‘Giai cấp tiên phong’ đến đường cùng, lãnh thổ mặc ‘bạn vàng’ quản lý

‘Giai cấp tiên phong’ đến đường cùng, lãnh thổ mặc ‘bạn vàng’ quản lý

Blog RFA

JB Nguyễn Hữu Vinh

15-4-2016

“Giai cấp tiên phong” và đảng của “giai cấp tiên phong”

Vài hôm nay, báo chí nêu vấn nạn người dân nông thôn bỏ nhà ra thành phố kiếm sống. Nguyên nhân hiện tượng này, được lý giải đơn giản như trong câu nói của bà Nguyễn Thị Quá (ngụ thôn Tân Mỹ, xã Hòa Phú, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên): “Không đi thì lấy gì ăn? Vào trong ấy lê chân cả ngày còn kiếm được 50.000-100.000 đồng gửi về cho con, chứ ở đây lấy gì cho chúng học?”.

Hậu quả của hiện tượng này chưa ai thống kê được.

Trước hết, là cảnh gia đình ly tán, dẫn đến nhiều vấn đề xã hội phát sinh, trẻ em không được học hành, người già thiếu người chăm sóc. Sau đó, nông thôn dần biến thành những vùng đất hoang.

Báo chí nêu một ví dụ: “Ông Lê Duy Thắng, Chủ tịch UBND xã Thiệu Giao, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, cho hay toàn xã có khoảng 7.800 người nhưng nay chỉ còn 2.400 người ở lại địa phương gồm 900 người già, hơn 400 học sinh và các thành phần lao động khác” – Nghĩa là 2/3 số người ở xã này đã ra đi tìm đường cứu… gia đình.

Đến thành phố, những người nông dân làm đủ mọi nghề kiếm sống, hoặc hòa nhập vào tầng lớp “tiểu thương” như bán hàng rong, bán vé số, hoặc phục vụ trong các gia đình với vai trò “osin”, thậm chí nhiều thanh niên còn tham gia các hoạt động tệ nạn như nạn rải đinh, trấn lột… đủ cả.

Đa số họ đã tự chuyển từ thành phần từ “liên minh” sang thành phần “công nhân” tại các khu công nghiệp. Họ được mệnh danh là “giai cấp tiên phong và có Đảng CS là của giai cấp công nhân, trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân”.

Tại các khu công nghiệp, công nhân được các “ông chủ tư bản bóc lột” tùy thích, không ai bảo vệ họ. Họ “được” bóc lột thậm tệ về ngày công, về giờ làm và nhiều mặt đời sống tinh thần.

Công nhân công ty TNHH Bluecom Vina, cho biết: Cả tuần làm việc, nhiều anh chị em thường xuyên phải tăng ca đến tận 22h đêm nên quá sức chịu đựng. Bên cạnh đó, phía công ty có quy định rõ ràng về việc thứ bảy, công nhân không phải làm tăng ca, tuy nhiên thực tế vẫn thường xuyên phải làm thêm giờ.

Công ty có cả hàng ngàn công nhân, nhưng không tìm ra một tổ chức nào để bảo vệ họ. Vì thế, ngày 11/4/2016  gần 1.000 công nhân công ty TNHH Bluecom Vina tại KCN Tràng Duệ, An Dương, Hải Phòng đồng loạt nghỉ việc đòi thành lập công đoàn.

Hài hước hơn, là nơi có các tổ chức công đoàn hoạt động, thì các tổ chức này cũng là tổ chức của nhà nước quản lý, do đảng lãnh đạo nên hầu như không có tác dụng bảo vệ quyền lợi công nhân.

Hôm nay, 15/4/2016, bức xúc vì một ngày phải làm việc liên tục 12 tiếng đồng hồ nhưng vẫn không đủ chỉ tiêu sản lượng mà công ty đặt ra, các chế độ chính sách cho người lao động cũng không được đảm bảo, hàng ngàn công nhân công ty sản xuất giầy da KaiYang (Đài Loan, đóng trên đường Hoàng Quốc Việt, TP. Hải Phòng) đã đồng loạt bỏ việc.

“Mặc dù công nhân đã kiến nghị rất nhiều lần lên tổ chức công đoàn công ty trong 5-6 tháng nay nhưng tình trạng vẫn không được cải thiện, dẫn đến việc công nhân phải ngưng việc nhằm tạo sức ép lên công ty”. – Bài viết trên tờ Tuổi trẻ cho biết.

Xem ra, bây giờ đảng không mấy quan tâm đến “giai cấp tiên phong” của mình nữa thì phải? Có người nói rằng: Bản chất giai cấp của Đảng đã thay đổi từ lâu.

Chỉ là em mượn tí mà thôi

Còn nhớ, cựu Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nói chuyện với Việt Kiều về tham nhũng ở VN rằng: “Ở VN của mình, không muốn tham cũng động lòng tham. Người thủ quỹ khi nào cũng giữ khư khư tiền, khi nào cũng có số dư, cho nên khi bí quá thì em mượn chút, mượn không thấy ai đòi hết, thì em mượn thêm chứ không phải VN tham nhũng nhất thế giới đâu” – Đây có lẽ là định nghĩa về tham nhũng hay nhất thế giới cần đưa vào giáo khoa cho toàn thế giới!

Hôm nay, báo chí đưa tin: Nữ kế toán Mặt trận tổ quốc “nuốt” hơn 6,1 tỉ tiền cứu trợ lũ lụt.

Chuyện ở VN tham ô tiền cứu trợ bão lụt, thiên tai thì đã quá nhiều. Từ 2002, Hà Tĩnh đã nổ ra vụ tham ô 24,4 tỷ đồng cứu trợ bão lụt ở Hương Sơn. Thế nhưng đến tận 2006 Bộ Công an mới chỉ đạo điều tra. Người dân nói rằng: Số tiền đó, nó đã ăn, thải ra và tiêu hóa lại biết bao lượt, làm sao mà điều tra. Sau 14 năm tham nhũng, 10 năm chỉ đạo của Bộ Công an, nay sự việc không thấy sủi tăm nữa.

Trước đó ở  Nghệ An cũng đã bị Mặt trận xà xẻo mất 1 tỷ trong 3 tỷ đồng tiền cứu trợ.

Xem ra, cái khoản cứu trợ nhân đạo của người dân là khoản dễ kiếm và bỏ túi nên khắp nơi nở rộ. Chắc vậy nên mới có chuyện nhà nước nhiều địa phương quy định: Muốn cứu trợ thiên tai, phải qua tổ chức nhà nước.

Tổ chức quốc tế Global Financial Integrity có một bản báo cáo: Từ năm 2004-2013, có tới 92,93 tỷ USD được chuyển phi pháp từ VN ra nước ngoài. Nghĩa là mỗi năm người Việt chuyển ra nước ngoài 200.000 tỷ đồng. Nhiều người thắc mắc là tiền ở đâu mà lắm thế?

Xin thưa, tiền từ mỗi người dân, từ tài nguyên, khoáng sản của đất nước, từ xăng dầu, đường đi, thuế má đủ loại và từ những tấm lòng nhân đạo của người dân chứ đâu.

Không chỉ tham nhũng về kinh tế, tiền của, mà những quyền cơ bản của công dân cũng đang bị trấn lột nghiêm trọng. Bản Báo cáo nhân quyền của Mỹ mới đưa ra có những nội dung như sau:

“Theo nhận xét chung của bộ ngoại giao Mỹ, trong lãnh vực nhân quyền, các vấn đề nghiêm trọng nhất tại VN bao gồm: (1) hạn chế nghiêm ngặt các quyền chính trị của công dân, «đặc biệt là quyền thay đổi chính phủ của họ thông qua các cuộc bầu cử tự do và công bằng»; (2) hạn chế quyền tự do dân sự của người dân, trong đó có quyền tự do hội họp, lập hội, và ngôn luận; (3) không bảo vệ đúng mức quyền của người dân được xét xử công bằng, bao gồm quyền được bảo vệ chống lại các hành vi giam cầm vô lý”.

Có lẽ, những thứ này cũng chỉ là “em mượn tí mà thôi” – chỉ có thời gian mượn đã gần 1 thế kỷ nay.

Lãnh thổ giao bạn vàng “quản lý”

Thường, mỗi khi cướp đất của tôn giáo, của người dân, câu cửa miệng của nhà cầm quyền là “Đất đai do nhà nước quản lý” để giải thích việc muốn lấy đất đai, tài sản của dân khi nào là… tự nhiên. Có lần, tôi đã nói với một Phó chánh Thanh tra TP Hà Nội rằng: Sinh ra nhà nước là để quản lý, điều đó không sai, ở đất nước VN này may ra có Hoàng Sa và một phần Trường Sa, nhà nước không chịu quả lý cho dân nhờ thôi” – Ông ta đánh trống lảng.

Báo Thanh niên cho biết: “Hai quan chức Mỹ cho hay đã có một loạt chuyến bay đến và đi từ đá Chữ Thập trong ngày 8 và 10/4, sử dụng các loại máy bay thường được dùng để chuyên chở các quan chức cấp cao Trung Quốc là Airbus 319 và Bombardier CRJ. Vì thế, đây rõ ràng là chuyến thăm của một quan chức thuộc hàng cấp cao đến Trường Sa”.

Thời gian qua, nhiều thông tin về biển đảo của VN đang bị Trung Cộng xâm lược, chiếm đóng, bồi đắp hiện ra sao, lại không đến từ hệ thống phát ngôn của nhà nước Việt Nam, hài hước thay lại từ Mỹ và quan chức Mỹ.

Trên báo VN hôm nay đưa tin: “Mỹ đã quyết định triển khai binh sĩ tới 5 căn cứ quân sự Philippines do ngày càng lo ngại về sự phô bày thanh thế của Trung Quốc ở Biển Đông, nơi có tranh chấp chủ quyền biển gay gắt liên quan đến nhiều nước, bao gồm Việt Nam”.

Hoặc là: “Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ thăm tàu ​​sân bay ở biển Đông

Nhưng, không thấy xuất hiện các thông tin về việc quân đội VN, cảnh sát VN thực hiện bảo vệ biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa, cũng như các động tác của nhà nước như thế nào trước hành động ăn cướp lãnh thổ của Trung Quốc.

Hình như, cho đến nay, việc lãnh hải, lãnh thổ và biển đảo đang được giao cho “bạn vàng” quản lý đã là chuyện không cần bàn cãi. Và chuyện đó không còn thuộc trách nhiệm của nhà nước VN?

Cũng qua báo chí gần đây, người ta thấy những việc về nhân quyền, tù nhân chính trị…, khi động đến nhà nước cứ như đỉa phải vôi và la làng rằng đây là “can thiệp nội bộ”. 12 năm trước, tháng 10 năm 2004, bà Tôn Nữ Thị Ninh từng nói tại buổi họp báo tại CLB Báo chí Quốc gia Hoa Kỳ vào về chuyện người chống đối chính quyền bị bắt rằng: “Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm đừng có mà gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi”.

Thế nhưng, việc chủ quyền, lãnh thổ bị “bạn vàng” cướp chiếm, thì lại để “hàng xóm” không chỉ gõ cửa đòi xen vào, mà còn đưa luôn cả súng đạn, quân đội đến thì lại im lặng?

Oái oăm thay, người đến giúp đỡ, lại chính là “kẻ thù trước mắt và lâu dài” (theo quan điểm của Đảng) là Đế quốc Mỹ.

Ngẫm đến từ “bạn 16 chữ vàng, bốn tốt” giữa Việt Nam và Trung Cộng mới thấy hài hước làm sao. Thực chất, cần phải nói rõ rằng đây là “bạn vàng” của Đảng CSVN chứ không phải của nhân dân Việt Nam. Hai chủ thể đó khác nhau và chọn lựa khác nhau. Bạn vàng của Đảng thường là các nhà, các chế độ độc tài như Saddam Hussein, Gadhaphi, Hugo Chavet, Kim Dâng Un, Tập Cận Bình và cả Putin – một tên độc tài quân phiệt mới gốc Cộng sản.

Trên thế giới, người ta đã bỏ cách kết bè, kết cánh theo kiểu “đồng chí” của cộng sản. Chỉ riêng mấy nước Cộng sản còn sót lại vẫn bám theo kiểu “bạn bè đồng chí” hết sức u mê này mà coi nhẹ quyền lợi đất nước.

Mỹ, Nhật, Đức và các nước lớn, ngay cả Nga không có bạn bè, chỉ có đồng minh và quyền lợi của đất nước là trên hết. Do vậy họ đã hành động sáng suốt không hề nhầm lẫn theo kiểu ý thức cộng sản.

Mới đây, phát biểu của Bộ trưởng Ngoại giao Nga – người bạn cũ của VN – về Biển Đông như một cái tát mạnh vào những người đang hóng hớt và hy vọng hão huyền về cái gọi là truyền thống hữu nghị một thời dĩ vãng nay vẫn bám riết đầu mấy vị lãnh đạo VN. Không hiểu những cái tát đó có làm tỉnh ra mấy cái đầu kia không?

Xem ra, với tư duy này, thì chuyện “Tàu hỏa phanh gấp nhường đường cho xe máy” không chỉ xảy ra trong đời sống xã hội, mà cả trong đời sống chính trị, đối ngoại của VN.

Lượng tiền người Việt chuyển ra nước ngoài tăng đột biến

Lượng tiền người Việt chuyển ra nước ngoài tăng đột biến

Nhân viên ngân hàng đếm tiền đôla Mỹ tại trụ sở chính của Vietcombank ở Hà Nội.

Nhân viên ngân hàng đếm tiền đôla Mỹ tại trụ sở chính của Vietcombank ở Hà Nội.

14.04.2016

Một báo cáo vừa được Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) công bố hôm thứ Hai cho biết lượng tiền gửi từ Việt Nam ra nước ngoài tăng đột biến, lên đến 7,3 tỷ đôla. Đây được xem là diễn biến ‘bất thường’ cần phải được theo dõi.

Theo báo cáo Kinh tế vĩ mô quý 1/2016 của VEPR, số liệu thống kê đến quý 3/2015 cho thấy những diễn biến bất thường xảy ra sau sự kiện Trung Quốc phá giá đồng Nhân dân tệ vào tháng 8/2015. Theo đó, cán cân tổng thể đang cân bằng chuyển sang thâm hụt lớn tới mức 6,6 tỷ đôla trong quý 3/2015 do cán cân tài chính đổi chiều.

Theo phân tích của chuyên gia VEPR, hai yếu tố quan trọng của cán cân tài chính là dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài không có biến động đáng kể, trong khi dòng vốn đầu tư khác mà chủ yếu là tiền gửi ở nước ngoài đã gia tăng đột biến lên mức 7,3 tỷ đôla.

Báo cáo của VEPR cho đây là diễn biến bất thường cần phải được tiếp tục theo dõi.

Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành của VEPR nói đây là diễn biến bất thường này một phần có thể xem như tình trạng “bẫy thanh khoản” với ngoại tệ của hệ thống ngân hàng.

Báo cáo cũng cho biết ngân sách Việt Nam tiếp tục bị thâm hụt lớn. Trong khi báo cáo của chính phủ Việt Nam trình Quốc hội cho biết ước tính thâm hụt ngân sách năm 2015 ở mức 6,34% GDP, VEPR lại đưa ra con số là 7%, lớn hơn nhiều so với mục tiêu 5% GDP mà Quốc hội Việt Nam đề ra.

Theo Vietnamnet, Thanh Niên, Báo Đất Việt.

Bác Quang

Bác Quang

tuongnangtien

tuongnangtien's picture

RFA

Năm 2006, khi chỉ mới có tin bác Triết sắp trở thành chủ tịch nước (thôi) mà dư luận – trong cũng như ngoài nước – đã râm ran tán thưởng quá xá. Ký giả  Karl D John (Asia Times) hăm hở đưa tin:

Nguyen Minh Triet, 63, another southerner, was confirmed as president by the National Assembly on Tuesday… And there is a widespread perception he will be more active than his predecessor, particularly in implementing economic and legal reforms that pave the way for Vietnam’s accession to the World Trade Organization (WTO) this year” – Theo nhận xét chung thì ông sẽ năng nổ hơn người tiền nhiệm, đặc biệt trong lĩnh vực cải tổ kinh tế và pháp luật, làm nền cho VN gia nhập tổ chức WTO trong năm nay.”

Bác Quang – ngày nay, tiếc thay –  không có được sự chào đón nồng nhiệt tương tự. Không những thế, ông còn bị nhiều điều tiếng dèm pha hay dè bỉu:

– Lê Minh Nguyên: “Đầu tiên phải nói là ông ta sửa lại khai sinh để từ năm đúng là 1950 thành năm giả là 1956, một sự gian dối dễ chứng minh qua các văn bản hộ tịch và bằng cấp bị so le, nó nói lên tính toán tham vọng quyền lực của ông ta.”

Trần Hồng Tâm: “Ông Trần Đại Quang, sinh năm 1956, vẫn còn dưới 65 tuổi. Nhưng có người đã chứng minh rằng ông sinh năm 1950. Ông đã sửa số 0 thành số 6 trên giấy khai sinh. Sau khi bị tố giác, ông đã sử dụng ảnh hưởng của mình tại nguyên quán làm ra một giấy khai sinh mới ‘hợp lệ’ hơn. Riêng tiêu chuẩn đầu tiên về tuổi tác ông đã để lại không ít tai tiếng.”

Bùi Thanh Hiếu: “Không ồn ào gây chú ý, bộ trưởng công an Trần Đại Quang leo lên chức Chủ Tịch Nước một cách êm thắm không gặp phải bất kỳ sự trở ngại nào. Con đường của Trần Đại Quang tiến thân trong ngành công an cũng khá suôn sẻ… Con đường của Quang đi chỉ gặp sóng gió duy nhất một lần đó là bị các đối thủ vạch ra chuyện Quang khai gian đến 6 tuổi.

Cả ba nhân vật dẫn thượng – rõ ràng – đều là những người không đủ lượng bao dung. Họ đều để ý đến cái chi tiết rất nhỏ nhặt (“sửa số 0 thành số 6”) trên tờ giấy khai sinh của bác Quang, rồi cứ thế mà vu vạ đó là việc làm thiếu lương thiện và vô cùng tai tiếng.”

Tai tiếng (mẹ) gì! Chớ có ai biết vị chủ tịch đầu tiên của Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà – Hồ Chí Minh – tên tuổi (chính xác) ra sao đâu mà toàn dân vẫn đời đời nhớ bác Hồ vỹ đại đấy thôi. Nói gần nói xa, chả qua nói thiệt là thiên hạ chỉ vì ghanh ghét với cái chức vụ cao qúi (Chủ Tịch Nước) của bác Quang nên mới cố vạch lá tìm sâu hay bới bèo ra bọ.

Riêng ông Nguyễn Gia Kiểng lại còn đi quá xa khi cho rằng “một chủ tịch nước như ông Trần Đại Quang khác gì một vết lọ nghẹ quẹt lên mặt dân tộc Việt Nam?”

Ơ hay, sao lại thế nhỉ? Về ngoại hình, bác Quang đâu có kém cạnh gì bác Triết. Còn về diện mạo thì trông đỡ tối tăm hơn bác Sang thấy rõ, đúng không? Sao hai bác kia nhậm chức suôn sẻ, và hạ cánh an toàn mà bác Quang lại bị coi như là “một vết lọ nghẹ quẹt lên mặt dân tộc Việt Nam” – hả Giời?

Ảnh lấy từ trang: talawas

Ông Nguyễn Gia Kiểng còn nhất định cho rằng: “Trong nhà tù nhiều khi tù nhân phải trả tiền để ‘được’ còng bằng những chiếc còng không nhiễm trùng HIV. Dưới sự lãnh đạo của Trần Đại Quang công an cũng làm tiền trắng trợn hẳn hơn trước….”

“Trước” là hồi nào vậy cà? Khi HIV chưa xuất hiện thì làm sao có cái vụ (tai tiếng) trả tiền để “được” đưa chân vào những cái còng không nhiễm trùng được chớ? Ở giai đoạn này, Việt Nam còn dùng sổ gạo và tem phiếu và người dân chỉ cần vài điếu thuốc lá lẻ cũng đủ bôi trơn bộ máy (“Samit là nói ít hiểu nhiều, Ba Số Năm vừa nằm vừa ký”) nên mấy ông Bộ Trưởng Công An tiền nhiệm đỡ mang tiếng hơn ông Quang là chuyện tất nhiên.

Tương tự như ông Nguyễn Gia Kiểng, nhiều người cứ nhất định cho rằng Bộ Công An dưới thời Trần Đại Quang tệ hại hơn thời trước rất nhiều:

  • Các vụ ép cung, tra tấn, đánh người cho tới chết, xẩy ra thường xuyên trong đồn công an.
  • Chuyện chạy án, chạy tiền để được phóng thích vào những đợt ân xá là hiện tượng phổ biến.
  • Công an giả dạng côn đồ để đánh người, và vứt cứt đái hay mắm tôm vào nhà dân xẩy ra ở khắp mọi nơi.

May mắn là trong giới truyền thông vẫn còn những người sáng suốt nên những vấn nạn vừa nêu đã được nhìn nhận một cách khách quan hơn:

“Nhiều người tưởng rằng khoảng 5-6 năm gần đây mới rộ lên hiện tượng công an đánh chết dân, nhưng thật ra thì điều đó đã xảy ra hàng chục năm rồi, kể từ khi đảng Cộng sản cầm quyền. Thậm chí ngày trước công an đánh chết còn nhiều dân hơn ngày nay ấy chứ. Chẳng qua là đến bây giờ, một phần trong số những câu chuyện thương tâm ấy mới được đưa lên mặt báo và nhất là lên Facebook mà thôi. Con số 226 người chết trong thời gian bị tạm giam, tạm giữ (ba năm 2011-2014) là con số trong một báo cáo của Bộ Công an và được báo chí trích đăng; ngày trước, làm gì có chuyện Bộ Công an có những báo cáo như thế và báo chí công bố như thế.”

Ảnh lấy từ trang: donghoavangtuthuc

Tôi vô cùng tâm đắc với nhận định vô tư và chính xác (thượng dẫn) của nhà báo Đoan Trang. Chả có gì bảo đảm được rằng dưới thời Bùi Thiện Ngộ, Lê Minh Hương, Lê Hồng Anh … những vụ “tự tử” trong đồn công an hay nạn ép cung, mớm cung, chạy án … lại ít hơn bây giờ. Chả qua là mọi việc đều có thể được dấu kín như bưng nên công luận không biết đến thôi.

Trong số tất cả lời tố cáo ghi trên chỉ có điều duy nhất xác thực là vấn nạn công an thường giả dạng côn đồ để vứt cứt đái hay đổ nước hôi thối vào nhà dân chúng. Hiện tượng này quả là hoàn toàn mới lạ, và mang đậm dấu ấn của cái thời mà ông Trần Đại Quang giữ chức vụ Bộ Trưởng Công An.

Đây tuy là những hành vy bẩn thỉu và đê tiện nhưng (nói nào ngay) hoàn toàn không độc ác. Chả làm ai chết cả chết cả. Trần Đại Quang – ít nhất – cũng  chưa bao giờ bị kết án là sát nhân (hãm hiếp người tình của lãnh tụ, lấy búa đập vào đầu nạn nhân, rồi vứt xác ra đường cho xe cán) như Trần Quốc Hoàn – Bộ Trưởng Công An đầu tiên của nước VNDCCH.

Ông Trần Đại Quang cũng không hề bị tai tiếng như hai ông Phạm Hùng và Mai Chí Thọ trong những vụ thu vàng bán bãi vượt biên, đẩy vô số người dân ra khỏi nước, khiến hàng triệu thuyền nhân đã chết chìm giữa biển khơi (*). Thời ông Quang phụ trách ngành công an tuy Việt Nam cũng có không ít thuyền nhân (những thuyền nhân mới, nouveaux boat people) hay còn gọi là “người rơm” nhưng số lượng những kẻ mất mạng giữa đường hay mất mát tài sản để chung chi cho những chuyến vượt biên đều không đáng kể – nếu so sánh với những đợt di tản của đám “thuyền nhân cũ” (ancient boat people) hồi cuối thế kỷ trước.

Nguồn ảnh: facebook

Những “điểm son” kể trên, tiếc thay, đã không được công luận biết đến. Thiên hạ, nếu không chê bai hay dè bỉu thì cũng chỉ nói đến việc đăng quang của vị tân chủ tịch nước, cũng chả khác chi với chuyện tái đắc cử chức vụ TBT, với giọng điệu chán chường hay … huề vốn.

Xin đơn cử một thí dụ, đọc được trên trang FB của BBC:

“Ừ thì cơ mà ai lên làm thì đời sống Công Nhân vẫn vậy, như 20 năm qua cũng ko thay đổi đc là bao nhiêu đáng kể. Vẫn ở cái nhà trọ chật hẹp, vẫn ko biết khi nào mới mua nổi nhà để an cư lạc nghiệp, vẫn bữa cơm ăn cho có để làm, vẫn nỗi lo con cái những hôm tăng ca cả hai với chồng thì ko biết ai đón gửi ai…

Còn Nông Dân vẫn vậy vẫn tự bơi với ruộng đồng, vẫn điệp khúc được mùa mất giá, vẫn mất mùa thì do thiên tai được mùa thì do tài tình lãnh đạo của Đảng, vẫn điệp khúc hàng ngoại giết chết hàng nội, vẫn điệp khúc Trung Quốc ko thu mua thì đành đổ bỏ.

Rồi giá xăng vẫn cao ngất ngưởng so với thế giới, học phí viện phí vẫn tăng, các loại thuế phí khác vẫn tăng ko hề giảm. Vẫn nỗi lo gánh nặng tiền học cho con, vẫn nỗi lo gánh nặng lỡ xui đi viện..

Đến bệnh viện, đến chốn công quyền vẫn phải xin xỏ, chầu chực, vẫn phải bôi trơn. Vẫn tham ô, tham nhũng, cái mặt Quan vẫn vác ngược khênh kiệu hạch sách nhân dân .Vẫn thực phẩm độc hại, vẫn mọi thứ còn nguyên.

Các ông ấy chẳng ai buồn hứa với Dân khi tôi làm Cán Bộ tôi sẽ làm gì để giải quyết bớt vấn đề của nhân dân bức xúc bấy lâu nay. Các ông vẫn cứ đọc cái mớ lý thuyết suông, vẫn nói suông.. Những bài chính trị mà chúng tôi cũng thuộc…”

http://www.rfavietnam.com/node/3170

Rõ ràng toàn là những đòi hỏi quá đáng, và … quá quắt. Ngay đến bác Hồ mà còn không bảo vệ được cả vợ lẫn con, bác Tôn cũng chỉ có mỗi một việc làm là … sửa xe đạp cho nó qua ngày đoạn tháng thì bác Quang biết làm sao hơn và làm gì khác được?

Tưởng Năng Tiến

(*)Death Tolls and Casualty Statistics Vietnam – Vietnamese Boat People

  • Jacqueline Desbarats and Karl Jackson (“Vietnam 1975-1982: The Cruel Peace”, in The Washington Quarterly, Fall 1985) estimated that there had been around 65,000 executions. This number is repeated in the Sept. 1985 Dept. of State Bulletin article on Vietnam.
  • Orange County Register (29 April 2001): 1 million sent to camps and 165,000 died.
  • Northwest Asian Weekly (5 July 1996): 150,000-175,000 camp prisoners unaccounted for.
  • Estimates for the number of Boat People who died:
    • Elizabeth Becker (When the War Was Over, 1986) cites the UN High Commissioner on Refugees: 250,000 boat people died at sea; 929,600 reached asylum
    • The 20 July 1986 San Diego Union-Tribune cites the UN Refugee Commission: 200,000 to 250,000 boat people had died at sea since 1975.
    • The 3 Aug. 1979 Washington Post cites the Australian immigration minister’s estimate that 200,000 refugees had died at sea since 1975.
      • Also: “Some estimates have said that around half of those who set out do not survive.”
    • The 1991 Information Please Almanac cites unspecified “US Officials” that 100,000 boat people died fleeing Vietnam.
    • Encarta estimates that 0.5M fled, and 10-15% died, for a death toll of 50-75,000.
    • Nayan Chanda, Brother Enemy (1986): ¼M Chinese refugees in two years, 30,000 to 40,000 of whom died at sea. (These numbers also repeated by Marilyn Young, The Vietnam Wars: 1945-1990 (1991))
  • Rummel
    • Vietnamese democide: 1,040,000 (1975-87)
      • Executions: 100,000
      • Camp Deaths: 95,000
      • Forced Labor: 48,000
      • Democides in Cambodia: 460,000
      • Democides in Laos: 87,000
      • Vietnamese Boat People: 500,000 deaths (50% not blamed on the Vietnamese government)

 

Nào đâu có trăm năm, mà chờ mà đợi?

 “Nào đâu có trăm năm, mà chờ mà đợi?”

Nào đâu có kiếp sau, đâu có kiếp sau, mà đợi mà chờ?”

(Nhạc: Phạm Duy/Thơ: Lưu Trọng Văn – Trăm Năm Bến Cũ)

(1Gioan 3: 23-24)

           Trần Ngọc Mười Hai

Tư-tưởng này, bất chợt đến với bần-đạo sau khi nghe cô em dâu hát lên lời hát của Lưu Trọng Văn trong buổi Hát Cho Nhau Nghe hôm 5/3/2016 ở Sydney.

Tư-tưởng này, đã trở về với bần đạo cũng, sau khi nghe tin …tức từ vị chóp bu Đạo Chúa ở Rôma hôm rồi, rằng:

 “Hôm 21-1-2016, Phòng báo chí Tòa Thánh đã phổ biến thư của ĐTC Phanxicô gửi ĐHY Robert Sarah, Tổng trưởng Bộ Phụng Tự và kỷ luật bí tích, để thông báo quyết định về vấn đề này, và Sắc lệnh của Bộ Phụng tự thay đổi qui luật trong sách lễ theo cùng chiều hướng trên đây.

 Thư của Đức Giáo Hoàng gửi Hồng Y Sarah ký ngày 20-12-2014 có đoạn viết: ”Sau khi suy nghĩ chín chắn, tôi đi đến quyết định du nhập một sự thay đổi trong qui luật của Sách Lễ Roma. Vì thế, tôi qui định thay đổi qui luật theo đó những người được chọn để được rửa chân phải là đàn ông hoặc trẻ nam. Từ nay các vị mục tử của Giáo Hội có thể chọn những người tham dự nghi thức rửa chân trong số tất cả các thành phần dân Chúa. Ngoài ra, nên giải nghĩa thích đáng cho những người được chọn về ý nghĩa nghi thức rửa chân”.

 Trong Sắc Lệnh ký ngày 6-1-2016, Hồng Y Sarah và Đức TGM Tổng thư ký Arthur Roch của Bộ nhắc lại rằng cuộc cải tổ nghi thức Tuần Thánh với Sắc lệnh ”Maxima Redemptionis nostrae mysteria” (Các Mầu nhiệm quan trọng nhất của ơn cứu chuộc chúng ta, ngày 30-11-1955) cho phép cử hành nghi thức rửa chân cho 12 người đàn ông trong Thánh Lễ kỷ niệm Chúa lập phép Thánh Thể.. Khi cử hành nghi thức ấy, các GM và LM được mời gọi trở nên đồng hình dạng trong tâm hồn với Chúa Kitô, ”Đấng đã đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ” (Mt 20,28), và được tình yêu ‘đến cùng’ (Ga 13,1) thúc đẩy, hiến thân cho phần rỗi của toàn thể nhân loại.

 Sắc lệnh nhắc đến quyết định của Đức Phanxicô thay đổi qui luật đó và qui định rằng ”Các mục tử có thể chọn một nhóm như các tín hữu đại diện mỗi thành phần dân Chúa. Nhóm nhỏ ấy có thể gồm cả đàn ông lẫn phụ nữ, người trẻ, người già, người lành mạnh và bệnh nhân, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân”.

 Do năng quyền Đức Giáo Hoàng ban, Bộ Phụng Tự và kỷ luật bí tích du nhập sự đổi mới này vào trong các sách phụng vụ và nhắc nhớ các vị mục tử về nghĩa vụ giáo huấn thích hợp cho các tín hữu được chọn (rửa chân) cũng như cho những người khác, để họ tham gia nghi thức này một cách ý thức, tích cực và nhiều thành quả”. (X. Lm G. Trần Đức Anh OP, Radio Vaticana 21.01.2016)

 Đọc tin…tức từ đấng bậc chóp bu, bần đạo bầy tôi chạnh nhớ thân phận người nữ-phụ ở Hội thánh. Chạnh lòng rồi nhớ đến nhiều lời bình về sự việc này, trong đó có lời của đấng bậc vị vọng như sau:

“Thánh tổ-phụ Giêrônimô có lần nói: “Khi một nữ-phụ ao-ước được phục-vụ Đức Kitô nhiều hơn cả và thế-gian này, thì khi ấy chị sẽ thôi không còn là phụ-nữ nữa và người ta sẽ gọi chị là nam-nhân.”

 Huyền-thoại Do-thái-giáo khi xưa ta biết được là nhờ sách Sáng Thế Ký được mở để nói rằng Kinh thánh hiểu rõ rất nhiều sự/việc. Huyền-thoại Do-thái-giáo có mục-tiêu diễn-giải điều đó là những gì. Là bảo rằng: nam-nhân là những người mà ta không còn ngờ-vực gì nữa, từng hun-đúc nên các chuyện bí-nhiệm thần-thoại như thế. Để rồi, cuối cùng ra, đã ghi-chú các sự/việc này , do bởi các nữ-phụ trong xã-hội ấy không được tiếp-cận với thứ quyền-lực để diễn-giải mọi sự về Thiên-Chúa và/hoặc cũng chẳng có khả-năng để viết lách và diễn-giải nữa.

 Thêm vào đó, phụ-nữ xưa nay vẫn bị mọi người nghĩ rằng: các chị không thích bon chen tìm hiểu và/hoặc hiểu/biết gì về mọi thứ và cả những thực-tại xảy ra cùng sự thật của các sự-kiện từng xảy ra, nữa. Thế nên, phụ-nữ nói chung không gây ảnh-hưởng nào hết cách trực-tiếp lên các trách-nhiệm này/khác về văn-hoá. Là phụ-nữ, các chị cũng chẳng có quyết-định ban đầu nào khả dĩ có thể tạo hình-hài cùng khuôn-thước về bản-chất của bất cứ sự gì. Các chị cũng không tham-gia dự-phần vào bất cứ tiến-trình tạo quyết-định về sự việc nào hết.

 Thành thử, ai trong chúng ta cũng chẳng lạ gì khi thấy các truyện-kể hoặc bài viết do nam-nhân viết hoặc tạo hình-hài ở Kinh-thánh đều tìm câu trả lời cho thắc-mắc hỏi rằng: làm sao ác-thần/sự dữ lại đi vào công-cuộc tạo-dựng rất tốt đẹp của Thiên-Chúa được. Câu trả lời vẫn có thể có từ lời tuyên-bố bảo rằng: sở dĩ có chuyện đó là do lỗi của thụ-tạo “dưới-cơ con người” do Thiên-Chúa tạo ra để thoả-mãn nhu-cầu của nam-nhân đầu đời. Và ác-thần/sự dữ ấy có tên là nữ-nhân-đầu-đời, tên Evà…”  (Xem thêm Tgm John S. Spong, The Woman as the Source of Evil trong The Sins of Scripture, HarperCollinsPublishers 2005 tr. 87-93)

Nghe các đấng bậc biện-luận với nhau như trên, bần đạo chẳng biết làm gì hơn, là: lại quay về với nhạc-bản của nghệ sĩ họ Phạm phối nhạc cho bài thơ của Lưu Trọng Văn, vẫn hát thêm:

“Trăm năm đầu lỗi hẹn hò,

Chứ cây đa bến cũ, con đò khác đưa…

Thôn-nữ CHỊ, đã qua cầu, thóc lép,

Thôn-nữ EM, như trăng tuột khỏi chồi tay,

Thôn-nữ ÚT, đã lên đòng, nào ai biết.

 Khúc tình xưa, xưa ấy đã xưa rồi,

Con chuồn chuồn không lung nhùng trong mạng nhện.

Con bướm vàng nằm xoài dưới chân anh.

Một vùng trăng cỏ non như níu áo

Ngọn tre xanh đủng đỉnh muộn màng

Á a á a a…

A á ạ à Á à à a…

(Phạm Duy/Lưu Trọng Văn – bđd)

Cũng trong đêm nhạc này, trong hai bài phổ nhạc của nghệ-sĩ Phạm-Duy, bài “Cô Hái Mơ” là bài viết đầu tay của ông và bài “Trăm Năm Bến Cũ” được viết vào cuối đời trong đó tác-giả gói-ghém tâm-sự “Ngày trở về” sau khi đọc bài thơ của Lưu-Trọng-Văn có đầu đề là “Nào Đâu Có Trăm Năm, Mà Chờ Mà Đợi”, rất đúng ý.

Vâng. Ở nhạc-bản trên, chỉ mỗi câu ngâm “Á a à à a ..” thôi, thì tôi và bạn nghe qua cũng đã hiểu. Hiểu rất nhiều, về thân-phận người nữ-phụ, xưa nay. Nói đúng hơn, nữ-phụ khi xưa thì như thế. Còn, phụ-nữ hôm nay, rày đã khác. Khác rất nhiều. Khác, hơn xưa khi người người góp mặt biểu đồng tình với người chị/người em ở thánh hội. Như, lời đấng bậc khác, từng diễn tả như sau:

“Chuyện người nữ-phụ lấy tóc lau chân Đức Giêsu… cho thấy một sự thật. Sự thật là, người nữ-phụ xử-sự theo cách hối-lỗi rất thật-tình và tha-thiết, nên chị ta có được kết quả là đạt được lòng mến tràn đầy từ Đấng có quyền thứ-tha. Ngài tha-thứ, nhưng không phô-trương uy-quyền được Cha Ngài ban. Trái lại, sự việc cải-hối và niềm tin nơi nữ-phụ ở đây đã đem lại cho chị ơn tha-thứ…

 Xã-hội hôm nay, thấy rất nhiều người làm quấy dù chỉ một lần trong đời, nhưng vẫn bị người đời tặng cho mình nhiều mũ-chụp, suốt quãng đời còn lại, của chính họ, dù họ thật tình muốn chỉnh-sửa. Thiên-Chúa không xử-sự với con người như loài người vẫn xử-sự với nhau, và cho nhau. Chúa xử-sự với con người theo tình-thế của họ ở đây, bây giờ. Quá-khứ của con người không quan-trọng đối với Chúa. Quan-trọng chăng, chỉ mỗi điều, là: nay ta sống thế nào, mà thôi. Nay, ta xử-sự ra sao với các nữ-phụ dù họ có phạm lỗi hay không. Ta có xử sự với các nữ-phụ trong tương-quan với mọi người đúng theo tinh-thần Chúa khuyên-dạy hay không mà thôi.

Trong một thế-giới mà nam-nhân hoàn-toàn khuynh-loát và làm chủ, thì nữ-phụ xưa nay vẫn bị chê-trách rất nhiều chuyện, kể từ ngày chị được tác-tạo thành con người đến hôm nay. Giả như có tên du-thủ du-thực nào đó phạm tội hãm-hiếp phụ-nữ, thì mọi người trong thế-giới nam-nhân sẽ bảo rằng: sở dĩ có chuyện này, là vì chị ta lôi-cuốn anh ấy qua cách ăn mặc rất kích-dâm hoặc lôi cuốn. Nếu có nam-nhân nào đó từng xách-nhiễu một nữ-phụ đơn-sơ/trong trắng nào đó, thì họ lại cũng bảo rằng sở dĩ có chuyện này là do chị ấy gây chuyện rồi kích-động trước, thế thôi.

 Giả như ông chồng nọ quyết ly-dị vợ mình, ắt hẳn cũng vì chị vợ nay thành loại người mà anh tự thấy mình không còn có thể chịu đựng nổi chị ấy nữa. Giả như nữ-phụ nào có khả năng chơi được trò chơi dành cho nam-nhân, thì chị ấy sẽ bị đè bẹp/vùi-dập bằng những lời xách-mé/xỉa xói nói cho hay cho tốt sẽ bảo rằng: cô ấy là thứ đàn-bà trơ-tráo không biết e-thẹn là gì, hoặc tệ hơn, lại sẽ nói: cô bé này đúng là con chó cái, thế thôi.

 Và, giả như chị phải vận-dụng mọi kỹ-năng hoặc tay nghề thực-sự mới được thế, thì thiên-hạ lại sẽ bảo là chị ta đang sử-dụng “mọi thứ của phụ-nữ” mới đạt được điều mình mong muốn có kết-quả.

 Tất cả những điều này tiếp-tục mẫu-mã dựng chuyện cho câu truyện kể về Vườn Địa Đàng, trong đó nhân-vật Evà là nguyên-nhân gây nên đổ-vỡ cho am-nhân. Chị là người hoàn-toàn trách-nhiệm trong việc đưa ác-thần/sự dữ vào với thế-giới nhân-trần. Đây là truyện kể tuyệt-vời, nhưng vẫn chỉ là: một câu truyện kể, thế thôi. Thật sự, thì: đây chỉ là truyện dụ-ngôn qua đó bậc tiên-tổ của ta khi xưa vẫn tìm cách bắt-chộp “sự thật” về sự hiện-hữu của các ngài, mà thôi.

 Và, các truyện kể ở Kinh thánh lâu nay mang tính thần-thoại mà nhiều người gọi là huyền-nhiệm hay bí-nhiệm để nói lên một sự việc gì đó mà một số người gọi là “thần-học Giao-ước” giữa Thiên-Chúa và loài người. Thần-học này, lâu nay vẫn coi nữ-giới là “kẻ cám dỗ” nam-nhân vốn dĩ là những người đáng quí đáng trọng. Theo đó, nữ-giới vẫn bị gọi là thứ “cây rái cấm-kỵ” kích thích lòng ham/muốn nơi cơ-thể của nam-nhân.

 Vì thế nên, phụ-nữ xưa nay vẫn “bị” định-nghĩa là người đồi-bại và làm sa-đoạ tính thánh-thiêng của người phàm. Các chị còn bị chê-trách coi như nguyên-nhân tạo cho nam-nhân mất đi uy-quyền của chính họ. Từ khi có truyện kể dụ-ngôn này, văn-hoá Đạo Chúa ở phương Tây bị nối-kết với khuynh-hướng xa lánh phụ-nữ, tức: diễn-tả mọi thứ thánh-thiêng theo nghĩa không giới-tính.

 Cũng từ đó, tính trinh-trong của phụ-nữ và khiết-tịnh ở nam-giới đã trở-thành phương-cách để mọi người tự thánh-hoá đời sống, theo phương-cách cao hơn. Cả đến hôn-nhân cũng bị nhiều người định-nghĩa như một châm-chước/nhượng-bộ tội-lỗi, tức: phương-án chọn-lựa dành cho những người yếu kém về nhiều thứ.

 Một trong các vị thánh từng chuyển-dịch Kinh Thánh là thánh Giêrônimô vẫn được bảo là vị thánh từng thấy khó xử trong chuyển-dịch, khi thấy rằng khiá-cạnh độc-nhất mang tính cứu-độ của hôn-nhân là ở chỗ việc này “sản-xuất ra nhiều trinh-nữ hơn nữa”. Và tuyên-bố này vẫn khiến nhiều người khó mà tin được sự việc lại có thể như thế.

 Như thế, tức bảo rằng: phụ-nữ thật sự là sự dữ/ác-thần tận cốt lõi. Đó là thông-điệp xuất tự người gửi là Hội-thánh Đức Kitô và thông-điệp này được đặc-biệt tạo-tác xuất từ dụ-ngôn truyện kể về vườn Địa Đàng có Evà là hiện-thân của sự dữ.” (Xem Lm Frank Doyle sj, Suy Niệm Lời Ngài Chúa Nhật thứ 8 Mùa thường niên năm C, nxb Tôn Giáo 2012, tr. 138)

Đó, chính là vấn-đề. Vấn-đề, là ở chỗ: ta xử-sự với các nữ-phụ có cùng kiểu, đồng quyền và theo cùng cung-cách như vẫn làm với người khác, chí ít là những người khác khác chính-kiến, khác lai-lịch hoặc khác cả giới-tính, nữa hay không mà thôi.

Và, vấn-đề còn lại đặt ra cho mọi người, là: ta đối-xử với nữ-phụ trong/ngoài Giáo-hội có theo khuôn-khổ của sự tự-do con cái Chúa, hay không? Hỏi thế, không phải để có được một trả lời ngay tức khắc cho mình và cho người. Hỏi như thế, tứ: chỉ hỏi để mà hỏi. Hỏi, để kiếm tìm một hình-thức sống sao cho vui tươi, phúc hạnh và phải lẽ.

Thế nên, để mọi người, nam cũng như nữ, được sống vui-tươi/hài hoà với nhau, tưởng cũng nên về với truyện kể nhè nhẹ trong đó có những cử chỉ cũng nhè nhẹ nhưng vui/đẹp của người nữ-phục đã biết nhưng chưa quen, vẫn vui sống, như sau:

 “Có một chàng trai bị bệnh ung thư. Chàng mới 19 tuổi, nhưng có thể chết bất kì lúc nào vì căn bệnh quái ác này.Suốt ngày, chàng trai phải nằm trong nhà, được sự chăm sóc cẩn thận đến nghiêm ngặt của bố mẹ. Do đó, chàng trai luôn mong ước được ra ngoài chơi, dù chỉ một lúc cũng được.

 Sau rất nhiều lần năn nỉ, bố mẹ cậu cũng đồng ý. Chàng trai đi dọc theo con phố- con phố nhà mình mà vô cùng mới mẻ- từ cửa hàng này sang cửa hàng khác. Khi đi qua một cưả hàng bán CD nhạc, chàng trai nhìn qua cửa kính và thấy một cô gái. Cô gái rất xinh đẹp với một nụ cười hiền lành – và chàng trai biết đó là “tình yêu từ ánh mắt đầu tiên”. Chàng trai vào cửa hàng và lại gần bàn cô gái đang ngồi. Cô gái ngẩng lên hỏi:

-Tôi có thể giúp gì được cho anh ?

 Cô gái mỉm cười, và đó là nụ cười đẹp nhất mà chàng trai từng thấy.

-Ơ…,chàng trai lúng túng.

-Tôi muốn mua một CD…

Chàng chỉ bừa một cái CD trên giá rồi trả tiền.

-Anh có cần tôi gói lại không? Cô gái hỏi, và lại mỉm cười.

Khi chàng gật đầu, cô gái đem chiếc CD vào trong.

Khi cô gái quay lại với chiếc CD đã được gói cẩn thận, chàng trai tần ngần cầm lấy và đi về.

 Từ hôm đó, ngày nào chàng trai cũng tới cửa hàng, mua một chiếc CD và cô gái bán hàng lại gói cho anh. Những chiếc Cd đó, cháng đem về nhà và cất ngay vào tủ. Anh rất ngại, không dám hỏi tên hay làm quen với cô gái. Nhưng cuối cùng, mẹ anh cũng phát hiện ra việc này và khuyên anh cứ nên làm quen với cô gái xinh đẹp kia.

 Ngày hôm sau, lấy hết can đảm, chàng trai lại đến cửa hàng bán CD, rồi khi cô gái đem chiếc CD vào trong để gói, anh đã để một mảnh giấy ghi tên và số điện thoại của mình lên bàn.

Rồi anh cầm chiếc CD đã được gói- như tất cả mọi ngày- đem về. Vài ngày sau…

Reeeeeeeeeeeeeeng!!!.

Mẹ chàng trai nhấc điện thoại:

-Alô!?

 Đầu dây bên kia là cô gái ở cưả hàng bán CD. Cô xin gặp chàng trai nhưng bà mẹ òa lên khóc:

-Cháu không biết sao ? Nó đã mất rồi…hôm qua…

Im lặng một lúc. Cô gái xin lỗi, chia buồn rồi đặt máy.

Chiều hôm ấy, bà mẹ vào phòng cậu con trai. Bà muốn sắp xếp lại quần áo cuả cậu, nên đã mở cửa tủ.

Bà sững người khi nhìn thấy hàng chồng, hàng chồng CD được gói bọc cẩn thận, chưa hề được mở. Bà mẹ rất ngạc nhiên, cầm một cái lên, mở ra xem. Bên trong lớp giấy bọc là một chiếc CD cùng với một mảnh giấy ghi: ” chào anh, anh dễ thương lắm-Jacelyn”.

 Bà mẹ mở thêm một cái nữa. Lại thêm một mảnh giấy ghi: “Chào anh, anh khoẻ không? Mình làm bạn nhé? – Jacelyn”

Một cái nữa, thêm nữa… trong mỗi cái CD là một mảnh giấy…..”

Và, lời bàn “Mao Tôn Cương” từ người kể, vẫn bảo rằng: “Trong mỗi cử chỉ đều có thể tiềm ẩn một món quà. Giá như chúng ta đừng ngần ngại mở tất cả những món quà mà cuộc sống đem lại.”

Thật ra thì, có những thứ quà không cần mở cũng biết rằng: quà ấy thật vô giá như quà tặng Thượng Đế biếu/tặng ta trong cuộc đời người. Đó là, sự hiện-diện của mọi nữ-phụ ở quanh ta. Nữ-phụ ấy, có thể là mẫu-thân, là vợ, người chị hoặc em gái, con/cháu rất nữ-giới. Quà nào cũng vui cũng quý-giá như sự sống đích-thật của mọi người.

Kể thế rồi, nay lại cũng mời bạn và tôi, ta đi vào vùng trời có lời vàng của Đức Chúa, vẫn nhủ/khuyên rất nhiều lần, như sau:

“Này là lệnh-truyền của Thiên-Chúa:

Ta phải tin vào Danh Con của Ngài,

Đức Giêsu Kitô,

Và, yêu mến nhau

như Ngài đã truyền lệnh cho ta.

Và, ai giữ lệnh-truyền của Ngài,

thì lưu lại trong Ngài

và Ngài ở trong kẻ ấy.

Và, điều này ta biết được, là:

Ngài lưu lại ở trong ta,

do tự Thần-Khí Ngài đã ban cho ta.”

(1Ga 3: 23-24)

Thần-Khi Ngài ban cho ta, ở trong ta, thì làm sao ta và người lại cứ khinh-chê, coi rẻ các nữ-phụ, trong đời. Khinh và chê, như thể họ không là người như mình. Khinh và chê, như thể người người vẫn đối-xử với các nữ-phụ như từng đối-xử với người hành-tinh xa lạ, chẳng có tình người của người cùng một hành-tinh.

Làm sao chứng-thực được rằng: Thần-khí Ngài ở trong ta, khi ta đối xử với nhau không đồng đều. Vẫn cứ tạo ranh-giới, rào cản và kỳ-thị. Kỳ-thị nam nữ rất tranh-giành. Và, đó chính là mấu chốt của mọi đối xử rất bất-công, không đồng đều, một đối-xử không phải của người hành-tinh, rất địa cầu này.

Vậy, tưởng cũng nên coi lại lề-lối sống với nhau trong hài-hoà/yêu-thương không đợi chờ gì, huống hồ là “trăm năm”.

Vâng, quyết thế rồi, tưởng cũng nên hát lên ca-từ nay trích-dẫn để có lập-trường sống kiên-định rằng:

“Nào đâu có trăm năm,

mà chờ mà đợi?”

Nào đâu có kiếp sau,

đâu có kiếp sau, mà đợi mà chờ?

Đất MẸ, đất NÀNG, con sáo sang song.

Đất MẸ, đất NÀNG, con sáo sang sông.

 Trăm năm bến cũ, có còn đó không?

Còn đó không?

Cây đa bến cũ còn lưa,

Bến cũ còn lưa

O đò năm trước đi mô không về…”

(Phạm Duy/Lưu Trọng Văn – bđd)

 Trần Ngọc Mười Hai

Và những câu hỏi

rất như thế

vẫn lảng vảng

trong đầu mình

suốt mọi ngày.

Tình nhân-thế chua cay, người lịch-duyệt,

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ Năm Phục Sinh năm C 24/4/2016

                             Tin Mừng: (Ga 13: 31-35)

Đức Giêsu nói: “Giờ đây, Con Người được tôn-vinh, và Thiên-Chúa cũng được tôn-vinh nơi Ngài. Nếu Thiên-Chúa được tôn-vinh nơi Ngài, thì Thiên-Chúa cũng sẽ tôn-vinh Ngài nơi chính mình, và Thiên-Chúa sắp tôn vinh Người.

 Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy; nhưng như Thầy đã nói với người Do-thái:

 “Nơi tôi đi, các người không thể đến được”, bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy. Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.”

                                      “Tình nhân-thế chua cay, người lịch-duyệt,”

“Niềm giang-hồ tan-tác lệ Giang-Châu.”

                                                                 (Dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương)

Mai Tá lược dịch

Tình nhân-thế, con người ra như thế. Vẫn chua cay, giang-hồ, tan-tác đầy những lệ. Tình nhà Đạo, xưa nay vẫn khác. Khác, vì có lời dạy nhân-gian nay đằm thắm.

Trình thuật hôm nay, thánh Gioan Tin Mừng lại cũng nói về thứ tình-yêu rất đặc biệt. Thứ tình trọn đầy ý-nghĩa mà Đức Chúa đã làm gương. Tình Chúa nêu gương, là tình Ngài bày tỏ không chỉ riêng tư, mà là tình người dưới thế, ta luôn có với nhau. Tình Thầy luôn yêu, là tình đượm sắc mầu thương mến, rất hy sinh. Thầy hy sinh cho tất cả. Hy sinh đến chết. Hy sinh để ta được sống. Để ta cứ yêu. Yêu như Thầy vẫn hy sinh.

Ngôn ngữ phàm trần, không thấy có cụm từ nào được người đời biết đến, nhiều bằng từ ngữ “yêu”. Yêu, là phạm trù phổ biến dễ truy cập nhất. Một đề tài nói đến cả trong mọi trường hợp, mọi địa hạt: từ nghệ thuật đến văn chương, thi tứ, tthơ nhạc, cho đến phim ảnh văn xuôi, truyện ngắn. Nhất nhất, nói về tình yêu. Tình yêu có chữ “hy sinh” ở đời, là tình ta nghe biết nhiều nhất.

Với đời thường, tình yêu là cảm xúc ướt át, diễm lệ mọi người quanh ta, hằng đeo đuổi. Đeo và đuổi cho đến khi nào không thể làm gì hơn được nữa, mới thôi. Yêu, theo nghĩa dân gian người phàm, là tình thấy đầy nơi phố chợ có thể đằm thắm lúc ban đầu. Nhưng, nhạt dần với tháng năm. Tình nào không kèm chữ “hy sinh”, chung cuộc rồi ra cũng sẽ chán, khi vừa xuất hiện đối tượng mới, tươi trẻ, hấp dẫn và tràn đầy nhựa sống hơn.

Tình đời mau chán, bởi người người chỉ chú trọng đến xác thân hoặc dục tính. Tình đời loại này, thường dẫn đến điểm thoát rất nhanh, nơi đọan cuối của đường hầm, nhiều tăm tối. Tình như thế, tuyệt nhiên là tình không mang dáng vẻ “hy sinh”, nào hết.

Tình “có hy sinh”, là mối tình được thể hiện bằng hành động, chứ không phải bằng lời. Tình đó là tình được dặn dò khuyên nhủ, như một lệnh truyền ngày Chúa chia tay giã từ. Lệnh truyền Chúa nơi tình có hy sinh vẫn được nhấn mạnh rất nhiều lần; vì Ngài vẫn thường bảo: “với dấu này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Yn 13: 35)

Làm người, ai cũng từng hơn một lần, đã biết yêu. Là môn đệ của Thầy, người người lại càng phải biết yêu thương nhau nồng nàn hơn nữa. Yêu, say đắm hơn bao giờ hết. Yêu, như Thầy vẫn thương chúng ta. Yêu thương nhau, là thứ tình thực tiễn được đánh giá qua cách thức ta đối xử với nhau. Xử sự với nhau, thật hiền hòa, thật tử tế. Ta đối xử với nhau thật kiên nhẫn, chịu đựng.

Tình ta thương nhau, là tình của những người đồ đệ theo chân Chúa. Đó là tình không kiêu sa. Cũng chẳng mượt mà, trau chuốt đánh bóng chính người mình. Tình ta thương nhau, như tình Chúa yêu ta là tình không dày đạp người khác. Dày vùi và đạp lên đó để mọi người nhìn mình cho rõ, như người hùng anh cần được yêu, phải được tôn kính. Tình ta thương nhau, là cùng vui với người vui. Cùng khóc với người đang khóc. Cùng đạt ước nguyện tạo niềm vui cho nhau. Tình ta thương nhau, là biết thương tiếc khóc than vì người khác đã mất mát, khổ đau.

Yêu thương nhau như tình Thầy yêu ta, là biết nói lên sự thật. Với lòng xót thương không bến bờ.Yêu thương nhau như Thầy yêu ta, là yêu thương đấy, vẫn yêu trong hy sinh tha thứ cho người mình thương yêu. Thương yêu rất mực tin tưởng vào người mình yêu thương. Yêu trong kiên định, cả vào những giây phút gặp nhiều khó khăn, trắc trở. Yêu, cả vào lúc thấy có khổ đau. Những lúc đang trầm mình dưới bùn đen, ở dưới thấp. Yêu như thế, mới giống tình Chúa yêu thương mọi người, không xét nét.

Tình có hy sinh là chấp nhận thua thiệt, để người kia được lợi. Yêu trong hy sinh, là biết tự kiềm chế mọi đam mê, dục vọng. Yêu rất hy sinh, là như thể đang chết dần chết mòn cho những cảm xúc vênh vang, kiêu hãnh. Yêu trong hy sinh, là chết đi cho chính mình. Chết cho con người mình. Chết, không phải về thể xác. Mà, chết cho nhu cầu xác thân, tạm bợ. Dù, nhu cầu ấy vẫn  chính đáng, vẫn rất cần.

Yêu trong hy sinh, càng không phải là yêu với mặc cảm tội lỗi. Mặc cảm thâm trầm, vì đã làm điều bất ưng và bất xứng, nay muốn tự hủy. Tự hủy, bằng tâm trạng âm thầm, khúm núm, cúi đầu sợ sệt. Yêu trong hy sinh, càng không phải là những khuyên răn, khích lệ bạn bè người thân hãy có cùng tâm trạng hủy diệt, vùi dập thân xác như mình. Nói khác đi, tình “có hy sinh”, là quà tặng Chúa ban nhưng-không gửi đến để người người chấp nhận một chọn lựa. Chấp nhận cơ hội vinh thăng cho tình yêu ta đang có, ngày càng tốt đẹp hơn.

Với dặn dò đàn con biết tỏ bày tình có hy sinh, Đức Chúa đã nêu gương để ta cũng có cử chỉ tự hạ làm người thấp hèn. Ngài tự giáng hạ vào chốn nghèo hèn, để Thiên Chúa là Cha sẽ nâng Ngài lên nơi vinh hiển. Noi gương Chúa, ta cũng tự hạ chính mình nhịn nhường mọi vinh hoa, phú quý sang qua người khác. Nhường nhau, để tạo cuộc sống mới dồi dào sức sống.

Tự hạ, nhưng không tự hủy. Tự hạ, không có nghĩa dứt bỏ phẩm giá con người rất vinh quang. Vinh quang, vì mang thân phận làm con dân Đức Chúa. Tự hạ, là tự giảm chính mình xuống mức thấp hơn người khác. Tự đặt mình ở mức thấp, để người khác được nổi bật hơn, hạnh phúc hơn mình. Thực tế, trong sống đời dân gian trầm hạ, cũng nên tìm ra phương cách hoặc động thái khả dĩ giúp ta cởi thoát những hành vi không mang đặc thù của người con yêu Đức Chúa. Cởi thoát, là tự mình không đòi ở chỗ cao, trên người khác. Hoặc, người khác phải cảm nhận công sức mình, đã bỏ ra. Cởi thoát, là không đòi cho được quyền ra lệnh người khác thực hành ý kiến của mình.

Tham dự tiệc thương yêu hôm nay, ta cầu mong Thầy Chí Thánh giúp ta yêu thương mọi người như một nhân vị, chứ không như sự vật. Cầu mong sao, ta tạo được cho mình và mọi người những tình tự “có hy sinh” đưa ta vào cuộc sống rất vui. Sống can đảm, để giải quyết mọi bất đồng trong tương quan với mọi người chung quanh.

Cầu và mong, tình của ta luôn là tình “có hy sinh” như Đức Chúa từng dạy bảo. Và cầu mong sao, trong yêu thương giao dịch, tình của ta với người, vẫn là tình hy sinh ở mức cao độ, như Thầy thương ta.

Và, cũng cầu lại cũng mong sao cho tình nhân-thế có con người vẫn luôn sống theo lời dặn-dò của Đấng Nhân-Hiền từng minh-chứng bằng cuộc sống của Ngài. Sống chung-tình, nhiều thương-mến, rất ngàn năm.

Lm Richard Leonard sj biên-soạn

Mai Tá lược dịch

Sáng mắt trên lễ đài chiến thắng

Sáng mắt trên lễ đài chiến thắng

Daniel Burstein * Trần Quốc Việt (Danlambao) dịch

Poitiers, Pháp, 28 tháng Tám, 1980

Tháng Tám vừa qua vào cao điểm mùa gió mùa ở Biển Đông, một chiếc thuyền bị rò rỉ nước trôi giạt vào bờ biển Indonesia. 64 người tỵ nạn Việt Nam cả người ướt đẫm, đói, và sợ hãi cố tiến vào bờ.

Sự kiện này lẽ ra hầu như bị lãng quên trong toàn bộ lịch sử đau khổ mà thuyền nhân Việt Nam chịu đựng, ngoại trừ một điều: Trong 64 người sống sót ấy có Trương Như Tảng, nhà cách mạng Việt Nam cao cấp nhất đào thoát sang Phương Tây.

Trong suốt sáu tháng kế tiếp ở trại tỵ nạn trên đảo Anambas, lý lịch của Tảng là người thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và là bộ trưởng tư pháp trong Chính phủ Cách mạng Lâm thời vẫn còn là một bí mật mà chỉ vợ ông biết. Bí mật ấy vẫn còn giấu kín ngay cả sau khi Tảng được phép định cư ở Pháp, nơi một ủy ban người Việt lo nhà cho ông ở tại Poitiers và việc làm công nhân cho ông ở nhà máy lốp xe Michelin.

Tuy nhiên, vào tháng Sáu, Tảng đã trút bỏ vỏ bọc người tỵ nạn bình thường và thông báo lý lịch ông tại cuộc họp báo Paris.

“Là người đã dành trọn cuộc đời trưởng thành của mình cho sự nghiệp quốc gia Việt Nam,” ông tuyên bố, “tôi phải nói cho quý vị biết rằng công cuộc giải phóng ở Việt Nam đã bị phản bội.”

Để trốn thoát Tảng đã phải trải qua bao giông tố ngoài biển khơi, chạm trán với đội tuần tra an ninh Việt Nam, và thậm chí cả cuộc tấn công của hải tặc. Trải qua tất cả những khó khăn này, ông vẫn mơ về ngày ông có thể công khai nói thật ra những điều ông nghĩ ở Paris, và kêu gọi tất cả những người Việt Nam trong và ngoài nước hãy cùng nhau đấu tranh chống lại chế độ mới.

Cách đây vài tuần, trong cuộc phỏng vấn chứa đựng nhiều thông tin và chi tiết nhất từ trước đến nay, Trương Như Tảng cho phóng viên này biết sự đấu tranh có tổ chức đang bắt đầu thành hình ở Việt Nam. Đó không chỉ là kháng chiến rải rác của các lực lượng cũ, cánh hữu, thân Mỹ mà đã và đang tiếp tục từ năm 1975. Quan trọng hơn là, Tảng nói, nhiều người trước kia thuộc về “lực lượng thứ ba” và ngay cả những đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam bất đồng chính kiến đang tự tổ chức thành những ổ kháng chiến.

Thừa nhận Lê Duẩn (tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam) và những người khác trong giới lãnh đạo Hà Nội vẫn kiểm soát chặt chẽ đất nước, Tảng tóm tắt một số nhân tố đang phá hoại sự ổn định của chính quyền của họ. Ông nhắc đến sự thiếu hụt lương thực nghiêm trọng, đàn áp chính trị, mà ông nói “thậm chí còn tệ hơn thời chế độ Thiệu ở Sài Gòn,” thương vong nặng nề trên chiến trường ở Cambodia, Liên Xô không cung cấp viện trợ kinh tế đầy đủ như đã hứa, và sự rạn nứt trong giới lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt về chính sách đối ngoại thân Liên Xô và lập trường thù địch đối với Trung Quốc của Việt Nam.

“Nhân dân Việt Nam không muốn đánh Trung Quốc,” Tảng khẳng định. “Cho dù bao nhiều lần đi nữa Lê Duẩn nói với nhân dân rằng Trung Quốc chịu trách nhiệm về những vấn đề kinh tế của đất nước, nhưng nhân dân thấy rất rõ ràng Hà Nội phải chịu trách nhiệm chuyện ấy.”

Trong ánh sáng lờ mờ trong căn nhà hầu như chẳng bày biện gì ở Poitiers, ông có vẻ như chẳng màng đến cái giá riêng tư ông phải trả để được nói thẳng công khai. Khác với đa số những người tỵ nạn Việt Nam trốn thoát khỏi cảnh đói kém và đàn áp sắc tộc để có cuộc sống tốt hơn ở Phương Tây, ông đã đổi biệt thự sang trọng có người giúp việc, xe hơi riêng, khẩu phần thịt và đường cao hơn bình thường để lấy sự tồn tại nghèo nàn và bấp bênh của một công nhân di dân ở Pháp.

“Tôi không thể im lặng mãi,” ông nói về lý do ông trốn thoát. “Tôi không thể nào đứng nhìn một cách thụ động để thấy mọi thứ mà nhân dân tôi đã đấu tranh suốt 20 năm trời bị hủy diệt.”

Cách đây 20 năm Trương Như Tảng đã quay lưng lại với nền giáo dục từ Sài Gòn giàu có và học vấn đại học từ Paris của mình để gia nhập cách mạng Việt Nam. Ông là một trong 60 người Miền Nam tham gia thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam vào năm 1960.

Chẳng bao lâu sau đó bị tù vì những hoạt động cách mạng, ông thoát khỏi có lẽ cái chết dưới tay nhà cầm quyền Sài Gòn khi ông được trao đổi lấy ba tù binh Mỹ vào năm 1968. Rồi ông biến mất vào những căn cứ bưng biền của Việt Cộng.

Khi chính phủ cách mạnh lâm thời được thành lập vào năm sau, Tảng được bổ nhiệm làm bộ trưởng tư pháp. Mặc dù các đội tìm-và-diệt của Mỹ thường đến gần công sự trong rừng của Tảng trong vòng 100 mét, nhưng trong suốt thời gian chiến tranh ông tập trung thảo ra những kế hoạch để chuẩn bị cho bộ tư pháp hoạt động ở Miền Nam Việt Nam mới sau chiến thắng của Chính phủ Cách mạng Lâm thời.

Chiến thắng đến, nhưng Tảng không bao giờ có cơ hội thực hiện những kế hoạch của mình. Khi duyệt binh từ lễ đài trong buổi lễ chào mừng chiến thắng ở thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn cũ) vào tháng Năm 1975, ông bị cú sốc lớn đầu tiên: Lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam và Chính phủ Lâm thời không nhìn thấy đâu cả. Khi ông hỏi tướng Văn Tiến Dũng (bộ trưởng quốc phòng Việt Nam hiện nay) về lý do tại sao chỉ có cờ Miền Bắc Việt Nam tung bay, tướng này đã trả lời ông một cách khinh thường, “Quân đội đã được thống nhất.”

Giai đoạn kế tiếp là giai đoạn vỡ mộng đối với Tảng. Ông cố gắng tập hợp ban chuyên gia pháp lý cho bộ tư pháp, nhưng những ai mà các cán bộ cộng sản không thích đều lặng lẽ bị đưa đến các trại “cải tạo”. Những người dân thường đòi biết ông, với tư cách bộ trưởng tư pháp, làm được gì cho bạn bè và người thân của họ bị tịch thu tài sản hay cho những người bị buộc phải dọn lên các vùng kinh tế mới.

“Tôi chứng kiến một chế độ độc tài phát-xít đang được xây dựng lên,” Tảng buồn bã nói, “và mặc dù tôi đã tranh cãi, nhưng tôi chẳng thể làm được gì. Các mệnh lệnh đều xuất phát từ Hà Nội, và quân đội và công an mật luôn luôn sẵn sàng ủng hộ họ.”

Vào năm 1976 Việt Nam được thống nhất theo cách ông mô tả là “bạo lực và trả thù.” Hồ Chí Minh thường tuyên bố khi thống nhất đến quá trình thống nhất nên chậm và theo từng bước một. Nhưng vào năm 1976, vấn đề thống nhất bị áp đặt lên Miền Nam, và họ không có cơ hội phản đối điều ấy.

“Lê Duẩn ra sức củng cố quyền lực này rất nhanh chóng,” Tảng tin.“Ông ta không thể nào để Miền Nam phát triển thành nơi cuối cùng phản đối cương quyết các chính sách của ông.”

Trong số 24 thành viên của Chính phủ Lâm thời vào thời điểm hiệp định hòa bình Paris được ký vào năm 1973, chỉ có ba thành viên được trao cho những chức vụ trong chính phủ thống nhất sau năm 1976. Tảng nói ngoại trừ một vài người khác là các viên chức quân đội, còn tất cả những người còn lại của Chính phủ Lâm thời cũ đều sống trong cảnh hoàn toàn ẩn dật và trong lòng họ rất ghê tởm những gì đã diễn ra.

Nhằm cố gắng giữ ông trong đoàn thể, sau thống nhất giới lãnh đạo Hà Nội ban cho ông chức vụ nhỏ trong bộ lương thực. Ông từ chối, không muốn tiếp tục đồng lõa với chính quyền ông chống đối, ông cũng không muốn bị giám sát thường xuyên ở Hà Nội. Khi ông cuối cùng chấp nhận công việc làm giám đốc công ty cao su vào năm 1978, lý do ông làm thế là để tạo vỏ bọc nhằm tổ chức kế hoạch đào thoát.

Trong sáu tháng ở trại tỵ nạn ông có nhiều thời gian suy nghĩ về chuyện tại sao cách mạng Việt Nam không thành công. Bây giờ ông tố cáo giới lãnh đạo hiện nay đã từ bỏ định hướng về thống nhất dân tộc và phi liên kết quốc tế được Hồ Chí Minh đề ra. Từ ngữ mị dân Mác-xít, ông nói, chỉ là ngôn ngữ áp bức mới ở Việt Nam.

“Ở Việt Nam hiện nay không có chuyên chính vô sản,” ông nói. “Chỉ có điều mà chúng tôi gọi bằng tiếng Việt là ‘gia đình trị’-tức độc tài của các dòng họ. Trong trường hợp này đó là các gia đình của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ (trưởng ban tổ chức Đảng) kiểm soát tất cả mọi thứ.”

Để chứng minh điều này là đúng, Tảng kể ra danh sách gồm các con trai, anh em, anh em vợ của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đang giữ những chức vụ chủ chốt từ đứng đầu công an mật tới bí thư chính ủy lực lượng không quân.

Tiếng Pháp rất giỏi của ông hay cách nói năng nhẹ nhàng của ông vẫn không có thể che giấu sự cay đắng trong giọng nói khi Tảng nói. Nhưng bất chấp những từng trải của mình, lý tưởng của ông vẫn còn nguyên vẹn. Ông nhất định không từ bỏ giấc mơ của mình về xã hội công bằng và dân chủ ở Việt Nam.

Mặc dù ông ban đầu dự định hoạt động chính trị từ từ trong lúc ông thích nghi với cuộc sống mới ở Paris, nhưng bây giờ ông thấy mình thường xuyên đến Paris để tham gia vào các nỗ lực nhằm củng cố phong trào kháng chiến Việt Nam và để hình thành cầu nối với các lực lượng kháng chiến Lào và Cambodia. Ông đã tiếp xúc với bạn học cũ vào thời trung học – hoàng thân Norodom Sihanouk, cựu quốc trưởng Cambodia – và hai người đã trao đổi những lời hứa đoàn kết.

Tảng không mất đi sự mỉa mai khi ông nói về mặt trận chung của nhân dân Việt Nam, Cambodia, và Lào chống lại những kẻ mà ông gọi là “kẻ thù chung”: giới lãnh đạo Hà Nội và những kẻ ủng hộ Liên Xô của họ. Ông ý thức rằng điều ông đang đề xuất thể hiện sự bắt đầu lại từ đầu hội nghị thượng đỉnh của nhân dân Đông Dương vào năm 1970, nơi các nhà lãnh đạo Mặt trận Giải phóng Dân tộc Miền Nam Việt Nam, Miền Bắc Việt Nam, Cambodia, và Lào đã gặp nhau ở Trung Quốc để thành lập liên minh chung chống lại Hoa Kỳ và chế độ Sài Gòn.

Trên đất Pháp ngoại quốc, Trương Như Tảng lại bắt đầu lại từ đầu, làm những gì ông đã làm cách đây 20 năm ở Sài Gòn – đặt nền tảng cho cuộc cách mạng Việt Nam.

Daniel Burstein

Nguồn:

Dịch từ báo Christian Science Monitor số ra ngày 28/8/1980. Tựa đề của người dịch. Tựa đề tiếng Anh là “A revolution who fled the revolution”.

http://www.csmonitor.com/1980/0828/082850.html

Bản tiếng Việt:

Trần Quốc Việt

danlambaovn.blogspot.com

Trở về Hòn Ngọc Viễn Đông hay xóa bỏ văn hóa?

Trở về Hòn Ngọc Viễn Đông hay xóa bỏ văn hóa?

Cát Linh, phóng viên RFA
2016-04-16

thuvienhcm-622.jpg

Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh

Courtesy thuvientphcm.gov.vn

Your browser does not support the audio element.

Khi việc đề nghị đốn hạ 300 cây cổ thụ trăm tuổi trên đường Tôn Đức Thắng chưa kịp lắng xuống thì những ngày qua, thông tin về một phần của Thư viện Khoa học thành phố sẽ bị “xẻ đất” để giao cho một doanh nghiệp tư nhân nhằm mục đích xây cao ốc tiếp tục gây hoang mang cho người dân trong nước.

Đặc biệt, dư luận có sự liên kết giữa hai sự việc với câu phát biểu của ông Đinh La Thăng về việc “mong TP Hồ Chí Minh trở về vị trí số 1 Đông Nam Á” và nhiều người tự hỏi: phải chăng xóa bỏ những di tích văn hóa lịch sử là một trong những cách trở về với tên gọi Hòn Ngọc Viễn Đông?

Xóa bỏ văn hóa đọc?

Tuy chỉ mới là dự định, và chưa có quyết định chính thức từ Sở qui hoạch kiến trúc và UBND TP, nhưng thông tin việc xây cao ốc trong khuôn viên của Thư viện Khoa học Thành phố đã gây nhiều bức xúc cho những người quan tâm đến việc bảo tồn di sản văn hóa, lịch sử của đất nước. Không những thế, các trang mạng xã hội đồng loạt lên tiếng cho rằng việc xẻ đất để xây cao ốc trong khuôn viên thư viện là một việc làm đi ngược lại với việc bảo tồn lịch sử dân tộc, và xem thường văn hóa của một đất nước.

Một tuyên ngôn trắng trợn, xóa bỏ văn hóa rồi còn gì. Chỉ có thể nói được thế thôi. Nếu quả thật bán đi để tiêu, mà sách vở thì cho, nhét vào chỗ khác thì là một việc xóa bỏ văn hóa. Ngạc nhiên và quá đau xót.
-GS Nguyễn Huệ Chi

Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, nhà nghiên cứu văn học Việt Nam cổ, trung và cận đại, nguyên trưởng phòng Văn học Việt Nam cổ cận đại khi nghe thông tin này đã thốt lên rằng:

“Thế thì đau đớn quá. Nghĩa là thời buổi này người ta không cần văn hóa và khoa học nữa rồi. Một tuyên ngôn trắng trợn, xóa bỏ văn hóa rồi còn gì. Chỉ có thể nói được thế thôi. Nếu quả thật bán đi để tiêu, mà sách vở thì cho, nhét vào chỗ khác thì là một việc xóa bỏ văn hóa. Ngạc nhiên và quá đau xót.”

Trong khi giáo sư Nguyễn Huệ Chi cho rằng đó là một xóa bỏ văn hóa, thì Giáo sư Ngô Đức Thịnh, nguyên Viện trưởng viện nghiên cứu văn hóa VN bày tỏ sự lo ngại trước một văn hóa đọc đang ngày càng đi xuống của xã hội Việt Nam. Tuy chưa được nghe thông tin chính thức, nhưng giáo sư Ngô Đức Thịnh cho biết ông sẽ không đồng tình với kế hoạch này:

“Nếu việc này có thật thì tôi không đồng ý, tôi phản đối chủ trương đó. Thư viện Tổng hợp cũng không rộng rãi gì, mà bây giờ văn hóa đọc của Việt Nam đang đi xuống. Cho nên cái việc lấy thư viện để làm cao ốc, chỗ ở, hay kinh doanh thì tôi thấy không hợp lý.”

Nói thêm về điều mà ông gọi là văn hóa đọc, Giáo sư Ngô Đức Thịnh cho biết rằng “phần đông sinh viên Việt Nam ngày nay rất lười đọc.”

“Tất nhiên là bây giờ thì có internet, có đủ thứ, nhưng nói gì thì nói, một cuốn sách khi mới ra, cầm nó trong tay, có cảm giác rất thích thú, nhất là mùi thơm của giấy. Không phải là bây giờ mọi người nói internet thì có thể thay được tất cả. Không thay được hết đâu. Thế thì có thể không chủ quan lắm, tôi cho rằng văn hóa đọc của Việt Nam đang đi xuống.”

Yếu tố làm nên Hòn Ngọc Viễn Đông

Tân bí thư thành ủy Đinh La Thăng nhấn mạnh bên hành lang Quốc hội vào ngày 19 tháng 2 vừa qua, đó là ông mong muốn TPHCM phải giành lại vị trí số 1 Đông Nam Á.

cay-xanh-sg-622.jpg

Hơn 20 người dân tại Sài Gòn hôm 26/3 tập trung tại khu vực đường Tôn Đức Thắng để phản đối việc chặt một số cây cổ thụ tại đó để triển khai dự án giao thông.

Hơn một tháng sau đó, ngày 23 tháng 3, cơ quan quản lý đường sắt đô thị TPHCM ra thông báo sẽ đốn hạ 300 cây cổ thụ trên đường Tôn đức Thắng để phục vụ cho dự án giao thông gồm tuyến tàu điện ngầm, cầu Thủ Thiêm 2, nhà ga Ba Son.

Và như vừa nêu là thông tin về một dự án cao ốc 20 tầng, cao khoảng 80m sẽ được xây trong khuôn viên Thư viện KHTH TP với chức năng làm văn phòng, khách sạn.

Trao đổi với chúng tôi, Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã nói rằng, khi người Pháp xây dựng Sài Gòn, thì đã đi trước tất cả, từ Hồng Kong cho đến Singapore còn thua kém nhiều. Để có được Hòn Ngọc Viễn Đông của Đông Nam Á là Việt Nam lúc bấy giờ, họ đã xây dựng những kiến trúc cũng như quy hoạch những con đường trong đó nhiều cây xanh:

“Tôi nghĩ là kiến trúc lớn như vậy thì không phải chỉ có toà nhà, mà là cả một khuôn viên. Bất cứ một công trình nào xây thì cũng sẽ phá tổng quan của kiến trúc đó. Tôi nghĩ là ý thức của vấn đề, về văn hóa cũng như lịch sử rất kém. Phải tôn trọng tất cả những kiến trúc có giá trị vừa văn hóa vừa lịch sử. Thư viện đó mà không tôn trọng thì vấn đề học tập sẽ rất kém, không phát triển được.”

Tôi nghĩ là kiến trúc lớn như vậy thì không phải chỉ có toà nhà, mà là cả một khuôn viên. Bất cứ một công trình nào xây thì cũng sẽ phá tổng quan của kiến trúc đó. Tôi nghĩ là ý thức của vấn đề, về văn hóa cũng như lịch sử rất kém.
-TS Nguyễn Nhã

Thế nhưng, giờ đây, theo Tiến sĩ Nguyễn Nhã, nếu nói đến từ Hòn Ngọc Viễn Đông hay vị trí số 1 Đông Nam Á thì đó là cái thưở rất xưa rồi.

Nhắc đến câu nói của ông Đinh La Thăng, Giáo sư Ngô Đức Thịnh nhấn mạnh rằng muốn Sài Gòn quay trở lại là Hòn Ngọc Viễn Đông, nhưng một trong những yếu tố làm nên Hòn Ngọc Viễn Đông chính là hàng cây xanh, là thư viện. Và ông đặt câu hỏi rằng: “như thế, có phải đi đang ngược lại với lời mình nói hay không?”

Tiến sĩ Nguyễn Nhã cũng chia sẻ rằng, những vết tích còn lại ở Sài Gòn và cả Hà Nội, như hàng cây xanh, thư viện chính là những hình ảnh làm nên bản sắc riêng của hai thành phố này. Theo ông, việc không gìn giữ được những yếu tố lịch sử văn hóa đã chứng tỏ một tầm nhìn rất thấp của những người lãnh đạo đất nước.

Cho đến nay, chưa có quyết định chính thức nào được đưa ra. Một vị đại diện Hội đồng Nhân dân TP trả lời truyền thông trong nước rằng đang chờ báo cáo của UBND TP về dự tính quy hoạch xây cao ốc trên đất thư viện như vừa nêu.

Những người quan tâm đến việc bảo tồn văn hóa lịch sử của đất nước như Giáo sư Ngô Đức Thịnh, Giáo sư Nguyễn Huệ Chi và dư luận đều hy vọng rằng thế hệ sau này vẫn còn được biết đến Thư viện Khoa học Tổng hợp, một trong những biểu tượng văn hóa còn lại của Hòn Ngọc Viễn Đông trước đây.

Tân chính phủ: Bế tắc với những vấn nạn cũ

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan  từ Hà Nội nhận định:

Như vậy nó chứng tỏ nền kinh tế Việt Nam còn nhiều vấn đề lắm, đặc biệt nội tại của nền kinh tế nếu loại trừ khu vực đầu tư nước ngoài ra, thì rõ ràng cỗ máy kinh tế Việt Nam còn rất nhiều vấn đề bất ổn…”

bà Nguyễn Thị Kim Ngân phát biểu bế mạc kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa 13,

nhiều chỉ tiêu kinh tế xã hội chưa đạt kế hoạch, tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, nợ công, nợ xấu tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn và đặc biệt Việt Nam không thể đạt được mục tiêu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

 Tân chính phủ: Bế tắc với những vấn nạn cũ

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2016-04-15

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại phiên họp đầu tiên với các thành viên chính phủ mới hôm 14/4/2016.

Courtesy chinhphu.vn

Your browser does not support the audio element.

Tiếp nhận di sản đầy khó khăn

Dàn lãnh đạo mới của Đảng và Nhà nước cũng như tân chính phủ của Việt Nam tiếp nhận di sản đầy khó khăn từ các nhiệm kỳ trước để lại.

Ngày 11/4 Ngân hàng Thế giới cảnh báo rủi ro tiêu cực vẫn chiếm ưu thế trong nền kinh tế Việt Nam, World Bank đồng thời hạ triển vọng tăng trưởng 2016 của Việt Nam xuống mức 6,2% từ mức 6,5% đưa ra trước đó.

Theo SaigonTimes Online, Ngân hàng Thế giới ghi nhận thâm hụt tài khóa so với GDP của Việt Nam diễn ra ở mức cao trong thời gian dài. Ngân hàng Thế giới cũng cảnh báo tình trạng nợ công tăng nhanh trong khi dự trữ ngoại tệ thấp và đang có xu thế giảm, hiện đang là lý do gây quan ngại.

Bản cập nhật đánh giá tình hình kinh tế Việt Nam của Ngân hàng Thế giới được đưa ra trong bối cảnh Việt Nam bổ nhiệm lãnh đạo cao cấp và công bố chính phủ mới.

Năm nay là một năm rất khó khăn của kinh tế Việt Nam thì có thay đổi chính phủ hay không, cũng khó thay đổi được tình trạng đó. Bởi vì sự khó khăn là thực tế của Việt Nam hiện nay, một mặt là nền kinh tế trong năm vừa qua có đạt tốc độ tăng trưởng nhất định nhưng còn quá nhiều vấn đề chưa giải quyết được.
-Phạm Chi Lan

Trả lời chúng tôi vào tối 14/4/2016,  chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan  từ Hà Nội nhận định:

“Năm nay là một năm rất khó khăn của kinh tế Việt Nam thì có thay đổi chính phủ hay không, cũng khó thay đổi được tình trạng đó. Bởi vì sự khó khăn là thực tế của Việt Nam hiện nay, một mặt là nền kinh tế trong năm vừa qua có đạt tốc độ tăng trưởng nhất định nhưng còn quá nhiều vấn đề chưa giải quyết được. Những vấn nạn lớn như nợ công tăng cao, tình trạng nợ xấu của các ngân hàng chưa được cải thiện, doanh nghiệp nhà nước vẫn quá nhiều và kém hiệu quả, khu vực tư nhân trong nước thì rất nhiều doanh nghiệp phải ngừng hoạt động, con số này tiếp tục tăng lên. Nhiều doanh nghiệp lớn hơn, tình trạng hoạt động khá hơn thì lại đi bán cho các công ty khác qua thương vụ mua lại sáp nhập. Như vậy nó chứng tỏ nền kinh tế Việt Nam còn nhiều vấn đề lắm, đặc biệt nội tại của nền kinh tế nếu loại trừ khu vực đầu tư nước ngoài ra, thì rõ ràng cỗ máy kinh tế Việt Nam còn rất nhiều vấn đề bất ổn…”

Bà Phạm Chi Lan nhấn mạnh rằng, không chỉ Ngân hàng Thế giới nhận định nhự vậy, mà chính các chuyên gia trong nước, nhiều tổ chức nghiên cứu của Việt Nam cũng nhận thấy kinh tế của năm 2016 sẽ là một năm khó khăn. Vị chuyên gia từng tham gia biên soạn Báo cáo Việt Nam 2035 đề cập tới bối cảnh Việt Nam đang phải đương đầu với thách thức hội nhập lớn hơn. Trong năm nay Cộng đồng Kinh tế ASEAN hình thành, hàng hóa cạnh tranh của các nước ASEAN ở Việt Nam sẽ tăng lên rất mạnh.

Vẫn theo bà Phạm Chi Lan, thực tế mấy năm vừa qua đã thấy hiện tượng gọi là những cuộc đổ bộ của các doanh nghiệp ở các nước Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines… họ tràn vào Việt Nam để chiếm lấy cơ hội thị trường trong nước của Việt Nam, nhất là trong điều kiện các doanh nghiệp trong nước còn yếu kém, mà chính sách của nhà nước thì vẫn thiên về hướng hỗ trợ nhiều hơn cho đầu tư nước ngoài so với khu vực tư nhân trong nước. Trong tình hình như thế, bà Phạm Chi Lan nói, rõ ràng thách thức của Việt Nam là rất lớn.

000_Hkg10220419-622.jpg

Từ trái sang: Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hà Nội. (Ảnh minh họa chụp năm 2015)

Trò chuyện với chúng tôi, cùng ngày 14/4/2016, chuyên gia tài chánh Bùi Kiến Thành, một Việt kiều hiện sống và làm việc ở Hà Nội cũng nhìn nhận ban lãnh đạo mới của Đảng và Chính phủ Việt Nam thừa nhận một di sản đầy khó khăn của các nhiệm kỳ trước để lại. Ông nói:

“Dự báo của Ngân hàng Thế giới dựa trên quá trình từ trước ngày chính phủ mới nhậm chức. Thế thì đối với một chính phủ mới nhậm chức nhận được những thông tin như vậy thì cũng phải vươn lên thôi… những điều gì Ngân hàng Thế giới có khuyến cáo thì chúng ta lắng nghe… Cái gì 30 năm nay từ 1985 đến nay chưa làm được thì phải tỉnh táo xem lý do khách quan, chủ quan tại sao chưa làm được, để biết phải làm gì để vượt qua những khó khăn đấy… đó là phần việc mà lãnh đạo Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng như tân Chính phủ phải nghiên cứu hết sức quyết liệt tìm hiểu con đường đi tới. Hiện nay tư duy đã nói hết sức làm những chuyện gì để Việt Nam vươn lên, để hội nhập quốc tế, muốn hội nhập thì phải thực hiện những hiệp định chúng ta đã ký với nước ngoài, trong đó có những điều khoản phải thi hành… có rất nhiều chuyện cần phải làm chứ không phải chỉ là ngồi bàn cãi riêng với nhau mà thôi… phải nghiên cứu tất cả mọi điều kiện để chúng ta tiến tới…”

Thâm hụt ngân sách lớn

Di sản kinh tế Việt Nam qua hai nhiệm kỳ 10 năm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng để lại là sự âu lo về nợ công, thâm hụt ngân sách lớn, sự đổ vỡ đầy mất mát của một số tập đoàn kinh tế nhà nước và tình trạng tham nhũng tràn lan chưa bị đẩy lùi. Việt Nam cũng đã tiến hành cải cách thể chế với kết quả không đáng kể, trong nhiệm kỳ thứ hai của ông Nguyễn Tấn Dũng.

Bây giờ chính phủ nhiệm kỳ mới lại vẫn tiếp tục với những vấn đề không mới mà đã được cảnh báo từ lâu. Được biết,Việt Nam theo cơ chế lãnh đạo tập thể, chịu trách nhiệm tập thể, Đảng Cộng sản lãnh đạo toàn diện. Như vậy, phải chăng Chính phủ nhiệm kỳ mới của Việt Nam cũng sẽ tiếp tục bế tắc như chính phủ tiền nhiệm và trì trệ trong các nút thắt thể chế. Chúng tôi nêu câu hỏi này với chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan và được bà trả lời:

Tôi không nghĩ hẳn là Việt Nam ở tình trạng không thấy ‘ánh sáng cuối đường hầm’. Con đường đi để vượt qua khó khăn từng được nêu lên nhiều rồi chứ không phải bây giờ mới nói… trong những năm vừa qua cũng có những cải cách nhất định được tiến hành…
-Phạm Chi Lan

“Tôi không nghĩ hẳn là Việt Nam ở tình trạng không thấy ‘ánh sáng cuối đường hầm’. Con đường đi để vượt qua khó khăn từng được nêu lên nhiều rồi chứ không phải bây giờ mới nói… trong những năm vừa qua cũng có những cải cách nhất định được tiến hành…thí dụ chính phủ cũ cũng tiến hành công cuộc tái cơ cấu kinh tế, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, có một số thay đổi trong cố gắng để cải thiện môi trường kinh doanh…thì đã có làm một số việc nhưng vấn đề chính là làm không tới nơi tới chốn và có những vấn nạn lớn thì lại chưa được giải quyết, thành ra nó không giúp khắc phục được điều kiện kinh tế khó khăn của Việt Nam những năm vừa qua. Dù nó có thể làm cho tăng trưởng được nhất là với khu vực đầu tư nước ngoài, còn có nhiều ưu đãi dành cho họ, rồi vẫn cố gắng để tiếp nhận những dự án mới, thì họ còn có thể đóng góp cho tăng trưởng. Nhưng khi nền kinh tế nội bộ không tăng trưởng được thì nó sẽ ảnh hưởng về lâu về dài với Việt Nam…”

Cụ thể về tương lai của chính phủ nhiệm kỳ mới, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, nhân vật từng là thành viên Ban tư vấn kinh tế của Thù tướng Phan Văn Khải, tiếp lời:

“Tôi cho là những người lãnh đạo mới lên của nhiệm kỳ này, có lẽ họ cũng đã được thông báo và biết tình hình đó. Tôi chỉ mong họ thực sự nhận thức được sâu sắc những vấn đề của nền kinh tế Việt Nam đương đầu hiện nay và con đường thoát ra khỏi nó, mà các chuyên gia trong ngoài nước đã đưa ra nhất nhiều kiến nghị rồi. Kiến nghị rõ nhất và tập trung nhất, tôi nghĩ là thể hiện trong Báo cáo Việt Nam 2035 mà thời gian vừa rồi Ngân hàng Thế giới cùng với Chính phủ Việt Nam tiến hành nghiên cứu và đã được công bố. Trong đó thông điệp rất rõ là nếu không cải cách thể chế thì Việt Nam sẽ không thể phát triển được, khó thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, còn nếu cải cách thể chế thì Việt Nam hoàn toàn có thể phát triển được tốt hơn trong những năm tới vượt qua những khó khăn hiện nay.”

Báo chí Việt Nam đưa tin ngày 12/4, tân Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân mô tả những thách thức đầy khó khăn đối diện Quốc hội khóa tới và tân chính phủ.

Soha News trích lời bà Nguyễn Thị Kim Ngân phát biểu bế mạc kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa 13, theo đó bà nhìn nhận nhiều chỉ tiêu kinh tế xã hội chưa đạt kế hoạch, tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, nợ công, nợ xấu tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn và đặc biệt Việt Nam không thể đạt được mục tiêu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Điểm qua truyền thông báo chí trong nước, VnExpress là tờ báo điện tử  hiếm hoi, đề cập thẳng vào những thách thức đối với các tân lãnh đạo Việt Nam. Tờ báo trích lời ông Carl Thayer, một chuyên gia về Việt Nam thuộc Học viện Quốc phòng Australia nhận định rằng, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chịu 4 thách thức lớn, gồm giảm nợ công, cải cách hệ thống ngân hàng để giảm nợ xấu, đẩy mạnh việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và hỗ trợ nỗ lực giảm tham nhũng.

Rõ ràng những vấn nạn vừa nêu là không mới và như lời chuyên gia Phạm Chi Lan bày tỏ hy vọng là, những lãnh đạo mới lên “Sẽ thực sự nhận thức được sâu sắc những vấn đề của nền kinh tế Việt Nam đương đầu hiện nay và con đường thoát ra khỏi nó, mà các chuyên gia trong ngoài nước đã đưa ra nhất nhiều kiến nghị rồi.”

Những cái chết… “đúng qui trình”!

Những cái chết… “đúng qui trình”!

Dân Trí

Bùi Hoàng Tám

15-4-2016

(Minh họa: Ngọc Diệp)

Nếu đằng nào dân cũng “chết đúng qui trình” thì lập ra ban nọ, bệ kia mỗi năm tiêu tốn cả đống tiền của dân để làm gì nhỉ? Hay là giải tán quách nó đi để cho dân “chết đúng qui trình” vì đằng nào chả thế, chết là hết, cần gì đúng qui trình hay không đúng qui trình?

“Đúng qui trình” đang là cụm từ “hot”. Vào trang tìm kiếm Google lúc 14g30 ngày 14/4/2016 cho 03 từ này, thấy 353.000 kết quả trong 0,47 giây với đủ các nội dung.

Từ việc bổ nhiệm cán bộ sai qui định, cấp sổ đỏ hay cho phép xây nhà trái phép, cấp cứu người bệnh cho đến tăng giá các mặt hàng thuộc nhóm độc quyền… Tất tần tật đều rất “đúng qui trình”.

Trên tờ Vn Economy, ông Nguyễn Sĩ Cương, Ủy viên Thường trực Ủy ban Pháp luật của Quốc hội đã từng chua chát thốt lên: “Thật lạ lùng là cái gì cũng đúng quy trình! Tiêm chết người rồi vẫn khẳng định là… đúng quy trình, bỏ tù oan đến cả 10 năm vẫn… đúng quy trình, bỏ lọt 230 kg ma túy qua cửa khẩu vẫn… đúng quy trình. Tôi cho rằng đấy chỉ là sự biện hộ và rũ bỏ trách nhiệm một cách vô cảm”.

Thế nhưng Tại Hội nghị Thành ủy Đà Nẵng lần thứ 4 ngày 13/4, ông Lê Minh Trung, Bí thư Quận ủy Thanh Khê còn có một khái niệm mới về “qui trình”: “Chết dần dần đúng… qui trình”.

Ông Trung nói: “Thành phố có hàng trăm héc-ta rau sạch, rau sạch này bán ở đâu, địa chỉ nào, chỉ cho dân đến mua. Không biết rau sạch hay là dơ thì cứ ăn, ăn xong rồi chết dần dần, gọi là “chết đúng qui trình”.

Thật ra, chuyện thực phẩm bẩn của ta thì chả có gì mới. Nghĩa là nó cũ một cách nguy hiểm hay nói một cách khác, một mối nguy hiểm rất… cũ.

Rau tưới bằng dầu hỏa, trồng ở bãi tha ma vừa chôn người chết, rửa ở rãnh nước thải. Gạo chứa thuốc trừ sâu, diệt cỏ. Tôm cá đồng nhiều dư lượng kháng sinh, hải sản ướp phân bón ure. Thịt lợn chứa chất tạo nạc và thuốc an thần. Thịt bò bơm nước. Thịt gà bôi phẩm màu hóa chất dùng để đánh bóng bàn ghế… là chuyện thường ngày.

Nhà thơ Trần Đăng Khoa kể: “Hồi ở Đài Tiếng nói Việt Nam, một phóng viên của tôi đi công tác Hà Tĩnh về, có tặng tôi hai quả bưởi. Bưởi đặc sản, quý lắm. Tôi cất trong tủ. Đợi có khách quý thì khao. Thế rồi quên. Mấy quả bưởi lăn lóc trong đống báo đã đọc. Khi được tặng bưởi, tôi đang là Giám đốc Kênh Truyền hình. Rồi sau đó, tôi chuyển sang làm Phó Bí thư Đảng uỷ. Bốn năm sau, tôi có lệnh điều động chuyển hẳn sang Hội Nhà văn. Lúc bấy giờ, tôi mới chuyển cơ quan, nghĩa là sau khoảng 6 năm, dọn tủ, tôi bất ngờ thấy hai quả bưởi mà mình đã bỏ quên. Càng bất ngờ hơn khi sau 6 năm, bưởi vẫn tươi nguyên, và lúc bổ ra, múi bưởi vẫn đẹp, vẫn tươi mọng. Thật kinh hoàng”.

Chuyện “trường tồn” của thực phẩm ở ta thì kinh hoàng rồi. Có người hài hước nói rằng rồi đây Việt Nam sẽ có nhiều… xác ướp nhất thế giới. Lý do là bởi khi còn sống, ăn nhiều chất phocmol nên khi chết, thịt sẽ “tươi” mãi mãi…

Có một câu hỏi cũng “tươi mãi”: Ai chịu trách nhiệm?

Câu trả lời nhìn chung là giống nhau và cũ: Không ai cả!

Thế nhưng lần này, có một câu mới, mới như… cũ. Đó là của bà PGS TS Viện trưởng Viện Kiểm nghiệm ATVSTP Quốc gia LÊ THỊ HỒNG HẢO: “Đầu tiên là trách nhiệm của người sử dụng”.

Lại nhớ có lần ông Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh Đinh La Thăng than thở: “Các bộ nói phối hợp rất tốt, nhưng thực tế dân vẫn cứ ăn thực phẩm bẩn, thế thì tốt ở đâu, tốt để làm gì, chẳng nhẽ nói dân cứ tạm ăn bẩn đi để các bộ xây dựng lộ trình?”.

Các bộ “phối hợp rất tốt” nhưng dân thì vẫn phải “ăn bẩn”, thế thì “tốt ở đâu” và “tốt để làm gì”? Rồi giờ đây trách nhiệm “đúng qui trình” là “của người sử dụng”.

Mà quan đúng qui trình thì dân chết cũng… đúng qui trình là phải lẽ tự nhiên thôi. Cái “qui trình chết” này của dân bắt đầu từ ăn phải thực phẩm bẩn, rồi nhiễm bệnh, rồi ốm, rồi chết. Rất đúng qui trình vì chả mấy ai chưa ốm đã chết trừ tai nạn gì đó thì không tính ở đây.

Chỉ có điều, nếu đằng nào dân cũng “chết đúng qui trình” thì lập ra ban nọ, bệ kia mỗi năm tiêu tốn cả đống tiền của dân để làm gì nhỉ? Hay là giải tán quách nó đi để cho dân “chết đúng qui trình” vì đằng nào chả thế, chết là hết, cần gì đúng qui trình hay không đúng qui trình?

Vì thế tại Đà Nẵng, ông Nguyễn Xuân Anh cho biết, thành phố sẽ lập lại Ban chỉ đạo an toàn vệ sinh thực phẩm mà thành viên Ban chỉ đạo phải là cấp trưởng ở các sở ngành, quận huyện và giám đốc các Sở Y tế, Công thương, Công an… cùng chủ tịch các quận, huyện.

Ban sẽ do một Phó Chủ tịch UBND TP làm trưởng ban, có cơ chế báo cáo trực tiếp với Thường trực Thành ủy và đề xuất các giải pháp đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.

Đây là nét rất mới bởi chao ôi, người xưa có câu “Sinh có hạn, tử bất kỳ” nhưng giờ đây nếu mà chết cũng có… qui trình thì còn có gì để nói, phải không các bạn?

CHẾT RỒI… ĐI ĐÂU ?

CHẾT RỒI… ĐI ĐÂU ?

 PHÙNG VĂN HÓA

 Ephata 689

Đối với người bình thường thì cái chết luôn là một đề tài kiêng kỵ, người ta dường như muốn lẩn tránh nó. Thế nhưng có những trường hợp không thể lẩn tránh, đó là khi người thân yêu ruột thịt của chúng ta qua đời. Đứng trước ngôi mộ mới đắp khói hương nghi ngút, mọi người đều đã ra về chỉ còn mình ta với câu hỏi quay quắt: Xác thân nằm đó còn hồn đi đâu ? Sở dĩ cái chết của những người mà chúng ta rất đỗi yêu thương như cha mẹ vợ chồng con cái, mới gợi cho ta nỗi niềm thắc mắc, là bởi những con người ấy đã sống với ta một quãng thời gian lâu dài, với biết bao là yêu thương gắn bó, mà nay lại phải chia ly không ngày gặp lại ! Chết là một sự chia ly, và sự chia ly ấy có nghĩa: một người còn ở lại trên cõi đời này, còn người kia thì ra đi biền biệt sang cõi đời khác. Thật sự thì có hay không một cõi đời khác để người chết ra đi, đó là một nan đề triết học mà cho đến nay vẫn chưa được giải quyết. Với duy vật thì chết là hết chuyện chẳng có gì để nói. Tuy nhiên nói thì vậy nhưng đối với những con người có đầu óc suy tư, chẳng hạn J.P. Sartre, thì cái chết vẫn là một bí ẩn khôn dò: “Điều cần ghi nhận đầu tiên là tính chất phi lý của sự chết”. Sở dĩ chết là phi lý bởi vì nó mù quáng và đột ngột chấm dứt mọi dự phóng. Theo triết gia hiện sinh này thì con người tất yếu là dự phóng và dự phóng ấy chỉ là những hoài vọng vô ích ở cõi đời này, tuyệt nhiên chẳng có quan hệ gì với cõi đời sau.

Chết có phải hết hay còn, đó là đề tài muôn thuở của triết học cho cả Đông lẫn Tây. Để tránh cái tệ nạn viển vông, Đức Khổng trả lời cho đệ tử là Tử Cống rằng: “Cho người chết là mất hẳn không biết gì nữa là bất nhân không nên theo. Cho người chết là còn biết như lúc còn sống là bất trí không nên theo” ( Chi tử nhi tri tử chi, bất nhân, nhi bất khả vi giã; chi tử như tri sinh chi, bất trí, nhi bất khả vi giã – Lễ Ký ).

Cho người chết là mất hẳn không còn gì nữa là bất nhân, bởi như thế sẽ chẳng còn có tưởng niệm, có cầu nguyện, tóm lại, chẳng còn có đời sống tâm linh tôn giáo gì cả. Ông HCM một người tự nhận là CS vô thần mà khi làm di chúc vẫn nói mình đi theo ông Mác, ông Lê. Vậy thử hỏi cái việc đi theo ấy là đi đâu ? Phải có nơi có chốn để đi chứ đâu thể cứ nói khơi khơi vậy được ? Cần có nơi có chốn mới có thể đi. Đây là vấn đề hết sức quan hệ trong lãnh vực tâm linh, không thể bỏ qua.

Đạo Công Giáo hiện đang rơi vào khủng hoảng mà nguyên nhân gây ra cho nó chính là vì đã không xác định được cái nơi chốn để về. Trước đây Gíao Hội vẫn tin và giảng dạy về bốn sự sau hết gọi là Tứ Chung ( Novissimis ): Chết, Phán xét, Thiên Đàng, Hoả Ngục. Tín hữu luôn tin rằng sau khi chết con người sẽ chịu phán xét, kẻ lành lên Thiên Đàng hưởng phúc đời đời, còn kẻ dữ sẽ phải phạt trong Hoả Ngục muôn kiếp. Tin có Thiên Đàng có Hoả Ngục tức là tin đó là hai nơi chốn có thực. Cần có lòng tin như thế chúng ta mới cố gắng làm lành lánh dữ để được lên Thiên Đàng và khỏi sa Hoả Ngục. Tin vào đời sau, có thưởng có phạt đó không phải dị đoan nhưng là niềm tin chính đáng ( chánh tín ) của người có đạo. Thế nhưng niềm tin Thiên Đàng, Hoả Ngục có nơi có chốn ấy ngày nay đã bị Thần Học thẳng thừng bác bỏ: “Nếu bạn đã từng nghĩ như tôi hoặc vẫn còn đang nghĩ Thiên Đàng, Luyện Ngục và Hoả Ngục là những nơi chốn thì sai rồi. Bạn cứ mở cuốn Toát yếu Giáo Lý Công Giáo do Đức Giáo Hoàng Benedicto đương kim soạn thảo ra mà xem thì sẽ thấy quan niệm về Nơi Chốn của Thiên Đàng, Luyện Ngục và Hoả Ngục như là những Nơi Chốn là sai bét tè le” ( Nguồn: Lm. Ansgar Phạm Tĩnh, Tháng các Linh Hồn, tìm hiểu Thiên Đàng, Luyện Ngục và Hoả Ngục ) Thay cho quan niệm Thiên Đàng, Hoả Ngục có nơi chốn, Thần Học cho rằng đó chỉ là những tình trạng: “Thiên Đàng là tình trạng hạnh phúc tối thượng và vĩnh viễn. Ai chết trong ân sủng của Thiên Chúa và ai không còn bất cứ sự thanh luyện cuối cùng nào sẽ được quy tụ quanh Chúa Giêsu và Đức Maria, các Thiên Thần và các Thánh…” Thiên Đàng là tình trạng, và Hoả Ngục cũng thế:

“Hoả Ngục là tình trạng xa cách đời đời khỏi Thiên Chúa… Đức Kitô diễn tả thực tại Hoả Ngục bằng những lời này: “Quân bị nguyền rủa kia đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời” ( Mt 25, 41 ).

Ở đây ta thấy có sự bất nhất; trước thì nói Thiên Đàng không phải nơi chốn sao lại bảo Thiên Đàng là nơi quy tụ ?!? Không có nơi có chốn thì làm sao quy tụ được đây ? Lại nữa Hoả Ngục cũng phải có nơi có chốn bởi nếu không thì kẻ dữ sẽ vào đâu khi nghe Chúa phán: “Hãy đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời ?”

Cả Thiên Đàng lẫn Hoả Ngục chẳng những đều có nơi có chốn, hơn nữa còn có nhiều tầng bậc cao thấp khác nhau. Thánh Phaolô có lần đã được dẫn đưa tới tầng trời thứ ba: “Tôi biết một người trong Đức Kitô cách mười bốn năm trước đây đã được cất lên đến tầng trời thứ ba. Hoặc trong thân thể tôi chẳng biết hoặc ngoài thân thể tôi cũng chẳng biết, có Đức Chúa Trời biết. Tôi biết thể nào người đó, hoặc trong thân thể hoặc ngoài thân thể tôi cũng chẳng biết, có Đức Chúa Trời biết, đã được cất lên đến Lạc Viên ( Paradis ) nghe những lời không thể nói mà người nào cũng không được phép nói ra” ( 2Cr 12, 2-4 ).

Thánh Phaolô nói ngài đã được cất lên tới tầng thứ ba. Điều này cho thấy rõ ràng Thiên Đàng có một nơi chốn chứ chẳng phải tình trạng như Thần Học nói. Thiên Đàng như một nơi chốn hoàn toàn khác với tình trạng ở chỗ: một đàng Thiên Đàng là nơi cư ngụ vĩnh viễn của Chúa Giêsu, Đức Mẹ, các Thánh và những kẻ lành, còn tình trạng chỉ là trạng thái lúc có lúc không và mang tính chất bất định. Mặt khác, Thiên Đàng phải là một nơi chốn mang tính vĩnh viễn mới khiến cho ta quy hướng mong mỏi được về, chứ có ai lại muốn  về với cái tình trạng bất định làm gì ?

Nguyên nhân sâu xa khiến Thần Học bác bỏ Thiên Đàng như một nơi chốn là bởi người ta đã không nhận ra chiều kích tâm linh của Thiên Đàng cũng như của Hoả Ngục. Thiên Đàng, Hoả Ngục là lãnh vực thuộc tâm giới chứ không phải vật giới. Tâm giới thuộc vô hình, còn vật giới thuộc hữu hình. Con người chết, tức từ cõi hữu hình bước sang cõi vô hình. Gọi là vô hình bởi vì giác quan không thể cảm nhận chứ nó thực sự là một cõi, một thế giới với vô vàn vô số tầng bậc khác nhau.

Theo quan điểm nhà Phật thì cõi vô hình ấy gồm có sáu nẻo đó là: Thiên, Nhân, Atula, Ngạ Quỷ, Súc Sanh và Địa Ngục. Nguyên nhân khiến con người sau khi chết phải vào sáu nẻo luân hồi là do cái nghiệp dẫn dắt. Nghiệp nhân nào thì có quả báo của nghiệp đó. Cũng theo quan điểm Phật Giáo thì mục đích rốt ráo của việc tu hành là để thoát khỏi lục đạo luân hồi hầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.

Trong tinh thần hội nhập hôm nay, thiết nghĩ chỉ có thuyết Nghiệp Báo của Phật giáo mới có thể giải đáp thoả đáng được cho câu hỏi “Chết rồi đi đâu”. Triết Học đề ra cho mình ba vấn đề. Một là con người bởi đâu sinh ra, hai là sống trên đời để làm gì và ba là chết rồi đi đâu ? Đề ra nhưng không thể giải quyết, triết học đương nhiên lâm vào bế tắc. Riêng với Thần Học, một thứ triết duy lý trá hình, thì sự thất bại còn não nề hơn, chẳng những không biết chết về đâu mà còn phủ nhận cả cái nơi cần trở về ấy nữa.

Bởi nguyên do nào mà Thần Học lại đi đến chỗ phủ nhận cả Thiên Đàng lẫn Hoả Ngục ? Xin thưa là vì vẫn còn chưa thoát khỏi quan niệm Đấng Thần Linh Tạo Hoá. Quan niệm Đấng Tạo Hoá đưa đến hai hệ quả. Một là Thuyết Định Mệnh, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng và như thế được lên Thiên Đàng hay phải xuống Hoả Ngục đều do Chúa quyết định. Hai là Thiên Chúa không bao giờ dựng nên Hoả Ngục bởi vì Ngài là Thiên Chúa Tình Yêu chẳng khi nào lại nỡ đày đoạ con cái mình vào nơi khốn nạn ấy !

Dẫu sao Thuyết Định Mệnh ngày nay chẳng còn mấy ai chấp nhận. Tuy nhiên nếu bảo rằng tôi phải trách nhiệm về đời mình thì người ta có thể lập luận: điều ấy chỉ đúng trong cuộc sống hiện tại còn đời sau thì không. Tại sao ? Bởi vì cái đời sau, nghĩa là sau khi chết ấy, tôi có còn phải là tôi nữa đâu ?

Chính vì cho rằng sau khi chết tôi không còn phải là tôi nên mới có những người tự kết liễu đời mình bởi nghĩ chết là hết cái… nợ đời ! Thật sự thì chẳng bao giờ hết được nợ vì rằng đây chính là cái “Nghiệp” mà mỗi người đã vương mang từ muôn kiếp. Thi hào Nguyễn Du nói: “Đã mang lấy nghiệp vào thân, cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa” “Nghiệp” dịch từ chữ Phạn là Karma nghĩa của nó là Tác Ý. Tất cả tư tưởng lời nói việc làm là do ý muốn làm động cơ khởi phát và ý muốn ấy cứ lập đi lập lại để thành ra Nghiệp. Ý muốn thuộc về Tâm là cái vô hình nhưng nó quyết định cho mọi hành vi con người. Có ý muốn tốt sẽ hành động tốt, ngược lại ý muốn xấu sẽ hành động xấu. Đức Kitô nói: “Không có cây tốt lại sanh trái xấu, cũng không có cây xấu lại sanh trái tốt. Cứ xem quả thì biết cây. Người ta không hái trái vả nơi lùm gai. Cũng không hái trái nho nơi chà chuôm. Người thiện do lòng chứa thiện mà phát ra điều thiện. Kẻ ác do lòng chứa ác mà phát ra điều ác. Vì do sự đầy dẫy trong lòng mà miệng mới nói ra” ( Lc 6, 43 – 45 ).

Chứa ở đây là chất chứa, có chất chứa những ý muốn thiện lành thì mới có thể có những hành động thiện lành. Ngược lại, cứ chứa chấp những ý muốn xấu xa ác độc thì sẽ hành động ác. Người đời coi thường những ý muốn khởi phát ở nơi Tâm, tưởng nó vô hại mà không biết rằng mình đang tạo nghiệp. Nghiệp nhân nào sẽ có nghiệp quả đó. Được lên Thiên Đàng hay phải đoạ đày muôn kiếp trong Hoả Ngục hoàn toàn không do một Đấng Thần Linh nào đó quyết định, nhưng là do nghiệp dẫn. Hiểu như thế thì vấn đề quan trọng của mỗi người có đạo chúng ta là phải làm sao tạo cho mình một cái nghiệp lành để hưởng quả lành tối thượng là Nước Thiên Đàng đời đời.  Tạo nghiệp lành để hưởng quả lành, và nghiệp lành ấy không gì bằng là thi hành Thánh Ý Chúa trong tư tưởng lời nói việc làm: “Chẳng phải mỗi kẻ nói cùng Ta rằng: lạy Chúa lạy Chúa mà vào Nước Trời được đâu, nhưng chỉ những kẻ biết vâng theo Ý Chỉ của Cha Ta trên trời mà thôi” ( Mt 7, 21 ).

Vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa là một việc khó mà dễ. Nói là khó, rất khó bởi vì vẫn còn thấy có cái Ta ( Ngã chấp ). Còn dễ là biết bỏ cái Ta không thật đó đi. Bỏ cái Ta có nghĩa là bỏ hết dục vọng còn chứa chấp ở nơi mình, khi ấy Đấng Cha tức bộ mặt xưa nay ( Bổn lai Diện Mục ) sẽ hiện tiền: “Cứ phá bỏ được những dục vọng bên ngoài thì sẽ thấy cái thiện căn bản của lòng mình được no đầy” ( Dĩ khử phù ngoại dụ chi nhi sung kỳ bản nhiên chi thiện ( Trung Dung – Chương một ).

Bỏ dục vọng, tức bỏ đi những ý muốn xấu ác, chỉ có thế thôi. Thế nhưng để làm được việc làm này thì phải có ơn Chúa. Mặc dầu ơn Chúa là cái không thể thiếu, nhưng nếu ta không cộng tác tức không gắng sức tạo cho mình một cái nghiệp lành bằng cách tham dự Thánh Lễ hàng ngày cách sốt sắng và chuyên cần đọc Kinh Mai Khôi, thì cũng vô ích: “Song ai bền đỗ đến cùng thì mới được cứu” ( Mt 10, 22 ).

PHÙNG VĂN HÓA

LÒNG XÓT THƯƠNG

LÒNG XÓT THƯƠNG

 Lm. VĨNH SANG, DCCT

 EPHATA 689

 Chiều nay tôi có việc đến thăm một gia đình sống trong khu “ổ chuột”, con đường giao thông trong khu vực quanh co bí hiểm, lối di chuyển chỉ vừa hơn một chiếc xe hai bánh, khi hai xe đối đầu thì một xe phải dừng lại nghiêng một bên để nhường xe kia đi qua, tiếng máy xe nổ vang do dội âm từ hai bức tường đối diện. Bề bộn trên con hẻm là những vũng nước, những chai lọ và những rác rưởi lặt vặt. Dân cư sống trong khu vực đến từ nhiều nơi có thể gọi là “giang hồ tứ chiếng” ( bốn phương sông nước), dĩ nhiên khu vực ấy chỉ dành cho những người nghèo, đáp ứng những khả năng và nhu cầu tối thiểu của người nhập cư vào thành phố.

Bất ngờ khi tôi ngồi ngoài hiên ngôi nhà tôi muốn thăm, một người đàn ông đến gần xin gặp, tôi không xa lạ gì anh vì đã đôi ba lần gặp nhau, nhưng trong những dịp ấy tôi chưa bao giờ nói chuyện với anh, tôi có biết đôi chút về anh qua những người quen khác, sau này tôi biết thêm qua mạng Facebook nhờ những hoạt động của anh. Xuất thân từ giới giang hồ của thành phố, anh sống đời dọc ngang, dĩ nhiên là trong giới anh chị, anh có nhiều thành tích và nổi tiếng gan lì khi đối đầu với cảnh sát.

Thế rồi cách đây hai năm, anh tập tành chơi Facebook, mạng thông tin đã nhanh chóng biến đổi anh, những tấm gương sống hy sinh trên Facebook, những câu chuyện về những người sẵn sàng dấn thân được kể trên Facebook, những sự thật phũ phàng trong xã hội ở “thượng tầng kiến trúc”, tất cả đã tác động lên anh, từ một tay anh chị, anh trở thành người thao thức và trăn trở với tình thương, sự thật và công bằng. Anh đã tâm sự với một người bạn rằng anh muốn theo đạo Công Giáo vì khi dấn thân xã hội anh tìm được điểm tựa đáng tin cậy.

Câu chuyện anh nói với tôi chiều nay làm tôi băn khoăn suy nghĩ. Trong một lần đi về một vùng quê miền Bắc, anh gặp một em bé bị hư thận, nhà rất nghèo, căn bệnh đe dọa tính mạng của em, anh cưu mang em bé này vào thành phố. Các xét nghiệm y khoa cho thấy anh và em bé này có những tương đồng để có thể cho và nhận thận của nhau, anh quyết định hiến một trái thận cho cháu. Anh nói với tôi rằng anh quá nghèo nên kêu gọi bạn bè của anh mỗi người giúp một tay chi trả chi phí cho ca ghép thận, anh không xin tôi tiền nhưng anh xin tôi cầu nguyện và nâng đỡ, ủng hộ anh trong việc này, anh bảo với tôi rằng:

“Con chỉ cần cha ủng hộ và nâng đỡ con là con đủ sức mạnh rồi !”

Chiều hôm qua khi tập thể dục ở Nhà Dòng, tôi theo dõi bộ phim “Vết Sẹo” để quên thời gian, khúc phim kể về nỗi đau của một bà vợ trẻ miền quê, chị khám phá ra quả thận mà chị hiến cho chồng đã bị anh ta giả vờ đau thận, đánh lừa vợ để chuyển cho người tình của anh ta ! Còn chiều nay thì tôi lại gặp một người nghèo hiến thận vì tình thương vô vị lợi. Tôi băn khoăn suy nghĩ vì một người nghèo nhưng giàu lòng nhân ái, dám hy sinh cả mạng sống mình vì tình thương, dám sống lòng thương xót một cách cụ thể.

Trong lá thư Mùa Chay 2016, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với chúng ta rằng “Chỉ khi chúng ta cảm nhận được Lòng Thương Xót của Chúa, chúng ta mới có khả năng sống lòng nhân ái với nhau”. Vậy có thể nói được rằng, khi một người vì Danh Chúa mà dám sống lòng nhân ái với người khác, đó là con người đã chạm được chính Lòng  Thương Xót của Ngài. Hoặc có thể nói là người Kitô hữu mà không sống lòng nhân ái với anh em, thì đó là dấu chỉ con người ấy chưa chạm được vào Lòng Thương Xót của Chúa. Có lắm khi tôi đã sống vỏ bọc đạo đức, thi hành nhiệm vụ của một cán bộ công chức ngành tôn giáo, hoạt động chu toàn nhiệm vụ cần mẫn, nhưng không bao giờ cho đi cái của mình, mà chỉ nhiệt thành cho người khác cái mà mình “lạc quyên” được, rồi tâm đắc thanh thản với những thành tích hoạt động, và vênh vang với địa vị chiếu trên…

Lạy Chúa, xin biến đổi chính mình con, lạy Chúa giàu lòng thương xót.

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

14.4.2016

Thử tìm mẫu số chung cho những dự án làm nghèo đất nước

Thử tìm mẫu số chung cho những dự án làm nghèo đất nước

Có yếu tố chính trị muốn phá hoại kinh tế nước ta hay không cũng cần xem xét nhiều mặt, nhưng chậm trễ, tăng giá, công nghệ lạc hậu của các nhà thầu Trung Quốc đã gây khó khăn không ít, hay có thể phá hỏng dự án là điều khá rõ. Về phía chủ quan cũng cần làm rõ yếu tố Trung Quốc trong việc tham gia vào các dự án trọng điểm. Cần làm rõ trách nhiệm của từng người đã xây dựng, tham gia, phê duyệt các đầu tư thất bại này. Gần như chưa có quy tội cho những người khởi xướng, đứng đầu dự án khi đỗ vỡ. Chính sự không phân biệt đúng sai, bao che, phe nhóm đã đưa đến sự làm nghèo đất nước, khó khăn cho phát triển vậy.

____

FB Nguyễn Trung Dân

9-4-2016

Khu gang thép Thái Nguyên đã 10 năm xây dựng, nay như thế này! Nguồn: internet

Ngày nay với các phương tiện truyền thông, người dân bắt đầu biết, làm quen với các con số ngàn tỷ đồng thất thoát, thua lỗ, hoặc các dự án đắp chiếu, hiệu quả không có hay không sản xuất ra được sản phẩm. Ai cũng biết những con số hàng chục ngàn tỷ bị thất thoát, thua lỗ như Vinashin, Vinaline đã rơi vào im lặng, không có khả năng thu hồi sau khi các Giám đốc vào tù. 

Có những dự án đã đầu tư đến hơn 5800 tỷ đồng như Dự án mở rộng Nhà máy luyện cán thép Thái Nguyên đến nay vẫn dỡ dang sau 10 năm xây dựng, muốn đầu tư tiếp phải có trên dưới 4000 tỷ nữa mà hiệu quả đã thấy trước là thua lỗ. Nhà máy xơ sợi Đình Vũ Hải Phòng (thuộc Tập đoàn Dầu Khí Việt Nam) đã đầu tư hơn 7000 tỷ đồng, khánh thành đưa vào hoạt động tháng 5/2014 thì chỉ đến giữa năm 2015 đã lỗ đến 1732 tỷ đồng và từ tháng 9/2015 đến nay, nhà máy đã dừng sản xuất mà theo TGĐ nhà máy thì đó là cách tiết kiệm nhất để chống thua lỗ kéo dài! Nhà máy liên hợp gang thép Vạn Lợi Hà Tĩnh, đầu tư hơn 1700 tỷ đồng vốn của các Ngân hàng quốc doanh (chiếm hơn 85%) chưa ra một sản phẩm nào thì đến nay UBND Tỉnh Hà Tĩnh chính thức chấm dứt, xoá bỏ thu hồi đất của dự án.

Nhưng có dự án gây phản ứng dư luận ngay từ ban đầu nghiên cứu là các dự án Bauxite ở Tây Nguyên. Dự án Tân Rai, vốn ban đầu dự kiến trên dưới 8000 tỷ thì khi hoàn thành lên đến 687 triệu USD (hơn 14000 tỷ đồng) và đã được dự kiến lỗ trong 3 năm là 460 tỷ đồng; còn Nhân Cơ có vốn đầu tư hơn 16.822 tỷ đồng sẽ lỗ hơn 3000 tỷ trong 5 năm.

Ngược lại thời gian trước, từ 1995 đến năm 2000, chương trình 1 triệu tấn đường với số vốn bỏ ra hơn 8200 tỷ đồng (tương đương 750 triệu USD) xây dựng ồ ạt 44 nhà máy đường ở 29 tỉnh, thành phố, đã để lại số nợ khó đòi không có khả năng thanh toán là 7.158.863 triệu đồng. Những năm 90 cuối thế kỷ, chương trình 3 triệu tấn xi măng lò đứng được nhanh chóng triển khai với hơn 40 nhà máy có vốn đầu tư là hơn 160 triệu USD cũng nhanh chóng tan biến vì chất lượng xi măng quá kém, ô nhiễm môi trường nặng nề. Năm 1997, triển khai Chương trình đánh bắt xa bờ được Chính phủ giao cho Bộ Thuỷ sản chủ trì cho ngư dân vay 1340 tỷ đồng (tương đương 120 triệu USD) đóng mới và cải tiến hơn 1000 chiếc tàu thì chỉ hơn nửa năm sau đã có 250 chiếc nằm ụ phơi sương, còn 520 chiếc thì đánh bắt không hiệu quả nên không ra khơi mà chỉ đánh quanh quẩn gần bờ. Kết quả bán đấu giá 250 tàu còn khá nhất chỉ thu lại 26,5% giá trị đầu tư cho mỗi tàu.

Còn khá nhiều dự án hạ tầng, dự án phục vụ dân sinh như các dự án làm đường, làm giếng nước, bỏ nhà sàn để tái định canh, định cư cho người dân tộc miền núi đã gần như thất bại hoàn toàn. Hầu hết những dự án thất bại có những điểm tương đồng cho ta rút ra được những mẫu số chung như sau:

– Trước hết những dự án này đều rơi vào Doanh Nghiệp nhà nước. Có DNNN đang làm ăn nên nỗi, sau đầu tư mới, mở rộng sinh ra lụn bại như Nhà máy gang thép Thái nguyên. Những “quả đấm thép” này của nhà nước đã cố chạy cho được dự án và chú trọng khâu xây dựng hòng kiếm chác quyền lợi riêng mà bất chấp hiệu quả công trình. Họ luôn xem việc xin cho từ ngân sách NN như “chùm khế ngọt” mà ai cao thì hái được nhiều! Nạn tham nhũng chỉ có thể trong sự thực hiện các đầu tư mới, càng lớn càng tốt.

Lập và thẩm quyền phê duyệt dự án không đúng, chỉ là hình thức. Chính cơ quan chủ trì phê duyệt lại có Công ty tư vấn hay bộ phận giúp chủ đầu tư xây dựng dự án. Như Dự án đánh bắt xa bờ thì Bộ Thuỷ sản có Công Ty Tư vấn Thiết kế đầu tư thuộc Bộ lập các dự án hầu hết giống nhau để Bộ phê duyệt. Tương tự các dự án xi măng lò đứng; Chương trình 1 triệu tấn đường cũng vậy. Những nhà tư vấn thông thuộc đường đi nước bước đã đưa vào các chủ đầu tư không đúng đối tượng như Thanh tra Bộ Thuỷ sản đã kiểm tra 280 HTX ở 9 tỉnh đã vay vốn đánh bắt xa bờ thì đã có đến 265 cơ sở mới thành lập vào thời điểm xét duyệt dự án với chủ đầu tư là người chưa hề có ngày nào là ngư dân. Họ đúng ra lập HTX, vay vốn, xà xẻo vốn khi đóng tàu, mua ngư lưới cụ và thuê các ngư dân đứng tên trong HTX để lời thì được chia phần nhiều, lỗ đã có HTX chịu và chính là Nhà nước đành phải khoanh nợ, xoá nợ khi thua lỗ!

– Với cách làm đó, hầu hết các dự án đều được lập với những dữ kiện giả tạo, đẹp đẽ, thuận lợi, cầm chắc thua lỗ mà các chủ đầu tư luôn đổ lỗi tại sự biến động thị trường, tại phát sinh các yếu tố khác. Như Nhà máy xơ sợi Đình Vũ cho là mình xây dựng phương án giá sợi polyester khi giá dầu còn cao, giá dầu biến động nên mua nguyên liệu về đã lỗ, sản phẩm làm ra giá thành cao hơn thị trường. Nhà máy đường thì không quy hoạch vùng nguyên liệu, không đầu tư chuyên canh cây mía nên mía có năng suất thấp, nông dân trồng mía bị ép giá bán thấp. Nhà máy gang thép Thái nguyên thì dự án kéo dài hơn 10 năm, phát sinh hơn gấp đôi dự toán đầu tư ban đầu. Phát sinh do chậm tiến độ hay do giá nguyên liệu, thiết bị tăng hoặc do tỷ giá ngoại tệ tăng cao so với tiền đồng. Các hợp đồng thường dược các chủ đầu tư “ưu ái “để kẻ hở cho bên nhận thầu có những thuận lợi tăng giá. Các dự án Bauxite đã tách rời đường vận chuyển để giảm giá đầu tư để lại khó khăn cho xã hội khi vận chuyền nguyên liệu, thành phẩm hư hỏng đường. Phát sinh có khi gấp đôi, gấp ba giá Tổng dự toán ban đầu.

– Yếu tố Trung quốc là rõ nhất trong việc gây thất bại của dự án. Gang thép Thái Nguyên đã ứng đến hơn 93% tiền mua thiết bị nhưng thiết bị theo tổng thầu EPC Trung quốc đã không đưa sang phần điện và điều khiển nên chỉ có họ nắm giữ, vận hành, nếu không nó chỉ là những đống sắt rời rạc phơi mưa nắng hàng năm bảy năm nay. Năm 1996, Trung Quốc đã có chủ trương phá bỏ 300 triệu tấn xi măng lò đứng thì lập tức các thiết bị ấy đuọc chuyển sang ta để chỉ trong vòng 3 đến 5 năm, nước ta cũng phải dẹp các sản xuất lạc hậu này. Công nghệ lạc hậu của Trung Quốc được lắp đặt với giá không còn có thể cao hơn. Để chỉ mở rộng thêm 500 ngàn tấn thép và phôi, Nhà máy gang thép Thái nguyên đã ứng cho nhà thầu TQ là hơn 5800 tỷ đồng (tính theo từng thời điểm thì tương đương 320 triệu USD) mà vẫn chưa xong. Chính phủ đã thống nhất điều chỉnh lên 8109 tỷ đồng, nhưng theo các chuyên gia thì cần đến hơn 4500 tỷ đồng mơi mong hoàn thành. Trong khi đó, thép Pomina III đầu tư tổng vốn chỉ hơn 300 triệu USD để thực hiện 1 nhà máy luyện thép (phôi) 1 triệu tấn / năm; 1 nhà máy cán thép công suất 500 ngàn tấn / năm; một cảng biển bốc dở 3 triệu tấn / năm. Mà công nghệ của Pomina III là công nghệ tiên tiến của Ý, Đức, Mỹ. Vậy với dự án Thái nguyên, chúng ta có cần phải bỏ thêm 200 triệu USD để rước về một dây chuyền công nghệ lạc hậu mà sự thua lỗ đã cầm chắc khi giá thành cao. Hơn nữa sự chậm trể 10 năm qua đã biến sự đầu tư này không còn có ý nghĩa khi thị truòng nước ta đã có nhiều ông lớn ngành thép nhãy vào như Formosa (Hà Tỉnh), Pomina, Kyoie, Hoà Phát …

Có thể thấy yếu tố Trung Quốc là tác nhân chính đưa đến thất bại của các dự án. Ham rẽ, dễ dàng tiêu cực, giá bỏ thầu và được chọn bao giờ cũng thấp bằng một nữa hay có khi bằng 1/3 giá hoàn thành dự án. Chậm tiến độ là nguyên nhân gây mất cơ hội đầu tư, khiến thị trường và giá cả biến động không còn thuận lợi như thời điểm đầu tư.

Có yếu tố chính trị muốn phá hoại kinh tế nước ta hay không cũng cần xem xét nhiều mặt, nhưng chậm trễ, tăng giá, công nghệ lạc hậu của các nhà thầu Trung Quốc đã gây khó khăn không ít, hay có thể phá hỏng dự án là điều khá rõ. Về phía chủ quan cũng cần làm rõ yếu tố Trung Quốc trong việc tham gia vào các dự án trọng điểm. Cần làm rõ trách nhiệm của từng người đã xây dựng, tham gia, phê duyệt các đầu tư thất bại này. Gần như chưa có quy tội cho những người khởi xướng, đứng đầu dự án khi đỗ vỡ. Chính sự không phân biệt đúng sai, bao che, phe nhóm đã đưa đến sự làm nghèo đất nước, khó khăn cho phát triển vậy.