thần ứng cử quốc hội”.

Như ở trên đã nói, khi mà “Cơ quan quyền lực cao nhất nước” phải cúi đầu chấp nhận đứng dưới một “cơ quan không quyền lực cao hơn” là đảng CSVN, thì tự cái “Quốc hội” ấy đã là một sân khấu hài.

Rồi ở cái “Quốc hội” ấy, nếu nghe ông nghị Đỗ Văn Đương phát biểu những câu như: “Không nghĩ lạm phát ở nước ta cao nhất khu vực. Theo tôi phải xem lại chỗ này. Tôi đi các nước thấy giá tiêu dùng đắt đỏ, một đĩa rau muống xào ở Thượng Hải tới 200 nghìn đồng, nhưng ở Việt Nam chỉ mấy chục nghìn. Trong nước tôi đi chợ rau muống ở đô thị có thể 5.000 đồng/mớ, đi xuống vùng nông thôn chỉ 2.000, xuống nữa có khi rẻ hơn”. Rồi thì “Phạm nhân Việt Nam còn sướng hơn sinh viên thời xưa”. Hay “Bán dâm là một nghề phi pháp, mua dâm thì không…”, hoặc “Thực chất luật sư ở Việt Nam chỉ bào chữa cho những người có tiền”.

Cũng như ông nghị Hoàng Hữu Phước với câu nói để đời về việc ban hành luật biểu tình là ô danh, và đề xuất đợi đến “khi nào trình độ dân trí cao hơn và kinh tế ổn định hơn thì mới có thể ban hành Luật biểu tình”

Thì điều đó chứng tỏ rằng “Quốc hội” còn là một sân khấu hài vĩ đại, thưa anh Nguyễn Như Phong.

Hà Nội, ngày 8/3/2016

J.B Nguyễn Hữu Vinh

Đoàn Hòa bình Mỹ đã bước vào tuổi 50 (The US Peace Corpsat its 50 th)

Đoàn Hòa bình Mỹ đã bước vào tuổi 50 (The US Peace Corpsat its 50 th)

Anniversary 1961 – 2011)

 Bài viết của Đoàn Thanh Liêm

Được thiết lập vào năm 1961, ngay trong những ngày đầu của

nhiệm kỳ Tổng thống John F Kennedy, đến năm 2011 này Đòan

Hòa bình đang hân hoan tổ chức kỷ niệm sinh nhật lần thứ 50,

thông qua rất nhiều chương trình sinh họat trong các lãnh vực

chính trị, xã hội và văn hóa nghệ thuật. Tính ra, trong vòng 50 năm

qua, đã có tổng cộng trên 200,000 thanh niên sinh viên Mỹ tự

nguyện tham gia phục vụ trong khuôn khổ họat động của Đòan

Hòa bình tại 139 quốc gia trên khắp thế giới.

Qua nửa thế kỷ với biết bao đổi thay, mà Peace Corps vẫn trung

thành với ý hướng căn bản đã được xác định ngay từ thuở ban đầu,

đó là góp phần xây dựng hòa bình và tình thân hữu trên thế giới,

thông qua 3 mục tiêu đơn giản, mà cũng thật lớn lao như sau:

1/ Giúp nhân dân các quốc gia liên hệ trong việc đào tạo chuyên

môn;

2/ Giúp nhân dân các nước hiểu rõ hơn về dân tộc Mỹ; và

3/ Giúp người dân Mỹ hiểu biết rõ hơn về các dân tộc khác.

Năm 2011, Peace Corps cũng đặc biệt tưởng nhớ đến công lao vĩ

đại của vị Giám đốc tiên khởi của mình, đó là Luật sư Sargent

Shriver, người em rể của Tổng thống Kennedy và là thân phụ của

Maria Shriver cựu Đệ nhất Phu nhân của California. Ông vừa qua

đời vào tháng Giêng 2011 ở tuổi thọ 95.

Nhằm cung ứng đến quý bạn đọc những chi tiết đáng ghi nhớ của

Peace Corps, người viết đã tham khảo nhiều thông tin trên Internet

và đặc biệt là tìm đọc trong cuốn sách mới nhất do nhà xuất bản

Beacon Press phát hành vào đầu năm 2011 của tác giả Stanley

Meisler, dưới nhan đề

When The World Calls – The Inside Story of The Peace Corps

And Its First Fifty Years. (Khi Thế giới Kêu gọi – Câu chuyện

bên trong của Đòan Hòa bình và Năm mươi Năm Đầu tiên của

Đoàn). Cuốn sách dài 272 trang, bìa cứng.

I – Sự nô nức hăng say phấn khởi của thanh niên Mỹ.

Thanh niên Mỹ đã thật sự sôi nổi nô nức trước lời kêu gọi hùng

hồn của Tổng thống Kennedy trong bài diễn văn nhậm chức vào

tháng Giêng năm 1961, lời kêu gọi bất hủ đó như sau : “Các bạn

đừng hỏi quốc gia có thể làm gì cho bạn, mà hãy hỏi bạn có thể

làm gì cho quốc gia của bạn” (Ask not what your country can do

for you, ask what you can do for your country). Và họ đã đua nhau

tự nguyện gia nhập Đoàn Hòa bình để đi đến phục vụ tại các quốc

gia xa lạ ở Phi châu, Á châu,châu Mỹ Latinh… Họ phải học nói

được ngôn ngữ của nước sở tại và nhất là phải sống trong những

điều kiện cực kỳ thiếu thốn khắc nghiệt của người dân địa phương.

Nhưng với tính tình hồn nhiên cởi mở của tuổi trẻ, với tấm lòng

hăng say nhiệt thành theo đuổi lý tưởng phục vụ nhân quần xã hội,

phần đông những thanh niên Mỹ này đã lần hồi vượt qua được mọi

thử thách, và tạo được sự thông cảm quý mến của các dân tộc nơi

họ sinh sống qua sự tự nhiên chia sẻ những kinh nghiệm cá nhân

cũng như kiến thức và kỹ năng chuyên môn.

Khởi đầu với con số 3,000 đòan viên, Peace Corps từ năm 1964 trở

đi mỗi năm đã có đến trên 10,000 thiện nguyện viên, và con số

mấy năm gần đây từ 2003 đến 2009 trung bình ở vào khỏang gần

8,000 đòan viên.

II – Một số trường hợp điển hình ngộ nghĩnh tại miền đất xa xôi.

1/ Ông “Tổng thống Peace Corps”. Năm 1964, cô Nancy Deeds

được một gia đình người xứ Peru, Nam Mỹ cho ở chung trong nhà

tại làng đánh cá Chimbote phía bờ biển Thái bình dương. Cậu bé

Alejandro Toledo con trai chủ nhà có dịp học thêm tiếng Anh bằng

cách dậy tiếng Tây ban nha cho Nancy. Ít năm sau, cậu được qua

Mỹ học và được Nancy giúp đỡ hướng dẫn lúc học ở San

Francisco. Và với sự cố gắng phi thường cậu đã thành công với

bằng cao học và tiến sĩ về môn kinh tế học. Toledo đã lần lượt làm

việc cho Liên hiệp quốc, Ngân hàng Thế giới, Đại học Harvard,

Đại học Waseda ở Nhật và làm cố vấn kinh tế cho chính phủ nước

Peru… Vào năm 2000, ông còn được bầu vào chức vụ Tổng thống

của nước Peru nữa. Trong dịp gặp gỡ với giới lãnh đạo Peace

Corps tại Washington, Tổng thống Toledo đã xác nhận: “Một mảng

lớn con đường tôi trải qua – từ việc học tập và đi ra khỏi cái làng

tồi tàn Chimbote – thì Peace Corps đều có liên hệ với những

chuyện đó… Quý vị đều có trách nhiệm cho cái ông Tổng thống

này!”

2/ Những y tá người Mỹ của Peace Corps tại Afghanistan đã hết

sức tận tâm săn sóc bênh nhân địa phương, đến nỗi đã tạo được sự

chuyển biến rõ rệt trong lề lối phục vụ của các y tá bản xứ, vốn

xưa nay ít bị xúc động trước nỗi đau đớn bất hạnh quá dồn dập

trong đời sống thường ngày của đồng bào mình.

Alice O’Grady là một trong nhóm Peace Corps đầu tiên đến dậy

học ở xứ Ghana Phi châu từ năm 1961. Năm 1968 cô trở lại dậy

môn khoa học tại đây trong 4 năm. Năm 2008 Alice trở lại thăm

Ghana, thì được các học viên cũ – nay đã là những bác sĩ, kỹ sư rất

thành đạt – họ góp tiền lập một quỹ học bổng lấy tên cô giáo

“Alice O’Grady” để giúp cho thế hệ đàn em có cơ hội học tập tốt

hơn, và họ còn gửi vé may bay mời cô qua tham dự lễ trao học

bổng cho sinh viên đầu tiên được trúng giải. Trong buổi lễ trao học

bổng này, các cựu học viên đã hết lòng ca tụng “sự tận tâm, kỷ luật

và hăng say của cô giáo O’Grady là người đã nhóm lên ngọn lửa

say mê kiến thức khoa học cho lớp môn sinh của cô trên 40 năm

trước…”

3/ Niên lịch của Nhóm Cựu Thiện Nguyện Viên Peace Corps ở

Madison, Wisconsin.

Sau khi hết thời hạn phục vụ ở ngọai quốc, các thiện nguyện viên

trở về Mỹ thường tụ họp lại với nhau thành từng Nhóm Ái hữu, để

ôn lại những kỷ niệm và còn tìm cách phát triển và củng cố những

mối liên hệ thân thiết với các bạn từ những khu vực mà họ làm

việc, thông qua vô số những dự án nho nhỏ về giáo dục, về cải tiến

dân sinh tại các địa phương. Các nhóm Ái hữu này gia nhập tổ

chức National Peace Corps Association mà hiện nay có đến khoảng

30,000 thành viên (Hiệp hội quốc gia Peace Corps).

Riêng Nhóm Cựu Thiện nguyện viên ở thành phố Wisconsin lại có

một sáng kiến độc đáo là kêu gọi các bạn trên tòan quốc gửi hình

ảnh sinh họat tại các quốc gia để nhóm thực hiện cuốn lịch mỗi

năm và đem bán để gây quỹ giúp một số công trình tại các địa

phương. Trong loại niên lịch này, có nhiều chi tiết đáng chú ý, điển

hình như January 6 là Maroon Day ở Jamaica, April 27 là Lễ Độc

lập xứ Togo, July 13 là Jagannah Festival ở Ấn độ, và November 9

là Sinh nhật của Sargent Shriver. Kể từ năm 1988 đến nay, số thu

nhập từ việc bán các niên lịch này đã lên tới tổng cộng gần 1 triệu

US dollar. Và trong năm 2008, số tiền thu nhập được sử dụng để

mua máy quay roneo cho trường Tubman ở Liberia, xây dựng 15

nhà vệ sinh tại Cộng hòa Dominica, giúp đào tạo nữ hộ sinh tại

Moroco, bảo trợ câu lạc bộ chơi cờ ở Bolivia và yểm trợ một phần

cho 65 dự án nhỏ ở các nơi khác.

III – Peace Corps giữa thời kỳ chiến tranh lạnh.

Trong các thập niên 1960, 70 và 80, giữa thời kỳ chiến tranh lạnh

đoàn viên Peace Corps ở nhiều nước thường gặp khó khăn do sự

tuyên truyền chống Mỹ của phe cộng sản. Cụ thể như vào năm

1961, chuyện tấm bưu thiếp của cô Margery Michelmore gốc từ

Boston gửi cho người bạn trai, trong đó cô mô tả về chuyện người

dân Ghana nấu ăn ngòai phố, buôn bán ngòai đường và cả đi vệ

sinh ở ngòai đường nữa. Tấm postcard này không hiểu làm sao lại

rơi vào tay người khác ở Ghana và liền bị sao chụp thành nhiều

bản để tung ra cho giới sinh viên học sinh ở thủ đô Accra. Từ đó

mà đã gây ra cả một chiến dịch rất mãnh liệt tố cáo “đế quốc Mỹ”

với lời hô hào vang dội khắp nơi “Yankees, go home” ( người Mỹ,

hãy cút về nước).

Tuổi trẻ vốn ngây thơ, hồn nhiên, nên các đoàn viên Peace Corps

tuy tự nguyện đi phục vụ tại nước ngoài, nhưng vẫn giữ tinh thần

độc lập, không muốn để cho mình trở thành “công cụ của chính

sách ngọai giao của chính quyền Mỹ”. Vì thế mà có sự đối kháng

căng thẳng trong mối liên hệ giữa Peace Corps và giới lãnh đạo

chính phủ Mỹ ở Tòa Bạch ốc. Điển hình như mấy trường hợp sau

đây:

1/ Phản đối việc quân đội Mỹ xâm chiếm Cộng hòa Dominica.

Năm 1965, nhân cuộc nội chiến tại địa phương, chính quyền

Johnson đã phái quân đội đổ bộ lên đảo quốc Dominica. Một số

đoàn viên Peace Corps đã không chịu di tản theo lệnh của tòa Đại

sứ, ở lại chăm sóc các nạn nhân tại thành phố thủ đô Santo

Domingo, và họ còn tỏ ra có thiện cảm với “phe nổi dậy” mà bị

chính quyền Mỹ đang tìm cách dẹp bỏ. Thái độ ngoan cường bất

tuân mệnh lệnh của các đoàn viên này đã làm Tổng thống Johnson

hết sức giận dữ và rút cuộc đã bắt đầu tìm cách thay thế cả vị Giám

đốc đày uy tín Sargent Shriver nữa. Sự kiện này chứng tỏ Peace

Corps tuy do chính phủ Mỹ lập ra và tài trợ, nhưng tổ chức này vẫn

giữ được vị thế độc lập riêng biệt của mình, chứ không chịu răm

rắp đứng trong khuôn khổ chật hẹp của nền ngọai giao Mỹ. Đây rõ

rệt là một đơn vị thuộc khu vực xã hội Dân sự, chứ không phải là

một cơ sở thuộc chính quyền Nhà nước.

2/ Peace Corps cũng không chịu qua Việt Nam và Lào

Đầu năm 1966, Tổng thống Johnson yêu cầu giới lãnh đạo Peace

Corps phải nghiên cứu việc đưa các đoàn viên sang công tác ở Lào

và Việt Nam. Nhưng sau chuyến đi khảo sát tình hình tại chỗ của

hai nhân viên đặc trách về khu vực Viễn Đông, Peace Corps đã

quyết định không tiến hành chương trình hoạt động tại hai quốc gia

này, bất kể chỉ thị của vị Tổng thống đầy quyền uy lúc đó. Cũng có

thể là vì hồi đó tại Việt nam đã có Đòan Thanh niên Chí nguyện

Quốc tế (IVS = International Voluntary Service) đã từ Mỹ đến họat

động sẵn từ năm 1957 rồi, nên Peace Corps xét thấy nên dành ưu

tiên cho những quốc gia khác chăng.

Đàng khác, nhiều đoàn viên Peace Corps lại còn tham gia tích cực

vào phong trào chống đối cuộc chiến tranh Việt Nam mỗi ngày một

sôi nổi lan rộng khắp nước Mỹ hồi cuối thập niên 1960 nữa. Và vì

sự chống đối này, mà Tổng thống Nixon rất giận dữ đến nỗi muốn

tìm cách dẹp bỏ cả Peace Corps đi. Nhưng vì sau năm 1972, ông

bị rắc rối nặng nề với chuyện Watergate, nên đã không thể làm gì

với ý muốn dẹp bỏ tổ chức này được nữa.

Tại nhiều quốc gia khác ở Phi châu, cũng như ở châu Mỹ Latinh,

các đoàn viên Peace Corps cũng gặp phải những khó khăn tương tự

phát xuất từ thái độ bài Mỹ và nhất là do ảnh hưởng của những

lãnh tụ marxist quá khích như Fidel Castro, Ché Guevara… Nhưng

kể từ khi cuộc chiến tranh lạnh chấm dứt và sau khi Liên Xô giải

thể vào đầu thập niên 1990, Peace Corps đã có thể họat động tương

đối êm thắm thoải mái hơn lúc ban đầu vào thập niên 1960 – 70 rất

nhiều.

Ngân sách của Peace Corps vào năm 2010 vừa được Quốc hội Mỹ

thông qua đã lên tới 400 triệu dollar, nhiều hơn con số 373 triệu mà

Tổng thống Obama đề nghị với Quốc hội. Sự kiện này chứng tỏ

Peace Corps vẫn còn giữ được tín nhiệm lớn lao trong công luận

của nước Mỹ ngày nay vậy.

IV – Nhận định tổng quát về Peace Corps trong nửa thế kỷ qua.

Peace Corps được đánh giá là một thành tựu lâu bền đáng kể nhất

của chính phủ do Tổng thống Kennedy lãnh đạo. Chương trình này

được đa số người dân Mỹ ủng hộ tán thành và đã liên tục phát triển

và hoàn thiện cho đến ngày nay qua thế kỷ XXI.

1/ Giới truyền thông báo chí Mỹ vốn chuyên môn xét nét moi móc

những sai sót của chính quyền và không ngớt chỉ trích các nhân vật

trong giới lãnh đạo xã hội được coi như là những khuôn mặt của

công chúng (public figures). Nhưng nói chung, họ lại có thiện cảm

với việc làm của những thiện nguyện viên trẻ tuổi của Peace Corps

trên khắp thế giới, và họ đã mô tả khá chi tiết về các thành tựu và

ảnh hưởng của Peace Corps tại các quốc gia nơi Peace Corps có

chương trình hoạt động.

2/ Và giới báo chí tại các quốc gia địa phương nói chung cũng đều

đánh giá cao họat động của Peace Corps và đặc biệt là tác phong

cởi mở hòa nhã và hăng say phục vụ của các thiện nguyện viên.

Sự phản ánh dư luận báo chí ở Mỹ cũng như trên thế giới như thế

rõ ràng đã chứng minh được rằng Peace Corps đã đạt được mục

tiêu chính yếu của mình đã đề ra lúc khởi đầu, đó là : “Giúp cho

các dân tộc trên thế giới hiểu rõ hơn về người Mỹ”.

Tại quê quán và các đại học xuất phát của các thiện nguyện viên,

Peace Corps cũng đều nhận được sự yểm trợ và cảm tình rất bền

vững và các báo chí truyền thông địa phương cũng liên tục theo

dõi mọi công việc của thiện nguyện viên vốn là cư dân hay đồng

song với họ. Đó là một sự gắn bó liên kết chặt chẽ trong các cộng

đồng địa phương, nơi bản quán hay nơi trường học thân thương

yêu quý năm xưa (alma mater) của các thiện nguyện viên. Và như

vậy là Peace Corps đã “Giúp người dân Mỹ hiểu biết hơn về thế

giới” như là một mục tiêu đã được đưa ra lúc ban đầu.

3/ Con số đồ sộ của trên 200,000 Cựu Thiện nguyện viên đã là một

lực lượng tinh thần vĩ đại góp phần thật đáng kể trong việc làm

thay đổi nếp suy nghĩ và tình cảm của dân tộc Mỹ trước một thế

giới bao la rộng lớn với tất cả sự phong phú về văn hóa, lịch sử

phong tục, ngôn ngữ và với một tiềm năng vô biên của các quốc

gia đang vươn lên trên trường quốc tế ngày nay ở thế kỷ XXI.

Nhân tiện cũng xin ghi ra một số nhân vật nổi bật xuất thân từ

hàng ngũ của các Thiện nguyện viên Peace Corps. Về mặt chính

trị, thì có 2 Thương nghị sĩ Liên bang, đó là Paul Tsongas của

Massachusetts (công tác ở Ethiopia), và Chris Dodd của

Connecticut ( công tác ở Cộng Hòa Dominica). Rồi đến rất nhiều

Dân biểu Liên bang, điển hình như: Mike Honda của California (El

Salvador), Thomas Petri của Wisconsin (Somalia), Tony Hall của

Ohio (Thailand), Mike Ward của Kentucky (Gambia), James Walsh

của New York (Nepal)… Các Thống đốc Jim Doyle của Wisconsin

(Tunisia), Bob Taft của Ohio (Tanzania). Cũng như các Thị trưởng

của Pittsburgh, San Angelo, Texas và Urbana, Illinois. Hai chục vị

Đại sứ xuất thân từ Peace Corps, điển hình như Christopher Hill

(Cameroon) là thương thuyết viên chính về năng lượng hạt nhân

với Bắc Triều Tiên, và Robert Gelbard là Đại sứ tại Bolivia từ

1988 đến 1991 rồi làm Phụ tá Bộ trưởng Ngọai giao từ năm 2009;

ông này hồi thập niên 1980 đã từng phục vụ trong đoàn Peace

Corps ở Bolivia.

Về số nhà văn, nhà báo xuất thân từ Peace Corps, thì cũng có rất

nhiều, mà điển hình nhất là: Paul Theroux (Malawi), Peggy

Anderson (Togo), Peter Hessler (China), Chris Matthews của

MSNBC (Swaziland), Karen De Witt của ABC News (Ethiopia),

Al Kamen của Washington Post (Dominican Republic)…

Riêng trong số người Mỹ gốc Việt thì phải kể đến tên tuổi của anh

Bùi Văn Phú hiện dậy học và viết báo tại Bắc California. Sau khi

tốt nghiệp Đại học Berkeley vào đầu thập niên 1980, anh Phú đã

gia nhập Peace Corps và được cử đi dậy môn vật lý tại Togo Phi

châu là cựu thuộc địa của Pháp, nên anh Phú lại được dịp học thêm

tiếng Pháp để làm việc tại đây từ năm 1983 đến 85. Sau này cũng

còn nhiều sinh viên gốc Việt Nam cũng gia nhập Peace Corps như

anh Phú nữa. Người viết sẽ tìm hiểu chi tiết thêm về các Thiện

nguyện viên gốc Việt và sẽ trình bày trong một dịp khác vậy.

California, tháng Tám 2011

 Đoàn Thanh Liêm

Hình: Anh Bùi Văn Phú những ngày làm tình nguyện viên của

Peace Corps ở Togo, Phi châu

Ủy Hội Venice vừa tròn 20 tuổi .

Ủy Hội Venice vừa tròn 20 tuổi .

(The Venice Commission 1990 – 2010)

Đòan Thanh Liêm

Vào ngày 10 tháng Năm 1990, sau khi bức tường Berlin xụp đổ, thì 18

quốc gia thuộc Hội Đồng Âu châu (Council of Europe) đã quyết định

thành lập một cơ cấu chuyên môn mệnh danh là “ Ủy Hội Âu châu Xây

dựng Dân chủ thông qua Luật pháp” (The European Commission for

Democracy through law). Ủy hội này thường cũng được gọi là Ủy hội

Venice, vì lý do thường hội họp tại thành phố Venice của nước Italia.

Mục đích ban đầu của Ủy hội là nhằm giúp đỡ các quốc gia vừa thóat

khỏi các chế độ độc tài tòan trị xây dựng được những bản Hiến pháp và

các đạo luật căn bản khác sao cho thích hợp với các tiêu chuẩn của Hội

đồng Âu châu : đó là Dân chủ, Nhân quyền và Nền Pháp trị (the rule of

law). Đây là một cơ quan tư vấn về các vấn đề liên hệ đến Luật Hiến

pháp, mà thành phần gồm các chuyên gia được bổ nhiệm trên cơ sở kinh

nghiệm của họ trong các định chế dân chủ, hay sự đóng góp của họ vào

trong lãnh vực tăng cường luật pháp và khoa học chính trị.

Hầu hết các quốc gia “ cựu cộng sản” mới gia nhập vào Hội đồng Âu

châu trong thập niên 1990, thì đều được Ủy hội giúp đỡ trong việc sọan

thảo Hiến pháp của mỗi nước và chuẩn bị để được chấp thuận gia nhập

vào làm một thành viên của Hội đồng.

Ngòai những bản văn Hiến pháp ra, Ủy hội Venice cũng quan tâm đến

những khía cạnh khác của quá trình dân chủ hóa, cụ thể như việc cải tổ

ngành lập pháp, cải tổ tư pháp, việc thiết lập tòa án hiến pháp cùng lề lối

điều hành, chế độ liên bang và khu vực địa phương, và cả việc chuẩn bị

pháp chế mới về bàu cử, và những luật lệ nhằm bảo vệ các sắc dân thiểu

số. Ủy hội cũng tập chú vào việc tìm kiếm những phương cách pháp lý

nhằm giải quyết những tranh chấp về chính trị có nguồn gốc từ sự mâu

thuẫn chủng tộc.

Ủy hội cũng thường thực hiện những cuộc nghiên cứu đối chiếu về

những vấn đề pháp lý hiện hành, và tổ chức các “ seminars UniDem”

(Universities for Democracy) và các khóa huấn luyện riêng về những đề

tài có tính cách quan trọng đối với các nước tham dự viên.

Từ ngày thành lập, Ủy hội đã được khắp quốc tế thừa nhân như là trung

tâm quy chiếu (reference) cho các tiêu chuẩn cao về dân chủ ở Âu châu.

Ủy hội đã đóng góp hàng mấy trăm những ý kiến và phát triển hàng mấy

chục những nghiên cứu, bô luật và bản hướng dẫn về vô số đề tài của

luật Hiến pháp. Với sự gia nhập của Mexico và Tunisia vào năm 2010

mới đây, thì Ủy hội hiện có 57 quốc gia là thành viên thực thụ, kể cả số

quốc gia thành viên không nằm trong Âu châu; với khả năng phục vụ về

chuyên môn cho 1300 triệu người dân. Từ năm 2002, Tòa Án Âu châu

về Nhân quyền (European Court of Human Rights –ECtHR) thường xin

Ủy hội cho ý kiến về pháp lý, và đã thỉnh ý Ủy hội trong hơn 45 vụ án.

Ủy hội cũng còn đóng vai trò nòng cốt trong việc thiết lập Hội nghị

Quốc tế về Công lý Hiến định (the World Conference on Constitutional

Justice) nhằm khai mở hệ thống án lệ tòan cầu về Nhân quyền, và tính

cách độc lập của ngành tư pháp trên khắp thế giới.

Năm 2004, Ủy hội đã cho xuất bản một bộ sách gồm 2 cuốn dày tới

2,000 trang với đày đủ tòan văn các bản Hiến pháp của 46 quốc gia

thuộc Âu châu. Bộ sách có nhan đề chính là :“ Constitutions of Europe”

với phụ đề là “ Texts collected by the Council of Europe Venice

Commission”. Đây là bộ sách đày đủ nhất về hiến pháp của các nước Âu

châu, mà được cập nhật hóa cho đến năm 2002, đặc biệt là của các quốc

gia cựu cộng sản, kể cả Cộng hòa Liên bang Nga hiện nay vào đầu thế

kỷ XXI.

Nhân tiện cũng xin lưu ý về sự khác biệt giữa tổ chức Hội đồng Âu châu

( Council of Europe CE) hiện có 47 quốc gia hội viên, thì khác với tổ

chức Liên Hiệp Âu châu (European Union EU) mà hiện mới có 27 quốc

gia thành viên.

Nhằm đánh dấu 20 năm ngày thành lập, Ủy hội Venice đã quyết định sẽ

tổ chức một buổi lễ Kỷ niệm thật long trọng vào ngày 5 tháng Sáu 2010

săp tới tại thành phố Venice, với sự tham dự của các nhà Lãnh đạo Quốc

gia và nhiều nhân vật cao cấp khác. Khi được giới truyền thông báo chí

phỏng vấn vừa đây, Vị Chủ tịch của Ủy hội là Gianni Buquichio đã phát

biểu trong một tinh thần phấn khởi lạc quan, đại khái như sau : “ Mối

thử thách đối với chúng ta ngày nay, đó chính là phải củng cố cho vững

chắc được cái nền tảng của tương lai dân chủ tại Âu châu và còn đi xa

hơn nữa, bằng cách bắt rễ thật chặt xã hội chúng ta vào với những giá trị

của di sản hiến định truyền thống của Âu châu, mà chúng ta sẽ tiếp tục

củng cố và phát triển hơn mãi.”

Trải qua mấy thế kỷ chiến tranh đẫm máu và tranh chấp căng thẳng liên

tục tại khắp các vùng đất thuộc Âu châu, cũng như phải gánh chịu hai

nền độc tài khắc nghiệt, tàn bạo của Đức quốc xã và của cộng sản mới

đây trong thế kỷ XX, lúc này Âu châu mới bắt đầu có cơ duyên phục hồi

lại được nền Dân chủ Đa nguyên, Tinh thần Tôn trọng Nhân quyền và

các Tự do nền tảng, cũng như nền Pháp trị.

Và trong 20 năm qua, với sự ra đời của Ủy hội Venice, cũng như nhiều

định chế văn hóa xã hội cũng như chính trị khác nữa, thì người Âu châu

cũng như người ở những châu lục khác trên thế giới đã bắt đầu thấy

được một niềm hy vọng tràn đày lạc quan về một thế giới trật tự hơn, an

hòa hơn và nhân ái hơn nữa vậy./

Washington DC, Mùa Xuân Canh Dần 2010

 Đòan Thanh Liêm

NHÌN LẠI CUỘC ĐỜI ĐỐI VỚI ĐẢNG CỘNG SẢN

NHÌN LẠI CUỘC ĐỜI ĐỐI VỚI ĐẢNG CỘNG SẢN

Nguyễn Đình Cống

ĐẶT VẤN ĐỀ

Tôi sinh năm 1937. Nhìn lại cuộc đời 80 năm qua có liên quan đến cộng sản (CS) tôi tạm chia thành 5 giai đoạn. 1- lúc còn nhỏ (trước 1945) thỉnh thoảng nghe nói về CS, được tiếp xúc với một số đảng viên bí mật đến vận động cha tôi làm cách mạng, tôi biết và có cảm tình với CS từ đó. 2- Từ 10 đến 30 tuổi, được nghe tuyên truyền, được học và hoàn toàn tin tưởng vào CS, vào Chủ ngĩa Mác Lênin (CNML). 3- Từ 30 đến 50 tuổi, khi đã thấy nhiều, biết nhiều, đặc biệt là qua chiêm nghiệm thực tế tôi có một số nghi ngờ về sự đúng đắn của CNML và CS. 4- Từ 50 đến 70 tuổi tôi thấy sợ vì nhiều người bị bắt bớ tù đày, bị thủ tiêu chỉ vì nói ra cái sai của CNML, hoặc bị Đảng CS nghi ngờ, vu oan giá họa. 5- Từ 70 tuổi trở đi, dần dần tôi vượt qua sự sợ hãi và dám công bố một số nhận thức, vạch ra cái sai lầm, độc hại của CNML. Tóm tắt 5 giai đoạn là : BIẾT, TIN, NGHI, SỢ, VƯỢT.

Sau khi tuyên bố ra Đảng (tháng 2-2016) tôi nhận được nhiều bình luận, có đồng tình, ủng hộ, có phê phán, thắc mắc, có cả chửi rủa, mạt sát. Tạm bỏ qua những lời đồng tình, ủng hộ với sự thông cảm chân thành, quên đi những lời chửi rủa, mạt sát mang đầy vu khống. Tôi chỉ xin đề cập đến những lời phê phán, những thắc mắc. Những điều này mới nghe qua thì thấy có lý, chứng tỏ người viết có suy nghĩ. Tuy vậy nó có thể đúng với người này, trong trường hợp này nhưng lại không đúng với người khác, trong ttường hợp khác mà chỉ khi suy nghĩ sâu sắc, khi có chiêm nghiệm rộng rãi mới nhận ra được. Xin tóm tắt thành các vấn đề sau:

1-Lúc trẻ đã mất công phấn đấu để xin vào Đảng, đến già tại sao lại dở chứng. Mà muốn ra thì lặng lẽ xin ra, việc gì phải công khai , phải chăng là muốn nổi tiếng.

2-Khi vào Đảng đã thề trung thành trọn đời đối với Đảng, với CNML, nay quay lại phê phán CNML và từ bỏ Đảng, như vậy là phản bội lời thề.

3-Nhờ có công ơn Đảng mới được đi học, được phong giáo sư tiến sĩ, về nghỉ có lương hưu, từ bỏ Đảng là việc làm của kẻ ngu dốt , vô ơn. Mục tiêu của Đảng là xây dựng đất nước hòa bình, tự do, dân chủ, hạnh phúc, văn minh. Ra Đảng phải chăng là chống lại mục tiêu cao đẹp đó. Biết bao nhiêu người theo Đảng, hy sinh xương máu để đem lại độc lập, thống nhất, việc từ bỏ Đảng là phản bội lại ông cha, là không thực hiện “uống nước nhớ nguồn”.

4- Chủ nghĩa không sai, Đảng không sai, xã hội có một số tệ nạn chỉ là do một số cán bộ thoái hóa biến chất, tại sao không dám trực diện đấu tranh với họ mà lại làm một việc dại dột là chống Đảng.

5- Tự cho là một trí thức chân chính sao không cống hiến hết mình mà lại từ bỏ Đảng.Việc ra Đảng chỉ làm mất uy tín, bị nhiều người phỉ nhổ. Có giỏi thì lập ra tổ chức để đấu tranh, vận động và dẫn đầu biểu tình chứ chỉ “ làm anh hùng bàn phím” thì là đồ mạt hạng.

6-Ông đã 80 tuổi, nên an hưởng tuổi già bên cháu chắt, vui với chim cá, cây cảnh, dây vào chính trị làm gì. Nếu không thích chế độ Xã hội chủ nghĩa do ĐCS lãnh đạo thì cuốn xéo ra nước ngoài mà ở.

Tôi sẽ lần lượt kiểm điểm từng vấn đề, xem rằng đó là việc tự nhìn lại cuộc đời đối với Đảng CSVN. Nghĩ rằng khá nhiều bạn cùng hoàn cảnh cũng có quan điểm tương tự nên xin dùng chủ ngữ “ chúng tôi” trong một số chỗ, để ngụ ý có một số người cùng nghĩ và làm như vậy chứ không phải chỉ một mình tôi.

VẤN ĐỀ 1. Phấn đấu vào Đảng và thông báo ra Đảng.

Ngược với nhiều đảng viên khác, chúng tôi vào Đảng không nhằm đạt được quyền lợi cá nhân nào đó và   không có việc phấn đấu để vào Đảng. Chúng tôi phấn đấu với mục tiêu trở thành người yêu nước chân chính, có trình độ cao về nhiều mặt, có đạo đức, có lý tưởng tốt đẹp. Mục tiêu đó cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn đảng viên. Khi tổ chức Đảng thấy cần kết nạp chúng tôi thì kết nạp mà không thì thôi. Chính vì lẽ đó mà nhiều trí thức thế hệ chúng tôi vào Đảng lúc đã là U50. Thời gian trước 1980 ( khoảng chừng) Đảng rất hạn chế kết nạp các trí thức trình độ cao, có dính dáng đến thánh phần thù địch giai cấp. Việc đó làm cho lực lượng Đảng ở các trường đại học không tương xứng với đội ngũ cán bộ khoa học và nhiệm vụ lãnh đạo công tác đào tạo. Từ 1980 về sau Đảng mới quan tâm hơn đến việc thu hút trí thức, mở rộng việc kết nạp những người xuất thân từ các thành phần bậc cao ( trong cải cách xã hội, ông bà, bố mẹ bị qui là địa chủ, phú nông, tư sản, quan lại ). Khi vào Đảng mọi người làm đơn xin, đối với chúng tôi đó chỉ là một thủ tục, chứ không phải là xin một quyền lợi, một vinh dự. Chúng tôi vào Đảng là để làm việc tốt hơn chứ không phải để có quyền lợi nhiều hơn, không nhằm đạt danh vọng hoặc vinh dự cao hơn. Đó là điều khác biệt với một số đông đảng viên khác. Điều này người ngoài ít khi nhận thấy. Những kẻ cơ hội xin vào Đảng để tìm quyền lợi hoặc danh vọng cũng như những người quen với suy nghĩ nông cạn không thể hiểu được điều đơn giản có thật vừa trình bày.

Vào Đảng để được làm việc tốt hơn, đến khi thấy vai trò đảng viên không còn tác dụng cho công việc, lại thấy quan điểm của Đảng và của cá nhân khác nhau ( kiên trì hay từ bỏ CNML) thì việc ra Đảng là chuyện bình thường, không vi phạm đạo đức, không phải là tội lỗi.

Đã có nhiều đảng viên khi nghỉ hưu đã lặng lẽ bỏ Đảng bằng nhiều cách. Đầu tiên tôi cũng định chọn cách lặng lẽ, nhưng thời gian vừa qua, khi tôi công bố một số bài phê phán CNML thì có nhiều bạn góp ý, cho rằng tôi chỉ là một thằng hèn khi một mặt phê phán CNML, mặt khác vẫn đeo bám Đảng, các bạn khuyên tôi nên từ bỏ càng sớm càng tốt. Trước đó chính tôi cũng tự thấy như vậy. Tôi công khai việc làm là có phần trả lời góp ý đó và tin là nhờ vậy mà các bài viết của tôi có tác dụng hơn. Tôi biết có nhiều đảng viên cũng đang phân vân giữa việc ở lại và ra vì chưa lường trước được hậu quả công việc. Tôi đã vượt qua sự đắn đo, sự sợ hãi, làm một phép thử để các bạn tham khảo. Tôi không làm đơn xin mà viết thông báo vì nghĩ rằng đơn xin là bị động, phải chờ đợi sự xét duyệt. Đã xin thì phải chịu sự lệ thuộc, có thể được cho hoặc không . Hơn nữa tôi không muốn làm mất thì giờ của một số cán bộ Đảng phải họp để thảo luận và xét. Thông báo chủ động hơn, tiết kiệm thời gian hơn, hiệu quả hơn. Còn muốn nổi tiếng ư ?. Không ! Tôi biết trước rằng khi công khai việc này sẽ nhận được không ít sự bất đồng, trách móc, phê phán, chửi rủa. Tôi phải chiến thắng sự sợ hãi và tâm lý an phận mới dám làm .

VẤN ĐỀ 2-Lời thề khi vào Đảng

Trong lễ kết nạp, đảng viên mới phải tuyên thệ. Lời thề thường gồm 4 nội dung : 1- Trung thành tuyệt đối với Đảng, với lý tưởng CS. 2- Học tập thấm nhuần, làm theo tư tưởng, đường lối của CNML, xem đó là kim chỉ nam. 3-Làm tốt mọi nhiệm vụ đảng viên. 4- Có liên hệ và công tác quần chúng tốt.

Đối với nhiều người khác thì lời thề ấy thường được soạn theo mẫu do Chi ủy hướng dẫn. Tôi biết trong nhiều trường hợp người ta đọc lời thề chỉ là làm cho đủ thủ tục hình thức , còn trong thâm tâm họ nghĩ khác. Khi vào Đảng tôi đã 48 tuổi và là phó giáo sư, tiến sĩ, trưởng bộ môn. Tôi không muốn làm kiểu sáo vẹt mà phải trung thực, vì vậy tôi tự soạn ra lời thề cũng gồm 4 nội dung, điều 3 và 4 gần gần như theo mẫu, còn điều 1 và 2 đã sửa theo cách khác. Xin chép lại : Điều 1- Xin thề tuyệt đối trung thành với lý tưởng và sự nghiệp giải phóng dân tộc, đấu tranh cho đất nước hòa bình, độc lập thống nhất, xây dựng xã hội tự do dân chủ, công bằng, vì sự phát triển của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Điều 2- Xin thề không ngừng học tập để nâng cao trình độ mọi mặt, nghiên cứu sâu sắc CNML, Chủ nhĩa cộng sản và con đường xây dựng Chủ nghĩa Xã hội.

Bây giờ xem lại tôi thấy đã không vi phạm, không phản bội lời thề ở chỗ nào hết. Tôi thể tuyệt đối trung thành với lý tưởng và sự nghiệp tốt đẹp chứ không thề trung thành với Đảng, bây giờ tôi vẫn trung thành với lý tưởng và sự nghiệp đó. Tôi thề nghiên cứu sâu sắc CNML, CNCS, con đường CNXH chứ không thề trung thành với những điều ấy. Chính nhờ nghiên cứu sâu sắc mà tôi phát hiện ra những sai lầm, những độc hại trong đó, thấy rồi tôi tìm cách nói lại với mọi người. Những ai cho rằng tôi đã phản bội lời thề vì họ tưởng nhầm tôi cũng đã đọc lời thề theo kiểu sáo vẹt như nhiều người khác. Mà nếu có ai đó khi được kết nạp có thề trung thành với Đảng, với CNML, bây giờ họ thấy đã bị nhầm, họ ra Đảng thì đồng thời họ có quyền xóa bỏ lời thề đã đọc, việc đó không có gì sai trái.

VẤN ĐỀ 3- Mục tiêu của Đảng, công ơn Đảng, uống nước nhớ nguồn

Đảng tuyên truyền rằng “ Mục tiêu là xây dựng đất nước hòa bình, thống nhất, dân chủ, công bằng, giàu mạnh, văn minh”. Đối chiếu vào thực tế thì thấy đó là mong ước của nhiều đảng viên, cũng là một phần mục tiêu của Đảng khi mà quyền lợi của dân tộc và của Đảng là thống nhất. Mà oái oăm thay, quyền lợi của Đảng, đặc biệt là quyền lợi của các nhóm lợi ích bậc cao trong Đảng có nhiều khi mâu thuẩn với quyền lợi dân tộc. Mục tiêu cao hơn của Đảng, mục tiêu chủ yếu là bảo vệ Đảng bằng bất kỳ giá nào, là kiên trì CNML, là giữ vững nền độc tài toàn trị. Còn mục tiêu của nhiều cán bộ từ thấp đến cao là lo thu hồi vốn bỏ ra khi chạy chức chạy quyền và làm giàu cá nhân, là lo bảo vệ lợi ích nhóm. Như vậy mục tiêu xây dựng đất nước như trên chủ yếu là để tuyên truyền, lôi kéo nhân dân đi theo. Đảng cũng bắt buộc phải nêu khẩu hiệu “ Đặt quyền lợi dân tộc lên trên”, nhưng đó chỉ là thủ đoạn tuyên truyền. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng “VN là đất nước không chịu phát triển”, rằng để phát triển đất nước thì việc đầu tiên là phải cải cách thể chế chính trị. Như vậy, việc chúng tôi vạch ra những sai lầm của CNML, của thể chế và ra khỏi Đảng không phải nhằm chống lại mục tiêu tốt đẹp xây dựng đất nước mà là chống lại những cản trở để thực hiện mục tiêu đó, chống lại sự tuyên truyền ngụy biện, chống lại sự nô dịch về tư tưởng và thông tin.

Về công ơn Đảng. Một thực tế của lịch sử là ĐCS đã độc quyền lãnh đạo và quản lý đất nước trong thời gian qua, nhưng dân tộc được hay bị cái sự ấy thì xin tạm gác lại. Chỉ xin bàn đến vấn đề đối với từng cá nhân. Rõ ràng là có một số người nhờ có Đảng mà đã thoát cảnh lầm than, trở nên ông này bà nọ. Nhưng không phải toàn bộ dân VN đều như thế. Rõ ràng là Đảng đã lãnh đạo để có chiến thắng 30 tháng 4, nhưng nói về nó Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt có câu để đời: “ Triệu người vui và triệu người buồn”. Trong cải cách ruộng đất, nhiều bần cố nông vui mừng được chia quả thực, họ rất nhớ công ơn Đảng. Trong khi có hàng vạn phú nông, địa chủ, nhân sĩ trí thức, kể cả nhiều người có công với cách mạng và kháng chiến chống Pháp bị sát hại, bị “đạp đầu xuống bùn đen vạn kiếp”. Những nhà tư sản bị tịch thu tài sản, bị đuổi đến vùng kinh tế mới, những thuyền nhân mà không ít bỏ xác giữa biển , những người của Việt Nam cộng hòa bị bắt vào các trại cải tạo, những dân oan…. Những người vừa kể không bao giờ nhờ công ơn Đảng. Mà tất cả họ đều là người Việt.

Về các giáo sư tiến sĩ ( GSTS). Có rất nhiều người Việt trở thành GSTS, kể cả nhà khoa học lớn mà không nhờ gì đến công ơn ĐCSVN, thậm chí một số còn tích cực chống lại chủ thuyết CS, họ đang làm việc có hiệu quả khắp nơi trên thế giới. Một số trí thức lớn như Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Văn Huyên, Trần Hữu Tước, Tôn Thất Tùng, Lương Định Của v.v… đã phục vụ đắc lực cho ĐCS thì cũng không phải nhờ Đảng họ mới có tri thức và khả năng cần thiết.

Có khá nhiều GSTS được đào tạo từ dưới chính thể của ĐCSVN. Loại trừ một số GSTS dổm, chạy được học vị, học hàm nhờ vào mưu mô, thế lực hoặc tiền bạc thì cũng có một số trở thành GSTS thứ thiệt, có trình độ là nhờ công ơn Đảng. Số người này nếu không có Đảng nâng đỡ thì chưa chắc đã học xong phổ thông chứ nói gì đến GSTS. Nhưng một số khác thì không phải như vậy.

Đảng bắt đầu mở rộng đào tạo trí thức bậc cao vào khoảng từ 1960 trở đi bằng cách gửi người sang các nước XHCN. Bắt đầu chỉ chọn các đảng viên hoặc người xuất thân từ công nông, nhưng không đủ, bắt buộc phải mở rộng cho các thành phần khác. Khi cử người đi học thì mục tiêu của Đảng không phải là ban ơn cho một ai đó mà là đào tạo cán bộ để phục vụ Đảng.Trước khi ra nước ngoài chúng tôi được học chính trị, được chỉnh huấn, được cán bộ Đảng căn dặn rất kỹ càng là đi học cũng là một nhiệm vụ quan trọng do Đảng giao, phải học tốt để về phục vụ Đảng. Như vậy việc được đi học không phải là chịu sự ban ơn, đành rằng mỗi chúng tôi đều biết ơn trong việc cụ thể này. Việc được phong giáo sư cũng chủ yếu không phải là nhờ sự ban ơn của Đảng, mà chủ yếu là do sự nổ lực hoạt động khoa học của cá nhân, ai đã từng nhận danh hiệu này một cách chính đáng đều biết rõ như vậy.

Kể cả khi bạn thực sự nhờ công ơn Đảng mới có được học vị, học hàm xứng đáng thì đức tính trung thực và lòng tự trọng không cho phép bạn làm ngơ trước những sai lầm của CNML, không cho phép bạn tự biến mình thành kẻ chỉ biết phục tùng , cúi đầu phụ họa, chỉ biết ca ngợi một chiều để giữ được miếng cơm manh áo và sự yên ổn tạm thời cho bản thân và gia đình.

Về “ uống nước nhớ nguồn” tôi đã viết và công bố bài “Những ai đã phản bội ông cha” chứng minh rằng chính một số ông cha chúng ta đã chọn sai con đường theo CNML, nay chúng ta phải sửa sai, và bọn người thực sự phản bội sự hy sinh xương máu của ông cha chính là những kẻ đang củng cố sự độc quyền toàn trị và bọn lợi ích nhóm đang cố duy trì chế độ lỗi thời để tham nhũng, để vinh thân phì gia. Về đóng góp xương máu thì gia đình tôi có 5 liệt sĩ là cha tôi và 4 người con cháu của ông. Gần đây tôi đã xây dựng được nhà thờ để thờ tự các liệt sĩ và tổ tiên. Nói rằng việc làm của chúng tôi là sự phản bội ông cha, không thực hiện việc uống nước nhớ nguồn là không đúng, là vu cáo.

VẤN ĐỀ 4- Đảng không sai, chỉ có cá nhân sai.

Một số ngườ i cho rằng CNML luôn đúng, Đảng không sai, chỉ có một số cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất làm sai. Thì đấy , ngay như chuyện tham nhũng hoặc mất dân chủ, Đảng luôn kêu gọi chống lại, thế mà nó vẫn phát triển, chỉ là do cán bộ không thực hiện mà thôi. Những người nghĩ và tin như vậy thực ra đã được nghe tuyên truyền chỉ từ một nguồn, đã bị nhồi sọ bởi những lập luận ngụy biện. Chúng tôi hồi trẻ vẫn tin như thế, nhưng rồi dần dần, được tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin khác nhau và đặc biệt chiêm nghiệm từ cuộc sống thực tế, tự suy nghĩ sâu sắc một cách khoa học mới nhận ra không phải như vậy. Phần lớn những điều tốt đẹp mà Đảng nói tới chủ yếu chỉ là tuyên truyền ngụy biện, còn sự toàn trị của Đảng hàng ngày hàng giờ sinh ra và nuôi dưỡng các tệ nạn đủ thứ. Câu nói “Mọi lý thuyết đều màu xám, chỉ cây đời mãi xanh tươi” hoặc “Chớ cả tin vào lời người ta nói, hãy xét xem việc họ làm” đã được lịch sử nhân loại kiểm nghiệm, đúng cho mọi lý thuyết, cho mọi người, mọi tổ chức, không riêng gì cho CS.

Về các bài viết và việc làm của tôi, một số người cho là tôi cố ý chống lại ai đó ( lãnh đạo chẳng hạn), chống Đảng , chống CNML. Tự trong thâm tâm tôi không muốn chống ai cả mà chủ yếu là muốn cung cấp thông tin nhằm thức tỉnh những ai muốn tìm hiểu các quan điểm khác nhau. Còn đối với những người chỉ biết tin theo một nguồn, chỉ cố giữ chặt một quan điểm thì làm sao lay chuyển họ được. Kể ra tìm cho kỹ thì cũng có lúc tôi chống đối nhưng không chống ai cả mà là chống lại những quan điểm, những việc làm mà tôi cho là sai quy luật, là có hại cho dân tộc và nhân loại.

VẤN ĐỀ 5-Bàn về cống hiến

Đối với mỗi người cống hiến quan trọng nhất là trong việc phát triển đất nước và nhân loại. Tùy hoàn cảnh, tùy thời gian mà việc cống hiến này sẽ là tốt hơn khi ta ở trong hoặc ngoài Đảng. Trước đây thấy rằng vào Đảng sẽ có khả năng công tác tốt hơn nên chúng tôi gia nhập khi Đảng yêu cầu. Bây giờ thấy sự ra khỏi Đảng sẽ có tác dụng tốt hơn cho sự phát triển nền dân chủ của đất nước nên chúng tôi ra. Như vậy việc ra Đảng đã không làm giảm mà về khía cạnh nào đó còn làm tăng sự cống hiến, tất nhiên đó là cống hiến cho dân tộc chứ không phải là cống hiến, là hy sinh để bảo vệ những sai lầm của Đảng.

Riêng bản thân tôi, tự kiểm điểm trong cả cuộc đời cho đến bây giờ tôi đã làm việc hết sức mình để đóng góp vào sự phát triển của đất nước và đạt nhiều thành tích đáng kể, bạn bè, học trò của tôi, lãnh đạo những đơn vị và địa phương quản lý tôi đều biết rõ, tôi xin không kể ra vì đây không phải là nơi báo cáo thành tích.

Trong việc đấu tranh cho nền dân chủ, mỗi người tùy hoàn cảnh mà chọn cho mình công việc thich hợp. Việc lập tổ chức này khác, việc dẫn đầu biểu tình hoặc đi vận động việc nọ việc kia đã có nhiều người thich hợp hơn. Tôi, một giáo sư 80 tuổi, tôi chọn công việc thích hợp và không kém phần quan trọng là viết bài để thức tỉnh những ai còn ngộ nhận, những ai muốn tìm hiểu sự thật. Để làm việc đó cần trí tuệ và lòng dũng cảm, công việc cũng khá khó khăn, và làm được sẽ có lợi cho phong trào. Nếu làm như vậy mà có bị ai đó chê bai, trách móc, coi thường thì tôi cũng chấp nhận mà không có gì phải tự ái, không việc gì phải xấu hổ.

VẤN ĐỀ 6- Tuổi già và sự an nhàn

Tuổi gìa muốn được an nhàn, đó là tâm lý chung cần được tôn trọng. Nhưng có một số người già vẫn còn sức lực và trí tuệ, đặc biệt là vẫn còn nhiệt tình hoạt động giúp ích cho đời . Trong hoạt động vì độc lập tự do của đất nước, vì dân chủ và hạnh phúc của nhân dân nhiều chiến sĩ cách mạng thề phấn đấu đến hơi thở cuối cùng, nguyện trọn đời phục vụ nhân dân. Những người già như vậy càng nên được tôn trọng hơn chứ không nên tìm cách dè bỉu hoặc ngăn cản. Hồ Chí Minh có một số câu thơ : Năm 1947 Người viết tặng 3 cụ ở Cao Bằng : Tuổi cao chí khí càng cao. Múa gươm giết giặc ào ào gió thu….Năm 1960 Người viết : Càng già càng dẻo lại càng dai. Tinh thần gương mẫu chẳng nhường ai…

Tôi xin cám ơn những lời khuyên nên giữ an nhàn, đừng dây vào chính trị. Trong những lời khuyên đó có những tấm lòng tốt, lo cho sức khỏe và sự an nguy của tôi. Nhưng tôi không theo được vì tôi chưa muốn, chưa thể dẹp bỏ nguồn trí tuệ tìm kiếm chân lý, chưa dập tắt được ngọn lửa nhiệt tình muốn cống hiến cho xã hội tốt đẹp hơn. Tôi cũng nhận thấy trong một số lời khuyên có ẩn nấp sự sợ hãi. Ngoài những thứ sợ thông thường của kiếp người như sợ chết, sợ ốm đau, bệnh tật, tai nạn, sợ đói khổ, chia ly v.v… thì Đảng CS đã tạo ra và duy trì được nhiều nỗi sợ nữa cho nhân dân, cho đảng viên, cho cả các cán bộ cao cấp. Người ta sợ bị sát hại, bị đàn áp, tù đầy, sợ bị mang tiến phản bội, phản động, mang tội chống Đảng, chống chế độ, sợ bị vi phạm kỷ luật và những điều cấm, sợ bị mọi người xa lánh, sợ bị mất miếng cơm manh áo, sợ bị ảnh hưởng đến lý lịch và đời sống của con cháu…Sợ quá làm cho người ta trở nên hèn kém, mang nặng tâm lý nô lệ. Sợ quá làm người ta trở thành kẻ dối trá. Tôi đã sợ hãi như thế trong hơn 20 năm, một thời gian quá dài, nay đã phần nào vượt qua được.

Một số bạn xui tôi ra nước ngoài mà ở. Sao lại xui dại nhau thế, hay đấy là lời thách thức, một ý muốn xua đuổi . Tôi biết nhiều ngoại ngữ, lại có nhiều con cháu đang định cư tại nước ngoài, việc ra đó để sống nốt quảng đời còn lại đối với tôi là không có gì khó nhưng tôi không muốn. Tôi muốn và cần ở lại trong nước vì nhiều lý do chứ không chỉ cầu mong sự an nhàn của tuổi già.

LỜI KẾT

Tôi viết là nhằm trao đổi với những người bạn có thiện chí, muốn thực tâm tìm hiểu sự việc chứ không phải để tranh luận với những người chỉ biết mạt sát, chửi rủa một cách vô căn cứ. Kể ra để giải đáp được rõ hơn một vài thắc mắc thì cần viết mỗi vấn đề thành một tiểu luận với chứng minh chặt chẽ và nhiều dẫn chứng sinh động, tôi cũng có thể làm việc đó, nhưng xét ra cũng đã có nhiều người làm. Bài đã quá dài, xin tạm dừng, mong được thông cảm.

Bao giờ người Việt biết thương nhau?

Bao giờ người Việt biết thương nhau?

Song Chi.

RFA

Mỗi năm ở VN trung bình có khoảng từ 8,700-11,500 người chết vì tai nạn giao thông, nằm trong số những quốc gia có tỷ lệ người chết vì tai nạn giao thông cao trên thế giới. (Theo “List of countries by traffic-related death rate” (Wikipedia), tỷ lệ trung bình là 17.4 trên 100,000 người thì tỷ lệ của VN là 24.5. Còn theo đánh giá của tổ chức World Health Ranking về “Road traffic accidents death rate by country”, tỷ lệ số người chết tính trên 100, 000 người của VN là 23.10, thuộc vào khu vực được tô màu xanh, là khá cao).
Nghĩa là trung bình mỗi ngày có khoảng trên dưới 30 người rời khỏi nhà và vĩnh viễn không trở về. Chưa kể hàng ngàn người khác bị thương từ nhẹ đến nặng hoặc vĩnh viễn tàn phế. Tai nạn giao thông đã trở thành một nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với người VN mỗi khi phải bước chân ra đường. Báo chí, dư luận đã gióng lên hồi chuông báo động từ nhiều năm qua, rất nhiều giải pháp kiềm chế đã được đề ra, nhưng tai nạn giao thông vẫn không hề giảm đi.
Có nhiều nguyên nhân như cơ sở hạ tầng, phương tiện giao thông không đảm bảo điều kiện an toàn, thời tiết xấu…, bên cạnh đó, ý thức chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông còn rất kém.

Thử nhìn lại mấy vụ tai nạn giao thông kinh hoàng mà báo chí đưa tin trong những ngày gần đây: Vụ chiếc xe Camry tông chết 3 người tại quận Long Biên, Hà Nội ngày 29.2, theo báo chí, người lái xe đã phạm cùng lúc nhiều tình tiết gây ra tai nạn: uống rượu trước lúc lái xe, không có bằng lái, lái với tốc độ nhanh, vượt sai làn đường rồi tông thẳng vào 2 ông cháu đi xe máy và 1 phụ nữ đi bộ. Trong video clip ghi lại vụ tai nạn, có thể thấy bản thân 2 ông cháu nạn nhân cũng không đội mũ bảo hiểm, người phụ nữ thì đang đi bộ dưới lòng đường, đường xá thì hẹp lại có thêm một chiếc ô tô đậu làm choán mất một phần đường. (“Vụ xe Camry tông chết 3 người: Lái xe không bằng lái, có hơi men”, Dân Trí, “Vụ Camry gây tai nạn và chuyện người Việt ‘nhờn luật’, VietnamNet)

Tất cả những sự bất cẩn, vi phạm luật giao thông này đã dẫn đến vụ tai nạn thảm khốc trên.
Ngày 4.3 tại xã Phù Ủng, Ân Thi, một chiếc xe biển xanh lấn làn tông trực diện vào một người phụ nữ chạy xe gắn máy đang mang thai 8 tháng, khiến cả bà bầu và thai nhi sắp sinh cùng tử vong. (“Xe biển xanh lấn làn tông chết bà bầu 8 tháng”, Người Lao Động)
Ngày 6.3, tại quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, lại một người không có bằng lái, ngồi vào xe taxi của người khác, tông chết một người phụ nữ lớn tuổi và một cháu bé khi cả hai đang ở lề đường trước cửa một ngôi nhà (“Vụ taxi ‘điên’ đâm chết 2 bà cháu: Tài xế không có bằng lái”, Tiền Phong)

Ngày 6.3, tại Quảng Ngãi, một chiếc xe tải chạy rất nhanh, dù đèn đỏ nhưng vẫn ôm cua và tông thẳng từ phía sau một chiếc xe gắn máy chở ba khiến hai mẹ con chết tại chỗ, bé trai may mắn văng vào gầm xe taxi đang dừng chờ đèn đỏ nên thoát chết. Theo bài báo “Xe tải tông hai mẹ con chết thảm, bé trai văng gầm taxi thoát chết”, báo Tuổi Trẻ, “thời điểm xảy ra tai nạn tài xế Trần Quang Phu đã bị Công an huyện Ba Tơ tước giấy phép lái xe”.
Chỉ kể sơ qua vài vụ, đã chứng minh một trong những nguyên nhân chính gây tai nạn vừa nói ở trên: ý thức chấp hành luật giao thông rất kém của người dân. Nói thẳng ra là chúng ta coi thường luật, coi thường tính mạng người khác và cả của chính mình. Sâu xa bên trong là chúng ta không có đủ lòng nhân ái, chất nhân văn để biết nghĩ, biết quý trọng tính mạng của người như của mình.

Trong lĩnh vực chế biến, cung cấp thực phẩm cũng vậy.

Cũng như tai nạn giao thông, tình trạng thực phẩm bị nhiễm bẩn, nhiễm độc…ở VN là một nỗi ám ảnh lớn cho tất cả mọi người. Không ai phủ nhận ẩm thực VN thuộc vào hàng ngon trên thế giới, nhiều món ăn Việt được phổ biến và được yêu thích rộng rãi tại nhiều quốc gia như phở, chả giò, gỏi cuốn, bánh mì thịt, cơm tấm, bánh xèo…Nhưng về mặt vệ sinh, an toàn thì thật đáng ngại.

Không chỉ hàng hóa thực phẩm bị nhiễm độc từ Trung Quốc tuồn qua đường chính ngạch lẫn buôn lậu, chính người Việt cũng đang thản nhiên giết người Việt bởi lối làm ăn chỉ biết có lợi nhuận trước mắt, không nghĩ gì đến sức khỏe, sinh mạng người khác. Người ta sẵn sàng phun nhớt thải cho rau muống xanh, trộn chất tạo nạc là chất cấm sử dụng trong chăn nuôi cho lợn để tăng trọng nhanh, cho phẩm màu, chất bảo quản, chất tăng trưởng, chất tẩy trắng vào trong rau củ, thực phẩm, bánh mứt, sử dụng chất huỳnh quang, hàn the trong công nghệ chế biến bún, phở, thậm chí có một dạo dư luận kinh hoàng về việc phát hiện phoóc môn (Formaldehyde, dùng làm chất tẩy uế, bảo quản tử thi…) được sử dụng trong bánh phở…

Lâu lâu báo chí lại đưa tin, hình ảnh quy trình chế biến nước tương bẩn, làm chả cá, giò sống, lạp xưởng, chà bông, làm sương sâm, sương xáo siêu bẩn…khiến người xem rùng cả mình. Còn hàng rong ngoài đường cho tới hàng quán, tiệm ăn suốt từ Nam ra Bắc, cũng là khuất mắt mà ăn chứ không thể đảm bảo có vệ sinh, an toàn hay không.
Điều đáng nói là ngay chính nhiều người chế biến thực phẩm cũng biết là bẩn nên chỉ để bán cho người khác, còn nhà mình thì không dám ăn!

Trong phiên họp Quốc hội tháng 11.2015, trong phần đặt câu hỏi với Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Cao Đức Phát về vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm, đại biểu Quốc hội Trần Ngọc Vinh đã phát biểu: “Có thể nói con đường từ dạ dày tới nghĩa địa của mỗi người chúng ta chưa bao giờ lại trở nên ngắn và dễ dàng đến thế”(“Con đường từ dạ dày tới nghĩa địa chưa bao giờ ngắn đến thế”, báo Giáo dục VN)

Có thể kể ra vô số những ví dụ về thái độ coi thường sinh mạng người khác nhan nhản trong nhiều khía cạnh của đời sống xã hội VN hiện tại. Từ việc thản nhiên xả rác và những chất bẩn xuống sông ngòi bất chấp việc ô nhiễm nguồn nước; thấy người bị nạn, nhất là tai nạn giao thông nhưng ngại giúp đỡ vì không muốn phiền hà (trong vụ xe Camry tông chết 3 người nói trên, báo chí đưa tin em bé 6 tuổi tim vẫn còn đập đã phải chờ rất lâu sau xe cứu thương mới đến, còn một số xe taxi được người dân vẫy gọi thì không dừng lại…), những bữa cơm giá rẻ nấu cho sinh viên, công nhân với những thực phẩm kém chất lượng thậm chí thiu thối…Cho tới công nghệ tái chế, tái sử dụng rác thải không bảo đảm vệ sinh, đáng sợ nhất là rác thải y tế độc hại đã từng bị báo chí vạch mặt (“Rác thải y tế độc hại lọt từ bệnh viện ra thị trường: Sự thật khủng khiếp bên trong bệnh viện”, Lao Động), tình trạng làm ăn gian dối, không bảo đảm an toàn trong xây cất, trong lao động gây tai nạn v.v…

Ngay cả một số ngành nghề lẽ ra phải được người dân tin tưởng, trông cậy, tìm đến khi có việc như cảnh sát thì ở VN, cảnh sát/ công an lại là những hung thần trong mắt người dân. Có biết bao nhiêu trường hợp người dân chỉ vi phạm những lỗi nhỏ về giao thông nhưng bị công an rượt đuổi, mất bình tĩnh tự gây ra tai nạn có khi tử vong, hoặc chỉ vì những nguyên nhân vặt vãnh, bị đưa về đồn, đang trong quá trình điều tra, tạm giam nhưng lại bị công an đánh đập, bạo hành đến chết.

Hoặc những môi trường phải là nơi an toàn như mẫu giáo, trường mầm non, trường học, bệnh viện…thì chúng ta cũng đọc/xem thấy bao nhiêu vụ cô bảo mẫu bạo hành trẻ, thầy cô xúc phạm học sinh với những lời lẽ rất phản giáo dục, một số trường hợp học sinh vì bị xúc phạm nặng nề mà uất ức dẫn đến làm điều dại dột như tự sát…
Câu hỏi vì sao người Việt chúng ta ác với nhau như vậy, vì sao người Việt chúng ta coi thường tính mạng của người khác như vậy?
Không có một dân tộc nào ác, xấu hơn dân tộc khác.

Một mô hình thể chế chính trị độc tài, giành và giữ quyền lực bằng con đường bạo lực và dối trá, kìm hãm mọi tự do, dân chủ, chà đạp nhân quyền, bóp nghẹt nhân tính trong con người đồng thời cổ súy lối sống chạy theo vật chất danh lợi, bất chấp tất cả…là nguyên nhân. Một nền giáo dục ngu dân, không có triết lý, mục tiêu giáo dục đúng đắn và cao thượng, học để đi thi, học để có bằng cấp chứ không phải học để làm người, một nền giáo dục không dạy cho con người những điều nhỏ bé như biết sống tử tế, có trách nhiệm với mình và với xã hội, có lòng nhân ái, tình yêu thương đồng loại…là nguyên nhân. Khi niềm tin lẫn chỗ dựa từ pháp luật cho tới giáo dục, tôn giáo đều không còn, thì chẳng còn ranh giới gì khiến người ta do dự, sợ hãi trước khi làm điều xấu, điều ác cả.

Còn lại chỉ là mỗi người, mỗi gia đình phải tự giáo dục cho nhau và giáo dục chính mình để ngọn lửa nhân ái, sự tử tế bên trong mình, trong nhau không bị thui chột đi.
Bao giờ chúng ta biết nghĩ cho người khác, biết quý trọng sức khỏe, mạng sống của người khác như của chính mình? Biết quý trọng cái chung, môi trường sống chung? Nghĩ cho người khác, nghĩ vì cái chung cũng chính là nghĩ cho mình và cho con cháu mình trong một mái nhà chung nơi mà từng việc làm của mỗi người sẽ ảnh hưởng đến những người khác, không thể tránh được.

Bí quyết phân biệt người quân tử và kẻ tiểu nhân, thì ra người xưa dựa vào cách này!

Bí quyết phân biệt người quân tử và kẻ tiểu nhân, thì ra người xưa dựa vào cách này!

Tác giả: Theo Ntdtv | Dịch giả: Tâm Nguyễn

¢nh Theo Ntdtv

Ngụy Hi – người được xưng là một trong ba nhà văn hàng đầu của triều đại nhà Thanh từng đã nói rằng: “Ta không hiểu biết như thế nào là làm nên bậc quân tử, nhưng nhìn vào cách bằng lòng chịu thiệt của họ trong mỗi sự việc là biết. Ta không hiểu biết như thế nào làm nên kẻ tiểu nhân, nhưng chỉ cần nhìn vào họ giành được tiện nghi tốt trong mỗi mọi việc là biết”.

Suy ngẫm tỉ mỉ, vậy việc này thực sự là việc như thế nào. Có thể chịu thiệt, thật sự không phải là một việc dễ dàng, cần phải có tâm độ lượng rộng rãi của bao dung nhẫn nhịn. Cam tâm tình nguyện chịu thiệt, đại diện cho khoan dung đại độ, coi trọng tính nhẫn nhục, năng khuất năng thân– co được duỗi được cho phải lẽ sống, đấy thật chính là một quân tử. Thảo nào người xưa biết dùng “có thể chịu thiệt hay không chịu thiệt” làm tiêu chuẩn đầu tiên để phân biệt người quân tử và kẻ tiểu nhân.

Thời xưa, có một vị thượng thư tên Lâm Thoái Trai, ông ta phúc đức rất nhiều, con cháu đầy nhà. Lúc ông ta lâm chung, cháu con quỳ gối trước mặt ông thỉnh xin lời giáo thị trăn trối để lại. Lâm Thoái Trai nói: “Ta không có lời nào khác, các con chỉ cần học chịu thiệt là được rồi”. Những bậc trưởng bối cao tuổi Trung Quốc cũng thường nói, “chịu thiệt là phúc”. Bởi vì các bậc trưởng bối ấy biết rằng con người trên thế gian “Phúc Lộc Thọ” đều là phải dùng đức mà đổi lấy, và chịu thiệt thì có thể tích đức. Từ nghìn xưa đến nay rất nhiều những anh hùng đều là bởi vì có khả năng nhẫn nhục và chịu thiệt đã làm nên đại sự, nổi danh nhất của nhẫn nhục chính là Hàn Tín đã có thể nhẫn nhịn chịu nhục chui háng, có thể nói rằng là đã chịu nhục đến cực điểm, bởi thế sau này Hàn Tín đăng đàn bái tướng, được Lưu Bang phong làm Tam Tề Vương.

Ngược lại, nếu mà luôn khiến người khác phải chịu thiệt, và nhẫn nhịn chịu nhục, thế thì cá nhân ấy chính là phải chịu mất đức rồi đấy, đã là việc xấu lại phóng đại làm cho lớn chuyện vẫn còn phải bị trời trách phạt, thật là cái được chẳng bõ cái mất.

Anh chị Thụ  & Mai gởi