Sầm Sơn & Đồ Sơn

Sầm Sơn & Đồ Sơn

tuongnangtien

RFA

“Một người đến Sầm Sơn trước và sau khi đọc Trống Mái sẽ … nhìn Sầm Sơn khác đi. Bởi quyến vọng biển, núi, mây, nước trong tác phẩm có khả năng thúc đẩy, chuyển biến, có khả năng thay đổi con người, mời gọi viễn du, invitation au voyage, nói theo Bachelard. Và nói theo ngôn ngữ hàng ngày, Trống Mái có khả năng sáng tạo lại môi sinh, tìm về một thế giới nguyên thủy, ở đó có sự thăng hoa của con người đến bầu trời tự do sáng tạo.”

Tôi chưa bao giờ có cơ hội được đặt chân đến Thanh Hoá, và cũng chưa đọc tác phẩm Trống Mái nên không khỏi cảm thấy xấu hổ (lẫn ngạc nhiên) khi xem đoạn văn thượng dẫn của nhà phê bình văn học Thụy Khuê.

Tôi xấu hổ vì vốn kiến thức cùng vốn sống nghèo nàn/hạn hẹp của mình, và ngạc nhiên về khả năng (“thay đổi con người, mời gọi viễn du, invitation au voyage”) của thiên nhiên, qua ngòi bút Khái Hưng.

Nếu nhà văn của chúng ta đừng bị thủ tiêu vào năm 1947, và vẫn sống cho đến hôm nay – chắc chắn – ông cũng kinh ngạc (không ít) khi biết ra rằng Sầm Sơn còn có khả năng “khêu gợi lòng tham” nữa. Bãi biển này, trong những ngày qua, đã làm xôn xao dư luận.

Bãi biển Sầm Sơn. Ảnh: Tuấn Minh

Xin ghi lại đây là vài nhận định – ở trong cũng như ngoài nước, và của cả hai lề – để rộng đường dư luận.

  • Bùi Thanh Hiếu: “Cướp lớn ở Sầm Sơn… Liên tiếp những ngày đầu tháng 3 năm 2016, các ngư dân thuộc thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hoá đã biểu tình để phản đối dự án khu ăn chơi nghỉ dưỡng của tập đoàn FLC triển khai ở bờ biển Sầm Sơn.”
  • Thạch Lựu: “Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được, ngày 03/3/2016 cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thanh Hoá đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự ‘gây rối trật tự công cộng’ và đang tiến hành điều tra, củng cố chứng cứ về hành vi phạm tội của một số đối tượng để xử lý nghiêm trước pháp luật.”
  • Văn Thị Hương: “tôi thử hỏi, 100 triệu các đồng chí bồi thường cho mỗi hộ dân, họ làm gì khi nguồn thực phẩm chính của họ bị mất, đất đai ruộng vườn không còn, khu công nghiệp không có, giá đất tăng vọt, lạm phát tăng, tệ tham nhũng chưa hết?”
  • Hoàng Anh – Văn Hùng:  “Điều bức xúc của người dân Sầm Sơn… Sau khi nhường hết đất cho Cty CP Tập đoàn FLC xây dựng các đại dự án sân golf, resort, khách sạn nghỉ dưỡng…, hàng nghìn người dân ở các xã Quảng Cư, phường Trung Sơn, Trường Sơn, Bắc Sơn… thuộc thị xã Sầm Sơn (tỉnh Thanh Hóa) chỉ còn sinh kế cuối cùng là bám biển mưu sinh. Vậy mà cũng chẳng yên…

Theo quan sát của phóng viên, hàng trăm người dân các xã Quảng Cư, phường Trung Sơn, Trường Sơn và Bắc Sơn đã tập trung trước cổng UBND tỉnh Thanh Hóa. Họ mang theo mỳ tôm, bánh mỳ, nước uống và cả chăn chiếu để chờ đợi gặp lãnh đạo tỉnh. Tuyến đường chính trước cổng UBND tỉnh phải lập hàng rào, hàng chục công an, cảnh sát được huy động để giữ trật tự. Người dân kiên trì chờ đợi.

Chúng tôi sẽ sống bằng gì nếu mất bãi biển”?

Ảnh: Tuấn Minh

Nỗi băn khoăn về sinh kế của người dân Sầm Sơn, trong những ngày tháng tới, khiến tôi chợt nhớ đến Đồ Sơn và sự “phồn thịnh” ở nơi đây nhờ vào dịch vụ bán dâm:

“Bãi biển Đồ Sơn nằm trong những bãi biển du lịch nổi tiếng. Nhưng nói không ngoa chút nào, nếu thiếu và yếu cái dịch vụ đi kèm thì Đồ Sơn chẳng thu hút được mấy khách. Từ lâu, những cô gái chân dài tứ xứ đã đổ về đây cư ngụ, mưu sinh bằng cái thứ mà ông trời ban phát. Hễ nói đi Đồ Sơn là nhiều người lại nháy mắt nhìn nhau bí hiểm. Bởi đến đây, ngoài mục đích là tắm biển thì cái thú vui duy nhất được khách du lịch quan tâm tới đó là…chơi gái…

Ở Đồ Sơn người ta gọi cái nghề bán miền xuôi, nuôi miền ngược này là ngành công nghiệp không khói hay còn nói hay ho là nghề làm giàu không khó. Xây một cái nhà nghỉ, nuôi mấy ả cave, chăn thêm mấy đứa bảo kê là ngồi một chỗ đếm tiền. Tiền vào như nước, mỗi ngày vài chục triệu đồng dễ ợt. Trong khi nền kinh tế suy thoái chưa có hồi kết nhưng những tụ điểm mây mưa, thác loạn như thế này thì vẫn ăn nên làm ra.” (Biên Thùy – “Những Cuộc Mua Vui Nhớp Nháp Ở Đồ Sơn”).

Số lần “nhớp nháp” của khách mua vui đều được ghi chép cẩn thận trong nhật ký của người bán. Xin xem qua đôi dòng của ký giả Anh Đào viết về một cuốn Nhật Ký Đồ Sơn:

Nguồn ảnh: báo Lao Động

“Đó là nhật ký ‘làm việc’ của một cô gái mại dâm gần như kín các dấu ‘X’. Sở dĩ phải ghi chép là để cuối tháng, cuối tuần, cuối ngày ‘đọ sổ’ với chủ mà thanh toán tiền, giống hệt với một dạng ‘chấm công’. Đây là một đoạn trong bài viết: ‘Những ký hiệu dấu sao ‘*’ trong vòng tròn, đó là ‘đi qua đêm’ và được tính bằng 3 ‘cuốc’ đi nhanh. ..Dấu ‘X’ có gạch dưới là những lần đi một lần, tính với chủ là 1, nhưng em cho khách làm 2, được bo khá. Còn cái dấu ‘X’ nằm trong ô vuông thì em không nói gì cả, nhất định không chịu nói ra. Như vậy, đây là một dạng ‘văn vật’ có hồn. Có ngày em đánh dấu 16 ‘nhát’, nói chung số ngày có trên 10 ‘nhát’ hơi nhiều. Ngày nhiều nhất là có tới đánh 21 cái dấu X’, lại có 3 gạch chân’. Nhưng 21 lần/ngày vẫn chưa phải là kỷ lục. Cũng chính cô gái này kể lại: Ở Đồ Sơn có đứa dịp 30/4, đã ‘đi khách’ tính với chủ là 50 lần.”

Số “nhát” hay số lần “nhớp nháp” được tính đủ và chia đều, theo như tường thuật của nhà báo Biên Thùy: “Một cô cave ở Đồ Sơn kể rằng, đằng sau những cô gái bán dâm, đằng sau những đêm mua vui dài dằng dặc là cuộc sống sung túc, đủ đầy của tầng tầng, lớp lớp những tú ông, tú bà. 250 nghìn đồng tàu nhanh ấy cũng phải chia năm, xẻ bảy ra thì mới yên thân, chứ đâu phải làm 10 đồng hưởng cả 10 đồng.

Lại nói đến cái tầng tầng, lớp lớp tú ông, tú bà ở thiên đường này cho rõ. Có những tú ông phơi mặt ngay cổng nhà nghỉ, đứng đón khách tận cửa phòng. Nhưng có cái loại tú ông, tú bà cao cấp hơn, chẳng cần đón khách, chẳng cần phơi mặt ra làm gì cũng có tiền. Những ‘tú ông cao cấp’ như thế chỉ đạo bằng những cú điện thoại, bằng một thứ văn bản không có dấu. Và, ngày ngày vẫn nghiễm nhiên hưởng lợi từ thân xác của gái bán dâm. Thế mới tài!”

Loại “tú ông cao cấp” này càng ngày càng xuất hiện nhiều ở Việt Nam, riêng Thanh Hoá – tất nhiên – cũng không ít. Cứ theo cách nói nước đôi của ông Bí Thư Tỉnh Ủy Thanh Hoá (“bà con nào đồng ý di dời thì nhận tiền bồi thường trước ngày 15.4… bà con nào chưa đồng ý thì cứ làm bình thường như lâu nay…”) trong cuộc đối thoại với dân – vào ngày 7 tháng 3 vừa qua – và theo chủ trương, đường lối, chính sách chung của Nhà Nước hiện nay thì sớm muộn gì Sầm Sơn cũng trở thành Đồ Sơn thôi.

Việt Nam tụt hậu, trách nhiệm không nhỏ thuộc về những nhà “khoa học” và “trí thức”

Việt Nam tụt hậu, trách nhiệm không nhỏ thuộc về những nhà “khoa học” và “trí thức”

FB Trương Nhân Tuấn

18-3-2016

Nếu có tầm nhìn thì VN đã không mỗi ngày một tụt hậu như hôm nay. Trách nhiệm là do lãnh đạo, nhưng một phần không nhỏ là do những nhà “khoa học” và “trí thức”.

Một thí dụ đơn giản, Hà Nội, Sài Gòn… cũng như nhiều tỉnh thành khác. Khoảng mười năm trở lại đây, hễ mùa mưa đến là ngập lụt. “Hà Nội mùa này nước cũng như sông”. Sài Gòn cũng vậy, không kém.

Nguyên nhân do trời hay do người? Và đâu là “giải pháp”?

Cả chục năm rồi, mưa xuống là lụt, người dân dài cổ chờ “giải pháp”.

Người ta cần giải pháp chớ không cần nghe “lý thuyết”.

Người nông dân đồng bằng sông Cửu Long hiện nay đang khóc ròng, lớp khóc vì mất mùa, ruộng lúa cháy khô. Lớp khóc vì tiền tỉ nuôi con hàu, con tôm, con cua… tiêu tan thành mây khói. Mà một phần lớn dân nghèo khác khóc đến chảy máu mắt, vì giá nước ngọt trở nên đắt đỏ.

Người dân cần “giải pháp” chớ không cần nghe “khoa học gia” dạy bảo phải trồng cây gì, nuôi con gì.

Ý kiến của những “khoa học gia” VN, trên “lý thuyết” đều rất hay. Vấn đề là “trái mùa”.

Chuyện nhiễm mặn, chuyện trái đất hâm nóng và thay đổi thời tiết, chuyện các nước xây dựng đập ở thượng nguồn sông Cửu Long, cũng như chuyện lụt lội mùa mưa ở Hà Nội, Sài Gòn… người ta đã biết trước hàng chục năm rồi. Người ta cần giải pháp. Người ta mỏi cổ chờ mà giải pháp không thấy.

Hôm qua tôi đã viết, nếu có tâm và có tầm, thì trước tiên người ta đào tạo “vốn con người”. Đài Loan, Đại Hàn là hai nước có điểm tương đồng với VN, sau độc lập, kinh tế đặt nền tảng lên nông nghiệp. Hai nước này “hiện đại hóa, công nghiệp hóa” đất nước thành công, từ thập niên 70, 80. Đóng góp của nông nghiệp cho GDP từ 40%, chiếm 70% dân số, xuống còn khoảng 3% và không tới 10% dân số. Còn Việt Nam, bốn thế hệ đã qua là bốn đời nông dân tiếp bước. Dân số sống về nông nghiệp, đặc biệt ở miền nam (lục tỉnh), vẫn không thay đổi với thời gian, lên trên 80%.

Nếu có “tầm”, lý ra VN đã phải kiểm soát các đập nước ở thượng nguồn. Bởi vì VN không thể ngăn cấm các nước khác xây đập. Vì vậy, để không bị lệ thuộc, VN phải “kiểm soát” được các đập, bằng cách “đầu tư” xây dựng. VN không “nắm” được, vì thế sinh mạng ĐBSCL nằm trong tay các nước thượng nguồn.

Và nếu có tâm và có tầm, hạ tầng cơ sở (hệ thống điện, nước, đường xá, cầu cống, trường ốc…) lý ra cũng phải được xây dựng từ lâu. “Hệ thống nước uống” của nông dân vẫn là những lu nước bên hè (như trăm năm trước). Đường xá nhiều nơi vẫn là chèo xuồng… Nếu hệ thống giếng nước ngọt (miễn phí) dưới thời (chó đẻ) Mỹ, Diệm, Thiệu, Kỳ… được tiếp tục xây dựng thì dân đâu đến đỗi khóc ra máu mắt như hôm nay ?

Hạn hán khắp nơi, bây giờ khoa học gia bày ra chuyện nuôi tôm nuôi cua, thật là trái khoáy.

Những năm trước, khi má tôi còn khỏe, năm nào cận tết cũng cho xe chở về quê (Bạc Liệu) vài chục tấn gạo để “cứu đói”. Mĩa mai, đây là xứ của “công tử Bạc Liêu”, ruộng cò bay thẳng cánh.

Khu vực quê ngoại của tôi, từ khi nước nhiễm mặn, dân người ta cũng bỏ ruộng, đào mương nuôi tôm. Một hai mùa đầu bà con trúng đậm. Nhưng sang các mùa sau, tôm chết như rạ. Thay nước, đổ thuốc… đủ cách, mà cách nào dân cũng chết. (Tôm nhiễm thuốc trụ sinh bán không nước nào mua, cũng chết). Bơm nước rửa ruộng, thì ngay nước ngọt rửa ruộng cũng đã nhiễm mặn. Lúa trồng không được. Rốt cục trồng cây gì, nuôi con gì dân cũng chết. Người dân bỏ xứ đi các nơi ở đợ.

Năm nào cũng vậy, hiếm khi nhìn thấy người dân quê ở đây một nụ cười. Bây giờ nghe nói hạn hán ghê lắm, không có nước ngọt để uống.

Má tôi càng già trí nhớ càng mông lung. Không nhớ tới làng quê không chừng lại khỏe!

Và bây giờ không chỉ riêng quê ngoại của tôi chết vì nhiễm mặn, vì hạn hán. Các vùng khác, trước kia toàn là dân “phú hộ”, nay cũng bắt đầu than trời!

Kế hoạch thì phải tính trước 10 năm, 20 năm. Không cần ai dạy, lũ đến, người dân cũng biết mình phải “trồng cây gì, nuôi con gì”.

Mà bây giờ người dân cần nước ngọt.

OAN KHIÊN

OAN KHIÊN

Lm. Vĩnh Sang, DCCT,

 Trích EPHATA 685

 Trong tuần thứ năm Mùa Chay, Hội Thánh cho chúng ta nghe chuyện bà Susanna trong sách Đanien ( Sách Đanien chương 13 ), câu chuyện thật kỳ thú vì đan xen nhiều tình tiết thú vị. Câu chuyện này được trình bày làm nền để câu chuyện về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong Tin Mừng được nổi bật lên ( Ga 8, 1 – 11 ).

Bà Susanna là nạn nhân của hai người đàn ông, họ là thầm phán kỳ lão trong dân, họ là người có chức có quyền, do lòng dục vọng bất chính, không thỏa mãn được lòng tà, họ bày mưu kiếm cớ để vu oan và kết tội bà, kết cục bà bị lôi ra “tòa án nhân dân”, với những lời buộc tội của hai tên thủ ác mưu thâm, bà bị oan ức nhưng không làm sao minh oan được. Thân phận là người đàn bà, loại người không có quyền tự bào chữa, kẻ tố cáo và kết án lại là kẻ có quyền, có thừa thế lực và lòng tham. Chắc chắn bà phải chết. Bản án tử hình đã được tuyên, đây là loại “án bỏ túi”.

Trong cơn tuyệt vọng, Kinh Thánh ghi lại thái độ phản ứng của bà: Bấy giờ bà Susanna kêu lớn

tiếng rằng: “Lạy Chúa hằng hữu, Ðấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con”.

 Điều kỳ diệu là, để gỡ thế bí và cứu sống bà, Thiên Chúa lại sử dụng một đứa trẻ, không phải là

một người có quyền thế, không phải là một kẻ có chức tước hoặc lão niên, nhưng là một đứa trẻ.

Đanien đã mạnh dạn đứng ra giữa hội đồng, không khiếp sợ uy lực của kẻ ác, Đanien lớn tiếng bày tỏ sự thât về lòng dạ của kẻ thủ ác, Đanien nói về bản chất của sự việc: “Hỡi lão già độc ác, các tội xưa kia ông đã phạm, giờ đây lại tái phạm, ông đã xét xử bất công, đã lên án kẻ vô tội và tha cho người có tội, mặc dầu có lời Chúa phán: “Ngươi chớ giết kẻ vô tội và người công chính”.

Kết thúc vụ án, kẻ ác phải bị chết, người oan được giải oan, mọi người vui mừng vì nhận ra

quyền năng của Thiên Chúa: “Chiếu theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan”.

Lịch sử con người cứ tiếp diễn như một vòng tròn, Kinh Thánh ghi lại những kinh nghiệm của con người về tội lỗi của mình và sức mạnh của quyền năng Thiên Chúa. Đọc Kinh Thánh giữa cuộc sống hôm nay, chúng ta không khỏi ngao ngán vì có quá nhiều những vụ án oan sai liên tục diễn ra trên đất nước chúng ta, có quá nhiều vụ kết án người vô tội và tha bổng cho kẻ có tội.

Có những vụ án đã được phanh phui, kẻ bị oan đã được giải oan, nhưng kẻ gây ra án oan vẫn nhởn nhơ thăng quan tiến chức.Có những vụ án mà gia đình, cha mẹ của tù nhân kéo lê thân già đi khắp nơi kêu oan cho con, bao nhiêu năm tháng sống vật vã ngoài đường ngoài chợ, đến hết cửa cơ quan này rồi lại cổng cơ quan khác, mùa đông rét mướt hoặc mùa hè nòng nực, râu tóc bạc phơ theo năm tháng và dấu thời gian hằn trên gương mặt khắc khổ, con vẫn ở tù, án vẫn cứ trả đi trả về không kết luận, tuổi xuân qua đi chôn vùi cả tương lai cuộc đời. Có những vụ án kẻ oan chết một cách uất ức, gia đình nạn nhân sống trong tủi nhục không lối gỡ, đành ngậm hờn về chốn vĩnh hằng. Ba năm qua, hơn 200 người chết trong đồn CA là những án gì ?

Là người Kitô hữu, qua câu chuyện bà Susanna, Kinh Thánh khuyên chúng ta tin tưởng vào

Chúa, hãy nhìn lên Chúa và kêu cầu Ngài. Chúa nghe tiếng kẻ oan khiên và ra tay cứu vớt. Chúa có cách của Chúa, lắm khi chúng ta không hiểu nổi, Chúa cứu bà Susanna bằng cách sử dụng một đứa trẻ con. Chúa cứu cả thế giới này bằng một trẻ thơ vấn tả đặt nằm trong máng cỏ nơi một hàng bò lừa. Con rắn hiện thân của sự gian tà và độc ác, nó vẫn là thứ gian tà và độc ác không thay đổi, nhưng nếu người Do Thái biết nhìn lên nó theo lời dạy của Chúa, biết nhìn vào sự ác bằng một tâm hồn lắng nghe tiếng Chúa, tin tưởng và yêu mến Chúa thì sẽ thoát chết. Có sự ác nào hơn sự ác con người giết chết Con Thiên Chúa, con người bêu Con Thiên Chúa lên, con người đâm thâu Con Thiên Chúa, nhưng ngay khi ấy, nếu con người biết nhìn lên Đấng bị đâm thâu thì sẽ được cứu. Lời khuyên chân chính vẫn là tin tưởng, kêu cầu và phó thác cho Chúa khi chúng ta “đi qua lũng âm u”.Tuy nhiên, Kinh Thánh không chỉ trình bày cho chúng ta hướng sống như trên, Kinh Thánh còn kể cho chúng ta nghe về sự can đảm và dám nói sự thật của trẻ Đanien. Đanien bất chấp quyền lực thế gian, bất chấp vai vế, chức vụ thế gian, bất chấp sự sợ hãi về hậu quả của việc nói lên sự thật và bất chấp những nguy hiểm có thể đến với mình, những rắc rồi đến với những người thân của mình. Đanien mạnh dạn nói lên sự thật, lên án bất công, minh oan cho người vô tội. Chúa không làm phép lạ bằng cách hô biến, nhưng Chúa cần có người cộng tác với Chúa để bày tỏ quyền năng và tình thương.

Có ai làm Đanien hôm nay không ?

Lm. Vĩnh Sang, DCCT,

tuần 5 Mùa Sám Hối 2016

BÀI HỌC TỪ BỤI TRO

BÀI HỌC TỪ BỤI TRO

Hoa và Rác

      Người giúp việc vừa lau chùi bàn ghế trong phòng khách vừa ngắm nghía bình hoa hồng tươi đẹp đang được trân trọng đặt trên mặt bàn bóng láng.
Thấy người giúp việc chăm chú nhìn mình với ánh mắt cảm phục, hoa hồng tỏ ra kiêu hãnh và nói:

– Anh xem trên đời nầy có hoa nào vừa đẹp, vừa sang, vừa thơm ngát như tôi không?

Người giúp việc đáp:
– Sớm muộn gì thì mầy cũng chỉ là rác!

Hoa hồng cảm thấy bị xúc phạm nặng nề trước lời nói đó, nên tỏ ra gay gắt:

– Ta xinh đẹp thế nầy, ta đang toả hương thơm ngát thế nầy, ai cũng quý mến ta; ta được tôn vinh trong phòng khách sang trọng thế nầy, vậy mà nhà ngươi dám xỉ nhục ta, dám gọi ta là rác ư!

Nhà ngươi xúc phạm ta quá đáng.

Người giúp việc bồi thêm:
– Mầy sẽ là bụi tro!

Hoa hồng tức tối đáp lại :
– Nhà ngươi là kẻ ăn nói ngang ngược! Nhà ngươi có biết trong Ngày Tình Yêu, tất cả các đôi nam nữ trên thế giới đều chọn ta để đem tặng cho những người bạn tình yêu quý nhất đời của họ hay không? Nhà người có biết là trong ngày đó, ta được các hoàng tử, các công chúa, những chàng công tử tài hoa, các cô thiếu nữ cao sang đài các… nâng niu ta trên tay, ôm ấp ta vào lòng, quý trọng ta đến thế nào không? Thế mà nhà ngươi dám cho rằng ta là bụi tro ư! Thật không có lời nào xúc phạm đến phẩm giá của ta như những lời ngươi vừa nói.

Người giúp việc bồi tiếp :
– Mầy sẽ là phân bón!

Hoa hồng tỏ ra phẫn nộ :
– Ôi ! Trời ơi là Trời ! Có ai ăn nói hỗn hào như ngươi không! Ta là Hoa Hồng, là Nữ Hoàng của các loài hoa. Nhà ngươi xúc phạm đến ta là xúc phạm đến các chủng loại hoa hồng nói riêng, đồng thời xúc phạm cả mọi loài hoa trên đời, vì ta là Hoa Hồng, là Nữ Hoàng của các loài hoa.

Hoa Hồng giận quá! Cơn giận bốc lên ngùn ngụt khiến hoa hồng ngất đi một hồi lâu mới tỉnh.

Thế là từ lúc đó, cơn giận sôi sục trong lòng đoá hoa hồng khiến nó không ăn, không ngủ, không một phút giây bình an… Và thế là nó héo đi nhanh chóng.

Qua ngày hôm sau, chủ nhà thấy hoa hồng đã héo, vứt nó ra hố rác. Thế là hoa hồng kiêu sa, đẹp lộng lẫy, toả hương thơm ngát làm đắm đuối lòng người, bây giờ trở nên rác, đúng như lời người giúp việc đã nói về nó.

Bởi vì rác hoa hồng nằm chung với các thứ rác khác nên bốc mùi hôi, do đó chủ nhà bảo người giúp việc đốt rác đi. Thế là hoa hồng bây giờ trở thành tro! Đúng như lời người giúp việc đã nói về nó.

Mấy ngày sau, chủ nhà lại sai người giúp việc hốt tro trong hố rác trộn chung với các thứ phân chuồng để đem đi bón ruộng. Thế là hoa hồng bây giờ đã trở thành phân bón! Đúng như lời người giúp việc đã nói về nó, mới ngày hôm kia.

Ôi, kiếp hoa hồng là thế, hôm nay là hoa đẹp lộng lẫy kiêu sa toả hương thơm ngát, ngự trị trong phòng khách xa hoa sang trọng, mai sẽ là rác thối, là tro bụi và cuối cùng là phân bón!

Xin ngẫm lại mà xem. Thân xác chúng ta rồi cũng như thế thôi. Dù hôm nay chúng ta rất xinh đẹp được nhiều người mê say quyến luyến; dù hôm nay chúng ta giàu có sang trọng được mọi người kính nể; dù hôm nay chúng ta thông minh, tài trí được người ta tôn trọng… thì mai đây thân xác chúng ta cũng chỉ là rác, là tro bụi và là phân bón thôi.

Nghi thức xức tro trong ngày thứ Tư Lễ Tro nầy nhắc nhở ta luôn nhớ rằng mai đây chúng ta chỉ là bụi tro.

Ý tưởng nầy được thánh vịnh hôm nay nhắc lại : “Hỡi người! Hãy nhớ mình là bụi tro. Mai sau người sẽ trở về bụi tro.”

Bài học bụi tro

Khi biết thân phận mình rồi chỉ là tro bụi, tôi rút được nhiều bài học hay:
Tôi sẽ không tự cao tự đại, không kiêu căng, vì phận mình là tro bụi, là thứ thấp hèn mà tự nâng mình lên, tự cho mình là lớn lao cao cả hơn người khác là chuyện nực cười.

Tôi sẽ không khinh dể, không xem thường người khác, vì mình là tro bụi thì có đáng xá gì mà dám khinh dể người ta!

Tôi sẽ không chê bai, phê phán, chỉ trích người khác vì mình là tro bụi mà dám lên mặt chê bai khích bác người khác thì thật phi lý và điên rồ.

Và khi bị người ta xem thường, khinh dể, tôi sẽ không hờn, không giận và vui lòng chịu đựng vì mai đây mình chỉ là bụi tro; vô số bụi tro vẫn thường bị chà đạp hằng ngày dưới chân con người cũng là chuyện bình thường thôi !

Hơn hết, một khi biết mai đây mình chỉ là bụi tro, tôi sẽ không dại dội đầu tư tất cả thời giờ, công sức, tài năng, trí tuệ… của tôi để chăm lo cho thân xác nầy, để rồi rốt cuộc, thân xác nầy trở thành bụi tro.

Trái lại, tôi phải dành nhiều thời giờ hơn, nhiều công sức hơn, nhiều tiền bạc hơn… để đầu tư cho đời sống thiêng liêng của tôi, nhờ đó, một khi thân xác nầy trở về với bụi tro thì linh hồn tôi sẽ được chiếm hữu sự sống hạnh phúc vĩnh cửu trên quê trời.

S.T.

Văn hóa… nhang khói

Văn hóa… nhang khói
Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Tôi ra tù năm 1982. Bảy năm qua các trại cải tạo, tôi hiểu được những người Cộng Sản nhiều hơn ngày trước. Sau khi ra tù, về lại Sài Gòn, tôi lại hiểu được những người Cộng Sản hơn những ngày còn trong nhà tù. Cán bộ coi tù dù có chức phận đi nữa thì số phận cũng không hơn gì thằng tù, cũng thâm sơn cùng cốc, cũng bữa sắn bữa ngô, thằng tù phải lên rừng xuống rẫy giữa mùa Đông giá rét, hay trời Hè nóng nực, thì thằng cai tù cũng phải vác súng đi theo. Gia tài cai tù thì áo quần mỗi năm cũng chỉ hai bộ, đôi dép râu vừa mang trong chân vừa để chà lưng lúc tắm, cũng có thể để gối đầu lúc ngủ, thêm một cái bàn chải đánh răng, một cái chén ăn cơm với đôi đũa mang theo. Sang hơn thì có cái ca nhôm uống nước, nhưng không thì cơm rồi, rót nước vào chén cũng xong.

(Hình minh họa: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Cán bộ cấp cao còn có cái “xắc cốt” đeo kè kè bên mình.

Năm 2002, tỉnh Quảng Trị lắp đặt hệ thống thoát nước tại cổ thành Quảng Trị đã phát hiện ra một chiếc hầm chữ A, trong hầm còn nguyên năm bộ hài cốt của lính miền Bắc trong tư thế đang ngồi, trong đó có bộ hài cốt của một sĩ quan, Thượng Úy Lê Binh Chủng, chỉ huy phó chính trị của một tiểu đoàn. Duy nhất bên bộ hài cốt này có chiếc “xắc cốt” da Liên Xô. Trong “xắc cốt” người ta tìm thấy: Một quyển nhật ký một nửa ghi chép công việc, một nửa viết cho cho gia đình, một quyển điều lệ đảng, một quyển 10 điều chính sách của mặt trận GPMN, một chiếc lược làm bằng nhôm, và một cái bút máy Trường Sơn có khắc dòng chữ tặng. Trong cuốn nhật ký còn kẹp những lá thư của người vợ từ quê nhà miền Bắc gửi cho chồng.

Gia tài của một binh sĩ hay một sĩ quan chỉ có ngần ấy.

Lúc không có gì trong tay, đến cả một đồng bạc lẻ, người ta dễ nói chuyện lý tưởng hay hy sinh. Năm người lính Bắc Việt trong chiếc hầm này không chết vì súng đạn mà vì chết đói và hầm bị gạch đá lấp kín, vì lý tưởng “chết là chết cho Liên Xô-Trung Quốc!”Năm 1982, tức là năm năm sau khi “giải phóng,” cán bộ Cộng Sản vào Nam không còn nghèo nữa, họ có thể vơ vét một ít chiến lợi phẩm là “tàn dư” hay “phồn vinh giả tạo” của miền Nam đem về Bắc đắp đổi, hay được ở lại miền Nam là “chuột sa” vào “hũ nếp” Mỹ Ngụy.

Nhà tôi ở Quận 10, Sài Gòn, gần đường Minh Mạng, là nơi chuyên bán đồ mộc. Tôi không chú ý đến chuyện cán bộ miền Bắc mua sắm, bàn ghế, tủ, giường… vì bây giờ họ có nhà cửa, cơ ngơi, sắm đồ đạc là chuyện thường tình. Điều tôi chú ý là cán bộ (giờ đó hầu hết còn mặc đồ bộ đội) đã chở trên xe gắn máy hay những chiếc xích lô những chiếc tran thờ còn mới mua từ những tiệm mộc đem về nhà.

Đó là những tran thờ Thần Tài, Ông Địa, dấu hiệu của chuyện bảo vệ tư hữu, tức là của cải mình có từ vợ con, nhà cửa, tiền của đến chức vụ, quyền lực.

Khi con người chỉ có một cái chén và một đôi đũa, ăn xong, tự rửa lấy và đeo bên mình thì không hề sợ mất và cũng chẳng nhờ con người hay ông Thần, ông Thánh nào giữ giùm.

Bây giờ cướp được chính quyền rồi thì cán bộ có chức phận, có nhà cửa, có tiền bạc. Thực tế là phải nuôi con chó giữ nhà để đêm hôm canh chừng trộm đạo, chức sắc lớn thì có nhân viên bảo vệ, nhà cửa thời đại này chắc chắn phải gắn máy quay phim. Chưa đủ, phải nhờ thêm đến Thần Linh, tức là Ông Địa, ông Thần Tài để giữ của, giữ chức vụ, tức là giữ ghế cho bền. Bàn thờ Ông Địa, ông Thần Tài thì phải nhang khói suốt năm, khi điếu thuốc lá, khi nải chuối, đối với cấp trên cũng vậy phải nhớ “nhang khói” đừng quên. Cấp trên thì không cần chuối, cũng chẳng cần gà, cũng chẳng cần điếu thuốc 555 như thời bao cấp. Bây giờ cái mặt “bác Hồ” cũng chẳng còn giá trị gì nữa mà phải là chân dung quý vị tổng thống Mỹ.

Thói quen là văn hóa, văn hóa hối lộ đã tràn qua địa hạt tín ngưỡng hay mê tín, dân tình trong đó tất nhiên có cán bộ nhét tiền vào tay Phật, đầu rùa, bỏ tiền vào ngai vua, bỏ lên bài vị, tượng La Hán, Kim Cương bị “ép” cầm tiền lễ ở tay, bị nhét dưới râu, thậm chí nhét tiền vào thạch nhũ khi thăm động. Hối lộ để cầu xin may mắn, tiền của vào nhiều, thăng quan tiến chức, giữ yên ổn cho gia đình và bản thân mình.

Ngày xưa, nghe lời dụ dỗ của đảng, thanh niên miền Bắc “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước,” trên đầu nón cối, dưới đất dép râu, không biết cầu xin, van vái ai, cuộc đời cũng chẳng biết đến nhang khói là gì. Ngày nay khi đã có chính quyền trong tay, với thế giặc phương Bắc, chỉ biết có một điều cư xử là cúi lạy. Khi người dân cúi lạy xin tha mạng trước bạo lực, thì chính phủ phải lấy đó làm nhục, vì chính phủ là đại diện của dân, chính phủ không che chở được cho dân, thì dân lạy vái cũng như chính phủ lạy vái.

Cả nước ngày này không có gì gọi là dũng khí, ngay cả báo chí Việt Nam cũng đã than thở đất nước đã đến hồi “mạt vận.” Thay vì ngẩng cao đầu, đứng thẳng lưng, thì cả biển người lại sống bằng quỳ lạy dập đầu và đi xin xỏ Thần Thánh ban phát sự giàu có, vinh hiển, công danh sự nghiệp.

Ở miền Bắc Việt Nam rộ lên cái gọi là lễ hội văn hóa, tôn giáo, với cảnh chen chúc giẫm đạp nhau nơi đền chùa, dâng đội mâm cao cỗ đầy, sì sụp lạy lục, lâm râm khấn vái, đốt vàng mã cho thần thánh, để xin xỏ, năn nỉ xuýt xoa, rồi giành giật nhau, đánh nhau u đầu chẩy máu để lấy hay cướp lộc mang về.

Xin một cái ấn đền Trần, là được may mắn thăng quan tiến chức. Chính ông Nguyễn Thiện Nhân, khi còn làm phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, đã “đích thân” đóng ấn để phát cho du khách thì còn ra cái sĩ diện quốc gia gì nữa!

Ba triệu thanh niên miền Bắc với “cái chén ăn cơm và đôi đũa giắt lưng” đã nằm xuống cho ba triệu đảng viên Cộng Sản hôm nay chỉ biết lạy lục kẻ thù và nhang khói Thần Thánh.

Trong bức di thư của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh chết tại cổ thành Quảng Trị, để lại, có viết cho vợ:

-“Thôi nhé em đừng buồn, khi được sống trong hòa bình hãy nhớ tới anh!”

Theo tôi nghĩ, chỉ tiếc thương cho những cái chết trở thành vô nghĩa như của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh. Máu xương của hàng triệu người đó, không phải hy sinh để chúng ta có một đất nước như ngày hôm nay!

CÔ ĐƠN VÀ THẤT VỌNG

CÔ ĐƠN VÀ THẤT VỌNG

R. Veritas

Một người đàn ông sau những ngày đắm chìm trong sự cô đơn và thất vọng đã quyết định thắt cổ tự tử. Sau khi đã thắt dây thòng lọng quanh cổ và cột dây vô một cành cây. Ông nhảy vội từ cành cây xuống và nói:

– Tạm biệt thế giới tàn ác, buồn thảm và xấu xa này.

Tuy nhiên sợi dây bị đứt và ông té xuống đất mà vẫn sống như thường. Bực quá, ông về nhà lấy khẩu súng lục và bắn xuyên qua trán, nhưng cò súng gẫy và súng cũng chẳng nổ được. Người đàn ông vẫn khăng khăng không chịu thôi. Ông chạy xuống bếp và lấy con dao chặt cánh tay mình, nhưng ông rất ngạc nhiên vì dao cùn quá nên da ông cũng không đứt. Quá giận dữ, ông quyết định đi mua thuốc độc. Ông chạy ào ra đường và dừng lại một lúc bên vệ đường. Tên qủy từ đầu đến giờ vẫn theo đuổi người đàn ông sung sướng lắm và thì thầm thúc giục ông:

– Sao lâu thế? Lẹ lên! Hãy mua thuốc độc và uống đi! Ta sắp sửa lấy được mạng của ngươi rồi.

Người đàn ông lập tức trả lời tên quỷ:

– Sao mày ngu thế? Mày đui à? Hàng loạt xe nối tiếp nhau đang chạy như bay, tao băng qua bây giờ thì chết làm sao?

***

Sống trên cõi đời, thế nào cũng có lúc ta cảm thấy cô đơn. Sự cô đơn rất dễ làm cho chúng ta buông thả và có thái độ tiêu cực. Thường thì sự cô đơn sẽ dẫn đến một tâm trạng buồn tủi. Hơn nữa, nếu ta cứ để mặc cho nỗi buồn cuốn ta đi thì sức mạnh của nó sẽ tăng lên cấp số nhân và tàn phá tâm hồn ta đến tan nát, nó rút hết nhuệ khí của ta và làm cho ta trở nên kiệt quệ.

Cô đơn trong nỗi đau sẽ dẫn ta đến sự cô độc. Chính nỗi buồn và sự cô đơn đã đưa người đàn ông trong câu chuyện trên đây đi đến quyết định đầy tiêu cực là tìm đến cái chết bằng bất cứ giá nào. Chỉ có cách duy nhất giúp ta thoát khỏi những nỗi cô đơn và những hệ quả tiêu cực là chúng ta hãy dừng lại để suy nghĩ về những giá trị của con người và của cuộc sống.

Như chúng ta quan sát thấy trong câu chuyện vui trên, chỉ một chút dừng lại bên vệ đường cũng đủ làm cho người đàn ông trên nhận ra rằng dù sao cuộc sống vẫn còn đáng sống, cuộc sống tự nó vẫn có giá trị. Hơn nữa, là người Kitô, chúng ta còn có mẫu gương của Chúa để chiến thắng và thách thức sự cô đơn. Người biết đi vào trong thinh lặng để trở về với Thiên Chúa Cha, để lắng nghe, để xác nhận sứ mạng được Chúa Cha trao phó là chu toàn thánh ý Chúa Cha, Đấng đã sai Người vào trần gian:

“Lạy Cha, xn hãy cất lấy chén này khỏi con, nhưng xin đừng theo ý riêng con mà vâng theo ý Cha mà thôi”.

Chúa Giêsu luôn hướng về Cha, vì Người biết rằng trong mọi hoàn cảnh, mọi thăng trầm và mọi đảo điên của cuộc sống chỉ có ý của Thiên Chúa Cha mới giải thoát Người. Nhất cử nhất động của Chúa Giêsu đều nhằm thực hiện thánh ý Chúa Cha. Vậy, bằng hết khả năng của mình, chúng ta hãy sống cho trọn vẹn những giá trị cao đẹp của con người với ý thức rõ ràng về sứ mạng lãnh nhận từ Chúa, với quyết tâm thực hiện thánh ý Chúa trong mọi sự.

Chắc hẳn có những lúc chúng ta cảm thấy cô đơn, cảm thấy đơn thương độc mã, cảm thấy bất lực, mỏng dòn, khi đó ta cần biết mình phải nương tựa vào Chúa, Đấng đã sống đến tột cùng của sự cô đơn và những yếu đuối, nhưng đã toàn thắng và luôn sẵn sàng nâng đỡ ủi an chúng ta.

***

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống và chia sẻ với chúng con trong nỗi cô đơn tột cùng của con người, trong bản tính nhân loại. Xin ban ơn trợ lực để chúng con luôn biết hướng lên Ngài, tìm ra con đường Ngài muốn chúng con đi, vì chúng con biết rằng chỉ có Chúa là Đấng giải thoát chúng con khỏi những thăng trầm của cuộc sống, nhờ đó, chúng con sẽ vững vàng bước đi trong hành trình đức tin.

R. Veritas

Xin cho con có được những gì con muốn, để những gì con có đều là của Chúa

CO DON

 

NGẪM NGHĨ VỀ MỘT MÙA CHAY NỮA

NGẪM NGHĨ VỀ MỘT MÙA CHAY NỮA

Thiên Ân

Khi nói đến Mùa Chay, người ta thường hay đề cập đến những từ như ăn chay, giữ chay, hoán cải, trở về, cầu nguyện, sám hối, bố thí, chia sẻ bác ái cho người nghèo kèm theo.  Nhưng tất cả những điều đó chỉ là những phương thế để dẫn đến một mục đích tối hậu là “đói khát Thiên Chúa.”

Là người giáo dân, khi nghe cụm từ “đói khát Thiên Chúa,” tôi thấy thật lạ tai!  Tôi thầm nghĩ chỉ có các tu sĩ, linh mục và những ai muốn làm… thánh sống, mới có khát khao ấy, chứ còn mình – với tâm hồn lạnh tanh, làm sao có tâm trạng đó được!

MUA CHAY

Tuy nhiên, sau một thời gian ngẫm nghĩ cặn kẽ, với nhiều Mùa Chay tiếp nối, nhờ ơn Chúa, tôi chợt khám phá ra, khao khát Thiên Chúa phải trở nên mẫu số chung và là lẽ sống của mọi Kitô hữu.  Câu chuyện sau đây đã giúp tôi tỉnh ngộ:

Thuở xưa, vua Salomon nổi tiếng thông minh, đã đưa ra một câu đố cho quan cận thần: Tìm đâu ra một chiếc vòng mà khi nhìn nó, người hạnh phúc hóa ra u buồn; người đau khổ nhìn nó thì lại thấy niềm vui?

Nghe vua nói thế, quan sa sầm nét mặt, vì biết đó là một bài toán khó có lời giải đáp vẹn toàn.  Quan lên đường chu du khắp năm châu bốn bể mong tìm ra chiếc vòng kỳ diệu.  Lang thang từ các làng mạc đến chốn thị thành nhiều tháng ngày, cực nhọc trăm bề, mà vẫn vô vọng, chưa tìm ra lời giải đáp nào cho nhà vua, khi kì hạn đã gần hết.

Bỗng một hôm, khi đến một làng, ông gặp một ông lão ngồi bán đồ linh tinh ở ven làng.  Ông lão ngồi bán nhưng như không bán, ông cứ đưa mắt nhìn xa xôi, rồi nhắm mắt trầm tư trong tư thế thiền!

Quan ghé vào tai ông lão hỏi nhỏ:

– Ông ơi!  Ông có bán chiếc vòng nào, khi nhìn nó, người vui hóa buồn; người buồn hóa vui không ông?

Lão ông không nói gì, lẳng lặng mở chiếc túi vải đeo bên mình ra và lấy một chiếc vòng bên trên có hàng chữ: “điều đó rồi cũng qua đi,” rồi trao cho ông quan.

Thì ra là như vậy, tất cả mọi sự ở trên đời này rồi cũng trôi qua.  Dẫu là sướng vui hay vất vả, đau khổ, tất cả rồi cũng sẽ tan bay.  Chỉ có Thiên Chúa mới chính là suối nguồn hạnh phúc chân chính và vĩnh cửu.

Bằng cách này hay cách khác, hành động của mọi người đều nhằm mưu cầu hạnh phúc đời này và cả đời sau, như niềm tin đa số tín hữu.  Mùa Chay cho ta cơ hội để tái định hướng hạnh phúc mà mình đang tìm kiếm.  Đây là mùa sống chậm, để sống đậm chiều kích tâm linh, nâng cao chất lượng nội tâm.  Mùa Chay cũng là thời gian phục hồi, bồi dưỡng tâm hồn.  Là lúc “thuận tiện,” là “giờ cứu độ” để ta chuẩn bị tâm hồn đón mừng lễ Chúa Phục Sinh và kết hiệp với Chúa Kitô Phục sinh.

Hành trình hoán cải và canh tân trong Mùa Chay gồm các bước sau:

–       Ý thức tội lỗi xúc phạm đến Thiên Chúa

–       Hối hận tội mình đã phạm: ray rứt, đau buồn (nhưng không mặc cảm tội lỗi)

–       Gặp gỡ Thiên Chúa trong nội tâm

–       Quyết tâm thú nhận tội – đón nhận Bí tích Hòa giải

–       Thực sự sửa đổi đời sống (thường ta hay quên bước này)

Thế nên, tâm trạng đói khát Thiên Chúa không thể chỉ là tâm trạng của riêng giới nào, mà phải là tâm trạng của con cái Chúa, thái độ của những ai muốn đi theo làm môn đệ của Đức Giêsu Kitô.

Lạy Chúa,
Bước vào Mùa Chay thánh này, con mang theo gì?
Nếu không phải là những hành lý nặng nề của con,
Với tâm tư nặng trĩu những lo toan, gánh bổn phận hàng ngày
Cơn mê bã lợi thú, danh vọng phù hoa đang bủa vây
Chúa ơi!  Chúng giăng bẫy rình rập con tứ phía
và kiềm hãm con tiến bước đến bên lòng Chúa khoan nhân.

Con vẫn biết: chúng chỉ là phù vân và sẽ qua đi
Nhưng thú-lợi-danh mạnh mẽ lôi kéo con từng giờ
Và vẻ bề ngoài của chúng thật hấp dẫn, êm ái!
Trong quá khứ, con đã không đủ sức để vượt thắng chúng.
Con đã sa lưới kẻ thù, vấp ngã thê thảm, té đau từ trên cao.

Chúa ơi!  Chẳng lẽ Mùa Chay này cũng sẽ trôi qua vô vị
và con lại tiếp tục ra đi với hai bàn tay lấm lem?

Tâm hồn con đang tan nát, rã rời,
như kẻ dở sống, dở chết,
khi kẻ nội thù như sư tử đang rình rập, chờ dịp cấu xé con.

Giờ đây, con chỉ có thể trông mong Chúa xót thương
Và cậy dựa vào quyền năng của Chúa.
Con không dựa dẫm vào người đời,
vì họ không thể giúp con tránh xa tội.

Chúa ơi!  Xin cứu giúp con người đầy yếu đuối của con.
Xin ban ơn hoán cải, để con cương quyết dứt bỏ tội lỗi,
Can đảm khước từ bóng tối
Và vui sống như con cái của sự sáng
Xin đừng để cho bất cứ điều gì chiếm hữu lòng con,
ngoại trừ một mình Chúa.
Hãy cho con không ngừng đói khát Chúa,
Hạnh phúc đích thực và trường tồn của đời con!

Thiên Ân

NỮ TỬ TỘI VÀ VỊ THẨM PHÁN BẤT ĐẮC DĨ,

NỮ TỬ TỘI VÀ VỊ THẨM PHÁN BẤT ĐẮC DĨ,

Ga 8:1-11

Lang Thang Chiều Tím

Ngày xửa ngày xưa… tại một đất nước Do thái xa xôi, nơi mà thân phận người phụ nữ bị đối xử rẻ mạt coi khinh trong một xã hội với bao phong tục tập quán khắc nghiệt.  Trong vô số mớ luật lệ của Môse để lại, có một luật định dành cho những vụ án ngoại tình, người đàn ông và người đàn bà có chồng bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình thì cả hai sẽ bị ném đá cho đến chết (Lv 20:10; Ðnl 22:22).  Và theo sách Đệ Nhị Luật những ai bắt được quả tang sẽ là người phải ném viên đá đầu tiên khai mào cuộc xử tử kẻ có tội. 

          Bình minh vừa ló dạng nơi Đền Thờ ở Giêrusalem, người ta đã thấy một đám đông đang vây quanh một vị kinh sư đến từ Galilee.  Họ đã nghe đồn thổi về tiếng tăm của vị này với bao phép lạ lẫy lừng, và những lời giảng dạy đầy quyền uy.  Vị kinh sư Giêsu ngồi xuống giữa đám đông và bắt đầu giảng dạy về Nước Trời, về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa.  Dân chúng đổ xô kéo đến ngày càng đông hơn, họ im lặng chăm chú lắng nghe như muốn nuốt lấy từng lời, từng chữ đầy nghĩa yêu thương của Ngài. 

          Bỗng một đám đông khác ồn áo náo nhiệt, với những tiếng la hét ầm ĩ từ đâu ùn ùn kéo lại, phá tan bầu không khí thánh thiêng.  Chuyện gì thế?  Họ ngơ ngác nhìn nhau dò hỏi…  À, thì ra đám đông ồn ào đó đã bắt được quả tang một người phụ nữ đang ngoại tình, những kẻ chiến thắng hớn hở kéo lê nàng trên đất như kéo một chiến lợi phẩm, lăm lăm tiến về phía vị Ngôn sứ Giêsu.  Người thiếu phụ tội nghiệp ghì người lại như muốn dùng chút hơi tàn yếu đuối, chống lại sức mạnh của đám đông đang lôi mình đi sềnh sệch.  Nhưng sức nàng cự sao được với sức mạnh của bao thanh niên trai tráng.  Khi tới trước mặt Giêsu, họ thảy nàng ra lăn long lóc giữa đám đông nhờ Ngài xét xử.  Một vị Pha-ri-sêu đứng tuổi với chòm râu dài nghiêm nghị bước ra giữa đám đông, hất hàm cao giọng hỏi:

          –  “Thưa Thày, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình.  Trong sách Luật, ông Môse truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó.  Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”

          Họ nói thế chỉ nhằm thử Người thôi, đám đông ai ai cũng biết số phận hẩm hiu của người phụ nữ kia đã được định đoạt rồi.  Chẳng phải đám đông đang háo hức hùa nhau đi xem thi hành án tử, như đi trẩy hội đó sao?  Chẳng phải ai ai cũng đang lăm le trên tay những hòn đá đó ư?  Họ lôi nàng về đây như một con mồi, để câu thêm một con nhạn sa lưới.  Biết đâu một mũi tên lại bắn được hai con chim.  Lại trừ khử được cái gai nhọn dưới con mắt của các vị kinh sư đạo hạnh, và những người Pha-ri-sêu đức độ.  Để coi, phen này một người nổi tiếng hay xót thương cho những mảnh đời bất hạnh như ông Giêsu này, có dám lên tiếng bênh vực cho người phụ nữ tội lỗi đó không?  Nếu tha cho nàng thì ông đã chà đạp và chống lại luật lệ của Môse, và họ sẽ dùng nó để tố cáo kẻ phản bội cha ông.  Còn nếu Giêsu đồng ý kết án nàng.  À…, ra thế… thiên hạ phen này sẽ sáng mắt ra để thấy ông ta cũng tầm thường như bao nhiêu người khác mà thôi.  Những lời giáo huấn của ông về lòng nhân từ xót thương chỉ là sáo rỗng, giả hình và đầy mâu thuẫn.

          Vị Ngôn sứ đang rao giảng về Nước Trời bỗng dưng trở thành vị quan tòa bất đắc dĩ.   Ngài ngao ngán nhìn đám đông xung quanh như dò hỏi vì lý do nào mà mình lại được đặt vào vị trí này, rồi Ngài lại hướng tia nhìn về phía người nữ tử tội!  Trông nàng thật thê thảm, áo quần tang thương rách nát quấn vội quanh người, như chỉ vừa đủ để che những chỗ cần phải che.  Mái tóc dài xoã tung rũ rượi, chân tay, mặt mày lem luốc trầy trụa.  Nàng ngồi co rúm lại như một con chó con, mặt cúi gằm xuống đất, những sợi tóc dài lấm đầy cát, bê bết đầy nước mắt quyện lẫn mồ hôi.  Có lẽ nàng xấu hổ lắm!  Nhìn nàng sợ hãi và cô đơn trước đám đông hung dữ, như muốn ăn tươi nuốt sống nàng, chẳng ai buồn thắc mắc người đàn ông cùng nàng phạm tội ngoại tình đâu?  Sao không thấy đám đông kéo người đàn ông đó ra đây để cùng xử luôn?  Luật định rằng phải xử tử cả hai mà?  Chẳng lẽ nàng phạm tội ngoại tình một mình sao?

Dan ba ngoai tinh         

Đám đông phấn khích hò la vang dội, như khán giả trước hai đội không cân sức đang thi đấu đến hồi gây cấn.  Một đội chỉ có một người với khuôn mặt bình thản, hơi thở đều đặn, ánh mắt vẫn không ngừng nhìn chăm chú xót thương người phụ nữ, đang cúi gằm mặt giữa đám đông.  Cũng là phận người mà!  Sao nỡ đày đọa nhau?  Có ai chưa từng bao giờ phạm tội trong kiếp người yếu đuối không?  Xen lẫn trong tiếng hò reo, người ta nghe ra một tiếng thở dài xót xa!  Đối đầu là một đội quân hùng hậu, phất phới những tà áo đen rộng thùng thình của các vị đạo sĩ, với những khuôn mặt dương dương tự đắc đang chờ câu trả lời.  Có vẻ như phen này, họ nắm chắc phần thắng trong tay rồi.

 **********************         

Mời các bạn ngắm nhìn trong đám đông những khuôn mặt giận dữ đằng đằng sát khí, với những cặp mắt đỏ ngầu, miệng đang la hét hò reo, tay lăm lăm cầm viên đá đang chờ…., chờ gì?  Đợi gì?  Chờ một viên đá được ném ra khai mạc án tử, đợi một hiệu lệnh nổi lên là những hòn đá lớn bé sẽ được tung ra ào ào…

          Tôi là ai trong đám đông đang la hét reo hò ầm ĩ đó?  Là người đạo đức giữ đúng những luật lệ, luôn ăn ngay ở lành, ghét sự ác nên thấy sự phản bội, tôi muốn kết án?  Là người công chính, chưa bao giờ phạm tội, nên thấy sự tội lỗi xấu xa, tôi muốn diệt trừ?

          Tôi là ai khi cùng đám đông gào thét hò la?  Là một người đàn ông từng theo đuổi và muốn chiếm đoạt nàng nhưng không được, nay thấy nàng ngoại tình với người khác, tôi giận dữ căm ghét, không ăn được thì đạp đổ, thương tiếc gì hạng người đàn bà đó?  Là một người phụ nữ từng ghen ghét vì sắc đẹp của nàng, từng hậm hực tức tối khi thấy ong bướm lả lơi quanh nàng, với tôi đây là cơ hội tốt nhất để diệt trừ hạng người đàn bà lẳng lơ như nàng?

          Tôi là ai đang trong cơn cuồng nộ giận dữ?  Là một người chồng chung thủy bị phản bội, tôi căm hận người vợ lăng loàn và muốn nàng phải trả giá cho tội lỗi của mình dù đám con sẽ bị mất mẹ?  Là một người cha gương mẫu, người chủ của một gia đình danh gia vọng tộc, tôi không thể chấp nhận đứa con gái hư hỏng mất nết làm nhục gia phong của gia đình, nó cần phải chết để danh dự gia đình được bảo toàn, sĩ diện của tôi vẫn được coi trọng?

          Tôi là ai mà tay lăm lăm hòn đá chỉ chực chờ ném ra?  Là một người vợ hiền đảm đang của một gia đình tan nát chỉ vì những người thứ ba vô đạo đức như ả này, nên bây giờ tôi muốn nàng phải chết một cách đau thương nhục nhã cho hả cơn giận?  Hay tôi cũng giống như chị ta, từng ngoại tình, gian dâm… chỉ khác là chưa ai biết được, nên tôi phải la thật to, hét thật lớn, để đám đông tưởng rằng tôi vô tội, để bạn bè nghĩ tôi cũng ghét phường tội lỗi vô liêm sỉ đó.  Ồ, tôi phải hét lớn hơn nữa chứ nhỉ!

                    Tôi là ai mà đang hí hửng vui thích với hòn đá trong tay?  Ồ, không!  Tôi chỉ đi theo đám đông thôi, đám đông ném đá thì tôi ném đá, đám đông bỏ đá xuống, thì tôi cũng quăng cục đá đi.  Phải chăng tôi là một người không ý thức, chỉ a dua theo người khác, thiếu sự hiểu biết, và không có quan niệm sống đúng đắn.  Vậy tôi có phải chịu trách nhiệm cho hành động của mình không?  Ồ, không! tôi không biết.  Có lẽ là đám đông phải chịu trách nhiệm, tôi chỉ làm theo thôi mà!

                    Tôi là ai trong vụ án xử tử hình lưu động này?  Phải chăng chỉ là khách qua đường thấy chuyện hay hay thì đứng lại xem, và khi vở kịch vãn tuồng thì tôi bỏ đi?  Không chút xót thương với người bị kết án, cũng chẳng buồn quan tâm đến vị quan toà bất đắc dĩ Giêsu là ai?  Sẽ xét xử bản án này ra sao?  Ai là đối tượng chính mà các nguyên cáo kinh sư và Pharisêu muốn khử trừ trong vụ án này?

                    Tôi là ai trong đám đông cuồng điên đó?  Tôi có phải chịu trách nhiệm cho hành động của tôi không?  Xin mời các bạn tự hỏi lòng mình và tự tìm cho mình câu trả lời.

 **********************         

Vị thẩm phán bất đắc dĩ Giêsu nhẹ lắc đầu thở dài lặng im cúi xuống, lấy ngón tay di di viết trên đất những dòng chữ ngoằn nghèo khó hiểu.  Chẳng ai hiểu Ngài muốn viết gì?  Cũng chẳng ai đọc được những dòng chữ đó.  Và cũng chẳng ai hiểu Ngài đang muốn làm gì hay nói gì với đám đông?  Câu giờ chăng?  Đang ở thế bí không lối thoát chăng?  Các vị kinh sư và Pharisêu bắt đầu sốt ruột.  Một vị bô lão bước ra giữa, bắt đầu tằng hắng và gằn giọng lập lại câu hỏi lần nữa:

          –  “Thưa Thày, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình.  Trong sách Luật, ông Môise truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó.  Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”

          Đức Giêsu từ từ ngước mắt nhìn lên một vòng những khuôn mặt chung quanh.  Từ những khuôn mặt giận dữ mất bình tĩnh của đối phương, đến những khuôn mặt phấn khởi hí hửng chờ đợi màn kịch kết thúc của những kẻ vô tình, xen lẫn là những khuôn mặt căng thẳng lo âu sợ hãi của người thân và bạn bè tội nhân.  Cả đám đông im phăng phắc nín thở chờ đợi.  Ngài nhắm mắt, nhẹ lắc đầu chán nản.  Họ muốn có một câu trả lời cụ thể.  Tha hay giết, thế thôi!  Bởi tha hay giết, đều là con đường chết của vị quan tòa bất đắc dĩ trong vụ án này.  Hít một hơi dài, Ngài từ tốn cất tiếng nói:

           –  “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!”

          Cả đám đông bỗng đứng ngây ra như phỗng, lặng im phăng phắc.  Họ không chờ câu trả lời này.  Đó là tha hay giết?  Không rõ ràng!  Không dứt khoát!  Câu trả lời lại không nhắm vào tội nhân đang chờ bản án, mà lại nhắm vào họ, những người đang có quyền kết tội, nhắm vào trái tim chai đá của họ, như muốn khơi dậy lương tâm đã ngủ quên nhiều năm của họ.  Chẳng ai bảo ai tất cả đều cúi xuống đất né tránh cái nhìn của người mà họ đã trót dại đặt vào vị trí thẩm phán.  Chẳng ai có đủ can đảm để cất tiếng hoạnh hoẹ nữa, bởi ai là người dám tự xưng mình là sạch tội?  Vị quan tòa bất đắc dĩ lẳng lặng cúi xuống và tiếp tục ngón tay nguệch ngoạc trên đất những nét chữ ngoằn nghèo.

          Từng hòn đá, từng hòn đá rơi xuống đất, những bàn tay trước đây nắm chặt cục đá bao nhiêu, giờ từ từ thả lỏng ra, những viên đá vô hồn rơi loảng xoảng xuống nền đất, hết viên này… đến viên khác… tiếng đá chạm vào nhau lách cách… nghe như một khúc nhạc reo vui.  Những bước chân nặng nề, giằng co, lôi kéo trước kia, giờ đây nhẹ nhàng lặng lẽ rút lui… từng bước…, từng bước chân bỏ đi… Những bước chân chậm chạp và tiếng gậy lóc cóc của những vị cao niên bỏ đi trước, rồi đến bước đi chầm chậm vững chắc của tuổi trung niên, rồi bước chân thoăn thoắt của đám thanh niên và sau cùng đến những bước chân chim của những em bé tò mò đi theo đám đông coi xử án cho vui.  Đám đông bỏ đi với những khuôn mặt, và những tâm sự ngổn ngang khác nhau trong tâm hồn mỗi người, kẻ buồn người vui, kẻ khóc người cười.  Họ bỏ đi mang theo những nỗi niềm ăn năn hay những tính toán khác cho bàn cờ sắp tới.  Không ai biết được họ đang suy nghĩ gì! 

          Trái tim người nữ tử tội bật lên khúc nhạc hoan ca khi bước chân cuối cùng bỏ đi…  Chỉ còn lại một đôi chân trần duy nhất trên nền đất đen sần sùi!  Nàng bò lết lại dưới đôi chân người cuối cùng đó!  Mạng sống nàng lệ thuộc vào người này!  Nàng sẽ được tha bổng hay lại là một bản án khác?  Trái tim nàng đập loạn xạ, căng thẳng chờ đợi.  Nàng luống cuống không biết phải làm gì, nói gì hay xin gì.  Thời gian như kéo dài ra.  Bỗng một giọng nói trầm bổng cất lên trong không gian, đưa nàng về với thực tại:

          –  “Này chị, họ đâu cả rồi?  Không ai lên án chị sao?”

          Với ánh mắt lo sợ hồi hộp người nữ tử tội từ từ nhìn lên.  Bốn mắt chạm nhau, hai tâm hồn khác biệt, một tội lỗi xấu hổ ăn năn, một thánh thiện rộng lượng nhìn nàng tha thứ, như khích lệ trấn an nàng đừng sợ, ánh mắt như muốn ôm nàng vào lòng để ủi an, để xoa dịu nỗi đau thể xác cũng như tâm hồn nàng!  Ánh mắt như xót xa cho thân phận con người yếu đuối, dễ sa ngã!  Ôi, ánh mắt nhân từ của vị quan tòa bất đắc dĩ!  Sao không một lời trách móc?  Ngài có quyền đó mà.  Nàng bối rối lắp bắp trả lời:

          –  “Thưa…. ông, thưa…. Không có ai cả.”

         Rồi nàng lại thổn thức xấu hổ cúi gằm mặt xuống đất.  Nàng không đủ can đảm để tiếp tục nhìn vào ánh mắt của vị thẩm phán nữa, không đúng hơn là vị Ngôn sứ được dân chúng kính trọng.  Nàng không biết gì nhiều về con người ông Giêsu này.  Nàng nhớ loáng thoáng xóm giềng nói ông ta là một người nhân từ, chữa lành nhiều người, hay ăn uống chung với những người thu thuế, không kết án những người tội lỗi.  Nhưng có thể đó là tại ông chưa gặp trường hợp một người bị bắt quả tang phạm tội tày trời như nàng.  Nàng biết tội mình, chỉ vì một phút yếu lòng nhẹ dạ, bởi một lòng tin đặt không đúng chỗ, tại một tình yêu hoang tưởng ngây ngô nghe theo những lời đường mật, bởi chạy theo những phù phiếm xa hoa của thế gian.  Nàng không dám biện hộ, cũng chẳng dám xin ơn tha thứ, hay lòng cảm thông.  Nhưng lòng nàng khao khát nóng bỏng, muốn xin ơn tha thứ dù biết mình chẳng xứng đáng.  Nàng muốn có một cơ hội để làm lại cuộc đời, để chuộc lại lỗi lầm đã qua, liệu có quá muộn màng hay không?  Lòng thì đã mở ra, nhưng làm sao để có thể mở miệng xin ơn tha thứ được?  Khó quá Chúa ơi!

          Người nữ tử tội ngại ngùng sợ hãi cúi mặt xuống đất thầm thì: “Giêsu ơi!  Con không xứng đáng với ánh mắt bao dung đó, con không đáng để được hưởng ơn tha thứ, nhưng… nhưng…. con rất cần sự thứ tha… để trở về với gia đình, trở về với chính con, trở về với cuộc đời mà con đã trót lỡ đánh mất!” 

          –  “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu!  Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”

          Một phút bàng hoàng ngỡ ngàng, lời xin tha thứ vẫn chưa thoát ra khỏi cửa miệng mà!  Rồi niềm vui vỡ oà, nàng bật lên khóc nức nở, gục mặt xuống trên đôi chân vị thẩm phán đã cứu mạng mình! 

          Nước mắt xối xả tuôn rơi trên bàn chân vị ân nhân, len lỏi qua những ngón chân trần, chảy xuống trên nền đất.  Vui quá sao tôi lại khóc?  Nàng khóc nức nở như chưa bao giờ được khóc.  Những giọt nước mắt bị cầm nín bấy lâu vì sợ hãi xấu hổ, vì lo lắng cho cái chết oan nghiệt của chính mình, vì sợ không có cơ hội gặp lại những người thân yêu giờ có dịp tuôn trào.  Nàng vội vàng lấy mái tóc lòa xòa lau đi những giọt nước mắt trên đôi chân trần ấy.  Giọt nước mắt của sám hối ăn năn, giọt nước mắt xót xa cho quá khứ tội lỗi, giọt nước mắt mừng mừng tủi tủi khi được cứu sống.  Qua màn lệ nhòe nhoẹt, nàng thấp thoáng thấy cuộc đời mới đang mở ra trước mắt.  Vâng, lạy Thầy Chí Thánh Giêsu, con sẽ nhất quyết làm lại cuộc đời, sẽ từ bỏ cuộc đời tội lỗi để trở về với gia đình, về với đường ngay nẻo chánh.  Con không biết người ta gọi Ngài là ai, nhưng riêng con qua cuộc gặp gỡ này, con gọi Ngài là Thiên Chúa nhân từ, Thiên Chúa của lòng tha thứ xót thương, Thiên Chúa của Tình Yêu.

          Vị thẩm phán nhân từ chậm rãi đứng lên cởi áo khoác ngoài của mình ra, Ngài nhẹ nhàng cúi mình xuống choàng lên tấm thân rách nát đang run lẩy bẩy, như choàng lên người nàng một tấm áo nhân phẩm mới.  Rồi Ngài dìu nàng đứng lên, nàng vịn vào đôi bàn tay đó, như một điểm tựa vững chắc để lấy thêm sức mạnh, rồi loạng choạng đứng lên, chới với như trong mơ với những gì xảy ra quá nhanh ngoài sức tưởng tượng của nàng.   Đức Giêsu đưa tay nhẹ lau những giọt máu đang rỉ ra từ những vết trầy xước trên đôi tay gầy guộc.  Không nghe thấy tiếng trách móc, không tiếng hạch hỏi tại sao, cũng không một lời kết án!  Nàng lắc đầu, hoa mắt, đôi tai ù lên, lờ mờ nửa tin nửa ngờ.  Vị Ngôn sứ đưa tay vén những lọn tóc nhớp nhúa dính đầy cát, và nước mắt trên khuôn mặt xanh lè của nàng, như người cha vỗ về an ủi đứa con thơ trong cơn sợ hãi.  Ngài dìu nàng đi về hướng thôn xóm và ôn tồn lập lại:

          –  “Con về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”

          Dòng nước mắt lại xối xả lăn xuống như mưa, người nữ tử tội trẻ lại nức nở quỳ sụp xuống hôn lên đôi chân của vị ân nhân lần cuối như thay cho lời tạ ơn.  Bỗng nàng đưa tay bụm lấy miệng chặn tiếng nấc thoát ra từ đáy lòng, rồi chạy ù về phía cuối chân trời, không một lời giã biệt.  Nàng không đủ can đảm để nói lời xin lỗi, càng không đủ sức để nói hai chữ cám ơn.  Ngôn từ không đủ để diễn tả hết tâm tình tạ ơn và lòng xấu hổ ăn năn vì tội lỗi nhơ nhuốc của nàng.  Nhưng nàng biết, vị ân nhân Giêsu nhìn xuyên thấu tâm hồn nàng.  Nàng chỉ biết tạ ơn trời đất đã cho nàng cơ hội sống sót để chuộc lại lỗi lầm của mình.  Cám ơn tấm lòng quảng đại đầy yêu thương của vị thẩm phán bất đắc dĩ Giêsu đã cho con một cơ hội để làm lại cuộc đời mình.  Cám ơn Đức Chúa Cha đã gởi Người Con Dấu Yêu xuống thế gian này để làm ấm lại tình người.  Cám ơn những người anh em đã không kết án con.  Cám ơn những bàn tay đã buông bỏ những viên đá vô tri xuống.  Xin cám ơn tất cả!  Con xin ghi khắc trong tim câu dặn dò đầy yêu thương của Chúa Giêsu Kitô:

           “Con hãy về đi và đừng phạm tội nữa!”

     Vâng con sẽ về trong bình yên và sẽ cố gắng không bao giờ vấp phạm nữa!

 Lang Thang Chiều Tím

Mùa Chay Năm Thánh Lòng Thương Xót 2016

Ứng cử viên tự do và vòng vây dư luận

Ứng cử viên tự do và vòng vây dư luận

Cát Linh, phóng viên RFA
2016-03-16

000_875JO

Facebook, một trong những trang mạng xã hội các ứng cử viên dùng để vận động bầu cử.

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

Truyền thông Nhà Nước và cơ quan chức năng phụ trách bầu cử của chính quyền có nhiều ý kiến bất lợi nhắm vào số người tự ứng cử Quốc hội khoá 14. Phản ứng từ phía những ứng cử viên độc lập đó ra sao, Cát Linh ghi nhận ý kiến của người trong cuộc và người quan sát với vai trò của một cử tri.

Mới hôm 15 tháng 3 vừa qua, một thành viên của ban giám sát, tiểu ban an ninh của Hội đồng bầu cử quốc gia lên tiếng trong buổi làm việc giữa Đoàn giám sát công tác bầu cử do Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dẫn đầu nói với thành phố Hà nội rằng có những tổ chức phản động đứng đằng sau những người tự ra ứng cử đại biểu quốc hội lần này.

Người này nói tiếp là vì lý do đó nên trong số 47 người tự ứng cử lần này phải loại một số người khỏi danh sách ứng cử trong các lần hiệp thương tới đây.

Có thêm ý kiến nói rằng một số đối tượng tự ứng cử đã sử dụng công nghệ để tuyên truyền vận động. Báo này nói thêm là những người này dùng những trang mạng cá nhân để hô hào bỏ phiếu ủng hộ họ.

Theo bà Nguyễn Thị Bích Ngọc, chủ tịch ủy ban bầu cử thành phố Hà Nội thì trong số 47 người tự ứng cử có nhiều nhân sĩ trí thức quan tâm đến các vấn đề xã hội, tuy nhiên phải loại trừ những một số đối tượng đặc biệt.

Cũng tại buổi làm việc như vừa nêu, ông Nguyễn Xuân Phúc nói là trong kỳ bầu cử lần này có việc ứng cử, đề cử, mở rộng dân chủ nhưng phải đảm bảo chất lượng đại biểu.

Chưa sẵn sàng?

Nghệ sĩ hài Vượng Râu, một trong những ứng cử viên độc lập lần này, cho rằng phản ứng của dư luận và những bài viết trên báo chí vừa qua là do đến từ việc tự ứng cử của các ứng cử viên tự do chưa được sẵn sàng đón nhận. Chính vì thế mà từ một việc hoàn toàn bình thường, có nhiều người đã làm ra thành những việc bất bình thường, thậm chí có phần hoang tưởng.

“Tức là nếu như mọi người cứ để nó bình thường như vốn dĩ nó có thì nó không sao. Nhưng bây giờ chúng ta cứ cố tình để cho nó khác đi, thì đương nhiên hàng trăm con mắt, hàng trăm đôi tai và hàng trăm sự nhìn nhận của người dân vào sự bầu cử nó sẽ khác đi.”

Giải thích rõ thêm, nghệ sĩ Vượng Râu nói rằng một trong những vấn đề chưa sẵn sàng mà hội đồng bầu cử đang gặp phải đó là cách ban bầu cử đón nhận hồ sơ và hướng dẫn thủ tục cho ứng cử viên. Ông đưa ra trường hợp hồ sơ ứng cử của ca sĩ Mai Khôi được cho là không hoàn chỉnh và đòi hỏi phải sửa gấp:

“Cái việc thủ tục hành chính đó là một việc mà tôi khẳng định rằng nó không thể hoàn thành một cách vội vã. Như thế nó sẽ làm giảm đi thời gian và tiến độ của việc chốt hồ sơ. Tất cả những việc đó nếu chúng ta có ý định cho số người tự ứng cử vào thì cần phải thoải mái hơn.”

Nhà văn Nguyễn Quang Thiều trong bài viết cá nhân của mình, ông lên tiếng về sự việc này và cho rằng đây là do một cơ cấu chưa quen với việc tự ứng cử:

“Bởi chúng ta vẫn chưa quen được hành động này. Chúng ta đã mắc một thói quen cố hữu lâu nay khi cho những người tự ứng cử trong những trường hợp tương tự nói trên là những người không hiểu mình là ai, là những người ham danh háo chức…” (Trích bài viết của nhà văn Nguyễn Quang Thiều).

“ Rõ ràng thể chế bầu cử ở Việt Nam bây giờ tồn tại quá nhiều hạn chế mà nó khiến cho việc tạo ra những chính trị gia chuyên nghiệp, những dân biểu chuyên nghiệp vẫn còn quá xa vời.
– Nhà hoạt động Nguyễn Anh Tuấn”

Theo nghệ sĩ Vượng Râu, khi các ứng cử viên tự do thực hiện việc tự ứng cử nghĩa là họ đã không lo ngại việc bị ném đá, đã quyết định việc có trách nhiệm với đất nước. Chính vì vậy ông kêu gọi nên có những thái độ công bằng đối với các ứng cử viên tự do.

“Để có tiến trình của sự dân chủ rõ rệt, và đặc biệt là cho những người dân nhìn thấy sự phát triển của đất nước thì không nên có những thông tin cũng như những bài báo phiếm diện nói về việc tự ứng cử của những người nhằm mục đích để phát triển đất nước tốt hơn.”

Vấn đề uy tín

Thế nhưng, phản ứng lại với những trách nhiệm như nghệ sĩ Vượng Râu đề cập thì theo ông Nguyễn Văn Pha, Phó Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát biểu với truyền thông trong nước rằng “không uy tín thì khó.”

Thầy giáo Đỗ Việt Khoa, người ra ứng cử ĐBQH lần thứ hai cho kỳ này, lên tiếng cho rằng uy tín của ứng cử viên là do cử tri quyết định:

“Uy tín hay không hãy để cho cử tri đánh giá. Có rất nhiều ứng cử viên tự do có uy tín gấp mấy lần những người đã làm ĐBQH. Có vô số ĐBQH hoạt động rất mờ nhạt. Cả một nhiệm kỳ không phát biểu, không tham gia, bỏ nhiều cuộc họp không có mặt. Các vị ấy cho rằng mình được người ta cơ cấu, phát biểu gì cũng sợ đụng chạm. Vừa rồi chúng ta còn nghe nhiều ĐBQH tâm sự là khi đi họp thì lãnh đạo địa phương căn dặn là không được phát biểu về vấn đề tham nhũng.”

‘Mười năm phấn đấu không bằng một năm cơ cấu’

Như chúng ta đã biết, Tiến sĩ Nguyễn Quang A, blogger Đặng Bích Phượng, nhà báo Trần Đăng Tuấn, luật sư Lê Luân và một số ứng cử viên tự do khác là những người có nhiều hoạt động, đóng góp về chính trị và các chính sách phát triển xã hội dân sự. Chính vì thế, họ nhận được rất nhiều sự ủng hộ từ người dân trong nước, những người mong muốn có một sư thay đổi về đường lối lãnh đạo nhà nước.

Chính vì vậy, khi những người nghệ sĩ như nghệ sĩ Vượng Râu, ca sĩ Mai Khôi, quyết định ra ứng cử, họ nhận được khá nhiều phản ứng khác nhau từ dư luận.

Nguyễn Anh Tuấn, một nhà hoạt động xã hội dân sự trẻ cho biết góc nhìn cá nhân của mình về sự việc này:

“Đứng ở góc độ cử tri thì với những người tự ứng cử mà mình tạm gọi là vẫn còn non kinh nghiệm thì câu chuyện phức tạp hơn thế nhiều. Rõ ràng thể chế bầu cử ở Việt Nam bây giờ tồn tại quá nhiều hạn chế mà nó khiến cho việc tạo ra những chính trị gia chuyên nghiệp, những dân biểu chuyên nghiệp vẫn còn quá xa vời. Chẳng hạn như vòng hiệp thương thứ nhất, họ lựa chọn thành phần đại biểu quốc hội, nghe rất xa lạ với truyền thống dân chủ tây phương. Nghĩa là nó chọn ra sẵn cái cơ cấu, thành phần đến từ tầng lớp nào, giai cấp nào, cơ quan nào, cơ quan nào, nghề nghiệp nào. Nghe rất là lạ. Thành phần đó được ấn định thành một tỷ lệ gọi là cơ cấu.”

Chính vì thế, theo Nguyễn Anh Tuấn, rất là khó để có một đại biểu hay dân biểu chuyên nghiệp.

Tuy nhiên, không vì vậy mà những ứng viên tự do không thuộc “cơ cấu” định sẵn của Hội đồng bầu cử quốc gia như nghệ sĩ Quốc Vượng, ca sĩ Mai Khôi lại không thể thực hiện quyền ứng cử.

“Có thể họ chưa có kinh nghiệm hoạt động xã hội chính trị, tuy nhiên, sự tham gia, quyết định tự ứng cử của họ đóng góp rất quan trọng ở khía cạnh là bình thường hoá quyền tự ứng cử. Ai cũng có thể thực hiện được.”

Và từ những cử tri như Nguyễn Anh Tuấn cho thấy rằng dù việc tự ứng cử là một cuộc chơi từ các ứng cử viên tự do, thì họ vẫn có tâm ý và kế hoạch, xã hội Việt Nam vẫn chấp nhận thay cho những người do cơ cấu sắp đặt nên. Vì những ứng viên tự do ấy sẽ đưa đến một xã hội đa diện trong sinh hoạt dân chủ của đất nước.

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Lá năm C 20/3/2016

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Lá năm C 20/3/2016

Tin Mừng (Lc 19: 28-40)

 Nói những lời ấy xong, Đức Giêsu đi đầu, tiến lên Giêrusalem. Khi đến gần làng Bếtphaghê và làng Bêtania, bên triền núi gọi là núi Ôliu, Người sai hai môn đệ và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Khi vào sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và dắt nó đi. Nếu có ai hỏi: “Tại sao các anh cởi lừa người ta ra”, thì cứ nói: “Chúa có việc cần dùng! Hai người được sai liền ra đi và thấy y như Người đã nói. Các ông đang cởi dây lừa, thì những người chủ nói với các ông: “Tại sao các anh lại cởi lừa người ta ra?” Hai ông đáp: “Chúa có việc cần dùng.”

Các ông dắt lừa về cho Đức Giêsu, rồi lấy áo choàng của mình phủ trên lưng lừa, và giúp Người cỡi lên. Người đi tới đâu, dân chúng cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường. Khi Người đến gần chỗ dốc xuống núi Ôliu, tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì các phép lạ họ đã được thấy. Họ hô lên: Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!

Trong đám đông, có vài người thuộc nhóm Pharisêu nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy trách môn đệ Thầy đi chứ!” Người đáp: “Tôi bảo các ông: họ mà làm thinh, thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên!”

“Dáng em thu nhỏ trong lời nguyện,”

                            “Phơ phất hồn thiêng, cánh bướm ma.”

                                                (Dân từ thơ Đinh Hùng)

Mai Tá lược dịch.

Thu nhỏ trong lời nguyện hoặc phơ phất hồn thiêng, vẫn là và sẽ là lối sống của nhiều người.

Sống phù hợp Đạo Chúa, người Công giáo vẫn hay hát cả khi vui, lẫn lúc buồn. “Hát là cầu nguyện, những hai lần”. Người nhà Đạo hát rất chăm. Suy tư rất nhiều. Có những bài ca làm tỉnh giấc, như bài “How Great Thou Art”, nghe chưa được chuẩn cho lắm, chí ít là tiểu khúc, câu 3. Như tác giả dẫn ý: Hân hoan tình Chúa rất bao la, chẳng ngại hồn đau vẫn cứ là Con Một Hiền lành theo cõi chết ôm trọn tội người, trọn ý Cha.

Vâng, tiểu khúc trên, dù mang cả một truyền thống ý nghĩa, vẫn coi cái chết của Đức Kitô, như hành động chuộc tội, do Cha muốn. Nhận định như vậy, tức bảo là: khổ đau và sự chết của Đức Giêsu là giá chuộc mạng mà Ngài đã trả cho bọn xấu để ta chia sẻ sự sống với Cha, như chọn lựa cái chết của Đức Giêsu phải được coi như hành động duy nhất làm Cha nguôi giận về tội người. Chính vì thế, mà Cha vẫn tiếp tục thương yêu loài người như khi trước.

Nghe nhạc ướt át như thế, đôi lúc làm ta sợ, vì thế nên kiểm xem lời ca ý nhạc có chuẩn hợp với thần-học không. Một đằng, thần học khẳng định rằng: tình thương yêu đặc biệt Chúa ban, rất cao sang vời vợi. Tình yêu Ngài, ngang qua mọi thăng trầm của cuộc sống, khi vui lúc buồn.

Đằng khác, khi hát, ta kể nhiều về nỗi khó khăn, buồn phiền mà Đức Giêsu gánh chịu. Xem thế, há chẳng phải ta chủ trương: Đấng Tạo Hoá đầy lòng bao dung, vẫn đẩy Người Con Thân Yêu vào nỗi chết, có tủi nhục? Há ta coi đây như phương cách duy nhất khiến Ngài hài lòng, sao?

Áp dụng vào xử án, đôi lúc cũng nên hỏi: quan án có để cho đương can vô tội chết lặng trong lỗi phạm? Và như thế, Đức Chúa, vị Quan Án Tối Cao, có quyền bính gì trên sự dữ/ác thần, chăng? Đây là cách duy nhất để Ngài kiểm nghiệm sự hy sinh cao cả của Con Yêu Dấu của Ngài, sao?

Các vấn nạn ấy, gây ảnh hưởng lên đời sống đức tin của người đi Đạo. Đôi lúc, điều này làm ta xa vời niềm tin đích thực, lâu nay thường được nhắc nhớ, rằng: Chúa trên cao vẫn thương mọi người, dù cho con người có lầm lỡ, lỗi phạm nhiều điều.

Ngày nay, ta nghe nhiều về các nạn nhân, không còn chọn lựa nào khác, đã rơi vào bẫy cạm của lỗi phạm. Thật ra, trong nhiều trường hợp, việc ấy không do họ. Mà, do người khác đối xử không theo lẽ Đạo. Người khác, là những người có tự do trong đối xử rất “khác người”. Rất lạ kỳ, buồn bã.

Người khác đây, vẫn là người biết nhiều, hiểu nhiều. Nhưng, đứng ở góc cạnh nào đó, ta sẽ cùng với “người khác” ấy, biểu đồng tình cho rằng: Đức Kitô là nạn nhân của thánh ý Cha. Khi Ngài chấp nhận khổ đau, và nỗi chết. Hiểu như thế, tức cho rằng: Cha vẫn muốn có hy sinh, vẫn muốn chuộc mạng, để đổi chác lấy tội con người, hòng tha thứ?

Hiểu như thế, sẽ kéo theo ngộ nhận rằng: mình là nạn nhân của Chúa, không chừng. Nếu Cha muốn Đức Kitô phải khổ và chết, thì phía ta, sao lại buồn khi lĩnh nhận thánh giá tưởng-chừng-như-là-quá-nặng?

Suy tư theo chiều hướng này, sẽ thêm nghi ngờ, là bài Thương khó thánh Mác-cô ghi lại, có thể đã nhấn mạnh tính miễn cưỡng của Chúa khi Ngài chấp nhận khổ ải. Quả là, thánh sử có nhắc việc Ngài ngồi cùng bàn với phường giá áo, túi cơm. Làm bạn với bọn phản phé. Làm thầy những người chối bỏ sự thật, bỏ của chạy lấy người… Nhưng không thể hiểu như thế.

Không thể theo khuynh hướng này. Bằng không, sẽ có người ngờ: thánh Mar-cô ám chỉ Chúa hoảng sợ trước cái chết ô nhục, gần kề. Và, trong chiều hướng ấy, sẽ nghĩ là: khi Ngài cất tiếng “Lạy Cha”, tức là Ngài kêu lên lời ai oán để cứu mình khỏi cơn buồn phiền, sao?

Cuối cùng, hiểu theo chiều hướng này, sẽ có người nghĩ rằng: Đức Kitô nhận “làm theo ý Cha”, nhưng phút cuối, vẫn thấy như mình bị bỏ rơi trên thập giá? Không. Đó không phải là thần học.

Suy cho kỹ, hiểu theo các chiều hướng này, chắc chắn có sai sót. Đọc kỹ, đoạn Chúa chấp nhận thánh ý Cha tại Vườn Âu Sầu, thay vì hiểu theo hướng xấu, đổ riệt mọi lỗi cho Cha, có lẽ nên coi đây như một khẳng định. Khẳng định rằng: Đức Kitô một lòng chung thuỷ với đường lối Ngài tuân theo, trong hành xử với Cha.

Với con người. Ngài vẫn một mực tuân phục Cha. Tuân phục đến chết. Vẫn thương yêu con người, và yêu thương đến hơi thở cuối cùng.

Có thế, Đức Kitô mới trấn át giới chức đạo-đời, thời bấy giờ. Ngài qui chiếu khẳng định nòng cốt này, đến nỗi họ thấy không làm gì được, ngoài chuyện ra tay ám hại Ngài. Xem thế, qua việc chấp nhận cái chết trong tuân phục, Ngài hy sinh đến phút cuối. Ngõ hầu chứng tỏ cho mọi người thấy:Ngài thương yêu loài người đến cùng.

Điều này cho thấy: Chúa đã sống thực. Sống tư cách rất “người”. Vì trung thực với cuộc sống thủy chung, Ngài bị quyền lực đen tối sự dữ/ác dẫn đến nỗi chết về thể xác, chết rất nhục.

Hôm nay, có kinh qua thống khổ của thập giá; và chết cho chính mình, ta mới nhận ra được cái giá phải trả, khi giáp mặt thực trạng của người phạm lỗi, trái luật. Và có như thế, mới sống đúng yêu cầu của Vương Quốc Nước Trời. Vương Quốc bình an và công chính.

Tuần thánh năm nay, ta cử hành tuyên xưng mầu nhiệm sống xứng hợp Đạo. Bằng vào cử hành tưởng niệm sự sống, nỗi chết và sự sống lại của Chúa, ta cầu mong được chuyển thể từ tâm trạng sai lầm -nghĩ mình là nạn nhân do Chúa muốn ta hy sinh, đau khổ- để tiến tới trở thành kẻ có ý thức chọn lựa. Chọn, lối sống mẫu mực yêu thương của Chúa, Đấng suốt đời trung thành, thuỷ chung. Trung thành trong thuần phục. Thuỷ chung trong thương mến.

Cầu và mong, cho ta biết trân quý sự sống vì có trân quý ta mới thực sự từ bỏ thái độ tiêu cực của những người luôn nghi kỵ, chống đối. Chống Vương Quốc Nước trời, ở trần gian. Cầu và mong, ta dõi bước chân mềm của Chúa.

Biết rập khuôn bắt chước lối sống thuỷ chung, trong hành xử giữa Cha và Con. Dù, sự việc có xảy đến thế nào, và đường đời có gian nan đi nữa có Đức Kitô là mẫu mực cho sự thủy chung/tuân phục, thì dù gặp muôn vàn khổ ải đến cùng cực, ta vẫn cứ đầu cao mắt sáng, hiên ngang lên mà chúc tụng.

Chúc tụng Ngài, cả vào lúc cộng đoàn kẻ tin đang sầu buồn, than khóc ngày Chúa chịu khổ nạn. Bởi, với người dõi bước theo Chúa, sẽ chẳng có gì là tang tóc, đáng để ta than khóc cả. Mà, tất cả vẫn là yêu thương và đồng cảm.

Đạo Chúa là Đường dẫn ta đi vào đời, lắm gian nan nhưng không là tang chế, với ta.

Lm Richard Leonard, sj biên soạn – 

Mai Tá lược dịch.

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thánh năm C 20/03/2016

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thánh năm C 20/03/2016

“Hầy hô! Hây hồ! Ta đi vô vườn dừa,”

“Hầy hô! Hây hồ!

Nhịp nhàng khoan thai bước khẽ

Đi trong mưa nhè nhẹ.

Hầy hô! Hây hồ! Hây hố!”

(Phạm Duy – Ngày mùa êm ru)

(1 Thessalônikê 5: 12-19)

 Trần Ngọc Mười Hai

 

Ít khi nào, bần đạo bầy tôi đây lại trích-dẫn hoặc trích-dịch những bài ca nghe rất “êm ru ngày mùa” như bài ở trên do nghệ-sĩ họ Phạm, sáng tác. Bài ca này, cứ hát đi hát lại mãi câu “Hầy hô!” với lại “Hây hồ!” suốt, chỉ mỗi nghe qua đã thấy oải.

Ấy là thế đấy! Có nghe đi/nghe lại cũng chỉ bấy nhiêu câu, rất ngày mùa như sau:

“Hầy hô! Hây hồ! Hấy hô!

Gà chuồng le te gáy rõ

Ta nghe ta đợi chờ…

 Hầy hô! Hây hồ! Hấy hô!

Ngoảnh nhìn quanh ta vẫn nhớ,

Ôi êm ru ngày mùa…

 Hầy hô! Hây hồ! Hây hô hấy hô ngày mùa!

(Phạm Duy – bđd)

Vâng. Ngày mùa có “êm ru” đến độ ca đi/hát mãi có mỗi câu như thế cũng chẳng thấy gì là êm và ru hết!

Thế nhưng, đời người có nhiều thứ cũng “êm-ru-bà-rù” nhưng lại ngán như cơm nếp nát, chẳng ai muốn ăn. Thật thế ư? Vâng. Không tin, xin quí chư huynh/chư đệ hay tỷ/muội ở ngoài đời hãy giúp giùm tìm hiểu thực/hư thế nào, rồi sẽ rõ.

Hôm nay, bầy tôi đây, chỉ muốn bàn chuyện nhà Đạo rất Công-giáo, thôi. Bàn chuyện đạo của người Công-giáo nhiều lúc suy đi/nghĩ lại, thấy cũng nản. Nản, nhưng vẫn xin bạn và tôi, ta cứ hạ hồi tính chuyện thích thú, còn bây giờ: hãy bàn chuyện gì có dính đến Đức Giáo Tông/Giáo-chủ, để xem sao. Hy-vọng sẽ êm ru không “bà rù” chút nào hết.

Chuyện Đức Giáo Tông với truyền-thông, có nhiều điều xem ra cứ bàn đi bàn lại, mãi không chán. Đúng thế, bạn ạ. Hết bàn rồi tán, lại còn tản-mạn những tin tức …mình về Đức Giáo Tông nhà Đạo mình, tưởng cũng được vài ba trang giấy, những viết và lách cho trọn một đời.

Chuyện Đức Giáo Tông, có gì mà ghê gớm thế?

Thôi thì, bạn và tôi, ta cứ từ từ tìm cách moi đầu/moi óc ra mà bàn suốt, rất như sau. Nhưng, trước hết và trên hết, là chuyện liên-quan đến hai ba vị Giáo chủ, đấy các cụ ạ.

Trước hết và trên hết, lại là chuyện mới xem ra, qua phỏng-vấn Đức Phanxicô ở đâu đó, trên máy bay hoặc với báo/đài của nước Ý xem ra cũng rất Đại-lợi, bởi bên cạnh đó lại có những chuyện bên lề, rất đáng bàn như sau:

“Trang mạng “ Vatican Insider” của Ý cho biết: trong vòng 24 tiếng đồng-hồ sau khi công-bố phỏng-vấn, đã có hơn trăm bài báo và bình luận được đăng trên truyền-hình Trung Quốc. Trong bài xã-luận, Giám-đốc báo “Global Times”, nhật-báo tiếng Anh được xem như báo bán chính-thức của đảng Cộng-sản, cho rằng “thiện-chí của Đức Giáo hoàng góp phần làm dịu các quan-hệ giữa Trung-Quốc và Vatican.”

 Báo Nhân-Dân khen ngợi sự khuyến-khích đối-thoại và kiến-tạo hoà-bình của Đức Phanxicô. Báo này có nhắc lại việc góp phần của Toà thánh trong quan-hệ ngoại-giao giữa Cuba và Hoa Kỳ. Báo này còn khẳng-định việc “xích lại gần nhau” giữa Trung Quốc và Vatican là điều mà nhiều người dân Trung quốc mong muốn”, nhưng cũng chận lại các người “chống-đối sợ rằng Vatican hy-sinh quyền-lực của họ.”

 Một số người Công-giáo Trung quốc lo sợ kết-quả của việc “xích lại gần nhau” về ngoại-giao của Toàn thánh Vatican và Bắc Kinh là quá sớm, với cái giá phải trả là hy-sinh một số sự/việc, bắt đầu là việc tự-do tổ-chức Giáo-hội Trung quốc…” (Nguồn: cath.ch, Giuse Nguyễn Tùng Lâm chuyển-dịch, phanxico.vn)

 Có phản-ứng hay không phản-ứng, các sự-kiện mang tính chính-trị được lồng vào địa-hạt tôn-giáo, là chuyện “dài nhân dân tự-vệ” ở thời trước. Có tìm và hiểu hay không hiểu và tìm, thì các hệ-lụy rút từ công-bố chính-thức, mới là chuyện của ta và người, bàn đến hôm nay.

Chuyện của ta hôm nay, chỉ là “chuyện bên lề” gồm các tin (rất) tức ở nhiều nơi và của nhiều người. Tin (rất) tức …mình, lại vẫn là chuyện để ta ngồi buồn… bèn có đôi giòng chảy lai rai cho đỡ …ngứa cái miệng.

Và hôm nay, xin bạn và tôi, ta có đọc những giòng này hay không, cũng xin hai chữ bình-an, rồi đi vào sự việc rất “Đạo”, sau này. Nhưng, trước khi đi vào chi-tiết, cũng nên về lại với bài ca và nốt nhạc ghi trên, mà hát cho “êm ru ngày mùa” của Giáo-hội, là: hội của những người sống Đạo trong đời. Vậy, hãy cứ hát những lời rằng:

“Hầy hô! Hây hồ! Hây hô

Gà chuồng le te gáy rõ

Ta nghe đợi chờ…

 Hầy hô! Hây Hồ! Hây hô!

Ngoảnh nhìn quanh ta vẫn nhớ

Ôi êm ru ngày mùa…

 Hầy hô! Hây hồ! Hây hô…

Hầy hô! Hây hồ! Hây hô…

(Phạm Duy – bđd)

Vâng. Cứ ngoảnh lại mà nhìn quanh ta đi, sẽ thấy rất nhiều “sự” xảy ra không như mình tưởng hoặc nghĩ. Tức, những thứ và những sự rất “kể lể” như truyện kể ở bên dưới để “minh-hoạ” một lập-trường-sống vẫn nghe và vẫn nhìn theo cách con nhà có Đạo, ở đời thường, như sau:

“Truyện rằng:

“Cô vốn là một người con gái xinh đẹp. “Vệ tinh” xung quanh cô nhiều không kể xiết, nhưng cô bỏ ngoài tai tất cả để chọn anh – một công nhân làm việc ở nhà máy, thu nhập còn không đủ cho 3 bữa ăn hàng ngày. Cô chấp nhận từ bỏ cả gia đình, thậm chí là công việc đầy tương lai của mình để cưới anh.

Sau khi kết hôn, anh và cô mượn được nhà kho của một người bạn, họ sắp xếp lại thành một tổ ấm giản dị. Mùa đông đến, căn nhà kho trống trải hút gió lại càng trở nên lạnh giá. Khi ấy chưa đủ tiền mua chăn, cô thường bị giật mình tỉnh dậy giữa đêm vì lạnh. Những lúc đó, anh chỉ biết ôm chặt cô vào lòng, dùng hơi ấm của cơ thể sưởi ấm cho cô.

Một ngày cô trở về nhà với vẻ mặt thất thần nhợt nhạt, anh lo lắng hỏi cô có phải bị bệnh rồi không? Cô chỉ mỉm cười nói: “Em hơi mệt thôi!” rồi hân hoan rút từ trong túi ra một tờ bạc nhét vào tay anh: “Chúng mình có tiền rồi anh ạ, mình đi mua một chiếc chăn thật ấm để đắp nhé.” Anh sững người ngạc nhiên nhìn tờ tiền trong tay cô, giọng run run: “Làm sao em lại có nhiều tiền vậy?” Cô vui vẻ kể lại cho anh tiền là do cô kiếm được khi đi phát tờ rơi. Cô phải đứng từ sáng đến tối mới được trả ngần ấy tiền. Nói rồi cô vội vàng kéo anh ra khỏi nhà, không cho anh hỏi thêm điều gì nữa. Họ mua môt cái chăn vừa tầm tiền. Từ đó, giữa đêm cô không còn bị giật mình thức giấc nữa.

Vài năm sau, anh tìm được công việc tốt hơn, rồi kiếm được nhiều tiền, tự mở công ty. Không bao lâu anh đã xây cho cô một ngôi nhà khang trang, mua ô tô cùng rất nhiều đồ dùng đắt tiền khác. Anh nói muốn dành cho cô một cuộc sống ấm no đầy đủ bù đắp lại những tháng ngày khó khăn vất vả trước đây. Cuộc sống bỗng vụt thay đổi khiến cô có phần bàng hoàng chưa kịp thích nghi với điều kiện mới.

Ngày chuyển nhà, anh bảo những đồ đạc cũ trong căn nhà kho của họ trước đây anh đều muốn vứt đi không giữ lại bất cứ cái gì. Nhưng cô khăng khăng nói muốn giữ lại cái chăn để đắp. Và rồi một thời gian dài nữa họ vẫn dùng cái chăn cũ ấy, giờ đây nó đã trở nên xù xì cũ kĩ, còn bị rách khá nhiều chỗ. Anh không ngừng phàn nàn với cô: “Thôi bỏ cái chăn cũ này đi em, mình có thể mua một cái chăn mới ấm áp và tốt hơn rất nhiều. Em xem cả nhà mình toàn những đồ đắt tiền, nhìn cái chăn cũ này trong nhà trông thật chướng mắt”. Nhưng cô vẫn cố chấp nhất quyết giữ lại cái chăn cũ ấy, vì chỉ khi đắp nó cô mới cảm thấy ấm áp và được che chở.

Một hôm, anh về nhà mang theo một cái chăn mới và nhất quyết bảo cô bỏ cái chăn cũ đi. Lần này dù không nỡ nhưng cô vẫn nghe theo lời anh. Từ đó, hàng đêm cô ngủ không còn ngon giấc nữa, trong lòng cô lúc nào cũng cảm thấy thấp thỏm lo lắng khiến cô lại không ngừng giật mình giữa đêm. Và mỗi lần tỉnh dậy như thế, hai mắt cô lại đầm đìa nước. Anh vốn không biết rằng để mua được cái chăn đó cô đã phải đi bán máu lấy tiền chứ không phải đi phát tờ rơi như cô nói với anh. Lần đầu tiên bán máu, biết bao đau đớn, cũng chỉ vì muốn có cái chăn này. Vậy mà anh lại nỡ vất bỏ nó. Cô dần cảm thấy anh không còn yêu cô như xưa nữa.

Một ngày anh có việc gấp phải ra ngoài, quên mang theo máy tính xách tay quen thuộc. Trên màn hình của anh vẫn hiện lên trang blog anh viết hàng ngày. Và cô bất chợt đọc được dòng chữ anh hình như mới viết không lâu.

“Ngày hôm ấy em từ đâu về khuôn mặt tái xanh nhợt nhạt khiến cho tôi lo lắng vô cùng. Rồi em nói em đi phát tờ rơi để mua chăn cho hai đứa. Tối hôm đó chúng tôi nằm ngủ ấm áp trong chiếc chăn mới, thấy em nằm cuộn tròn trong lòng tôi say trong giấc ngủ, tôi thương em biết bao. Đã bao đêm rồi em không được ngủ ngon đến vậy. Và rồi tình cờ tôi nhìn thấy trên tay em có một vết sưng nhỏ, dường như bị kim tiêm đâm vậy. Tôi bỗng hiểu ra tất cả. Hóa ra em nói dối tôi em đi phát tờ rơi, thực ra em đã đi bán máu để có tiền mua chăn, chỉ vì một cái chăn mà em đã phải khổ sở đau đớn đến vậy. Đêm đó tôi đã khóc vì thương em và cũng thầm hứa sẽ cố gắng làm việc, phấn đấu trở thành một người thành đạt, để có thể bù đắp lại những ngày tháng khốn khó này cho em. Và giờ đây tôi đã thực hiện được lời thề đó. Hôm qua tôi quyết định đến trạm hiến máu, tôi chỉ muốn cảm nhận một chút nỗi đau em từng trải qua. Khi chiếc kim tiêm đâm vào mạch máu, một cảm giác nhói buốt lan dọc khắp cơ thể. Nhưng tôi không thấy đau, ngược lại, rất hạnh phúc. Tôi lấy tiền bán máu và đi mua chiếc chăn mới này. Tôi muốn nó là món quà bất ngờ dành cho em…”

Nước mắt cô đã ướt đẫm tự độ nào. Hóa ra tình yêu của anh dành cho cô vẫn sâu đậm và lớn lao đến vậy. Mùa đông năm nay anh đã đổi máu của mình tặng cho cô chiếc chăn ấm, có lẽ đó cũng sẽ là chiếc chăn ấm áp nhất cô có trong đời…(Sưu tầm)

             Nên chăng áp dụng câu truyện trên vào trường hợp của các đấng bậc vị vọng trong đạo?

Phải chăng, các cặp vợ chồng ngày nay vẫn sống đẹp như cặp phối-ngẫu trong truyện kể trên? Áp-dụng trường-hợp hành-xử của đấng bậc chốn chóp bu nhà Đạo, cũng thế ư? Cũng thế là thế nào? Phải chăng sự việc cũng đơn-sơ/chân-chất như nhiều người tưởng?

Thôi thì, trước khi trả lời câu hỏi này, tưởng cũng nên về với vườn hoa thơm phức những lời vang đầy khuyến-dụ mà người đời gọi là Kinh Sách rất thánh, có những giòng như sau:

“Thưa anh chị em,

chúng tôi xin anh chị em hãy quý trọng

những ai đang vất vả vì anh chị em,

để lãnh đạo anh chị em nhân danh Chúa

và khuyên bảo anh em.

Hãy lấy tình bác ái mà hết lòng tôn kính những người ấy,

vì công việc họ làm.

Hãy sống hoà thuận với nhau…

hãy khuyên bảo người vô kỷ luật,

khích lệ kẻ nhút nhát,

nâng đỡ người yếu đuối,

và kiên nhẫn với mọi người.

Anh chị em hãy vui mừng luôn mãi

và cầu nguyện không ngừng.

Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh.

Anh em hãy làm như vậy,

đó là điều Thiên Chúa muốn…”

(1 Thessalônikê 5: 12-19)

 Chiếu lời vàng ở trên, nhiều bạn lại đến hỏi bần-đạo: phải chăng, đấng bậc ở chốn chóp bu nhà Đạo, đã từng thực-hiện lời dặn như thế, chứ?

Hỏi những câu tương-tự, thì ai mà trả lời cho thoả-đáng, chứ! Vâng. Thay vì trả lời/trả vốn cho đúng cách/đúng sự thực, thiết tưởng ta cứ đi vào với lời bình (rất) luận hoặc nhận-định rất chuẩn của giới truyền-thông/báo chí, để rồi có lập-trường/nhân-sinh sao cho phải lẽ.

Vâng. Đúng như thế. Thôi thì, mời bạn và mời tôi, ta thử xét lời bàn của sử gia Vatican là Alberto Melloni từng phát-biểu về chuyến gặp mặt giữa hai đấng bậc chóp bu Công-giáo và Chính-thống Nga, sau đây:

“Alberto Melloni, một sử-gia chuyên về Vatican lại cũng biểu-lộ cho thấy, là: cuộc họp thượng-đỉnh ở Cuba hàm-ẩn ý-nghĩa của thứ địa-lý chính-trị, bởi lẽ cuộc họp mặt này lại diễn ra ngay vào lúc các nhà ngoại-giao tầm cỡ của Hoa-kỳ và châu Âu đang cùng nhau hợp-tác tính chuyện cách ly nước Nga khỏi vòng cương-toả của nước lớn. Giáo-hội Nga lại chặt-chẽ đặt mình cùng hàng với chính-phủ của nước này. Ông Melloni nói thêm: cuộc họp cấp cao với Giáo-hoàng Công-giáo chắc chắn phải có sự đồng-thuận của ông Putin. Chấp-thuận gặp gỡ, cho phép tổng thống nước Nga có được cung-cách khác-biệt mà ông có thể dùng đến hầu tránh khỏi mọi ly-gián. Với Putin, thì gặp gỡ như thế rất có lợi, bởi đây là thứ chính trị tùy thuộc địa lý/địa-hình của các nước.

 Riêng Giáo Hoàng Phanxicô đã chứng tỏ mình là con người đầy tham-vọng, một diễn-viên ngoại-giao trên chính trường thế-giới. Ông giúp các nhà môi-giới bán-buôn có được sự hoà-giải giữa Hoa-kỳ và Cuba , và nhất thứ là ông lại đạt được sự tôn-kính từ ông Castro, tổng-thống Cuba . Đổi lại, ông Castro giúp giàn xếp các kế-hoạch gặp gỡ vào tuần tới.

 Giáo Hoàng Phanxicô cũng thẳng-thắn tiến về phía trước để hoàn-thành một mục-đích khác mà lâu nay Vatican hằng trông ngóng, đó là việc tái-tạo các bang-giao quốc tế với Trung-Quốc. Giáo-hoàng Phanxicô từng cho biết ao-ước của ông muốn trở-thành vị Giáo-hoàng đầu tiên sang thăm nước Trung Hoa lục địa.

 Tuần này, Giáo hoàng Phanxicô sẽ dùng cuộc phỏng-vấn với tờ Asia Times, một ấn-bản bằng tiếng Anh phát-hành tại Hồng Kông để chuyển-tải lời chúc mừng Năm mới Âm-lịch đến nước này và đưa ra lời trấn-an vốn dĩ bảo rằng: một nước Trung Hoa đang lớn mạnh không có nghĩa là đe-doạ cho ai hết.

 Vị Giáo-hoàng này đã nói trong cuộc phỏng-vấn rằng: “Với tôi, Trung Quốc lâu nay vẫn là trọng-điểm của sự cao cả. Là một đất nước vĩ-đại; và hơn cả quốc-gia nữa, mà là một nền văn-hoá vĩ-đại có sự khôn-ngoan hiểu-biết rất vô-tận.” (X. Elisabetta Povoledo, Pope Francis set for historic meeting with leader of Russian Orthodox Chursh , New York Times 06/02/2016)

Xem xét thế rồi, nay ta cũng nên có giòng chảy lịch-sử về vai trò chóp bu trong Đạo, theo tầm nhìn của một số học-giả chuyên ngành, như sau:

“Khi đế quốc La Mã chinh-phục toàn thế-giới lúc ấy, giới ngoại-đạo đã triển-khai từ xứ miền Babylon lan rộng đến nhiều nước khác nhau và từ đó, hệ-thống đạo-giáo của La Mã cũng từ đó xuất-hiện với nhiều người. Điều này bao gồm cả ý-niệm cùng vai-trò của vị Trưởng-tế cao-cấp nhất mà người Âu Châu dùng cụm từ “Pontiff” là dựa vào tên tuổi của Pontifex Maximus. Thế nên, giới ngoại-đạo Babylon, lúc đầu được thể-hiện dưới triều vua Nimrod, sau này kết-hợp dưới quyền-uy thế-lực của một đấng trị vì là Julius Caesar. Khi ấy, vào năm 3 trước Công nguyên, là lúc Hoàng đế Julius Caesar đã chính-thức được coi là “Pontifex Maximus” của đạo-giáo bí-ẩn, nay thiết-lập tại Rôma.

Có điều lạ, là: vào thời Đức Giêsu đang rao giảng, người nghe Ngài giảng có mang đồng tiền kẽm khắc hình Hoàng đế Augustus Caesar (27-14 trước Công nguyên) đến cho Đức Giêsu coi, và Ngài hỏi: “Tiền này khắc hình ai thế? Và họ trả lời: hình Hoàng-đế Caesar…” (Mt 22: 17-22)

Các hoàng-đế La Mã (trong đó có cả Constantine thời sau này) đã tiếp tục duy-trì chức-năng của Trưởng-tế Pontifex Maximus mãi đến niên-biểu 376 khi Gratian vì các lý-do tôn-giáo đã từ chối nó. Ông ta coi danh-xưng và chức-năng này mang tính “ngẫu-thần” rất báng-bổ. Mãi cho đến khi ấy, Giám mục thành La Mã được nâng quyền-bính chính-trị và thanh-thế. Kết quả là, vào năm 378, Đức Giáo-hoàng Demasus, Giám-mục thành La Mã được bầu là Trưởng-tế tối cao, tức: Pontifex Maximus, là vị thượng-tế cao-cấp nhất của các quyền-lực thần-bí được chính-thức công-nhận.

Cũng từ đó, Rôma (tức: La Mã) đã được coi là thành-trì quan-trọng nhất trên thế-giới, và tín-hữu Đạo Chúa lại đã coi vị Giám-mục thành La Mã như “Giám-mục của các giám-mục” làm đầu Hội-thánh. Điều này gây ra tình-huống có một không hai trên thế-giới. Và, một người duy-nhất được coi là “Đấng làm đầu” của mọi tín-hữu cả Đạo Chúa lẫn giới ngoại-đạo. Đến khi ấy và vào các năm tiếp theo sau, giòng chảy ngoại-đạo và Đạo Chúa đã đan xen và cùng chảy với nhau và vào nhau tạo những gì được gọi là Hội thánh Công-giáo La Mã, dưới sự lãnh-đạo của vị Trưởng-tế cao-cấp nhất, mà ngày nay ta gọi là Đức Giáo Hoàng, hay Giáo-Chủ…” (X. Alexander Hislop, The Two Babylons, New York: Loizeaux Brothers 1959, tr. 207)

            Nói thế tức bảo rằng: các tôn-giáo đều có gốc-nguồn từ ngoại-giáo ư? Có quá đáng lắm không? Có lẽ là không. Bởi đó là lịch sử hoặc dã-sử về các đạo-giáo cũng như Công giáo La Mã mình. Bởi, Đạo Chúa đâu do Đức Giêsu thiết-lập, nhưng lại xuất-phát từ Do-thái-giáo, rất Babylon . Babylon xưa, là nguồn-cội của nhiều Đạo đã biến-hoá và phát-triển khắp thế-giới theo chiều ngang/dọc và có thể cả chiều cao, cũng không chừng!

Có thể nói: dù muốn dù không, người người không thể chối bỏ lịch-sử ngàn năm văn-vật rất Babylon . Chí ít là chuyện Đạo và đặc-biệt là chuyện giữ Đạo và sống Đạo. Vấn-đề có thành hay không là hỏi rằng: dù ở hoàn-cảnh/môi-trường nào đi nữa, người ta –tức ta và người – đã và sẽ sống Đạo ra sao? Đạo ấy từ đâu đến? Do Ai? Và của Ai?

Hôm nay, nói thế không phải để chê-trách, cãi cọ chuyện này nọ, nhưng chỉ bảo nhau bằng ca-tư rất “êm ru” ở bài hát rất bên trên, rằng:

“Hầy hô! Hây Hồ! Hây hô!

Ngoảnh nhìn quanh ta vẫn nhớ

Ôi êm ru ngày mùa…

 Hầy hô! Hây hồ! Hây hô…

Hầy hô! Hây hồ! Hây hô…

(Phạm Duy – bđd)

Nhớ và hát thế rồi, hẳn tôi và bạn cũng sẽ không quên lời nhắc nhở của bậc thánh-hiền vẫn cương-quyết nhắc hoài và nhắc mãi những câu như:

“Hãy sống hoà thuận với nhau…

hãy khuyên bảo người vô kỷ luật,

khích lệ kẻ nhút nhát,

nâng đỡ người yếu đuối,

và kiên nhẫn với mọi người.

Anh chị em hãy vui mừng luôn mãi

và cầu nguyện không ngừng.

Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh.

Anh em hãy làm như vậy,

đó là điều Thiên Chúa muốn…”

(1 Thessalônikê 5: 12-19)

 Sống vui mừng, hoà-thuận mãi với mọi người. Hẳn, đó là lời khuyên và bàn rất muôn thuở.

 Trần Ngọc Mười Hai

Nay chả dám khuyên

Chả dám bàn với những ai

ngoài chính mình mình, mà thôi.

Trả Lại Sự Thật Cho Lịch Sử Việt Nam

Trả Lại Sự Thật Cho Lịch Sử Việt Nam

Nguyễn Ngọc Bích

12/03/2016

LTS.- Ngày 3-3-2016, Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích từ trần trên chuyến bay tới Phi Luật Tân dự Hội Nghị về Biển Đông. Hôm nay, Thứ Bảy 12 tháng Ba, lễ tang được chính thức cử hành tại Virginia. Nhân dịp này, Việt Báo trân trọng giới thiệu một trong những bài viết sau cùng của Giáo sư  Bích, đề cập tới những diễn tiến tại đại học Cornell,  trong nỗ lực làm sáng tỏ sự thật về chiến tranh Việt Nam,  từ việc ông tham dự cuộc hội luận “Voice from the South Vietnam” năm 2012 tới việc tác giả “Giải Khăn Sô cho Huế” nói chuyện tại Cornell năm 2015. Giáo sư  Bích đã viết bài này vào đêm 16 tháng 12 năm 2015, dành riêng Việt Báo Tết Bính Thân. Khi bài tới, báo đã in xong. Nhờ vậy, đây là lần đầu tiên bài viết được phổ biến. Vào ngày tiễn đưa vị học giả một đời tận tụy với văn hóa lịch sử dân tộc, xin mời đọc bài viết nhiều tâm huyết của ông.

Hình ảnh ngày hội luận Cornell 2012 về Đệ Nhị Cộng Hòa VN trước Kehin Center tại Đại Học Cornell. Hàng thứ hai, người thứ nhất từ phải, người đầu bạc áo trắng cúi tựa lan can là Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích. Người đứng dưới GS Nguyễn Ngọc Bích là bình luận gia Trần Bình Nam, tức cựu dân biểu Trần Văn Sơn, vừa từ trần sáng Thứ Sáu 11-3-2016 ở Calif.

***

Hội-thảo “Những Tiếng Nói từ Miền Nam” (“Voices from the South”) ở Cornell University do Giáo sư Keith W. Taylor đứng ra mời và tổ-chức vào tháng 6 năm 2012.

Là một cựu-chiến-binh đã từng tham chiến tại Việt-nam, sau khi về Mỹ, ông Keith W. Taylor đã muốn tìm hiểu thêm về nước ta.  Ông học tiếng Việt, tiếng Hán, chữ nôm và đã viết cuốn sách rất giá trị trong tiếng Anh,The Birth of Vietnam  – “Việt Nam Khai Quốc”, do University of California Press in ra năm 1983- kể lịch-sử nước ta từ thuở lập quốc đến thế-kỷ X.  Gần đây nữa, năm 2013, ông lại có một cuốn sách để đời do Cambridge University Press ở Anh in ra mang tên A History of the Vietnamese (“Một cuốn sử về người Việt”).

Trong nhiều năm dạy ở Cornell, ông Taylor đã bị ảnh-hưởng không ít bởi lối trình bầy lịch-sử truyền-thống của chúng ta: rằng Việt-nam là một dân-tộc thống nhất với một lịch-sử tuyến-tính, kết thúc (làm như lịch-sử có kết thúc) bằng sự thống nhất dưới sự giầy xéo của xe tăng Nga vào Dinh Độc Lập ngày 30 tháng Tư 1975.  Nhưng rồi ông tỉnh ra rằng lịch-sử Việt-nam đã có nhiều giai-đoạn phân ly, chia cách.  Như ở thế-kỷ XVI đã một thời-gian dài nước ta có ba chính-quyền (nhà Mạc, nhà Lê với sự phò trợ của chúa Trịnh, rồi chúa Nguyễn ở miền Nam) hoặc giai-đoạn Trịnh-Nguyễn phân tranh (trên 200 năm), rồi sự tranh hùng giữa hai nhà Nguyễn (Nguyễn Tây-sơn và Nguyễn Gia-miêu, chưa kể là mấy anh em nhà Tây-sơn cũng chia nước ra làm ba) và nhất là Việt-nam sau Genève 1954.  Thành thử không thể thiên-vị phe này để gọi phe kia là “ngụy” được.

Chính vì thế mà cách đây ít năm ông đã viết một bài dài phân-tích, cho rằng lối trình bày cũ không sát thực-tế, là quá một chiều.  Từ đó ông nhìn lại lịch-sử Việt-nam cận-hiện-đại để thấy Miền Nam trong ít nhất 21 năm (1954-1975) đã thực-sự là một quốc gia được quốc-tế công-nhận rộng rãi (hơn rất xa miền Bắc CS trong nhiều lãnh-vực và trong nhiều nghĩa).  Từ đó ông nảy sinh ra ý-tưởng phải nghiên cứu một cách đứng đắn về Miền Nam, về hai nền Việt-nam Cộng-hòa.

Đó là lý-do vì sao ông, tức là Cornell University, là nơi đầu tiên trong các đại-học lớn ở Mỹ tìm cách mời một số diễn-giả mà đã có vai trò đáng kể trong những lãnh-vực như chính-trị, ngoại-giao, an-ninh quốc-phòng, kinh tế tài-chánh, thông tin tuyên-truyền thời Đệ nhị Cộng-hòa đến trình bầy cho khoảng 100 học-giả đến từ khắp nước Mỹ và cả một số nước khác (Pháp, Anh, Canada…) về những kinh-nghiệm xây dựng dân-chủ, qua một hiến-pháp (1967) tôn trọng tam quyền phân lập và những quyền căn-bản của người dân, qua một nền kinh tế tự do nhưng có điều tiết, khuyến khích phát triển nông-nghiệp và công-nghiệp, xuất khẩu, và đang trên đà bứt phá (takeoff).

Đến từ Chicago, Illinois, là Hoàng Đức Nhã, ông trình bầy về những nỗ lực xây dựng một nền dân-chủ ngay trong chiến-tranh.  Như các cuộc tranh cử có cạnh tranh, trong Quốc-hội có đối-lập, có khối này khối nọ.  Và ông Thiệu dám cưỡng lại tổng-thống Mỹ Nixon và ông Kissinger trong những ngày cuối của hòa-đàm Ba-lê khi thấy hiệp-định như Kissinger và Lê Đức Thọ thỏa-thuận quá bất lợi cho miền Nam.

Ủng-hộ cho lập-luận của ông Hoàng Đức Nhã là ông tòa Phan Quang Tuệ, đến từ San Francisco, và ông Trần Văn Sơn, một cựu-sĩ-quan Hải-quân và một dân-biểu đối-lập, đến từ Phila.  Ông Sơn, một thành-viên trong khối đối-lập của Luật-sư Trần Văn Tuyên (29 dân-biểu, đa-phần thân Phật-giáo), cho biết là khối đối-lập của ông có tiếng nói rõ ràng trong Quốc-hội, được báo chí đưa tin đầy đủ và sự an-toàn cá-nhân của các thành-viên trong khối không bị đe dọa.  Tuy phút chót không đến được nhưng B.S. Mã Xái cũng đã gởi bài nói về sự “đóng góp của Đảng Tân Đại Việt vào việc xây dựng dân-chủ ở miền Nam.”

Sang lãnh-vực xây dựng quốc gia có bài thuyết-trình của cựu-tổng-trưởng Thương mại và Kỹ-nghệ Nguyễn Đức Cường đến từ San Jose.  Gốc kỹ-sư, ông Cường trình bầy bằng những con số thuyết-phục về các chương-trình do chính-quyền đưa ra thời đầu thập-kỷ 1970 để kìm lạm-phát (kinh tế thị-trường), phát triển đầu tư và công-kỹ-nghệ (như khu chế xuất Biên-hòa), tìm ra dầu hỏa v.v.  Riêng cựu-thứ-trưởng Cải cách Điền địa và Phát triển Nông-nghiệp Trần Quang Minh, đến từ Louisville, Kentucky, nói về chương-trình “Người cày có ruộng” (1970), thành công tới mức khi CS vào cũng không thay đổi gì được, cũng như chương-trình về thực-phẩm quốc gia, tất cả trong một khung-cảnh chiến-tranh toàn-diện trên toàn-quốc.

Về mặt an-ninh quốc-phòng thì có hai bài, một của Trung-tướng Lữ Lan đến từ Virginia nói về an-ninh diện-địa và một của Phó-đề-đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tư lệnh Khu Duyên hải vùng I, tư lệnh trực-tiếp của hải-chiến Hoàng-sa 1974 và cũng là tác-giả cuốn Can trường trong chiến bại.  Ông đến từ Houston, Texas, và đã cho biết trong chi-tiết những diễn-biến của trận hải-chiến để đời này trong lịch-sử nước nhà, với những anh-hùng  như Ngụy Văn Thà và 71 đồng-đội hải-quân hy sinh trong trận chiến đó.

Ngoài ra, ông Phan Công Tâm thuộc Trung-ương Tình-báo mô-tả một số hoạt-động của ông ở Cao-miên cũng như sang tận Phi-châu mang con gái ông Bokassa sang nước Trung-Phi.

Riêng tôi nói về công-tác thông tin quốc-ngoại, không chỉ ở Sứ-quán VNCH tại Hoa-thịnh-đốn (1967-1971) mà còn trong thời-gian tôi làm Trung-tâm-trưởng Trung-tâm Dân-vụ (lo cho các nhà báo ngoại-quốc đến làm tin ở VN) và Cục-trưởng Cục Thông tin Quốc-ngoại, hơn một lần phụ-tá cho Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu để tiếp đón các nhà báo Tây-phương (như Oriana Fallaci, Patrice De Beer, v.v.) và thậm chí trong cả chuyến đi họp Thượng-đỉnh San Clemente với Tổng-thống Mỹ Nixon, sau đó đi diện kiến Đức Giáo-hoàng và trên đường về, ghé thăm Tổng-thống Phác Chánh Hy của Đại-Hàn và Tổng-thống Tưởng Giới-thạch ở Đài-loan (Trung-hoa Dân-quốc).

Cựu-Đại-sứ Bùi Diễm, đến từ Maryland, thì cho một cái nhìn tổng-quan về quan-hệ Việt-Mỹ, những ngộ-nhận đáng tiếc để sau đó dẫn đến những sai lầm trong chính-sách của Hoa-kỳ đối với VNCH.  Chuyến đi Cornell này còn để lại cho tôi một số ký-ức thật đẹp vì Đại-sứ Bùi Diễm, “boss” cũ của tôi ở Tòa Đại-sứ Washington, và chúng tôi đã hẹn gặp nhau ở phi-trường Rochester (với tôi bay thẳng từ Cali về) để sau đó tôi thuê xe lái qua vùng Finger Lakes (Mấy hồ thật đẹp có hình như mấy ngón của một bàn tay) leo núi xuống đồi đôi khi thật ngoạn mục qua vùng mấy vườn nho làm rượu vang trước khi đến trường Cornell.

Tóm lại, chuyến đi như một cuộc du ngoạn song cũng nhân cơ-hội đó mà 12 diễn-giả gốc từ miền Nam đã nói lên được một cách khá đầy đủ và dõng dạc về những thành-tựu rất đáng kể và đáng nể của VNCH, nhất là nền Đệ nhị Cộng-hòa, một quốc gia càng ngày càng chứng minh được nếp sống văn-minh và dân-chủ cao-độ so với miền Bắc u tối cùng thời.

Hội-luận Cornell, “Những Tiếng Nói từ Miền Nam,” đến quá muộn (37 năm sau khi mất miền Nam) nhưng vẫn là một “corrective” cần thiết đối với lịch-sử.  Và qua hội-luận đó, Giáo-sư Keith Taylor đã trả lại được phần nào sự thật cho lịch-sử–gần như “ở ngay trong lòng địch” vì cũng chính ở Cornell, chính khoa Đông-Nam-Á-học ở đây, đã là “lò phản-chiến” của Mỹ trong chiến-tranh VN với ông George McT. Kahin viết cùng với ông John W. Lewis cuốn “Thánh Kinh” của phong trào phản chiến Mỹ (và trên thế-giới), cuốn The United States in Vietnam (A Delta Book, 1967), một cuốn sách méo mó xuyên tạc khá tệ hại.

Sau hội-luận Cornell 2012, các bài tham-luận đã được in thành sách dưới tên VOICES from the Second Republic of South Vietnam (1967-1975), K.W. Taylor, editor (Cornell Southeast Asia Program Publications, 2014). Năm nay, đánh dấu 40 năm ngày miền Nam bị đẩy vào cảnh sụp đổ,  ông Taylor lại đi thêm một bước nữa trong việc trả lại sự thật cho lịch-sử Việt-nam khi ông mời nhà văn Nhã Ca lên Cornell nói về sự thật Tết Mậu Thân tại Huế. Cuốn Giải khăn sô cho Huế của Nhã Ca đã được  Olga Dror dịch thành Mourning Headband for Hue (Indiana University Press, 2015).

Tiến sĩ Olga Dror là một nhân vật khá lạ.  Là người gốc Do Thái sinh tại Nga, bà nói lưu loát tiếng Việt và đã dịch cuốn sách của Nhã Ca sang tiếng Anh cũng không kém văn chương.  Trong quá-khứ bà đã từng nghiên cứu về folklore Việt-nam và viết được một cuốn sách rất giá trị mang tên Cult, Culture and Authority: Princess Liễu Hạnh in Vietnamese History (“Thờ phụng, Văn-hóa và Quyền-uy: Chúa Liễu Hạnh trong Lịch-sử VN,” University of Hawaii Press, 2007).  Để có thể dịch được cuốn của Nhã Ca, bà đã nghiên cứu và đào sâu về trận Mậu-thân ở Huế cũng như tìm cách xác-định về vụ thảm-sát Tết Mậu-thân ngoài đó.  Do đó mà cuốn sách có một phần dẫn nhập thật dài và chi-tiết (50 trang) trình bầy kiểu nói có sách mách có chứng tất cả những sự tranh cãi về trận Mậu-thân tại Huế, chẳng hạn như vai trò của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân, trong thời-gian Cộng-sản chiếm đóng Huế trong 23 ngày.  Chỉ riêng phần dẫn nhập này với đầy đủ cước-chú các nguồn tin cũng đủ đáng để cho ta mua cuốn sách rồi.

Tháng trước sang Cali để dự “Đại-nhạc-hội Việt-nam Cộng-hòa Trở Lại”, hôm ghé thăm Việt Báo gặp anh Trần Dạ Từ, anh bảo tôi: “Ông ơi, ông đã tham dự hội luận “Voices from the South” ở Cornell năm 2012 để lấy lại sự thật cho miền Nam, vậy thì ông phải viết về chuyến đó cho báo Tết năm nay!”

Như mọi khi, tôi hay có tật ừ.  Thế là…

Đồng Xuân, bang Trinh Nữ, Hoa Kỳ Quốc

Viết xong đêm 16 tháng 12, 2015

Nguyễn Ngọc Bích