Những vấn đề biển Đông (phần 2)

Những vấn đề biển Đông (phần 2)

Nguyễn Duy Vinh

1-4-2016

Tiếp theo Phần 1: Nhân đọc bài của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích viết trước khi ông mất

Phần 2: Nhà cầm quyền Việt Nam phải có thái độ mạnh mẽ hơn trước những hành xử hung hăng của Trung Quốc

Trước hết phải xin nói ngay là tác giả bài viết không phải là luật sư mà cũng chẳng là một chuyên gia pháp lý nên chắc chắn sẽ không dám múa rìu qua mắt thợ. Bài viết này chỉ có một mục đích duy nhất là nói lên vài dữ kiện mà tác giả cảm thấy cần chia sẻ với cộng đồng trẻ trên mạng và cũng nhân tiện nói lên cái thấy và hiểu của mình về những diễn biến phức tạp và đầy thách đố về tình hình biển Đông.

Thách đố thứ nhất: từ ngày có UNCLOS, bãi đá chim … ỉa trở nên có giá nghìn vàng

Phần đất lồi của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có diện tích tổng cộng không quá 15 km2. Ngày xưa hình như đã có một nhà lãnh đạo Việt Nam hay một nhà ngoại giao Việt Nam nào đó gọi những đảo đó là “những bãi đá chim … ỉa”. Ngày nay nếu được định nghĩa là “đảo” theo Công Ước Quốc Tế về Luật Biển (UNCLOS, xin xem bài [1] để hiểu về những từ dùng trong bài này), nước có chủ quyền những quần đảo này có thể đòi và được hưởng một vùng đặc quyền kinh tế quanh đảo (EEZ). Vùng này, theo UNCLOS, dài đến 200 hải lý đo từ đường cơ sở của đảo trở ra. Những bãi đá “chim ỉa” đó bỗng nhiên trở nên vô cùng quý giá. Những đảo đó không còn là những đảo nhỏ có đường cơ sở, nội thủy và lãnh hải 12 hải lý không thôi, nó còn được nới rộng đến 200 hải lý xung quanh.

Việc này cho thấy tầm quan trọng nắm được chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tầm ảnh hưởng vùng EEZ này là đầu mối của rất nhiều quan ngại, tranh cãi cũng như tranh chấp trên biển Đông. Chúng ta chỉ việc lấy bút vẽ từ đảo Tri Tôn (thuộc Hoàng Sa và gần bờ biển Việt Nam nhất) một khoanh tròn có bán kính 200 hải lý, chúng ta sẽ thấy là nếu TQ được tòa án  quốc tế chính thức cho phép nắm chủ quyền Hoàng Sa, vùng đặc nhiệm kinh tế EEZ với 200 hải lý từ bờ biển Việt Nam đo ra, và thuộc về Việt Nam, sẽ bị bé đi như thế nào.

Cuộc tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa thêm vào quyền EEZ của quần đảo này sẽ làm những nước chung quanh “nhức đầu” lắm, đó là chưa nói đến vấn đề chiến lược của quần đảo này. Và TQ thì chúng ta đều biết, họ đã ngày đêm ráo riết xây cất từ khi chiếm được hoàn toàn Hoàng Sa năm 1974. Hiện nay trên đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc quần đảo Hoàng Sa đã có một phi đạo lớn và dài 3000 m và gần đây nhất họ đã đem ra đó những giàn hỏa tiễn (hay tên lửa nói theo tiếng trong nước) địa không (sol-air) như hình chụp được bởi vệ tinh quốc tế ngày 17 tháng 02 năm nay:

H1Ảnh tác giả gửi tới

Thách đố thứ hai : hiệp ước Việt-Trung năm 2011

Trước những hành xử hung hăng và tiếp tục lì lợm của Trung Quốc (TQ) trên biển Đông, Việt Nam không thể khoanh tay ngồi im mãi.

Nhà cầm quyền CHXHCNVN hiện nay đang bị kẹt cứng bởi hiệp ước Việt-Trung mà cả hai nước đã cùng ký ngày 11 tháng 10 năm 2011.  Hai nước “anh em xã hội chủ nghĩa” đã ký thỏa thuận với nhau trên 6 nguyên tắc:

  1. Lấy quan hệ đại cục giữa 2 nước làm trọng, phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển, phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện VN-TQ.
  2. Tôn trọng chứng cứ pháp lý, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài.
  3. Đàm phán vấn đề biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung. Theo nguyên tắc DOC (Tuyên bố ứng xử của các bên biển Đông) đối với tranh chấp trên biển giữa VN-TQ, giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị.
  4. Tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng.
  5. Tự tiệm tiến, dễ trước khó sau.
  6. Tiến hành cuộc gắp gỡ định kỳ Trưởng đoàn đàm phán biên giới cấp Chính phủ một năm hai lần.

Sáu điểm rất là đẹp và cũng rất lý tưởng. Trên thực tế, những sự kiện xảy ra trên biển Đông sau ngày ký hiệp ước này (từ vụ giàn khoan HD-981 cho đến những vụ đánh phá tàu đánh cá và giết ngư dân Việt Nam gần đây nhất trong vùng EEZ của Việt Nam) cho thấy người bạn phương Bắc là một người bạn đểu. Việt Nam không thể tiếp tục đặt niềm tin vào cái hiệp ước này. TQ rõ ràng là một anh láng giềng xỏ lá.

Đứng trước một TQ vừa mạnh vừa hay bắt nạt đó, Việt Nam (VN) phải tìm cách bảo vệ chủ quyền và biển đảo của mình. Hiện nay VN hầu như không có đồng minh trong những tranh chấp trên biển Đông. Mà Việt Nam lại sợ TQ một phép nên không dám tỏ ra thân thiện với Mỹ.

Thách đố thứ ba : sự trì trệ yếu hèn của Việt Nam trước Trung Quốc

Ông Jonathan London trong bài viết mới đây [2] nói Việt Nam cần dũng cảm đối với Trung Quốc (TQ). Ông này đã nhìn thấy rõ ràng sự yếu hèn và trì trệ của nhà cầm quyền Việt Nam trước những hành xử bạo cường của TQ. Bài viết của ông rất thâm thúy mà tôi nghĩ các cấp lãnh đạo trong nước nên đọc. Trong những phương pháp ông London đưa ra, có đoạn này (chép lại dưới đây mà tôi muốn đào sâu thêm):

“Mặc dù Hà Nội không nên có những động thái kích động Bắc Kinh, nhưng họ cũng không nên e ngại làm những gì trong phạm vi chủ quyền của mình. Chẳng hạn như việc kiện TQ ra trước Toà Án Công Lý Quốc Tế hay Toà Án Hàng Hải Quốc Tế sẽ không phải là một hành động gây hấn, mà là việc chẳng đặng đừng vì cách hành xử phi pháp của Bắc Kinh đã không cho Việt Nam một lựa chọn nào khác.

Tôi rất tâm đắc với ông London về điểm này. Xin nói sơ về Tòa Án Quốc Tế ở đây. Tòa Án Quốc Tế được thành lập từ năm 1922 và mang nhiều tên gọi khác nhau theo thời gian : Tòa Án Trọng Tài Thường Trực (Permanent Court of Arbitration hay PCA), Tòa Án Thường Trực Công Lý Quốc Tế (Permanent Court of International Justice hay PCIJ), Tòa Án Công Lý Quốc Tế (International Court of Justice hay ICJ). Tên được dùng nhiều nhất ngày nay là ICJ. Các tòa chính thức nhận hồ sơ, thụ lý và giải quyết tranh chấp các vấn đề giữa các quốc gia thành viên, cũng như làm công tác cố vấn pháp luật cho Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc và Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và các ủy ban khác trực thuộc Liên Hiệp Quốc như đã ghi rõ trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc từ năm 1946. Tòa tọa lạc tại thành phố Den Haag (hay La Haye – tiếng Pháp), Hoà Lan.

Tòa Án Quốc Tế đã xử những vụ tranh chấp chủ quyền biển đảo từ năm 1928 (giữa Mỹ và Hòa Lan, sẽ nói thêm chi tiết dưới đây) và vụ gần đây nhất là vụ Phi Luật Tuân đưa Trung Quốc ra tòa trọng tài thường trực (PCA) với một hồ sơ kiện dầy 4000 trang hoàn tất vào ngày 30 tháng 03 năm 2014. Nghe đâu giữa tháng 07 sắp tới sẽ diễn ra tại La Haye những phiên xử đầu tiên về vụ tranh chấp này dù Trung Quốc tuyên bố không tham dự cũng như phản đối tính cách pháp lý của vụ kiện.

Thách đố thứ tư : sửa soạn hồ sơ cho vụ kiện Trung Quốc ra Tòa Án Quốc Tế

Việc sửa soạn hồ sơ này công phu lắm và phải bắt đầu ngay. Phải có một toán luật sư quốc tế giỏi lo thiết lập hồ sơ và đứng ra lo toàn vụ kiện tụng. Kiện đây là kiện đòi chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa cho Việt Nam.

Tác giả bài viết cũng muốn tản mạn thêm ở đây về những vụ kiện đã xảy ra trong quá khứ, tuy không phải là một chuyên gia pháp lý. Đa số những vụ kiện về lãnh thổ và lãnh hải đều có thể tìm được trên mạng, nếu có thì giờ các bạn có thể tìm đọc bài viết của ông Brian Taylor Sumner [3] rất xúc tích. Đọc qua những case studies (khảo sát) về những vụ kiện [6], tác giả bài viết ghi lại được cả thảy 5 tiêu chuẩn quan trọng mà các quan tòa đã dựa vào để đi đến phán quyết cuối cùng :

  1. Hiệp Ước hay Công Ước quốc tế giữa các nước : nếu các nước đã ký với nhau những hiệp ước hay công ước được Liên Hiệp Quốc ủng hộ hay phê chuẩn, những hiệp ước này sẽ có một ảnh hưởng lớn trong vụ kiện. Ví dụ như Hòa Ước giữa Mỹ và Tây Ban Nha ký năm 1898. Hòa Ước này cho phép Mỹ nắm chủ quyền các đảo Puerto Rico, đảo Guam và quần đảo Philippines. Ví dụ Hiệp Định Lausanne ký năm 1923 đưa đến việc thành lập các nước Jordan, Syria và Iraq sau khi vương quốc Ottoman bị thua trận sau đại chiến thứ nhất…
  2. Uti Possidetis (dịch tạm là tiếp tục giữ cái gì đang có) : đa số những nước bị đô hộ trong thời kỳ thuộc địa, sau khi nhà nước đô hộ ra đi, họ trả lại cho nước bị đô hộ biên giới lãnh thổ đã có sẵn. Như trường hợp Việt Nam, vấn đề đàm phán biên giới Việt-Trung đã phải dựa trên biên giới vạch ra từ hòa ước Pháp – Thanh. Dĩ nhiên trong cuộc đàm phán này, VN đã bị TQ lừa về vấn đề cột mốc và còn bị bắt nạt nữa và VN có thể đã mất hàng ngàn km2 trên biên giới Việt-Trung. Vụ Ải Nam Quan nay thuộc TQ cũng như thác Bản Giốc bị cắt đi phân nửa là một vài ví dụ về sự mất mát của Việt Nam sau cuộc đàm phán này. Các bạn trẻ trong nước nên tìm hiểu và học hỏi thêm để thấy tại sao chúng ta lại đàm phán thiệt thòi như thế, có bài của ông Trương Nhân Tuấn cũng đáng xem lắm [4].
  3. Quản trị hữu hiệu : tôi dịch tạm từ chữ “effective control”. Nếu dùng google để dịch chữ này thì sẽ được dịch là “kiểm soát hiệu quả” nhưng khi đọc sâu vào các chi tiết vụ kiện, hai chữ đó dính dấp đến việc quản trị nghiêm túc và hiệu quả với lãnh thổ (hay lãnh hải) mình đòi chủ quyền. Tỉ dụ đối với Hoàng Sa và Trường Sa, các quan tòa có thể đặt câu hỏi này : xin quý vị cho chúng tôi biết các nhà nước Việt Nam từ thời các vua triều Nguyễn cho đến nay đã có những bằng chứng nào về việc tổ chức quản trị hữu hiệu những quần đảo này. Qua các vụ xử mà tôi sẽ lần lượt nói sơ đến dưới đây, tiêu chuẩn này có thể được xem là tiêu chuẩn quan trọng nhất đưa đến những phán quyết cuối cùng của Tòa Án.
  4. Sự đồng thuận (acquiescence) : chữ này tôi mượn của ông Trương Nhân Tuấn vì tôi không tìm được từ nào hay hơn. Khi mình làm lơ, im hơi lặng tiếng không phản đối về vụ chiếm đảo chẳng hạn, là mình có sự đồng thuận. Một câu hỏi xin nhờ các chuyên gia và học giả Việt Nam cho một câu trả lời (không dễ) là : khi Trung Cộng chiếm hết đảo Hoàng Sa năm 1974, chỉ có VNCH phản đối chính thức với LHQ trong khi VNDCCH thì im hơi lặng tiếng. Ngày nay CHXHCNVN là kế thừa của VNDCCH, vậy thì CHXHCNVN có bị quy vào tội “acquiescence” không đối với chủ quyền Hoàng Sa ? Nhà nước CHXHCNVN luôn coi VNCH là “ngụy” thì có cách nào để được tư cách kế thừa VNCH ? Tôi có đọc một số bài viết về vụ này nhưng chưa thấy một giải pháp nào đơn giản. Vần đề lại càng khó khăn hơn vì thêm vào đó có công hàm 1956 của ông Phạm Văn Đồng.
  5. Công Ước Quốc Tế về Luật Biển (UNCLOS) : xin nhớ là UNCLOS chỉ cho ra những khuôn khổ cho việc thẩm định trong khi việc xác định chủ quyền thuộc về luật quốc tế, các bạn nào có thì giờ có thể nghiên cứu thêm về luật quốc tế với những tác phẩm của ông James Crawford xuất bản bởi đại học Oxford bên Anh.

Bây giờ mời các bạn xem những tóm tắt của tôi về những case studies:

Vụ kiện giữa Mỹ và Hòa Lan về chủ quyền đảo Palmas, 1928:

Sau cuộc chiến Mỹ-Tây Ban Nha (TBN), Mỹ chiếm đóng Phi Luật Tân (PLT) và đòi chủ quyền đảo Palmas vì đảo này thuộc quần đảo PLT mà Mỹ là nước kế thừa sau hòa ước Paris năm 1898. Hòa Lan (HL) phản đối và đòi chủ quyền đảo này mà theo HL là một phần của các đảo miền Đông (Dutch East Indies) dưới quyền đô hộ của HL. Tòa Án Quốc Tế (PCA) xem hòa ước Mỹ-TBN không đủ tư cách pháp lý vì trong hòa ước này không có tên đảo Palmas và HL không là nước ký hòa ước này. Theo lịch sử thì HL có quản trị và kiểm soát đảo hữu hiệu, có cả cờ HL được cắm trên đảo từ năm 1700 và có thu thuế từ đó. Thêm vào đó TBN đã không phản đối HL về chủ quyền đảo Palmas khi TBN rút quân ra khỏi Molucca năm 1666. Không phản đối chủ quyền có nghĩa là đồng thuận (acquiescence). Ông chánh án Max Huber kết luận là HL tiếp tục có chủ quyền đảo Palmas vì đã gìn giữ quản lý ôn hòa đảo này trong một thời gian dài kể từ năm 1700. Mỹ thua.

Vụ kiện giữa Na Uy và Đan Mạch về chủ quyền Đông Greenland, 1933:

Năm 1933, TAQT (PCIJ) phán xét cuộc tranh chấp giữa Na Uy (NU) và Đan Mạch (ĐM) dành chủ quyền miền Đông của đảo Greenland. Theo hòa ước Kiel ký năm 1814 thì trên nguyên tắc Greenland thuộc về ĐM. Tuy nhiên TAQT (PCIJ) cũng khảo sát xem ĐM có tiếp tục quản lý tốt đời sống trên toàn đảo sau hiệp ước Kiel. TAQT định nghĩa việc quản lý “tốt” như sau : “ý định và thiện chí lãnh nhận chủ quyền và tiếp tục thực thi cũng như thể hiện chủ quuyền đó”. TAQT xét lại tất cả những văn kiện ngoại giao và thương mại của ĐM trong suốt thời gian quản lý Greenland thì rõ ràng có chứng tích là những văn kiện này bao gồm cả vùng phía đông đảo Greenland [5]. Thêm vào đó lại có bằng chứng “acquiescence” phía NU qua bức thư trả lời của bộ trưởng bộ ngoại giao NU, ông Nils Claus Ihlen về chủ quyền trên toàn đảo Greenland vào ngày 22 tháng 07 năm 1919. PCIJ kết luận là chủ quyền Greenland hoàn toàn thuộc về Đan Mạch. Vụ xử này cho thấy việc quản lý và kiểm soát hữu hiệu đảo của một nước dành chủ quyền rất quan trọng trong phán quyết của tòa án.

Vụ kiện giữa Pháp và Anh về chủ quyền đảo Minquiers và Ecrehos, 1953:

Năm 1953, ICJ phán quyết chủ quyền của 2 nhóm đảo nhỏ Minquiers và Ecrehos. Hai nước tranh chấp là Anh và Pháp. Tòa đã dựa vào sự quản lý hữu hiệu để xác định chủ quyền. Và tòa đã xử có lợi cho Anh Quốc. Pháp đưa ra bằng chứng về công ước đánh cá và các phao đặt để giúp thuyền bè qua lại, Anh không phản đối, Pháp đưa lý do acquiescence. Nhưng những bắng chứng này chỉ có tác dụng trên biển và không đụng tới đảo nên tòa quyết định chủ quyền thuộc vế Anh.

Vụ kiện giữa El Salvador và Honduras về đất, đảo và biên giới đảo, 1992:

Ba đảo trong vụ tranh chấp này là 3 đảo nằm trong vịnh Gulf of Fonseca: đảo El Tigre, đảo Meanguera và đảo Meanguerita. Tòa định dùng uti possidetis lúc đầu để định chủ quyền nhưng cách này không rõ ràng. Tòa xem những bằng chứng về quản trị hiệu quả trong thời gian hậu thuộc địa với Tây Ban Nha. Tòa cũng chấp nhận những bằng chứng về acquiescence và cuối cùng tòa quyết định trao chủ quyền đảo El Tigre cho Honduras (dựa trên tiêu chuẩn quản trị hữu hiệu) và trao chủ quyền hai đảo kia cho El Salvador.

Rồi tôi có thể tiếp tục kể thêm nhưng đến đây tôi thấy cũng khá tạm đủ, tôi cho tất cả những case studies đọc được [6] vào bảng dưới đây:

H1

Và tác giả bài viết xin ngừng tại đây và xin dán xuống đây một tấm hình tiêu biểu cho những tranh chấp hiện nay trên biển Đông Nam Á:

H1

Tấm hình này cho thấy những yêu sách đòi chủ quyền của mỗi nước. Màu vàng trong vùng biển của mỗi nước là vùng đòi chủ quyền, một loại EEZ như theo đòi hỏi của Brunei. Đường lưỡi bò của TQ và Đài Loan cũng được thể hiện rất rõ. Chỉ cần chụp những đòi hỏi này lên cùng một bản đồ, chúng ta có thể mường tượng dễ dàng sự chồng chéo lên nhau của những yêu sách.

Thay lời cuối thì hiện nay Hoàng Sa đã bị TQ hoàn toàn chiếm đóng, riêng Trường Sa thì tôi mời độc giả xem bảng tóm tắt dưới đây:

H1____

Tài liệu tham khảo:

[1] https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B9ng_%C4%91%E1%BA%B7c_quy%E1%BB%81n_kinh_t%E1%BA%BF

[2] Việt Nam Cần Dũng Cảm Đối Với Trung Quốc

[3] TERRITORIAL DISPUTES AT THE INTERNATIONAL COURT OF JUSTICE

[4] Về bài viết “Ải Nam Quan và thác Bản Giốc được phân chia như thế nào” của TS Trần Công Trục

[5] Charles Cheney Hyde, American Journal of International Law, Oct 1933

[6] Jason S. Nakata, “Law on the rocks : international law and China’s maritime disputes”, Dec. 2014, M.Sc. Thesis, Naval Postgraduate School, Monterey, USA

Nguyễn Duy Vinh (Douala, mùa mưa năm 2016)

Ts Nguyễn Quang A: Tôi muốn thức tỉnh người dân, thúc đẩy quá trình học tập dân chủ

Ts Nguyễn Quang A: Tôi muốn thức tỉnh người dân, thúc đẩy quá trình học tập dân chủ

Dongchuacuuthe.com

Sự kiện một số người tự ứng cử vào Quốc hội khóa XIV đã làm nóng các diễn đàn mạng và báo chí. Một số người đã đưa chương trình hành động khi ra tranh cử, một số người đã gặp những khó khăn từ nhiều phía. Điểm chung nổi bật là hầu hết họ đã tỏ rõ quyết tâm “biến quyền hão thành quyền thực” như Tiến sĩ Nguyễn Quang A đã phát biểu.

Nhân việc tự ứng cử vào Đại biểu Quốc hội khóa 14, chúng tôi đã thực hiện một loạt phỏng vấn các ứng cử viên độc lập cũng như quan điểm và suy nghĩ của các nhân sĩ, trí thức về vấn đề này. Quan điểm, điều kiện, suy nghĩ của họ ra sao… được phản ánh qua video và các cuộc phỏng vấn sau đây.

 

Tiến sĩ Nguyễn Quang A: Tôi muốn thức tỉnh người dân, thúc đẩy quá trình học tập dân chủ

– Thưa ông, vừa qua được tin là ông đã vào danh sách tự ứng cử vào Quốc hội VN khóa 14. Xin ông cho biết việc tự ứng cử này có ý nghĩa gì đối với ông?

NguyenQuangA_ungcu

– Sở dĩ tôi ứng cử vào ĐB Quốc hội, là tôi muốn thức tỉnh người dân, người dân có rất nhiều quyền, trong đó có quyền ứng cử để tham gia vào việc xây dựng đất nước. Mục đích là tiếp tục thúc đẩy quá trình học tập dân chủ mà chúng tôi đã khởi động từ lâu, chí ít là từ Kiến Nghị 72[1].

– Thưa ông, trong quá trình bắt đầu tự ứng cử cho đến bây giờ, ông có gặp khó khăn, thuận lợi gì?

– Trong quá trình nộp hồ sơ đăng ký ứng cử, nói chung khá thuận lợi. Tuy nhiên, có một vài thủ tục hành chính không được thuận lợi cho lắm. Nhưng, tất cả những cái đó đều vượt qua được.

– Thưa ông, nếu trúng cử, ông sẽ hành động như thế nào với tư cách của một Đại biểu Quốc hội?

– Nếu trúng cử vào Quốc hội, như tôi đã nêu trong cương lĩnh tranh cử của mình, tôi sẽ yêu cầu Quốc hội sửa hàng loạt Luật và loại bỏ tất cả những điều khoản của những Luật hiện hành vi phạm nhân quyền và vi hiến, cũng như thúc đẩy để Quốc hội ra những điều luật mới, để tạo điều kiện pháp lý cho người dân thực hiện các quyền của mình chứ không phải là các Luật để cản trở hay quản lý người dân.

– Thưa ông, tiền lệ từ trước đến nay là Đảng cử, dân bầu. Bây giờ dân tự ứng cử mà  không được Đảng cử. Như vậy, ông có hy vọng trong cuộc bầu cử này được đối xử công bằng và trúng cử hay không?

– Tôi mong muốn được đối xử công bằng. Nhưng thực tiễn tôi nghĩ rằng người ta sẽ không đối xử công bằng, người ta sẽ tìm mọi cách để loại tôi ra khỏi danh sách ứng cử viên cuối cùng. Điều đó cũng sẽ giúp cho người dân và bản thân chính quyền thấy Luật Bầu cử hiện hành nó phi lý như thế nào và mọi người phải lên tiếng để sửa đổi trong tương lai.

Như tôi đã nói, mục tiêu của tôi là thúc đẩy quá trình học tập, và khả năng lọt vào vòng trong là không nhiều.

– Thưa ông, câu hỏi cuối có hai ý: Thứ nhất là vừa qua một số báo chí đã lên những bài viết, để “đánh” những người tự ứng cử và bôi nhọ họ về vấn đề cá nhân, bới móc đời tư cũng như những động tác mà người ta gọi là “đánh dưới thắt lưng”. Những động tác như vậy có ý nghĩa gì với những người tự ứng cử hay không? Thứ hai là theo ông đánh giá chung, Quốc hội VN từ trước đến nay qua các bầu cử. Ở phương Tây, VN thường hay gọi là “dân chủ giả hiệu”. Vậy ở Việt Nam, có phải là dân chủ thật sự hay không?

– Một trong những khẩu hiệu tôi nếu ra là hãy biến quyền hão thành quyền thực. Nói cách khác, những quyền trước đây là quyền hão, được ghi trong giấy tờ nhưng trong thực tế không được thực hiện. Cho nên, các quyền đó xưa nay chỉ là các quyền hão mà thôi.

Chuyện người ta bôi nhọ những người tự ứng cử, về phía tôi, tôi phấn đấu cho một xã hội dân chủ, tôi tôn trọng quyền tự do biểu đạt của tất cả mọi người.  Nhưng, tôi kiên quyết phản đối những việc lạm dụng quyền đó để bôi nhọ người khác. Những người bôi nhọ đó đã vi phạm luật hình sự hiện hành của nước Việt Nam, những người tự ứng cử sẽ cân nhắc xem liệu có đưa những kẻ phạm tội phỉ báng đó ra trước pháp luật hay không.

– Xin cảm ơn ông, chúc ông thành công trong việc tự ứng cử để khẳng định quyền công dân của mình, cũng chúc ông mọi sự bình an và thành đạt trong sự nghiệp cũng như công việc của mình.

– Xin cảm ơn.

YouTube player

Nhà giáo Phạm Toàn: Dấy lên một ý thức rõ rệt, về quyền của mình

– Thưa nhà giáo Phạm Toàn[2], xin hỏi cụ một vài ý kiến về việc ông Nguyễn Quang A và một số người tự ứng cử Quốc hội khóa 14. Xin cụ một vài ý kiến.

– Tôi phải nói luôn là lần ứng cử, bầu cử năm 1946, ở Hà Nội rất vui, từng đoàn kéo nhau đi qua các phố để cổ động cho các ứng cử viên. Đoàn cổ động cho ông Tôn Thất Tùng là đoàn đẹp nhất.  Ăn mặc blu trắng, một cái ông tiêm to đẩy trên cái xe bò, hô Tôn Thất Tùng, Tôn Thất Tùng… rất vui.

Sau đó, nhiều nhiều giải pháp cho phong trào tự do dân chủ đúng Hiến pháp lụn bại đi. Đợt trước, có nhiều người tự ứng cử, nhưng mà không có một ý thức như lần này. Lần này, anh chị em ứng cử với ý thức là làm thay đổi thực sự. Mỗi người có một cương lĩnh, đặc biệt nó sẽ làm gương kê khai tài sản. Những ai mà kê khai như xưa nay mà ông tướng ở trong Sài Gòn nói, là kê khai xong bỏ tủ, thì bây giờ phải nghĩ lại, yêu cầu các anh kê khai đi. Dần dần nó phải như thế.

Triển vọng chưa biết thế nào, nhưng nó dấy lên một ý thức rõ rệt, về quyền của mình.

– Xin cảm ơn ông và chúc ông sức khỏe.

DuongTuong

Dịch giả, nhà thơ Dương Tường: Những lần bầu cử trước tôi đều coi là những trò giả vờ

– Xin chào nhà thơ Dương Tường[3], xin hỏi cụ về việc một số ứng cử viên tự do, tự ứng cử vào Quốc hội khóa 14 lần này, ý kiến cụ cảm nhận điều đó như thế nào?

– Tôi thấy năm nay những người tự ứng cử có khác so với những năm trước. Tôi xin thú thực là những lần bầu cử trước tôi đều coi là những trò giả vờ. Những người dân đi bầu cử là gạch số nào, để số nào chứ không cần biết là tên nữa… Năm nay, tôi thấy trong số những người tự ứng cử, có những người như ông Nguyễn Quang A, là một cái mừng về ý thức là những cái tự ứng cử lần này nó có khác.

Tôi thấy trong dư luận, việc tự ứng cử lần này có một ý thức rõ rệt. Đó là một điều đáng mừng.

– Xin cảm ơn nhà thơ, chúc nhà thơ sức khỏe.

J.B Nguyễn Hữu Vinh

[1] Bản Kiến nghị của 72 nhân sĩ, trí thức khởi đầu gửi Quốc hội để góp ý cho việc sửa đổi Hiến Pháp 1992 theo Nghị quyết của Quốc hội. Bản Kiến nghị đã đưa ra nhiều vấn đề cẩn thay đổi cơ bản bản văn Hiến pháp. Nhưng bản văn đã không được chấp nhận.

[2]  Nhà giáo Phạm Toàn sinh năm Nhâm Thân (1932) quê quán Đông Anh, Hà Nội, là một nhà giáo, nhà văn và dịch giả. Ông được biết tới nhiều là nhờ những hoạt động chính trị, như vào năm 2009, cùng với giáo sư Nguyễn Huệ Chi và Giáo sư Nguyễn Thế Hùng, thành lập ra trang mạng Bauxite Việt Nam, để phản đối khai thác bauxite ở Tây Nguyên. Ngoài ra ông còn cùng với giáo sư Ngô Bảo Châu, và giáo sư toán học Vũ Hà Văn, mở một trang mạng giáo dục với tên là Học thế nào chính thức hoạt động vào ngày 1/5/2013 với kỳ vọng đóng góp vào việc tìm ra phương hướng giải quyết các vấn đề của giáo dục Việt Nam.

[3] Dương Tường là một dịch giả, nhà thơ, nhà phê bình nghệ thuật, phóng viên,… trong đó nổi bật nhất là dịch giả của nhiều tác phẩm văn học có giá trị như Cuốn theo chiều gió, Con đường xứ Flandres và tác giả của những bài thơ như Tình khúc 24. Nhiều bài thơ của ông lấy cảm hứng từ chủ nghĩa siêu thực và phong trào tượng trưng.

Ông tự nhận bản thân “một đời ăn nằm với chữ”. Về dịch thuật, ông quan niệm “một bản dịch lý tưởng phải là một tác phẩm, trong đó người dịch là đồng tác giả”.

II – Giáo Dục Giải Phóng Con Người : Nội dung & Ảnh hưởng

II – Giáo Dục Giải Phóng Con Người : Nội dung & Ảnh hưởng

                                                                       Đoàn Thanh Liêm

Trước khi đề cập đến nội dung của chủ trương “Giáo dục Giải phóng Con người” của Paulo Freire, người viết xin được kể sơ lược về cái duyên hạnh ngộ với nhà tư tưởng nổi danh này, xuất thân từ xứ Brazil là quốc gia đông dân nhất của Châu Mỹ La Tinh. Đó là vào cuối năm 1970, trong dịp tham dự một hội nghị quốc tế tại Paris, nhằm thành lập Institut Oecuménique au service du Développement des Peuples ( INODEP = Viện Đại kết Phát triển các Dân tộc), tôi đã được gặp đích thân Paulo Freire là một thuyết trình viên chính của Hội nghị, mà ông cũng còn được bàu là vị chủ tịch của INODEP nữa. Người tầm thước với bộ râu tóc dài đã điểm muối tiêu của người đã bước vào tuổi ngũ tuần, Paulo Freire có lối nói thật say mê sôi nổi, lôi cuốn như là một thi sĩ, mà lại diễn giải quan điểm lý luận của mình với niềm xác tín sâu sắc của một triết gia. Cử tọa gồm nhiều nhân vật đại diện từ khắp năm châu đều chăm chú theo dõi bài nói chuyện quan trọng, mà đày nhiệt tình của ông. Rồi qua năm 1972, lúc tôi đến Geneva để trao đổi gặp gỡ với một số vị tại văn phòng trung ương của Hội Đồng Tôn Giáo Thế Giới (WCC World Council of Churches), thì tôi cũng gặp lại Paulo Freire đang phụ trách về vấn đề giáo dục của tổ chức này.

Mùa hè năm 1971, vào dịp đến tham dự một cuộc hội thảo khác nữa tại Mindanao Philippines, thì tôi thấy sinh viên ở đây chuyền tay bán cho nhau cuốn sách “The Pedagogy of the Oppressed”, ấn bản địa phương đơn giản, chỉ có ruột sách, chứ không có bìa riêng theo kiểu tự làm lấy, cho nên giá rất rẻ, có 2 US$ một cuốn thôi. Và dĩ nhiên là tôi cũng đã mua vài cuốn để đem về cho các bạn ở Việt nam. Chuyện nhỏ này lại càng khiến tôi chăm chú theo dõi tư tưởng và đường lối giáo dục của Paulo Freire suốt từ hồi năm 1970 cho đến nay.

A – Nét chính yếu của tư tưởng và hành động của Paulo Freire.

Có thể nói Paulo Freire luôn nhất quán về cả phần lý thuyết, cũng như thực hành trong đường lối Giáo dục, nhằm giúp khối quần chúng bị áp bức tìm ra cho mình một phương cách cụ thể, hữu hiệu để tự giải thóat khỏi thân phận của người bị áp bức, bị tha hóa do các điều kiện khách quan của môi trường xã hội, cũng như chủ quan nội tại của bản thân mình. Quan điểm của ông có tính chất triệt để, dứt khóat là : Xã hội đương thời ở châu Mỹ La tinh, cũng như ở nhiều nơi khác đều do bao nhiêu bất công, áp bức bóc lột tạo ra nỗi lầm than cơ cực triền miên cho đa số quần chúng nhân dân. Và không khi nào mà giới thống trị lại chịu tự nguyện đứng ra chủ động việc cải thiện các định chế xã hội vốn bảo vệ các đặc quyền đăc lợi cho riêng họ.

Như vậy, chỉ khi nào chính cái đại khối quần chúng là nạn nhân của sự áp bức thống trị tệ hại đó, mà nhất quyết dấn thân vào công cuộc giải phóng kiên trì để tự cứu thóat lấy mình, thì xã hội mới có cơ may được xây dựng tốt đẹp, và con người mới phục hồi được nhân phẩm cao quý cho từng cá nhân được. Nói khác đi, chỉ khi nào chính quần chúng nhân dân mà được thức tỉnh giác ngộ về vai trò làm chủ nhân đích thực của xã hội, và cùng đồng lòng lăn xả vào cuộc tranh đấu giải phóng đó, thì họ mới có được một tương lai tươi sáng viên mãn, như từng mơ ước từ bao nhiêu thế hệ xưa nay.

Với niềm xác tín như thế, Paulo Freire đã nhập cuộc với xã hội quê hương mình, bằng cách phát triển phương thức giáo dục tráng niên, thúc bách cho các học viên cần phải có sự suy nghĩ với thái độ phê phán (critical thinking = conscientization) về hiện trạng xã hội, mà họ là nạn nhân của bao nhiêu áp bức bất công. Và rồi từ đó, chính họ sẽ ra tay hành động, nhằm biến đổi xã hội hủ lậu đó đi (transformative action). Do lối suy nghĩ và hành động cụ thể, cấp tiến như vây, mà ông đã bị phe quân nhân cầm quyền ở Brazil bắt giữ, rồi trục xuất đi ra khỏi nước vào năm 1964.

Trong thời gian sống lưu vong, ông có dịp đúc kết các suy nghĩ và hoạt động của mình, để rồi trình bày trong 2 cuốn sách xuất bản hồi cuối thập niên 1960, và được nhiều người đánh giá rất cao. Đó là cuốn sách đầu tiên có nhan đề  “ Education, the Practice of Freedom”, và đặc biệt là cuốn “The Pedagogy of the Oppressed”. Ta sẽ phân tích chi tiết rành mạch hơn về tác phẩm quan trọng này trong một đoạn sau. Và ông đã kiên trì tiếp tục tìm kiếm trong suốt cuộc đời còn lại, nhất là kể từ ngày được trở về lại quê hương vào năm 1980, để khai triển cho thêm phong phú hơn nữa cái chủ trương giáo dục có tính cách khai phóng và nhân bản cao độ này.

Tác giả Henry A Giroux nhận định về Freire rằng : “ Thực ra, ông là người đã kết hợp được điều mà tôi gọi là cả hai thứ ngôn ngữ phê phán với thứ ngôn ngữ khả thể” (In effect, Freire has combined what I call the language of critique with the language of possibility).

B – Giới thiệu tác phẩm “ Giáo dục của Người bị Áp bức”. 

Trong cuốn sách 160 trang ngắn gọn, xúc tích với chỉ có 4 chương này, Paulo đã phân tích khá rành mạch, dứt khoát về chủ trương kiên quyết không thỏa hiệp với nền thống trị đàn áp, vẫn ngự trị lâu đời trong xã hội đương thời, đặc biệt là tại châu Mỹ La tinh là quê hương bản quán của ông. Và sau khi cuốn sách ấn bản tiếng Anh ra đời vào năm 1970, tác giả lại còn có nhiều dịp trao đổi với các thức giả khắp thế giới, và từ đó ông đã hoàn chỉnh hơn quan điểm và lý luận của mình, như được trình bày trong nhiều cuốn sách và bài báo xuất bản vào thập niên 1980-1990 nữa. Ta có thể tóm gọn tư tưởng của ông trong mấy khía cạnh chính yếu sau đây :

1 / Giáo dục đại chúng cốt yếu là một cuộc đối thoại giữa” người dậy” và “người đi học” ( a dialogue between the educator and the learner), trong đó phải có sự tương kính lẫn nhau giữa hai phía (mutual respect). Paulo Freire đặc biệt phê phán cái lối dậy học “nhồi nhét”, mà ông gọi là “banking concept”, tức là chỉ có người dậy chủ động chuyển mớ kiến thức vào đầu óc của học viên, y hệt như việc ký gửi các số tiền vào nơi chương mục tại ngân hàng (making deposits). Như vậy, thì người học viên hoàn toàn đóng vai trò “thụ động” của một đối tượng, chứ không hề được khuyến khích để chủ động phát huy óc sáng tạo và sự suy nghĩ có tính cách phê phán (critical thinking), để mà có thể tự mình khám phá ra hoàn cảnh bị áp bức của mình và rồi đưa đến một hành động thích đáng.

Thay vào đó, tác giả đề ra cái khái niệm “Giáo dục đặt vấn đề” (problem-posing concept of Education), trong đó cả hai phía người dậy và người học đều cùng hợp tác với nhau trong một quá trình hỗ tương (a mutual process), nhằm cùng nhau khám phá thế giới, và chung với nhau cố gắng vươn tới một mức độ nhân bản viên mãn hơn (their attempt to be more fully human).

2 / Cuộc đối thoại này không phải chỉ nhằm đào sâu sự hiểu biết, mà còn là một phần làm thay đổi nơi thế giới. Tự bản thân, sự đối thoại là một loại hoạt động có tính hợp tác bao gồm sự tôn kính (a co-operative activity involving respect). Quá trình này quan trọng, vì nó giúp tăng thêm sức mạnh cho cộng đồng và đồng thời lại xây dựng nên nguồn vốn xã hội  (enhancing community and building social capital), mà lại đưa dẫn chúng ta đến hành động cho công lý và phát triển nở rộ về phương diện nhân bản (human flourishing) nữa.

Cơ sở cụ thể cho hệ thống giáo dục căn cứ vào sự đối thoại này chính là nơi các“câu lạc bộ văn hóa” (culture circle), trong đó các học viên và người phối trí hợp cùng nhau bàn thảo về những” chủ đề khởi sinh” (generative themes), mà có ý nghĩa trong bối cảnh cuộc sống thực tiễn của người học viên. Các chủ đề này liên hệ tới thiên nhiên, văn hóa, công việc làm và các tương quan xã hội, thì đều được khám phá ra qua sự tìm kiếm chung nhau giữa nhà giáo dục với học viên. Rồi các chủ đề đó được sử dụng làm căn bản cho cuộc đối thoại trong phạm vi sinh họat nội bộ của câu lạc bộ. Từ đó, mà dần dần diễn ra quá trình cấu tạo được ý thức phê phán (critical consciousness) nơi các học viên tham gia, với tư cách là chủ thể của xã hội, mà chính họ đang cùng nhau ra sức xây dựng với quyết tâm của cả tập thể của mình.

 3 / Tính chất độc đáo trong tư tưởng của Paulo Freire chính là việc ông đã khôn khéo tổng hợp đến độ nhuần nhuyễn được kinh nghiệm của những nhà tư tưởng tiền bối, và đem áp dụng vào đường lối giáo dục của ông. Điển hình là phép biện chứng của triết gia Hegel giữa “ông chủ và đày tớ”, thì đã được Freire áp dụng trong lối “giải thóat khỏi các hình thức độc đóan trong giáo dục”(liberation from authoritarian forms of education). Chủ thuyết hiện sinh của Jean Paul Sartre và của Martin Buber, triết gia Do Thái đã giúp Freire đưa ra khái niệm về “ sự tự biến đổi của người bị áp bức để tiến vào trong lãnh vực của tình trạng liên chủ thể tiến bộ” (the self-transformation of the oppressed into a space of radical intersubjectivity). Kể cả thuyết duy vật lịch sử của Karl Marx cũng ảnh hưởng tới quan niệm của Freire về lịch sử tính của các mối quan hệ xã hội (historicity of social relations).

Và chủ trương “Thần học giải phóng” cũng ảnh hưởng rõ rệt đến quan điểm của Freire, khi ông cho là “Tình yêu thương là điều kiện thiết yếu cho một nền giáo dục đích thực”. Rồi quan điểm cách mạng chống đế quốc của Ernest Che Guevara và Frantz Fanon, tác giả cuốn sách nổi tiếng “Les Damnés de la Terre”, cũng ảnh hưởng đến sự phân tích của Freire về tình trạng trầm đọng (sedimentation) của tư tưởng của giới áp bức thống trị, mà vẫn còn hằn sâu nơi não trạng của chính bản thân lớp người nạn nhân bị áp bức. Và rồi từ đó, ông đã dấn thân hết mình vào công cuộc tranh đấu chống lại chế độ thực dân đế quốc ở khắp mọi nơi.

C – Ảnh hưởng của tư tưởng Paulo Freire trên thế giới.

Có thể nói Paulo Freire là mẫu “con người tri hành hợp nhất” theo lối nói của Vương Dương Minh là nhà tư tưởng nổi danh của Trung quốc ngày xưa. Ông không chỉ đơn thuần là một lý thuyết gia, mà còn là một con người dấn thân hoạt động hết mình cho lý tưởng giải phóng con người. Chủ trương Giáo dục của ông tuy rất cương quyết dứt khoát, triệt để tiến bộ, nhưng đày tính nhân bản ôn hòa, khác hẳn với khuynh hướng quá khích, bạo hành của lớp người cộng sản Marxist tại châu Mỹ La tinh, cụ thể như Che Guevara, Fidel Castro. Vì thế mà đại bộ phận quần chúng nhân dân tại khu vực quê hương ông, vốn theo Thiên chúa giáo, thì đã tiếp nhận tư tưởng của Freire một cách nồng nhiệt, phấn khởi.

Tại Phi châu cũng vậy, trong nhiều dịp đến làm việc tại châu lục này, nhất là tại mấy nước trước đây cũng là thuộc địa của Bồ Đào Nha, như Angola, Mozambique, Guinea Bissau, Paulo Freire đã được đón tiếp một cách rất thân tình trân trọng, bởi lẽ ông cùng chia sẻ cái thân phận của người dân đã từng phải sống dưới sự thống trị hà khắc của các chánh quyền thực dân đế quốc trước kia, cũng như của các chế độ độc tài bản xứ trong giai đoạn độc lập tự chủ hiện nay.

Tại Á châu, ông cũng được đón tiếp tại nhiều nơi như Ấn độ, Papua New Guinea, và có nhiều dịp trao đổi với các giới chức hoạt động trong lãnh vực giáo dục, cũng như hoạt động cộng đồng.

Đã có nhiều quốc gia thiết lập các Viện Nghiên cứu Paulo Freire (Paulo Freire Institute = PFI) nhằm cổ võ và quảng bá tư tưởng của ông về lãnh vực cải cách giáo dục tráng niên, cũng như thúc đảy công cuộc tranh đấu cho công bằng xã hội trên phạm vi toàn cầu. Điển hình như PFI tại Nam Phi, tại Tây Ban Nha, tại Phần Lan, tại đảo quốc Malta, và dĩ nhiên tại Brazil là quê hương của ông.

Riêng tại Mỹ, thì có FPI đặt tại đại học UCLA ở thành phố Los Angeles California. Viện nghiên cứu này được thiết lập năm 2002 và rất hoạt động với việc xây dựng những mạng lưới liên kết giới học giả, nhà giáo,  nhà họat động xã hội, nghệ sĩ và các thành viên của cộng đồng. Thông qua các cuộc gặp gỡ trao đổi thường xuyên, tất cả các thành viên và các thân hữu của Viện FPI đều dồn nỗ lực vào việc xây dựng công bằng xã hội, và sử dụng giáo dục như là một phương tiện để tạo sức mạnh cho khối quần chúng bị áp bức, bị khuất phục tại khắp nơi trên trái đất.

Ngòai ra, cũng còn phải kể đến các Diễn Đàn Paulo Freire ( bi-annual PF Forums) được tổ chức mỗi năm 2 lần, nhằm mở rộng và nâng cao sự nghiên cứu và trao đổi kinh nghiệm của những thức giả vốn theo đuổi đường lối giáo dục tiến bộ do Paulo Freire đã dày công khai phá từ trên nửa thế kỷ nay.

D – Thay lời kết luận.

Có thể nói Paulo Freire là một con người tòan diện, vừa có trình độ suy tư lý luận rất thâm hậu, mà cũng vừa là con người dấn thân họat động suốt đời, không bao giờ mệt mỏi. Ông được quần chúng mến phục, không những do các tác phẩm sâu sắc về triết lý giáo dục, về phương pháp vận động khích lệ cho tầng lớp người bị áp bức bóc lột, mà còn vì cái nhân cách sáng ngời, cái tinh thần khiêm cung hòa ái, và nhất là vì tấm lòng tha thiết yêu mến tột cùng đối với nhân quần xã hội nữa.

Quả thật, Paulo Freire là một tiêu biểu rất xứng đáng, là niềm tự hào cho tầng lớp sĩ phu trí thức của xứ Brazil, cũng như của tòan thể châu Mỹ La tinh vậy./

California, Tiết Trung Thu Canh Dần 2010

Ai sẽ chịu trách nhiệm trên đất nước này?

Ai sẽ chịu trách nhiệm trên đất nước này?

 Trách nhiệm luôn đi cùng danh dự và sự tồn vong của tổ quốc. Chúng ta sẽ mất cả, nếu không ai có đủ danh dự để chịu trách nhiệm trên đất nước mình, khởi đầu từ những điều nhỏ nhất.

____

Tuấn Khanh

30-3-2016

H1

Cuộc tranh cãi gay gắt giữa hai phe phụ huynh vẫn không ngớt về nạn bắt cóc trẻ em, hiện râm ran trong từng gia đình.Người ta kể về những chuyện giành giật lại con cháu mình từ bọn bắt cóc ở ngã tư, có người may mắn, có người thì chỉ còn khóc hận.

Cuộc tranh cãi dữ dội hơn, ngay sau khi có lời tuyên bố của trung tá Nguyễn Quang Thắng, phó phòng tham mưu Công an TPHCM rằng không thể có nạn bắt cóc tràn lan trên đường phố.

Theo ông Quang Thắng thì cơ quan công an điều tra chỉ tiếp nhận duy nhất một vụ như vậy mà thôi.

Thật đáng phân vân, một bên là lời đoán chắc của hệ thống công quyền, còn một bên là an nguy của chính mình.

Báo Phụ nữ Việt Nam thì khẳng định rằng nhiều trường đã ra thông báo cho phụ huynh về tình trạng này, mà nhiều nơi đang xảy ra như ở trường Đặng Thuỳ Trâm (quận 7, TPHCM), trường mầm non Anh Tú (quận Tân Bình), trường Phan Như Thạch (phường 9, Lâm Đồng)…

Thật bất ngờ khi trong những lời cảnh báo về nạn bắt cóc trẻ em, có cả thông báo chính thức của Bộ Giáo dục vào ngày 13/1. Vụ trưởng vụ Công tác học sinh sinh viên Ngũ Duy Anh đã kêu gọi các trường học phải đề cao cảnh giác, tăng cường đảm bảo an ninh cho các em.

Trên truyền hình, các bài học võ thuật cơ bản nhằm chống cướp con trên tay cũng xuất hiện.

Vậy thì ai đúng, ai sai? Trong một xã hội mà mỗi ngày càng có nhiều biến động, người ta không thể răn đe việc tán phát tin đồn trong sự bất an của dân chúng, mà phải có những phương pháp giải quyết khủng hoảng hợp lý và tích cực của chính quyền.

Việc trống đánh xuôi, kèn thổi ngược chỉ làm mọi thứ thêm rối rắm, và cuối cùng chỉ có người dân là nạn nhân.

Xã hội Việt Nam nhận được rất nhiều các phát ngôn của các quan chức và chính quyền địa phương. Nhưng có vẻ như ít khi nào tìm thấy được ai thật sự là người chịu trách nhiệm trước mắt người dân, hoặc chịu trách nhiệm của bản thân mình.

Ngược lại, đôi khi người có trách nhiệm thường thoái thác rằng “bận họp” hoặc cúp máy đột ngột khi trả lời phỏng vấn. Dường như có ai đó phải chịu trách nhiệm, phải hành động trên đất nước này là điều mơ hồ, xa xôi.

Nhà báo Đỗ Doãn Hoàng tại Hà Nội, bị một nhóm người lạ mặt tấn công dã man bằng gậy vào ngày 23/3 ngang nhiên như trong phim xã hội đen.

Vụ tấn công diễn ra giữa ban ngày, như một nỗi nhục của nền báo chí quốc gia mà cho đến khi kết thúc không hề có bóng dáng công an viên nào xuất hiện. Sau khi đi cấp cứu, nhà báo Đỗ Doãn Hoàng phải tự mình ra công an của khu vực đó để trình báo.

Lúc này, có rất nhiều nhà báo, rất nhiều sinh viên truyền thông dõi theo sự kiện này với nỗi phập phồng về tương lai và nghề nghiệp của mình, nhưng có vẻ vụ án như “bế tắc”. Và không ai phải chịu trách nhiệm về việc mất an ninh kỳ quặc như vậy ngay giữa thủ đô Hà Nội.

Trong sự kiện nữ học sinh Lê Thị Hà Vi, 15 tuổi ở Cư Kuin, Dăk Lăk bị bệnh viện địa phương chẩn đoán sai khiến phải cưa chân, ai cũng bất ngờ khi bà Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đến động viên và nói “bác hứa sẽ giúp cho con thi đậu vào ngành y”.

Sự kiện tắc trách của ngành y tế khiến ai cũng đau lòng, khiến một nữ sinh phải tàn tật suốt đời, nhưng để “đền” cho chuyện đó, mà một nữ sinh có nguyện vọng học ngành công an, đột nhiên được động viên chỉ cần học một năm là sẽ được giúp đậu ngành y, khiến ai cũng ngạc nhiên.

Nguyên gốc câu nói đó có thể trở thành vấn đề của pháp luật. Thi cử và học vấn là vấn đề thiết yếu của quốc gia, không thể tuỳ tiện như vậy. Ở vị trí là một người có học và có trách nhiệm, bà Tiến không thể tuỳ tiện. Việc “hứa giúp” của bà Tiến có thể đặt vào thế bị Bộ Giáo dục Việt Nam khởi kiện.

Nhưng tiếc thay, có vẻ như Bộ Giáo dục Việt Nam cũng không có ai thấy mình có trách nhiệm để cần phải lên tiếng.

Trách nhiệm cá nhân là một phần quan trọng của đất nước, trong giai đoạn mà mọi thứ đang có vẻ dần vào rối ren bởi quá nhiều hư hỏng, quá nhiều tai ương… hiện ra, cho thấy đó là những quyết định sai lầm, vội vã hay tư lợi của những cá nhân, những nhóm người nhưng hôm nay thì thật khó tìm ra người chịu trách nhiệm.

Chỉ còn lại nhân dân là người phải gánh vác những hậu quả, từ nợ công cho đến sự sụp đổ một cây cầu, một con đường hay một hàng cây xanh.

Từ chuyện một đứa trẻ bị bắt cóc, cho đến chuyện của Bộ Y tế, Bộ Giáo dục… rồi đến việc đánh đập nhà báo để bịt miệng công luận… mọi thứ cứ đi dần vào cõi u u mê mê của đời sống, vào tiếng thở dài của những người ngồi trên vỉa hè nhìn về tương lai đất nước với cảm giác rằng mọi thứ đang bị bỏ trôi, không có ai thật sự chịu trách nhiệm trên đất nước này.

Trách nhiệm luôn đi cùng danh dự và sự tồn vong của tổ quốc. Chúng ta sẽ mất cả, nếu không ai có đủ danh dự để chịu trách nhiệm trên đất nước mình, khởi đầu từ những điều nhỏ nhất.

LÀM NGƯỜI TỬ TẾ, SAO KHÓ THẾ ?

LÀM NGƯỜI TỬ TẾ, SAO KHÓ THẾ ?

Xin cái sổ tạm trú (sổ xanh) để con cái đi học, bị hành hạ kéo dài, với muôn trùng lý do điều kiện. Cuối cùng cũng phải lót tay, thế là mất một cơ hội làm người tử tế.

Nhất quyết không chạy trường cho con, không đạp cổng trường, không trèo hàng rào vì như vậy sao có thể dạy con làm người tử tế.

Ra đường phải ráng căng mắt vừa nhìn xe vừa nhìn cảnh sát giao thông, để tránh những ổ mai phục. Nếu không sẽ bị thổi, mà thổi phải hối lộ, nếu không muốn nếm cảnh nhiêu khê khi đi nộp phạt. Mà đưa hối lộ thành ra là người không tử tế.

Cả nhà phải đừng ốm, mà có ốm thì cũng ráng mua thuốc về trị, chứ ốm mà vào bệnh viện là phải lót tay mới mong có chổ nằm đàng hoàng, có người quan tâm. Không thì nằm giường đôi, nằm hành lang, nằm đất, đau kêu cũng mặc. Mà lót tay thì không được tử tế cho lắm.

Muốn xin một chân giáo viên để dạy cho học trò tử tế, hay muốn một chổ đứng quèn trong nhà nước để cống hiến sức mình thì cũng cố mà gửi gắm bôi trơn, thế thì sau này sao làm việc tử tế.

Có việc đến cửa quan thì phải ráng mà kiên nhẫn, chờ đợi, nay thiếu này mai thiếu kia cũng phải cố mà chịu đựng để được việc, nếu không thì phải này kia. Vậy là tiếp tay cho tiêu cực, là không tử tế.

Làm doanh nghiệp thì phải ráng mà chịu các trò sách nhiễu từ cơ quan thuế, gấp gáp đăng ký in hoặc mua cuốn hoá đơn để xuất cho tử tế, hay làm thủ tục xin hoàn thuế thì coi như tự biến ta thành mồi ngon. Đủ trò để diển, đến khi kiểm tra xong cái phong bì thì xem như hạ màng. Mà làm vậy thì làm sao tử tế…

Nghĩ cũng lạ, làm người tử tế sao khó thế ?. Thôi thì chắc phải đợi đến khi nào về hưu, lúc đó tự trồng rau, tự nuôi gà, hằng ngày chỉ biết ruộng vườn nương rẫy không còn liên can gì đến xã hội, có như vậy mới mong làm được người tử tế.

(Lời chia sẻ của thằng bạn không tử tế)

Ảnh của Nguyễn Phương Đông.

Paulo Freire và chủ trương “Giáo Dục Giải phóng Con người”

Paulo Freire và chủ trương “Giáo Dục Giải phóng Con người”

( Paulo Freire : 1921 – 1997)

Đoàn Thanh Liêm

* * *

Paulo Freire sinh năm 1921 tại Brazil. Ông học Luật và Triết học, nhưng lại dấn thân vào công cuộc giáo dục đặc biệt cho giới tráng niên, nhằm gây ý thức cho đại chúng phải mạnh dạn tự giải thoát mình ra khỏi tình trạng áp bức nặng nề, tàn bạo của xã hội đương thời. Vì có tư tưởng và hành động cấp tiến như vậy, nên ông bị giới quân nhân cầm quyền bắt buộc phải sống lưu vong ở nước ngoài, từ năm 1964, mãi cho đến năm 1980, ông mới có thể trở về quê hương mình được.

Tại nước Chi lê, ông đã làm việc cho tổ chức văn hóa Unesco của Liên Hiệp Quốc, và Viện Cải cách Ruộng đất của chánh phủ Chi lê. Ông còn được mời tới làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu về Phát triển và Biến đổi xã hôi thuộc đại học Harvard ở Mỹ (Center for Studies in Development and Social Change). Rồi sau này làm giám đốc chương trình giáo dục của Hội đồng Tôn giáo Thế giới (World Council of Churches) tại Geneva, Thụy sĩ.Năm 1970, ấn bản tiếng Anh “The Pedagogy of the Oppressed” (Giáo dục của Người bị Áp bức) của Paulo Freire đã gây một tiếng

vang lớn trong giới giáo dục và hoạt động xã hôi khắp thế giới. Sau trên 40 năm, thì đã có hàng triệu cuốn được phổ biến rộng rãi qua nhiều lần tái bản, và hàng mấy chục bản dịch ra các thứ tiếng khác nữa. Ông là người đã cổ võ cho ý niệm “ Conscientizacao’ nguyên văn tiếng Bồ đào nha, mà bây giờ đã trở thành thông dụng khắp thế giới với tiếng Anh là “Conscientisation” (= Consciousness Raising, Critical Conciousness). Ta có thể diễn tả ý niệm này là : Sự thức tỉnh Ý thức và Suy nghĩ có tính cách phê phán. Quả thật, chủ trương giáo dục có tính chất cách mạng triệt để của ông đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các phong trào giáo dục và xã hội cùng khắp thế giới. Và tư tưởng triết học của ông cũng ảnh hưởng đến nhiều ngành học thuật như thần học, xã hội học, nhân chủng  học, sư phạm, ngữ học thực hành và nghiên cứu văn hóa (applied

linguistics & cultural studies). Có thể nói : Paulo Freire là một nhà tư tưởng có ảnh hưởng nhất về bộ môn giáo dục vào cuối thế kỷ XX ( the most influential thinker  about education).

Bài viết này nhằm giới thiệu tư tưởng độc đáo và dứt khoát của  ông. Đồng thời cũng lược qua về ảnh hưởng của tư tưởng này  trong thế giới hiện đại, đặc biệt là tại các quốc gia vốn xưa kia là

thuộc địa của thực dân Tây phương ở Châu Mỹ La tinh, Châu Phi và Châu Á. Để bạn đọc có thể dễ dàng theo dõi quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của Paulo Freire, là một nhân vật tiêu biểu của trào lưu thức tỉnh và vận động xã hội tại Châu Mỹ La tinh là quê hương của ông, người viết xin được dàn trải việc trình bày  trong 2 bài như sau :

Bài 1 / – Bối cảnh văn hóa xã hội của Châu Mỹ La tinh vào cuối thế kỷ XX.

Bài 2 / – Cốt lõi chủ trương “Giáo dục giải phóng” & Ảnh hưởng trong thế giới hiện đại.

I – Bối cảnh văn hóa xã hội của Châu Mỹ La tinh (bài 1).

Châu Mỹ La tinh (Latin America) là khu vực nằm ở phía nam của  nước Mỹ, mà xưa kia hầu hết đều là các lãnh thổ nằm dưới sự cai  trị của hai nước Tây ban nha và Bồ đào nha. Hiện nay khu vực này có chừng 30 nước với tổng số dân là trên 560 triệu. Chỉ có Brazil với dân số trên 190 triệu là nói tiếng Bồ đào nha. Còn lại, thì tất cả đều nói tiếng Tây ban nha. Trừ một số rất nhỏ xưa kia là thuộc địa của Pháp, Anh, Hòa lan, thì vẫn còn nói tiếng như tại “mẫu quốc”

cũ của họ.Có tới 70% dân chúng trong khu vực theo đạo Thiên chúa giáo La mã (Roman Catholic). Và chừng 15% theo đạo Tin lành.

A – Tình trạng bất ổn trong thời kỳ chiến tranh lạnh.

 Kể từ thập niên 1960 trở đi, khu vực này đã trải qua nhiều biến động về chính trị kinh tế, cũng như về mặt văn hóa xã hội thật sôi  động, nhiều khi đưa đến những tranh chấp tàn bạo đẫm máu, do các chế độ độc tài thiên hữu, quân phiệt hay thiên tả gây ra. Nhiều cuộc đảo chính đã liên tục xảy ra, khiến cho xã hội luôn bất ổn định, và chế độ độc tài quân phiệt dễ có cơ hội được củng cố, và người dân bị dồn vào thế bị động, không thể hợp nhau góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển quốc gia được. Lại nữa, vào giữa thời chiến tranh lạnh, nên phía Liên Xô đã tìm

nhiều cách để gây ảnh hưởng của chủ thuyết cộng sản tại đây; điển hình là tại Cuba từ khi Fidel lên nắm chánh quyền năm 1959 và đã ngả hẳn về phía Liên Xô. Chúng ta hẳn đều còn nhớ việc Liên Xô  cho đem thiết trí lọai hỏa tiễn tại Cuba nhằm hướng vào nước Mỹ, khiến xúyt gây nên cảnh chiến tranh giữa hai siêu cường Nga-Mỹ vào năm 1962, trước sự đối đầu nẩy lửa của hai lãnh tụ Khruschev và Kennedy.Mà phía Mỹ, thì cũng tìm mọi cách can thiệp nhiều khi rất nặng

tay tàn bạo, để bảo vệ toàn thể khu vực được gọi là“cái sân sau” (backyard) của riêng nước Mỹ; điển hình như có bàn tay của CIA trong việc lật đổ chế độ thiên tả của Tổng thống Salvador Allende tại Chi lê năm 1973. Rồi sau này vào thập niên 1980, thì phe Sandinista khuynh tả đã lên nắm được chánh quyền ở Nicaragua, với sự trợ giúp đắc lực của Cuba cộng sản cũng như của Liên Xô. Và chánh quyền Mỹ dười thời Tổng thống Reagan đã ra tay can thiệp mạnh bạo, để giúp phe đối lập Contras lập lại thế cờ tại đây. Đại khái đó là vài nét đại cương về ảnh hưởng của chiến tranh lạnh tại khu vực Châu Mỹ La tinh, từ hồi thập niên 1960 cho đến khi khối Liên Xô bị tan rã kể từ 1990.

B – Sự nhập cuộc của Giáo hội Công giáo La mã.

Về phía Thiên chúa giáo, thì do ảnh hưởng của tinh thần đổi mới của Công đồng Vatican 2, trong giới tu sĩ và giáo dân tại khu vực đã có sự chuyển biến rất mạnh mẽ trong sự nhận thức, cũng như trong hành động của Giáo hội công giáo. Điển hình như trường hợp của Tổng giám mục Helder Camara của Brazil; ông là người rất năng động trong việc phục vụ và tranh đấu cho khối đa số nghèo túng, đến nỗi bị chụp mủ là “vị giám mục đỏ” (the red bishop). Ông nói chua chát như sau : “Khi tôi cho người nghèo ăn,  thì người ta gọi tôi là một ông thánh. Khi tôi hỏi tại sao người nghèo lại không có thực phẩm, thì người ta gọi tôi là một người cộng sản!” Giám mục Camara và cầu thủ Pele’ là hai người xứ Brazil mà được biết đến nhiều nhất trên thế giới.

Lại có trường hợp vị Giám mục cấp tiến Oscar Romero ở nước El Salvador, ông còn bị chánh quyền cho dùng tay chân ám sát, ngay giữa lúc ông đang cử hành thánh lễ an táng cho bà mẹ của một người bạn vào năm 1980. Và đã có đến 250,000 người đến tham dự lễ an táng của vị mục tử kiên cường này, mà họ coi như là một vị thánh tử đạo (Martyr).Cũng tại El Salvador, vào cuối năm 1980 đã xảy ra việc sát hại 4 nữ tu người Mỹ, do bàn tay của nhân viên công lực nhà nước. Sự kiện này đã gây sự phẫn nộ tột cùng của báo chí và công luận nước Mỹ, đến độ tạo thành áp lực buộc chánh phủ Mỹ phải có biện pháp răn đe mạnh mẽ đối với chánh quyền tàn bạo của El Salvador. Cũng phải kể thêm về trường hợp của vị linh mục Camilo Torres ở nước Colombia, ông là một tu sĩ cấp tiến, được đào tạo tại đại học  công giáo nổi tiếng Louvain bên nước Belgium ở Âu châu. Vì áp lực nặng nề từ phía chánh quyền Colombia, ông phải thóat ly theo

hẳn phe du kích chống chánh phủ, và đã bị hạ sát vào năm 1966 trong một cuộc đụng độ với quân đội. Tên tuổi của Camilo Torres, cũng như của Che Guerava bị hạ sát năm 1967 tại Bolivia, thì đã trở thành một huyền thoại lôi cuốn giới trẻ trong toàn thể khu vực Châu Mỹ La tinh từ trên 40 năm nay.

Nhân tiện, cũng cần phải ghi lại cái thủ đọan cực kỳ độc ác là “làm mất tích” (disappearance), bằng cách thủ tiêu những người chống  đối, mà cơ quan an ninh tại nhiều nước trong khu vực sử dụng, để  đàn áp phong trào tranh đấu cho dân chủ tự do tại các nước này.

Điển hình là tổ chức Các Bà Mẹ có con bị mất tích ở Argentina, đã liên tục trong nhiều năm tháng đến tụ hợp với nhau tại một quảng trường Plaza de Mayo trong thành phố thủ đô, để đòi hỏi chánh quyền phải cho công bố về các vụ mất tích này. Các tổ chức tranh đấu bảo vệ nhân quyền quốc tế như Hội Ân xá Quốc tế (Amnesty International) cũng đã thâu thập được khá nhiều chứng từ về các trường hợp “ người bị mất tích” (disappeared persons) tại nhiều  quốc gia trong vùng, mà có nơi con số này lên tới nhiều ngàn người. Rõ ràng chế độ độc tài nào dù theo phe tả như cộng sản, hay theo phe hữu như chế độ quân phiệt, thì cũng đều tàn bạo độc ác

như thế cả.

C – Nền Thần học Giải phóng.

Châu Mỹ La tinh này lại còn là nơi phát sinh một trào lưu tư tưởng đặc biệt sôi nổi sinh động, đó là nền “Thần học giải phóng” ( Liberation Theology). Đó là cả một phong trào của các giáo sĩ và

giáo dân phản ứng không khoan nhượng trước thực trạng xã hội đày rẫy bất công áp bức, bóc lột trong xã hội các quốc gia trong khu vực. Họ lục tìm trong Kinh thánh và trong Giáo huấn chân

truyền của Giáo hội công giáo từ xưa nay, để xây dựng được một  nhận thức đứng đắn, trung thực về vai trò dấn thân nhập cuộc của  Giáo hội trong công trình giải thoát con người và xã hội khỏi các  định chế chính trị xã hội hủ lậu, phản động và vô luân trong xã hội đương thời. Trừ một số nhỏ thiên về phía marxist cộng sản quá khích, còn đa số giáo sĩ và giáo dân đều giữ vững lập trường tranh đấu ôn hòa, bất bạo động của tôn giáo.

Hệ thống tư tưởng tiến bộ này luôn được sự hưởng ứng của quần chúng giáo dân và giới chức sắc của giáo hội, mà tiêu biểu sáng ngời nhất là “Hội Đồng Giám mục Châu Mỹ La tinh (CELAM = the Latin American Episcopal Conference). Dưới sự thôi thúc của những vị lãnh đạo năng nổ, nhiệt tình như Helder Camara, Hội Đồng này đã biểu quyết thông qua chủ trương rất tiến bộ là : “ Giáo hội phải dứt khoát chọn lựa đứng về phía người nghèo” ( The Church’s Option for the Poor).

D – Vai trò của giới trí thức và văn nghệ sĩ.

Trong khi đó, thì giới hàn lâm đại học (Academia), cũng như giới văn nghệ sĩ, đều sôi nổi góp phần vào công cuộc dấn thân phục vụ xã hội, mà điển hình là sự đóng góp thật là vĩ đại của Paulo Freire với chủ trương “Giáo dục Giải phóng Con người” như đã được trình bày rất khúc chiết trong cuốn “Pedagogy of the Oppressed”. Ta sẽ đề cập chi tiết về tư tưởng này trong một bài sau.Cũng cần phải ghi thêm về ảnh hưởng của phong trào trí thức tả phái phát xuất từ Âu châu, đặc biệt là từ thập niên 1950, đối với tư tưởng và hành động của học giới và văn nghệ sĩ tại Châu Mỹ La tinh. Khuynh hướng “Bài Mỹ” (Anti-Americanism) từ Âu châu đã làm tăng thêm sự hậm hực, ân óan vốn có sẵn từ lâu đời đối với sự thống trị và khuynh lóat của chánh sách bá quyền (hegemony) của nước Mỹ đối với tòan thể các quốc gia và lãnh thổ yếu thế, mà lại bị chia rẽ, phân tán ở phía Nam bán cầu (hemisphere). Lâu lâu, người ta vẫn nghe thấy dân chúng tại đây hô thật to cái khẩu hiệu “Yankees, Go Home” (Người Mỹ, Hãy Cút Đi!) mỗi khi có phái

đòan cao cấp của Mỹ đi qua một số thành phố lớn. Điển hình là vụ phản đối rầm rộ, đến độ xô xát bạo hành đối với Phó Tổng thống Nixon của Mỹ trong chuyến viếng thăm Nam Mỹ vào năm 1958. Lại nữa, chánh phủ Mỹ vì luôn bênh vực che chở cho giới tài phiệt Mỹ làm ăn buôn bán khai thác tại các nước trong khu vực, nên đã cho thiết lập và ủng hộ các chánh quyền cực hữu, độc tài mà được đặt tên một cách mỉa mai là “Banana Republics”, vì chuyên làm tay sai cho các đại gia chuyên môn khai thác trồng chuối để xuất cảng về Mỹ, hoặc khai thác các nguồn lợi thiên nhiên khác, để thu về được một số lợi nhuận khổng lồ cho các tập đòan kinh tế có độc

quyền khai thác, mà điển hình là United Fruit.

Trước tình trạng bất ổn căng thẳng như thế, ta không lạ gì với sự chống đối quyết liệt như của những lãnh tụ mới đây như Tổng thống Hugo Chavez của Venezuela đối với nước Mỹ. Và qua đó, chúng ta có thể hiểu rõ thêm về phản ứng dứt khóat và triệt để của giới trí thức như Paulo Freire trong bối cảnh chung của khu vực Châu Mỹ La tinh vậy./

( Bài 2 : Giáo dục Giải phóng : Nội dung và Ảnh hưởng)

Sự tha thứ cao thượng

Sự tha thứ cao thượng
image
Bức ảnh đáng kinh ngạc này đã ghi lại thời khắc cuối cùng trong sự nghiệp thi đấu của đấu sĩ Matador Torero Alvaro Munera.
Giữa “trận đấu” dở dang, anh suy sụp vì hối hận khi nhận ra rằng mình không thể ép buộc con thú hiền lành kia chống trả. Dù phải chịu đựng nhiều vết thương đau đớn, con bò tót – với máu nhỏ giọt trên mõm và thanh kiếm găm trên mạng sườn – vẫn một mực không chịu tấn công đối phương.
Sau trận đấu, đấu sĩ Torero Munera đã trả lời phỏng vấn rằng:
“… Rồi đột nhiên, tôi nhìn con bò tót. Nó có đôi mắt ngây thơ, như mọi con vật, và đang nhìn tôi bằng ánh mắt tha thứ. Một tiếng khóc than cho công lý dường như đang vang vọng sâu thẳm bên trong tôi. Tôi thấy mình như thứ rác rưởi tồi tệ nhất trên trái đất.”
Chị Xuân Lang gởi

 

Trung Cộng xâm lăng kinh tế

Trung Cộng xâm lăng kinh tế
Nguoi-viet.com

Ngô Nhân Dụng

Bộ trưởng Quốc Phòng Trung Cộng lại qua Việt Nam, chuyến đi thứ ba của các quan chức trọng yếu Trung Cộng kể từ ngày Ðại Hội 12 của đảng Cộng Sản kết thúc. Tại sao ông Thường Vạn Toàn (Chang Wanquan,常万全) không chờ đến khi Nguyễn Xuân Phúc lập chính phủ mới đầy đủ mà phải vội vã qua Hà Nội gặp Phùng Quang Thanh, một người sắp mãn nhiệm? Chuyến đi này có thể nhằm theo dõi, kiểm tra coi việc thay đổi guồng máy nhân sự đang diễn ra có đúng kế hoạch như Bắc Kinh đề xướng hay không.

Thường Vạn Toàn qua Hà Nội sau khi hai tàu Hải Giám Trung Cộng tấn công tàu đánh cá Việt Nam ngoài khơi, trong vùng quần đảo Hoàng Sa, cướp hải sản và đánh các ngư phủ. Trong khi đó, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng vẫn hô hào hai bên phải cộng tác chặt chẽ!

Mối đe dọa của Trung Cộng hiển nhiên trên mặt chính trị và quân sự. Cộng Sản Trung Hoa có cần phải đánh chiếm nước ta hay không? Họ thực sự không cần vì có thể đạt được những mục tiêu chiến lược bằng cách khác.

Trong thời đại này sức mạnh các quốc gia phải dựa trên kinh tế. Chúng ta đã chứng kiến một guồng máy quân sự khổng lồ của Liên Xô, có lúc đóng quân trên một nửa Âu Châu, cuối cùng cũng bất lực khi hệ thống kinh tế quốc doanh tê liệt rồi sụp đổ. Cộng Sản Trung Hoa từ 30 năm qua chú trọng đến phát triển kinh tế hơn là quân sự. Trung Cộng có thể ảnh hưởng tới vận mệnh Việt Nam qua con đường kinh tế, dễ dàng và chắc chắn hơn.

Trong năm 2015, thâm thủng mậu dịch cả nước đối với Trung Quốc lên tới hơn 32.3 tỷ đô la Mỹ, nhập 50 tỷ, xuất 17.7 tỷ đô. Số thiếu hụt tăng nhanh so với năm trước, năm 2013 là 23.7 tỷ, năm 2014 là 28.9 tỷ. Ðó chỉ là cán cân mậu dịch chính thức, chưa kể đến những gánh hàng buôn lậu qua một biên giới hầu như không ai kiểm soát vì các quan chức địa phương rất dễ được hối lộ và đã được “bôi trơn” từ lâu.

Ngay cả khi chính quyền Việt Nam khoe xuất cảng qua Mỹ nhiều hơn, thì trong số hàng may dệt mà Việt Nam bán cho Mỹ, 80% đến 90% là vật liệu nhập cảng từ bên Tàu. Nghĩa là chỉ xuất cảng giúp cho Bắc Kinh, gánh vàng Mỹ đi đổ sông Ngô. Một giáo sư ở Hà Nội nói với đài RFA, công nhận: Kinh tế Việt Nam đang lệ thuộc Trung Quốc đến những thứ nhỏ nhặt như cây kim, sợi chỉ. Trong 11 tháng đầu năm 2015, riêng số hàng rau, trái cây Việt Nam nhập cảng từ bên Tàu đã tăng hơn 21%, lên tới 165 triệu Mỹ kim. Ðó chỉ là con số chính thức, con số thật có thể gấp đôi hay gấp ba. Những thứ rau, trái đó có thể trồng được trong nước, nhưng các nhà vườn người Việt đã bị hàng Trung Quốc đè bẹp.

Ðiều nguy hiểm cho đất nước là Cộng Sản Việt Nam vẫn mở cửa cho Trung Quốc tấn công trên những trận địa kinh tế mà người dân Việt bình thường không để ý tới, vì không nhìn thấy trước mắt.

Một món hàng không ai nhìn thấy là điện từ Trung Quốc truyền qua Việt Nam trong những sợi dây. Các tỉnh phía Bắc nước ta đang nhập cảng điện từ Trung Quốc, tới 6% tổng số điện tiêu thụ trên toàn quốc. Coi như một biên giới đã bỏ ngỏ cho điện chảy qua. Nếu nhà cung cấp bên Tàu cúp điện, vì “sự cố kỹ thuật” nào đó, thì hoạt động kinh tế ở mấy tỉnh phía Bắc sẽ ngưng trệ ngay. Có cảnh lệ thuộc ngoại bang nào đáng sợ như thế không?

Mấy năm trước, ông Phùng Ðình Thức, chủ tịch PetroVietnam phải lên tiếng ta thán rằng công ty Ðiện Lực Việt Nam (EVN) không mua điện từ các nhà sản xuất trong nước mà lại đi mua điện Trung Quốc. Khu điện lực phía Bắc mua điện từ Vân Nam, mà giá điện mỗi năm lại tăng.

Trước đây, ký giả Ben Bland đã viết trên nhật báo Financial Times một bài, “Nhu cầu điện sẽ khiến xung đột Bắc Kinh Hà Nội giảm bớt” (Electricity demands could limit Beijing-Hanoi rift). Nói trắng ra là, vì lệ thuộc về điện, Hà Nội sẽ không dám chống lại Bắc Kinh. Sau khi quan sát thị trường điện lực Ben Bland khẳng định: “Bắc Kinh ngày càng điều khiển kinh tế Việt Nam” (Beijing is increasingly driving Vietnam’s economy).

Ben Bland cũng nhận xét Trung Quốc không quan tâm chuyện đầu tư. Trong năm 2010 họ chỉ bỏ vô 365 triệu Mỹ kim, bằng một phần trăm tổng số các quốc gia đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Không cần đầu tư nhiều, vì Trung Quốc có con đường khác để gây ảnh hưởng kinh tế, là đem tiền cho vay. Và họ cho vay dễ dàng hơn ngân hàng các nước khác, đặc biệt trong các công trình xây dựng nhà máy điện.

Ai cũng biết một nước đang bắt đầu phát triển thì nhu cầu điện lực rất lớn. Các quốc gia mới lên đều phải vay tiền ngoại quốc, gọi thầu các công ty ngoại quốc tới xây dựng nhà máy phát điện trong nước mình. Người Việt Nam có thể đi vay các ngân hàng quốc tế, có thể gọi các công ty quốc tế tới đấu thầu trong việc xây cất. Tại sao chính quyền Việt Nam không mở các cuộc “đấu thầu” công khai để các ngân hàng quốc tế cạnh tranh với nhau trong việc đem tiền tới cho vay? Tại sao không mới các công ty quốc tế cạnh tranh đem máy móc, thiết bị tới xây dựng nhà máy điện, sử dụng các chuyên viên và công nhân Việt Nam? Tại sao chính quyền Cộng Sản Việt Nam lại chăm chỉ đi vay các ngân hàng Trung Quốc thay vì vay nước khác?

Ðiện nằm trong một chiến lược kinh tế của Trung Cộng. Họ tấn công ba mặt, tài chánh, kỹ thuật và nhân dụng, mặt nào họ cũng có lợi. Các công ty kỹ thuật Trung Quốc có thể “hiến giá” chấp nhận lấy giá rẻ hơn các công ty quốc tế khác. Vì trình độ kỹ thuật của họ thấp hơn, phẩm chất các máy móc của họ cũng thấp hơn. Và tất nhiên, lương các chuyên viên và nhân công của họ cũng thấp hơn tiêu chuẩn quốc tế! Nhưng khi cho vay, họ cũng đòi được đưa máy móc, phẩm vật và lao động của họ vào Việt Nam.

Sau những vụ vay tiền rồi vỡ nợ kiểu Vinashin, chính quyền Việt Nam rất khó vay tiền trên thị trường thế giới. Nhưng đó không phải là lý do chính. Các ngân hàng quốc doanh Trung Quốc sẵn sàng cho Việt Nam vay với lãi suất thấp hơn trên thị trường quốc tế. Ðổi lại, họ đặt thêm điều kiện khi cho vay để hưởng lợi trong việc khác. Một điều kiện là Cộng Sản Việt Nam phải cho các công ty Trung Quốc trúng thầu cung cấp thiết bị và xây dựng nhà máy.

Các ngân hàng Trung Quốc khi cho vay đã yêu cầu Cộng Sản Việt Nam phải sửa đổi các điều kiện gọi thầu. Phải hạ tiêu chuẩn các máy móc thiết bị xuống một mức thấp hơn, để các nhà thầu Trung Quốc đủ điều kiện tham dự! Và Cộng Sản Việt Nam rất dễ tính trong việc này. Thế là khi xây dựng mỗi nhà máy điện, Trung Cộng sẽ xuất cảng các máy móc, các sản phẩm kỹ thuật thấp kém của họ. Khi so sánh hai nhà máy điện, một ở Na Dương sử dụng các kỹ thuật của Nhật Bản và các nước Tây phương, hai là ở Cao Ngạn dùng kỹ thuật Tàu, thiết bị Tàu, thì các chuyên gia đã thấy hiệu năng ở Cam Ngạn rất thấp so với Na Dương, và đã trục trặc nhiều lần.

Chưa hết, Trung Cộng được dịp xuất cảng nhân lực dư thừa trong nước họ, đem lao động không chuyên môn sang Việt Nam làm việc. Báo Thanh Niên ở Sài Gòn đã có lần nhận thấy tại công trường nhà máy đạm thuộc dự án khí-điện-đạm Cà Mau có những công nhân Trung Quốc sang làm những “công việc thủ công” như “khiêng gạch, bẻ sắt” với tiền công mỗi ngày khoảng 100 nghìn đồng.

Những ngân hàng và công ty kỹ thuật của Âu Châu, Ấn Ðộ hay Hàn Quốc, họ không có chính sách pha lẫn lợi ích kinh tế với mục tiêu chính trị, họ không thể cung cấp những “gói hàng” đủ mặt với giá thấp như vậy, tự nhiên bị gạt bỏ ra ngoài cuộc cạnh tranh! Các công ty Trung Quốc đang làm nhà máy điện khắp nước Việt Nam, từ Kontum, Quảng Ngãi, cho tới Sơn Tây. Trong cuộc gọi thầu làm nhà máy điện ở Cao Ngạn, chỉ có bốn công ty Trung Quốc tham dự; sau cùng công ty HPE của Trung Quốc đã trúng thầu! Công ty Sơn Ðông của Trung Quốc không cần tranh thầu với ai trong dự án nhà máy điện Cẩm Phả 2, vì cả guồng máy chính quyền được lệnh riêng của Nguyễn Tấn Dũng phải cho họ trúng thầu theo thủ tục đặc biệt, “vì lý do nhu cầu cấp bách!” Ông Nguyễn Tấn Dũng có được đồng nào khi ra lệnh như vậy, hay chỉ làm theo “chính sách lớn của đảng và nhà nước,” như ông giải thích về vụ Bô Xít?

Nhưng trong các cuộc trao đổi ba mặt như vậy, thì Việt Nam bị thiệt hại những gì? Thiệt hại trước tiên là phải chấp nhận những sản phẩm kỹ thuật với phẩm chất thấp hơn. Thiệt hại thứ hai là phải chấp nhận cho công nhân nước khác vào làm việc trong nước mình trong lúc nạn thất nghiệp trong nước mình cũng rất cao. Thứ ba, nền kinh tế càng ngày càng lệ thuộc vào Trung Cộng! Lệ thuộc kinh tế rất khó gỡ!

Ðảng Cộng Sản sẵn sàng bán tất cả các thứ để bảo vệ độc quyền cai trị. Ông Thường Vạn Toàn có thể đến Hà Nội để khen ngợi Nguyễn Phú Trọng đã dàn cảnh thay đổi nhân sự thành công. Nhưng cũng để nhắc nhở họ phải trung thành tuyệt đối với Bắc Kinh. Ðể nhắc Trọng nhớ rằng: “Còn Trung Cộng che chở thì Việt Cộng còn tồn tại!” Sau đại hội vừa năm ngoái, Nguyễn Phú Trọng vẫn bảo các đảng viên: “Phải trung thành tuyệt đối với dân, với chế độ, với Ðảng, giữ cho được chế độ này, Ðảng này.” Không nói gì đến việc gìn giữ “Ðất nước này.”

 

 

LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA

LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm Vọng Phục Sinh tới hôm nay, Chúa nhật 2 Phục Sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều lần Đức Kitô Phục Sinh hiện ra.  Từ những lần thấy Đức Kitô Phục Sinh hiện ra ấy, các môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây:

  1. Cảm nghiệm đầu tiên là, Đức Kitô đồng hành với họ trên mọi nẻo đường

LTXot

Đức Kitô Phục Sinh không còn bị giới hạn trong không gian.  Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau.  Người xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người.  Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang chài lưới.  Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng đường dài.  Người xuất hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp.  Sau này, Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo.  Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài.  Không gian khép kín không ngăn được bước Ngài.  Đức Kitô Phục Sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc sống.

Đức Kitô Phục Sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian.  Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya.  Người xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng.  Người xuất hiện trong phòng tiệc ly ngay giữa ban ngày.  Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp tối.  Trong mọi lúc của cuộc đời, Đức Kitô luôn có mặt.  Không có thời gian nào Người không ở bên ta.

Đức Kitô Phục Sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh ngộ cuộc sống nhất định.  Trong vườn, Người xuất hiện như người làm vườn.  Bên những người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ đường đi của đàn cá.  Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một khách hành hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa.  Người xuất hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi.  Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối của Tôma.

  1. Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô Phục Sinh khơi dậy niềm bình an, tin tưởng

Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau cái chết của Thầy, Đức Kitô Phục Sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các ông: “Bình an cho các con.”  Người còn thổi hơi vào các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần.”

Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo.  Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình.  Rồi Thần Linh Chúa bay là là trên mặt nước.  Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn định.

Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình.  Đức Kitô thổi hơi ban Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần.  Sau khi gặp Đức Kitô Phục Sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối được vững niềm tin mến.  Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho các ông.

  1. Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm nghiệm quan trọng nhất, Đức Giêsu Phục Sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa

Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ.  Các môn đệ tuyệt vọng.  Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường.  Không, họ không còn sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì.  Họ như đã chết với Thầy.  Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ thôi.  Đức Kitô là linh hồn của họ.  Linh hồn đã ra đi.  Xác sống sao được.

Khi Đức Kitô Phục Sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại kiếp người, những trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một ý nghĩa.

  1. Cảm nghiệm cuối cùng là, Đức Kitô Phục Sinh sai họ đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh

Đức Giêsu Phục Sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc đời các môn đệ.  Đức Kitô Phục Sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời.  Nên các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó.  Maria lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmau lập tức trở về Giêrusalem bất chấp trời đã tối đen.  Phêrô chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh.  Và sau này, Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng không biết mệt mỏi.

Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con.”

Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh.  Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng.  Vì Đức Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ.  Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng.  Như Thánh Phaolô sau này đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.”

Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên ta.  Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta mới chào đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên.  Từ lúc xế chiều của đời xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.

Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian: Trong nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong chòm xóm.

Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời.  Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú mẹ.  Người ở bên em học sinh đang miệt mài đèn sách.  Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ.  Người ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường.  Người ở bên ngưỡng cuộc đời bế tắc không lối thoát.

Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người.  Hãy khao khát đón chờ Người.  Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người.  Bước chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào.  Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người.

Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống dồi dào.

Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn.  Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Thư ngỏ của công dân gửi công an Quận 3 Sài Gòn

Thư ngỏ của công dân gửi công an Quận 3 Sài Gòn

Ngô Thị Hồng Lâm

Trong gần một thế kỷ qua, cộng sản đã rất thành công trong việc “gây sợ hãi kinh hoàng” với dân chúng. Bắt dân Sợ mà phải theo, vì sợ mà phải nghe giáo điều của công sản. Điển hình là công cuộc cách mạng Cải cách ruộng đất long trời lở đất đã chém giết vô tội vạ nhân dân, khiến cho dân chúng vì sợ hãi mà phải nghe theo, phải tung hô .

Tiếp đến cuộc đánh tư sản ở miền Nam sau 30/4/197 đã khiến cho dân miền Nam sợ hãi , phải bỏ xứ tha hương trở thành “Khúc ruột ngàn dặm” của đảng ta ở khắp năm châu.

Tiếp theo là “ngu để trị”. Vừa qua cộng đồng mạng đã phẫn nộ với sách giáo khoa học đường của trẻ em hiện nay có dạy bài “Bạn An dũng cảm”. Đây là một bài học dạy về kỹ năng sống cho trẻ em hết sức độc hại. Sách đã dạy các em cầm cưa để cưa một quả bom, mà không cần biết sự nguy hiểm đang cận kề.

Hẳn không ai lạ khi tác động lên quả bom một lực thì sẽ khiến quả bom phát nổ. Thế nhưng qua bài học này, sách lại dạy trẻ hãy dũng cảm dùng cưa để cưa quả bom mà bất chấp sự nguy hiểm cho tính mạng của các em và của những người xung quanh!!! http://vietbao.vn/Giao-duc/Soc-voi-sach-ky-nang-day-hoc-sinh-cua-bom-de-the-hien-long-dung-cam/2147592482/202/

Thực tế đã cho thấy từ bài học “Bạn An dũng cảm” cưa quả bom “để được như Bạn Cường” vừa qua đã dũng cảm dùng đèn khò để cưa quả bom. Một hậu quả thiệt hại đau thương về người và tài sản của xã hội đã không được báo trước tại Hà Đông.

http://dantri.com.vn/xa-hoi/ai-chiu-trach-nhiem-trong-vu-no-kinh-hoang-o-ha-dong-20160322070633915.htm

Một thực tế về bài toán rợn người cũng phản ảnh sự giáo dục kỹ năng cho các em rất tệ hại, đó là bài toán như trong hình dưới đây.

http://tuoitre.vn/tin/van-hoa-giai-tri/20120609/bai-toan-ron-nguoi/495819.html

Với cách giáo dục phản khoa học như thế này này đã đầu độc biết bao thế hệ các em trong những năm qua. Còn nhiều chuyện nữa nhưng để không làm phiền quý vị chỉ xin phép trích dẫn hai trường hợp điển hình này.

Tình trạng xuống cấp trầm trọng về kỹ năng sống, kể cá các em sinh viên cũng còn chưa được trang bị đào tạo bài bản như sinh viên ở các nước tiên tiến văn minh. Điều mà lẽ ra nhà nước cộng sản Việt Nam phải trang bị cho thế hệ trẻ mà con người là vấn đề “CHIẾN LƯỢC”.

Ngày 20/3/2016 vừa qua, thầy giáo Phạm Minh Hoàng có buổi trao đổi với các em sinh viên về “Kỹ năng mềm” tại quán cà phê ở địa chỉ 134/12/Cách mạng Tháng 8, phường 10, quận 3, Sài Gòn. Nhưng đã bị công an quận 3 bất chấp pháp luật xông vào sách nhiễu lớp học với lý do: “có thư tố cáo của dân phản ảnh thầy giáo Hòang và các sinh viên tụ tập để chống đối chính quyền, vì thầy Hoàng là đảng viên đảng Việt Tân!”. Và an ninh đã đánh đập các bạn trẻ (đánh gây đổ máu em Nguyễn Việt, khi em này đưa máy lên quay phim).

Các em đồng thanh yêu cầu công an làm việc với dân phải tuân thủ luật pháp: phải mặc sắc phục và biển tên cùng số hiệu tên họ. Nhưng người mặc thường phục đã đạp lên Luật pháp, trả lời các em: Bọn bay là cái gì mà tao phải mặc sắc phục?”. Một cách trả lời dân của những kẻ lưu manh, côn đồ! Thuộc cấp của ngài Trần Đại Quang!

Tiếp theo, họ cách ly thầy giáo Phạm Minh Hoàng để thẩm vấn nhiều giờ liền và đến tối cũng vẫn không cho các em ăn cơm. Sau đó thì họ tách các em ra đưa về nhiều phường để đánh đập và thẩm vấn riêng. Trong thẩm vấn, công an phường 3, Sài Gòn đã không tìm ra được bằng chứng nào là “thầy Hoàng và các em bàn bạc chống đối chính quyền” nên rạng sáng ngày hôm sau 21/3/2016 các em mới được trả về trong tình trạng thân hình bị đánh bầm dập.

Riêng thầy giáo Phạm Minh Hoàng bị gọi thẩm vấn sách nhiễu, họ đòi coi máy tính riêng của thầy. Cũng không tìm được bằng chứng nào về “chống đối chính quyền” như cáo buộc từ phía công an quận 3 đối với thầy Hoàng. Nhiều ngày sau đó thầy Hoàng bị mời làm việc và bắt phạt từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng. Nhưng thầy Hoàng đã khước từ những sách nhiễu vi phạm pháp luật này.

Tôi đã gặp và xin được thầy giáo Phạm Minh Hoàng giải thích cụm từ “KỸ NĂNG MỀM” và nội dung của buổi trò chuyện với các em sinh viên. Được nghe thầy giải thích như sau:

Kỹ năng mềm bao hàm: kỹ năng sống. Kỹ năng giao tiếp. Kỹ năng làm việc nhóm. Hiến pháp Việt Nam và Lịch sử nước Việt Nam; nhằm giúp các em tự tin trong lĩnh vực mà các em khi bước vào cuộc sống. Tịnh không có “cái gọi là” chống đối chính quyền Việt Nam của thầy Phạm Minh Hoàng và các em sinh viên trong buổi gặp nhau tại quán cà phê ngày 20/3/2016.

Từ bản hiến pháp đầu tiên 1946 của chính quyền cộng sản Việt Nam đã ghi nhận, khẳng định các quyền phổ quát của con người: Quyền tự do hội họp, Quyền tự do ngôn luận, Quyền tự do đi lại cư trú, v.v và những điều này cũng đã được ghi nhận tiếp tục trong các bản Hiến pháp được sửa đổi sau này và bản Hiến pháp mới nhất 2013 của nhà nước Việt Nam.

Khi Việt Nam tham gia thành viên của Hội Quốc tế Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc, Nhà nước CS VN đã tự nguyện cam kết tham gia Tuyên Ngôn Quốc Tế về Nhân Quyền của Liên Hợp Quốc năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, trong đó quyền tự do Lập hội, quyền tự do ngôn luận của cá nhân!

Việc gặp gỡ trao đổi với các em sinh viên ngày 20/3/2016 của thầy giáo Phạm Minh Hoàng với các em sinh viên hoàn toàn chính đáng và phù hợp với Luật pháp Việt Nam và chính công an quận 3 , Sài Gòn đã không tìm được chứng cứ cụ thể nào về “chống đối chính quyền” !

Việc trao đổi về “KỸ NĂNG MỀM” của thầy giáo Hoàng với các em sinh viên là một việc hữu ích, chính đáng không vi phạm pháp luật Việt Nam và được các bậc phụ huynh tin tưởng và hưởng ứng. Các em là hiền tài của đất nước, nguyên khí của quốc gia. Các em cần được bảo vệ và tôn trọng!

Việc thầy giáo Phạm Minh Hoàng là đảng viên đảng Việt Tân là chuyện riêng của thầy giáo Hoàng. Nó không liên quan gì đến “KĨ NĂNG MỀM” mà thầy đã trao đổi nhằm nâng cao dân trí cho các em. Xin công an quận 3, Sài Gòn đừng đánh đồng và tiếp tục vi phạm pháp luật, đánh đập con em chúng tôi như vừa qua, làm xấu đi một cách nghiêm trọng hình ảnh của nhà nước cộng sản Việt nam trên thế giới. Công an là cơ quan thực thi pháp luật cần phải biết thượng tôn pháp luật! Có lẽ việc “thượng tôn” pháp luật của công an với dân là thứ xa xỉ thật!

Kể cũng lạ, khi giàn khoan 981 của Trung Quốc vào đến tận cửa ngõ của Việt Nam thì không thấy bóng dáng ai xông ra đánh đuổi quân Trung quốc xâm lược. Ngư dân Việt Nam đánh cá trên vùng biển truyền thống của Việt Nam bị quân Trung Quốc bắn chìm tàu và ngư dân chết trên biển thì các chú còn đảng còn mình ẩn nấp ở đâu không thấy xông ra bảo vệ ngư dân? Chỉ giỏi đánh dân! Gặp giặc thì hèn!

Sài Gòn ngày 27/3/2016

N.T.H.L.

Tác giả gửi BVN

Ông nào nói chia tay cũng vậy thôi!

Ông nào nói chia tay cũng vậy thôi!

Blog RFA

VietTuSaiGon

29-3-2016

Dường như hầu hết các lãnh đạo Cộng sản Việt Nam khi về hưu hay sắp mất chức cũng có những hành động phá bĩnh, cũng nói quá một chút những việc mà lúc đương chức dù có biết, có đủ khả năng làm họ cũng không bao giờ nhắc đến. Cái sự nói quá kiểu như Nguyễn Sinh Hùng thì chép miệng nói rằng “với hàng trăm khoản thuế như vậy thì dân làm sao sống nổi!” hoặc “cơ quan hành chính của chúng ta làm việc quá rườm rà, thủ tục quá phức tạp”. Hay ông Nguyễn Tấn Dũng nói về vấn đề sống tử tế, nói về đặt để cấp quản lý chưa phù hợp.

Tất cả những vấn đề trên, khi đương chức các vị này không bao giờ nhắc đến. Bởi vì chính các vị là những người sai phạm nặng nhất. Ví dụ như đặt để người quản lý, đương nhiên không ai chấp nhận một anh y tá miệt vườn lên làm Thống đốc ngân hàng để rồi vừa làm vừa học cử nhân luật, sau đó lên làm Phó Thủ tướng, rồi Thủ tướng chính phủ. Nhưng cái qui trình lãnh đạo của ông Dũng là vậy. Nên chi lúc đương chức, nếu ông lên tiếng về vấn đề chuyên môn và quản lý thì ông sẽ là người mắc mướu đầu tiên.

Đó là chưa muốn nói đến vấn đề khác, trong đó có quản lý kinh tế. Người từng hô hào sẽ dùng quả đấm thép Vinashin và Vinaline để kéo đầu tàu kinh tế Việt Nam tăng tốc, sánh vai cùng các nước giàu trong khu vực chính là ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Và kết thúc câu chuyện Vinashin, Vinaline của ông Dũng là một đống nợ to như quả núi án ngay trước cái tên Việt Nam.

Tiếp đến, vấn đề xuất khẩu dầu, khai thác bauxite Tây Nguyên, rồi giải thể Viện nghiên cứu và phát triển IDS. Dường như mọi thứ ông làm đều có chung một kết quả là tạo cơ hội cho người Trung Quốc sang làm việc tại Việt Nam và đẩy kinh tế Việt Nam đi từ nợ nần này sang nợ nần khác.

Đương nhiên, lúc đó nền kinh tế Việt Nam hoàn toàn phụ thuộc vào kinh tế Trung Quốc và câu chuyện Hoàng Sa, Trường Sa đang ngày càng nóng lên nhưng ông Dũng vẫn không nhắc gì đến chuyện này. Thế rồi khi biết mình không trụ nổi trong bộ máy trung ương đảng, nói nôm na là rớt đài. Ông Dũng tuyên bố “phải đưa vụ việc Hoàng Sa, Trường Sa ra Tòa án quốc tế”. Nhưng đó chỉ là lời nói, chứ ông đâu còn làm Thủ tướng hay đâu còn quyền lực gì để mà thực hiện.

Nhìn chung, dường như ông lãnh đạo nào trước khi về vườn cũng có những câu nói hết sức ruột gan đối với dân tộc, quốc gia. Mà giá như lúc còn tại vị, ông chỉ cần nói đến một phần ba vấn đề thôi thì mọi chuyện đã tốt hơn nhiều. Cũng giống như ông Hùng hay ông Sang khi sắp về vườn thì lại nói về dân chủ, nói về quyền lợi của người dân, nói về nỗi lo của dân nghèo… Tất cả những kiểu nói chuyện này đều cho thấy các ông rất sợ hãi khi về hưu. Có hai lý do để các ông rất sợ hãi, đó là: Các ông quá giàu có nhưng lại không có đất dung thân và; Các ông đã làm tổn thương nhân dân nặng nề nên các ông luôn lo sợ bị trả thù.

Ở vấn đề thứ nhất, các ông không có đất dung thân. Chuyện này không riêng gì ông Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Đỗ Mười, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Sinh Hùng mà ngay cả cấp lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo huyện khi về hưu cũng chả ra thể thống gì. Các ông có thể giàu có, ngồi ghế dát vàng, nạm bạc, có thể có biệt thự này biệt thự nọ nhưng chẳng mấy người dân nào thèm chơi với các ông, thậm chí người ta nhắc đến các ông bằng thái độ dè bĩu, coi thường. Còn giới quan chức thì chắc chắn chẳng có ma nào ghé đến thăm các ông khi quyền lực đã thuộc về người khác, họ mãi bận xun xoe người mới lên nắm quyền lực.

Hơn nữa, nếu một người làm ăn chân chính, chỉ cần 20% tài sản của một trong số các ông thì họ có thể sang nước ngoài sống một cách thoải mái vô tư. Nhưng các ông thì khác, sang các nước tư bản thì các ông càng mau chết nếu như một ngày nào đó các ông bị phanh phui về tội lỗi, bị điều tra về tài sản và xã hội Việt Nam thay đổi. Chỉ có một số nước để các ông trú mà không bị coi khinh, đó là Trung Quốc, Bắc Triều Tiên hoặc các nước châu Phi. Nhưng chắc chắn đó không phải là những nước các ông muốn đến.

Trong khi đó, các phong trào dân quyền và mô hình xã hội dân sự đang ngày càng mạnh lên tại Việt Nam. Điều này dự báo một cơn bão trong tương lai. Và đến một lúc nào đó Việt Nam có một cuộc cách mạng dân chủ, cái giá mà các ông trả sẽ khó mà lường trước nếu các ông vẫn giữ nguyên thái độ hống hách, coi thường người dân. Chính vì vậy mà trước lức về hưu, hầu hết các quan chức Cộng sản đều tỏ ra luôn quan tâm, luôn trăn trở về vấn đề dân sinh, luôn nghĩ đến nhân dân.

Và người dân, dù hiểu theo cách nào thì cũng có một bộ phận không nhỏ hầu như chẳng biết tin ai và cũng chẳng biết phân tích thông tin nên rất dễ bị ma mị. Người ta dễ dàng nghe và tin vào những chủ trương, đường lối hoặc những lời “bộc bạch” đầy tâm huyết của các ông. Nhưng trên thực tế, các ông không dừng trò tiểu xảo của mình mà lại tiếp tục công kích đối thủ và lấy lòng dân bằng cách chọn đứng bên lề có nhân dân. Nhưng nhân dân giờ đã khôn hơn nhiều, ít nhất là họ thừa biết rằng suốt bốn mươi năm nói hươu nói vượn, lời nói của cán bộ Cộng sản không những không đáng tin cậy mà còn là sự bịp bợm.

Lần này, ông Dũng, ông Sang, ông Hùng nói lời chia tay với nhà nước, lời nói chia tay trước thời hạn của các ông được xem như là một vụ án chính trị vi hiến của những kẻ đang nắm quyền lực đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó, đích nhắm bị chiếu nhiều nhất có lẽ là Nguyễn Phú Trọng, người mệnh danh lú mà gian trong các đời Tổng bí thư. Không những thế, gần đây ông Trọng còn có một biệt danh khác là “đít mọc rễ” để nói lên bản chất tham quyền cố vị của ông.

Và với không ít người, lời nói chia tay của Nguyễn Tấn Dũng như một sự mất mát một nhà lãnh đạo tài ba, một con người luôn hướng đến dân chủ. Đó là với số đông người không hiểu biết người ta thấy vậy. Chứ với người có hiểu biết, chẳng ai nghĩ vậy cả. Vì họ thừa hiểu ông từng làm gì và ông được hưởng lợi gì từ những việc làm mờ ám của ông cũng như các đồng đảng của ông.

Chính vì thấy được bản chất của sự việc nên hầu hết người ta lắc đầu, chẳng có gì tiếc nuối đối với cái điều gọi là “sự về vườn” của ông Dũng. Bởi trong một thể chết độc tài, man trá như Cộng sản xã hội chủ nghĩa, ông nào về vườn cũng vậy thôi, chẳng có gì là đáng tiếc. Người ta chỉ tiếc là tại sao các ông không về vườn hết luôn đi, hay tại sao chế độ độc tài tại Việt Nam này không về vườn, không cáo chung đi để dân tộc này còn có cơ hội mà ngóc đầu lên.

Và điều mà nhân dân mong mỏi không phải là ông Dũng, ông Trọng, ông Hùng về hưu, cũng như điều mà nhân dân thấy tiếc nuối cũng không phải là ông Dũng về hưu, ông Trọng ở lại, ông Hùng về hưu để rồi một bà chủ tịch quốc hội mới lại lên thay thế để điều khiển cái quốc hội bù nhìn hay ông Sang về hưu để một ông tướng công an lên làm chủ tịch nước, một kẻ có thành tích đao phủ đối với tương lai dân chủ Việt Nam. Mà vấn đề nhân dân mong mỏi nhất vẫn là cả chế độ độc tài được về hưu, được chết đúng qui trình của nó.

Một qui trình vốn đã được xếp đặt trong lịch sử phát triển thế giới. Sự chết đi của chế độ độc tài cộng sản Việt Nam ngay bây giờ cũng là đúng qui trình rồi. Bởi lẽ, tiền đề của qui trình cáo chung này chính là những cái chết của các tập đoàn nhà nước; Cái chết của tài nguyên môi trường, khoáng sản; Cái chết của tiền vốn vay ODA; Cái chết của ngân sách nhà nước mà tiền thân của nó là đồng thuế do nhân dân đóng góp mà có; Cái chết của đạo đức xã hội; Cái chết của giáo dục khiến nhiều thế hệ phải chết lâm sàn trong mất nhân tính, máu lạnh và hung ác, tham lam; Cái chết của lương tâm dân tộc biểu hiện qua nhiều mặt, trong đó gồm thái độ cúi luồn trước kẻ xâm lược và sự băng hoại, thiếu tính người, tình người trong ngành thầy thuốc… Và đặt biệt là cái chết về niềm tin còn sót lại trong nhân dân về đảng Cộng sản.

Cái chết hay sự cáo chung hay nói sang hơn một chút là sự về hưu của đảng Cộng sản mới là niềm mong mỏi của nhân dân. Lời nói chia tay của một thực thể đảng Cộng sản mới gây cảm động. Chứ ông Dũng hay ông Hùng, ông Sang có nói một ngàn lời chia tay chăng nữa thì đó cũng là câu chuyện (có gian lận, có đấu đá, có hạ sát nhau) giữa các ông với nhau. Điều này chẳng gây cảm động gì đối với nhân dân. Bởi, khi nhân dân đã ngán ngẩm, đã mệt mỏi thì ông nào nói lời chia tay cũng vậy mà thôi!

Con người và sự tử tế

Con người và sự tử tế

Hiệu Minh

29-3-2016

Sự tử tế nên bắt đầu từ tuổi thơ. Ảnh minh họa internet

Tôi không tin trời có mắt, nhưng sự tử tế luôn có ánh nhìn theo ta suốt cuộc đời. Sự tử tế được lan tỏa và nhân lên sẽ có một xã hội tử tế. Từ quan đến dân đều tử tế thì sẽ có quốc gia tử tế.

Sự tử tế mai một dần

Mới đây khi phát biểu từ nhiệm, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có nhắc đến sự tử tế. Ông khuyên 10 thành viên chính phủ về hưu kỳ này, trong đó có bản thân mình, là “ráng giữ gìn sức khỏe, làm công dân tốt, đảng viên tốt, ráng làm người tử tế, sống tử tế”.

Lãnh đạo tầm quốc gia hay tầm toàn cầu thì ngoài chuyện tử tế trong từng cá nhân, họ phải có thêm một tố chất quan trọng, đó là sự lan tỏa về sự tử tế của chính con người họ. Thể chế phải tạo ra môi trường pháp luật và đạo đức sao cho dân sống tử tế.

Nelson Mandela bị tù 27 năm do chống lại chế độ phân biệt chủng tộc Nam Phi. Sau khi ra tù lên làm tổng thống nhưng ông tha thứ cho kẻ giam mình vì muốn đất nước đoàn kết. Đó là sự tử tế tầm toàn cầu.

Lý Quang Diệu dù có bị mang tiếng độc tài nhưng ông giúp tạo ra thể chế mà mọi người đều được hưởng và đưa Singapore tiến lên hàng đầu thế giới. Đó là sự tử tế tầm quốc gia.

Người Việt từng trải qua nhiều cuộc chiến tranh tàn khốc kể từ ngàn năm nay, nếu không có sự tử tế của phần đông dân chúng thì hỏi rằng, làm sao vượt được nỗi can qua.

Những năm 1970 Hà Nội đi sơ tán vì máy bay Mỹ đánh phá, cha mẹ dán lên cửa tờ giấy dặn, nếu con (đi bộ đội) về phép qua nhà, chìa khóa để ở dưới cái thảm chùi chân. Đi ba tháng quay về, nhà cửa vẫn nguyên, người hàng xóm còn sang giúp tưới cây và cho con mèo ăn.

Thế mà hôm nay chỉ vì vài cen ti met đất lối đi chung người ta có thể đưa nhau ra tòa, giơ dao đòi xin tý tiết của hàng xóm “tối lửa tắt đèn có nhau”. Ngoài đường xe chen lấn, mạnh ai nấy đi, hội hoa xuân thì bẻ hoa xả rác, cửa quan thi nhau đút lót, sự tử tế cứ mai một dần.

Từ thế giới mạng đến ngoài đời

Sự tử tế của mỗi cá nhân rất quan trọng nhưng sự lan tỏa còn quan trọng gấp bội phần.

Tôi đọc trên internet một chuyện của tác giả vô danh kể về một anh tên là Bryan Anderson đang lái xe trên đường cao tốc thì gặp một bà cụ già đang đứng cạnh chiếc xe hơi Mercedes mới cứng bị xịt lốp và dáng vẻ lo lắng.

Anderson liền dừng xe và đi bộ lại chỗ cụ bà. Thấy một anh đầu óc bù xù, quần áo nhếch nhác, vẻ mặt hơi dữ, râu ria không cạo, cụ già hơi sợ. Biết ý, Anderson hỏi từ xa, cụ có cần giúp không, cháu tên là Bryan Anderson. Cụ đành gật đầu vì đã đợi cả tiếng trên cao tốc dưới nắng gắt mà không ai dừng lại giúp.

Chỉ trong mươi phút, chàng trai đã thay xong cái lốp bị hỏng dù quần áo bị bẩn lem luốc thêm,  tay anh bị kẹt sưng tấy.

Khi xong việc, cụ bà hỏi, anh lấy bao nhiêu, nhưng Anderson cười và nói “Cụ chẳng nợ chi cả. Nếu muốn trả tiền công, lần sau thấy ai cần sự trợ giúp thì cụ hãy giơ tay bàn tay thân ái. Và lúc đó cụ nghĩ đến cháu, thế là vui lắm rồi.”

Chiều tối, cụ già dừng ở một quán ăn gần đó và nhìn thấy một phụ nữ bụng chửa vượt mặt đang chạy bàn. Vẻ cô rất mệt, tóc tai bơ phờ, mồ hôi lấm tấm nhưng có nụ cười rất tươi và thân thiện. Bỗng cụ nhớ lại anh chàng Bryan Anderson vừa thay lốp xe giúp mình.

Cụ ăn xong và để lại một tờ 100 đô la kẹp vào hóa đơn. Khi người phụ nữ mang tiền đi thanh toán tại quầy thì cụ bà đã đứng dậy và đi ra cửa. Bà để lại mấy dòng trên tờ giấy ăn “Cô không phải trả lại tiền, của cô hết đó. Cô đừng nghĩ nợ nần gì tôi. Có ai đó chiều nay đã giúp tôi, bây giờ tôi giúp lại cô một chút. Nếu cô muốn trả nợ tôi thì hãy đừng để sự tử tế dừng lại ở nơi cô”. Người phụ nữ còn thấy vài tờ 100$ nữa kẹp trong tờ giấy ăn.

Tối đó chị về nhà sớm hơn thường lệ, nghĩ về cụ bà và số tiền mà cụ típ nhiều một cách kinh ngạc. Và nghĩ sao cụ lại có thể biết nhà cô đang cần số tiền đó vì sắp đến ngày sinh con, rất nhiều thứ phải mua. Và chồng cô cũng rất lo điều đó. Vì vậy cô rất vui sẽ báo tin này cho chồng. Cô chỉ nói nhỏ nhẹ “Bây giờ mọi việc ổn rồi. Em yêu anh, Bryan Anderson”.

Có thể câu chuyện trên được hư cấu về sự trùng lặp, người giúp cụ bà chính là chồng của người chạy bàn, và sự đền ơn đáp nghĩa quay lại đúng với người đã giúp cụ. Nhưng thông điệp về sự tử tế cần lan tỏa rất quan trọng.

Người viết bài này từng làm một việc tử tế trong đời. Những năm đầu 1980 ai có xe máy đi là một điều mơ ước. Tôi cũng có một chiếc Honda 67 cũ vẫn chạy ngon lành, nhưng đi xa hay bị… chết máy. Đôi lúc tôi dắt xe hỏng hàng chục km là thường nên thông cảm với những ai cùng cảnh ngộ.

Tôi nhớ khi đó trời lạnh, gió mùa đông bắc tràn về, đi từ Ninh Bình ra Hà Nội gió ngược rất mệt. Đang bon bon một mình một xe thì thấy một anh dắt xe chết máy, phía sau là một cụ già cùng đẩy xe giúp con, trông rất thương.

Đi chậm lại tôi hỏi, xe làm sao vậy? Anh có cần giúp không? Anh nói xe có lẽ chết máy, chưa biết bệnh gì. Tôi bảo, hay để tôi đưa cụ về Hà Nội trước cho. Anh mừng quá gật đầu lia lịa. Thôi thì trăm sự nhờ anh.

Cụ già vui lắm vì có người đèo về Hà Nội. Dọc đường mới biết cụ bị lòa, lúc xe hỏng cụ phải bám xe con mới đi được và cũng nhân đó đẩy xe giúp con. Tới Phú Xuyên ngồi nghỉ uống nước và hỏi địa chỉ, cụ bảo làng tôi gần Văn Điển, nhưng ngõ bao nhiêu thì không nhớ, vì hồi đó làm gì có số nhà.

Thế là hai ông con đi gần Văn Điển, vừa đi vừa dò hỏi làng cụ ở đâu. Dừng hỏi khoảng mươi lần, thì một bà bán nước bên đường bỗng reo lên, ôi, cụ đã về quê ra. Thế là biết cụ trong xóm đó.

Tôi đưa cụ vào và cả nhà cảm ơn rối rít, nhất định giữ tôi lại ăn cơm. Nhưng do bận, chẳng kịp ghi lại địa chỉ tên tuổi của cụ, cứ thế tôi về Hà Nội và nghĩ mình làm được một việc tử tế.

Hơn tháng sau tôi về quê thăm nhà. Bố tôi cũng bị lòa từ mấy năm trước cũng kể, mấy lần được người đi đường cho đi nhờ xe máy từ quốc lộ 1 về nhà cách đó mấy km và cụ chẳng hiểu đó là người làng nào. Giá như họ đưa lạc sang làng khác cũng không biết vì mắt có nhìn thấy gì đâu.

Sự tử tế luôn có ánh nhìn theo ta

Tôi không tin trời có mắt, nhưng sự tử tế luôn có ánh nhìn theo ta suốt cuộc đời. Sự tử tế được lan tỏa và nhân lên sẽ có một xã hội tử tế. Từ gia đình tới nhà trường rồi ra xã hội, từ quan đến dân đều tử tế thì có quốc gia tử tế.

Và khi quan tử tế về vườn thi dân vẫn nhớ mà không cần một lời nhắc nhở như Thủ tướng về vườn tâm sự.

Bài đăng trên VNN