Bí quyết để Đan Mạch trở thành nước hạnh phúc nhất thế giới

https://1.bp.blogspot.com/-csTnE_A5b-w/Vtp7G2yWtII/AAAAAAAAhzo/CnHL50U9iu8/s1600/de-cham-vao-hanh-phuc.jpg
Hạnh phúc không phải là điều bạn phải đi tìm kiếm, mà là những gì bạn tạo dựng…”
 Đan Mạch là một trong những quốc gia hạnh phúc nhất thế giới những năm gần đây. Câu hỏi đặt ra là tại sao nước này lại có chỉ số hạnh phúc cao đến vậy? Cùng tìm hiều điều đó dưới đây nhé.


Trong 4 năm gần đây, 3 năm Đan Mạch về nhất trong “cuộc đua” quốc gia hạnh phúc

Đan Mạch đã đứng đầu danh sách những quốc gia hạnh phúc nhất thế giới của LHQ năm 2016, 2014 và 2013. Mặc dù thời tiết ở Đan Mạch rất u ám trong mùa đông, thế nhưng nơi đây vẫn được coi là quốc gia hạnh phúc nhất thế giới. Tại sao?

Khảo sát về mức độ hạnh phúc thực hiện bởi Liên Hợp Quốc và Viện Trái đất tại Đại học Columbia (Mỹ), dựa trên các yếu tố như: sức khỏe, dịch vụ y tế, mối quan hệ gia đình, công việc bền vững, tự do chính trị và một bộ máy nhà nước không tham nhũng. Dưới đây là lý do tại sao Đan Mạch lại “giữ ngôi” hạnh phúc nhất trong nhiều năm như vậy.

Cân bằng giữa công việc và cuộc sống
Ở Đan Mạch, trung bình một người làm việc 37 tiếng/tuần. Họ có thời gian nghỉ lễ 5 tuần/năm. Điều này có nghĩa là thời gian nghỉ ngơi chiếm phần lớn trong văn hóa Đan Mạch. Việc này rất có ích. Tan làm đúng giờ, đi xe đạp về nhà, hoặc sử dụng một phương tiện công cộng rất hiệu quả, đón con từ trường học và có một bữa ăn tối ấm cúng cùng gia đình, là định nghĩa của hạnh phúc ở hầu hết các gia đình Đan Mạch.


Người Đan Mạch chỉ làm việc 37 tiếng/ tuần

Dành nhiều thời gian để giải trí thư giãn
Người Đan Mạch thường dành thời gian rảnh rỗi của mình với người thân, gia đình, bạn bè. Những cuộc gặp mặt ấm cúng này có thể là một buổi tụ tập bên lò sưởi sau ngày Giáng sinh khi trời đầy tuyết rơi, hoặc đi dạo trên bãi biển, xuống phố, tranh thủ mọi nơi để trò chuyện, cùng nhau uống cốc bia… Người Đan Mạch luôn muốn làm những điều này. Ra ngoài uống bia hay uống café hoặc ăn tối với người thân là một trong 10 điều cần phải làm ở Copenhagen, Đan Mạch.


Thường xuyên dành thời gian với gia đình, bạn bè là chìa khóa hạnh phúc của người Đan Mạch

Ít kì vọng
Người Đan Mạch không quá tham vọng. Trong xã hội Đan Mạch, mọi người đều như nhau. “Bạn không hề tốt hơn những người khác.” là một câu nói nổi tiếng của người Đan Mạch. Không ai chỉ trích bạn vì lựa chọn sự nghiệp hoặc thiếu tham vọng, nếu bạn hạnh phúc với nó, thì cứ tận hưởng. Ít kì vọng khiến mọi thứ trở nên dễ dàng hơn với người Đan Mạch. Như người ta vẫn nói, ít hy vọng thì ít thất vọng. Người Đan Mạch thực sự thích thú với những điều đơn giản và một cuộc sống đơn giản.


“Ít hi vọng, ít thất vọng”

Chính sách phúc lợi “hào phóng”
Đan Mạch được coi là một trong những quốc gia bình đẳng nhất trên thế giới, nơi mà cả nam giới và phụ nữ đều có trách nhiệm như nhau. Thuế ở đây rất cao, giúp quyên góp vào hệ thống chăm sóc sức khỏe của đất nước. Mọi người đều được khám chữa bệnh miễn phí. Trường học cũng miễn phí. Sinh viên được trợ cấp hàng tháng trong suốt năm. Trợ cấp thất nghiệp và các chương trình hỗ trợ thấp nghiệp đều rất hào phóng.
Chi tiêu của chính phủ về trẻ em và người cao tuổi cao hơn so với bất kỳ nước nào trên thế giới. Hệ thống phúc lợi xã hội ở Đan Mạch phát triển mạnh đã tăng cảm giác an toàn và làm cho người dân cảm thấy thoải mái, luôn tin rằng nếu họ thất nghiệp hoặc bị ốm, xã hội sẽ hỗ trợ và giúp đỡ họ hồi phục.


Sinh viên sẽ được hưởng trợ cấp tới 7 năm

An ninh tốt
Niềm tin là một yếu tố quan trọng trong khái niệm hạnh phúc của người Đan Mạch: tin tưởng vào chính phủ, tin tưởng nơi làm việc, trường mẫu giáo và trường học chăm sóc con của bạn, tin tưởng rằng bạn an toàn, với tỉ lệ tội phạm và tham nhũng thấp, tin vào lực lượng cảnh sát đáng tôn trọng và những người hàng xóm thân thiện.

Các bà mẹ có thể vô ý để quên con mình trong xe đẩy ngoài tiệm café mà không có chuyện gì xảy ra. Ở làng quê, bạn ra ngoài mà chẳng cần khóa cửa nhà. Và có lẽ chiếc xe đạp thân yêu là biểu tượng đẹp nhất của sự hạnh phúc ở Đan Mạch. Nhiều người Đan Mạch đủ khả năng để mua ô tô, nhưng vẫn chọn xe đạp: đơn giản, tiết kiệm, thân thiện với môi trường và giữ cho bạn khỏe mạnh.

http://static.new.tuoitre.vn/tto/i/s626/2016/03/17/dan-mach-1458179932.jpg
Nụ cười của trẻ em Đan Mạch

Quốc gia này vừa được bình chọn là quốc gia hạnh phúc nhất thế giới, theo Báo cáo hạnh phúc thế giới 2016 do Liên Hiệp Quốc công bố hôm 16-3. 

Việt Nam xếp thứ 96 trong danh sách này.


VietBF © Sưu Tầm

Chuyện về chị Ba Sen của tôi

Chuyện về chị Ba Sen của tôi

Đòan Thanh Liêm

Gia đình tôi rất đông anh chị em, có đến tất cả là 11 người gồm 3 anh em trai

và 8 chị em gái. Chúng tôi gốc gác ở miền quê, thuộc tỉnh Nam Định trong

vùng đồng bằng sông Hồng ngòai Bắc. Vì họ hàng bên họ nội cũng như bên

họ ngọai đều sinh sống trong một ngôi làng hay vài ba làng kế cận, nên bà

con rất gần gũi gắn bó với nhau.

Bà chị cả là chị Chắt bị bệnh câm điếc từ nhỏ, nên mọi việc trong nhà đều do

người chị thứ ba là chị Sen cáng đáng giúp đỡ cha mẹ để chăm sóc lũ em

nhỏ như tôi. Vì thế mà chị không được đi học nhiều, chỉ cỡ vài ba năm theo

học ở trường làng mà thôi. Mẹ tôi kể là từ nhỏ chị Sen rất tháo vát, biết lo

lắng mọi việc trong nhà đâu ra đó. Chị hơn tôi đến trên một con giáp, nên

ngay từ tấm bé tôi có sự quyến luyến với người chị dịu hiền này, với bao

nhiêu kỷ niệm đẹp đẽ trong khung cảnh đồng quê êm ả nơi xóm làng có lũy

tre xanh bao bọc xung quanh. Chị tôi mất tại Mỹ năm 1993 vào tuổi 75, giữa

lúc tôi còn đang bị giam giữ tại nhà tù Hàm Tân, Phan Thiết.

Nay sắp đến ngày giỗ năm thứ 17, tôi muốn ghi lại một số kỷ niệm thân

thương với chị là người tôi luôn luôn yêu mến quý trọng. Chị tôi lập gia đình

sớm với anh Tống Huy Chỉnh, nên mấy cháu lớn cuả anh chị cũng không

thua kém về tuổi tác là bao nhiêu so với tôi. Vì thế chị hay rủ tôi khi nào

rảnh rỗi như vào các kỳ nghỉ hè, không phải đi học, thì đến ở nhà chị và chơi

với mấy cháu. Chị lại làm món ăn rất khéo và mau lẹ gọn gàng, nên tuổi nhỏ

còn ham ăn ham chơi, tôi rất thích được đến ở nhà chị chỉ cách xa nhà cha

mẹ tôi chừng 5-6 kilomet thôi.

Chị rất tháo vát năng nổ và có nhiều sáng kiến trong lối sắp xếp công việc

làm ăn kinh doanh. Nhận thấy anh rất khéo tay, nên ngay từ hồi còn ở thị xã

Bùi chu lúc vưà mới thành lập, chị đã bày vẽ ra chuyện chế biến và buôn bán

nữ trang bằng vàng là các thứ mà người dân quê thường rất ưa chuộng để cất

giữ làm vốn liếng, mà khi cần thì có thể dễ dàng đem bán đi. Và đến khi di

cư vào Nam năm 1955, chị cũng tìm cách mở lại hàng vàng ở khu Ngã Ba

Ông Tạ là nơi có rất đông người Bắc tới định cư. Tiệm vàng này có tên là

Trường Nguyên, nên mọi người mới gọi anh chị tôi là “Ông Bà Trường

Nguyên”.

Hồi đó tôi còn đang học ở trường Luật Saigon, vào các ngày nghỉ tôi

thường về ở với chị, nhiều hơn hồi xưa ở ngoài Bắc nữa. Vì lúc này cha mẹ

tôi đều đã qua đời ở ngoài Bắc, nên lũ em còn nhỏ tuổi chúng tôi phải phân

tán chia nhau ra mà tá túc tại nhà các anh chị lớn, mà đã có nhà riêng đủ

rộng rãi để chứa chấp các em. Chị luôn khích lệ cổ võ cho tôi trong chuyện

học hành thi cử. Nhờ vậy mà tôi đã học xong hết cấp đại học.

Tôi rất nhớ những chuyện chị tâm sự với tôi. Điển hình như lúc tôi ngồi tại

quầy bán hàng vàng với chị, thì có lần chị nói : “Em có biết không, làm cái

nghề buôn bán này, thì có nhiều cám dỗ để mà tham lam, gạt gẫm khách

hàng hầu kiếm lợi tối đa cho mình. Như vậy là phạm tội lường gạt, là “lỗi

đức công bằng”. Riêng một mình chị thì phạm tội để có thêm tiền cho chồng

con ăn xài. Như vậy là cả nhà được hưởng lợi, mà riêng chị thì mắc tội để

sau này bị vướng mắt trước tòa phán xét nghiêm ngặt của Chúa. Do đó mà

chị phải cảnh giác, không làm chuyện lừa gạt khiến gây thiệt hại cho thân

chủ khách hàng…” Lời chị nói như thế đó càng làm cho tôi nhớ lại điều mà

mẹ tôi thường hay nhắc nhủ chúng tôi về bổn phận của con nhà có đạo là

phải giữ “đức công bằng”. Bà cụ nói : “ Chúng con phải hết sức tránh, không

được để cho mình phạm lỗi đối với bà con, vì làm điều gian dối khiến gây

thiệt hại cho họ. Đó còn là cái tội trước mặt Chúa nữa…”

Dịp khác, chị còn nói : “ Đứa trẻ chỉ có thể lớn lên được, đó là nhờ ở tình

yêu thương ấp ủ trong cái nôi êm ấm của gia đình bằng tình yêu thương của

cha mẹ, của các anh chị em và bà con họ hàng nội ngoại …” Điều bà chị của

anh nói rõ ràng là “ do kinh nghiệm bản thân, chứ không phải là do sách vở

mà trích dẫn ra “ : Đó là nhận xét của chị bác sĩ Olivette người Bỉ nói với

tôi, khi tôi nhắc lại câu nói trên do chị Ba tâm sự với tôi vào năm 1969-70 ở

Saigon, lúc chính vợ chồng tôi cũng đã có mấy đứa con rồi.

Tôi thấy anh chị suốt đời đã rất thuận thảo và đồng lòng hợp ý chăm sóc rất

chu đáo cho các cháu, cũng như là lo lắng bảo bọc lũ em như chúng tôi.

Điểm đặc biệt tại nhà anh chị là vì bận rộn với chuyện kinh doanh làm ăn,

phải vắng nhà, thì anh chị giao toàn quyền cho Cô Đoán như là một vị

“Quản gia”, để quán xuyến mọi việc trong nhà, nhất là lo trông coi mấy cháu

nhỏ. Cô được sự tín nhiệm hoàn toàn trong mọi việc nội trợ, đến nỗi mà mấy

cháu nhỏ phải nói với tôi : “ Tụi cháu sợ Cô Đoán la rày, hơn là sợ bố mẹ

chúng cháu “. Sự đối xử tế nhị như thế làm cho Cô Đoán thật cảm phục.

Không những đối với con ruột, mà ngay cả đối với các con dâu, con rể, thì

chị cũng đối xử rất ngọt ngào, hiền dịu. Cháu Hà là con dâu trưởng nhiều lần

tâm sự với tôi : “ Cháu chưa thấy một bà mẹ chồng nào mà lại đối xử với

con dâu tốt đẹp, tươm tất như mẹ của anh Hiền chồng cháu”. Cháu Hưng là

con trai út, thì cũng tâm sự : “ Cháu đi tìm người con gái nào mà có được

đức tính như mẹ của cháu, thì mới có thể xin cưới cô ta làm vợ được. Nhưng

mà, cháu kiếm hoài vẫn chưa gặp được người nào nết na, dịu hiền như mẹ

cháu cả. Thật là khó đấy! “

Còn luật sư Đỗ Xuân Hòa, thì cũng thường nói : Ít có bà cụ nào mà có sự

khôn ngoan chín chắn và có tấm lòng nhân hậu dịu dàng như bà cụ Trường

Nguyên. Luật sư Hòa có bà xã nhận chị tôi là “ người đỡ đầu khi chị gia

nhập đạo công giáo”, nên hai anh chị thường có dịp lui tới thăm nom gặp gỡ

với gia đình chị tôi. Vì thế mà cả hai vợ chồng rất gắn bó với toàn thể gia

đình. Luật sư Hòa còn nói rõ : “ Mọi việc trong nhà, thì hầu hết là do bà cụ

sắp xếp, tổ chức đâu ra đấy. Mà ông cụ thường luôn thuận thảo, tán đồng

theo ý kiến rất xác đáng có tình có lý của bà, nhờ vậy nên công việc đều êm

xuôi “thuận chèo mát mái” cả.

Cụ thể là nhờ tính cương quyết, kiên trì của chị mà toàn bộ gia đình mới có

thể đi thoát khỏi chế độ cộng sản vào năm 1975. Chị đã lo bố trí ghe thuyền

tươm tất để tất cả gia đình và một số bà con khác có thể êm thắm ra khơi tại

bãi biển Vũng Tàu, đúng vào lúc miền Nam sụp đổ vào tay quân đội cộng

sản vào ngày 30 Tháng tư oan nghiệt năm đó. Tôi vẫn còn nhớ lúc gặp chị

vào cuối tháng Tư năm 1975 tại xưởng làm nước mắm của chị tại khu Bến

Đá Vũng Tàu, thì chị dặn tôi : “Em ở Saigon ráng thu xếp đưa gia đình di tản

đi thôi. Người trí thúc như em, thật khó mà sống với cộng sản được. Cái

chuyện “cha chung không ai khóc” khiến cho nền kinh tế tập trung kiểu

cộng sản mỗi ngày một lụn bại, làm dân chúng đói khổ lầm than mà thôi!”

Để chị yên tâm, tôi cũng nói là em có thể kiếm máy bay cho cả gia đình đi từ

Saigon cho tiện, vì các cháu còn nhỏ dại. Và đó là lần sau cùng hai chị em

chúng tôi gặp nhau.

Vì anh chị đều tận tâm chăm sóc dìu dắt lũ con như thế, nên các cháu đều

thành đạt về nghề nghiệp, cũng như noi theo được tấm gương đạo hạnh tốt

lành của cha mẹ. Đặc biệt là các cháu đều tham gia rất tích cực vào các loại

công tác xã hội từ thiện, cũng như công việc xây dụng của giáo hội công

giáo. Điển hình như cháu Hồng Vân là trưởng nữ và chồng là bác sĩ Nguyễn

Duy Thuần, khi còn sinh tiền làm ăn ở bên Texas, thì cả hai vợ chồng đã hết

sức góp phần yểm trợ cho các giáo phận ở ngoài Bắc và được Đức Hồng Y

Phạm Đình Tụng công khai tán dương công đức vào lúc cháu Vân Thuần

qua đời vì bạo bệnh.

Riêng về phần anh, thì Chúa đã cho anh sống tới tuổi thọ khá cao. Năm 2009

này, anh đã bước qua tuổi 95, kể là vào loại “thượng thọ” được rồi. Mà anh

vẫn còn minh mẫn sáng suốt. Anh vẫn thường kể lại về những kỷ niệm thật

tươi đẹp với chị trong suốt bao nhiêu năm chung sống với nhau. Và bây giờ

các cháu đều trưởng thành chững chạc, sinh hoạt thuận thảo quây quần với

nhau trên đất Mỹ. Các cháu đều hết lòng biết ơn cha mẹ đã hy sinh trọn cuộc

đời để vun đắp cho các cháu trở thành người có nhân cách thanh cao, có

nghề nghiệp đàng hoàng, và nhất là có lòng đạo hạnh và niềm tin sắt đá

vững vàng. Rõ rệt đây là trường hợp “Cha mẹ hiền lành để đức cho con”.

Về phần bản thân mình là người em của chị, tôi thật tự hào là có được một

người chị vừa nết na đạo hạnh, vừa có tài ba để xây dựng được một gia đình

yên vui hạnh phúc với lũ con, cháu và chắt thật là đông đúc, mà lại rất thuận

hòa yêu thương gắn bó mật thiết với nhau. Chị tôi chẳng phải là một bậc nữ

lưu tài ba nổi tiếng ngoài xã hội ; chị chẳng có công trạng lớn lao đáng kể gì

đối với làng quê, đối với quốc gia, để mà được tung hô ca tụng. Mà chị chỉ

là một phụ nữ bình thường, là một người mẹ, một người chị suốt cả cuộc đời

chỉ biết hoạt động bên trong ngưỡng cửa của gia đình. Nhưng rõ rệt là chị đã

để lại một tấm gương sáng ngời với một nhân cách cao quý, một tinh thần hy

sinh tận tụy cho gia đình nhỏ của riêng mình, cũng như cho cả đại gia đình

bên nội và bên ngoại của các cháu. Chị là người đã giữ mãi được cái ngọn

lửa yêu thương nồng ấm của truyền thống gia phong gia đạo, do cha mẹ

chúng tôi truyền lại. Từ thời thơ ấu đến tuổi trưởng thành, tôi đã học hỏi

được biết bao nhiêu điều tốt đẹp quý báu nơi chị.Tôi thật biết ơn chị và cũng

phấn khởi với chị xuyên qua những điều cao quý như thế đó.

Tôi luôn tưởng nhớ về chị với tấm lòng yêu thương quý trọng của một

người em nhỏ trong gia đình. Và tôi cũng luôn cố gắng để xứng đáng với

người chị tuyệt vời của mình nữa./

California, Tháng 12 Năm 2009

Đoàn Thanh Liêm

Nạn hạn hán ở Mekong tệ hại hơn giữa những nghi ngờ về lời hứa của Lào

 Nạn hạn hán ở Mekong tệ hại hơn giữa những nghi ngờ về lời hứa của Lào

Đập Xayaburi do Lào xây dựng đã gây ra nhiều tranh cãi và phản đối từ các nước xung quanh vì những tác động tiêu cực về môi trường. (Ảnh: Tom Fawthrop)

Đập Xayaburi do Lào xây dựng đã gây ra nhiều tranh cãi và phản đối từ các nước xung quanh vì những tác động tiêu cực về môi trường. (Ảnh: Tom Fawthrop)

21.03.2016

Hạn hán tại Đông Nam Á đã gây lo ngại rất nhiều cho Việt Nam và Campuchia, nơi nước mặn đang vào sâu trong Sông Mekong và nhiều người nghi ngờ về những lới hứa mới đây của Lào là nước này sẽ tôn trọng quyền của những quốc gia ở vùng lạ lưu trong việc xây dựng các con đập. Thông tín viên Luke Hunt của đài VOA gởi bài tường thuật về từ Phnom Penh.

Bảo đảm từ Vientiane được đưa ra bởi ông Bounhang Vorachith, người vừa mới được bầu làm tổng bí thư của đảng Cộng sản Lào, đã mang lại mối hy vọng là ông có thể cho thấy một khuynh hướng hòa giải trong các cuộc thương thuyết với những nước cùng chia sẻ việc sử dụng Sông Mekong. Ông nói: “ Lào sẽ nỗ lực đảm bảo là sẽ không có ảnh hưởng gì cả”. Ông Bounhang vừa mới nói với chính phủ Campuchia về kế hoạch của Vientiane để xây dựng 11 con đập dọc theo Sông Mekong và ảnh hưởng của những con đập này đối với các nước láng giềng.

Ông cũng nhắc nhở Thủ tướng Hun Sen là Lào đã nghiên cứu ảnh hưởng có thể có của những con đập và hứa hạn chế ảnh hưởng của đập thủy điện Don Sahong gây nhiều tranh cãi. Báo Phnom Penh Post loan tin là con đập này sẽ được xây dựng ngay phía bắc biên giới Campuchia.

Tuy nhiên, lời hứa của ông Bounhang không trấn an được những nước phụ thuộc nhiều vào Sông Mekong, nơi mực nước thấp gây nên hạn hán trầm trọng. Tình trạng này được nhiều người cho là phát sinh từ biến đổi khí hậu, việc phá các khu rừng nhiệt đới để sử dụng trong công nghiệp và những con đập trên thượng nguồn, chủ yếu tại Trung Quốc.

Có đến 70 triệu người sống dọc theo Sông Mekong, trong đó những  sắc dân thiểu số  như Jarai, Kraol, Phnong, Ro Oung, Stieng, Su, Oey, Kreung and Tampuan.

Ông Samin Ngach, phát ngôn viên của Hiệp hội Thanh niên Bản địa Campuchia, nói nguồn cung cấp thực phẩm và nước ngọt bị thiếu hụt tiếp sau những mùa lúa với sản lượng thấp do thiếu mưa trong mùa mưa vừa qua.

Ông Samin Ngach nói:

“Cộng đồng người bản địa không thể trồng lúa. Cuối cùng họ không có lương thực để ăn. Rừng cũng cần nước và gia súc cũng cần nước. Thật là khó khăn cho mọi người”.

Ông nói khả năng ứng phó hạn hán của các chính quyền trong vùng của cũng là một vấn đề cần quan tâm. Việc này được nêu bật bằng quyết định của Thái Lan trong tháng trước nhằm chuyển dòng Sông Mekong chảy vào những vùng bị hạn hán gây nên những lo ngại tại Việt Nam và Campuchia. Hà Nội làm áp lực để đòi Bangkok dùng Ủy ban Sông Mekong (MRC) để giải quyết vấn đề, trước khi những vấn đề này leo thang trong tương lai. Tuy nhiên, MRC bị các nhà tài trợ cắt giảm ngân sách trầm trọng vì bất bình với Ủy ban Sông Mekong và những cáo buộc quản lý không tốt và tham nhũng trong ủy ban.

Ông Ou Virak, người đứng đầu cơ quan nghiên cứu ở Campuchia có tên là Diễn đàn Tương lai, nói:

“Nguồn cá nước ngọt đối với người Campuchia rất quan trọng. Tôi nghĩ biến đổi khí hậu có thể cảm nhận được hiện nay. Mùa nắng nóng đến rất sớm, không còn có mùa đông nữa, không có mùa mát nữa”.

Ông Ou Virak nói thêm là biến đổi khí hậu cũng ảnh hưởng tới hoạt động ngoại giao khu vực, với việc Trung Quốc kiểm soát  dòng chảy Sông Mekong xuyên qua một hệ thống mạng lưới đê đập rộng lớn được xây dựng trong 20 năm qua.

Ngư dân Thái biểu tình chống lại việc xây đập Sayabouri trên Sông Mekong.

Ngư dân Thái biểu tình chống lại việc xây đập Sayabouri trên Sông Mekong.

Đây là một lợi điểm to lớn của Trung Quốc trong những cuộc thương thuyết với những nước nằm dọc Sông Mekong như Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam.

Ông Ou Virak nói tiếp:

“Nhưng nếu nhìn vào những con đập trên thượng nguồn Sông Mekong ở Trung Quốc, tôi nghĩ là những con đập này chắc chắn ảnh hưởng rất nhiều, không những ảnh hưởng đến nguồn cá mà còn ảnh hưởng đến nguồn nước. Những nước ở hạ lưu Sông Mekong như Việt Nam, Campuchia sẽ phải tìm cách thương thuyết với Trung Quốc”.

Nông dân Việt Nam đang phải đối mặt với thiệt hại lớn về mùa màng vì hạn hán nghiêm trọng và nước mặn tràn vào đất nông nghiệp tại vùng đồng bằng Sông Mekong và 12 tỉnh của Việt Nam. Một số báo cáo cho biết nước mặn đã tràn đến biên giới Campuchia.

Ông Cao Đức Phát, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, được báo chí nhà nước trích lời nói rằng cho tới nay đã có 139.000 hecta đất bị nhiễm mặn và con số này sẽ gia tăng ít nhất cho đến khi mùa mưa kế tiếp bắt đầu, thường là vào khoảng tháng 6.

Ông Tek Vannara, giám đốc của Diễn đàn các Tổ chức phi chính phủ, nói có thêm 200.000 hecta lúa bị tiêu hủy vì hạn hán ở Campuchia, và việc này có ảnh hưởng rất xấu đối với đời sống của nông dân.

Ông Tek Vannara nói:

“Đồng lúa bị hủy hoại vì hạn hán. Nước mặn tràn vào do phá rừng tại vùng Sông Mekong. Các khu rừng nhiệt đới bị biến đổi để trở thành đất nông nghiệp hoặc để dùng trong công nghiệp làm cho vấn đề này tệ hại hơn nữa. Tại Campuchia, Lào, Việt Nam  và Thái Lan, rừng đã biến thành đất nông nghiệp rồi lại được sử dụng trong công nghiệp. Do đó đây là một nguyên nhân căn bản khác”.

Tại Việt Nam, ông Cao Đức Phát nói tình trạng thiếu nước ngọt ảnh hưởng tới 575.000 người cùng với những cơ sở kinh doanh như bệnh viện, trường học, khách sạn và công xưởng.

Đức hạnh của kẻ cầm quyền

Đức hạnh của kẻ cầm quyền (RFA)

tuankhanh

Liên tục những sự kiện bùng nổ trong nhiều ngày của tháng 3/2016 đã thu hút nhanh mối quan tâm của xã hội, trong số đó phải kể đến là sự kiện Sầm Sơn, thiếu tá công an xã xách súng vào khủng bố trường học ở Gia Lai, luật số 15 gây ách tắc việc điều tra tham nhũng… Những chuyện lớn lao đó đã đủ lấp đầy suy nghĩ, che lấp nhiều điều thú vị khác trong đời sống.

Một trong những chuyện, nên được nhắc lại, đó là việc ông Huỳnh Văn Nén tiếp tục theo đuổi vụ án của đời mình lại tiếp tục gây nên nhiều dư luận. Người tù oan, có thời gian bị giam giữ đến hơn 17 năm ở tỉnh Bình Thuận, sau khi trở về nhà, đã kiên trì tiếp tục mục đích của ông là đưa 14 người có chức vụ ra toà, đối mặt với công lý.

Đầu tháng 3/2016, Cục điều tra Viện KSND tối cao đã hồi đáp đơn yêu cầu điều tra của ông Huỳnh Văn Nén. Câu chuyện cuộc đời của ông Huỳnh Văn Nén, được giới luật sư goi tên là đại kỳ án của quốc gia xem ra vẫn tiếp diễn, và chắc là sẽ mở ra thêm nhiều điều đáng chiêm nghiệm từ ngành tư pháp Việt Nam hiện nay.

Có không ít dư luận quanh sự kiện này. Có người thì cho rằng hành động quyết liệt này của ông Huỳnh Văn Nén là cần thiết, và người dân chờ đợi vào kết quả như một thái độ đúng công dân. Nhưng cũng có ý kiến rằng ông Nén đã “làm quá”, vì đã được xét bồi thường từ 10-12 tỉ đồng, và được cả nước chia sẻ vụ án oan này. Thật mới mẻ với người Việt, khi chứng kiến một người tù oan quyết đi đến tận cùng của sự việc, so với thói quen cam chịu, im lặng và dễ dàng chấp nhận từ nhiều năm nay.

Cuối năm 2015, trong một cuộc gặp mặt do báo Infonet tổ chức, tôi có được may mắn tiếp xúc với ông Huỳnh Văn Nén cùng gia đình, thầy Nguyễn Thận và luật sư Phạm Công Út, những người đeo đuổi chuyện minh oan cho ông Nén. Ông Nén bị công an điều tra đánh đập, đe doạ… buộc phải nhận tội giết 2 người trong vùng của ông, giấu nhẹm cả đơn tố cáo hung thủ thật.

Điều khiến tôi hay nhớ về ông Nén, đó là một gương mặt đầy nếp nhăn, rúm ró giấu kín mọi suy nghĩ. Rất khó phân biệt được biểu cảm của ông là đang cười hay đang khóc. Chỉ đến khi thấy giọt nước mắt của ông im lặng chảy xuống, thì mới biết. Mà lúc đó thì chung quanh cũng rất nhiều người khóc, mắt đỏ hoe. Những người đàn ông thì khóc không thành tiếng, mặt rúm ró vì những quặn đau trong lòng.

Ông Nén là người hiếm hoi, không chịu ngồi xuống và hài lòng với phần đời còn lại qua số tiền bồi thường khổng lồ. Nơi ông Nén đang sống, chỉ cần có một tài sản 1 tỉ đồng đã là đại phúc, thế nhưng ông được hứa hẹn là sẽ có gấp 10 lần như vậy. Có lời bình luận rằng có thể ông Nén còn chất chứa hận thù hoặc trở nên cơ hội trong sự kiện đời mình, nhưng quan trọng nhất, đích đến của ông Nén vẫn vô cùng công chính, đó là công lý.

Ngày 3/12/2015, ông Huỳnh Văn Nén được phó chánh án TAND tỉnh Bình Thuận lạnh lùng đọc thư xin lỗi công khai. Trong 30 phút của buổi xin lỗi đó, ông Nén nhiều lần nhắm nghiền mắt, im lặng, tay buông thõng. Có lẽ ký ức của ông dội về, với những ngày tháng ông cùng 8 người thân trong gia đình bị giam cầm, nhà cửa không còn, cái chết đến cùng bữa ăn hàng ngày.

Ông Nén từng cởi áo giữa toà để chứng minh mình bị đánh đập, bức cung ra sao. Nhưng nhiêu đó thì không đủ, làm sao tả hết những ngày ông bị trói vào ghế, công an điều tra dùng chân mang giày đá liên tục và ống chân đến thâm đen. Đến mức ông té xuống, khóc, xin tha, thì bị công an viên trẻ như con mình quát “cho mày chết luôn”. Người thân của ông, bị giữ để điều tra ở nhà tạm giam nữ, khi đến chu kỳ tháng phải tự xé quần làm băng vệ sinh, chứ không được cấp phát theo quy định, vì bị người điều tra tuyên bố “không nhận tội thì ráng chịu”.

Ông Nén chắc không ngờ vì sao mình trở thành kẻ phạm tội, và vì sao phải nhận tội. Một buổi tối ghé xin ít rượu đế từ nhà hàng xóm với lời nói đùa “uống để gột rửa tội lỗi” đã biến ông thành nghi can số một. Đã có lúc ông Nén muốn chết vì quá đau đớn thân xác và tinh thần, nhưng ông đã không thể làm vậy, vì nếu ông còn sống thì công lý còn một hy vọng, sự thật còn một cơ hội. Công lý không đơn giản là một lời xin lỗi công khai, không là con số 10 hay 12 tỉ đồng. Công lý là ánh sáng giữa cuộc đời tưởng chừng như tuyệt lộ này, công lý là đòi hỏi việc xiển dương sự thật cũng như vạch mặt những kẻ không đủ khả năng để phục vụ cho sự thật.

Khi ông Nguyễn Phúc Thành gửi đơn tố cáo thủ phạm thật, xin giải oan cho ông Nén, thì bị điều tra viên Cao Văn Hùng chỉ mặt “mày muốn chết à? Tao cho mày chết”. Sau vụ án của ông Nén, điều tra viên đó ra Hà Nội ung dung hành nghề luật sư. Thậm chí số tiền dự trù 10-12 tỉ đền bồi cho ông Huỳnh Văn Nén cũng lấy từ tiền thuế của người dân, chứ 14 cán bộ người liên quan đến vụ án của ông Nén không hề thiệt hại mảy may.

Nhưng ông Huỳnh Văn Nén hay Nguyễn Thanh Chấn chỉ là những trường hợp may mắn được giải oan, còn bao nhiêu trường hợp khác chưa được biết tới đang rên xiết trong phòng điều tra, mơ ước một sự công tâm?

Hãy cám ơn ông Huỳnh Văn Nén. Ông không đi tìm công lý cho riêng mình, mà đang dựng lại ngôi nhà chung cho mọi người. Ngôi nhà đó có cánh cửa lớn tràn ngập ánh sáng chứ không âm u với những chấn song lờ mờ chực chờ. “Công lý chính là thứ đức hạnh hàng đầu của kẻ cầm quyền”, Denis Diderot (1713-1784), nhà triết học Pháp có để lại lời nhắn đó từ thế kỷ thứ 18. Lời xin lỗi hay một mớ tiền bồi thường không thể đánh tráo khái niệm đó là là công lý và đức hạnh của một quốc gia. Tìm cách để giảm thiểu bất công, soi chiếu ánh sáng công lý vào những nơi không thể đó mới chính là đức hạnh của người cầm quyền, đức hạnh của công dân.

Và hơn ai hết, xin hãy ngã nón chào người từng bị giam cầm 17 năm 5 tháng 11 ngày ấy, vì chính ông đang thay chúng ta, lặng lẽ hành động vì đức hạnh của ngành tư pháp, vì tương lai trên đất nước này.

‘Ứng viên tự do là hạnh phúc của đất nước’

‘Ứng viên tự do là hạnh phúc của đất nước’

BBC

20-3-2016

Ông Tuấn Khanh nói cần khởi tố những người vu khống các ứng cử viên độc lập. Ảnh: FB Khanh Tuan Nguyen

‘Việc có nhiều người tham gia tự ứng cử đại biểu quốc hội và xã hội dân sự phát triển là niềm hạnh phúc của đất nước’, Nhạc sĩ Tuấn Khanh nói trong cuộc trao đổi qua Google Hangout với BBC hôm 20/3.

Nhạc sĩ Tuấn Khanh được nhiều bạn trẻ yêu nhạc biết đến với các ca khúc “Áo xanh”, “Rêu phong”, “Trả nợ tình xa” và các ca khúc khác.

Đặc biệt, thời gian gần đây, ông được nhiều cư dân mạng xã hội biết đến như là tác giả viết những bài chính sự sắc bén về thời cuộc, chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông và những người yếu thế như ngư dân và người nghèo.

Nói về bước chuyển này, nhạc sĩ cho hay: “Trước đây, tôi xuất hiện trên truyền hình như một giám khảo của các chương trình giải trí.

Nhưng từ một lần chứng kiến người dân đi đòi đất cầm những lá đơn mà không được giải quyết và còn bị an ninh trấn án, khi trở về tôi quyết định không thể tiếp tục là một người nghệ sĩ bàng quan về thời cuộc.

“Nếu tiếp tục im lặng, tôi thấy mình mắc sai lầm là mình đã lớn lên trên đất nước này mà không quan tâm đến người khác”.

“Tôi muốn dấn thân về những vấn đề xã hội để chuyển tải suy nghĩ của mình về những vấn đề của đất nước.

“May mắn là blog và mạng xã hội xuất hiện giúp tôi có công cụ đem tiếng nói của mình đến với nhiều người, cho dù những bài viết này có thể khiến tôi gặp rắc rối”, nhạc sĩ nói.

‘Không là đặc quyền của giới lãnh đạo’

Đề cập về chuyện những ứng viên tự ứng cử đại biểu Quốc hội khóa 14, ông Khanh nhận định: “Chưa bao giờ thấy xã hội dân sự sôi động như vậy, đây là niềm hạnh phúc của đất nước, chứ không phải là một phong trào của một nhóm người”.

“Đây là giai đoạn người dân thật sự quan tâm đến chính trị và chính trị không phải là đặc quyền của giới lãnh đạo, mỗi người dân đều có tiếng nói và họ muốn góp tiếng nói tại nghị trường”.

“Nếu những ứng viên tự đề cử này được đối xử trân trọng và họ có đủ năng lực để thành những đại diện thật sự của người dân, tôi tin này đất nước này sẽ phát triển. Hơn bao giờ hết, nghị trường đang cần những đại biểu thấu hiểu được những nỗi đau, vấn đề cấp bách của đất nước như quyền im lặng của phạm nhân, ứng xử khôn khéo với Trung Quốc…

“Ngược lại, nếu những ứng viên tự do không được tạo điều kiện, rõ ràng đang có những trở ngại cho việc phát triển xã hội mà chưa được giải quyết”, nhạc sĩ nói.

Trả lời câu hỏi của phóng viên Ben Ngô, BBC Việt ngữ về chuyện một số ứng viên tự do là nghệ sĩ như ca sĩ Mai Khôi và diễn viên Vượng Râu đang bị các báo trong nước chỉ trích, nhạc sĩ cho hay: “Họ ứng cử theo đúng luật với sự khuyến khích của chính phủ chứ không tự ý làm càn. Nhưng bước đầu các ứng viên này đã bị khích bác trên mặt báo trong nước, và tôi nghĩ chính những người bêu riếu ứng viên tự do mới không đủ tư cách và đáng bị khởi tố theo luật 258”.

“Tôi có tìm hiểu về các ứng viên là nghệ sĩ và biết họ có ước muốn cũng như khát vọng đáng quý. Anh Vượng Râu muốn xây dựng nền văn hóa truyền thống đặc sắc, còn chị Mai Khôi muốn lên tiếng về nữ quyền và xử lý nạn bạo lực xã hội đang gia tăng. Có thể họ không phải là đại biểu xuất sắc như chúng ta kỳ vọng, nhưng họ thành tâm và đáng được ủng hộ. Vì họ đang là những tiếng nói trong tiến trình dân chủ ở Việt Nam”.

Ông Khanh cũng nói thêm: “Hiện tôi đang quá đa mang nên chưa tham gia tự đề cử nhưng bốn hoặc tám năm nữa, nếu có cơ hội thì tôi nghĩ vẫn còn kịp. Dù không tự ứng cử nhưng tôi vẫn góp tiếng nói ở góc độ trung lập để giúp được nhiều người hơn”.

Để xem Tổng Trọng xoay vần đến đâu?

Để xem Tổng Trọng xoay vần đến đâu?

THÁI TUẾ

21-3-2016

Các lãnh đạo đảng và nhà nước. Nguồn: internet

Lấy cảm hứng từ loạt bài nghiên cứu của Nguyễn Thị Từ Huy Việt Nam có thể cải cách chính trị hay không?. Trong loạt bài này, bà Nguyễn Thị Từ Huy tập trung nghiên cứu về Nguyễn Phú Trọng và đi đến kết luận: “Nguyễn Phú Trọng không tham nhũng, không tham nhũng thì còn tự trọng và tự trọng có thể thay đổi”. Cũng như Bùi Quang Vơm, tôi rất kính trọng những nghiên cứu của Nguyễn Thị Từ Huy, nhưng không hoàn toàn đồng ý với bà.

Chính vì vậy tôi xin lặp lại cách mà Nguyễn Thị Từ Huy đã dùng để nghiên cứu Nguyễn Phú Trọng. Đó là bắt đầu sự nghiên cứu bằng việc tìm hiểu về cá nhân Nguyễn Phú Trọng. Cũng như bà, tôi không tin chắc 100% những nghiên cứu này là đúng, vì thiếu thông tin, nên chắc chắn phiến diện. Nhưng dẫu sao vẫn phải nghiên cứu từ số lượng thông tin ít ỏi ấy.

Cách đây vài năm tôi được ông Nguyễn Mạnh Can, nguyên Phó ban Tổ chức Trung ương hồi Lê Đức Thọ cho xem một tấm hình. Đây là một bức ảnh chụp đen trắng từ những năm 80 của thế kỷ 20, khi ông cùng Nguyễn Phú Trọng ngồi ở bàn thư ký của Đại hội 6. Nguyễn Phú Trọng lúc đó đeo kính cận gọng đen dầy cộp, ngồi ở mép ngoài của dãy bàn thư ký, mới khoảng gần 30 tuổi. Kể từ hồi đó ông đã vào sâu trong cơ cấu của đảng Cộng sản. Đến bây giờ đã khoảng trên 40 năm. Như vậy có thể xem là ông đã tham gia rất nhiều đại hội Đảng và là người làm nghề công tác Đảng chuyên nghiệp và có thâm niên, thực tế ông đã có bằng cấp TS về xây dựng Đảng. Vậy với một người làm nghề lâu năm thì như thế nào? Sẽ xảy ra hai trường hợp: a) rất yêu nghề, hoặc b) rất chán ngán nghề, chẳng qua phải làm vì cái nghiệp, vì miếng cơm manh áo. Theo tôi Nguyễn Phú Trọng thuộc trường hợp a, tức ông rất yêu nghề và Đảng đã trở thành máu thịt của ông. Suy luận này đúng, người ta có thể kiểm chứng dễ dàng qua hành động và phát ngôn của ông. Tuy vây, ông để lại dấu ấn mờ nhạt qua rất nhiều cương vị công tác trong Đảng, chỉ từ khi ông làm Tổng Bí thư thì dấu ấn của ông trong công tác Đảng bắt đầu đậm nét. Đó là giọt nước mắt tại Hội nghị T.Ư 6 (khóa 11) năm 2012, đó là câu nói nổi tiếng “Tôi bất ngờ vì được tái bầu làm Tổng Bí thư với kết quả gần 100%”, đó là “dân chủ đến thế là cùng”.

Vấn đề là giọt nước mắt và phát ngôn của ông xảy ra khi nào. Rất dễ thấy, xảy ra sau các cuộc đấu cam go với các thế lực trong Đảng. Tại sao ông phải đấu cam go? Vì ông nhận thức rằng một bộ phận lớn trong Đảng đã suy thoái và quyết chống lại trào lưu đó. Đây là một việc vô cùng khó khăn và vì vậy nó rất cam go. Người ta còn nhớ, tại trận đấu cam go đầu tiên vào năm 2012 ông đã phải rơi nước mắt. Nhưng ông không chịu thua, trận 2016 ông đã nở nụ cười. Vậy ông đã thắng chưa? Ông đã chặn đứng được đà suy thoái biến chất chưa? Chăc chắn là chưa. Vậy lúc này đây ông đang làm gì? Ông làm tiếp cái việc tập hợp đội ngũ những Đảng viên “chưa suy thoái” để chống lại các Đảng viên “đã suy thoái”. Năm trước ông điều Bá Thanh ra Hà nội để chặn suy thoái, chống tham nhũng. Bá Thanh đã ngã ngựa giữa dòng. Năm nay ông cử La Thăng vào Sài Gòn cũng để chặn đà suy thoái, tham nhũng.

Một động thái khác quan trọng hơn. Đó là phát biểu của tướng Phan Anh Minh về chỉ thị 15 rằng công an không được trinh sát đảng viên. Ai cho phép vị tướng này tiết lộ chỉ thị tuyệt mật 15? Ai cho phép các cơ quan truyền thông đăng tải rầm rộ phát biểu này? Có phải Nguyễn Phú Trọng không. Chắc chắn rồi, trong cơ chế độc Đảng, lời nói của vị tướng đó nhất định sẽ bị vô hiệu hóa nếu không được phép từ cơ quan cao nhất.

Vậy bạch hóa chỉ thị 15 để làm gì? Để làm điều ngược lại. Để chuẩn bị cho công an được phép trinh sát đảng viên. Vậy rõ ràng là sau thắng lợi tại đại hội 12, khi mà Nguyễn Phú Trọng dùng nghị quyết 244 và 1510 đại biểu dự đại hội Đảng để loại bỏ Nguyễn Tấn Dũng, thì bây giờ là lúc ông dùng công an để loại bỏ các đảng viên suy thoái khác. Có lẽ chúng ta sẽ thấy một trận chiến mới, rộng hơn, mạnh hơn, qui mô lớn hơn và tất nhiên cam go hơn. Theo dự đoán người đầu tiên bị đưa vào tầm ngắm sẽ là vị thủ tướng sắp được bổ nhiệm Nguyễn Xuân Phúc. Nguyễn Xuân Phúc sẽ được đưa lên cao để lật đổ cho dễ.

Nhưng tại sao ông Nguyễn Phú Trọng lại phải chống suy thoái? Cơ sở nhận thức nào cho phép ông tiến hành công tác chống suy thoái (chúng ta hãy tạm quên biệt danh Trọng Lú để tin rằng ông có thể nhận thức các hiện tượng vô cùng phức tạp của chính trị, xã hội)?

Cơ sở thứ nhất là tình yêu của ông đối với Đảng. Hơn 40 làm nghề xây dựng Đảng ông rất yêu Đảng, tin rằng Đảng là đạo đức là văn minh, bất chấp rất nhiều hành vi vô đạo đức và kém văn minh của Đảng. Theo ông, vì Đảng là đạo đức là văn minh thì tất nhiên Đảng phải loại bỏ các phần tử suy thoái.

Cơ sở thứ hai là triết học Mác mà ông thuộc lòng từ trẻ. Triết học Mác dạy ông và rất nhiều người rằng đấu tranh giữa các mặt đối lập tạo ra sự phát triển. Vì Nguyễn Phú Trọng muốn bảo vệ, xây dựng và phát triển Đảng nên ông đã và đang tiến hành các cuộc đấu cam go chống lại thế lực suy thoái trong Đảng.

Trong hai cơ sở nhận thức trên, cơ sở thứ nhất thuộc về trái tim. Trái tim có thể mù lòa, lạc lối và chúng ta chưa bàn sâu về sự u mê của trái tim vội. Chúng ta hãy bàn về cơ sở nhận thức thứ hai thuộc về phần trí tuệ. Nội hàm thực sự của cái gọi là biện chứng trong triết học Mác về sự đấu tranh giữa các mặt đối lập chỉ là một phần sơ khai của thuyết âm-dương. Nguyễn Phú Trọng đã dựa vào nội hàm đó, lấy nó làm cơ sở triết lý cho cuộc đấu tranh chặn suy thoái trong Đảng. Ông tin rằng đấu tranh chống tham nhũng, loại bỏ suy thoái, sẽ làm trong sạch Đảng và một Đảng trong sạch sẽ hoàn thành nhiệm vụ đưa đất nước đến giàu mạnh, dân chủ, công bằng. Nhưng ông đã quên rằng Đảng chỉ là một bộ phận trong mối quan hệ rộng lớn hơn đối với 90 triệu dân. Thực chất, Đảng là dương và dân là âm hoặc ngược lại. Bộ phận suy thoái trong Đảng là thiếu âm của dương và lực lượng tiến bộ trong nhân dân là thiếu dương của âm.

Khi Đảng đã suy thoái trầm trọng thì Đảng đang là dương trong giai đoạn trước dần biến màu thành âm trong hiện tại và cái thiếu âm (suy thoái) chính là lực lượng mang tính động lực thúc đẩy sự biến tính của Đảng, chuyển hóa Đảng từ dương thành âm. Trong khi đó, nhân dân vốn là âm (giai cấp bị trị) dần biến mầu thành dương và lực lượng tiến bộ trong nhân dân (trí thức, doanh nhân, các nhà dân chủ,…) đang là thiếu dương thì trở thành động lực thúc đẩy sự biến tính của âm (nhân dân) thành một lực lượng thống trị mới. Quan sát sự dịch chuyển đó, nếu Nguyễn Phú Trọng không lú, thì ông phải tiến hành cuộc tự diễn biến, nhập cuộc với lực lượng tiến bộ trong nhân dân để biến Đảng từ chỗ suy thoái thành tích cực. Do đó, nếu Nguyễn Phú Trọng giỏi về thuyết âm dương, giỏi về triết học thì ông không nên đấu tranh chống suy thoái trong Đảng mà phải tích cực ủng hộ tiến bộ trong dân. Cụ thể ông nên tiến hành dân chủ hóa từ làng xã, tổ chức bầu cử tự do, dân chủ thực sự dần dần từ làng xã, để loại bỏ cường hào cấp thấp, dần dần loại bỏ tham nhũng cấp cao và đưa đất nước đến văm minh, dân chủ. Nhưng Nguyễn Phú Trọng đã không làm như vậy, ông đã tiến hành đấu tranh trong Đảng, loại bỏ Nguyễn Tấn Dũng với mong muốn qua đó loại bỏ tham nhũng. Chắc chắn ông đã và sẽ gặp trở lực rất lớn.

Thắng lợi ở đại hội 12 vừa rồi chỉ là thắng lợi tạm thời. Ông, với tư cách là người có thâm niên nghề nghiệp trong xây dựng Đảng, sẽ đẩy Đảng đến chỗ tan rã khi cứ kiên quyết chống tham nhũng. Như vậy có thể kết luận, nếu ông chiến đấu ở thượng tầng, chặn suy thoái, chống tham nhũng, thì ông đang lú và ông sẽ thua, thua trong công tác xây dựng Đảng. ‘Đánh trên đánh xuống’, nhưng trầy trật mãi cũng không đánh được thì ‘dưới lại mạnh thế ngoi lên’. Như thế, coi như Tổng Trọng thất bại, dù đã nhiều trải biến chịu trận ‘cố đấm ăn xôi’, nhưng ‘lực bất tòng tâm’… Ngược lại, nếu ông đi với nhân dân, thì ông không lú và ông sẽ đi vào lịch sử dân tộc như một người có công trong việc loại bỏ chế độ toàn trị. Nhưng thôi, với phép suy chiếu – theo ngữ luận thường dùng của Tiến sĩ Xây dựng đảng là khách quan, biện chứng – thử phân tích vậy và ‘cứ biết vậy cái hẵng’, thử xem Tổng Trọng xoay vần đến đâu ?!

Th.T (Tác giả gửi BVB)

Vẫn chuyện ông Trump: Cộng Hòa họp khẩn cấp

Vẫn chuyện ông Trump: Cộng Hòa họp khẩn cấp
Nguoi-viet.com


Nguyễn Văn Khanh

Dùng chữ “họp khẩn” thì đúng là… hơi quá, nhưng chỉ nhìn nỗi lo âu hiện trên khuôn mặt của thành phần lãnh đạo đảng Cộng Hòa thì thấy ngay tình hình quả đã đến giai đoạn thật “cấp bách,” phải tìm cách cứu đảng và chận ông Donaald Trump.

Hình ảnh đó được thể hiện rõ hơn trong cuộc họp bỏ túi diễn ra ngay tại Washington D.C. vào trưa hôm Thứ Năm, 17 Tháng Ba 2016. quy tụ gần một chục nhà tài trợ và các chiến lược gia hàng đầu của đảng. Ðề tài của cuộc thảo luận: làm thế nào để ông tỷ phú Trump không trở thành ứng cử viên của đảng, và kể cả trong trường hợp ông Trump là người được cử tri Cộng Hòa chọn để ra tranh cử, làm thế nào để có một ứng cử viên vừa “tiêu biểu” cho “lập trường bảo thủ của đảng” vừa có đủ sức để chiến thắng. Nói rõ hơn: họ sẵn sàng ủng hộ một ứng cử viên khác, ra tranh cử đối đầu với cả bà Hillary Clinton của phía Dân Chủ và ông Trump, nhân vật hiện đang nổi bật nhất của cánh Cộng Hòa.


(Hình minh họa: Angelo Merendino/Getty Images)

Cuộc họp diễn ra vào đúng thời điểm tin tức bầu cử cho thấy toàn là những điều có lợi cho ông Trump. Trước hết là tin Thứ Ba tuần tới “gần như chắc chắn” ông Trump sẽ thắng cuộc bầu cử sơ bộ ở Arizona, kế đến là dự báo cho hay từ giờ cho đến đầu Tháng Sáu, ông tỷ phú nổi tiếng thế giới “chỉ cần lấy được 52% tổng số phiếu đại biểu” là đủ 1,237 phiếu để đại diện đảng. Vì thế, theo lời một người biết rõ chuyện, “cuộc họp mặt ở D.C. trở thành rất cần thiết,” vì “chẳng ai muốn ông Trump đại diện cho đảng” nhưng đồng thời những người tham dự “ai nấy đều cuống quít” vì không tìm được giải pháp để giải quyết điều họ đang lo sợ là không những ông Trump sẽ thua bà Clinton, mà sự hiện diện của ông ta có thể sẽ gây nên thảm trạng “vỡ đảng.”

Giới thạo tin tại Washington D.C. cho hay trong cuộc họp kéo dài hơn 3 giờ đồng hồ với sự hiện diện của nhà bình luận chính trị Erick Erickson và lãnh tụ tập thể Thiên Chúa Giáo bảo thủ Bob Fischer, nhiều ý kiến đã được nêu lên như sẽ dồn mọi nỗ lực ủng hộ Thượng Nghị Sĩ Ted Cruz hoặc mở mặt trận đánh bóng ông Thống Ðốc John Kasich, người vài ngày trước đây vừa chiến thắng ở tiểu bang nhà Ohio. Sau khi thảo luận, “mọi người đồng ý cả 2 giải pháp đó đều không khả thi,” vì “ông Cruz không thể nào lấy được 80% số đại biểu còn lại để đại diện đảng ra tranh cử tổng thống, đồng thời cũng tin rằng sau Ohio, ông Thống Ðốc Kasich khó có thể thắng được những tiểu bang khác.” Cuối cùng, mọi người đồng ý với nhau ở điểm: nếu tình hình hiện nay tiếp diễn, chắc chắn đến Ðại Hội Ðảng vẫn chưa có ứng cử viên nào đủ phiếu đại biểu, lúc đó thành phần lãnh đạo sẽ có cơ hội “dàn xếp” để đưa ra một liên danh đủ mạnh, lấy lại Tòa Bạch Ốc cho đảng Cộng Hòa.

“Ðây là điều đã được nhiều người nói tới” theo lời ông Henry Barbour, một nhân vật uy thế của lực lượng Cộng Hòa ở các tiểu bang miền Nam. “Chúng tôi đã làm rất nhiều bài toán, đã đưa ra mọi giả thuyết để xem ai là người có đủ 1,237 phiếu đại biểu. Cuối cùng, chúng tôi tin rằng mọi chuyện sẽ được quyết định ở Ðại Hội Ðảng, người được chọn có thể là ông Trump và cũng có thể không phải là ông Trump.”

Nếu điều đó xảy ra, “chuyện không yên ắng như mọi người nghĩ đâu” là lời cảnh báo của ông Joseph Twinning, từng làm việc với ban tham mưu vận động tranh cử cho Phó Tổng Thống Al Gore.

“Tôi thấy trong vài tuần gần đây chỗ nào ông Trump xuất hiện vận động là chỗ đó có gây gổ, chuyện người ủng hộ ông Trump và người chống đối ông ta đánh nhau cũng đã từng xảy ra và tôi tin sẽ tiếp tục xảy ra. Vì thế, nếu Ðại Hội Ðảng Cộng Hòa trở thành nơi để thành phần lãnh đạo đảng dàn xếp đưa ra một liên danh tranh cử, lúc đó chắc chắn sẽ có xáo trộn lớn.” Xáo trộn tới mức nào? Ông Twinning trả lời “nhẹ nhất là thành phần cử tri ủng hộ ông Trump biểu tình rầm rộ phía bên ngoài để làm áp lực, nặng nhất là những người ủng hộ ông Trump sẽ cướp diễn đàn, đòi hỏi phải chọn ông Trump, họ không chấp nhận ai khác.”

Chuyện sẽ có xáo trộn là chuyện chính ông tỷ phú Trump cũng đã nói tới. Thứ Tư tuần này khi trả lời phỏng vấn của đài truyền hình CNN. Ông Trump cho hay nếu ông không có đủ phiếu đại biểu và đảng dàn xếp loại ông để đưa người khác ra tranh cử, khối cử tri ủng hộ ông “sẽ nổi loạn.” “Nếu (đảng Cộng Hòa) không tôn trọng ý kiến của lực lượng cử tri ủng hộ tôi,” ông Trump nói thêm, “(lúc đó) sẽ xảy ra chuyện chưa từng xảy ra.”

Nhức nhối chuyện giáo dục ở Việt Nam

Nhức nhối chuyện giáo dục ở Việt Nam

VietTuSaiGon

RFA

Việt Nam là nước nghèo, dù đứng trên góc độ nào vẫn không thể chối bỏ thực trạng nghèo khổ và lạc hậu. Nhưng đáng sợ hơn cả là đất nước hình chữ S này lại gánh chịu trên đôi vai vốn gầy gò của mình cái gánh y tế và giáo dục quá tồi, hỏng hóc và vô luận. Chỉ có thể nói vậy!

Chuyện mất đạo đức của ngành y tế có thể xem như hết thuốc chữa, chỉ mong vào những thế hệ sau. Nhưng để có những thế hệ sau tốt hơn thì ngay từ bây giờ phải có một nền giáo dục tốt, một nền giáo dục đào tạo ra những con người đúng nghĩa chứ không phải những cái máy, những con vẹt hay những cá thể mang thần kinh khốn nạn (nói theo cách của giáo sư Ngô Bảo Châu).

Rất tiếc là hiện tại, nền giáo dục Việt Nam không những dự báo sẽ cho ra đời những cái máy, những con vẹt, những kẻ mang thần kinh khốn nạn mà rất có thể tương lai Việt Nam sẽ là những thế hệ khốn nạn, những đám đông khốn nạn và một đất nước khốn nạn.

Bởi lẽ, dù đứng trên góc độ nào thì nói về giáo dục, cái chuẩn đầu tiên và mục tiêu lớn nhất vẫn là con người chứ không phải cơ sở hạ tầng hay những cái chuẩn về cơ sở hạ tầng, những cái “chuẩn quốc gia” đậm tính hình thức và dung chứa đầy rẫy tham nhũng, hối lộ, đút lót và đánh mất lòng tự trọng.

Từ những năm 2010 cho đến nhay, có nhiều vụ nổi cộm về nạn bằng giả trong giới quan chức, đút lót để mua chức, đút lót để được dạy học, mua chỗ hành nghề trong giáo dục để hợp thức hóa việc dạy ngoài giờ, chạy sô trong giảng dạy… Những chuyện này, hầu như không có chuyện nào là không phản giáo dục, nếu không muốn nói là nó phát sinh nguy cơ làm cho nền giáo dục trở thành chợ búa và hổ lốn.

Nhưng đó vẫn chưa phải là chuyện cộm cán khi mà đạo đức của người dạy học trở nên băng hoại, đội ngũ quản lý giáo dục trở thành những kẻ cò mồi, tú ông, tú bà để đưa học sinh vào con đường trụy lạc với giới quan chức. Sự tổn thương về phẩm hạnh của học sinh trở thành thứ hàng xa xỉ để giới quan chức giáo dục bôi trơn con đường hoạn lộ thông qua việc môi giới cho những cuộc mua vui của giới quan chức hành chính cấp cao hơn.

Câu chuyện hiệu trưởng Sầm Đức Xương ở Hà Giang đã môi giới nhiều nữ sinh bán dâm cho giới quan chức cấp tỉnh và khi các em nữ sinh này tố cáo thì Sầm Đức Xương không bị gì mà chính các em nữ sinh, các nạn nhân bị truy tố trước cơ quan pháp luật địa phương. Điều này cho thấy giới quan chức, đặc biệt là quan chức ngành giáo dục đã không những đánh mất nhân cách, tư cách mà còn hiện rõ bản chất lưu manh, tú ông mà về nguyên tắc giáo dục họ tuyệt đối không được bén mảng đến gần môi trường phấn trắng bản đen.

Nhưng trong nền giáo dục Cộng sản xã hội chủ nghĩa, những kẻ lưu manh không những bị loại bỏ mà còn được nâng cấp, thăng tiến trở thành lãnh đạo ngành, kẻ làm sai quấy càng nhiều thì càng mau thăng quan tiến chức, kẻ càng nghiêm túc, càng có trách nhiệm với công việc bao nhiêu thì càng bị đày bấy nhiêu, bởi họ trở thành cái gai trong mắt của đám lãnh đạo.

Và những tưởng đây sẽ là bài học để giới quản lý giáo dục biết nhìn vào đó mà tổ chức quản lý tốt hơn cũng như giới cầm phấn đứng bục giảng sẽ lấy làm bài học mà tu thân, mà giữ đạo đức làm thầy. Nhưng không, hoàn toàn không dừng ở đó mà câu chuyện đáng xấu hổ này vẫn tiếp tục nảy nở.

Câu chuyện về thầy giáo Cao Văn Dũng (mà đa phần báo chí trong nước chỉ đăng tên C.V.D hoặc thầy D.) ở trường tiểu học Hưng Bình tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đã xúc phạm thân thể, sờ mó vùng kín của các nữ học sinh lớp ba (tức hành vi dâm ô với học sinh tiểu học) và khi bị cha mẹ các em tố cáo, thầy giáo này vẫn chưa chịu bất kỳ hình thức kỉ luật nào tương thích. Giả sử giới quản lý giáo dục cố tình bao biện cho con yêu râu xanh này rằng y là một giáo viên giỏi, trường đang thiếu giáo viên thì điều này chỉ cho thấy hai vấn đề: Chạy theo thành tích và nói láo.

Bởi một nền giáo dục quen chạy theo thành tích từ chuẩn tỉnh cho đến chuẩn quốc gia dựa vào cơ sở hạ tầng và thành tích chạy thi giải này giải nọ nhưng yếu tố nhân cách, phẩm cách không bao giờ được đề cập thì chẳng những không tạo ra thế hệ con người tốt mà có nguy cơ lưu manh hóa xã hội.

Hơn nữa, giả sử lý do để không loại bỏ con yêu râu xanh này là vì trường thiếu giáo viên thì càng không hợp lý! Bởi hiện tại, có hàng ngàn sinh viên loại giỏi, loại khá đã tốt nghiệp nhưng không có chỗ để dạy, phải đi bưng bê thức ăn cho quán, đi phụ hồ, đi bưng cà phê, chạy xe ôm… để tồn tại. Như vậy giáo viên không bao giờ thiếu mà chỉ thiếu sự công bằng và thiếu sự minh bạch trong tuyển chọn, đào tạo cũng như bố trí công việc.

Trở lại chuyện giáo viên dâm ô với những học sinh tiểu học, những cháu bé này đang tuổi thiếu nhi, sự sờ mó của con yêu râu xanh này sẽ làm các cháu tổn thương tâm lý và khó có thể nói rằng tương lai của các cháu không bị khủng hoảng bởi một sự mặc cảm sâu xa nào đó. Lẽ ra thì tội dâm ô với trẻ em phải bị truy tố trách nhiệm hình sự. Nhưng ở đây, bà Ngô Thị Nguyệt, Phó trưởng phòng Giáo dục thành phố Vinh cho rằng mức độ sai phạm chưa có gì trầm trọng vì chưa để lại hậu quả nghiêm trọng và “do hoàn cảnh thầy Dũng nghèo khổ nên trường tạo điều kiện cho thầy vượt qua khó khăn…”(?!).

Chỉ riêng góc độ xã hội thuần túy thì tên Cao Văn Dũng đã phải lãnh án tù giam từ năm đến bảy năm với bản án hình sự. Đằng này hắn ta là một giáo viên, mà kẻ làm quản lý giáo dục lại cho rằng mức độ phạm tội chưa trầm trọng thì không còn gì để bàn!

Trong khi đó, chúng ta đang sống trong một đất nước mà ăn trộm một con gà có thể chịu ba năm tù, vậy mà dâm ô, sàm sỡ trẻ nít chỉ bị nhắc khéo.

Lẽ ra, động thái đầu tiên mà ngành giáo dục bắt buộc phải làm là loại bỏ tên giáo viên râu xanh này ra khỏi ngành nhằm giữ cho ngành giáo dục được trong sạch, sau đó chuyển toàn bộ hồ sơ phạm tội cũng như đơn thư tố cáo về những tội y gây ra sang cho ngành công an và Viện kiểm sát để họ tiếp tục điều tra làm rõ vấn đề.

Đằng này một Phó trưởng phòng giáo dục ở một thành phố là quê hương của ông Tổ Cộng sản Việt Nam, thành phố luôn “học tập và làm việc theo gương Bác” lại cho rằng tội sàm sỡ, dâm ô trẻ em vị thành niên là “không có gì trầm trọng”. Câu nói này chẳng khác nào đang đổ nước thối vào gương mặt của ngành và chứng minh rằng ngành giáo dục là thối nát, là chẳng có gì gọi là đạo đức.

Thế nhưng bà Nguyệt đã nói như vậy và kẻ sàm sỡ, dâm ô vẫn chưa bị bắt, vẫn còn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Điều này không những gây bức xúc cho giới phụ huynh học sinh mà còn cho thấy rằng nền giáo dục đang đứng ngay hố trũng của thối nát, băng hoại, vô liêm sỉ!

Và câu chuyện của Sầm Đức Xương cũng như câu chuyện của tên giáo viên mà báo chí nhà nước đăng với tên “thầy D.” chỉ cho thấy rằng tương lai đất nước này sẽ bệ rạc khinh khủng hơn hiện tại rất nhiều. Bởi các thế hệ trẻ của đất nước đang bị đầu độc bởi những tên lưu manh đội lốt nhà giáo và chúng được dung dưỡng, được bao che bởi giới quan chức lãnh đạo ngành dốt nát và cũng không kém phần khốn nạn.

Một tương lai của đám đông khốn nạn, tập thể khốn nạn, quốc gia khốn nạn đang chờ đợi chúng ta nếu như ngành giáo dục Việt Nam tiếp tục bị thao túng bởi những kẻ mang thần kinh khốn nạn như đang thấy!

DẤU CHỨNG TÌNH YÊU

DẤU CHỨNG TÌNH YÊU

Cô Ann Thomas kể lại câu chuyện sau đây:

Hôm đó, cô và Betty ghé vào một sạp bán đồ cũ. Ann vừa lôi ra một khay đồ linh tinh, Betty bước tới hỏi:

– Cô có đồ gì đáng giá không?

Ann trả lời:

– Không toàn là đồ năm vố thôi.

Đoạn cô bước sang bên cạnh nhường cho Betty vào xem. Betty chăm chú nhìn vào đống lặt vặt, nhặt lên một cây thập giá cũ han gỉ và nói:

Thật khó mà tin được. Tôi đã tìm được đồ quí: cây thánh giá này làm bằng chất bạc xưa.

Cô bạn của Ann đem về nhà lau chùi và đánh bóng cây thập giá. Đây quả là một vật quí.

Về sau, đứa con trai bảy tuổi của Betty tên Bobby cầm cây thập giá lên ngắm nghía hồi lâu. Bỗng nhiên cậu bé oà lên khóc. Betty liền hỏi:

– Con sao vậy?

Bobby nói:

– Con không cầm lòng được khi thấy Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.

***

Ba người nhìn vào cây thập giá, có ba thái độ khác nhau: một người dửng dưng cho là đồ ve chai, người khác thích thú vì khám phá ra vật quí, còn người khác nữa lại xúc động rơi lệ vì nhận ra Đức Giêsu chịu đau đớn trên thập giá.

Tin Mừng hôm nay kể, Đức Giêsu bất thần hỏi các môn đệ: “Đám đông nói Thầy là ai?” Các ông thưa: “Họ bảo Thầy là ông Gioian Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại”. Nhưng Người lại muốn biết suy nghĩ của chính họ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Và chỉ một mình Phêrô mau mắn, đầy xác tín thưa: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” (Lc 9:18-20).

Phêrô trả lời quá chính xác, các môn đệ khác thở phào nhẹ nhõm vì các ông còn mơ hồ không biết Thầy là ai. Nhưng Đức Giêsu phải xác định ngay rằng Đấng Kitô đây không phải là vị vua chiến thắng muôn nước, bá chủ muôn dân, khôi phục nước Israel, giải phóng nô lệ Rôma như họ vẫn nghĩ. “Đấng Kitô của Thiên Chúa” sẽ là vị vua chiến thắng tử thần, chinh phục các tâm hồn, khôi phục quyền làm con Chúa, và giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, ma quỉ.

Tuy nhiên, con đường đi đến chiến thắng lại là con đường đau khổ, con đường thập giá: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sống lại” (Lc 9,22). Tất cả những ai muốn làm môn đệ Người, không thể đi con đường nào khác: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).

Thập giá tuy là một khí cụ độc ác và ô nhục mà con người đã nghĩ ra để hành hạ kẻ khác, nhưng Đức Giêsu lại biến nó thành dấu chứng của tình yêu: Tình yêu vâng phục thánh ý Cha và tình yêu dâng hiến cho nhân loại. Khi nhìn lên thập giá, chúng ta không ngừng nghe vang vọng lời yêu thương ấy. Chính tình yêu đã biến thập giá trở nên nhẹ nhàng, và khổ đau thành nỗi hân hoan.

Chúa đã chết thay cho chúng ta, mặc dầu chúng ta không xứng đáng ơn cao cả ấy, tại sao chúng ta lại không dám chết cho chính mình, từ bỏ tội lỗi để bước theo chân Người? Chúa đã sẵn lòng chịu mọi đau khổ cực hình thay cho chúng ta, mặc dầu chúng ta ngàn lần bất xứng, tại sao chúng ta lại từ chối hy sinh cho anh em, đang cần sự nâng đỡ ủi an?

***

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã phán: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống mình vì Tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”, xin ban cho chúng con ơn can đảm, để chúng con luôn sẵn lòng bỏ mình cho tình yêu. Xin cho chúng con tìm được niềm vui khi đón nhận mọi gian nan thử thách Chúa gởi đến trên đường đời. Amen!

Thiên Phúc

Anh chị Thụ & Mai gởi

Những lời nói thật lòng

Những lời nói thật lòng

Lang Anh

19-3-2016

1. Dự cả hai lần hội nghị hiệp thương, khi được mời góp ý, thiếu tướng Trần Ngọc Thổ – nguyên Tham mưu trưởng Quân khu 7 – nói: “Vừa rồi họp ở địa phương, tôi cũng nói việc lựa chọn ĐBQH hết sức cẩn thận. Nhìn vào danh sách ứng cử ĐBQH thì thấy ngoài Đảng quá nhiều, tự ứng cử quá nhiều. Đây là tổ chức thứ tư (ý ông Thổ nói MTTQ VN – PV) của Đảng sau Chính phủ, Nhà nước, Quốc hội chứ có phải ai muốn vào thì vào, ai muốn ra thì ra”.

Thiếu tướng Trần Ngọc Thổ: ‘Tự ứng cử quá nhiều’

2. Trả lời câu hỏi về việc tới nay liên quan tới kiện toàn các chức danh nhà nước thì đã có ai nộp đơn xin từ chức chưa, thí dụ như trường hợp của Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội?

Ông Nguyễn Hạnh Phúc cho biết, không nhất thiết những trường hợp này phải nộp đơn xin từ chức, vì công tác nhân sự là của Đảng. Không nhất thiết Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội phải có đơn từ chức

3. Tổng Bí thư nhấn mạnh, để hạn chế thấp nhất thiệt hại, không để người dân thiếu nước ngọt, cần chủ động phương án phòng chống, thích ứng cho cả trước mắt và lâu dài, nghiên cứu chuyển đổi cây trồng vật nuôi, cơ cấu kinh tế phù hợp, như phát triển công nghiệp chế biến gắn với vùng cây nguyên liệu vốn là tiềm năng thế mạnh của địa phương.

Trước mắt, cần kiểm tra xử lý kịp thời tình trạng xâm nhập mặn, làm sao ngăn mặn, giữ ngọt, tìm ra những nguyên nhân không chỉ khách quan mà cả chủ quan để tháo gỡ giải quyết, cái gì vướng mắc thì đề nghị Trung ương hỗ trợ, cần có phương án chủ động, tính toán kỹ lưỡng các kịch bản có thể xẩy ra.

“Trung ương luôn sát cánh cùng bà con vùng hạn mặn vượt khó khăn”

Ba sự kiện, ba kiểu phát ngôn của các quan chức cấp cao của Đảng.

Phát ngôn đầu tiên là của thiếu tướng Trần Ngọc Thổ, nguyên tham mưu trưởng Quân khu 7. Ông bày tỏ nỗi ấm ức của ông trước thực trạng số Đại biểu tự ứng cử Đại Biểu Quốc Hội năm nay quá nhiều so với các kỳ bầu cử trước. Trong cơn bực tức của mình, ông đã buột miệng nói trắng ra, là Mặt trận tổ quốc cùng với Chính phủ, Nhà nước và Quốc hội tất cả đều là thành phần trong 4 tổ chức của Đảng mà thôi. Một lời nói rất thật lòng của một đảng viên cấp cao cho thấy bản chất của nền chính trị Việt Nam, dù cơ quan tuyên huấn vẫn ngày ngày rao giảng nói về nhà nước và quyền lực thuộc về nhân dân. Ông Thổ có lẽ đã cho mình trèo qua hiến pháp khi bất bình về cái quyền ứng cử, vốn là quyền đương nhiên của công dân căn theo hiến pháp và cả Luật bầu cử quốc hội được thông qua ngày 22/06/2015 vốn vẫn chưa ráo mực.

Cũng trong cùng mạch sự kiện, ông Nguyễn Hạnh Phúc, tổng thư ký Quốc hội, khi trả lời về công tác quyết định nhân sự cấp cao của chính phủ, vốn được Hiến pháp ghi rõ là thẩm quyền thuộc về Quốc hội thì cũng đã trả lời rất thẳng thắn: “Công tác nhân sự là của Đảng”

Có lẽ cả ông Phúc và ông Thông không lường hết được tính lan truyền và phổ cập của thông tin toàn cầu. Cũng có thể các ông quá tự tin và cho rằng chẳng có gì phải dấu diếm. Dù sao thì những câu nói rất thật lòng của các ông chỉ phơi bày một sự thật duy nhất thôi: Ở đất nước này, người dân chẳng có quyền gì ngoài quyền đóng thuế. Mọi sự bầu bán, mọi thứ được gọi là lá phiếu, chỉ là câu chuyện riêng của Đảng Cộng Sản với 4,5 tr đảng viên. Liệu còn bao nhiêu người Việt Nam nữa còn chưa chịu nhìn thẳng vào sự thật mà chính các đảng viên cao cấp nhất của ĐCS đã thẳng thắn phơi bày.

Cuối cùng, nhân sự kiện cả vùng đồng bằng sông Cửu long chết khát, lúa chết, người cũng đang khát, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng công cán đến ngó xem và để lại một phát ngôn dân tuý: “Trung ương luôn sát cánh cùng bà con hạn mặn vượt khó khăn”

Cảnh báo về thiếu nước ngọt vùng đồng bằng sông Cửu Long đã được đưa ra từ 20 năm qua khi Trung Quốc bắt đầu xây những con đập đầu tiên tại thượng nguồn và cổ suý các nước khác xây đập trên dòng chính sông Mekong. Trong khoảng 10 năm qua, dù liên tục trải qua bất ổn, thay chính phủ liên tục và đảo chính liên miên, nhưng Thái Lan, dù bất cứ ai nắm quyền, cũng đều có những kế hoạch dài hơi để đối phó vấn đề này, dù mức chịu ảnh hưởng của Thái thấp hơn Việt Nam rất nhiều. Ngày hôm nay, hạn nặng khắp vùng hạ lưu sông MeKong, nhưng người Thái đã sẵn sàng các trạm bơm, hồ nước và đập chứa để đối phó tình hình. Gần nhất là họ đang bơm 47 triệu m3 nước từ dòng chảy chẳng còn nhiều của sông Mekong để dự trữ cho nông nghiệp Thái Lan. Tất nhiên, những trạm bơm và hồ chứa ấy không tự nhiên sinh ra. Người Thái đã chuẩn bị cho chúng trong hàng chục năm.

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, có lẽ cần phải hỏi ông điều này, Đảng cộng sản đã luôn cầm quyền và luôn được nghe cảnh báo. Mười năm qua, đã có bao nhiêu hồ chứa, bao nhiêu đập trữ nước được chuẩn bị để đối phó với tình hình ở đồng bằng sông Cửu long? Để đến nỗi bây giờ hạn hán cạn khô, Đảng chỉ còn cách cầu xin Trung Quốc xả van mà hầu hết các chuyên gia tính toán điều đó chẳng cứu được gì nhiều cho cơn khát tại Nam bộ. Cuối cùng thì đất nước này còn cần quỳ gối trước Trung Quốc thêm bao nhiêu lần nữa cùng với các ông, để đổi lại vẫn là đói nghèo và chết khát???

Lý Chánh Trung có là trí thức cánh tả?

Lý Chánh Trung có là trí thức cánh tả?

Bùi Văn Phú Gửi cho BBC từ Hoa Kỳ

BBC

Giới trí thức thời Việt Nam Cộng hòa ai cũng nghe biết đến giáo sư Lý Chánh Trung qua những bài viết gây sôi nổi về tinh thần dân tộc, lòng yêu nước và về tinh thần tôn giáo nhập thế.

Qua những tập sách, cùng hàng trăm bài báo, ông đưa ra lý luận triết học, những cái nhìn từ đường phố, qua đó phản ánh quan điểm của ông là chống lại sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam, là mơ ước một xã công bằng, không còn cảnh người giầu bóc lột người nghèo.

Trong sinh hoạt của giới trí thức thời đó, giáo sư Trung không chỉ ngồi trong tháp ngà hay quanh quẩn ở sân trường, nơi giảng đường đại học để nói những điều lý thuyết mà ông đã dấn thân, xuống đường cùng với những nhà đối lập, những lãnh đạo tôn giáo, với thanh niên, sinh viên vì mục tiêu độc lập, tự chủ của đất nước. Ông tham dự ngày Ký giả Ăn mày dưới đường phố Sài Gòn, ông đến chùa Quảng Hương dự lễ ra mắt của Mặt trận Nhân dân Cứu đói.

Sinh hoạt của các phong trào, mặt trận này sau ngày 30/4/1975 đã được nhiều lãnh đạo thành đoàn xác nhận là những bình phong hoạt động của cộng sản.

Qua tác phẩm “Tìm về dân tộc”, xuất bản lần đầu năm 1967, khi tình hình chính trị miền Nam đầy rối ren và lính chiến đấu Mỹ đã được đưa vào Việt Nam, ông lên tiếng cảnh báo về một đất nước đang rơi vào hoàn cảnh bị đô hộ bởi người Mỹ, sau nhiều năm bị đô hộ bởi thực dân Pháp, cho dù ông đã được theo học ở các “trường dòng”, tức trường công giáo, từ Taberd ở Sài Gòn, Thiên An ở Huế và ông đã theo đạo công giáo năm 20 tuổi. Năm 1950 ông đi du học Bỉ, tại trường Đại học Công giáo Louvain và tốt nghiệp cử nhân ban tâm lý học và cử nhân chính trị học.

Năm 1956 ông về nước, làm việc tại Bộ Giáo dục với chức công cán ủy viên rồi lên đến đổng lý văn phòng của bộ này. Ông cũng dạy triết tại các đại học ở Sài Gòn, Huế, Đà Lạt.

Ông chủ trương một đất nước hoàn toàn độc lập, không chấp nhận có trường Tây trên lãnh thổ miền Nam, vì cho rằng như thế sẽ đào tạo ra một lớp người việt vong bản, mất gốc ngay trên quê hương. Ông kêu gọi phụ huynh cho con em theo học trường Việt cho dù số học sinh quá đông, đến 60 trong mỗi lớp, và trường sở phương tiện giáo dục còn thiếu thốn.

Rồi những năm sau đó ông lại chê hệ thống giáo dục của miền Nam khi ông viết trên báo Điện Tín ngày 1/3/1972:

“Ngay trong một môi trường tương đối thuận lợi như VĐH Đà Lạt, tôi thấy công cuộc giáo dục chẳng đi tới đâu hết cả, ngoài cái việc cấp phát hằng năm một mớ văn bằng. Những văn bằng mỗi năm thêm mất giá! Chẳng những mất giá vì trình độ sút giảm mà còn mất giá vì văn chương chữ nghĩa ngày nay đã rẻ hơn bèo, vì bực thang giá trị đã hoàn toàn đảo lộn, vì chiến tranh đã bít nghẽn mọi tương lai”. [“Đối diện với chiến tranh” tr. 165. Lý Chánh Trung, Nxb Trẻ 2000]

Từ những cái nhìn về triết học, tôn giáo, và trên quan điểm dân tộc giáo sư Lý Chánh Trung đã tham gia vào chính trị, vào các phong trào tranh đấu.

Trước Tết năm 1968, ông cùng 65 giáo chức đại học ký tên vào một thư ngỏ với mục đích kêu gọi ngưng bắn giết trên quê hương: “Để có không khí thích hợp cho những cuộc đối thoại cởi mở giữa những phe tham chiến và nhất là để cứu hàng ngàn người tiếp tục đổ máu trong khi những người có trách nhiệm đang đi tìm sáng kiến giải quyết xung đột, chúng tôi thiết tha kêu gọi các phe tham chiến hãy kéo dài vô hạn định thời gian hưu chiến nhân dịp Tết Nguyên đán và tìm phương thức tiến ngay đến hòa bình thực sự”. [Báo Sống Mới ngày 24/1/1968, in lại trong “Đối diện với chiến tranh” tr. 22]

Một tuần sau khi lời kêu gọi được đưa ra, bộ đội cộng sản Bắc Việt mở những cuộc tấn công vào các tỉnh thành miền Nam ngay trong những ngày đầu năm âm lịch. Đó là Tổng Tấn công Tết Mậu Thân đã đi vào lịch sử của cuộc chiến tranh tàn khốc trên quê hương.

Lời kêu gọi đó của những người trí thức, vì thực sự muốn hòa bình hay việc làm này đã được một ai trong lãnh đạo thành đoàn cộng sản chỉ đạo, để che đậy cho chiến dịch tấn công quân sự đang được khai triển? Nghi vấn đó cũng đã được nhiều người đặt ra cho giáo sư Lý Chánh Trung: Ông chỉ là người trí thức công giáo cánh tả, thuộc Thành phần thứ Ba hay ông được cộng sản móc nối để hoạt động nội thành?

Trong quá khứ ông đã phát biểu rằng ông không là đồng chí với người cộng sản mà chỉ đồng hành với họ. Ông được cho là đứng chung với những nhóm tranh đấu cho một miền Nam không lệ thuộc ngoại bang, không cộng sản.

Nhưng nhìn lại các phong trào tranh đấu chống chính quyền ở miền Nam, sau ngày 30/4/1975 nhiều cán bộ nội thành đưa ra những bằng chứng cho thấy nhiều tổ chức cánh tả và Thành phần thứ Ba đã được điều phối bởi cộng sản.

Những nhân vật chính trị như Ngô Công Đức, Nguyễn Văn Binh, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Quý Chung; tôn giáo như Phan Khắc Từ, Trương Bá Cần, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín và thành phần sinh viên học sinh như Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Hiếu Đằng, Dương Văn Đầy, Lê Văn Nuôi, Nguyễn Công Khế, Ngô Kha, chưa kể đến những người đã quyết định vào bưng theo cộng sản như Trương Như Tảng, Lê Văn Hảo, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường v.v…

Sau ngày 30/4/1975 giáo sư Lý Chánh Trung đã bị nhiều sinh viên một thời xem ông là thần tượng phản đối vì thái độ ủng hộ chính quyền mới của ông trước vấn đề sinh viên không được học hành mà bị bắt buộc phải đi nghe nhà nước tuyên truyền chính trị, về vấn đề học tập cải tạo kéo dài đối với quân cán chính miền Nam.

Trong khi đó ông tham gia Mặt trận Tổ quốc, là ủy viên ban chấp hành trung ương, làm phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh và được đưa vào Quốc hội các khoá VI, VII và VIII.

Ông chỉ bị thất sủng và sau đó bị loại ra khỏi các chức vụ nhà nước sau khi ông phát biểu năm 1988 về việc bầu Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, tức thủ tướng, mà chỉ có một ứng cử viên. Ý của ông là không muốn bầu cử độc diễn vì trước đây ở Sài Gòn ông đã chống lại ông Nguyễn Văn Thiệu ra tranh cử chỉ có một mình vào năm 1971.

Khoảng thời gian đó là lúc có chính sách đổi mới về kinh tế và cởi trói về văn nghệ nên ông còn mời nhà văn Dương Thu Hương đến nói chuyện về những tác phẩm của bà.

Giáo sư Trung cũng được chú ý đến nhiều khi viết bài trên báo đưa ra nhận định là môn học chính trị về triết thuyết Mác-Lê không còn hợp thời đại vì thày thì không muốn dạy và trò cũng không còn muốn học.

Sau khi các chế độ cộng sản ở Đông Âu sụp đổ và Liên bang Xô-viết tan rã thì ở Việt Nam mọi thứ lại bị xiết lại, với cá nhân ông, cũng như trong sinh hoạt của giới trí thức, văn học.

Nhưng trong 40 năm sống với cộng sản, ông dường như im lặng trước một xã hội vẫn đầy bất công, nền giáo dục xuống cấp.

Giới trí thức miền Nam cũ mong đợi ông sẽ có những thái độ với nhà cầm quyền cộng sản trước những bế tắc của xã hội do bởi chính sách độc tài chuyên chính dựa trên chủ thuyết Mác-Lê, như một số nhân vật đã lên tiếng là Tướng Trần Độ, nhà toán học Trần Xuân Bách, linh mục Chân Tín, giáo sư Nguyễn Ngọc Lan, luật sư Đoàn Thanh Liêm, giáo sư Đoàn Viết Hoạt, luật sư Lê Hiếu Đằng v.v… Nhưng ông đã không lên tiếng.

Kể từ đầu thập niên 1990 ông hầu như im lặng trước những vấn đề của thời cuộc.

Đến năm 2000, 50 bài viết của ông từ thời Việt Nam Cộng hòa được cho phép in lại trong tập “Đối diện với chiến tranh”. Đó là những bài chọn ra từ 300 bài viết đã được đăng trên các báo ở miền Nam trước năm 1975.

Nhiều người trách thái độ xu thời theo cộng sản của ông. Theo hồi ký của Võ Long Triều, một người từng là bạn của giáo sư Trung, thì đó là vì thái độ ham danh lợi của ông.

Dưới thời Việt Nam Cộng hòa giáo sư Lý Chánh Trung năng nổ xuống đường, có dăm bảy tác phẩm được xuất bản và rất nhiều những bài chính luận, nhận định về sự đồi trụy văn hóa, bất công xã hội, về nguy cơ bị nô lệ ngoại bang đã được đăng trên các báo và tạp chí.

Nhưng trong 40 năm sống với cộng sản, ông dường như im lặng trước một xã hội vẫn đầy bất công, nền giáo dục xuống cấp, hòa hợp hòa giải dân tộc không có, quyền tự quyết không được tôn trọng là những điều trước đây ông luôn quan tâm và lên tiếng.

Giáo sư Lý Chánh Trung sinh ngày 23/12/1928 tại Trà Vinh, mất ngày 13/3/2016 tại Sài Gòn, hưởng thọ 89 tuổi.

Các tác phẩm của ông: Cách mạng và đạo đức (1960), Ba năm xáo trộn (1967), Tìm về dân tộc (1967), Tìm hiểu nước Mỹ (1969), Những ngày buồn nôn (1972), Tôn giáo và Dân tộc (1973) và Đối diện với chiến tranh (2000).

Tác giả là một nhà báo tự do hiện sống tại vùng Vịnh San Francisco, California.

Việt Nam sai khi ‘nhờ cậy’ Trung Quốc cứu hạn

Việt Nam sai khi ‘nhờ cậy’ Trung Quốc cứu hạn
Nguoi-viet.com

CẦN THƠ (NV)Ðó là nhận định của ông Lê Anh Tuấn, phó giám đốc Viện Nghiên Cứu Biến Ðổi Khí Hậu thuộc Ðại Học Cần Thơ. Nhận định này được trình bày trên tờ Thơi báo Kinh tế Sài Gòn.

Ðồng bằng sông Cửu Long đang đối diện với một đợt hạn hán chưa từng có. Do trời nóng nhiều ngày, ít mưa, lưu lượng nước giảm từ 30% đến 60% và do Trung Quốc trữ nước để vận hành các công trình thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong, tại đồng bằng sông Cửu Long đang có hàng trăm ngàn hecta lúa và các loại cây khác chết khô, hàng triệu người khốn khổ do thiếu nước ăn uống.


Ông Thạch Thanh (42 tuổi) ở vùng bị mặn xâm nhập nặng thuộc huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng, bần thần bên ruộng lúc khô cằn, nứt toác. (Hình: VNExpress)

Hôm 15 tháng 3, 2016, Trung Quốc đã bắt đầu xả nước từ đập thủy điện Cảnh Hồng, tọa lạc tại tỉnh Vân Nam để hỗ trợ Việt Nam chống hạn. Trong khi Việt Nam đề nghị để giúp ngăn mặn, giảm thiệt hại do hạn hán, Trung Quốc nên xả nước nhiều đợt từ nay đến trung tuần tháng 8, mỗi đợt khoảng bảy ngày, lưu lượng xả phải vào khoảng 2.300 khối mỗi giây thì Bộ Ngoại Giao Trung Quốc thông báo, việc xả nước chỉ kéo dài cho đến ngày 10 tháng 4.

Theo các viên chức Việt Nam thì phải mất khoảng nửa tháng, nước từ đập thủy điện Cảnh Hồng mới về tới đồng bằng sông Cửu Long.

Tuy việc Trung Quốc xả nước không như Việt Nam mong muốn nhưng một số viên chức Việt Nam hy vọng, nhờ vậy, nước mặn sẽ bị chặn lại, không lấn sâu hơn vào đất liền và các địa phương sẽ có nước để tổ chức tích trữ.

Trong bài viết có tựa là “Hạn, mặn ở đồng bằng sông Cửu Long: Có nên trông chờ vào thủy điện Trung Quốc?,” ông Tuấn không xem việc Trung Quốc xả nước, hỗ trợ Việt Nam chống hạn là đáng “phấn khởi.”

Ông nhấn mạnh, Trung Quốc không cho biết sẽ xả bao nhiêu nước và phương thức xả (liên tục hay gián đoạn trong khoảng thời gian từ nay đến 10 tháng 4. Ông Tuấn bảo rằng, điều đó chẳng có gì lạ vì xưa nay, tin tức và số liệu về thủy văn từ phía Trung Quốc lúc nào cũng rời rạc và mơ hồ như vậy.

Ông Tuấn cho biết, mỗi năm, đoạn thượng nguồn sông Mekong chảy trên đất Trung Quốc đóng góp khoảng 21% lượng nước cho khu vực trung lưu và hạ lưu của con sông này. Ðập của nhà máy thủy điện Cảnh Hồng (Jinghon) là nơi gần Lào nhất. Bên trên Cảnh Hồng còn năm đập nước khác trong chuỗi 14 đập nước mà Trung Quốc dự tính xây dựng tại thượng lưu sông Mekong. Dung tích hữu dụng của hồ chứa nước thuộc nhà máy thủy điện Cảnh Hồng là 249 triệu mét khối nước. Nếu Trung Quốc chỉ dùng hồ chứa nước thuộc nhà máy thủy điện Cảnh Hồng để giúp Việt Nam chống hạn theo đề nghị của Việt Nam thì chỉ sau 30 tiếng, hồ chứa nước của nhà máy thủy điện Cảnh Hồng sẽ cạn.


Bản đồ phác họa tình trạng hạn hán và nước mặn xâm nhập đồng bằng sông Cửu Long. (Ðồ họa: zing.vn)

Cũng vì vậy, hy vọng nước từ nhà máy thủy điện Cảnh Hồng sẽ giúp ngăn mặn, tích trữ để chống hạn bị ông Tuấn xem là hão huyền. Ông Tuấn cho rằng, có nhiều lý do khiến đề nghị Trung Quốc xả nước giúp Việt Nam ngăn mạn và giảm thiệt hại bởi hạn hán là thiếu khôn ngoan. Với đặc điểm như đã kể của nhà máy thủy điện Cảnh Hồng, Trung Quốc sẽ chỉ xả cầm chừng, rửa được tiếng nhơ (vô trách nhiệm trong sử dụng tài nguyên, hủy diệt môi trường và nguồn sống của hàng trăm triệu người), mua được tiếng tốt (có trách nhiệm với các quốc gia ở khu vực hạ lưu sông Mekong) mà vẫn duy trì được hoạt động của nhà máy thủy điện Cảnh Hồng.

Ngoài ra do khoảng cách từ nhà máy thủy điện Cảnh Hồng đến đồng bằng sông Cửu Long lên tới 4,000 cây số, địa hình của Lào, Thái Lan, Cambodia lại có nhiều nhánh, vùng trũng nên theo ông Tuấn lượng nước thật sự về tới đồng bằng sông Cửu Long sẽ chẳng còn được bao nhiêu.

Chưa kể khi về tới đồng bằng sông Cửu Long, lượng nước mà nhà máy thủy điện Cảnh Hồng xả ra sẽ không cứu cho hàng trăm ngàn hecta lúa và cây trồng khác đã chết khô sống lại.

Giữa tháng 4, thời điểm nhà máy thủy điện Cảnh Hồng ngưng xả nước là thời điểm toàn khu vực không có mưa, hạn hán sẽ nghiêm trọng hơn. Quyết định của Trung Quốc: Xả nước giúp Việt Nam chống hạn chẳng đem lại lợi ích nào thật sự tích cực cho Việt Nam.

Phó giám đốc Viện Nghiên Cứu Biến Ðổi Khí Hậu thuộc Ðại Học Cần Thơ nhắc lại kinh nghiệm của nhiều quốc gia khác, đó là khi đối diện với hạn hán nghiêm trọng, người ta chấp nhận thiệt hại, không tìm mọi cách để chuyển nước từ nơi khác đến để cứu hạn vì điều đó vô nghĩa do tốn kém quá mức, hiệu quả kinh tế rất thấp. Bên cạnh đó, các quốc gia này đều tích lũy nguồn lực để hỗ trợ thích đáng những người bị thiệt hại do hạn hán nói riêng và thiên tai nói chung.

Ông Tuấn cho rằng, đợt hạn hán và nước mặn xâm nhập lần này là một cơ hội để xem lại tính hiệu quả của hàng loạt chính sách mà chính quyền Việt Nam đã thực hiện trong quá khứ, bất chấp các khuyến cáo từ giới chuyên gia: Ngọt hóa vùng ven biển. Thoát lũ ra biển Tây. Xây dựng hệ thống đê bao, phá bỏ hai hồ chứa nước tự nhiên lớn nhất ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long là Ðồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên để tăng diện tích trồng lúa.

Theo ông Tuấn, dẫu hậu quả của đợt hạn hán và nước mặn xâm nhập lần này rất nghiêm trọng nhưng nó sẽ trở thành tích cực nếu xem lại toàn bộ định hướng phát triển kinh tế-xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long. (G.Ð)