Josephine Chen hành nghề bác sĩ suốt 40 năm ở Laramie

My Lan Pham

Người ta tìm thấy cô bé bị đóng băng trong một toa tàu chở hàng, chỉ với một mảnh giấy gắn trên áo khoác — và cô lớn lên để cứu chính thành phố suýt khiến mình chết.

Mùa đông năm 1892, Laramie, Wyoming.

Một công nhân đường sắt nghe thấy tiếng khóc phát ra từ một toa hàng trống và phát hiện một bé gái, khoảng bốn tuổi, môi tím tái và run rẩy. Trên chiếc áo khoác sờn cũ của cô bé có gắn một mảnh giấy:

“Con bé tên là Josephine. Tôi không thể nuôi nó. Xin hãy tử tế hơn tôi.”

Phần lớn mọi người muốn gửi cô bé đến trại trẻ mồ côi ở miền Đông.

Nhưng Martha Chen, một người phụ nữ Mỹ gốc Hoa làm nghề giặt ủi — người đã mất con gái mình vì bệnh sốt tinh hồng nhiệt — nhìn vào đôi mắt sợ hãi ấy và nói:

“Con bé sẽ ở lại với tôi.”

Cả thị trấn xì xào:

Một người phụ nữ Trung Quốc nuôi một đứa trẻ da trắng ư?

Không phù hợp. Không tự nhiên.

Nhưng Martha phớt lờ tất cả, dạy Josephine học đọc dưới ánh nến, ghi sổ tiền giặt là, và biết cách đứng vững khi người ta xì xào sau lưng.

Josephine học được hai ngôn ngữ, hai nền văn hóa, và một chân lý không thể lay chuyển:

Gia đình không chỉ là huyết thống — mà là những người ở bên ta khi thế giới sụp đổ.

Khi 17 tuổi, Josephine làm việc tại phòng khám duy nhất của thị trấn. Mùa đông năm 1905, dịch bạch hầu (diphtheria) bùng phát ở Laramie.

Bác sĩ ngã bệnh vào ngày thứ ba.

Josephine — người đã học được mọi thứ sau năm năm ghi chép và chuẩn bị dụng cụ — đã thay thế ông.

Trong hai tuần liền, cô hầu như không ngủ:

Cô pha chế thuốc, theo dõi bệnh nhân và tổ chức cách ly dựa trên những gì đọc được trong nhật ký của bác sĩ.

Khi dịch bệnh qua đi, 23 người sống sót — những người vốn không có hy vọng sống.

Chính những dân làng từng nghi ngờ sự tồn tại của cô, giờ lại mang ơn cô vì đã cứu con họ.

Khi bình phục, bác sĩ — với lòng biết ơn sâu sắc — đã đề nghị tài trợ cho cô học y khoa.

Martha Chen còn sống để chứng kiến Josephine được nhận vào trường điều dưỡng, bước đầu tiên trên hành trình trở thành một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của bang Wyoming.

Nhiều năm sau, có người hỏi Josephine liệu cô có bao giờ nghĩ đến mẹ ruột của mình không.

Cô trầm ngâm một lúc rồi khẽ lắc đầu:

“Người phụ nữ tìm thấy tôi trong giá lạnh đã cho tôi sự sống.

Người phụ nữ nuôi dưỡng tôi đã cho cuộc đời tôi ý nghĩa.

Đó là điều mà nhiều người chẳng bao giờ có được từ chỉ một người mẹ — còn tôi thì may mắn có đến hai.”

Chiếc toa hàng — nơi từng suýt trở thành quan tài của cô — đã nằm rỉ sét nhiều thập kỷ bên ga tàu, như một lời nhắc nhở rằng:

Những khoảnh khắc lạnh lẽo nhất đôi khi lại để lại di sản ấm áp nhất.

Josephine Chen hành nghề bác sĩ suốt 40 năm ở Laramie — đỡ đẻ, nắn xương gãy, cứu người — và chứng minh rằng sự cứu rỗi không phải là kết thúc của câu chuyện.

Đôi khi, đó chỉ là khởi đầu.

Từ trang Bình luận thế sự


 

Công nghệ của lòng nhân ái

Giữa mùa đông khắc nghiệt của Canada, nơi tuyết có thể rơi dày cả mét và nhiệt độ hạ xuống âm hàng chục độ, có những chiếc ghế công cộng biết “ôm lấy con người”.

Không phải phép màu – mà là thiết kế mang trái tim con người: những ghế công cộng có lớp phủ giữ nhiệt tự động (thermal wrap). Khi tuyết bắt đầu rơi, lớp phủ này nhẹ nhàng cuộn xuống, bao bọc người nằm trên ghế như một chiếc kén ấm áp, ngăn gió lạnh và giữ hơi ấm cơ thể.

Công nghệ của lòng nhân ái

Cơ chế hoạt động thật tinh tế: cảm biến chuyển động hoặc nhiệt độ nhận biết khi có người ngồi hoặc nằm, và khi thời tiết giảm xuống mức nguy hiểm, tấm phủ cách nhiệt tự động bung ra. Chất liệu của nó tương tự như chăn cứu hộ – nhẹ, bền, chống nước, phản xạ lại nhiệt cơ thể để giữ ấm lâu hơn.

Một số mẫu còn tích hợp năng lượng mặt trời để cung cấp sưởi nhẹ hoặc ánh sáng ban đêm – đủ để người nằm cảm thấy an toàn giữa trời tuyết trắng.

Một thành phố biết “quan tâm bằng thiết kế”. Ở những đô thị lớn, nơi bóng dáng của người vô gia cư thường bị lãng quên giữa dòng người hối hả, những chiếc ghế này trở thành biểu tượng của lòng trắc ẩn đô thị.

Không ồn ào, không quảng bá, chúng chỉ lặng lẽ hiện diện – như lời nhắc rằng sự tử tế có thể được lập trình vào từng chi tiết của thành phố, từ ánh đèn đường đến một chỗ nghỉ qua đêm.

Không chỉ là nơi nghỉ, mà là “một chiếc ô nhân đạo giữa mùa tuyết”

Chúng không thay thế được mái nhà, nhưng trong những đêm âm 20°C, khi mọi nơi đã đóng cửa, chúng có thể cứu một mạng người. Và đôi khi, trong một thế giới đầy công nghệ và thép lạnh, điều ấm áp nhất lại nằm trong cách con người biết thiết kế để quan tâm nhau.

Những chiếc ghế này không chỉ được tạo ra để ngồi, mà để nhắc chúng ta rằng — lòng nhân ái cũng có thể được thiết kế.

(Sưu tầm)

From: Tu-Phung


 

 VinFast: Phiên tòa Berlin và hành trình gập ghềnh ở Mỹ-Bùi Văn Phú

Bùi Văn Phú

Bùi Văn Phú [bbc.com/vietnamese 12.11.2025]

Phiên tòa tại Đức và những chiếc xe phủ bụi tại Mỹ, VinFast đang trải qua một hành trình gập ghềnh ở bên ngoài biên giới Việt Nam.

Tháng 11/2021, VinFast đem xe ô tô chạy bằng điện qua Mỹ chào hàng lần đầu tiên trong một cuộc triển lãm quốc tế ở thành phố Los Angeles.

Là công ty ô tô còn non trẻ của Việt Nam, VinFast ra đời năm 2017, nên sự kiện “đem chuông đi đánh xứ người” gây chú ý trong cộng đồng người Việt và nhiều người đã đến xem. MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên đã nhiệt tình quảng cáo cho VinFast ngay tại nơi triển lãm, khi cô trả lời PhoBolsaTV rằng dù cô đã đặt mua Tesla, nhưng sẽ hủy và chờ năm sau mua xe VinFast.

Một người bạn của tôi kể khi ghé gian hàng VinFast dịp này đã được chiêu đãi nhiều món ăn ngon, rượu thơm.

Xem hình ảnh về cuộc triển lãm được lan truyền trên mạng xã hội, tôi thấy thiết kế ngoại hình của VinFast trông đẹp không thua các xe mini SUV của Honda, Toyota, Volvo, BMW hay Hyundai, KIA, là những thương hiệu được ưa chuộng từ nhiều năm qua tại Hoa Kỳ.

Qua năm 2022, VinFast cũng đưa mặt hàng tham gia triển lãm ôtô ở Las Vegas và New York. Đến tháng 4, công ty bắt đầu nhận đơn của khách hàng ở Mỹ đặt mua VF8 hay VF9 và chỉ cần đặt trước 200 đôla. Trong các đợt khuyến mãi, VinFast còn tặng quà nghỉ dưỡng ba đêm ở khu du lịch VinPearl, Nha Trang cho những người đặt mua xe.

Nhiều phòng trưng bày xe VinFast được mở ra ở California – tại các thành phố Santa Monica, Commerce, San Diego ở miền nam và San Mateo, Corte Madera, Berkeley và Richmond ở miền bắc.

Cùng lúc, VinFast đầu tư xây dựng một khu lắp ráp tại bang Bắc Carolina, bờ đông nước Mỹ, với kinh phí đầu tư 4 tỉ đôla và tuyên bố sẽ tạo ra 7.500 việc làm, ban đầu dự kiến bắt đầu vận hành vào năm 2024. Dự án này đã được Tổng thống Joe Biden lên tiếng khen vào lúc đó.

Tôi đã ghé qua vài nơi trưng bày VinFast ở vùng Vịnh San Francisco và có thể nói bề ngoài và nội thất của xe trông đẹp. Về động cơ hay pin xe, tôi không biết vì chưa bao giờ làm chủ một chiếc xe chạy bằng điện và cũng không có hiểu biết nhiều về kỹ thuật.

Theo lời nhân viên tiếp thị tại cửa hàng VinFast ở thành phố Berkeley, đã có 70.000 người trong và ngoài Việt Nam đặt mua xe, tuy không có con số riêng cho khách hàng ở Mỹ, nhưng ông nói xe sẽ được giao vào cuối năm 2022.

Nhà máy VinFast đặt ở Hải Phòng. Công ty dùng công nghệ thiết kế của Ý, máy xe từ Đức và pin chạy xe từ Trung Quốc. Mẫu xe VF8 và VF9 xuất khẩu qua Mỹ có giá trên 50.000 đôla và người mua có thể được hoàn trả 7.500 đôla theo chính sách năng lượng sạch của Hoa Kỳ thời Tổng thống Joe Biden.

Vào tháng 11 năm 2022, có một buổi lễ xuất quân ở bến cảng Hải Phòng đưa 999 xe VinFast đầu tiên vào thị trường Mỹ với sự hiện diện của Thủ tướng Phạm Minh Chính và Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Marc Knapper.

Sau chuyến hải hành vài tuần vượt Thái Bình Dương, vào ngày 15/12, con tàu VinFast chầm chậm lướt sóng dưới cầu Golden Gate tiến vào Vịnh San Francisco. Sau vài ngày qua các thủ tục hải quan và kiểm tra, tàu vào bến cảng dành cho xe ô tô ở Benicia.

Trưa ngày 19/12/2022, tôi vào cảng, nhìn những chiếc xe VinFast chạy từ tàu xuống bến, rồi vào bãi đậu, lòng không khỏi ngạc nhiên khi thấy đoàn xe đang chuyển bánh trên đất Mỹ là đến từ quê cũ của mình. Việt Nam nay thực sự đã có thể xuất khẩu xe ô tô! Có thật như thế không? Tôi muốn trực tiếp chứng kiến giờ phút lịch sử này, dù trước đó vài hôm nhiều tạp chí chuyên về ô tô ở Mỹ đã đăng những bài viết không thuận lợi về VinFast.

Ngày 13/12, các trang Dot.la Motortrend.com đăng bài có nhan đề nêu thắc mắc nếu VF8 chỉ chạy được 180 dặm cho mỗi lần sạc bình mà giá 55.000 đô la thì có thể cạnh tranh trong thị trường xe điện ở Mỹ được không?

Trang mạng Jalopnik.com ngày 14/12 có bài dài của Kevin Williams, The VinFast VF8 is simply not ready for America (Nói đơn giản thì VinFast VF8 chưa sẵn sàng cho Hoa Kỳ). Tác giả là phóng viên chuyên về ô tô mà VinFast đã mời sang thăm xưởng lắp ráp của công ty ở Hải Phòng, mọi chi phí do VinFast đài thọ. Ông cũng đã được lái thử xe VF8 khi đến thăm khu du lịch VinPearl, Nha Trang. Ông nêu nhận xét dòng xe VF8 quá tệ, chưa đủ tiêu chuẩn để vào thị trường Mỹ.

Một chi tiết tác giả đưa lên trong bài là khi đến thăm xưởng lắp ráp VinFast vào 10 giờ sáng mà ông thấy vắng công nhân làm việc, người đại diện VinFast nói họ đang ăn trưa.

Dù về lâu dài xe VinFast tốt xấu ra sao, nhưng ngày 20/12 trang Carscoops.com đưa tin ô tô sản xuất ở Việt Nam đã đạt đủ các tiêu chuẩn Mỹ để bán cho khách hàng.

Giữa tháng 5/2023, có thêm một chuyến tàu chở 1.879 xe VinFast đến Mỹ, cập cảng Benicia cho xuống hàng 1.098 xe, số còn lại được đem vào thị trường Canada.

Ngày 12/5, giới phê bình xe lại có những bài viết tiêu cực về Vinfast trên các tạp chí ô tô.

Bài trên Freencarreports.com có nhan đề Review: Don’t buy the VinFast 2023 VF8 City Edition (Trải nghiệm xe: Đừng mua VinFast 2023 VF8 City Edition).

Mack Hogan, sau khi chạy thử và thấy xe rung lắc mạnh, đã viết trên tạp chí Roadandtrack.com như sau: “Công ty đã đem vào thị trường một sản phẩm cho cảm giác chưa hoàn thiện và đáng xấu hổ.”

Các bài viết vào thời điểm này trên Motortrend.com Theautopian.com cũng khuyên khách hàng không nên mua xe VinFast, sau khi các tác giả chạy thử xe và phát hiện hàng loạt lỗi.

Một người Việt ở San Jose, cô Katie Vuong, đưa chuyện xe VinFast lên Facebook, tôi có hỏi và cô kể rằng người giúp việc đưa đón con cô đi học mỗi ngày với xe VinFast, nhưng trong vài tháng mà thấy chị ấy đổi xe mấy lần. Chị cho biết mỗi lần xe có trục trặc, công ty đổi ngay cho một xe mới để chạy trong khi chờ sửa xe bị hư.

Chính sách bảo hành của VinFast đã đáp ứng tốt cho khách hàng. Còn bảo hiểm cho xe VinFast đắt rẻ ra sao, tôi hỏi một người quen là nhân viên công ty State Farm và được biết giá bảo hiểm hai chiều cho VinFast VF8 là 1.700 đô la cho sáu tháng, cũng bằng với bảo hiểm cho Tesla.

Sau ba năm vào thị trường Mỹ, VinFast đã vài lần yêu cầu chủ xe đem xe đến nơi sửa chữa để điều chỉnh vài lỗi kỹ thuật, gọi là recall. Những điều chỉnh lỗi như thế cũng xảy ra với các thương hiệu xe khác đang lưu hành ở Mỹ.

Có một tai nạn xảy ra lúc 9 giờ tối ngày 24/4/2024 tại thành phố Pleasanton, vùng Vịnh San Francisco, liên quan đến xe VinFast được truyền thông đưa tin. Một gia đình 4 người đã tử nạn khi xe đang chạy thì tông vào một cây bên đường làm xe bốc cháy.

Trong vụ tai nạn này, người lái không phải là chủ xe. Một đồng nghiệp của người bị nạn cho biết trong quá khứ chiếc xe đã có vấn đề với tay lái, vì thế Cục An toàn Giao thông Quốc gia (National Highway Traffic Safety Administration, NHTSA) đã vào cuộc để điều tra và chưa có kết quả, theo nhật báo Los Angeles Times ngày 23/5/2024.

Ngày 12/9/2024, Reuters đưa tin NHTSA cũng bắt đầu tiến hành điều tra về hệ thống hỗ trợ giữ làn đường (Lane Keep Assist System) của một số xe VinFast, sau khi có 14 báo cáo trục trặc tay lái trong số 3.118 xe đã được bán ra tại Mỹ.

Sau ba năm có mặt tại thị trường Mỹ, không thấy VinFast quảng cáo bán xe trên truyền hình hay báo chí Mỹ và cũng không công khai con số xe đã bán được tại Hoa Kỳ.

Theo quan sát riêng, dựa trên những chuyến tàu VinFast cập cảng ở Mỹ và số lần nhìn thấy xe trên đường phố vùng Vịnh San Francisco, nơi tôi sinh sống, và trong những lần xuống Quận Cam ở nam California trong hai năm qua, tôi ước đoán VinFast đã bán được chừng 4.000 chiếc tại Mỹ, hầu hết bán cho người Việt ở California, nhiều nhất là miền Nam California.

Còn theo báo chí trong nước, VinFast bán được 2.636 tại California vào năm 2024.

Không chỉ đem xe qua Mỹ bán, ngày 15/8/2023, VinFast còn gây chú ý khi lên sàn chứng khoán NASDAQ ở New York, với mã cổ phiếu VFS, giá 15 đô la một cổ phiếu, hai tuần sau lên 82 đô la và hai tháng sau xuống còn vài đô la. Hiện tại, giá một cổ phiếu chỉ ở mức khoảng trên 3 đô la từ nhiều tháng qua.

Dự án xây dựng xưởng xe VinFast ở bang Bắc Carolina nay đã dời ngày hoàn tất đến năm 2028.

Khi ông Phạm Nhật Vượng đem sản phẩm VinFast ra thị trường quốc tế, nhiều người thắc mắc vì sao trình độ kỹ thuật của Việt Nam còn kém mà lại đem xe ô tô xuất khẩu sang Mỹ, làm sao cạnh tranh được trong thị trường ở một xứ tự do kinh doanh, khách hàng là vua và đã có nhiều thương hiệu xe được khách hàng chuộng từ lâu.

Tôi phát hiện những thông tin không tốt cho VinFast từ nước ngoài đều bị chặn và không tờ báo trong nước nào đưa tin về các sự cố của VinFast xảy ra ngay tại Việt Nam. Những người phản ánh lỗi xe VinFast trên mạng xã hội cũng bị rất nhiều người vào bình luận tấn công, chỉ trích.

Mới nhất, hồi tháng 9/2025, ông Phạm Nhật Vượng đã trình báo và khởi kiện 68 tổ chức và cá nhân với cáo buộc họ dùng mạng truyền thông xã hội để “vu khống”, “phỉ báng”, “bôi nhọ” về sản phẩm của tập đoàn VinFast và cá nhân ông.

Vụ xử đầu tiên hôm 4/11/2025 đã diễn ra tại một tòa dân sự ở thành phố Berlin, với nguyên đơn là ông Phạm Nhật Vượng và công ty Vinfast Germany GmbH ở Đức kiện tờ báo mạng Thoibao.de, do ông Lê Trung Khoa làm chủ bút, về việc đăng những bài viết có tính bôi nhọ, phỉ báng hay vu khống công ty VinFast và cá nhân ông Vượng.

Phán quyết của tòa chỉ cấm ông Lê Trung Khoa một điều là không được nhắc lại những lời phát biểu mang tính vu khống rằng Vinfast đã tìm cách hối lộ. Nếu không tuân lệnh tòa, ông Khoa sẽ bị phạt tiền 250.000 euro và tù từ 6 tháng đến 2 năm.

Còn những điểm khác mà VinFast muốn tòa xử ông Khoa – về việc nói xấu ông Vượng hay những phê bình tiêu cực về sản phẩm của VinFast và về công ty này – thì tòa cho đó là quyền tự do biểu đạt, phát biểu ý kiến.

Trả lời BBC News Tiếng Việt hôm 8/11, ông Lê Trung Khoa cho biết ông là người thắng trong vụ án vì ông sẽ chỉ phải trả 20% án phí, còn VinFast trả 80%.

Báo trong nước, như đã từng bao che và bênh vực cho VinFast trước nay, đưa thông tin trái ngược, xem như ông Phạm Nhật Vượng thắng lớn trong vụ kiện, rồi sau đó biên tập lại, lược bỏ các từ “chiến thắng”, “thắng kiện”, khi tập đoàn VinFast và ông Vượng cho biết họ sẽ kháng án.

Khi có ai đó phơi bày khuyết điểm của xe VinFast và nói những gì không đúng về cá nhân ông Phạm Nhật Vượng, nếu ông thấy mình bị vu oan thì đâm đơn kiện họ ra tòa để đòi lại sự công bằng cho sản phẩm và trả lại thanh danh cho ông; đó là điều bình thường.

Nhưng sau khi có phán quyết của tòa mà truyền thông trong nước lại cho rằng ông Phạm Nhật Vượng thắng cuộc thì không còn mấy ai tin VinFast, tin báo chí trong nước; như nhiều người đã không tin vào hồ sơ tài chính của công ty này khi được đăng trên báo phát hành tại Việt Nam.

VinFast phải trả 80% án phí và nếu số tiền đó có lên đến cả trăm nghìn đô la thì vẫn là quá nhỏ so với tài sản của VinFast. Nhưng không phải có nhiều tiền mà VinFast có thể che giấu được sự thật, hay có thể bắt những người phê bình, chỉ ra lỗi của sản phẩm phải im lặng.

Tháng 9 vừa qua, tôi có ghé lại phòng trưng bày xe của VinFast ở Berkeley thì thấy đã đóng cửa. Đến trung tâm bán xe và dịch vụ sửa xe lớn nhất trong vùng Vịnh San Francisco của VinFast, trong khu Auto Plaza ở thành phố Richmond, thì không còn thấy treo bảng hiệu VinFast. Văn phòng đóng cửa, bên trong trống trơn, bãi đậu xe còn vài chiếc VinFast chưa bán được, phủ đầy bụi.

– Tác giả là giảng viên đại học cộng đồng và là một nhà báo tự do từ vùng Vịnh San Francisco, California.


 

Trân Văn/ NV: Đảng vi quý, xã tắc vi thứ chi, dân vi khinh!

Tiếng Dân News

Nhiều cơ quan truyền thông ở Việt Nam vừa lược thuật cảnh báo của Ngân Hàng Thế Giới (World Bank – WB) rằng đến 2050, GDP của Việt Nam sẽ giảm ít nhất 12.5% nếu không có những biện pháp hữu hiệu để kinh tế-xã hội Việt Nam thích ứng với biến đổi khí hậu.

Trong cảnh báo vừa kể, WB tiếp tục nhắc lại viễn cảnh vốn đã được mô tả từ lâu: Một nửa diện tích của đồng bằng sông Cửu Long có thể sẽ chìm trong nước, tước đi sinh kế của hàng triệu người, gia tăng nguy hiểm cho an ninh lương thực quốc gia.

Tương lai Việt Nam không chỉ có sự u ám riêng trong lĩnh vực nông nghiệp. Biến đổi khí hậu khiến nước biển dâng cao còn đe dọa sinh hoạt, sinh kế của dân cư các khu vực duyên hải, khoảng 70% dân số và 433 khu công nghiệp tạo ra 90% hàng hóa xuất cảng sẽ bị ngập.

Ngoài tác động nguy hiểm của nước biển dâng cao, nhiệt độ tăng cao cũng sẽ ảnh hưởng đến nhiều nhà máy, xí nghiệp. Khoảng 1.3 triệu lao động, trong đó 70% là phụ nữ sẽ phải gánh chịu hậu quả của yếu tố này.

Mưa to, bão lớn vì biến đổi khí hậu còn gây ngập lụt. WB ước đoán, đến năm 2030, tỷ lệ hệ thống giao thông bị hư hỏng do ngập lụt sẽ tăng khoảng 40%. Nguy cơ các cảng biển quan trọng ở TPHCM, Hải Phòng bị ngập sẽ tăng gấp năm lần so với hiện nay, gây gián đoạn cho việc vận chuyển từ 68,000 tấn đến 106,000 tấn hàng hóa/ngày, thiệt hại sẽ vào khoảng $89 triệu/ngày.

Để dễ hình dung thiệt hại, WB dẫn thiệt hại mà trận bão Yagi năm 2024 từng khiến cảng Hải Phòng mất $955 triệu làm ví dụ minh họa.

Những yếu tố như nhiệt độ cực đoan, cung cấp điện gián đoạn, mưa lũ cực đoan,… đã, đang và sẽ còn làm năng suất lao động của Việt Nam giảm, lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu bị bào mòn.

Từ sự yếu kém của hạ tầng và bảo trì, WB lưu ý, thiệt hại sẽ lan truyền như hiệu ứng domino – hệ thống giao thông tê liệt vì tác động của biến đổi khí hậu sẽ làm mạng lưới cung ứng – phân phối (logistics) của Việt Nam tê liệt. Ứng phó chậm trễ chừng nào thì nội lực sẽ suy giảm chừng đó.

Do chậm chạp trong ứng phó, đến 2050, có thể sẽ có từ 100,000 đến 1.1 triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo. Nguy cơ bần cùng vì không đủ điều kiện tự bảo vệ trước thiên tai ở nhóm lao động kỹ năng và thu nhập thấp, cũng như các gia đình sống ở những khu vực như ven biển, đồng bằng, nông thôn được dự đoán là “đặc biệt cao.” Nếu không sớm đầu tư vào năng lượng sạch, nâng cao khả năng thích ứng của nông nghiệp, khả năng chống chịu của đô thị, thành tựu tích lũy từ tăng trưởng sẽ bị biến đổi khí hậu quét sạch.

Theo WB, tác động của biến đổi khí hậu có thể làm tăng trưởng giảm đều đặn 0.5 %/năm. Do vậy, nguồn thu cho ngân sách sẽ giảm trong khi chi tiêu sẽ tăng để khắc phục hậu quả, vào năm 2050, tài khóa có thể thâm hụt thêm 0.8% GDP…

***

Trong sáu tháng vừa qua, dân chúng Việt Nam choáng váng vì thiên tai dồn dập, hai cụm từ “bất thường” và “vượt mức lịch sử” liên tục được lập đi, lập lại. Thiên tai đổ đến dưới đủ mọi dạng: Hạn hán, nước mặn xâm nhập, dông lốc và đặc biệt là mưa to, bão lớn, sạt lở.

Riêng tác động của mưa, bão đã vắt kiệt nội lực của quốc gia lẫn nhiều cá nhân, gia đình. Ở miền Bắc, thiệt hại do tác động của mưa, bão khiến hàng trăm ngàn gia đình ở Hà Nội, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lào Cai, Hòa Bình, Phú Thọ, Tuyên Quang, Bắc Giang, Bắc Ninh,… khánh kiệt.

Miền Trung cũng thế. Người Việt bất lực và xót xa nhìn những Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Đồng,… bị thiên tai tàn phá.

Sau những Bến Tre, Tiền Giang, Kiên Giang,… với hàng trăm ngàn gia đình phá sản do thiếu nước ngọt mất trắng hoa lợi từ lúa, rau trái, tôm cá, tới lượt Cà Mau rúng động vì bờ biển sạt lở trên diện rộng, đất đai sụt lún,…

Thiệt hại do đủ loại thiên tai không còn được tính bằng ngàn tỷ mà là hàng chục ngàn tỷ, chưa kể thiệt hại về sinh mạng lên tới vài trăm. Tuy nhiên đó là những tổn thất có thể đo, đếm từ những đổ nát công khai, nếu có thể đo đếm thiệt hại của từng cá nhân, gia đình, đơn vị tính chắc chắn phải là trăm ngàn tỷ. Song đó chỉ là thiệt hại trước mắt. Tác động lâu dài của thiên tai khi nông thôn, đô thị, hạ tầng bị tàn phá, cũng như cá nhân và gia đình kiệt quệ đối với sự ổn định và cơ hội phát triển kinh tế-xã hội dẫu rất lớn nhưng không dễ ước đoán.

Đáng ngại là tác động của biến đổi khí hậu đối với Việt Nam đã được cảnh báo từ thập niên 1990. Đến 2009, chính quyền Việt Nam công bố kịch bản đầu tiên để ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao nhưng thực tế cho thấy họ chưa bao giờ xem điều chỉnh để thích ứng là chuyện sống còn của quốc gia, dân tộc. Vì không tính đến khả năng chống chịu, quy hoạch và nỗ lực phát triển chỉ tạo thêm những khu vực bị thiệt hại nặng nề do dễ ngập hơn, mức nước lụt cao hơn, rút chậm hơn, đồng bằng lún sụt, ven biển sạt lở nghiêm trọng hơn!

Trong sáu tháng vừa qua, dẫu thiên tai là chuyện nhãn tiền nhưng dường như cả hệ thống chính trị lẫn hệ thống công quyền chỉ dồn tâm lực, trí lực và sức lực vào những thứ như “sắp xếp lại giang sơn” và “kiện toàn nhân sự” bằng kỷ luật, điều chuyển, chỉ định…

***

Cách nay khoảng 2,500 năm, Mạnh Tử – một triết gia Trung Quốc – cho rằng “Dân vi quý, xã tắc vi thứ chi, quân vi khinh” (dân là quý nhất, sau đó là xã tắc tức quốc gia, còn vua là nhẹ nhất). Cha ông người Việt cũng nghĩ như vậy nên nhiều triều đại (Lý, Trần, Lê) đề cao tư tưởng “ý dân là ý trời.” Không phải tự nhiên mà Lý Thái Tổ khẳng định “Trên thuận thiên thời, dưới theo ý dân” khi quyết định dời kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Thăng Long (Hà Nội), hay Nguyễn Trãi nhấn mạnh “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” khi viết Bình Ngô Đại Cáo.

Quan sát những diễn biến tại Việt Nam, so tác động càng ngày càng đáng ngại của thiên tai đến kinh tế-xã hội với trọng tâm hoạt động của chính quyền Việt Nam ắt sẽ thấy, “lấy dân làm gốc”chỉ là khẩu hiệu. Thực tế cho thấy “đảng vi quý” còn “xã tắc vi thứ chi” và “dân vi khinh.” [kn]

https://baotiengdan.com/…/dang-vi-quy-xa-tac-vi-thu…/

Hình ảnh ngập lụt ở Huế, ngày 3 Tháng Mười Một, 2025. (Hình minh họa: Thanh Hue/Getty Images)


 

CÂU CHUYỆN VỀ “ÁNH HÀO QUANG VÀ CÁI CHẾT CỦA CON HƯƠU” …- Lm Giuse Ngô Mạnh Điệp


Lm Giuse Ngô Mạnh Điệp

Người ta kể rằng trong khu rừng kia, có một con hươu đực trưởng thành, sở hữu một cặp sừng tuyệt đẹp. Mỗi lần nó đi qua, nắng chiếu lên khiến cặp sừng lấp lánh như một chiếc vương miện của rừng xanh. Các con hươu cái ngưỡng mộ, lũ thú nhỏ thì trầm trồ, còn chính nó, nó cũng tự hào khôn xiết với cặp sừng này.

Nó biết mình mạnh mẽ, đẹp đẽ, và đáng ngưỡng mộ. Nhưng chính vì thế, nó dần không còn sợ hãi hiểm nguy, không còn cảnh giác như xưa.

Một ngày, khi bị bầy thú săn đuổi, nó lao vào rừng rậm để thoát thân. Thân hình nhanh nhẹn, đôi chân khoẻ mạnh vẫn có thể đưa nó đi xa, nhưng chính cặp sừng rực rỡ lại mắc kẹt giữa một lần nhẩy trượt chân ngã vào khe núi. Nó vùng vẫy trong tuyệt vọng, nhưng càng cố thì sừng càng bị giữ chặt hơn. Cuối cùng, nó không chết vì bị săn, mà chết khô vì không thoát khỏi chính thứ mà nó từng kiêu hãnh nhất.

Con người cũng vậy. 

Không ít người từng vượt qua những ngày tháng đói khổ, từng chịu đựng gian nan mà không gục ngã. Nhưng lại gục ngã chính lúc đang rực rỡ nhất, giữa ánh đèn sân khấu, giữa tiền tài, địa vị, danh tiếng. Bởi vì khi ta đạt được những điều khiến người khác ngưỡng mộ, cũng là lúc ta dễ mất cảnh giác với chính mình nhất.

Điều đáng sợ nhất không phải là lúc ta chật vật giữa khốn khó, mà là khi ta đứng trên đỉnh vinh quang, nơi người ta dễ say mê, dễ chủ quan và dễ quên mất sự mong manh của chính mình.

Trên đỉnh cao, phía trước là mây trời, nhưng phía sau lưng bạn luôn là vực thẳm. Một bước trượt chân, một phút kiêu ngạo, một giây bất cẩn và tất cả có thể tan biến.

Thành công là một đỉnh núi, nhưng cũng là nơi gió lớn nhất. Không giữ vững được mình, không biết khiêm nhường, không biết lùi lại một bước để nhìn xuống chặng đường đã qua… thì cái giá phải trả sẽ không chỉ là thất bại, mà là sụp đổ.

Đôi khi, thứ khiến ta mắc bẫy không phải là điểm yếu, mà chính là điều ta tự hào nhất: Ngã ngay ở vạch về đích…

Giữ được mình khi gian khó là bản lĩnh.

Nhưng giữ được mình khi huy hoàng mới là trí tuệ.

Nhưng để biết được điều đó đôi khi chúng ta phải trả giá….. đôi khi là cái giá khi đã ……… quá muộn.

(Sưu tầm)…

NB

From: Ngoc Bich & KimBang Nguyen


 

NHỮNG CHUYẾN XE CUỘC ĐỜI

Sau cơn tai biến mạch máu não, cha tôi yếu đi nhiều, không còn khả năng đi lại nữa. Chúng tôi mang về nhà một chiếc xe lăn tay cho cha. Nhìn cha ngồi tù túng trong chiếc xe với không gian nhỏ hẹp, chúng tôi vừa ái ngại, vừa xót xa.

Cha tôi, một người lính từng vào sinh ra tử, một người luôn hoạt động và mạnh mẽ… Bây giờ cha ngồi im lặng trên chiếc xe lăn hàng giờ liền. Tôi biết lòng cha đau đớn vì bất lực trước tình trạng bệnh tật của mình.

Thấy chúng tôi quấn quít, cha vui lắm, nhưng cha lại bảo:

Tụi con đừng lo cho cha nhiều, đứa nào có việc phải làm, phải học, cứ đi! Cha biết cách thích nghi với hoàn cảnh mà! 

Rồi cha cười nói:

Các con à, cuộc đời con người có nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn gắn với một chiếc xe. Khi sinh ra, con người nằm xe nôi. Nhỏ bé, yếu ớt, con người được yêu thương và chăm sóc bởi cha mẹ, người thân. Lớn lên một chút, con người chập chững bước những bước đi đầu tiên với chiếc xe tập đi. Giã từ thời thơ ấu, chúng ta bắt đầu hòa nhập vào thế giới với bao nhiêu phương tiện: xe đạp, xe máy, xe hơi… Và từ đây, chúng ta cứ luôn ao ước thay đổi chiếc xe đời mình sao cho mới hơn, hiện đại hơn, tốt hơn…

Các con ơi, cha cũng đang ngồi trên một chuyến xe của đời mình. Chiếc xe lăn này là một chiếc xe trong cuộc đời của cha và cha không tuyệt vọng vì điều đó. Cái chính là cha vẫn sống lạc quan, yêu đời trên chuyến xe đời mình.

Xung quanh chúng ta có biết bao mảnh đời vất vả, cực nhọc, những người gắn mình với chiếc xe ba gác chở thuê, xe xích lô, xe đẩy bán hàng rong trên phố, nhưng họ vẫn sống, vẫn vươn lên.

 Có những người đi toàn xe hơi đắt tiền, đời mới, nhưng những chuyến xe cuộc đời họ lại không có bến đỗ phẳng lặng, hạnh phúc…

Ai rồi cũng phải đi chuyến xe cuối cùng của đời mình. Phải làm thế nào để trong chuyến xe đó, chúng ta ra đi trong sự thanh thản, yên bình, trong sự thương tiếc của người thân, bạn bè.

 Làm được điều đó không phải là điều đơn giản, dễ dàng vì những chuyến xe trong cuộc đời mỗi người. Không có vé “khứ hồi”, chúng ta chỉ được đi có một lần!

From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen


 

Những người con hoang của J. P. Sartre-Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục 

05/11/2025

Sau chiến tranh thứ hai, nước Pháp hoang tàn, đổ nát. Có một De Gaulle trở về, đem vinh dự và hy vọng cho cả nước Pháp. Nhưng chưa đủ. Nước Pháp cần một biểu tượng văn hóa: J.P. Sartre. J.P. Sartre trở thành đứa con tinh thần của giới trí thức, của cả nước Pháp, nhất là sau khi ông làm giám đốc tờ Les temps modernes. Ít khi nào có một trí thức, nếu không nói là lần đầu tiên, vừa là triết gia, vừa là nhà văn tài hoa đến như ông.

Sau khi xuất bản La nausée (1938), Le Mur (1939), ông thay thế dần chỗ ngồi của A. Malraux, và chẳng bao lâu sau của André Gide, trong văn học Pháp. Ông đã tạo cho mình một chỗ đứng, một thế giới của riêng Sartre, Univers Sartrien… Rồi Sartre cho ra đời Chemins de la liberté, Les mouches, 1943; tác phẩm lớn L’être et le Néant, 1943; Huis clos, 1944; Morts sans sépulture, 1946; La Putain respectueuse, cuốn sách gây xì căng đan ở nước Pháp năm 1946; Critique de la raison dialectique, Les mains sales, 1948; Le diable et le bon Dieu, 1951.

Bên cạnh Sartre là một nhà văn trẻ hơn, A. Camus, sau này trở thành cặp Sartre-Camus; mỗi tác phẩm của A. Camus như thể hiện linh hồn của tư tưởng Sartre. Cả hai đã ảnh hưởng toàn bộ giới trẻ và trí thức Pháp, mặc dầu A.Camus luôn luôn từ chối cái nhãn Hiện Sinh mà người ta gán cho ông.

Tác phẩm của hai nhà văn này đề cập đến những vấn đề con người, chẳng hạn như mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh, vấn đề trách nhiệm, dấn thân, nhập cuộc, hoài nghi, phủ nhận mọi chủ nghĩa, mọi giáo điều… Rồi vấn đề hiện hữu và hư vô, hiện sinh tại thế, hiện hữu và yếu tính… Ðời phi lý, buồn chán, thừa thãi, và con người nổi loạn… Những tư tưởng đó đã gây ra trong văn chương Pháp không biết bao tranh luận, thậm chí cả ngộ nhận, hiểu lầm từ nhiều phía.

Năm 1980, Sartre chết. Nước Pháp đã tiễn đưa một nhà trí thức sáng chói với những lễ nghi vinh dự mà họ đã dành cho Victor Hugo đúng 100 năm trước đó.

1945-1955 là thời kỳ vàng son của Sartre và Camus. Nhưng họ đã chẳng có ảnh hưởng gì tới sinh hoạt văn học Việt Nam. Tình hình Việt Nam lúc đó rối như mớ bòng bong, ai còn bận tâm tới văn chương, triết lý? Ðó cũng là cái khoảng thời gian trống và nghèo nàn nhất của văn học Việt, từ Nam ra Bắc. Các trào lưu văn học Tiền chiến hay Tự Lực Văn Ðoàn đều tắt tiếng. Người tản cư trôi dạt xuống các vùng Hà Ðông, Phủ Lý, Nam Ðịnh, vào đến Thanh Hóa, rồi sau đó quay về dinh tê. Kẻ khác tham gia kháng chiến. Mỗi người tứ tán mỗi nơi…

Nhưng kể từ sau Hiệp định Genève với cuộc di cư từ miền Bắc của một triệu người, Sartre và Camus có cơ hội có mặt ở miền Nam và ảnh hưởng của họ kéo dài hơn một thập niên. Ở đây cần xác định rõ là tư tưởng của họ gây ảnh hưởng trong văn chương, tiểu thuyết, một thứ sản phẩm thị dân, đối tượng là các thành phần thanh niên, trí thức thành thị. Dù sao đi nữa, thành phần này cũng là mặt nổi của một xã hội. Nói tới sinh hoạt văn học, nghệ thuật, là nói tới họ.

Còn phần triết học thì quá ít người được biết tới. Thật vậy, vào thời kỳ từ cuối 50 đến 70, tại các đại học Văn Khoa Sài Gòn, Huế, Ðà Lạt và sau này Vạn Hạnh… triết lý Hiện sinh của Sartre đã không được giảng dạy. Thảng hoặc có dạy đi nữa trong các chứng chỉ Siêu hình và Lịch sử Triết học, các giáo sư thời bấy giờ cũng chọn Nietzsche, Kierkergaard, Merleau-Ponty, và nhất là Heideigger. Cùng lắm là có đả động qua loa đến G. Marcel hay E. Mounier, những triết gia hữu thần, trái ngược hẳn với trào lưu Hiện sinh của J.P. Sartre.

Xét về mặt nghiên cứu thì ngay các trường đại học quốc gia ở Huế, Sài Gòn, cũng không có điều kiện cung cấp đầy đủ tài liệu cho sinh viên sử dụng, ngoại trừ Viện Ðại học Ðà Lạt, một đại học bán công mà thành phần ban Giảng huấn hầu hết là các cha Dòng Tên người ngoại quốc – có thể coi đây là một hình thức du học tại chỗ. Nơi đây, có hơn 5000 ngàn đầu sách đủ loại về văn chương và triết học bằng tiếng Pháp.
Nhưng vì Sartre không có trong học trình, tôi không dám chắc đã có bao nhiêu sinh viên có đủ điều kiện để miệt mài hết cuốn L’être et le Néant hay Critique de la raison dialectique? Cái sự không dám chắc đó, tôi đặt ngay cả vào bản thân thành phần Giáo sư trong ban giảng huấn nữa! Thật khó mà biết được có bao nhiêu người đã đọc?
Vì thế, triết học Hiện sinh ở chiều sâu, ở phần căn cốt sách vở của Sartre, số người biết rành rõi có thể đếm trên đầu ngón tay. [1]

Nhưng âm vang của “hư vô,” “hữu thể,” “tồn thể,” “những xao xuyến siêu hình,” “dấn thân,” “nhập cuộc,” “trách nhiệm,” “người trong cái toàn thể,” “người trong hoàn cảnh,” “tha nhân,” “đời phi lý,” “con người phản kháng”… là những từ ngữ quyến rũ đến độ người ta phải nói tới, phải suy nghĩ. Nó như một thứ ma lực lôi cuốn giới trẻ, sinh viên, trí thức. Những cuốn tiểu thuyết của họ, nhất là của Camus, đặt tâm thức giới trẻ vào những suy nghĩ miên man về ý nghĩa cuộc đời, đặt nghi vấn về tất cả mọi vấn đề, của chính tự thân và của người khác, rồi cuối cùng rơi vào sự trống rỗng không lời giải đáp. Có thể nói, tâm trạng thanh niên trí thức lúc bấy giờ là thử tìm hiểu xem cuộc đời đáng sống hay không đáng sống?! Một câu hỏi đáng lý chẳng nên đặt ra cho một người trẻ tuổi sắp sửa bước vào đời. Cái để lại trong tâm thức người trẻ, sau khi nghi vấn, tra hỏi về đủ mọi vấn đề là tâm trạng trống rỗng, vô nghĩa như người khách lạ. Và có lẽ đó là ảnh hưởng lớn nhất mà triết lý này để lại.

Ví giả J.P. Sartre chỉ là một triết gia thuần túy và không bao giờ là nhà văn; Ví giả A. Camus là một nhà văn không mang trọng trách rao truyền một tư tưởng triết lý. Nếu họ không có chức năng đó, hoặc họ chỉ đảm nhiệm một vai trò, một chức năng nhất định, như các triết gia hiện sinh khác như Heidegger, Kierkergaard, thì hẳn triết lý hiện sinh đã không gây ồn ào, náo nhiệt như thế. Cái ồn ào mà tôi muốn nói ở đây là nó đã làm nảy sinh ra rất nhiều những đứa con hoang đủ loại.

Triết lý hiện sinh vỉa hè là bằng chứng của vô số những nhận định ngộ nhận, hiểu lầm và qui chụp, đẻ ra những đứa con hoang mà chính J.P Sartre cũng chẳng bao giờ có thể nhìn thấy hết được. Bởi vì nó đã trở thành một sản phẩm xã hội và bất cứ một hiện tượng xã hội nào cũng có thể bị đưa lên giàn phóng để tra xét và nguyền rủa.

Cái triết lý hiện sinh vỉa hè ấy, qua F. Sagan, đã trở thành sản phẩm tiêu thụ xã hội có tính cách thời thượng mà thực chất không dựa trên một suy lý nghiêm chỉnh nào để có thể quy chiếu vào Sartre hay Camus được. Sản phẩm của đứa con hoang đó được du nhập vào Việt Nam và được đón tiếp ồn ào ở thành thị. Từ kiểu ăn mặc, đi đứng, kiểu lái xe, ngồi lên xe; rồi âm nhạc, điện ảnh với “nouvelle vague,” với James Dean. Sagan một bên, James Dean một bên. Phải chăng đó chính là hai đứa con hoang của Sartre? Từ lối sống, lối nghĩ, lối làm tình, đến cả lối chết… Tại miền Nam, trong thi ca, tiểu thuyết và báo chí, chỗ nào cũng thoáng ẩn hiện bóng dáng của thứ triết lý này. Ðến độ, người ta thấy rằng từ Mai Thảo đến Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền đều là những kẻ truyền thừa của thứ triết lý ấy. Khi mà Quách Thoại chẳng may mệnh yểu, Mai Thảo nói tới sự tự do chọn lựa cái chết, buộc mọi người phải liên hệ tới sự tự do tuyệt đối của triết lý Hiện sinh. Hiện tượng bề ngoài được bao trùm bởi cái không khí hiện sinh đó thật ra chỉ phù phiếm, chẳng có căn bản gì. Tờ Sáng Tạo, được tiếng là cửa ngõ đi vào triết lý hiện sinh, từ đầu tới cuối chỉ có bốn bài viết về hiện sinh, trong khi tờ Ðại Học ở Huế có 21 bài, tờ Bách Khoa có 24 bài.

Một số nhà văn nữ thập niên 60, như Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Lệ Hằng, Chu Tử, Nguyễn đình Toàn v.v… ít nhiều cho thấy bóng dáng của Sagan hiện diện trong truyện của họ. Tôi không dám bảo là họ bắt chước, nhưng có nhiều người cho rằng đó là thứ triết lý thời thượng, một kiểu theo đuôi hay làm dáng trí thức. Vậy thì phải chăng đây cũng là một thứ con hoang của Sartre? Trong giới giáo sư dạy triết thời đó, thế hệ thứ hai với những người như Ðặng Phùng Quân, Nguyễn Quốc Trụ, Huỳnh Phan Anh, Trần Nhựt Tân, Trần Văn Nam… Hầu như tất cả các luận án cao học ngành Triết thời đó đều đề cập đến các triết gia hiện sinh, nhưng đặc biệt không thấy một luận án Triết nào trong số họ đề cập đến triết hiện sinh của Sartre. Cắt nghĩa điều này như thế nào? Huỳnh Phan Anh viết Văn chương và kinh nghiệm hư vô. Nguyễn Quốc Trụ viết Văn chương và sự khả hữu. Trần Công Tiến viết Từ Hiện Tượng luận Husserl đến Hiện tượng luận Heidegger.
Liệu có bao nhiêu độc giả đã đọc họ và có bao nhiêu người hiểu họ?
Tôi chỉ có thể đặt câu hỏi, nhưng không thể trả lời thay cho những người khác. Cách trình bày khó hiểu và đôi khi khúc mắc, tối tăm trong những tác phẩm vừa kể đôi khi cho thấy một trí tuệ phi thường của người viết. Ðộc giả có tâm trạng mặc cảm khi đọc những bài viết như thế.
Nơi đây, triết học thực sự trở thành một món quà mà Thượng đế chỉ dành cho một số người đã được lựa chọn.
Không ai dám truy vấn chính mình đến ngọn nguồn về trình độ đọc sách và truy vấn người viết về khả năng hiểu biết và diễn đạt.
Người viết không cần biết người đọc hiểu được bao nhiêu. Nếu người đọc không hiểu thì lỗi thuộc về họ. Phải chăng nơi các giáo sư triết này thấp thoáng bóng những đứa con hoang của Sartre? Một hình thái theo đuôi, bắt chước, thời thượng? Liệu phê phán như thế có oan cho họ không? Với thiện chí của người trí thức trẻ, cố gắng nghiên cứu triết lý hiện sinh, họ trở thành đứa con hoang của Sartre, bị xếp ngang hàng với những cô cậu hippy choai choai.

Trong nghiên cứu văn chương, người ta đọc thấy những đề tài như Chinh phụ ngâm với tâm thức lãng mạn của kẻ lưu đầy, Nguyễn Công Trứ với cảm thức hư vô, Tản Ðà với khát vọng vĩnh cửu.
Ðến Phật giáo, Lão giáo cũng nhập cuộc. Người ta vào đạo Phật qua lối ngõ của J.P. Sartre. Từ lăng kính Nho, Phật, Lão đến lăng kính Hiện tượng luận.

J.P. Sartre

Công giáo bảo thủ nhập cuộc kiểu khác: hạ bệ và nguyền rủa thứ triết lý này. Ðại loại như “Chúng tôi tố cáo mầm phản loạn trong Văn nghệ”, “Lại một trạng thái cuồng loạn phơi bày trong tiểu thuyết”, “Chúng tôi cực lực phản đối cái thuyết dã thú hóa ra con người của ông Thạch Chương”, “Tiểu thuyết Nguyễn Thị Hoàng, sự buôn lậu tư tưởng trong một con bịnh dân thành phố…” .
Ðấy là những bài viết nhằm phê phán triết học ấy ở bình diện luân lý. Họ không nhằm phê phán Sartre, bởi một lẽ dễ hiểu, họ không có điều kiện để hiểu Sartre. Họ chỉ có thể phê phán những sản phẩm xã hội mà họ nghi ngờ là từ Sartre mà ra, những sản phẩm bị coi là con hoang của Sartre. Vì sự phê phán trên bình diện luân lý của tiểu thuyết đã đi trật đường, liệu có thể xếp sự chống đối của họ cũng vào loại con hoang của Sartre không? Con hoang của những đứa con hoang?

Hết văn chương, tôn giáo lại thêm chính trị nhập cuộc. Những người anh em theo phía bên kia nay chửi thứ triết lý hiện sinh với ẩn ý chính trị ở Lữ Phương, Khải Triều… Chẳng hạn như các bài “Ðọc các tác phẩm của Chu Tử”, “Hiện tượng dâm ô, đồi trụy trong văn học hiện nay”, “Từ văn hóa cải lương đến văn chương đồi trụy và thứ cần sa của ngoại bang”. Ðã hẳn những bài viết như thế không cần đòi hỏi bất cứ một chút kiến thức nào về chủ nghĩa hiện sinh cả.
Ðó chỉ là những thứ con hoang đến hoang tưởng, gán cho Sartre bất cứ cái gì mà họ muốn.

Người ta tưởng rằng những đứa con hoang của J.P Sartre sau ngày 30-04 đã tiêu tan theo cuộc cách mạng ấy. Nhưng không, Sartre vẫn đội mồ sống dậy. Sartre cùng với Camus vẫn còn đó, bằng xương, bằng thịt.

Theo dịch giả nổi tiếng thời 60-70 Trần Thiện Ðạo, cuốn L’étranger của Camus đã có 3 dịch giả dịch rồi. Chuyên gia dịch hàng đầu của miền Bắc, ông Dương Tường, lại cất công dịch một lần thứ tư, 1995. Rồi Nguyễn Văn Dân là người thứ 5 lại mới dịch lại vào năm 2002.
Dịch lại như thế vì tác giả quá nổi tiếng? Vì tác phẩm quá hay? Vì người đọc ham chuộng? Vì người dịch trước dịch dở, tồi tệ? Vì có người dịch rồi thì dịch sau đỡ tốn công sức? Camus có bao nhiêu tác phẩm, tại sao lại cứ nhè cuốn đó mà dịch?
Cái hiện tượng dịch lại sách đã dịch cũng thấy được ở cuốn Bác sĩ Zivago, dịch lần thứ ba. Hay hơn thế nữa, lấy sách dịch in lại mà không cần đề tên dịch giả như trường hợp nạn nhân là Phùng Khánh?

Sự tụt hậu về sinh hoạt dịch ở Việt Nam có đến 50 năm và một thế kỷ.
Sách mới không dịch, cứ nhè sách cũ, sách đã dịch rồi dịch lại như một nhu cầu đọc giải trí, thay vì nhu cầu nghiên cứu. Một hiện tượng quái gở không hiểu được. Tại sao lại dịch lại những cuốn như vừa kể, mà trước đây được xếp vào loại sách phản động, không phản động thì đồi trụy?

Phải chăng vì những đứa con hoang của Sartre vẫn tiếp tục hoành hành trên thị trường chữ nghĩa ở miền Nam?

Ðứa con hoang có thể là cuối cùng của Sartre có lẽ là giáo sư tiến sĩ Trần Trọng Ðăng Ðàn. Ðối với văn học miền Nam nói chung, ông giáo sư này là kẻ chém treo ngành. Ông chém, chặt, nhổ, bứng từng dây mơ rễ má cái văn học, văn hóa đồi trụy ấy. Ông viết cuốn Văn hóa văn nghệ, Nam Việt Nam, 1954-1975 dày hơn ngàn trang mà tôi phải bỏ ra 50 đô la để bê nó về. Sót ruột lắm!
Gọi là nghiên cứu của một tiến sĩ giáo sư mà từ trang đầu đến trang cuối chỉ thấy chửi là chửi.
Ông chửi rất bài bản, nhìn đâu cũng thấy đồi trụy, đĩ điếm, thấy nọc độc của chủ nghĩa thực dân. Ông chửi các nhà văn, nhà văn hóa miền Nam kể như không trừ một ai. Chửi tất cả các sách dịch bất kể tác giả, bất kể loại, trong đó có Camus, Sagan.
Giáo sư đi theo vết chân của Lữ Phương, Khải Triều, mắc bệnh quáng gà mất rồi.

Ra khỏi khuôn viên đại học Văn Khoa đường Nguyễn Trung Trực thời đó, ra khỏi Sài Gòn, người dân miền Nam vẫn sống hiền hòa, vẫn chịu đựng chiến tranh, không có chút nào là triết nọ. Thần tượng của họ là Bà Tùng Long, cùng lắm là Lê Xuyên, là Bạch Tuyết, Hùng Cường, là Kim Dung. Ðổ oan cho toàn miền Nam cái tiếng văn hoá đồi trụy, nọc độc chế độ thực dân mới thật là hồ đồ.

Nếu cho rằng cái văn chương ấy, cái nọc độc ấy, cái âm mưu ấy làm ung thối miền Nam đến toàn là đĩ điếm, đồi trụy thì phải cắt nghĩa thế nào về hiện trạng xã hội Việt Nam hiện giờ?
Nó là do cái nọc độc nào, cái âm mưu nào đã đưa xã hội đất nước con người đến một tình trạng sa đọa được hợp lý hóa, được hợp pháp hóa và nhất là được bình thường hóa.
Cái sa đọa đạo đức, xã hội trầm kha nhất của đất nước hiện nay là bình thường hóa sự sa đọa, mất ý thức về sa đọa. Chữ mà người ta dùng để chỉ về điều này được gọi là thời mạt. Phải chăng đây là thời mạt của Sartre còn sót lại?

________________________________________
Một số dữ kiện về tên các bài viết, các con số đã được trích dẫn ra từ bài viết công phu: “Hiện sinh ở miền Nam 1955-1975,” của Nguyễn Văn Trung, từ trang 346 đến 390, trong bộ sách: Nhìn lại những chặng đường đã qua 1955-1995. Nxb Nam Sơn. Montréal 2000.


 

SUY NGHĨ NHẸ NHÀNG HƠN VỀ MỘT CHỦ ĐỀ NẶNG NỀ- Rev. Ron Rolheiser, OMI 

Rev. Ron Rolheiser, OMI 

Vài năm trước đây, một cô bạn của tôi đang phải đối diện với việc sinh đứa con đầu lòng.  Mặc dù rất vui vì sắp được làm mẹ nhưng cô thú nhận cô rất sợ tiến trình sinh nở này, những cơn đau, những nguy hiểm, những điều chưa biết.  Cô tự an ủi, hàng trăm triệu phụ nữ đã đi qua con đường này và đã vượt qua được.  Chắc chắn, cô cảm thấy mình cũng sẽ vượt qua được.

Đôi khi tôi lấy kinh nghiệm này để áp dụng vào bối cảnh cái chết.  Cái chết là chủ đề đáng sợ, khó chịu và nặng nề nhất, dù chúng ta thường nói một cách giả tạo.  Khi chúng ta nói mình không sợ chết thì phần lớn chúng ta đang huýt sáo trong bóng tối và cả ở đó, líu lo thì dễ dàng hơn khi cái chết của chính mình vẫn là một ý tưởng trừu tượng, một điều gì đó trong tương lai không xác định.  Nói lên trọn vẹn suy nghĩ của tôi về cái chết chắc chắn phù hợp với mô tả đó, huýt sáo trong bóng tối.  Nhưng tại sao không?  Chắc chắn là huýt sáo trong bóng tối tốt hơn là tự hành hạ mình bằng nỗi sợ hãi không cần thiết. 

Vì vậy, tôi dùng phương pháp của bạn tôi khi cô muốn có thêm can đảm để đối diện với việc sinh con và điều chưa từng biết này.  Một cách đơn giản, hàng triệu triệu người đã vượt qua được quá trình chết, vì vậy tôi cũng phải vượt qua được!  Hơn nữa, không giống như việc sinh con, chỉ ảnh hưởng đến một nửa nhân loại, còn cái chết thì ảnh hưởng đến toàn nhân loại, kể cả tôi đều sẽ đi qua.  Một trăm năm nữa, những ai đang đọc bài này sẽ vượt qua cái chết của mình. 

Vì vậy, đây là cách để nhìn nhận về cái chết của chính chúng ta: hàng tỷ tỷ người đã vượt qua được điều này, đàn ông, phụ nữ, trẻ em, kể cả trẻ sơ sinh.  Một số người đã già, một số người còn trẻ; một số đã chuẩn bị, một số thì không; một số đón nhận, một số cay đắng phản kháng; một số chết vì nguyên nhân tự nhiên, một số chết vì bạo lực; một số chết trong vòng tay yêu thương, một số chết cô đơn không có vòng tay yêu thương nào chung quanh; một số chết trong thanh thản, một số chết trong tiếng khóc vì sợ hãi; một số người chết khi đã già, một số ở tuổi thanh xuân; một số bị bệnh mất trí vô nghĩa trong nhiều năm làm cho những người chung quanh hỏi vì sao Chúa và thiên nhiên lại tàn nhẫn khi giữ họ sống; lại có những người khỏe mạnh có đầy đủ để sống nhưng họ lại tự tử; có những người chết trong đức tin và hy vọng, có những người chỉ thấy bóng tối và tuyệt vọng; một số khi chết có lòng biết ơn, một số khi chết lòng đầy oán giận; một số chết trong vòng tay tôn giáo và nhà thờ, một số hoàn toàn ở ngoài vòng tay này; một số chết như Mẹ Têrêxa, một số lại như Hitler.  Nhưng tất cả họ đều làm được điều đó, điều vô danh vĩ đại, điều vô danh vĩ đại nhất.  Có vẻ như có thể làm được. 

Hơn nữa, không ai trở về từ thế giới bên kia với những câu chuyện kinh dị về cái chết, như thế cho thấy tất cả những bộ phim kinh dị của chúng ta về việc bị hành hạ sau khi chết, bị ma quỷ và những ngôi nhà ma ám đều hoàn toàn hư cấu. 

Tôi nghĩ ai cũng có trải nghiệm như tôi khi nghĩ về người chết, đặc biệt là những người tôi biết đã chết.  Nỗi đau buồn và sự mất mát ban đầu của họ cuối cùng cũng qua đi và được thay thế bằng một cảm giác mơ hồ rằng mọi chuyện vẫn ổn, rằng họ ổn, và rằng cái chết theo một cách kỳ lạ nào đó đã rửa sạch mọi thứ.  Cuối cùng, chúng ta có một cảm giác khá tốt về những người thân yêu đã khuất của mình và về những người đã khuất nói chung, ngay cả khi sự ra đi của họ không hề lý tưởng, khi họ chết trong tức giận, thiếu chín chắn, hoặc vì họ đã phạm tội, hoặc tự tử.  Bằng cách nào đó, cuối cùng tất cả đều được rửa sạch và những gì còn lại là một cảm giác mơ hồ, một trực giác vững chắc, rằng bất kể họ đang ở đâu, họ đều ở trong một vòng tay tốt hơn và an toàn hơn chúng ta.

 Khi còn là chủng sinh trẻ, chúng tôi phải dịch chuyên luận của tác giả cổ đại Cicero về tuổi già và về cái chết từ tiếng La-tinh sang tiếng Anh.  Khi đó tôi mười chín tuổi, nhưng rất ấn tượng với những suy nghĩ của Cicero về lý do vì sao chúng ta không nên sợ chết.  Ông là người theo phái khắc kỷ nổi tiếng; nhưng, cuối cùng, việc ông không sợ chết cũng giống như cách bạn tôi đối diện với việc sinh nở, xét theo mức độ phổ biến của nó, chúng ta đều có thể quản lý được! 

Tôi đã đánh mất ghi chép của tôi về Cicero từ lâu nên bây giờ tôi tra cứu chuyên luận này trên Internet.  Đây là một đoạn trích từ chuyên luận này: “Cái chết không nên được cho là quan trọng!  Vì rõ ràng tác động của cái chết là không đáng kể nếu nó hoàn toàn hủy diệt linh hồn, ngay cả là mong muốn, nếu nó dẫn linh hồn đến một nơi nào đó để sống mãi mãi.  Vậy thì, tôi sẽ sợ gì, nếu sau khi chết, tôi được định sẵn là không bất hạnh hoặc hạnh phúc?” 

Đức tin của chúng ta cho chúng ta biết rằng, với tình yêu và với lòng nhân từ của Chúa mà chúng ta tin tưởng, chỉ có lựa chọn thứ hai là hạnh phúc đang chờ chúng ta.  Và chúng ta đã trực giác được điều đó. 

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim


 

HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH- LM. ĐAN VINH

LM. ĐAN VINH

LỜI CHÚA: Chúa phán: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu…. Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em ?”  (Lc 16,9.12).

KHÔNG THỂ THOÁT NGHÈO DO THIẾU KIÊN TRÌ.

Có một anh nông dân nghèo sống trong căn nhà lá siêu vẹo giữa một cánh đồng hoang vu. Ngày nọ, một ông phú hộ giàu có tốt bụng trong miền, nghe biết hoàn cảnh của anh, đã đến nhà thăm hỏi và tặng anh một con bò giúp anh khai hoang thửa đất gần nhà, đợi đến mùa xuân ông sẽ quay lại cho thêm hạt giống gieo trồng thì chắc anh sẽ thoát khỏi cảnh nghèo khó.

  Anh nông dân rất mừng khi được vị ân nhân tận tình giúp đỡ như vậy và quyết tâm phấn đấu sẽ vượt qua cảnh nghèo. Nhưng ít ngày sau anh lại gặp hoàn cảnh khó khăn: Ngay từ sáng sớm con bò đã kêu to đòi anh dẫn ra ngoài đồng ăn cỏ. Đang khi trong nhà không còn hạt gạo nấu cơm, khiến anh bị bế tắc.

Bấy giờ anh liền nghĩ: Tại sao ta không bán con bò này đi để mua được ba con dê, và loài dê lại dễ nuôi hơn bò. Sau khi có dê anh đã giết đi một con ăn thịt thỏa thích sau nhiều ngày chịu đựng đói khát. Hai con dê còn lại anh dự tính sẽ nuôi để chúng sinh sản và nếu mang dê con ra chợ bán sẽ kiếm được nhiều tiền.

Nhưng cặp dê lại không sinh sản, nên cuộc sống của anh vẫn bế tắc. Anh nghĩ: “Nếu cứ tiếp tục thế này thì không ổn. Sao ta không bán hai con dê này đi, rồi mua một đàn gà. Gà lại mau đẻ trứng và hằng ngày ta vừa có trứng ăn, lại có thể bán trứng lấy tiền chi tiêu thì chắc cuộc sống sẽ ổn định”.

 Nhưng rồi sau đó cuộc sống của anh vẫn không khá hơn. Vài ba ngày không có gì ăn, anh lại thịt một con gà. Cuối cùng đàn gà chỉ còn lại một con. Ước muốn làm giàu của anh nông dân hoàn toàn thất bại. Anh tự nhủ: “Ôi ! Làm giàu sao khó thế ! Thôi thì hôm nay ta đành đem con gà cuối cùng này đi bán, lấy tiền mua một bình rượu và uống rượu cho thoả thích rồi đành phó mặc tương lai cho ông trời vậy !
 

Hôm ấy đã sang mùa Xuân, ông phú hộ tốt bụng giữ đúng lời hứa với anh nông dân. Ông cùng một người đầy tớ, mang theo một bao hạt giống lúa mì đi đến nhà anh nông dân để giúp anh gieo trồng lúa đúng thời vụ. Nhưng ông rất thất vọng khi thấy anh ta không ra đồng làm việc, mà ngồi uống rượu giải sầu với đĩa dưa muối trước mặt. Con bò ông cho trước đây không thấy đâu. Trong căn nhà siêu vẹo vẫn trống trơn giống như mấy tháng trước đó.

  Ông phú hộ tốt bụng đành chịu bất lực và cùng người đầy tớ trở về nhà, mặc cho anh nông dân tiếp tục sống trong cảnh nghèo khổ như trước.

SUY NIỆM:  Rất nhiều người nghèo đã từng có cơ hội thoát nghèo, nhưng chính họ lại lười biếng không chịu làm việc, hoặc thiếu khôn ngoan và không quyết tâm vượt qua hoàn cảnh nên cuối cùng đành buông xuôi theo số phận.

    Trái lại, một nhà đầu tư thành công đã chia sẻ bí quyết làm giàu: “Lúc không có tiền, cho dù gặp nhiều khó khăn về tài chánh, nhưng tôi quyết tâm áp dụng phương pháp làm giàu như sau:

Luôn chăm chỉ làm việc và không mất thời giờ vào việc ăn chơi lãng phí.
Luôn chi tiêu tiết kiệm tiền bạc để khi có cơ hội là có thể đầu tư ngay.
Dù gặp khó khăn vẫn không chán nản nhụt chí, nhưng biết khiêm tốn học tập kinh nghiệm của những người thành đạt và kịp thời nắm bắt thời cơ…
nên cuối cùng tôi đã thành công và gây dựng được sự nghiệp lớn lao hiện nay”.

LỜI CẦU:  Lạy Chúa Giê-su. Xin cho chúng con ý thức về giá trị tích cực của đồng tiền như người đời thường nói: “Phú quý sinh lễ nghĩa; Bần cùng sinh đạo tặc !”. Cho chúng con không quá đề cao giá trị của đồng tiền như nhiều người đã nói: “Đồng tiền là Tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý…

    Xin cho chúng con biết tín thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa… Nhất là xin cho chúng con đừng vì tiền mà bán rẻ lương tâm làm điều thất nhân ác đức như: buôn bán hàng cấm, sản xuất hàng giả lừa gạt người khác…tuy có đem lại cái lợi trước mắt, nhưng không được bền lâu và sẽ bị tác hại lâu dài. – AMEN.

CHA ĐA MINH ĐINH VĂN VÃNG,
BÚT HIỆU LM. ĐAN VINH, HHTM (HIỆP HỘI THÁNH MẪU)

From: Ngoc Bich  & KimBang Nguyen


 

ĐỀN THỜ TÂM HỒN – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21).  Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại.  Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. 

  1. Giới thiệu Đền Thờ Latêranô

Vương cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô là một trong những thánh đường đầu tiên được xây cất sau những cuộc bách đạo ban đầu.  Thánh đường được Hoàng Đế Constantinô xây và được ĐTC Sylvester thánh hiến năm 324.  Thánh Đường này tiếp tục là Nhà Thờ Chánh Tòa của Giám Mục Rôma, Đức Thánh Cha.  Thánh Đường này được gọi là ‘Mater Ecclesiae Romae Urbis et Orbis’, Mẹ của tất cả các thánh đường ở Rôma và trên thế giới. 

Năm 313, sau khi ra chiếu chỉ ở Milano cho Giáo hội được tự do hành đạo, Hoàng Đế Constantine cho xây đền thờ ở Laterano trong thời gian 313-318 để dâng kính Chúa Cứu Thế.  Thời Đức Giáo Hoàng Gregorio I (590-604) đền thờ được dâng kính cả Thánh Gioan Tẩy Giả và Thánh Gioan Tông Đồ.  ĐGH Lucio II đã ấn định tên đền thờ như hiện nay, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano, năm 1144.  Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 14, đền thờ này là trung tâm của giáo hội Roma, trụ sở và biểu tượng của Đức Giáo Hoàng. 

Như các đền thờ khác, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano nhiều lần bị tàn phá, hỏa hoạn, hoang tàn sau hơn 73 năm vắng chủ khi giáo triều dời về Avignon, Pháp, được xây lại như ngày nay thời ĐGH Sisto V (1585-1590). 

Thánh đường dài 130m, có 5 gian.  Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông Đồ bằng đá cẩm thạch trắng.  Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống.  Sau tòa giám quản có Giếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Constantine được ĐGH Silvestro rửa tội nơi đây).  Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Roma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa KiTô.  Là Mẹ của các nhà thờ và là nhà thờ chánh tòa của giáo phận Roma, đền thờ Thánh Gioan ở Laterano nhắc nhở các tín hữu “hồng ân rửa tội” với tất cả ý nghĩa của ơn này và mời gọi các tín hữu cảm tạ Thiên Chúa bằng chính cuộc sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. (x.BGCN 2008). 

2. Chúa Giêsu thánh tẩy đền thờ

 Đối với Do thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa.  Lễ Vượt qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch. 

Mọi người trong đất nước Palestin đều về Giêrusalem dự lễ.  Cả những người tản mác khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này. 

Dầu sống ở xứ nào, người Do thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời. 

Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự lễ Vượt qua với các môn đệ. 

Thuế Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng.  Tiền thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật. 

Trong việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều co giá trị tại Palestin.  Nhưng tiền thuế Đền thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ. 

Khách hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ.  Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi tiền.  Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1 đồng.  4 đồng siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công.  Do đó số tiền thuế Đền thờ và lợi tức đổi tiền thật là lớn. 

Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ.  Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục lợi. 

Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu.  Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ.  Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết.  Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật.  Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ.  Khốn nỗi, mỗi con vật mua trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài.  Khách hành hương nghèo bị bóc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật.  Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo. 

Chính vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận.  Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.

 Trong Phúc âm hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận.  Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm.  Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường.  Vậy mà ở đây, Chúa đã nổi giận đùng đùng, lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả. 

Khung cảnh đền thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng.  Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất.  “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16).  “Nhà của Ta là nhà cầu nguyện, còn các ngươi làm thành hang trộm cướp” ( Mt 21,12-13).  Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy.  “Nơi buôn bán”, “Hang trộm cướp”, Đền thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng.  Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên ứng nghiệm ( x Gr 7,11). 

Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến Đền thờ.  “Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 69,10).  Lòng nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x Ga 15,5). 

3. Tại sao Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ? 

– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm.

 Trong sân đền thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính.  Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng.  Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ.  Trong sân Đền thờ người ta cãi vã về giá cả, tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền thờ. 

– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa. 

Các ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta chán ngấy.  Máu chiên dê Ta chẳng thèm.” (Is 1,11).  “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” (Tv 50,16). 

Thái độ thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính.  Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành. 

– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện” 

Đền thờ là nơi Thánh, là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người.

 Các chức sắc Đền thờ, các con buôn người Do thái đã biến Đền thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khách hành hương không thể cầu nguyện được. 

4. Xây dựng đền thờ tâm hồn. 

Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem.  Chúa muốn chúng ta thanh tẩy Đền thờ tâm hồn mình. 

Đền thờ tâm hồn không xây dựng bằng vật liệu cao cấp của các thứ kim loại, bằng những loại gỗ quý giá.  Đền thờ tâm hồn được xây bằng các bí tích, các việc lành thánh thiện, những hy sinh, lòng yêu mến Thiên Chúa.

 Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và đã được cung hiến ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy.  Thánh Phaolô minh định: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy.”  Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi tín hữu qua Đức Giêsu Kitô.  Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý.  Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan.  Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem.  Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm.  Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ, nhưng Người lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào.  Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy?  Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi, trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại.  Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người.  Đền thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy.  Thân thể phục sinh của Chúa là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh thần và trong chân lý.  Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền. 

Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21).  Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại.  Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa.  Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh thân thể Đức Giêsu.   Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu cho nhân loại (x. 2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24).  Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của vương cung thánh đường Latêranô cũng như mọi thánh đường khác đều phải bắt nguồn từ đền thờ này.  Thật vậy, “không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.” (1Cr 3,11).  Máu và nước từ cạnh sườn Đức Giêsu tuôn chảy như giòng sông.  “Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” (Ed 47,9).  Người được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu.  Vì họ là “thân thể Đức Kitô.” (2 Cr 12, 27).  Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên Chúa.” (1 Cr 3,16).

 Lạy Chúa Giêsu Kitô,

Chúa đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ vì họ đã đem đền thờ biến thành nơi buôn bán, đổi chác.  Xin Chúa xua đuổi nhưng thói hư tật xấu ra khỏi tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị.  Amen. 

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

From: Langthangchieutim


 

LÒNG TRẮC ẨN….!

Xuyên Sơn

LÒNG TRẮC ẨN….!

Có một cụm danh từ rất hay trong tiếng Việt mà ở thời đại này không mấy khi được sử dụng nữa…!

Đó là “lòng trắc ẩn”.

Trắc ẩn, tức là những gì cảm nhận được những điều mắt không thể thấy, tai không thể nghe…

Nếu bạn bắt được một đứa bé ăn cắp hai ổ bánh mì vì quá đói, thay vì bỏ tù nó, bạn chỉ cho nó đến xin làm việc ở đâu đấy, đưa lại cho nó một ổ để ăn cầm hơi qua cơn đói, rồi dặn nó cả đời tuyệt đối không bao giờ được làm những việc như trộm cắp nữa…

Nếu bảo vệ cửa hàng sách bắt gặp một trẻ con ăn cắp và dấu cuốn sách, thay vì báo cảnh sát hay cha mẹ đứa bé…, bảo vệ “có thể” không thấy hay cho tiền để mua cuốn sách.

Biết đâu sau này, lòng đam mê đọc sách và những lời dặn dò đừng trộm sách sẽ giúp đứa trẻ trở thành người thành đạt.

Đó là lòng trắc ẩn…!

Câu chuyện Edison thuở nhỏ đã dạy các bạn học cách đánh morse để “qua mặt” thầy Hiệu trưởng khiến bị đuổi học khỏi trường.

Người mẹ thương xót cho con đã dời nhà đi để tìm trường cho con học.

Và Edison đã trở thành nhà bác học vĩ đại của nhân loại với hơn một ngàn phát minh đem hữu ích cho mọi người…!

Đó là lòng trắc ẩn của người mẹ…!

Người có lòng trắc ẩn, chính là người có tấm lòng bao dung, biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, cảm thông cho nỗi khổ của họ.

Nếu con người không có lòng trắc ẩn, thì cũng sẽ không có những thứ như nhân cách, hay tình thương giữa người với người….!

“Lòng trắc ẩn” cũng là con đường đi trong cuộc sống, là cái chủ đích để đạt được ” cái thứ cao nhất mà người xưa coi là nếu có được thì sẽ có cả thiên hạ và lòng người-đắc nhân tâm…!

Vậy muốn được “lòng trắc ẩn” con người cần có điều gì..?

Chính là Nhân-Văn…!

*Nhân là người hướng thiện, bao dung và có trái tim quãng đại…!

*Văn là phát triển chủ yếu hai việc: một là khả năng trắc ẩn, hai là kỹ năng diễn đạt hành động.

Trước đây, Văn là công cụ duy nhất để một người được đặt mình vào trong cuộc đời của rất nhiều người khác và học những bài học làm người từ những người đó…!

Hôm nay, ngoài Văn thì đã có điện ảnh, Internet, các phương tiện nghe nhìn,…

Do đó, Văn không còn là phương tiện duy nhất nữa…!

“Lòng trắc ẩn” là công cụ và là phượng tiện giúp con người gần nhau hơn, biết chia sẻ, giúp đỡ và cưu mang cho nhau…!

“Lòng trắc ẩn” không chỉ là cảm thấy tiếc nuối, đau buồn hay thương hại người khác.

“Lòng trắc ẩn” cũng không có nghĩa là bạn phải chấp nhận mọi đau khổ của thế mọi người vào tâm trí bạn.

“Lòng trắc ẩn” là cảm giác hòa hợp với tâm trạng của người khác và có ý định hành động để giảm bớt đau khổ hay chia sẻ niềm vui với người ấy…

“Lòng trắc ẩn” đơn giản chỉ là dấu hiệu, biểu hiện của tâm từ bi nhân ái….!

Một câu nói thật hay:

“Tình yêu thương từ trái tim sẽ nhận lại lại vô vàn yêu thương của những trái tim…!”

Đó chính là “LÒNG TRẮC ẨN…!”

(sưu tầm)


 

KHOẢNG TRỜI XÁM

Luân Lê

KHOẢNG TRỜI XÁM

Sau 5 ngày cấp cứu, nam sinh lớp 10 tử vong sau khi bị nhóm bạn đánh hội đồng; trước đó nữa thì một nam sinh lớp 11 đâm chết kẻ truy đuổi mình từ nhóm học sinh lớp trên đang tìm cách quây đánh; và giờ đây một nữ sinh lớp 8 bị đánh gãy 3 xương sườn sau bởi một nhóm bạn kéo vào nhà vệ sinh tấn công dữ dội, trong khi nhiều bạn nam đứng nhìn rất đông xung quanh mà không ai can ngăn hay có hành động nào đáng kể để bảo vệ nạn nhân cũng như ngăn chặn sự côn đồ của đám bạn thủ phạm.

Làm sao có thể nói hết về nỗi bất hạnh này, khi nó hoàn toàn vượt qua tính gia đình hay cá thể đơn lẻ, nó trở thành một tình trạng ngày càng lan rộng, mang tính giáo dục và nền tảng xã hội sâu sắc trước hành vi và tính hậu quả của nó. Không thể hình dung được rằng điều gì đang xảy ra với những thế hệ trẻ măng đang mặc những tấm áo trắng tinh thế này? Tương lai như một bầu trời giăng đầy mây xám vậy. Thực sự đáng lo và buồn thảm quá.