A! Này bé, con dế nó đậu cành tre,

Chuyện Phiếm đọc trong tuần sau Chúa Nhật 3 Phục Sinh năm C 10/4/2016

 “A! Này bé, con dế nó đậu cành tre,”

Em bắt đem về, hát xẩm mà nghe.

Đừng bắt đem về, đánh lộn làm chi.

Loài giun dế nó mang tội tình gì???”

(Phạm Duy – Bé Bắt Dế)

(Mt 28:18-19)           

            Trần Ngọc Mười Hai

Úi chu choa! Cái gì mà, “loài giun dế nó mang tội tình gì?” Thế còn loài người? Có tội có tình gì không thế?

Để trả lời câu hỏi, như em bé. Hãy cứ nghe câu hát tiếp, hạ hồi sẽ rõ:

A! Này bé, con dế nó nằm lỗ sâu,

            Đào lỗ đem vào cho ở hộp cao.

            Đừng bắt dế nghèo đánh bể đầu nhau,

Để nó phải buồn rầu.

 A! Này bé, con dế nó tội tình chi?

A! Này bé, con dế nó tội tình gì???

 A! Này bé, con dế nó ở đồng quê

Chinh chiến lan về, nó phải tản-cư.

Nó sống trên vỉa hè quanh-quẩn ngoại ô,

Làm thân sống nương ở nhờ!!!

 

A! Này bé, con dế nó cùng chị ve,

Trong mấy tháng hè nó chỉ hoà ca.

Mưa nắng thuận-hoà cho đẹp ruộng ta.

Con dế hát đẹp ngày mùa…

 A! Này bé, con dế nó ở miền quê!

A! Này bé, con dế nó ra kinh-đô…”

(Phạm Duy – bđd)

Chưa đâu, thân phận con dế bé nhỏ, còn bọt bèo hơn nữa, khi ta biết được rằng:

“A! Này bé, con dế nó ở nhà em,

Nên nó cũng thèm coi truyền-hình đêm.

Nó thấy phi-thuyền lên tận mặt trăng

Mà không thấy đâu chị Hằng!!!

 A! Này bé, con dế cúi đầu phục lăn.

Nó hát khen rằng: Con Người Giỏi Dang!

Nhưng vẫn chê rằng: thiếu hẳn tình thương

Lòng vẫn chứa đầy bạo cường…

 A! Này bé, Này bé! Mau thuộc bài đi,

A! Này bé! Cho dế nó coi Tivi!!!

(Phạm Duy – bđd)

Ấy! Ví thử ta thay thế cụm từ “em bé” và “con dế” bằng những chữ rất khác như: “linh mục”, Hội thánh”, hay sao đó, hẳn sẽ có người sẽ thêm vào đó cả triệu câu truyện kể rất dễ nể như sau này:

“Truyện rằng:

Hồi ấy, vào thời nước Nga còn thuộc khối Liên-Xô có đảng Cộng-sản do ông Stalin nắm trọn quyền-hành. Một hôm, ông Stalin quyết định ra đi thăm dân để biết sự tình về cuộc sống của tầng-lớp lao-động rày ra sao. Nên, ông ăn vận thật bình-thường như người dân ở huyện rồi ra khỏi điển Cẩm-Linh. Sau một ngày dài, ông trờ tới rạp chiếu bóng để xem dân chúng vui sống ra sao.

 Sau khi bộ phim kết-thúc, trên màn ảnh hiện ra hình-ảnh lãnh-tụ Stalin giơ tay vẫy chào từ biệt bà con lao-động và quốc ca Liên-xô trổi lên. Tất cả mọi người đều đứng dậy và hát theo, riêng chỉ có mỗi ông Stalin là không đứng.

 Khi ấy, có người đàn ông đứng ở phía sau hàng ghế của ông ghé vào tai ông Stalin rồi nói: “Đồng chí à, tôi cũng biết rằng: chúng ta đều nghĩ giống như nhau, nhưng để cho an-toàn hơn, tôi đề-nghị đồng chí cứ đứng lên là xong ngay! Và nghe thế, ông Stalin lưỡng-lự trong giây lát, rồi cũng đứng, chắc để… mình tiễn-biệt mình!” (Truyện kể về “Tiếu-Lâm Liên-xô” nhưng chắc gì đã đúng thật)

             Ấy chết, đừng vội nhận-định, bàn-luận hoặc nói năng sớm như thế mà làm gì. Hãy cứ nghe câu hát tiếp cũng rất hay như sau này:

“A! Này bé, theo dế ra tận bờ đê

Đất sét đem về ta nặn đồ chơi.

Nặn những tay người hay nặn bàn chân

Tặng cho những ai tàn tật.

 A! Này bé, theo dế ra trại định-cư

Coi những ông già phá rừng trồng hoa

Chia sớt ngọt bùi với trẻ mồ côi

Đời mới chúc người phục hồi…

 A! Này bé, Con dế xin vài hòn bi!

A! Này bé, Đem biếu những em xa quê!…

            (Phạm Duy – bđd)

Và những câu cuối của bài hát, còn đáng để bạn và tôi suy-nghĩ, bàn luận hoặc ít là cứ phiếm, rất như sau:

A! Này bé, thôi nhé dế còn phải đi

            Đi hát câu vè, trên nẻo đường xa…

            Đi tới quê mẹ, nối lại tình cha!

            Và, ca hát câu giải hoà.

 A! Này bé, có lẽ dế về miền sông,

Có lẽ lên rừng hát cùng loài công.

Hay xuống cát vàng hát cùng hàng thông,

Ở giữa cõi đời mịt mùng…

 A! Này bé, con dế đến mùa phải đi…

A! Này bé, rồi sẽ có ngày trở về…

(Phạm Duy – bđd)

Vâng. Đúng thế. Dế hay bé, rồi cũng có ngày phải đi. Vì khôn lớn, hơn loài thường. Vâng. Chính thế. Bạn đạo hay người đời, có ngày cũng vẫn ra đi. Đi mà tìm về nguồn để học hỏi những lời vàng rằng:

“Đức Giê-su đến gần, nói với các tông-đồ rằng:

“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.

Vậy anh em hãy đi

và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,

làm phép rửa cho họ

nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”

            (Mt 28: 18-19)

Vâng. Lời vàng đầy ý-nghĩa như thế. Nhưng, xem ra thực-tế vẫn như thể: nhiều người còn thắc mắc chuyện này nọ, hoặc chưa am-tường ý-nghĩa của lệnh-truyền ấy có dành cho mình hay không, hoặc chỉ cho mỗi các tông-đồ thời đó, nhấc chân đi theo Đức Giêsu mà thôi.

Ngày nay, ở ngoài đời hay trong Đạo, cũng có những sự-kiện/hiện đáng để bạn và tôi, ta quan-tâm bàn luận, cũng rất nhiều.

Một trong các chuyện đáng bàn và đáng phiếm vẫn là chuyện Đạo ở đời, trong đó có ý-kiến về chuyện: ta có nên cùng với bạn-đạo Chính thống hoặc Cốp-tích Ai Cập định-vị lại ngày tháng cho lễ Phục Sinh hay không, như sau:

“Tổng Giám Mục Justin Welby của Canterbury, Anh Giáo hôm 16/1/2016 có loan-báo: Giáo-hội Anh sẽ tham-gia cuộc bàn luận diễn-tiến giữa Đức Phanxicô và lãnh-đạo Giáo hội Cốp-tích để định ngày tháng thống-nhất tổ-chức Lễ Phục Sinh cho hai Đạo…

 Ông nói: ông muốn được thấy thời-điểm tổ-chức Ngày Lễ này sao cho đơn-giản, đồng-thuận có lợi cho mọi người kể cả trường-học, bậc cha-mẹ đưa đón con em, các doanh-thương cũng như kỹ-nghệ du-lịch thay vì mỗi năm cứ phải xê-dịch ngày thánh, có năm có khi cách nhau đến 35 ngày. Riêng Giáo-hội Chính-thống Đông-phương lại tính toán ngày tháng cho lễ Phục Sinh cũng khác hẳn khi chức-sắc trong Đạo lại dùng lịch cũ của Julian.       

 TGm Welby còn xác-nhận là: các nhà lãnh-đạo Anh-giáo trên thế-giới cũng đã họp bàn và đồng-thuận tham-gia bàn-luận với các Giáo-hội khác, để định ngày thống-nhất. Nhưng ông cũng nói tiếp: thay-đổi thời-gian cho Lễ này cũng phải mất 5 đến 10 năm mới đưa vào hiện-thực được.

 Riêng Đức Phanxicô năm ngoái có thông-báo: ngài cũng muốn bàn-thảo với các nhà lãnh-đạo Giáo-hội Cốp-tích mà số đông tín-hữu của giáo-hội này sống ở Châu Phi và Trung Đông, để tìm ra ngày tháng thống-nhất cho sự-kiện này.” (x. tin trên Courier Mail của Queensland , Chúa Nhật 17/1/2016 tr. 11)   

 Ít hôm sau đó, Tuần báo Công-giáo ở Sydney là tờ The Catholic Weekly cũng loan tin giống như trên, nhưng lại kết thúc bài viết bằng giòng nhận-định bảo rằng:

“Phát-ngôn-viên Giáo-hội Chính-thống thuộc Nga có nói rằng: Thượng-Phụ Mạc-Tư-Khoa hân hoan nghênh-đón ý-kiến về việc cùng nhau cử-hành chung một ngày Lễ, bao lâu quyết-định này phù-hợp với lịch của Chính-thống-giáo.

 Theo linh-mục quản-hạt Nikolai Balashov phó giám-đốc thường-vụ Đại-kết thuộc Toà Thượng-phụ Mạc-Tư-Khoa nói ông đang chờ được nghe chi-tiết đề-nghị từ Đức Giáo Hoàng Phanxicô, khi nói rằng:

“Giả như Giáo Hội La Mã có ý-định hủy bỏ ngày lễ Phục Sinh tính theo lịch Grêgôriên được đưa ra vào phụng-vụ giờ lễ kể từ thế kỷ thứ 16 về với lịch cũ, sử dụng lúc Giáo-hội Đông và Tây Phương hợp-nhất dùng ngày tháng cố-định do Giáo-hội Chính-thống thiết-lập, thì chúng tôi hoan-nghênh ý của ngài. Thế nhưng, nếu thiết-lập một ngày nhất-định cho Phục Sinh là việc không thể chấp-nhận hoàn-toàn được.” (xem Catholic Weekly News ngày 24/1/2016 tr. 10)

             Xem thế mới biết: muốn định việc gì cho thống-nhất mà không chịu nhượng-bộ từ phía mình, dù là Giáo-phái hoặc Giáo-Hội đã thánh-hoá cách nào đi nữa, cũng là việc khá khó. Khó, thực-hiện. Khó, tạo niềm tin-tưởng vào nhau, rất thân-thương, nhịn nhường là chuyện rất đời thường.

Từ ý-tưởng ấy, đã nảy sinh nhiều ý-kiến có liên-quan đến chuyện đời/việc Đạo ở đâu đó, dù là xó-xỉnh, góc chợ hay bục cao chót vót của thánh hội.

Nói thế rồi, nay ta đi vào sự-kiện khác cũng đáng phiếm, như chuyện khác-biệt chánh-kiến cả về thần-học, lẫn thánh kinh giữa các giáo-phái/giáo-hội cùng thờ một Đức Chúa, ở nhiều nơi. Như, vấn-đề hoặc câu chuyện do đấng bậc nọ đề ra ở trong sách. Thế nhưng, trước khi đi vào thực-tế của chuyện đạo, mời bạn và tôi, ta trở lại câu hát cũng rất “dế” ở trên, mà hát rằng:

“A! Này bé, thôi nhé dế còn phải đi

            Đi hát câu vè, trên nẻo đường xa…

            Đi tới quê mẹ, nối lại tình cha!

            Và, ca hát câu giải hoà.

 A! Này bé, có lẽ dế về miền sông,

Có lẽ lên rừng hát cùng loài công.

Hay xuống cát vang hát cùng hàng thông,

Ở giữa cõi đời mịt mùng..

 A! Này bé, con dế đến mùa phải đi…

A! Này bé, rồi sẽ có ngày trở về…

(Phạm Duy – bđd)

Đi tới quê mẹ, nối lại tình cha! Và, ca hát câu giải hoà”, làm sao được như thế, khi mà nhiều đấng bậc và nhiều người không chịu lắng tai nghe đấng bậc khác, người khác có nhận-định khá sâu-sắc như sau:

“Tính-cách bộ-tộc của Thượng-đế ở đạo-đức Do-thái-giáo đang lớn mạnh. Thuyết duy-vũ-trụ đang ló rạng. Thượng-đế đây khi xưa vẫn là còn như thế cho đến khi Đức Giêsu biến-đổi thành Đức Chúa trước tiên đi vào hiện-hữu và rồi thành Đấng Thánh-hoá cho đi sự sống có thẩm-thấu bộc-lộ cho mọi người thấy được thực-chất của mọi hữu-thể.

 Đức Giêsu sai-phái tông-đồ Ngài ra đi mà đến với thế-gian (Mt 28: 16-20). Các tông-đồ được lệnh vượt lằn ranh biên-giới của nước mình, bộ-tộc mình và đặc-biệt hơn, vượt khỏi đạo-giáo của mình nữa.

 Khi các ngài, cuối cùng, không thể nào thoát khỏi mọi lằn ranh nằm bên trong nhân-loại nay trải rộng và cởi mở, các ngài được lệnh rao-giảng Tin Mừng, tức là: tình thương-yêu vô bờ bến của Thiên-Chúa với mọi người mà Chúa đã thực-hiện, một tình-thương vốn không chấp-nhận một lằn ranh cách biệt nào hết.

 Tình-thương không ranh giới sẽ yêu thương cả những người khi xưa tìm cách đóng đinh Tình-Yêu của Chúa vào thập-giá. Nó bao gồm mọi loài, mọi cây cỏ, mọi hành-tinh, mọi bộ-tộc mọi người.

 Tất cả đều được Chúa chọn. Không một ai là người ngoại-cuộc, ngoài hành-tinh. Không ai bị chia-cách khỏi Chúa. Ta sống trong Chúa. Chúa sống trong ta. Ta là nhân-chứng ở Giêrusalem, Giuđêa, Samaria và “cho đến mút cùng của trái đất” (Cv 1: 8). Tên của Đức Giêsu nay đã là Emmanuel, có nghĩa: Thiên-Chúa ở cùng chúng ta (Mt 1: 23).

 Và, khi Ngài phán: “Này, ta sẽ ở với các anh mãi.” (Mt 28: 20) tức là Ngài đã nói lên danh-xưng Emmanuel là tính-cách rất thực. Và, khi Thiên-Chúa tự-do như Thần-khí, mọi lằn ranh cách-biệt giữa quốc-gia và thể-chế, biểu-trưng bằng các ngôn-ngữ khác-biệt, thì lằn ranh ấy bị tẩy/bỏ và mọi người được ơn Thánh-thần và bắt đầu nói thứ ngôn-ngữ của tình thương-yêu (Cv 2: 1-4). Và, thần-khí ấy thông-chuyển ngang qua lịch-sử, thì lằn ranh biên-giới lại ngã đổ.

Rồi, khi Phêrô nghe tiếng Chúa trong giấc mộng bảo rằng: “Những gì Thiên-Chúa đã tẩy sạch thì ngươi không được gọi là ô-uế” (Cv 10: 9-16) Phêrô mới trổi dậy từ thị-kiến ấy và đã tẩy/rửa cho Cornêlius, người ngoài Đạo. Sử-thi của Do-thái-giáo đã phá đổ mọi rào-cản rồi đi vào với vũ-trụ trở thành anh-hùng-ca của nhân-loại.” (x. Tgm John Shelby Spong, Jesus beyond religion, the sign of Kingdom of God, The Sins of Scripture nxb HarperCollinsPublishes 2005 tr. 295-298)

Thi-sử hay anh-hùng-ca của nhân-loại nay dàn-trải khắp mọi nơi. Trong mọi người. Thiên-sử ấy gọi là tình thương-yêu. Là Đạo-lý của đạo-giáo rất Kitô. Là, gì nữa thì bạn và tôi, ta cũng nên suy-tư mà nhận–định như thế.

Suy-tư/nhận-định không theo kiểu nghe qua rồi bỏ. Nhưng là nhận-chân ra sự thật ở đời dù nhiều khác-biệt, vẫn cứ là ảnh-hình của một sự thật tình-yêu được người diễn-tả qua văn-chương/nghệ-thuật cùng âm-nhạc, cùng mọi thứ.

Trong cảm-nhận sự khác-biệt trong yêu-thương đoàn-kết cũng rất Đạo, mời bạn mời tôi, ta vào với lối diễn-tả nhè nhẹ ở truyện kể như sau:

“Sáng nào cũng thấy thằng nhỏ cầm cái lon đứng chầu chực trước quán ăn. Tôi để mắt theo dõi thì hễ thấy thực khách vừa kêu tính tiền thì thằng bé chạy vào nhìn vào những cái tô, nếu còn thức ăn dư mứa thì nó vội vã trút vào cái lon rồi chạy ra ngoài đứng ngóng tiếp.

Khi cái lon gần đầy thì nó biến mất, chập sau thấy nó lại có mặt thập thò trước quán tiếp tục. Bàn tôi ngồi thì đứa bé không bao giờ quan tâm tới, vì mỗi sáng tôi chỉ đủ tiền uống 1 ly xây chừng vì tôi cũng nghèo cải tạo mới về sáng nhịn đói ngồi uống cà phê đen như một cái thú hay một cái tật không bỏ được.

Cứ thế, mà hơn một năm tôi mới quen được và tìm hiểu chút ít về hoàn cảnh gia đình của đứa bé đáng thương.

Tôi cố tình làm quen với thằng bé nhờ hôm ấy trời mưa, thằng bé đứng nép vào trong quán. Thằng bé đứng nép vào ngày càng sâu hơn trong quán vì mưa ngày càng lớn chỉ cách tôi chừng độ nửa thước. Tôi với tay kéo nó ngồi xuống bàn và hỏi nó có thích uống cà phê không?

Thằng bé lắc đầu lia lịa và nói không uống. Tôi hỏi nó làm gì ngày nào cũng ra đây? Và hiện sống với ai? Thằng bé như đoán được rằng: tôi chỉ là người khách ghiền cà phê nặng nên hàng ngày đóng đô ở đây nên nó cũng trả lời nhanh nhẹn rằng:

– Con sống với ba má con, Ba con đi làm xa còn Má con đi phụ buôn bán ở ngoài chợ…

Tôi hỏi tiếp:

– Còn con có đi học không ?

Thằng bé nói:

– Con không có đi học… con ở nhà phụ với má nuôi heo…

Đó là lý do để nói lên sự hiện diện hằng ngày của nó nơi quán ăn nầy. Nghe thằng bé nói như thế, tôi nói với chị chủ quán ăn giúp cho nó lấy những cơm và thức ăn thừa, và cũng từ đó nó không còn đứng lúp ló ngoài cửa quán nửa. Và nhờ tánh tình hiền hậu thật thà chị chủ quán cho nó vô phụ dọn bàn đề lấy thức ăn dư mang về và cho nó ăn uống để phụ việc. Từ đó tôi và nó gần gũi nhau hơn và thân nhau lắm.

Có lần thằng bé hỏi tôi:

– Chú làm nghề gì vậy hả chú?

Tôi chỉ trả lời ngắn gọn là “Chú đang làm thinh”.

Đúng vậy mới cải tạo về mà, vợ con thì đã theo bên ngoại vượt biển hết rồi, nghe đâu đã định cư bên Úc, nay về ở với mẹ già ngày 1 buổi cà phê hai bữa cơm độn qua ngày.

Thời gian ngột ngạt chậm chạp trôi qua, may mắn vợ chồng tôi đã bắt liên lạc được với nhau. Thế là những bữa cơm không còn ăn độn khoai củ hay bo bo nữa nhưng vẫn quen cữ sáng cà phê quán gần nhà. Không biết chị chủ quán có bỏ bùa mê hay tôi ghiền chỗ ngồi mà không bữa nào vắng tôi.

Một hôm, tôi đề nghị theo thằng bé về nhà nó chơi cho biết vì nó nói ở cũng gần không xa lắm. Thấy nó do dự và tỏ vẻ sợ sệt, tôi biết ngay nó đang giấu giếm điều gì. Thương nó lắm, tôi dúi tiền cho nó hoài.

Mấy hôm sau tôi lẳng lặng đi theo nó khi nó mang cơm và thức ăn dư về nhà buổi trưa. Khi thấy nó lủi vô một cái chòi nhỏ xíu thì tôi thật sự không ngờ. Đứng dưới gốc cây Gòn cách nhà nó không xa tôi thầm nghĩ, nhà chút xíu như vậy gia đình 3 người ở thì chỗ đâu mà nuôi heo. Tôi đang đứng suy nghĩ đốt cũng hết mấy điếu thuốc thì thằng nhỏ lục tục xách lon xách nồi đi ra quán để thu dọn thức ăn buổi chiều.

Đợi thằng bé đi khuất tôi lò mò đến nơi mà hồi nãy nó vào. Đến đó mới nhìn rõ thì thật ra đâu có phải là nhà, một lõm trống được che dựng lên bằng những phế liệu đủ loại muốn chui vào phải khom mọp xuống. Nghe thấy có tiếng chân dừng lại, có tiếng đàn bà vọng ra hỏi.

Tôi trả lời là đi kiếm thằng Tuất, thì nghe giọng đàn ông cho biết nó vừa đi khỏi rồi, và hỏi tôi là ai, mời tôi vào…. Vừa khom người chui vào tôi mới thật sự không ngờ những gì hiển hiện trước mắt tôi.

Người đàn ông hốc hác cụt hai giò tuổi cũng trạc tôi nhưng trông yếu đuối, lam lũ và khắc khổ lắm, một người đàn bà bệnh hoạn xác xơ – cả hai đang ăn những thức ăn thừa mà thằng bé vừa mới đem về. Vừa bàng hoàng, vừa cảm động vừa xót xa, nước mắt tôi bất chợt tuôn rơi mặc dù tôi cố nén…

Từ đó, tôi hiểu rõ về người phế binh sức tàn lực kiệt sống bên người vợ thủy chung tần tảo nuôi chồng bao năm nay giờ mang bịnh ác tính nặng nề thật đau xót. Tôi móc hết tiền trong túi biếu tặng và cáo lui. Về đến nhà tôi vẫn mãi ám ảnh hoàn cảnh bi thương của gia đình thằng bé mà tôi bỏ cơm nguyên cả ngày luôn.

Sáng hôm sau ra uống cà phê, thằng bé gặp tôi nó lấm lét không dám nhìn tôi vì nó đã biết trưa hôm qua tôi có tới nhà nó. Nó thì tỏ vẻ sợ tôi, nhưng tôi thực sự vừa thương vừa nể phục nó nhiều lắm. Tôi kêu nó lại và nói nhỏ với nó tại sao không cho tôi biết. Tội nghiệp nó cúi đầu im lặng làm lòng tôi thêm nỗi xót xa.

Có khách kêu trả tiền, như có cơ hội né tránh tôi nó chạy đi dọn bàn và tiếp tục công việc thu dọn thức ăn. Hèn gì sau nầy nó để thức ăn dư phân loại đàng hoàng lắm.

Tội nghiệp hoàn cảnh của thằng bé mới mấy tuổi đầu mà vất vả nuôi cha mẹ theo khả năng chỉ tới đó. Cha là một phế binh cũ trước 75 cụt hai chân, mẹ thì bị bệnh gan nặng bụng phình trướng to khủng khiếp và cặp chân sưng vù lên đi đứng thật khó khăn, nước da thì vàng mét như nghệ. Thằng bé là lao động chánh trong gia đình, nó có hiếu lắm. Từ đó tôi thường cho tiền đứa bé mua bánh mì cơm gạo về nuôi cha mẹ.

Vợ tôi làm thủ tục bảo lãnh tôi sang Úc. Ngày tôi đi tôi đau xót phải để lại hai nỗi buồn đó là để mẹ và em gái lại quê nhà và không còn cơ hội giúp đỡ thằng bé nữa.

Sang Úc định cư, tôi sống tại tiểu bang Victoria mấy năm đầu tôi hết sức cơ cực vì phải vật lộn với cuộc sống mới nơi đất mới và đối với tôi tất cả đều mới mẻ và xa lạ quá. Từ ngôn ngữ đến thời tiết đã làm tôi lao đao không ít. Thỉnh thoảng tôi gởi tiền về nuôi mẹ và em gái không quên dặn em gái tôi chuyển cho thằng bé chút ít gọi là chút tình phương xa.

Mấy năm sau tôi về thăm gia đình, tôi có ghé tìm thằng bé thì nó không còn lấy thức ăn trong quán đó nữa. Tôi mới kể rõ hoàn cảnh thằng bé cho chị chủ quán biết. Chị chủ quán đôi mắt đỏ hoe trách tôi sao không cho chị biết sớm để chị tìm cách giúp gia đình nó. Tôi chỉ bào chữa rằng tại thằng bé muốn giấu không cho ai biết!

Tôi ghé vội qua nhà thằng bé thì mới hay mẹ nó đã qua đời vì căn bệnh ung thư gan. Chỉ còn chèo queo một mình ba nó ở trần nằm một góc trông hết sức thương tâm. Hỏi thăm thì mới biết nó đã xin được việc làm đi phụ hồ kiếm tiền về nuôi cha.

Chúa nhật tôi tới tìm thằng bé, chỉ mới có mấy năm mà nó đã cao lớn thành thanh niên rất đẹp trai duy chỉ đen đúa vì phơi nắng để kiếm đồng tiền. Tôi dẫn nó trở ra quán cà phê cũ, thấy nó hơi ái ngại, tôi trấn an là bà chủ quán tốt lắm tại không biết được hoàn cảnh gia đình nó.

Ra đến quán ăn chị chủ quán năn nỉ nó về làm với chị, dọn dẹp và bưng thức ăn cho khách nhẹ nhàng hơn đi phụ hồ và chị sẽ trả lương như đang lãnh bên phụ hồ, tối về thức ăn thường bán không hết chị cho đem về nhà dùng khỏi phải mua hay đi chợ. Lần đầu tiên tôi thấy nó khóc, chị chủ quán cũng khóc theo làm tôi phải đứng dậy bỏ ra ngoài để khỏi phải rơi nước mắt vì chịu không nổi.

Thằng Tuất vừa khóc vừa nói: “Sao ai cũng tốt với gia đình con hết đó, nhưng vì con đang làm phụ hồ cho anh Năm, anh ấy cũng tốt lắm giúp đỡ gia đình con nhiều lắm, sáng nào cũng mua cho ba con gói xôi hay bánh mì trước khi tụi con đi làm. Con cũng mang ơn ảnh nhiều nên con không thể nghỉ được, con xin lỗi”.

Không biết thằng Tuất nó nói thật hay nó ái ngại khi quay về chỗ mà ngày nào cũng cầm cái lon chầu chực trút đồ ăn dư về nuôi cha mẹ. Phải thông cảm nó, phải hiểu cho nó, phải cho nó có cái hiện tại và tương lai tốt hơn, đẹp hơn ngày trước. Chị chủ quán vừa gạt nước mắt vừa nói “Bất cứ lúc nào con cần đến cô thì con đừng ngại, cho cô biết nhé”…

Đời này cũng còn có những hoàn cảnh bi đát ít ai biết đến, và cũng có những đứa con xứng đáng như thằng Tuất. Ngày về lại Úc, tôi đến biếu hai cha con nó hai triệu đồng, thấy nó và ba nó mừng lắm tôi cũng vui lây. Không biết phải giúp gia đình nó như thế nào, tôi chụp hình ba nó, photo giấy tờ ba nó đem về Úc gởi cho Hội cứu trợ thương phế binh bị quên lãng trụ sở ở Sydney.

Mấy tháng sau nhận được thư ba thằng Tuất viết qua, ông quá vui mừng khi được Hội bên Úc giúp đỡ gởi tiền về, ông cho biết suốt bao nhiêu năm qua lần đầu tiên ông thấy được niềm hạnh phúc khi cuộc đời phế binh của ông còn có người nhớ đến.

Không biết ông ấy vui bao nhiêu mà chính tôi cũng hết sức vui mừng khi thực hiện một việc làm đem niềm vui đến cho những người phế binh sống hết sức đói nghèo bên quê mẹ. (Truyện kể do Sưu Tầm siêu tầm)

             Đó chỉ là một trong muôn ngàn câu truyện đời nói điều gì đó, mà thiên hạ đời thường vẫn cứ nói và cứ kể. Kể đây, có thể để nói lên lòng bác ái/yêu thương của cá-nhân hoặc tổ-chức giúp người kém may mắn.

Về các trích-dẫn ở trên về các Đạo để tìm ra một ngày lễ chung cho Phục Sinh, là vấn đề kết-hợp/đại-kết, còn là và vẫn là kết và hợp với tất cả mọi người, không phân-biệt tôn-giáo, già/trẻ, gái/trai, tức: hết mọi người. Tất tần tật.

Kết và hợp trong đại-kết hoặc nối-kết với người khác, đạo khác, tổ-chức khác vv.. còn là và sẽ là kết và hợp hoặc kết rồi hợp trong tinh-thần nhín nhường, dành ưu-tiên cho người khác, ở trên và ở trước mình. Ưu-tiên cả trong quyền-hành, tiền bạc và/hoặc chổ đứng lẫn vị-thế ở đâu đó.

Kết và hợp còn là và sẽ là sống cuộc đời rất Đạo ở nhà đạo hay ngoài đời. Sống như thế, còn có nghĩa đem Đạo vào đời người trong khiêm-tốn, cởi mở rất hết mình.

Trong tình-thần đó, mời bạn và tôi, ta lại sẽ hát mãi bài hát có con dế mèn và em bé đơn sơ, hiền hoà, chân-chất, rất như sau:

“A! Này bé, theo dế ra tận bờ đê

Đất sét đem về ta nặn đồ chơi.

Nặn những tay người hay nặn bàn chân

Tặng cho những ai tàn tật

A! Này bé, theo dế ra trại định-cư.

Coi những ông già phá rừng trồng hoa

Chia sớt ngọt bùi với trẻ mồ côi

Đời mới chúc người phục hồi…

A! Này bé, Con dế xin vài hòn bi!

A! Này bé, Đem biếu những em xa quê!…

            (Phạm Duy – bđd)

             Hát thế rồi, nay ta cứ thế mà sống tinh-thần thân-thương, chân-chất của các bé em hiền-lành ở đời.

                        Trần Ngọc Mười Hai

            Vẫn muốn sống

Như bé em

Chỉ chơi dế.

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ Tư Phục Sinh năm C

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ Tư Phục Sinh năm C 17/4/2016

 Tin Mừng (Ga 10: 27-30)

Khi ấy, Đức Giêsu nói với các người Do thái rằng:

“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không AI cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không AI cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một.

Mai Tá lược dịch. 

 Thông điệp Chúa Chiên Lành hôm nay, có gốc gác rất xưa cổ, thời Cựu Ước. Đặc biệt là sách Êzêkiel, trong đó sáng ngời hình ảnh vị Chúa Chên có “tình cho đi mà chẳng có về”. “Tình cho đi” của Chúa Chiên hôm nay, là sự đỡ nâng đùm bọc, đầy lòng thương xót. Lòng xót thương hai chiều giữa chiên đàn mà Ngài chăn dắt và Vị Chủ Chăn, rất Nhân Hiền. Ở chiên, luôn có sự tự nguyện dấn bước theo chân vị chủ chăn với lòng trọn vẹn tin tưởng. Ở chủ chăn, đó là “lòng kêu gọi mãi”, dù chẳng AI nghe.

Về chăn chiên, các chủ chăn ở Palestine – Trung Đông có thói quen chăn dắt chiên đàn nơi đồng cỏ xanh tươi, bằng đôi chân bước. Chủ chăn chẳng cần đến đàn chó hoặc ngựa cỡi, để lùa chiên như ở Tô Cách Lan, hay nước Úc. Chủ chăn Do Thái, luôn ở phía trước dẫn đường cho chiên con. Và cứ thế, chiên con nghe tiếng chủ kêu gọi mà bước theo sau, rất tin tưởng. Chiên là thú đàn rất hay lo. Dễ hốt hoảng, cách vô lý. Chiên âu lo, nhớn nhác chạy hỗn độn chẳng nguyên cớ. Bất kỳ chuyện tình cờ nào xảy đến, chiên đàn cũng hốt hoảng, chạy tứ tán. Tìm chủ chăn. Và, khi tìm được chủ chăn, thì chiên con cứ răm rắp bước theo đàn, về cùng hướng. Với chiên, chỉ cần nhận Ra lời kêu gọi của chủ chăn, là đã đủ.

Là thú bầy nhút nhát, hay lăng xăng tò mò. Dễ tổn thương. Âu lo. Nên, chiên đàn luôn hãi sợ. Không khôn ngoan cũng chẳng sáng ý như thú loài, nào khác. Chiên quen nghe tiếng chủ, nên khi nghe chủ gọi, chiên không chần chừ, biết tụ tập ngay thành nhóm, thành đàn, tuân lệnh chủ. Không chậm trễ. Chủ biết tính chiên. Chiên biết tính chủ.

Dựa vào đức tính này, thánh Gioan so sánh tâm lý của vị chủ chăn với chiên bầy dễ bảo. Và, thánh sử ví Đức Kitô như Chúa Chiên Nhân Hiền luôn chăm sóc chiên con, nơi đàn bầy. Đây là biểu tượng mà Hội thánh sử dụng để nói về Ơn Gọi trong nhà Đạo: hãy có quyết tâm tham gia trở thành chủ chăn dẫn dắt đàn chiên ngoan đạo.

Lời mời gọi của Hội thánh hôm nay cũng trở nên cấp thiết, khi dữ liệu cho thấy có sự thiếu cân bằng về số lượng và vai trò của các chủ chăn, trong cộng đồng Giáo hội. Chí ít, là Giáo hội ở phương Tây. Ở nhiều nơi, Giáo hội đang bắt đầu dung nạp các ứng viên cho vai trò của chủ chăn từ các nuớc mà trước đây là cánh đồng truyền giáo, đầy những chiên. Bởi thế, cần suy tư nghiên cứu phương pháp và cấu trúc trong đào tạo chủ chăn. Nói cách khác: với Phụng vụ Chúa nhật Chúa Chiên Lành, Hội thánh trở về với Ơn Kêu Gọi làm chủ chiên, lo chăn dắt linh hồn chiên đàn, tin vào Đạo.

Bàn về Ơn Gọi làm chủ chăn trong Hội thánh, là bàn về sự quan yếu của tình thân thương mật thiết trong cộng đồng dân Chúa. Trước nhất, là sự mật thiết giữa chiên con và chủ chăn, tức Đức Kitô rao giảng, vẫn được coi như sự thân mật linh thánh giữa các thành viên cùng nhà, tức Hội thánh Chúa. Gia đình Hội thánh Chúa ở đây được hiểu theo nghĩa gia đình hợp nhất. Hợp nhất không chỉ hiểu theo hệ cấp thần quyền bên trên. Mà là, sự thân mật giữa mỗi người và mọi người. Vì, tất cả thành viên trong gia đình Hội thnh đều là chi thể có cùng một thân mình, cùng não bộ chỉ huy; và, cùng nhịp đập con tim, tạo sức sống.

Sự mật thiết thân thương giữa thành viên trong Hội thánh không là sự thân thiết mang tính chai lì, thụ động. Thụ động, như thái độ vẫn thấy nơi dân thường trong hệ cấp chính quyền, ở ngoài đời. Với thế quyền ngoài đời, người dân chỉ biết có đóng thuế. Và, thi hành luật pháp, thế là đủ. Trong đạo, thực thi luật pháp và thi hành lệnh cũng tựa như giữ các điều răn, giới luật của Hội thánh. Như thế chưa đủ. Còn phải biết dấn thân hơn nữa. Tức là đáp lại lời kêu gọi mất thiết của Hội thánh.

Hội thánh thân thương mật thiết kêu gọi con dân nhà Đạo hãy luôn nguyện và cầu. Nguyện cầu cho Ơn Gọi, trong Hội thánh. Kêu gọi mỗi thành viên tham gia trở thành thừa tác viên cho công tác mục vụ của Hội thánh. Công tác này có thể là vai trò của vị chủ chăn, như linh mục, tu sĩ hoặc nữ tu. Cũng có thể là thừa tác giáo dân trong vai trò cộng tác với các linh mục tu sĩ ấy.

Hội thánh hôm nay vẫn tiếp tục kêu gọi mọi thành viên trở nên linh mục tu sĩ lo việc tu đức trong cộng đồng dân Chúa. Nhưng gọi như thế, không có nghĩa Hội thánh lọai bỏ sự trân trọng về nhu cầu cần thiết, nơi vai trò của giáo dân trong công trình hợp tác xây dựng Nuớc Chúa. Ngày nay, có lẽ nên hiểu Ơn Gọi chăn dắt đàn chiên theo nghĩa phổ cập. Nghĩa là, mỗi người một hoàn cảnh và vị thế, tất cả thành viên đều có thể hoàn thành hợp tác với Hội thánh trong công trình chăn dắt đàn chiên con Giáo hội. Mặc dù, nhu cầu trở thành linh mục/tu sĩ, hoặc nữ tu vẫn được nhấn mạnh và coi là ưu tiên hàng đầu.

Tham gia đáp ứng Ơn Gọi chăn dắt đàn chiên còn là nhận biết lời mời gọi ấy nay gửi đến chính mình, mỗi thành viên. Không phân biệt giới tính, tuổi tác hay sắc tộc. Nhận biết lời Mời Gọi của Hội thánh, đại diện Chúa Chiên Hiền Lành, cũng phải được cân nhắc theo hoàn cảnh của mỗi thành viên và Giáo hội địa phương.

Lời mời gọi của Chúa Chiên Lành, còn là quà tặng riêng lẻ mỗi người đều có thể sử dụng để làm lợi cho người khác. Thành viên khác. Trong cộng đồng Giáo hội, tức các Kitô hữu. Điều này có nghĩa: trên thực tế, ta hãy cùng nhau thực hiện công tác chung của cộng đoàn tình thương là Giáo hội. Công tác xây dựng cộng đoàn tình thương của Đức Chúa, là Chúa Chiên Lành, vẫn đang chờ sự đáp trả của mỗi thành viên. Thành thử, cầu nguyện cho Ơn Gọi, còn có nghĩa là cầu nguyện cho ta, cho người khác, cho bạn bè người thân cùng có Ơn Gọi, chứ không chỉ mình ta. Cầu cho Ơn Gọi, là cầu cho mọi người nghe được tiếng kêu. Tiếng gọi. Của vị chủ chăn đang khẩn thiết kêu mời tất cả dân con trở thành thừa tác viên – tông đồ cho cánh đồng truyền giáo chung.

Cầu, là cầu cho mỗi người. Ở một vị thế. Ta chung lưng đấu cật, cùng nhau thực hiện sứ vụ dựng xây Cộng đoàn tình thương là chính Hội thánh thân thương, ta đang sống. Cầu, là cầu cho toàn thể cộng đoàn biết nghe tiếng gọi của Chủ chăn. Biết tính của chiên đàn, đang lắng nghe tiếng gọi của người chăn dắt.

Tham dự tiệc thánh hôm nay, ta hãy để ra nhiều khoảnh khắc mà suy tư nguyện cầu về lời gọi mời của Chúa Chiên Hiền Lành, biết ý chiên con. Nguyện cầu cho lời gọi mời của Chúa Chiên gửi đến mỗi chiên con, đem lại kết quả. Với đáp ứng của chiên con. Trong Hội thánh. Nguyện và cầu cho chiên con biết đáp lại bằng hai tiếng “Xin Vâng”. Xin vâng, theo thánh ý Chúa mà lãnh nhận bất cứ vai trị nào để phục vụ Hội thánh. Xin vâng, để nếu không làm linh mục, tu sĩ, nữ tu, ta cũng làm thừa tác viên; hoặc phó tế mở mang Nước Trời. Ở trần gian.

Lm Richard Leonard, sj biên soạn

Mai Tá lược dịch. 

‘Việt Nam – Hồ Chí Minh!’

‘Việt Nam – Hồ Chí Minh!’
Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Xin bạn đọc chớ vội dị ứng khi thấy hai tiếng Việt Nam được viết đi liền với tên Hồ Chí Minh. Đây chính là một sự gán ghép tệ hại, xấu xa nhất của lịch sử trong hơn nửa thế kỷ này.

Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt. (Hình minh họa: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Bà Nguyễn Thị Nhuận, một điều dưỡng viên hiện đang làm việc tại Nam Úc, đã kể lại một câu chuyện trên VnExpress, nghe đến nát lòng!

Bà được bệnh viện gửi đến nhà một người khuyết tật, bị bại liệt hai chân, để giúp chăm sóc thường ngày, giúp ông tắm rửa, ăn sáng, dùng máy nâng ông vào ghế tắm và đặt lại giường nằm. Vừa làm, bà vừa giải thích cho ông biết, nhân viên ngày thường đến chăm sóc ông hôm nay bị bệnh nên bà được cơ quan y tế cử đến thay thế.

Bỗng nhiên bà nghe ông hỏi, bà đến Úc lâu chưa?

Bà trả lời:

-Thưa ông, mới hai năm nay và tôi đến từ Việt Nam!

Nghe chưa dứt hai tiếng Việt Nam, ông già bỗng giận dữ quát to, một cách thô lỗ:

-Mày ra khỏi nhà tao ngay! Ra ngay!

Người điều dưỡng viên trong câu chuyện này ấp úng:

-Nhưng, ông đang trong nhà tắm…

-Không! Ra ngay, ra ngay!

Bà Nhuận nhẫn nhục để ông trên ghế tắm, khoác cái áo choàng cho ông và đi ra gọi điện báo về văn phòng. Họ bảo bà cứ yên tâm ra về, họ sẽ cử người đến làm tiếp và an ủi bà:

-Đừng coi đó là chuyện của riêng bà!

Bà Nguyễn Thị Nhuận kể lại: “Tôi cảm thấy tủi thân, trào nước mắt. Tôi mới từ Việt Nam qua với tâm trạng tuy mình còn kém tiếng Anh, nhưng người Việt Nam cũng ‘nổi tiếng anh hùng, dũng cảm, thông minh, sáng tạo…’ Bà cũng chẳng có tội tình gì với ông già, được đến để chăm sóc ông, và cũng tự đánh giá mình là người tử tế. Nhưng tại sao lại bị đối xử như vậy? Chẳng lẽ chỉ vì bà là người Việt Nam?”

Lẽ cố nhiên người điều dưỡng viên trong câu chuyện này không được bệnh nhân cao niên kia giải thích vì sao ông lại khinh miệt một người Việt đến như thế! Có thể trước đây, một người Việt Nam nào đó đã làm những điều xấu xa, hay đối với ông tồi tệ thế nào, khiến giờ đây ông ghét tất cả người Việt.

Cơ quan y tế cử bà Nguyễn Thị Nhuận đến giúp đỡ cho người đàn ông Úc cao niên kia đã an ủi bà: “Đừng coi đó là chuyện của riêng bà!”

Phải, câu chuyện này không phải là của riêng bà, một người Việt đang làm việc tại Úc mà của tất cả thanh danh của người Việt đang ở nước ngoài. Người ta cũng mường tượng ra, một người Việt Nam nào đó đã đối xử xấu xa hay làm một điều gì đó khiến cho một người Úc căm giận đến thế?

Du học ở Úc, bà Nguyễn Thị Nhuận cũng đã được bạn bè, ngay cả những người Châu Á, than phiền về lối sống vô trách nhiệm của sinh viên Việt tại đây, biết đến những thanh niên Việt Nam đang can dự vào các tội buôn bán ma túy tại nơi đã cưu mang họ, và bà cũng mới nghe tin hai người Việt bị bắt vì tội trộm cắp ở Thụy Sĩ.

Cũng như chúng ta, bà Nguyễn Thị Nhuận lâm vào hoàn cảnh này hẳn phải tức giận và xấu hổ, trăn trở tự hỏi: “Ai đã làm cho đất nước chúng ta lâm vào cảnh trái ngang này?”

Câu kết luận của bà Nguyễn Thị Nhuận là: “Có lẽ mỗi ngày tôi và các bạn nên nhìn thẳng vào tấm gương thực (chứ không phải những tấm gương nịnh mặt) để thấy những vết nhọ của mình.”

Khi mà mặt mình mang nhọ, đừng nghĩ là không ai thấy, có ra đường thì chớ vênh váo thêm nhục!

Bạn thử đứng vào vị trí một nhân viên quan thuế tại phi trường Changi, Singapore, khi cầm sổ thông hành của một cô gái Việt mới đến đây, mà không thể không liên tưởng đến chuyện tối nay, anh có thể gặp cô này trên con đường Joo Chiat Road tấp nập của Singapore. Hay một nhân viên phi trường Nhật nào đó cầm một cái sổ thông hành Việt Nam trong tay, mà không nghĩ đến bao nhiêu người Việt, kể cả các quan chức là lũ ăn cắp, buôn lậu.

Không phải không có lý do hay phát biểu hồ đồ mà Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Hà Nội Ngô Quang Kiệt đã phát biểu: “Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ!” Thay vì nhìn nhận sự thật, “soi gương” thì chính quyền Hà Nội, thông qua truyền thông Việt Nam, đã bắt bẻ, đặt vấn đề về lòng yêu nước của ông, cuối cùng áp lực cho ông được về hưu sớm hơn so với kế hoạch.

Sau Tháng Tư, 1975, dân Bắc, ai đi Nam về cùng có chung một nhận xét “trẻ con trong Nam hầu như rất ít nói bậy và viết những điều tục tĩu lên tường nơi công cộng, đi đâu về nhà thì lễ phép cung kính vòng hai tay thưa gửi người bề trên. Đặc biệt, ngoài đường, xe cộ nếu có đụng chạm thì cũng không dẫn đến xô xát, chửi bới nhau như ngày nay.”

Sau năm 1975, “đất lành chim đậu,” nhiều đợt di dân mới ồ ạt từ Bắc vào Nam, tạo điều kiện cho Nam Bắc gần gũi nhau, nhưng cũng chính từ đó, thói hư tật xấu dễ lan tràn, đồng hóa hơn là học hỏi được điều tốt, và ngày nay cái tên “thành phố Hồ Chí Minh” cũng lấm lem không thua gì Hà Nội.

Sau Cách Mạng Tháng Mười, 1917 của Nga, nhà văn Maxim Gorki đã có nhận xét rằng “cuộc cách mạng đã có tác dụng tích cực lật đổ được chế độ phong kiến, nhưng với sự nắm quyền và quản lý xã hội của giai cấp vô sản ít học, nước Nga sẽ phải đối đầu với một tình trạng còn nguy hiểm hơn, đó là ‘lâm nguy văn hóa.’”

Đó là Việt Nam ngày nay. Muốn cải cách văn hóa, giáo dục, lối sống, cũng như của mọi công cuộc cải cách khác, trước hết phải cải cách chính trị, nói chung là thay đổi chính quyền. Từ đâu mà từ nửa thế kỷ nay vấn đề đạo đức – văn hóa – giáo dục của đất nước chúng ta trở nên tồi tệ như hôm nay, và hai tiếng Việt Nam trở thành một mối bận tậm, hổ thẹn của người Việt Nam, khi đi ra nước ngoài!

Tôi xin kể một câu chuyện nhỏ mới xẩy ra đây thôi.

Ba năm nay, ở Kuala Lumpur, thủ đô Malaysia, vào dịp lễ Quốc Khánh 2 Tháng Chín, tòa đại sứ CSVN đều tổ chức một buổi tiệc “buffet” và mời đại diện đại sứ quán các nước khác và người lao động Việt Nam ở Malaysia tham dự. Buổi tiệc chưa bắt đầu, trước con mắt của quan khách ngoại quốc, dân Việt Nam đã nhào vào bàn tiệc lấy thức ăn, đến mức khách tham dự không còn gì ăn, tạo ra một khung cảnh hỗn loạn vô cùng xấu hổ. Năm sau, rút kinh nghiệm, tòa đại sứ tổ chức hai nơi, một ngoài trời và một trong hội trường cho quan khách. Người Việt Nam sau khi đã ăn ở ngoài trời, lại nhào vào hội trường vơ vét thức ăn. Vừa xấu hổ và vì danh dự, đại diện tòa đại sứ Việt Nam tại đây phải chắp tay xin lỗi quan khách!

Câu chuyện đạo đức hôm nay không phải là chuyện đạo đức mà chúng ta trước kia đã có và đã nói tới, mà chính là thứ đạo đức được nhồi nặn trong chủ nghĩa Cộng Sản, thứ “đạo đức cách mạng” sản xuất từ ngay vận nước suy vi, mùa Thu 1955, khi mà dân tộc Việt Nam “vô phúc” nhập cảng nhầm cái chủ nghĩa độc hại, không khác gì thực phẩm độc hại giết người của Trung Cộng hiện nay, là chủ nghĩa Cộng Sản.

Đó cũng là từ ngày hai tiếng Việt Nam được kẹp đôi và gắn bó với cái tên Hồ Chí Minh, như bài hát của “đứa con bất hiếu” Phạm Tuyên, mà những tên ăn bả của Việt Cộng đã nhảy cỡn lên mà reo hò trong các đại hội “Việt Kiều:” “Việt Nam – Hồ Chí Minh!” “Việt Nam – Hồ Chí Minh!”

Chúng ta đã rõ! Cái tên Việt Nam chưa bao giờ nhận được sự bẽ bàng, khốn khổ, khinh miệt từ ngày nó được ghép theo cái tên Hồ Chí Minh!

Quốc hội khóa 13 và Quốc hội khóa 14 và hiến pháp xã hội chủ nghĩa

Quốc hội khóa 13 và Quốc hội khóa 14 và hiến pháp xã hội chủ nghĩa

Viet-studies

Nguyễn Thị Từ Huy

31-3-2016

Quốc hội khóa 13, kỳ họp thứ 11. Nguồn: internet

Tại sao Quốc hội Việt Nam khóa 13 lại vượt quá quyền hạn của mình, vội vàng bầu bốn chức vụ chủ chốt của bộ máy quyền lực? Câu hỏi này đã lan truyền trong nhân dân từ khi thông tin về về việc này được đưa ra, và cũng đã có nhiều diễn giải.

Việc Quốc hội khóa 13 bầu chủ tịch cho Quốc hội khóa 14 và bầu các chức vụ lãnh đạo chủ chốt của nhà nước cho nhiệm kỳ của Quốc hội khóa 14 là một bằng chứng hùng hồn cho việc Hiến pháp Việt Nam chỉ là một mớ giấy lộn. Những người soạn thảo Hiến pháp và thông qua Hiến pháp (tức là Quốc hội) lại là những người coi nó không ra gì, sẵn sàng vi phạm nó, chà đạp nó bằng các quyết định và các việc làm tùy tiện của mình. Trong khi đòi người dân tôn trọng luật pháp, thì cơ quan lập pháp tự mình ngồi xổm lên pháp luật. Điều này chứng minh một nhận định của Hannah Arendt từ những năm 50 của thế kỷ trước: trong một thế chế toàn trị «tất cả đều có thể xảy ra».

Hệ lụy của những hành vi vi phạm Hiến pháp của Quốc hội là gì? Có nhiều hệ lụy, ở đây tôi chỉ nêu ra một hệ lụy, chắc sẽ còn có nhiều phân tích khác của những người khác.

Cho dù về mặt cá nhân, tôi kính trọng chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, thì lo-gic thông thường buộc tất cả người dân Việt Nam (trong đó có tôi) phải nhận ra rằng: Quốc hội 14 do bà Nguyễn Thị Kim Ngân lãnh đạo sẽ là một Quốc hội bù nhìn, số phận bù nhìn này vừa được tuyên bố một cách công khai, một Quốc hội đã bị tước hết tất cả các quyền cơ bản và quan trọng (quyền bầu chủ tịch của mình, quyền bầu các chức danh lãnh đạo của nhà nước, vốn được ghi trong Hiến pháp) ngay từ khi chưa ra đời. Và kéo theo đó, việc «toàn dân» bầu Quốc hội khóa 14 chỉ còn là một việc làm vô nghĩa, chỉ còn là một hình thức chia chác tiền ngân sách cho các đơn vị tổ chức bầu cử mà thôi.

Tuy nhiên, nếu, một ngày đẹp trời, trong tương lai, trên 50% đại biểu của Quốc hội 14 đột nhiên tìm lại lòng tự trọng của mình, đột nhiên muốn giành lại phẩm giá và quyền tự quyết cho mình, đột nhiên không muốn làm bù nhìn nữa, và họ tuyên bố rằng bà Nguyễn Thị Kim Ngân không do họ bầu ra, vì thế bà không phải là chủ tịch của họ. Bà do Quốc hội khóa 13 bầu ra, vậy bà là chủ tịch của Quốc hội khóa 13, chứ không phải là chủ tịch của Quốc hội khóa 14. Đối với Quốc hội khóa 14, bà Nguyễn Thị Kim Ngân là một lãnh đạo không chính danh và không hợp pháp. Vì thế, họ sẽ bầu lại một chủ tịch mới, một chủ tịch đích thực của họ, do họ bầu ra. Về cơ bản, Quốc hội khóa 14 hoàn toàn có quyền làm như vậy. Và các chức danh lãnh đạo do Quốc hội khóa 13 bầu ra cũng có thể rơi vào tình trạng tương tự. Cách làm của Quốc hội khóa 13 (lưu ý là chưa từng xảy ra trong lịch sử Quốc hội Việt Nam) đã tước mất tính chính danh và tính hợp pháp của các chức vụ lãnh đạo chủ chốt, khiến cho nhiệm kỳ của họ sẽ bị rơi vào một tình thế khó khăn, nếu có một lúc nào đó, Quốc hội 14 quyết định truy xét lại tính hợp pháp của họ.

Việc Quốc hội khóa 14 đòi thực hiện quyền của mình, quyền đã được hiến định, quyền của cơ quan quyền lực cao nhất của một quốc gia, là điều bình thường, và hoàn toàn có thể xảy ra, trong một đất nước pháp quyền, nơi pháp luật được tôn trọng và có giá trị thực trong sinh hoạt xã hội.

Dĩ nhiên, không thể hình dung một kịch bản như thế trong một thế chế độc tài. NHƯNG, lịch sử có những bất ngờ mà đôi khi không ai có thể dự đoán được.

Ngoài ra, nếu nhìn từ một góc độ khác, có thể thấy: hiện nay, một trong những nguyên tắc hoạt động của đảng cầm quyền ở Việt Nam là «tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách», và lãnh đạo theo nguyên lý «dân chủ tập trung». Nguyên lý và nguyên tắc này dẫn đến hệ quả tất yếu là trong hoạt động quyền lực, trên thực tế, mọi việc đều do Bộ Chính trị (BCT) quyết, kể cả hoạt động của Quốc hội. BCT là đầu não, là trung tâm quyền lực. Vì thế mới có thể xảy ra việc Quốc hội khóa 13 bầu chủ tịch cho Quốc hội khóa 14, và bầu luôn cả các chức danh lãnh đạo chủ chốt. Dĩ nhiên, nếu BCT không chỉ đạo thì sẽ không bao giờ có việc đó. Dù sao trong Quốc hội 13 cũng có những đầu óc hiểu biết, và vẫn còn có những người có liêm sỉ, nếu được tự quyết thì họ sẽ không làm một việc như vậy, và trước hết là họ không đặt ra vấn đề đó như một nhiệm vụ của họ, vì họ biết rõ việc đó vượt khỏi quyền hạn được phép của họ.

Vậy, BCT mới có 19 người, và có bốn người ở các vị trí chủ chốt: tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng, chủ tịch quốc hội. Như vậy, 4/19 là thiểu số. Nếu mai kia, một ngày đẹp trời, 15/19 thành viên của BCT muốn thay toàn bộ bốn chức danh chủ chốt này, thì với tiền lệ vừa được Quốc hội 13 tạo ra, họ sẽ thi hành ngay lập tức. Bốn vị này sẽ phải viết đơn từ nhiệm, và Quốc hội sẽ lại bầu bộ tứ mới. Đã có tiền lệ rồi mà, có việc gì là không làm được? Lúc đó, hãy hình dung điều gì có thể xảy ra.

Quốc hội 13, bằng sự phục tùng vô điều kiện của mình, bằng việc từ bỏ chức trách của mình khi thực hiện vô điều kiện các đòi hỏi của BCT, đã vừa tạo ra tiền đề cho những khủng hoảng rất có thể sẽ xảy ra về sau ở bộ phận cao nhất của cơ quan quyền lực.

Câu hỏi tự động được đặt ra là: điều gì đang xảy trong guồng máy lãnh đạo Việt Nam? Phải chăng đấy là một việc làm có tính toán phục vụ cho một mục đích dài hạn của một nhóm người nào đó hay một thế lực nào đó?

Nhưng câu hỏi cũng có thể đươc đặt ra theo kiểu khác (đúng là «mọi điều đều có thể»!):

Phải chăng, cách làm việc và các quyết định hết sức tùy tiện, vi phạm luật pháp, hiến pháp, như đang diễn ra hiện nay, là để chuẩn bị cho những rối loạn không thể tránh khỏi trong tương lai? Và những rối loạn này sẽ buộc Việt Nam phải thay đổi một cách triệt để hệ thống chính trị của mình? Phải chăng đấy là chủ ý của những người đang âm thầm chuẩn bị cho các rối loạn này, bởi vì hiện tại họ quá đơn độc, không thể trực tiếp và công khai thực hiện các cải cách mà họ mong muốn? Nếu quả thật như vậy thì chúng ta sẽ phải cảm ơn vị (hoặc một số vị) đạo diễn tài ba, khôn khéo, đang lặng lẽ chuẩn bị cho những khủng hoảng sẽ dẫn tới chuyển biến mang tính lịch sử của chính trị Việt Nam.

Tuy nhiên, những chuyển biến đó chỉ có thể xảy ra khi và chỉ khi người dân và trí thức Việt Nam hiểu được ngầm ý của các vị «đạo diễn» đó để có các hành động phối hợp nhịp nhàng với họ. Nếu Quốc hội khóa 13 vi phạm Hiến pháp nhưng Quốc hội khóa 14 và người dân đều chấp nhận, thì sẽ chẳng có gì xảy ra. Và hẳn nhiên, khi người dân Việt Nam quyết định hành động, và hành động một cách đồng bộ, mạnh mẽ, thì dù có hay không sự tồn tại của các vị «đạo diễn» kia, hệ thống chính trị buộc sẽ phải chuyển động.

Paris, 31/3/2016

Nguyễn Thị Từ Huy

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 31-3-16

Việt Nam bị tố cáo leo thang đàn áp nhân quyền

Việt Nam bị tố cáo leo thang đàn áp nhân quyền

Nguyễn Đình Ngọc - tức blogger Nguyễn Ngọc Già - bị kết án 4 năm tù giam về tội danh ‘tuyên truyền chống nhà nước’.

Nguyễn Đình Ngọc – tức blogger Nguyễn Ngọc Già – bị kết án 4 năm tù giam về tội danh ‘tuyên truyền chống nhà nước’.

Trà Mi-VOA

01.04.2016

Loạt án tù mới đây dành cho các blogger và các nhà hoạt động vì quyền đất đai đánh dấu sự leo thang của chiến dịch đàn áp nhân quyền tại Việt Nam, theo tố cáo của Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền (FIDH).

Thông cáo vừa công bố của FIDH nói ‘Làn sóng giam cầm tùy tiện các blogger và các nhà hoạt động gần đây chứng minh sự tàn nhẫn của chính phủ Việt Nam trong cách ứng phó với những bất đồng chính kiến ôn hòa. Việt Nam phải chấm dứt ngay chiến dịch gia tăng đàn áp và phóng thích tất cả các tù nhân chính trị’.

Lời kêu gọi của cơ quan đại diện cho 178 tổ chức nhân quyền trên thế giới được đưa ra sau khi Việt Nam hôm 30/3 kết án blogger Nguyễn Ngọc Già 4 năm tù giam về tội  danh ‘tuyên truyền chống nhà nước’ vì các bài viết chỉ trích chính phủ mà Hà Nội xem là ‘gây mất lòng tin nhân dân vào đảng và nhà nước’.

Cùng ngày, 3 phụ nữ khiếu kiện đất đai cũng bị tuyên án vì điều 88 Bộ Luật Hình sự với tổng cộng 10 năm tù sau khi giương cờ Việt Nam Cộng hòa và ‘biểu tình trái phép’ bên ngoài Lãnh sự quán Mỹ tại Sài Gòn hồi tháng 7/2014, hành vi bị nhà cầm quyền cho là ‘đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm an ninh quốc gia’.

Trước đó 1 tuần, Việt Nam kêu án blogger Nguyễn Hữu Vinh và trợ lý của ông Nguyễn Thị Minh Thúy lần lượt là 5 năm và 3 năm tù về tội danh ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước’, theo Điều 258 Bộ Luật Hình sự, liên quan đến các bài viết mà Hà Nội gọi là ‘xuyên tạc’ đảng và nhà nước.

Giám đốc phụ trách khu vực Châu Á thuộc Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền dự đoán bức tranh nhân quyền của Việt Nam sẽ càng tối tăm hơn trong thời gian tới với chiến dịch mở màn cho dàn tân lãnh đạo trong bộ máy cầm quyền của đảng cộng sản Việt Nam.

Ông Andrea Giorgetta nói:

“Tôi không ngạc nhiên trước những gì đang diễn ra. Sau một chút tạm ngưng vì bầu bán đại hội đảng, bộ máy đàn áp của nhà nước Việt Nam đã tái khởi động với toàn công suất. Quả là một tín hiệu xấu đối với giới hoạt động bảo vệ nhân quyền trong nước khi cựu Bộ trưởng Công An sắp lên làm Chủ tịch nước. Chúng ta không trông mong gì sẽ nhìn thấy nhân quyền Việt Nam được cải thiện trong thời gian tới”.

Chưa có những áp lực bền vững buộc Việt Nam phải có những cải tổ quan trọng về mặt chính trị, luật pháp hay phóng thích tù nhân lương tâm. Thậm chí phản ứng của quốc tế hiện chưa đủ mạnh trước chiến dịch đàn áp đang diễn ra tại Việt Nam. Mọi người cần đồng thanh gióng tiếng nói quan ngại mạnh mẽ và quyết liệt hơn nữa đối với các vi phạm nhân quyền của Việt Nam.

Ông Andrea Giorgetta.

Ông Giorgetta nói mọi người mong chờ áp lực quốc tế sẽ giúp thay đổi nhân quyền Việt Nam nhưng cho tới nay chưa thấy đủ áp lực đáng kể ngoài những điều kiện đổi chác nhất định vào những thời điểm nhất định như quá trình thương lượng Hiệp định Thương mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP) chẳng hạn.

Ông Giorgetta nói tiếp:

“Chưa có những áp lực bền vững buộc Việt Nam phải có những cải tổ quan trọng về mặt chính trị, luật pháp hay phóng thích tù nhân lương tâm. Thậm chí phản ứng của quốc tế hiện chưa đủ mạnh trước chiến dịch đàn áp đang diễn ra tại Việt Nam. Mọi người cần đồng thanh gióng tiếng nói quan ngại mạnh mẽ và quyết liệt hơn nữa đối với các vi phạm nhân quyền của Việt Nam”.

Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền kêu gọi châu Âu và đặc biệt là Hoa Kỳ, trong chuyến thăm của Tổng thống Mỹ tới Việt Nam vào tháng 5, dùng đòn bẩy kinh tế-chính trị để thúc bách Việt Nam chứng minh tôn trọng cam kết nhân quyền và biểu hiện những cải cách thực thụ.

Giám đốc khu vực Châu Á của FIDH nói:

“Chúng tôi kỳ vọng Tổng thống Barack Obama sẽ lặp lại lời kêu gọi cải thiện nhân quyền nhân chuyến thăm Việt Nam tới đây, không chỉ bằng ngôn từ mà phải bằng những hành động cụ thể gắn liền với những lời kêu gọi đó”.

FIDH nói các điều khoản trong Bộ Luật Hình sự không phù hợp với nghĩa vụ của Việt Nam theo luật pháp quốc tế cần phải bị loại bỏ, bao gồm điều 88 tuyên truyền chống nhà nước, điều 79 hoạt động nhằm lật đổ chính quyền, điều 258 lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước, hay điều 87 phá hoại đoàn kết dân tộc, những quy định thường được áp dụng trong các bản án dành cho giới hoạt động nhân quyền, những người chỉ trích chính phủ, hay bất đồng chính kiến.

Theo FIDH, Việt Nam hiện đang giam giữ khoảng 130 tù nhân chính trị, con số lớn nhất trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).

Hà Nội phủ nhận có tù nhân lương tâm tại Việt Nam và nhất mực khẳng định chỉ cầm tù những người vi phạm pháp luật.

Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền FIDH là cơ quan bảo vệ nhân quyền quốc tế đại diện cho 178 tổ chức nhân quyền từ gần 120 quốc gia.

Kể từ năm 1922 tới nay, FIDH bênh vực cho tất cả các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa như quy định trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Một thành viên trong FIDH là Ủy ban Bảo vệ Quyền làm người Việt Nam có trụ sở tại Pháp.

16 chữ vàng đánh tan “luận điệu xuyên tạc”?

16 chữ vàng đánh tan “luận điệu xuyên tạc”?

Lê Thiên

2-4-2016

Khi truyền thông CSVN báo tin Bộ trưởng Quốc phòng Trung cộng tới VN ngày 27-31/3/2016 “nhằm phản bác những luận điệu xuyên tạc sai trái về vướng mắc, bất đồng trong quan hệ Việt-Trung,” thì vào ngày 25/3/2016 chúng tôi cống hiến bạn đọc bài viết Mấy ghi nhận nhỏ về một bản tin của CSVN, phân tích cái mục tiêu hồ đồ ngang ngược của phía Trung Cộng cũng như thái độ hèn hạ đê tiện của phía CSVN đối với quan thầy của họ.

Rồi từ ngày 27 tới 31/3/2016 tất cả các báo lề đảng từ Quân Đội Nhân Dân tới Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Vietnamnet, VNExpress, Dân Trí…. đều như quên tiệt cái chuyện “phản bác những luận điệu xuyên tạc sai trái…” mà chỉ xoáy sâu vào 16 chữ vàng và 4 tốt!

16 Chữ Vàng

Cụ thể, bản tin ngày 27/03/2016 của Thông Tấn Xã CSVN (dưới nhan đề Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng tiếp Đoàn đại biểu cấp cao Bộ Quốc phòng Trung Quốc) nêu rõ “Đồng chí Thường Vạn Toàn khẳng định….thực hiện nghiêm các thỏa thuận giữa lãnh đạo cao cấp hai Đảng… theo phương châm ‘16 chữ’ và tinh thần ‘4 tốt’. Tiếp theo sau, tới lượt “Phó Tham mưu trưởng Thích Kiến Quốc khẳng định…. TQ mong cùng với VN thực hiện 16 chữ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai…” theo nguyên văn bản tin của Vietnamnet ngày 28/03//2016 – Tướng TQ: ‘Anh em xa không bằng làng giềng gần’. Vietnamnet còn lưu ý độc giả: “Ông [Thích Kiến Quốc] nhấn mạnh” lời khẳng định trên của ông ta!

Thế là các báo đảng đua nhau xoáy vào 16 chữ vàng và 4 tốt bằng hàng loạt thành ngữ, sáo ngữ và công thức lừa mị quen thuộc, như “đoàn kết, hữu nghị, hòa bình, hợp tác, ổn định, phát triển, lòng tin…”

Chẳng hạn, bản tin ngày 27/3/2016 của VNExpress (lặp lại bản tin của TTXVNCS) nêu rằng “Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc thăm Việt Nam, bàn về Biển Đông”, nhưng họ nào có hề đề cập gì tới những điều thiết thực ở Biển Đông mà phía Trung Cộng gây ra cho Việt Nam và ngư dân Việt Nam, ngang nhiên gia tăng phức tạp trên Biển Đông từng ngày cho Việt Nam?

Biển Đông

Nói là “bàn về Biển Đông”, sao không chỉ ra cụ thể những vụ Trung Cộng công khai cướp bóc, đánh đắm tàu cá của người Việt Nam, gây thương vong và cả tử vong cho ngư dân Việt Nam, thậm chí hèn hạ cướp bóc tài sản trên tàu thuyền của Việt Nam, hành xử côn đồ kiểu hải tặc độc ác? mà chỉ nói chung chung “nhất trí quân đội hai nước phải kiềm chế, kiểm soát tốt tình hình, không đe dọa sử dụng vũ lực, không để xảy ra xung đột, cùng giữ gìn hòa bình, ổn định hợp tác…” ?

Người dân Việt Nam có lạ gì miệng lưỡi quân Trung Cộng, luôn lớn tiếng tự cho mình “hết sức tự kiềm chế, kiểm soát tốt tình hình…” nhưng đồng thời lại ồ ạt chuyển vũ khí và các công cụ chiến tranh khác tới Hoàng Sa, Trường Sa, lại còn cho đó là “hành vi tự vệ”, đâu có “đe dọa sử dụng vũ lực” với ai!

“Trung Quốc-Việt Nam hợp tác bàn về Biển Đông”?

Vậy, thử hỏi có bàn hay không việc Cục Hải sự của Trung Cộng thông báo đặt giàn khoan Hải Dương 943 tại khu vực Biển Đông trong phạm vi lãnh hải Việt Nam từ ngày 25/4 đến 31/4/2016!

Có bàn hay không việc Cục Hải sự ấy của Tàu Cộng cảnh báo tàu thuyền “nước ngoài” không đi lại trong phạm vi bán kính 1 hải lý (1,85 km)?

Có bàn hay không “việc Trung Cộng liên tục tiến hành xây dựng ở Biển Đông” cũng như “việc Trung Cộng xây đường băng 3.500 m ở Hoàng Sa”?

Điều này khiến Dương Danh Dy, cựu Tổng lãnh sự CSVN tại Trung Cộng, không thể không lên tiếng với BBC ngày 28/3/2016 (qua bài TQ muốn làm dịu quan hệ với VN), cảnh báo rằng: “Các báo trong nước khi viết về quan hệ Việt – Trung thì lúc nào cũng nhấn mạnh ‘hữu nghị, hòa hảo’, nhưng sự thực có như thế đâu?”

Ông Dương Danh Dy mạnh mẽ cảnh báo: “Cứ tin Trung Quốc là chết!”

Ông Dương Danh Dy còn cho biết: “Khi có tin Bắc Kinh điều giàn khoan Hải Dương đến Biển Đông (đồng thời với sự hiện diện của Bộ Trưởng Quốc phòng TC tại VN) thì rõ là họ vẫn chơi trò ‘hai mặt.’”

Báo Giáo Dục Việt Nam ngày 28/3/2016, trong bài 7 nỗi lo lớn của dân tộc cũng đã đặt ra vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. 7 nỗi lo lớn của dân tộc là do đại biếu QHCS Võ Thị Dung đưa ra. Theo bà Dung, nỗi lo thứ nhất và lớn nhất của dân tộc VN là nỗi lo về ngoại xâm: “Trung Quốc đã ngang nhiên xâm chiếm biển đảo của nước ta, trước đây là quần đảo Hoàng Sa, nay là một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa”. Bà Dung nói: “Đảng và Nhà nước đã có một số chủ trương đấu tranh kiên quyết!” Chúng ta có quyền không tin về điều này. Cũng vậy, chúng ta chắc chắn không ai tin vào chuyện “Đảng và Nhà nước kiên trì bằng biện pháp hòa bình”. Toàn là đánh gió! Nhưng chuyện “họ [TC] càng ngày càng lấn tới” thì là điều có thật! Và đó mới thực sự là “nỗi lo lớn cho đại sự quốc gia.”

Báo Giáo Dục Việt Nam còn đưa ra nhận xét của ông nghị Dương Trung Quốc: “Làm sao cho biển không còn gợn sóng nữa, làm sao cho chúng ta bảo vệ được chủ quyền đất nước. Trên lĩnh vực này tôi thấy Quốc hội qua ý kiến của người dân là chưa hài lòng.” Là thành viên của cái gọi là Quốc Hội dưới chính thể CS, ông Dương Trung Quốc tự đỡ đòn và đỡ đòn cho cơ chế của ông. Người dân không phải chỉ “chưa hài lòng”! Người dân căm hận và hết sức bất bình về cách ứng xử ngậm miệng ăn tiền của các đại biểu quốc hội CSVN chứ không phải chỉ là “chưa hài lòng” thôi đâu!

Trở lại chuyện “tàu lạ” đâm chìm tàu thuyền của ngư dân Việt Nam. Chuyện ấy đâu là chuyện mới xảy ra! Hai từ “tàu lạ” đã xuất hiện từ lâu, khiến người dân ai cũng rõ “lạ” mà không lạ!

Qua bài ‘Tàu lạ’ giết ngư dân…’ ngày 27-3-2016 trên Blog Anh Ba Sàm, Ts Phạm Chí Dũng lại đưa ra chuyện “tàu lạ” đánh hạ tàu cá ngư dân Việt Nam. Ông Dũng than thở: “Ngoài khơi Biển Đông, ‘tàu lạ’ vẫn ung dung tấn công và bắn giết ngư dân Việt. Trong đất liền, giới quan chức bám bờ vẫn hảo hảo chén thù chén tạc với nhau” và với cả bọn quan tướng Hán triều!

Cuối bài, Phạm Chí Dũng báo động: “Tương lai rất cận kề là hàng loạt vụ khiêu khích và có thể cả tấn công của ‘tàu lạ’ sẽ liên tiếp xảy ra. Tương lai hãi hùng không kém là còn nhiều mạng sống của ngư dân sẽ được bạn vàng tính sổ.” Rồi ông Dũng đặt ngay câu hỏi: “Ai sẽ phải chịu trách nhiệm về những cái tang ấy?” Còn ai nữa, thưa Ts Phạm Chí dũng? Nhưng rồi bọn thủ ác cũng lũ a dua vẫn bình chân như vại!

Cam Ranh trong nội vi Đường Lưỡi Bò

Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, Trung Cộng đã đánh chiếm, cướp đoạt sau khi gây đổ máu hàng trăm sinh linh vô tội! Chẳng thấy có câu nào, lời nào từ phía CSVN đấu tranh với kẻ thù. Đã vậy, người ta còn tự nhận mình “chủ động mời tàu TQ thăm cảng Cam Ranh” (theo Vietnamnet ngày 29/3/2016). Đây, nguyên văn câu nói của tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng CSVN: Chúng ta chủ động mời tàu hải quân TQ thăm các cảng VN, trong đó có cảng Cam Ranh, hưởng các dịch vụ ở đó…”

Hoàng Sa nhìn vào Cam Ranh! Chết rồi! Trúng kế chiến lược Lưỡi Bò Đại Hán rồi! Câu hỏi Việt Nam sẽ đi về đâu giờ đã có câu trả lời!

Năm ngoái, Nga xâm lược Crimea của Ukraine. Cuộc xâm chiếm trái phép này được truyền thông CSVN và cả một ông tướng – tướng Lê Văn Cương – biện hộ, tán dương và cổ vũ mạnh mẽ khiến chúng tôi viết bài “Bài học Ukraina – Nước ta trước họa Tàu Nga”. Xin trích lại mấy đoạn liên quan tới Trung Cộng với Cam Ranh như sau đây:

“Nếu với CSVN, Trung Quốc được tôn vinh là ‘người anh em thắm thiết môi liền môi’, thì Nga cũng được tung hô là người ‘ân nhân vĩ đại’ mà Việt Nam có ‘nghĩa vụ’ phải ‘đáp đền’ và đáp đền một cách cụ thể xứng đáng: Cảng Cam Ranh

“Câu hỏi đặt ra ở đây một lần nữa: Nếu trong nước nổ ra một biến động bất thường, như một cuộc biểu tình đòi hỏi thay đổi nhân sự chẳng hạn, thì nhà cầm quyền CSVN sẽ làm gì nếu phía Nga và Tàu viện cớ ‘bảo vệ lợi ích hợp pháp’ của người Nga, người Tàu tại VN như là một hành động “công khai và đúng luật”, dứt khoát đó “không phải là hành động ‘gây sự’” để đưa quân tới những điểm nóng?

“Ấy là chúng tôi chưa bàn tới việc Trung Cộng hay Nga Cộng đã cài sẵn tình báo, ngụy tạo một biến động nào đó để chơi trò tầm ăn dâu lấn đất trên khắp đất nước Việt Nam!” 

Phản bác những luận điệu xuyên tạc?

Trước khi Thường Vạn Toàn đến VN, người ta loan báo Toàn sang VN là “nhằm phản bác những luận điệu xuyên tạc… Khi Toàn đặt chân lên VN thì cái mục tiêu phản bác ấy bỗng dưng không còn được truyền thông CSVN quảng bá tung hô nữa. Người dân VN tưởng đâu mục tiêu kia đã bị gạt qua một bên để hai Đảng đi sâu vào chuyện Đảng sự to lớn hơn. Nhưng không! Không thể nào “mất cảnh giác” với những “luận điệu xuyên tạc”, việc Đảng sự sẽ hỏng bét.

Vậy thì phản bác những luận điệu xuyên tạcbằng cách nào? Bắt bớ, hành hạ, giam tù và kêu án nhiều năm luôn là thượng sách đối với CS! Vừa đẹp lòng đàn anh vừa trấn áp được “dư luận xấu” xuyên tạc mối tình thắm thiết giữa hai đảng anh em!

Hệ quả của toan tính trên là Anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh và người cộng sự, cô Nguyễn Minh Thúy trở thành vật hiến tế đầu tiên! Hai người đấu tranh cho Dân chủ – Dân quyền này bị ra tòa, ngày 23/4/2016, chỉ vài ngày trước ngày viên tướng Bộ trưởng Quốc phòng TC đến Việt Nam. Nguyễn Hữu Vinh lãnh 5 năm tù. Nguyễn Minh Thúy 3 năm!

Rồi đến Blogger Nguyễn Ngọc Già, tức cựu ký giả Nguyễn Đình Ngọc của đài truyền hình CSVN, bị đưa ra Tòa ngày 30/3/2016 và cũng chịu mức án cao: 4 năm tù về tội “đăng tin xuyên tạc, biên soạn, phát tán nhiều bài viết có nội dung chống chính quyền, xúc phạm uy tính, danh dự lãnh đạo đảng”.

Cùng ngày 30/3/2016, ba phụ nữ dân oan tranh đấu cho chủ quyền đất đai lãnh án nặng với cáo buộc chống phá nhà nước”. Bà Ngô Thị Minh Ước 4 năm tù; bà Nguyễn Thị Trí và Nguyễn Thị Bé Hai lãnh mỗi người 3 năm tù.

Như vậy, để đón tiếp quan chức Tàu Cộng, CSVN kết án 6 người dân, gồm 3 người mỗi người án tù 4 năm, cùng với 3 người khác mỗi người chịu án 3 năm. Tổng cộng 21 năm tù cho 6 dân đen thấp cổ bé miệng Việt Nam. Đúng là 21 quả đại bác chào mừng đội quân Cộng đảng đàn anh đến VN mở rộng tay ban phát lại 16 chữ vàng và 4 tốt hữu hảo mà đám đồng chí đàn em vốn đã từng khom lưng cúi đầu đón nhận, nhưng chưa thực hiện đến nơi đến chốn, khiến Hán triều xốn xang, phải thân hành đi đến Việt Nam truyền lại bài học!

Quyền lực và trách nhiệm

Quyền lực và trách nhiệm

Khi khẳng định Đảng Cộng sản là người lãnh đạo duy nhất đất nước và dân tộc, và đưa vào điều 4 của hiến pháp nhằm hợp pháp hoá quyền lãnh đạo ấy, thì đồng thời cũng phải hiểu trách nhiệm mà mình gánh vác nặng nề như thế nào? Trách nhiệm cao nhất là giữ nguyên vẹn đất nước mà tiền nhân trải qua hàng ngàn năm vun đắp bằng máu xương và công sức to lớn của lớp lớp người đi trước ! Không tội nào lớn hơn tội để mất nước!

____

Hoàng Lại Giang

1-4-2016

Ảnh minh họa. Nguồn internet

Cho đến hôm nay vẫn còn có người qui cho Nguyễn Ánh (vua GIA LONG) bán nước! Những tư liệu mà tôi tìm được suốt 50 năm qua thì cái định đề trên không có chỗ đứng cho sự thực lịch sử. Ngược lại vua GIA LONG triều NGUYỄN và chính quyền Pháp đã để lại cho chúng ta một đất nước hoàn chỉnh từ ải Nam Quan cho tới Cà Mau, từ biển đảo Hoàng Sa đến Trường Sa với đầy đủ những tư liệu chính xác mà hôm nay người phát ngôn bộ ngoại giao ta vẫn nhắc đi nhắc lại với giặc Tàu và thế giới về chủ quyền biển đảo không thể chối cãi được!

Biến công ơn thành tội đồ đấy không phải là tính cách của những người có văn hóa. Văn hóa của người Việt là ăn quả nhớ người trồng câyUống nước nhớ nguồn!

Hơn 600 năm trước Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh bắt giải sang Tàu. Hai  anh em Nguyễn Trãi đi cùng cha. Đến Ải Nam quan Nguyễn Phi Khanh dừng lại  bảo Nguyễn Trãi quay về Thăng Long nuôi chí diệt giặc mới là làm tròn đại hiếu.

Hồi còn trẻ, thế hệ  tôi đã từng đến Ải Nam Quan, thác Bản Dốc! Nhưng bây giờ thì cái gọi là Hữu Nghị Quan ấy còn đâu nữa? Thác chính của bản Giốc hùng vĩ và thơ mộng là vậy, còn đâu nữa?

Tại sao đang là của ta từ các bản đồ của  triều Nguyễn và chính quyền Pháp có đầy đủ thác chính Bản Giốc, Ải Nam Quan… lại trở thành của Tàu  trong chế độ xã hội chủ nghĩa của ta?

Dù có tính theo cách gì thì vẫn không thuyết phục được lòng dân! Ông cha chúng ta xây dựng đất nước hàng nghìn năm, không phải tự nhiên… mà vào tay con cháu đại Hán! Đấy là món nợ mà hôm nay chúng ta phải trả lời trước lịch sử.

Rồi Trường Sa, Hoàng Sa? Triều Nguyễn còn lưu lại đầy đủ (dù thực dân Pháp có chiếm đất nước ta thì họ vẫn không đánh mất một tấc đất, một hòn đảo nhỏ nào của nước ta).

Khi đất nước chia đôi theo hiệp định Giơ-ne-vơ thì Hoàng Sa thuộc chính quyền Sài Gòn. Chính quyền Sài Gòn đã giữ Hoàng Sa với trách nhiệm rất cao. Chỉ sau hiệp định Paris được kí kết, người Mỹ chấp nhận rút quân khỏi miền Nam Việt Nam thì quân Tàu mới thừa cơ cuộc nội chiến Việt Nam đang căng thẳng, dùng vũ lực đánh chiếm Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974. 74 chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hi sinh anh dũng, đấy là sự hi sinh anh dũng đáng được tôn vinh và ghi vào lịch sử dân tộc, đáng dựng bia, tạc tượng. Không làm được điều đó là đồng loã với quân cướp nước, có tội với lịch sử. Tôi không đưa ra đây những phát ngôn mang nội hàm bán nước của một số người. Việc này văn học dân gian sẽ … khắc bia vào lòng dân tộc với những thái độ dè dặt, có phần khiếp nhược của một số nhà lãnh đạo hôm nay.

Nhớ lại sau việc « chống lưng » cho bọn Ponpot đánh phá, giết hại bao dân thường của ta ở biên giới Tây Nam, năm 1979 giặc Tàu lại đem quân qua đánh chiếm 6 tỉnh biên giới phía Bắc nước ta. Bao nhiêu dân thường đã chết một cách thảm thương, bao nhiêu chiến sĩ của ta đã ngã xuống! Tội ác này: Trời không dung Đất không tha! Vậy mà sau 30 năm một tấm bia tưởng niệm cũng không có. Ai nghĩ nó sẽ phai nhạt trong lòng dân, người ấy nhầm. Ngược lại, lòng dân sẽ càng bức xúc theo năm tháng về sự xúc phạm trái với đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam, của nền văn hiến nghìn năm của dân tộc!

Năm 1988 bọn hải tặc Trung Quốc lại dùng sức mạnh quân sự ngang nhiên chiếm hàng loạt biển đảo của ta ở Trường Sa!

Và sau đó ai cũng biết chúng kéo giàn khoan 981 cùng hàng loạt tàu hộ tống vào thềm lục địa của nước ta để khoan thăm dò dầu khí!

Cho đến nay thì các đảo chúng chiếm được của ta đã là sân bay, cầu cảng, dàn ra đa và kho chứa đầy vũ khí đã được cấp tập chuyển ra!

Thứ trưởng bộ thông tin truyền thông Việt Nam Trương Minh Tuấn đã dẫn một đoàn ra Trường Sa. Và ông ta đã trực tiếp «chứng kiến hoạt động xâm lấn rầm rộ của Trung Quốc».

Rõ ràng đất nước ta đang từ từ rơi vào tay giặc Trung Quốc!!! Vậy mà có nhà lãnh đạo còn lo lắng về ‘mối quan hệ giữa hai nước, hai dân tộc’ xấu đi, thậm chí có nhà lãnh đạo còn khẳng định mối quan hệ giữa hai nước, hai dân tộc là mối quan hệ truyền thống, môi răng, cần phải giữ gìn. Tôi nghĩ những nhà lãnh đạo ấy cố tình né tránh một sự thật lịch sử: Âm mưu sâu xa của Trung Quốc là biến Việt Nam ta thành chư hầu, thành phiên thuộc của chúng như Nội Mông! Duy Ngô Nhĩ!!!

Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh kiên cường, bất khuất hàng nghìn năm, trước giặc phương Bắc. Với giặc phương Tây lịch sử chỉ ghi có 80 năm mà thôi.

Cái gọi là ý thức hệ, là đồng chí, anh em, 16 chữ, 4 tốt, đại cục, tiểu cục chỉ là cái ‘bẫy’ cho những người nhẹ dạ cả tin và ảo tưởng! Ý đồ xâm lược sâu xa của con cháu nhà đại Hán đã có từ trong huyết quản của chúng, đừng hòng có sự thay máu. Cả nhân loại hôm qua và hôm nay đã biết rất rõ tâm địa của chúng. Không lý gì những nhà lãnh đạo của ta hôm nay không biết!

Tôi rất buồn khi vị bộ trưởng Văn phòng Chính phủ ta lại tin tưởng sẽ dùng biện pháp trao đổi trên cơ sở tôn trọng công ước quốc tế thì kẻ cướp biển đảo của ta sẽ nhận ra lẽ phải. Một sự tin tưởng không thực tế, một sự ấu trĩ cố tình, nếu không muốn nói là đánh lừa công luận đang sôi sục căm hờn!

Lịch sử cho thấy, chưa bao giờ ta mạnh hơn Trung Quốc! Nhưng lịch sử cũng chứng minh chưa bao giờ ta chịu thần phục Trung Quốc!

Từ đầu thế kỷ 11, Tống Thần Tôn lên ngôi, chấp nhận lời thỉnh nguyện của tể tướng Vương An Thạch, đem quân qua đánh Việt Nam. Chúng cho xây thành đắp lũy ở châu Ung, châu Liêm, châu Khâm (Ngày nay là Quảng Đông và Quảng Tây). Lý Thường Kiệt được triều thần ủng hộ, đã chặn ngay ý đồ xâm lược của chúng trên đất của chúng. Lần thứ hai Lý Thường Kiệt đánh tan tác quân Tống trên sông Như Nguyệt! Cùng với sự thất bại của biến pháp, hai trận thua đau trước Lý Thường Kiệt, Tống triều buộc phải cho tể tướng họ Vương về vườn! Vua tôi nhà Trần ba lần đánh tan quân Nguyên Mông! Và gần đây nhất là 29 vạn quân Thanh đã tan tác, bỏ cả ấn tín tranh nhau qua cầu phao, chạy về nước! Gò Đống Đa là nấm mồ lớn nhất nước Nam vẫn còn đó, cùng năm tháng nhắc nhở người Việt về niềm tự hào dân tộc, và nhắc nhở giặc phương Bắc nỗi nhục của kẻ nuôi mộng bá quyền!

Vua Trần Nhân Tông đã từng nói, ai lơ là để mất dù là một tấc đất của tiền nhân để lại, kẻ đó phải bị chém! Thời hiện đại chúng ta đã để giặc phương Bắc cướp đi bao nhiêu đất đai, biển đảo chưa thấy ai bị chém cả? Câu hỏi giành cho hậu thế.

Đến lúc phải xóa cho được câu đã thành văn học dân gian: ‘Hèn với giặc, ác với dân’ ở thời đương đại. Câu đó xuất phát từ đâu ? Xin thưa từ thái độ mềm mỏng đến nhu nhược trước nạn xâm lăng phương Bắc bằng cách dùng cả một lực lượng công an đồ sộ đàn áp những người yêu nước biểu tình phản đối Trung Quốc xâm lược! Hành động ấy đồng nghĩa với việc thông đồng với giặc triệt tiêu những lực lượng yêu nước chống xâm lăng.

Không phải ngẫu nhiên mà một cháu bé mới tròn 18 tuổi đã dám lấy máu mình viết lên 2 tấm vải 2 dòng chữ bày tỏ một thái độ thiếu cương quyết của chính quyền và hành động hung hăng ngang ngược, lật lọng của kẻ cướp nước. Cháu ấy là Nguyễn Phương Uyên, con một gia đình nghèo khó ở Bình Thuận. Tôi không nghĩ cháu nông nổi! Suy nghĩ và hành động của Phương Quyên là sự cô đúc tinh thần yêu nước và căm thù giặc xâm lược, truyền thống của dân tộc được đúc kết qua hàng ngàn năm giữ nước. Đó cũng là bản lĩnh, là trí tuệ: thà chết vinh hơn sống nhục!

Cũng có nhà lãnh đạo hùng hồn trước việc Trung Quốc cướp Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam rằng: Đời ta không đòi được thì đời con cháu chúng ta sẽ đòi. Tôi nghĩ đấy là một thái độ thiếu trách nhiệm. Vì tình hữu nghị, vì ý thức hệ, vì 16 chữ, 4 tốt giả dối, lừa gạt của kẻ thù hôm nay … mà mơ hồ sẽ ngồi lại đối thoại với nhau để hy vọng đòi lại biển đảo đã để mất là một ảo tưởng nếu không nói là tránh né và dồn trách nhiệm cho con cháu! Đấy không phải là hành động của bậc cha anh mà chính là sự khiếp nhược trước kẻ thù, mới hôm qua đã hết lòng « giúp » ta « giải phóng dân tộc ».

Gần 80 năm của cuộc đời, tôi chưa nghe ai gọi giặc cướp nước mình là bạn, là đồng chí!

Không ít lần chúng ta tuyên bố: Việt Nam là tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đã đem triệu triệu sinh mạng của dân tộc giữ vững cái tiền đồn ấy để cho Liên Xô và Trung Quốc rảnh tay xây dựng đất nước họ. Thực chất chúng ta chiến đấu giành lại non sông gấm vóc ta, nhưng cũng là giữ thành trì chủ nghĩa xã hội ở Đông Nam Châu Á – Là người Việt Nam hôm nay ai không thấy ẩn sau sự giúp đỡ nhiệt tình kia mang nội hàm việc bảo vệ thành trì chính họ!

Năm 1989-1990, hệ thống chủ nghĩa xã hội ấy sụp đổ trên chính quê hương của Mác, người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản, và Lênin, người thực hiện thành công chủ nghĩa cộng sản ở Nga, người Việt Nam vỡ nhẽ ra, cái gọi là chủ nghĩa xã hội ấy đã bị thực tiễn đào thải. Một học thuyết đã không được nhân dân chấp nhận, đấy là học thuyết ảo. Nếu còn một vài nước vẫn mang tên cái học thuyết ảo kia, thì không phải đấy là chế độ được sự đồng tình của nhân dân, mà nó được bảo vệ bởi họng súng và lưỡi lê của nhà cầm quyền nhằm giữ quyền lực cho chính mình.

Tôi nghĩ đã quá muộn, những người lãnh đạo nên đặt quyền lợi dân tộc lên trên quyền lợi của Đảng Cộng sản, của ý thức hệ mà thay đổi một cách nhìn khác, mới mẻ hơn, hợp với xu thế thời đại hơn, nhằm đòi lại cho bằng được biển đảo của tiền nhân để lại đã bị Trung Quốc chiếm và đang ồ ạt xây phi trường, biến tất cả thành sự đã rồi. Đấy là tội lỗi không thể tha thứ được, không thể biện minh được !

Thời Tam Quốc Tào Tháo còn nói bạn thù quyền biến vô lường. Thời hiện đại, nhà triết học người Anh Lord Pamaroton  nói: Không có kẻ thù vĩnh viễn, không có bạn bè muôn đời, chỉ có quyền lợi dân tộc là vĩnh viễn và muôn đời mà thôi! Hai câu nói ở hai thời đại khác nhau, nhưng cùng chung một mục đích: Quyền lợi dân tộc là trường tồn qua năm tháng.

Không ai lên án vì quyền lợi dân tộc, ta phải liên kết với dân tộc này giành lại trọn vẹn lãnh thổ mà tiền nhân đã đổ bao xương máu, nước mắt và mồ hôi để trao cho chúng ta hôm nay.

Nếu sợ mất hòa khí, đại cục, ý thức hệ mà cố tình tránh né, thậm chí nhún nhường đến mức nhu nhược, hy vọng âm mưu thâm độc đã có truyền thống của Trung Quốc sẽ mang lại kết quả thì đấy sẽ là một thứ hi vọng hão, thì đấy sẽ là hành vi phù hợp với âm mưu thâm độc của con cháu nhà đại Hán.

Qua trường kì lịch sử, không ai hiểu rõ giặc phương Bắc bằng nhân dân Việt Nam. Đừng nghĩ nhân dân Việt Nam im lặng là đồng tình với cách xử sự với giặc phương Bắc của những nhà lãnh đạo hôm nay.

Đừng nhầm sự im lặng – không muốn nói – của dân là sự đồng tình.

Cũng đừng đánh giá thấp tinh thần yêu nước và ý chí kiên cường của nhân dân Việt Nam vốn đã tôi rèn trong trường kì chống ngoại xâm hôm qua?

Phải nhìn xa hơn, đừng để: Tức nước vỡ bờ!

Khi khẳng định đảng Cộng sản là người lãnh đạo duy nhất đất nước và dân tộc, và  đưa vào điều 4 của hiến pháp nhằm hợp pháp hoá quyền lãnh đạo ấy, thì đồng thời cũng phải hiểu trách nhiệm mà mình gánh vác nặng nề như thế nào?

Trách nhiệm cao nhất là giữ nguyên vẹn đất nước mà tiền nhân trải qua hàng ngàn năm vun đắp bằng máu xương và công sức to lớn của lớp lớp người đi trước !

Không tội nào lớn hơn tội để mất nước!

Hãy nghiêm khắc nhìn lại chính mình, đừng dùng mọi phương tiện truyền thông của nhà nước ra rả:

Gia Long cõng rắn cắn gà nhà!

Bây giờ người dân có quyền hỏi:

Thời hiện đại, ai đã rước voi giày mả tổ?

Thời cận đại triều đại Gia Long đã giữ nguyên vẹn lãnh thổ mà tiền nhân để lại, hơn thế nữa, các triều đại thay nhau xác lập cương vực lãnh thổ từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau, từ Quần đảo Hoàng Sa đến Quần đảo Trường Sa… bằng giấy trắng mực đen, bằng các đội binh lính thay nhau  ra túc trực ở quần đảo Hoàng Sa gọi là: Đội  Khao lề tế lính!

Những nhà lãnh đạo đảng Cộng sản phải nghĩ đến trách nhiệm để mất đất nước và biển đảo hôm nay! Người dân Việt Nam ai cũng thấy quân xâm lược Trung Quốc lợi dụng ý thức hệ và ỷ mạnh  “gặm nhấm dần đất nước ta từ tổ con đại bàn thành tổ con chim chích như lời vua Trần Nhân Tông  đã cảnh báo! Và vua Lê Thánh Tông trịnh trọng tuyên bố:Nếu các người đem một thước sông, một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc thì phải tội tru di!”

Khi còn nô lệ về ý thức hệ  thì độc lập, tự do chỉ là thứ bánh vẽ, thứ mỵ dân, lừa dân, phi thực tế!

Không một người dân Việt Nam nào còn chút lòng yêu nước có thể chấp nhận một chính quyền để mất dần đất và nước vào tay kẻ thù truyền kiếp!

HỘI NGHỊ CỬ TRI VÀ NHỮNG THỦ ĐOẠN GÂY BẤT LỢI CHO ỨNG CỬ VIÊN ĐỘC LẬP

HỘI NGHỊ CỬ TRI VÀ NHỮNG THỦ ĐOẠN GÂY BẤT LỢI CHO ỨNG CỬ VIÊN ĐỘC LẬP

Blog RFA

Nguyễn Tường Thụy

1-4-2016

Hội nghị Hiệp thương lần thứ 2 của Hà Nội đã thông qua danh sách 87 ứng cử viên, trong đó có 48 người tự ứng cử. Trong số những người tự ứng cử có khoảng hơn 10 ứng cử viên độc lập. Vì khái niệm ứng cử viên độc lập chỉ là tương đối nên không thể đưa ra con số cụ thể. Con số tự ứng cử ở Sài Gòn cũng bằng Hà Nội nhưng số ứng cử viên độc lập ít hơn.

Hiện nay có một số ứng cử viên độc lập đã đưa ra Hội nghị cử tri để lấy ý kiến. Qua các Hội nghị cử tri này cho thấy Ban tổ chức đã dùng những thủ đoạn gây bất lợi cho ứng cử viên bằng những việc làm trái luật.

Vì vậy, với các ứng cử viên độc lập chưa đưa ra Hội nghị cử tri cần hết sức lưu tâm.

H1Ứng cử viên độc lập Hoàng Dũng. Nguồn: Facebook

Buổi lấy ý kiến cử tri đối với ứng cử viên Hoàng Dũng ở quận Phú Nhuận, Sài Gòn nổi tiếng với màn ném mắm tôm vào những người đến ủng hộ anh và được công an làm nhiệm vụ ở đấy làm ngơ. Những người ủng hộ anh không được vào đã đành mà ban đầu họ còn định ngăn cản cả vợ anh, mặc dù cô cùng có hộ khẩu tại tổ dân phố. Hoàng Dũng cho biết có người ở hội phụ nữ chồm lên hai bàn trước chỉ vào mục không tín nhiệm để hướng dẫn người khác gạch chéo vào đấy. Kết quả anh được 7% số phiếu.

H1Ứng cử viên độc lập Đỗ Anh Tuấn. Nguồn: FB Tuấn Đỗ

Về Hội nghị lấy ý kiến cử tri tại cơ quan Đỗ Anh Tuấn (Vĩnh Phúc), anh cho biết Công ty anh có 104 người nhưng chỉ mời 15 người còn mời các công ty khác 103 người. Thành phần mời chủ yếu là các đảng viên. Đa số những người đến dự anh không biết họ và họ cũng chẳng biết anh là ai. Anh chỉ được 8,6% số phiếu, chủ yếu là của người ở cơ quan anh. Sau màn lấy ý kiến cử tri ở cơ quan, Đỗ Anh Tuấn còn phải trải qua Hội nghị cử tri ở nơi cư trú. Ngày hôm qua, lúc 6 giờ chiều, anh mới nhận được giấy mời đến Hội nghị lấy ý kiến cử tri ở nơi cư trú vào lúc 1 giờ 30’ trưa hôm nay 1/4/2016, tức là anh chỉ được báo trước chưa đầy 1 ngày.

Ứng cử viên Phan Vân Bách. Nguồn: Facebook

Trường hợp Phan Vân Bách còn quái dị hơn. Phường Trung Tự, Quận Đống Đa Hà Nội tổ chức Hội nghị cử tri mà anh không hề hay biết trong khi anh là ứng cử viên Đại biểu quốc hội. Hay “tin dữ” anh vội chạy đến xin dự nhưng họ không cho anh vào. Tôi hỏi anh sao không hỏi những người đi dự xem như thế nào, cử tri “tín nhiệm” anh mấy phần trăm nhưng anh cho biết, anh có hỏi nhưng họ bí mật lắm, không ai dám nói. Anh đã gửi đơn tố cáo về việc này.

Ở Sài Gòn, ca sĩ Ngân Mai Lâm được 3 phiếu trên 82 cử tri, trong đó có 2 phiếu của cô và mẹ cô, còn 1 phiếu không biết của ai, cô gọi là “ánh sáng duy nhất trong tăm tối”.

Tuy vậy, cô không buồn. Cô cho rằng “bằng trò dàn cảnh sắp xếp, họ chặn được Mai vào lần này, nhưng sẽ thế nào sau 5 năm nữa? Mai tin rằng niềm tin của mình đại diện cho tương lai, còn họ chỉ đại diện cho một quá khứ đang lụi tàn dần. Cuối cùng để xem cái gì sẽ thắng”

Với Nguyễn Thúy Hạnh, tuy chị đã trải qua Hội nghị cử tri ở cơ quan với con số 100% ủng hộ nhưng vẫn còn một lần được “góp ý kiến” ở cơi cư trú nữa. Thông thường, màn ở tổ dân phố là cửa ải khó qua nhất vì những thủ đoạn ở đấy dễ thực hiện như truyên truyền, bôi nhọ trước, bố trí, sắp xếp thế nào để bất lợi cho ứng cử viên. Thúy Hạnh cho biết, em sẽ “chết” ở chỗ ấy anh ạ.

*

* *

Qua những trường hợp người ứng cử độc lập đã đưa ra Hội nghị cử tri cho thấy những phát biểu không ủng hộ cử tri là họ cố nói lấy được hoặc không không hiểu luật. Theo họ là cứ phải là “người của tổ chức”, phải “ủng hộ chủ trương chính sách của đảng và nhà nước”, phải “hòa mình với quần chúng”. Đây là hệ ý thức quá lỗi thời, lạc hậu.

Qua các trường hợp nêu trên có thể thấy, cách thức tổ chức hội nghị sẽ có tác động rất lớn đến kết quả lấy ý kiến. Vì vậy, những anh chị em ứng cử viên độc lập chưa đưa ra Hội nghị cử tri cần chú ý một số qui định của pháp luật để có ý kiến nếu địa phương cố tình làm trái:

– Về địa điểm tổ chức ở tổ dân phố: Điều 45 Luật bầu cử khoản 1 qui định “Hội nghị cử tri ở xã, phường, thị trấn được tổ chức tại thôn, tổ dân phố nơi người ứng cử đại biểu Quốc hội cư trú thường xuyên…”

Điều này nhằm tạo điều kiện cho cử tri thuận tiện trong việc tham gia. Như vậy nếu tổ chức ở thôn xóm khác là trái luật. Việc đưa đi nơi khác họp khiến nhiều cử tri không có điều kiện tham gia, nhưng những cử tri được bố trí thì họ sẽ không vắng mặt.

– Về thành phần tham dự: Cũng điều 45 qui định “Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị đã giới thiệu người ứng cử được mời tham dự hội nghị này”

Điều này có thể hiểu là ngoài đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị đã giới thiệu ứng cử viên, không được mời các cơ quan, đoàn thể hay các thành phần khác. Đề phòng trường hợp đưa cử tri ở nơi khác đến để tăng số người không ủng hộ ứng cử viên.

Ban tổ chức không thể chỉ mời một số cử tri vì làm như thế là tước quyền công dân của họ. Nếu cho rằng đó là mời đại biểu cử tri thì chưa thấy có qui định nào nói về mời đại biểu cử tri. Đại biểu cử tri nếu có, phải do dân bầu ra. Việc chỉ định là trái luật. Vì vậy phải mời hết cử tri trong tổ.

– Một số trường hợp ứng cử viên độc lập đã đưa ra Hội nghị cử tri không trường hợp nào đạt được 50% số phiếu. Tuy vậy, chưa có qui định nào nói rằng nếu không đạt được 50% thì sẽ bị loại. Kết quả của hội nghị cử tri là một trong những căn cứ để lựa chọn, lập danh sách ở Hội nghị Hiệp thương lần thứ 3 (khoản 2 điều 49 Luật bầu cử).

– Việc ứng cử viên đang công tác phải lấy ý kiến cử tri ở cả hai nơi chưa rõ thuộc quy định nào và áp dụng với thành phần nào. Nếu không có quy định này thì phải xem lại tính pháp lý của nó. Nhiều khi ý kiến cử tri ở nơi cư trú và nơi công tác rất khác nhau.

Những thủ đoạn nhằm gạt ứng cử viên độc lập có rất nhiều, tôi đã đề cập ở các bài viết trước. Ở đây chỉ nêu mấy vấn đề xung quanh Hội nghị cử tri.

GẶP CHÚA TRÊN ĐƯỜNG

 GẶP CHÚA TRÊN ĐƯỜNG

Các bạn trẻ thân mến,

Không biết có điều gì thay đổi về vẻ bề ngoài của Chúa Giêsu hay không, nhưng rất nhiều người, dù có một tương quan gắn bó rất chặt chẽ với Ngài cũng không thể nhận ra Ngài sau khi Ngài sống lại từ cõi chết.  Đầu tiên là bà Maria Madalena.

EMAU

Buổi sáng ngày đầu tuần, bà cùng một số phụ nữ khác kéo nhau ra mộ, dự định là sẽ dùng dầu thơm để xức xác Chúa, nhưng không thấy xác Chúa đâu.  Bà đứng bên ngoài mà khóc, vì ngỡ là người ta đã nhẫn tâm mang xác Chúa đi giấu ở đâu rồi.  Thầy Giêsu hiện ra đứng sau lưng gọi tên bà, bà cứ ngỡ là người làm vườn.  Mãi đến khi Chúa Giêsu gọi bà bằng cái tên thân thương, bà mới thật sự nhận ra đó chính là Chúa.

Hai môn đệ Emmaus cũng vậy.  Họ đang lê bước về quê nhà sau một thời gian rong ruổi theo Chúa. Cái chết của Thầy dường như là một cú sốc rất lớn với họ.  Họ liên hồi bàn thảo với nhau những chuyện liên quan đến Ngài.  Chúa Giêsu bước tới, giả vờ hỏi han.  Họ chẳng hề nhận ra, còn trách “người khách lạ” sao vô tâm với những chuyện động trời vừa xảy ra ở Giêrusalem trong những ngày vừa rồi.  Thấy họ vẫn còn mê muội chưa hiểu chuyện gì, Chúa Giêsu lên tiếng dạy dỗ họ, giải thích cho họ hiểu ý nghĩa của Thánh Kinh và những lời tiên tri nói về Đấng Mesia.  Lòng họ như bừng cháy, nhưng vẫn chưa nhận ra.  Cho đến khi Chúa Giêsu được họ mời vào nhà và làm những cử chỉ hệt như trước kia là bẻ bánh trao cho mọi người, họ mới nhận ra người đã đồng hành với mình từ chiều đến giờ là Thầy Giêsu chí thánh.

Tại bờ hồ Tiberia cũng vậy.  Suốt một đêm cực nhọc đánh cá, các tông đồ, dù là những tay ngư phủ cừ khôi một thời, chẳng bắt được con cá nào.  Khi ngày vừa lên, họ mỏi mệt chèo chiếc thuyền vào bờ trong tâm trạng của những người thất bại.  Bỗng đâu xuất hiện trên bãi biển một người đàn ông lạ mặt, hỏi han các ông về thành tích lao nhọc của đêm qua.  Họ thật thà trả lời là mình tay trắng mà không hề nhận ra người hỏi đó là ai.  Nghe theo lời chỉ dẫn của người này, họ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền như một hy vọng cuối cùng, vớt vát được chút đỉnh.  Quả nhiên, mẻ cá thu được mới kinh khủng làm sao.  Mọi người tất bật lo kéo lưới để thu lượm cá bắt được, thì chỉ có một người trong số đó nhận ra chính Thầy là người đang đứng trên bãi biển kia.

Các bạn trẻ thân mến,

Nhận ra Chúa hiện diện bên chúng ta là điều không dễ tí nào.  Ngay cả các môn đệ, những người đã từng sống chung với Chúa một khoảng thời gian dài cũng không ngay lập tức nhận ra Ngài khi Ngài hiện đến, huống gì những con người xa lạ như chúng ta.

Chúa Giêsu đã phục sinh, và chắc là sau khi phục sinh, Ngài vẫn là Ngài, nhưng cũng có gì đó khác trước.  Cuộc sống với biết bao khó khăn che khuất đôi mắt của ta bằng những giọt lệ buồn như Madalena, những tranh luận như hai môn đệ Emmaus, hay những chán chường, thất vọng như các tông đồ, khiến ta không còn nhìn thấy Chúa hiện diện ngay bên chúng ta.  Những tư tưởng buồn lại nối tiếp tư tưởng buồn.  Hễ cứ gặp một chuyện không vui là ta tiếp tục suy diễn ra những hoàn cảnh khác tệ hại hơn, khiến cho tâm trí ta chỉ toàn những hố sâu của u buồn và chán nản.  Chúa ở ngay đó, nhưng có mấy khi ta nhận ra Ngài.

Maria Madalena đã được Chúa gọi đích danh mình bằng giọng nói thân quen ngày nào.  Nhờ thế mà bà như bừng tỉnh và được giải thoát khỏi những giọt nước mắt tang thương.  Các môn đệ Emmaus thấy nơi Chúa những lời giáo huấn tuyệt diệu thiêu đốt tâm tư và cử chỉ bẻ bánh mà Ngài vẫn hay làm.  Còn các tông đồ thì nhận ra Ngài qua phép lạ mẻ cá.  Ngày đầu tiên khi Giêsu kêu gọi Phêrô, Ngài cũng thực hiện một phép lạ tương tư như vậy.  Làm từ không ra có, hóa ít ra nhiều, chỉ có thể là Thầy Chí Thánh của mình mà thôi.  Chúa sẽ để lại những dấu chỉ để người ta nhận ra Ngài.  Hai người yêu thương nhau luôn có những ký ức về nhau mà chỉ cần nhìn hay nhớ đến ký ức ấy, là trọn vẹn hình ảnh của người kia sẽ được nhận ra.

Đối với chúng ta, có lẽ Chúa cũng để lại muôn vàn dấu ấn như thế để ta có thể nhận ra Ngài.  Hình ảnh về Ngài là hình ảnh của những người nghèo đang cần hơi ấm, cần chút cơm.  Hình ảnh về Ngài là hình ảnh của những người đi tha hương cầu thực, của những ông già bà lão bơ vơ, hình ảnh của những em bé ngây thơ thiếu thốn tình cảm, nơi những bệnh nhân hay những người bị gạt ra bên lề cuộc sống.  Người ta sẽ nhận thấy Chúa trong ta khi ta cũng biết gọi tên người khác bằng một giọng ấm áp yêu thương, khi ta biết dùng những lời dịu ngọt để vỗ về những con tim khô cứng, biết sống một cuộc đời sẻ chia, nâng đỡ, biết an ủi người khác và làm gia tăng những niềm vui nho nhỏ của mọi người.

Các bạn thân mến, giữa các bạn và Chúa Giêsu có dấu hiệu gì của riêng nhau không để khi bạn nhìn vào đó, bạn có thể gặp được Chúa Giêsu?  Có một ký ức nào về Chúa Giêsu hằn in trong trái tim bạn không?  Chúa Giêsu vẫn đang ở đó, chờ đợi bạn đến gặp Ngài.

Pr. Lê Hoàng Nam, S.J.

langthangchieutim gởi

Cái Lon, Chiếc Nón & Nùi Giẻ Rách

Cái Lon, Chiếc Nón & Nùi Giẻ Rách

tuongnangtien

Bây giờ, trừ cái labtop, tôi rất ít để ý đến những vật dụng khác quanh mình. Sau tháng 4 năm 1975 – có lúc – tôi cũng không bận tâm đến bất cứ một thứ gì, ngoài cái lon Guigoz.

Tôi bắt đầu làm quen với nó vào mùa mưa năm 1975, trong trại cải tạo. Chịu đói là bài học đầu tiên mà chúng tôi được học, và đây cũng là bài học kéo dài suốt khóa.

Ở vào hoàn cảnh này mà vớ được mấy củ khoai đào sót, một con ếch chậm chân, một nắm rau rừng cấu vội, hay một vốc gạo thừa – vét được sau những lần tạp dịch dọn kho – mà có sẵn cái lon Guigoz bên mình thì tiện lắm. Cất dấu tang vật rất dễ, và chỉ cần rất ít nhiên liệu trong việc nấu nướng.

Hằng đêm chúng tôi đều được nghe giảng dậy về một cuộc sống mới không giai cấp, không còn cảnh người bóc lột người, mọi sản phẩm đều là của chung, làm việc theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu… Chúng tôi cũng được động viên cứ yên tâm học tập, không phải bận tâm gì về thân nhân hay gia quyến. Cả nước đang đi từ giai đoạn ăn no mặc ấm, sang ăn sang mặc đẹp. Còn cả thế giới thì đang chuẩn bị bước vào thế giới đại đồng.

Chúng tôi tiếp thu tốt, thảo luận tốt, viết thu hoạch tốt, nhất trí rất cao về tất cả mọi vấn đề. Sau đó – sau giờ học tập – mọi người lại lục đục mang tất cả những thứ “cải thiện” được trong ngày, bỏ vào lon Guigoz, lúi húi tìm một góc riêng đun nấu, để “sột sệt” cho đỡ đói.

Cái lon Guigoz đối với chúng tôi (những kẻ thuộc bên thua cuộc) không chỉ là một vật dụng thiết thân mà còn trở thành một kỷ vật, với những kỷ niệm rất buồn. Điều tôi không ngờ là nó cũng rất thân thiết, và cũng là một kỷ vật buồn (không kém) đối với những người thuộc bên thắng cuộc:

Nhớ thằng bạn cùng đơn vị xưa kia kể lại, bà mẹ của cậu ta cứ nắc nỏm ao ước tìm đâu ra một chiếc hộp sắt để đựng kim chỉ khâu hay đựng thuốc cảm cúm, nhức đầu… Tìm đâu ra vài chiếc bình, chiếc chai thật đẹp để tích lạc, đựng vừng phòng ngày mưa gió, lụt lội. Vừa khô ráo, vừa tiện lợi, bày biện chỗ nào cũng sáng cả một góc nhà. Bà mẹ tơ tưởng vậy thôi, chứ đang thời bom rơi đạn nổ, mọi người chỉ sống nhờ vào mấy chiếc tem đậu phụ, tem thịt, vào những viên gạch xếp hàng giữ chỗ thay người trước một xe bán  rau,  trước cửa hàng bán nước mắm mậu dịch…, bới đâu ra chiếc hộp, chiếc chai bà ưng ý?

Ấy vậy mà hôm tiễn thằng bạn tôi vào chiến trường, không hiểu bằng cách nào, bà mẹ đã tìm được chiếc vỏ hộp sữa Guigoz đặt vào một bên túi cóc của cậu con trai. Nhờ cái vỏ hộp sữa ấy – chống được ẩm mốc, mưa nắng – cái ba lô lính của thằng bạn tôi thực sự trở thành một cái chạn di động. Không gặp thì chớ, hễ gặp nhau y như rằng nó sẵn sàng khoản đãi tôi đủ thứ “cao lương mỹ vị”: thịt nai sấy khô, mắm ruốc cá, thịt cheo sào gừng, sả… Tất cả chứa trong chiếc hộp sữa Guigoz đó!

Bạn tôi hy sinh ở Bàu Bàng cuối năm 1969. Nhận được giấy báo tử người con trai đâu đó chín tháng hay một năm, bà mẹ ngã bệnh qua đời. Mãi hơn hai mươi năm sau, những đội viên Hội Chữ thập Đỏ phường Mã Mây mới tìm ra nơi chôn cất thằng bạn tôi. Họ kể lại, di vật của người hy sinh đã ẩm mục, rã rữa hết, chỉ còn tìm được chiếc vỏ hộp sữa Guigoz. Hôm đưa hài cốt bạn tôi về với bà mẹ cậu ta ở một khu phố cổ Hà Nội, người ta đã đặt chiếc vỏ hộp sữa bên cạnh bó hài cốt bạn tôi trước bàn thờ bà mẹ. Đủ lệ bộ ngay ngắn, họ mới thắp hương báo với bà con trai bà đã về. (“Nỗi Buồn Lâu Qua” – Tô Hoàng).

Ngày trở về của chiếc nón cối thì ồn ào, và hoành tráng hơn nhiều:

Ảnh: AP

Năm 1968, người lính trẻ Hoa Kỳ là John Wast, khi lục soát trận địa tìm vũ khí, tài liệu, bất chợt trông thấy một chiếc nón cối có vết đạn, vẽ hình con chim bồ câu. Anh ta buộc chiếc nón vô ba-lô, và khi hồi hương vào năm tháng sau đó, anh ta mang theo làm kỷ niệm chiến tranh và đặt trên cái giá sách trong phòng.

Có một cựu chiến binh làm công tác từ thiện đến gặp anh lính cũ và hỏi anh ta có muốn trả lại chiếc nón về nơi cũ chăng, bởi vì năm tháng qua đi, cũng chẳng còn khơi lại những đau thương nhức nhối nữa. Một phái đoàn có tên là “Đoàn phát triển kinh phí thiện nguyện tại Việt Nam” tìm ra gia đình anh bộ đội Bùi Đức Hùng, bị tử thương, nhưng hài cốt không bao giờ được thu hồi.

Vào ngày Thứ Ba, bốn cựu chiến binh Hoa Kỳ mang hoàn trả chiếc nón cối cho gia đình anh Hùng qua một nghi lễ tại một ngôi làng cách Hà Nội 70 cây số; với nghĩa cử đề cao nhu cầu hòa bình và hòa giải.

Ông Bùi Đức Dục, 52 tuổi, là cháu của liệt sĩ Hùng phát biểu, “Đây thật là giây phút thiêng liêng đối với gia quyến chúng tôi.”

Ông Dục bật khóc khi chiến nón cối được mang đặt lên bàn thờ gia tộc, trước sự chiêm bái của những cựu chiến binh Hoa Kỳ, khoảng 100 dân làng và viên chức xã có mặt. Trong căn phòng cũng đặt một bức tượng ông Hồ Chí Minh, người đã lãnh đạo cuộc chiến tranh thắng lợi.

Ảnh: AP

Ông Dục ngỏ lời “Chúng tôi coi chiếc mũ này như chính một phần thân thể chú tôi, và sẽ bảo tồn nó để nhắc nhở cho thế hệ tiếp nối của gia tộc chúng tôi.”

Hơn ba triệu người Việt Nam đã chết trong chiến tranh qua thời gian Hoa Kỳ phải hành động để ngăn chặn làn sóng Cộng Sản tại Đông Nam Á. Ông Wast, nay đã 67 tuổi, là người dân vùng Toledo, bang Ohio, chưa từng du lịch Việt Nam. Lời nói của ông ta đã ghi và phát lại qua buổi lễ cho biết rằng liệt sĩ Hùng đã chiến đấu thành thạo và ngoan cường… (“46 years on, Vietnamese helmet returned.” Tran Van Minh. AP. Trans Y.Y).

Trường hợp của ông Nguyễn Chánh Nhường thì hơi khác, theo bản tin (“Sau 40 năm, liệt sỹ trở về thành hộ nghèo”) của báo Lao Động, số ra ngày 1 tháng 2 năm 2015:

Một sự kiện hy hữu vừa diễn ra tại xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An) khi ông Nguyễn Chánh Nhường, đã có giấy báo tử và được công nhận Liệt sỹ tròn 40 năm bỗng trở về trước sự ngỡ ngàng của người thân và bà con xóm giềng. Ông Nhường hiện trí nhớ suy giảm, sức khỏe yếu được chính quyền địa phương xếp vào diện hộ nghèo.

Vào ngày 10.4.2014, gia đình ông Nguyễn Chánh An, xóm 19 xã Quỳnh Lâm hết sức ngỡ ngàng khi thấy một người đàn ông ăn mặc rách rưới, dáng vẻ tiều tụy, khắc khổ xuất hiện trước cửa nhà. Sau phút định thần, gia đình ông An bàng hoàng nhận ra đây là ông Nguyễn Chánh Nhường, người anh em ruột của gia đình, đi bộ đội và được báo tử, truy điệu Liệt sỹ vào năm 1974, vừa tròn 40 năm.

Ông Nguyễn Chánh Nhường sinh năm 1949, quê quán xã Quỳnh Lâm, lớn lên theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, ông xung phong lên đường nhập ngũ. Sau một thời gian bặt tin tức, vào năm 1974, cả gia đình ông chết lặng khi nhận được giấy báo tử của đơn vị gửi về, thông báo ông đã hi sinh ngày 6.4.1973. Địa phương và các tổ chức đoàn thể đến thăm hỏi, động viên gia đình và tổ chức lễ truy điệu. Gia đình ông được phát bằng Tổ quốc ghi công số DE 145, được lưu giữ trang trọng tại nhà ông anh cả Nguyễn Chánh Nghiệm…

“Liệt sỹ” Nguyễn Chánh Nhường trở về sau 40 năm báo tử. Ảnh và chú thích: Lao Động

Bà Bùi Thị Hường, Phó Chủ tịch UBND xã Quỳnh Lâm cho biết: “Sau khi nghe tin có ông Nhường trở về, chúng tôi đã thành lập đoàn xác minh thông tin. Kết quả cho thấy người trở về chính là ông Nguyễn Chánh Nhường, đã được công nhận Liệt sỹ cách đây 40 năm. Ông Nhường không có giấy tờ gì, trí nhớ cũng không còn minh mẫn, ngay cả nói cũng không mạch lạc…

Bà Hường nói:“Chúng tôi chưa thăm, tặng quà ông Nhường, nhưng đã có kế hoạch tặng quà và đề xuất UBND huyện tặng quà cho ông trong dịp Tết Nguyên đán Ất Mùi. Đây là một trường hợp hết sức hi hữu, mong rằng các cơ quan chức năng sẽ xem xét giải quyết chế độ phù hợp cho một người đã từng đi bộ đội, tham gia chiến đấu và được công nhận là Liệt sỹ.”

Ông Nhường trở về ngày 18 tháng 3 năm 2014, gần một năm sau (hôm 1 tháng 2 năm 2015) bà Phó Chủ Tịch UBND xã Quỳnh Lâm tuy vẫn chưa đến thăm nhưng đã có “kế hoạch” và “đề xuất UBND huyện tặng quà” rồi. Chả biết “đề xuất” này có được chấp thuận hay không nhưng (“tiếng chào cao hơn mâm cỗ”) thế cũng qúi hoá lắm rồi.

Nếu ông Nguyễn Chánh Nhường đi luôn, và chỉ có cái lon Guigoz hay chiếc nón cối trở về (thôi) thì việc tiếp đón – chắc chắn – sẽ long trọng và đình đám hơn nhiều. Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi. Đã đi chinh chiến mà còn (ráng) trở về làm chi nữa, cho nó thêm rách việc!

Vì sao người Công giáo có tỉ lệ ly hôn thấp?

 Vì sao người Công giáo có tỉ lệ ly hôn thấp?

Dongchuacuuthe.com

Xuất phát từ niềm tin tôn giáo, người Công giáo coi việc ly hôn là chuyện cấm kỵ. Vì thế, tỉ lệ ly hôn ở người công giáo không cao. Tuy nhiên, bên cạnh niềm tin và sự giàng buộc tôn giáo, trước khi kết hôn, các bạn trẻ công giáo đều cho biết, họ được trang bị khá đầy đủ những kiến thức để hòa hợp trong quá trình chung sống.

ChaKha

Linh mục Giuse Ngô Văn Kha. Ảnh: J.B Nguyễn Hữu Vinh

Cha Giuse Ngô Văn Kha – một linh mục của giáo xứ Thái Hà (Hà Nội) cho biết: Trước khi bước vào cuộc hôn nhân, các cặp đôi phải tham gia lớp học tiền hôn nhân. Đây là lớp học bắt buộc của người công giáo và thông thường sẽ kéo dài từ 3 – 6 tháng.

Ở lớp học này, bên cạnh những kiến thức về tôn giáo, các cặp đôi sẽ được học các kiến thức chuyên môn.

“Về kiến thức chuyên môn, chúng tôi có mời các cộng tác viên, đó là các nhà tâm lý học. Họ nói về tâm lý nam nữ, tâm lý vợ chồng, sự khác biệt giữa nam và nữ giữa các thời kỳ mà họ sống.

Ví dụ, phụ nữ khi chưa kết hôn, tâm lý của họ khác, khi kết hôn họ khác và khi có con họ lại khác nữa. Vì thế, nam giới, hay cụ thể là người chồng cần phải hiểu để có sự cảm thông chia sẻ với người phụ nữ của mình.

Bên cạnh đó là về sức khỏe sinh sản. Đối với người công giáo, nạo phá thai là điều tối kỵ. Do đó, tại lớp học này, chúng tôi có mời chuyên viên về sức khỏe sinh sản tới để chỉ cho các bạn các kiến thức khoa học để các bạn hiểu về mình; hiểu về cơ thể mình, hiểu về chu kỳ, hiểu về những ham muốn nhục dục; hiểu về những nguyên lý tác động, kích thích người nam, người nữ; hiểu về tất cả những điều trong cơ thể của mình để tìm cách phòng tránh thai khi chưa có ý định có con.

Hay nói tóm lại, đó là những kiến thức cần hiểu để sống tiết độ trong đời sống hôn nhân gia đình” – vị linh mục nói

traonhancuoi

nh có tính chất minh họa

Ngoài ra, vị linh mục này còn cho biết, tại lớp học tiền hôn nhân, những kiến thức về kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết mâu thuẫn, những bài học về sự xung đột, xung khắc cũng được đề cập đến.

“Chúng tôi luôn nói cho các bạn biết rằng, cuộc sống hôn nhân không phải màu hồng. Sau khi kết hôn, các bạn sẽ gặp phải rất nhiều những khó khăn phức tạp. Đó là những khó khăn mà nếu lường trước được hết, chắc chắn nhiều bạn sẽ không dám kết hôn.

Những bất đồng về lối sống, quan niệm sống khi sống chung trong một gia đình có tam tứ đại đồng đường cũng sẽ dẫn đến rất nhiều mâu thuẫn. Thậm chí, 2 bạn có lấy nhau và ra ở riêng ngay thì những xung khắc xung đột vẫn sẽ xảy ra. Lý do là vì, con người ta độc lập về ý thức, độc lập về tư duy… Chúng ta khác biệt nhau hoàn toàn nên mâu thuẫn khi sống chung là chuyện tất yếu” – cha Kha nói.

Tuy nhiên, sau khi chỉ ra những khó khăn, ở lớp học tiền hôn nhân, các linh mục cũng sẽ chỉ cho các bạn trẻ khái niệm thế nào là yêu, thế nào là sống chung trong một đời sống mà người ta phải sống vì nhau, sống với nhau. Sống để cùng nhau đạt được mục đích mà mục đích ở xã hội này đó là tạo lập cho mình một gia đình êm ấm, vợ chồng đề huề, con cái thành đạt giỏi giang.

Hơn nữa, theo cha Kha, một lý do khiến cho các cuộc hôn nhân bên công giáo luôn bền vững đó là, ngay cả khi đã kết hôn, nếu xảy ra mâu thuẫn, tất cả mọi người vẫn luôn có sự trợ giúp từ các linh mục. Các linh mục sẽ luôn lắng nghe để tư vấn, giải đáp và giảng hòa. Vì thế, dù có làm sai đi chăng nữa thì cuối cùng họ cũng sẽ biết nhìn nhận lại những hành vi sai trái của mình và tìm đường quay trở về.

“Thêm vào đó, tôi vẫn thường khuyên các bạn trẻ, mỗi ngày hãy dành ra một chút thời gian để cầu nguyện. Trước khi cầu nguyện hãy dành một ít phút để soi xét lại những hành động đúng sai mà trong ngày mình đã làm đối với bản thân, với gia đình và với những mối tương quan khác.

Trong bầu không khí đó, nếu có những mâu thuẫn xảy ra, thì đây chính là lúc dễ dàng nhất để người ta có thể nói với nhau, giảng hòa…

Có lẽ vì những lý do đã nêu trên mà ở bên tôi, tỉ lệ ly hôn thường thấp hơn so với mặt bằng chung của xã hội ” – vị linh mục nói

Minh Anh

Nguồn: Vietnamnet

Sống trên đời cần có một tấm lòng

 Sống trên đời cần có một tấm lòng

Dongchuacuuthe.com

Không chỉ cần “một tấm lòng” nữa mà cần đến vạn tấm lòng để chia sẻ bớt nỗi khổ của người nghèo vùng hạn mặn. Để đời bớt mặn đi, lòng người bớt mặn với nhau hơn để yêu nhau hơn, để hiệp nhất với nhau hơn.

Năm 25 tuổi, trong một lần đi nghe nhạc ở một phòng trà. tôi đã nghe những ca từ này của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “…Sống trong đời sống cần có một tấm lòng/ Để làm gì em biết không?/ Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi…”.

Lúc đó, tôi thật sự ngạc nhiên, sao ông nhạc sĩ nãy viết kiểu gì trớt quớt quá vậy. Cần có một tấm lòng nhưng chẳng để làm gì cả, để gió cuốn đi khơi khơi cho dzui là sao?

Thời gian trôi qua, thỉnh thoảng ở đâu đó, trong vài dịp tình cờ tôi lại nghe được ai đó hát những ca từ này, và ý nghĩa của những ca từ đó lại làm cho tôi phải suy tới nghĩ lui.

Ba năm sau, trong lần tham gia cùng một nhóm công tác xã hội đến giúp đỡ đồng bào miền trung khắc phục hậu quả kinh khủng của một cơn siêu bão kèm theo một trận lụt lịch sử. Trong đêm quây quần bên một bếp lửa trong một căn chòi trống giữa đồng, một bạn nữ khuyết tật trong nhóm chợt cất tiếng hát giữa đêm vắng, trên nền nhạc của một cây guitar, cả nhóm đang ồn ào trò chuyện bỗng im bặt.

de gio cuon di

Mọi người ngồi sát lại bên nhau, những bàn tay nắm lấy nhau và cùng lắng nghe tiếng hát của bạn gái đó – cô gái bị mất một chân trong một tai nạn giao thông nhưng vẫn quyết tâm đi theo nhóm trong chuyến công tác dài ngày ở vùng rốn lũ.

Lắng nghe tiếng hát, lặng nhìn khuôn mặt của cô gái chập chờn qua ánh lửa, câu hỏi “cần có một tấm lòng… để gió cuốn đi” lại trở về trong óc của tôi.

Cần có một tấm lòng… để gió cuốn đi… Tôi chợt ngộ ra một điều quá hay mà cố nhạc sĩ họ Trịnh đã gửi gắm qua những ca từ đơn sơ mộc mạc nhưng đầy ý nghĩa nhân văn đó. Vâng, rất cần có một tấm lòng để gió cuốn đi đến ngàn nơi, để cảm nhận, để chia sẻ và để cùng đồng cảm với những nơi đang khó khăn.

* * *

han-man

Hạn mặn nghiêm trọng tại miền tây. Ảnh: VietNamNet

Nhóm chúng tôi vừa đến một tỉnh miền Tây, nơi đang phải chịu cảnh hạn hán, nhiễm mặn nghiêm trọng nhất trong 100 năm qua. Buổi sáng thức giấc, vào nhà vệ sinh để đánh răng súc miệng, ai cũng nhăn mặt vì sao nước mặn thế. Mọi người đùa là ở đây được miễn phí nước muối súc miệng.

Đứa cháu từ Sài Gòn xuống, nhiệt tình nấu bò kho cho cả nhà ăn. Đến bữa, phải châm thêm nước sôi vào cho bớt mặn, dù châm thật nhiều nhưng không giải quyết được cái mặn. Hỏi ra thì cô bé đã lấy nguồn nước sẵn có để nấu bò kho. Nước vốn đã mặn, còn thêm muối vào thì làm sao nuốt cho nổi.

Sàn nhà lau xong, đi tới đi lui cái chân nó nhớt nhớt, rất trơn và có thể té bất cứ lúc nào. Đó là bởi nồng độ muối trong nước quá cao.

Có lẽ, những người đang sống ở nơi có nguồn nước sạch dồi dào sẽ chẳng bao giờ có cảm giác trân quý nguồn nước mà mình đang có. Thỉnh thoảng, nếu có bị cúp nước vài tiếng đồng hồ, thì cảm giác khó chịu cũng xuất hiện trong chốc lát rồi thôi, chẳng có gì phải bận tâm cho lắm.

Chỉ khi nào ở trong vùng hạn mặn đến tận cùng ta mới hiểu một giọt nước ngọt có giá trị đến mức nào.

cho-nuoc

Cụ bà ở Bến Tre cho bà con đến lấy nước miễn phí. Ảnh: FB Hoang Huong

Các hồ nước ngọt khô nẻ. Cánh đồng lúa chết khô. Người dân phải mua nước ngọt về để sinh hoạt với giá đắt cắt cổ, từ 100-180 nghìn đồng/m3.

Dù “ăn nên làm ra” nhưng chính những người bán nước ngọt cũng không thấy vui, bởi sự khốn khổ của đồng loại, bởi nguy cơ cạn kiệt nguồn nước hiển hiện trước mắt.

Đang trong cảnh sống như vậy, đẹp biết bao gia đình một cụ bà ở Bến Tre có giếng nước ngọt đã cho mọi người đến lấy miễn phí trong khi cách đó chỉ 50 mét là nơi đổi nước ngọt giá 5.000/20lít.

Có nhiều tấm lòng hảo tâm khác cũng đang hướng về với vùng nghèo miền Tây sông nước. Nhiều tổ chức, cá nhân đã chung tay chia sẻ với bà con vùng hạn, mặn những bình nước, dù ít ỏi nhưng vô cùng quý hóa.

Phải nói rằng không chỉ cần “một tấm lòng” mà cần đến vạn tấm lòng để chia sẻ bớt nỗi khổ của người nghèo vùng hạn mặn. Để đời bớt mặn đi, lòng người bớt mặn với nhau hơn để yêu nhau hơn, để hiệp nhất với nhau hơn.