THỐNG KÊ CỦA UNHCR VỀ NGƯỜI VIỆT VƯỢT BIỂN…

 Việt Luận – Viet’s Herald

 THỐNG KÊ CỦA UNHCR VỀ NGƯỜI VIỆT VƯỢT BIỂN…

  1. Quy mô người vượt biển theo UNHCR

Tổng số người rời Việt Nam đường biển 1975–1995

– Khoảng 800.000 – 900.000 người vượt biển (UNHCR tổng hợp qua nhiều báo cáo thập niên 1980–1990).

Số người tới được các nước trong khu vực (ước tính UNHCR)

  • Malaysia: ~255.000
  • Hong Kong: ~143.000
  • Indonesia (Galang): ~122.000
  • Thái Lan: ~80.000
  • Philippines (Bataan): ~40.000
  • Singapore: ~30.000

(Số này bao gồm cả nhập cảnh trực tiếp lẫn cứu vớt trên biển.)

  1. Số người tử vong (ước tính của UNHCR)

UNHCR nhiều lần nhấn mạnh không thể xác định chính xác số tử vong do:

  • Không có hồ sơ chính thức.
  • Nhiều thuyền mất tích hoàn toàn.

Các ước tính UNHCR đưa ra ở nhiều báo cáo:

  • 200.000 – 400.000 người chết trên biển.

(Bao gồm chết đuối, bão tố, khát nước, đói, bệnh, cướp biển.)

Một báo cáo của UNHCR năm 1985 cho biết:

  • Tỉ lệ tử vong có nơi lên tới 40–70% trên một số tuyến vượt biển.
  1. Cướp biển (UNHCR: Pirate Attacks in the Gulf of Thailand)

UNHCR thống kê trong giai đoạn cao điểm:

  • Hơn 3.000 vụ tấn công cướp biển Thái Lan trong thập niên 1980.
  • Phần lớn thuyền neo đậu hoặc trôi dạt gần vịnh Thái Lan đều bị tấn công ít nhất 1 lần.
  • Hơn 10.000 phụ nữ và trẻ em là nạn nhân bị bạo hành tình dục hoặc bắt cóc (ước tính vì thiếu báo cáo đầy đủ).
  1. Tái định cư (UNHCR Resettlement Statistics)

Khoảng 1,3 – 1,4 triệu người Việt Nam được tái định cư qua UNHCR và chương trình của các nước (bao gồm cả đường không lẫn đường biển).

Trong đó thuyền nhân chiếm khoảng 800.000 – 900.000 người.

Phân bổ:

  • Hoa Kỳ: ~823.000
  • Canada: ~150.000
  • Úc: ~137.000
  • Pháp: ~96.000
  • Các nước Bắc Âu & châu Âu khác: ~50.000+
  1. Trại tị nạn (theo UNHCR & ICM – Comprehensive Plan of Action 1989)

Lớn nhất:

  • Pulau Bidong (Malaysia): đỉnh điểm 40.000–45.000 người
  • Galang (Indonesia): đỉnh điểm ~20.000
  • Hong Kong (Whitehead, Sham Shui Po): ~50.000 giai đoạn 1988–1991

UNHCR ước tính hơn 2 triệu người đã đi qua các trại tị nạn Đông Nam Á trước khi đóng cửa hoàn toàn năm 1996.

  1. Chương trình Hồi hương (UNHCR Repatriation Program)
  • Từ 1989–1996, UNHCR tổ chức hồi hương hơn 110.000 người Việt không được công nhận quy chế tị nạn.
  • Khoảng 93% trong số này là tự nguyện (có hỗ trợ tài chính nhỏ), 7% bị cưỡng chế.

Nguồn: Fb Bảo Tồn Tiếng Việt


 

CAO TRỌNG HƠN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn Gioan!”.

Trong đoản thơ “Những Chiếc Bóng Đổ” – “Shadows” – tác giả chia sẻ: “Thật tuyệt vời khi bạn chạy và ‘những chiếc bóng đổ’ chạy; khi bạn hạnh phúc, ‘những chiếc bóng đổ’ reo; khi bạn ngân nga, ‘những chiếc bóng đổ’ nhại. Chúng chạy theo khi cuộc sống của bạn ngập tràn ánh nắng và hân hoan. Bạn quả là lắm phúc!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Nếu nữ thi sĩ Martha Wadsworth không tiếc lời để nói về ‘những chiếc bóng đổ’ của một người mẹ, thì với Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu không tiếc lời làm điều tương tự với Gioan Tiền Hô. Tuy nhiên, Ngài bất ngờ kết luận, “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn Gioan!”. Vậy sẽ có người ‘cao trọng hơn’ Gioan sao?

Đúng thế. Chính chúng ta đây! Chúng ta ‘cao trọng hơn’ Gioan vì Gioan chỉ đứng bên ngoài các mầu nhiệm trong khi chúng ta được ở trong đó. Gioan giới thiệu Đấng Xoá Tội, nhưng chưa thấy Ngài xoá tội cách nào – thập giá; Gioan loan báo Giao Ước Mới, nhưng không sống trong Giao Ước ấy; Gioan nói về Đấng Messia, nhưng không bước vào Triều Đại Thiên Sai; Gioan loan báo Thánh Thần và Nước Trời, nhưng không lãnh nhận Thánh Thần, cũng chưa thấy dung mạo Nước Trời – Giáo Hội; Gioan chỉ về Ánh Sáng, nhưng chưa bao giờ chìm trong Ánh Sáng. “Kitô hữu sống bên trong các mầu nhiệm mà người khác chỉ thoáng thấy!” – Karl Rahner.

Như vậy, chúng ta được trao những ân phúc mà Gioan không hề hưởng nhận. Thánh Thần đổ tràn ân sủng qua các Bí tích; Tin Mừng và toàn bộ Tân Ước mở toang trước mắt; đời sống trong lòng Hội Thánh nơi Chúa Phục Sinh hiện diện; và khả năng trở nên môn đệ của Đấng đã chết và sống lại. Không phải chúng ta lớn hơn Gioan, nhưng những ân phúc chúng ta được ban thì nhiều hơn. Đó là lý do người nhỏ nhất thuộc về Chúa Kitô vẫn ‘cao trọng hơn’ vị tiền hô vĩ đại nhất.

Vậy mà Đức Phanxicô nói, “Hãy xin Gioan ơn can đảm tông đồ để luôn nói sự thật; và ơn yêu thương mục vụ – nghĩa là đón nhận mọi người bằng những gì ít ỏi ta có thể cho đi. Phần còn lại, Chúa sẽ làm!”. Được như thế, hình ảnh “những chiếc bóng đổ” trở nên đẹp lạ; chúng thấy mình nhỏ bé, lặng lẽ, nhưng được ánh sáng Ngài chiếu rọi, phản chiếu tình yêu và hy vọng đến với mọi người, dẫn đưa người khác về với Ánh Sáng thật. “Tình yêu bạn trao đi không bao giờ mất; nó trở thành công trình của Chúa trong đời một ai đó!” – Dietrich Bonhoeffer.

Anh Chị em,

“Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn Gioan!”. Bạn và tôi là những kẻ nhỏ nhất trong Vương Quốc của Đức Kitô trở nên ‘cao trọng hơn’ Gioan không vì sức mạnh hay thành tích, mà vì ánh sáng Ngài toả qua chúng ta. Mỗi hành động thầm lặng, mỗi lời nói yêu thương, mỗi cử chỉ tha thứ đều trở thành dấu chỉ Nước Trời. Từ đó, “những chiếc bóng đổ” nhỏ được nâng lên, và chính trong sự khiêm nhường ấy, chúng ta phản chiếu vinh quang của Đấng Phục Sinh. “Mặt trăng sáng hơn khi nó phản chiếu mặt trời!” – G.K. Chesterton.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con đánh mất sự cao trọng; cho con, ‘chiếc bóng đổ’ lắm phúc nhiều may, biết chia sẻ ân phúc và ‘ánh nắng’ cho những ai vận xúi, vô phúc!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

********************************************************

Lời Chúa Thứ Năm Tuần II Mùa Vọng

Chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 11,11-15

11 Khi ấy, Đức Giê-su nói với đám đông rằng : “Tôi nói thật với anh em : trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông. 12 Từ thời ông Gio-an Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được. 13 Cho đến ông Gio-an, tất cả các ngôn sứ cũng như Lề Luật đều đã nói tiên tri. 14 Và nếu anh em muốn chấp nhận, thì ông Gio-an chính là Ê-li-a, người phải đến. 15 Ai có tai thì nghe.”


 

TỪ BI VỚI MÌNH – Sống vui từng ngày

  TỪ BI VỚI MÌNH – Sống vui từng ngày

     Ngậm ngùi bởi tiếc nuối tuổi trẻ đã trôi qua lúc nào không hay! Ngậm ngùi phải chi hồi đó thế này thế khác… Hình như ta chẳng bao giờ thực sống. Lúc còn trẻ, ta mơ ước tương lai, sống cho tương lai. Nghĩ rằng phải đạt cái này cái nọ, có được cái kia cái khác mới là sống. Khi có tuổi, khi đã có được cái này cái nọ, cái kia cái khác thì ta lại sống cho quá khứ! Nhỏ mong cho mau lớn, lớn mong cho nhỏ lại. Quả là lý thú! Tóm lại, ta chẳng biết quý những giây phút hiện tại.

    Từ ngày “thế giới phẳng”, ta còn sống với đời sống ảo. Ta ngồi đây với bạn nhưng chuyện trò với một người nào khác, cười đùa, nhăn nhó, giận dữ, âu yếm với một người nào khác ở nơi xa. Khi bắt lại câu chuyện thì nhiều khi đã lỡ nhịp! Hiểu ra những điều tầm thường đó, tôi biết quý thời gian hơn, quý phút giây hiện tại, ở đây và bây giờ hơn. Nhờ vậy mà không có thì giờ cho già nữa! Hiện tại thì không có già, không có trẻ, không có quá khứ vị lai. Dĩ nhiên, không phải trốn chạy già mà hiểu nó, chấp nhận nó, thưởng thức nó. Khi biết “enjoy” nó thì quả có nhiều điều thú vị để phát hiện, để khám phá.

     Một người 60, tiếc mãi tuổi 45 của mình, thì khi 75, họ sẽ tiếc mãi tuổi 60, rồi khi 80, họ sẽ càng tiếc 75! Vậy sao ta đang ở cái tuổi tuyệt vời nhất của mình lại không yêu thích nó đi, sao cứ phải….nguyền rủa, bất mãn với nó. Có phải tội nghiệp nó không? Ta đang ở cái tuổi nào thì nhất định tuổi đó phải là tuổi đẹp nhất rồi, không thể có tuổi nào đẹp hơn nữa!

     Ta cũng có thể gạt gẫm mình chút đỉnh như đi giải phẫu thẩm mỹ chẳng hạn. Xóa chỗ này, bơm chỗ nọ, lóc chỗ kia. Nhưng nhức mỏi vẫn cứ nhức mỏi, loãng xương vẫn cứ loãng xương, tim mạch vẫn cứ tim mạch… Cơ thể ta cứ tiến triển theo một “lộ trình” đã được vạch sãn của nó, không cần biết có ta! Mà hình như, càng nguyền rủa, càng bất mãn với nó, nó càng làm dữ. Trái lại nếu biết thương yêu nó, chiều chuộng nó một chút, biết cách cho nó ăn, cho nó nghỉ, biết cách làm cho xương nó cứng cáp, làm cho mạch máu nó thông thoáng, làm cho các khớp nó trơn tru thì nó cũng sẽ tử tế với ta hơn. Anh chàng Alexis Zorba nói: “Cũng phải chăm nom đến thân thể nữa chứ, hãy thương nó một chút. Cho nó ăn với. Cho nó nghỉ với. Đó là con lừa kéo xe của ta, nếu không cho nó ăn, nó nghỉ, nó sẽ bỏ rơi mình ngang xương giữa đường cho mà coi” (Nikos Kazantzaki).

     Từ ngày biết thương “con lừa” của mình hơn, tử tế với nó hơn, thì có vẻ tôi… cũng khác tôi xưa. Tôi biết cho con lừa của mình ăn khi đói, không ép nó ăn lúc đang no, không cần phải cười cười nói nói trong lúc ăn. Món gì khoái khẩu thì ăn, chay mặn gì cũng tốt. Cá khô, mắm ruốc gì cũng được, miễn là đừng nhiều muối quá! Một người cô tôi mắc bệnh “ăn không được”, “ăn không biết ngon” vậy mà vẫn béo phì, đi không nổi, là bởi vì các con thương bà quá, mua toàn sữa Mỹ mắc tiền cho uống ! Sữa giàu năng lượng, nhiều chất béo bổ quá, làm sao còn có thể ăn ngon, làm sao không béo phì cho được? Giá nghèo một chút còn hay hơn! Cá kho quẹt, rau muống mà tốt, miễn bà ăn thấy ngon, thấy sướng! Tôi cũng biết cho con lừa của mình ngủ hơn. Ngủ đầy giấc, đủ giấc. Ngủ đủ giấc là cơ hội tốt nhất cho các tế bào não phục hồi, như sạc pin vậy. Sạc không đủ ma đòi pin ngon lành sao được !

     Bảy trăm năm trước, Trần Nhân Tông viết: Cơ tắc xan hề khốn tắc miên! (Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền!) trong bài Cư trần lạc đạo, (ở đời mà vui đạo)! Ông là vị vua nhà Trần sớm nhường ngôi cho con, lên tu ở núi Yên Tử, Tổ sư thiền phái Trúc Lâm. Tu hành như vậy mà khi quân Nguyên xâm lấn nước ta, ông liền xuống núi, ra tay dẹp giặc, xong, phủi tay lên núi tu tiếp !

     Mỗi người có đồng hồ sinh học của riêng mình, không ai giống ai, như vân tay vậy, cho nên không cần bắt chước, chỉ cần lắng nghe mình. Phương pháp này, phương pháp nọ của người này người kia bày vẽ chẳng qua cũng chỉ để tham khảo, nắm lấy nguyên tắc chung thôi, rồi áp dụng vào hoàn cảnh riêng cụ thể của mình, tính cách mình, sinh lý mình. Phương pháp nào có sự ép buộc cứng ngắc quá thì phải cảnh giác!

    Cũng nhớ rằng tới tuổi nào đó, tai ta sẽ bắt đầu kém nhạy, mắt bắt đầu kém tinh, đấu óc bắt đầu kém sắc sảo. Tai kém nhạy để bớt nghe những điều chướng tai. Mắt kém tinh để bớt thấy những điều gai mắt. Đầu óc cứ sắc sảo hoài ai chịu cho nổi! Tuy vậy, tai kém mà muốn nghe gì thì nghe, không thì đóng lại; mắt kém mà muốn thấy gì thì thấy, không thì khép lại. Thế là “căn” hết tiếp xúc được với “trần”. Tự dưng không tu hành gì cả mà cũng như tu, cũng thực tập ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm!

     Rồi một hôm đẹp trời nào đó ta còn có thể phát hiện mắt mình chẳng những nhìn kém mà còn thấy những ngôi sao lấm chấm, những lốm đốm hoa trên bầu trời trong xanh vời vợi kia. Nếu không phải do một thứ bệnh mắt nào đó thì đây hẳn là hiện tượng thoái hóa của tuổi già, nói nôm na là xài lâu quá, hết thời hạn bảo hành. Cái mà người xưa gọi là “hoa đốm hư không” chính là nó. Tưởng hoa đốm của trời, ai dè trong mắt mình! Chỉnh cái “tưởng” của ta nhiều khi làm hại ta. Biết vậy ta bớt mất thì giờ cho những cuộc tranh tụng, bớt tiêu hao năng lượng vào những chuyện hơn thua. Dĩ nhiên có những chuyện phải ra ngô ra khoai, nhưng cái cách cũng đã khác, cái nhìn đã khác, biết tôn trọng ý kiến người khác, biết chấp nhận và nhìn lại mình.

     Khi 20 tuổi người ta băn khoăn lo lắng không biết người khác nghĩ gì về mình. Đến 40 thì ai nghĩ gì mặc họ. Đến 60 mới biết chả có ai nghĩ gì về mình cả! Tóm lại, chấp nhận mình là mình và từ bi với mình một chút. Nhưng muốn vậy, phải… chuyển đổi cách thở. Thở ư? Đúng vậy! Một bác sĩ có thể biết rất nhiều về bộ máy hô hấp, về cơ thể học, sinh lý học, bệnh lý học của bộ máy hô hấp nhưng chưa chắc đã biết thở !

 ******************

Già

Lâu nay cứ tưởng mình già

Bây giờ mới biết quả là y chang

Suốt ngày nói chuyện thuốc thang

Gặp nhau lại kể cả tràng chuyện xưa

Tivi dỗ giấc ngủ trưa

Sức khoẻ lại giảm, mắt mờ, da nhăn

Đọc chữ phóng đại mấy trăm

Lại còn đãng trí, tần ngần, hay quên

Cả ngày mỏi mắt đi tìm

Hết tìm khoá cửa lại tìm khoá xe

Nhiều hôm thăm viếng bạn bè

Được dăm ba phút nằm phè ngủ ngon

Tóc bạc chen chúc tóc non

Không dám nhổ nữa sợ còn bình vôi

Kiến thức mới nuốt chẳng trôi

Bước ra khỏi cửa trùm người áo len

Ra đường chẳng ai gọi tên

Cứ gọi chú, bác có phiền hay không ?

Khi lên xe buýt dẫu đông

Dăm người nhường chỗ ‘Mời ông cứ ngồi

Lại hay nhạy cảm, tủi đời

Thích được săn sóc hơn thời ngày xưa

Thấy tình nhân trẻ vui đùa

Mà lòng chua xót phận vừa cuối thu

Suốt ngày trung tiện lu bù

Cơm thì phải nhão, phở cho thật mềm

Thích nghe tiếng hỏi, lời khen

‘Lúc này thon thả, trẻ hơn dạo nào’

Thức ăn cứ lấy ào ào

Ăn thì chẳng nổi mà sao cứ thèm

Ngủ trưa giấc cứ dài thêm

Đứng, ngồi, ‘chuyện ấy’ ngày thêm chậm rì

Đánh răng, tìm thuốc loai gì

Để răng được trắng không thì khó coi

Cà phê chỉ hớp một hơi

Đêm về trắng mắt nhìn trời đếm sao

Gặp người cùng tuổi như nhau

Thường hay hỏi ‘Bác thế nào ? Khoẻ không?’

Cell Phone thì khổ vô ngần

Lúng ta lúng túng thường không trả lời

Để chuông reo mãi một hồi

Mở ra thì đã chậm rồi còn đâu ?

Bệnh tật nó đến từ đâu

Cao mỡ, cao máu lâu lâu … tiểu đường

Tránh né việc nặng là thường

Việc nhẹ thì cũng đau xương, mệt nhoài

Đi chơi càng khổ gấp hai

Đi đâu cũng ngại đường dài lái xe

Giữ thân cho khỏi tròn xoe

Vòng hai sao cứ bè bè phình to

Thang lầu càng nghĩ càng lo

Chỉ sợ trượt ngã khổ cho thân này

Ngủ thì chẳng ngủ được say

Bốn năm giờ sáng dậy ngay tức thì

Sinh nhật, sinh nhiếc làm gì

Cái chuyện lẻ tẻ ấy thì nên quên

Vẫn hay nhìn kiếng thường xuyên

Xem chân dung đã trở nên thế nào

Buồn tình đếm thử xem sao

Bao nhiêu triệu chứng ấy bao nhiêu già!

 Vo Danh

From: Ngoc Bich & KimBang Nguyen


 

NỖI ĐAU KHÔNG CÒN GÌ ĐỂ MẤT… – BS Xuân Sơn Võ

Việt Luận – Viet’s Herald

BS Xuân Sơn Võ

“… Đặt mình vào vị trí người dân ở đây, có lẽ sẽ cảm thấy đau lắm, khi phải chịu mất mát, mà không phải do mình ẩu, cũng không phải do Trời phạt mình. Mất chỉ vì thằng khác ẩu. Mà nó không ẩu để gây hậu quả cho nó, cho cha mẹ nó, cho vợ con nó. Nó ẩu mà nó gây hậu quả cho bà con mình, cho bản thân mình, và gia đình mình… Nó lời một đồng, nó làm người ta mất hết tài sản. Nó ăn một miếng, còn người ta thì mất mạng…”

Một trong các thắc mắc mà mấy anh em chúng tôi cứ hỏi nhau hoài, là làm sao có thể tính được thiệt hại vật chất trong vụ lũ lụt vừa qua ở những nơi chúng tôi đến, tại Khánh Hòa, tại Phú Yên?

Mất sạch. Có lẽ đó là khái niệm chung nhất của bà con ở những vùng lũ lụt nặng. Nhưng mất sạch theo quan niệm chung, là mất những cái “động sản”, còn những thứ thuộc về “bất động sản” thì đâu có mất đi đâu. Nhưng không. Truyền thông đưa tin, nơi có 7 cái trang trại nuôi heo bò gà vịt đã bị biến thành một dòng sông. Ngay cả bất động sản cũng bị lũ cuốn trôi luôn.

Mất sạch ở đây cần được hiểu rằng, có gì mất nấy. Có ít mất ít, có nhiều mất nhiều. Có càng nhiều mất lại càng nhiều. Sau lũ, ai cũng trắng tay, ai cũng bắt đầu lại với hai bàn tay trắng… bệch. Cứu trợ bao nhiêu cho đủ, đền bù bao nhiêu cho đủ. Tiền tỉ mang ra đó, cũng chỉ như muối bỏ biển, chẳng thấm tháp vào đâu. Cái gì cũng phải mua lại, từ cây kim, sợi chỉ, đến xong nồi, chén dĩa, đũa muổng…

Anh Toàn, chủ một cơ sở bida thuộc hàng top đầu ở Tuy Hòa, Phú Yên với 20 cái bàn bida phải bỏ đi, phải thay mới hoàn toàn. Đi trên đường Võ Nguyên Giáp ở Nha Trang, bạt ngàn xe hơi chờ sửa sau khi bị ngập. Ngay trong thành phố Nha Trang, cứ chỗ nào thấy xe hơi xếp hàng dài, lớp trong lớp ngoài, là y như rằng ở đó có cái garage, xe xếp hàng đó để chờ đến lượt vô sửa. Đi trên cao tốc, ngoài các chuyến xe cứu trợ có gắn bandrole, thì nhiều thứ nhì là những chuyến xe cứu hộ, kéo những chiếc xe bị lũ đi từng đoàn, từng đoàn… theo hướng ngược lại.

Nhiều tỉnh đã phải điều xe rác đến Khánh Hòa, Phú Yên để giúp dọn rác. Dân ở đây làm gì mà lắm rác vậy? Không, đó là của cải, là tài sản, là mồ hôi, là nước mắt… của bao nhiêu người dân, bị lũ lụt biến thành rác. Chứng kiến một chỗ người ta đốt rác, trong đó lỏng chỏng tủ lạnh, TV… Không chỉ có cảm giác xót ruột. Của cải, tài sản không phải của mình, nhưng sống mũi cứ cay cay, lái xe nhìn đường cứ nhòe đi.

Đặt mình vào vị trí người dân ở đây, có lẽ sẽ cảm thấy đau lắm, khi phải chịu mất mát, mà không phải do mình ẩu, cũng không phải do Trời phạt mình. Mất chỉ vì thằng khác ẩu. Mà nó không ẩu để gây hậu quả cho nó, cho cha mẹ nó, cho vợ con nó. Nó ẩu mà nó gây hậu quả cho bà con mình, cho bản thân mình, và gia đình mình… Nó lời một đồng, nó làm người ta mất hết tài sản. Nó ăn một miếng, còn người ta thì mất mạng.

Đau hơn nữa, là biết vậy, mà vẫn cứ phải cắn răng chịu mất, cứ phải chống mắt nhìn nó ăn, nhìn nó kiếm tiền, nhìn bà con mình bỏ mạng, nhìn của cải, đồ đạc mất sạch, nhìn hai bàn tay trắng bệch…

BS Xuân Sơn Võ


 

Vụ chính quyền Trump trục xuất bà Melissa Trần phơi bày bi kịch của người Việt nhập cư (BBC)

 BBCVietnamese

Cảnh sát di trú đang thực hiện một chiến dịch truy quét nhập cư bất hợp pháp vào đầu năm 2025 tại Chicago (trái); bà Melissa Tran (phải)

Sau hàng chục năm sống tại Mỹ với tấm thẻ xanh, bà Melissa Trần đã bị trục xuất về Việt Nam ngày 17/11/2025.

Hành trình bay 48 giờ được mô tả là “đầy đau khổ”.

Bà Melissa Trần, tên thật là Trần Thị Mộng Tuyền, đã bị cùm tay và chân trong suốt chuyến bay dài 48 tiếng, qua nhiều chặng dừng, từ Mỹ về Việt Nam.

Trong tin nhắn gửi luật sư, bà Melissa Trần nói rằng bà cảm thấy “bị đối xử tồi tệ còn hơn một con vật”.

Hiện bà đang ở với một người anh họ tại Việt Nam, để lại gia đình gồm chồng và bốn con ở Maryland, Mỹ.

Luật sư của bà Melissa Trần nói với BBC News Tiếng Việt rằng vụ trục xuất là “một bi kịch”, trong khi cộng đồng ở Mỹ vẫn đang nỗ lực để đưa bà trở về Mỹ.

“Bà Melissa Trần nhận được sự ủng hộ to lớn từ cộng đồng địa phương.”

“Tất cả những người quen biết bà ấy đều đã bày tỏ rằng họ sẽ làm những gì có thể để hỗ trợ bà ấy.”

“Cần thấy rằng đây là một sai lầm nghiêm trọng về mặt tư pháp và chúng ta cần tìm cách đưa bà ấy trở về,” luật sư Jennie Pasquarella nói với BBC News Tiếng Việt, và nhấn mạnh rằng việc này hiện đang phụ thuộc rất lớn vào các chính trị gia Mỹ.

Về khả năng bà Melissa quay lại nước Mỹ, bà Pasquarella nói “khó” nhưng “vẫn có thể”.

Bà Jennie Pasquarella cũng chỉ trích cách thức mà chính quyền Mỹ đối xử với những người bị giam giữ hoặc bị trục xuất, như cùm tay chân họ, là đi ngược lại hiến pháp và và các chuẩn mực quốc tế, có thể cấu thành hành động “tra tấn”.

“Luật pháp Mỹ quy định chính phủ không được phép giam giữ người nhập cư chỉ nhằm mục đích trục xuất, theo cách có tính chất trừng phạt như thể họ đang bị xử lý vì một tội hình sự,” bà Jennie Pasquarella lý giải.

Bà cho rằng đây là một chiến dịch nhằm khiến người nhập cư khiếp sợ và tự nguyện rời đi.

Phóng viên BBC từng tới thăm một trung tâm trục xuất ở New York và chứng kiến cảnh những người di cư bị “đối xử như thú vật”, khiến nhiều người sang chấn tâm lý.

Luật sư Jennie Pasquarella và bà Melissa Trần

Bà Melissa Trần từ Việt Nam đến Mỹ vào năm 1993, khi mới 11 tuổi, với tư cách là người tị nạn.

Sau đó bà trở thành thường trú nhân hợp pháp.

Năm 2001, bà bị kết tội trộm cắp.

Trong thời gian 2003-2004, tòa di trú ra lệnh trục xuất bà, nhưng Việt Nam từ chối nhận lại, nên bà vẫn được ở Mỹ và đi trình báo đều đặn với Cơ quan Thực thi Di trú và Hải quan Hoa Kỳ (ICE) suốt hơn 20 năm.

Bà khai rằng khi còn trẻ, bạn trai cũ của bà trộm tiền của một chủ lao động, nhưng bà nhận tội, hoàn trả số tiền đánh cắp và ngồi tù sáu tháng, theo luật sư.

Thời điểm đó, bà không biết rằng thỏa thuận nhận tội trong vụ án này có thể dẫn đến việc bà bị trục xuất.

Điều này có nghĩa, về mặt luật pháp, bà Melissa Trần sau khi lãnh án tù đã nằm trong danh sách có thể bị trục xuất.

Điều đáng nói là trong nhiều năm, Việt Nam không nhận những người tị nạn rời khỏi đất nước trước năm 1995.

Do đó, bà Trần trong suốt những năm qua vẫn sinh sống bình thường tại Mỹ và chỉ phải đi trình diện viên chức di trú theo quy định – điều mà bà vẫn tuân thủ.

Đây là một thủ tục đăng ký thông thường mà bà đã thực hiện trong hàng chục năm qua: trình giấy tờ tùy thân, sau đó quan chức ICE cấp cho bà một ngày hẹn tiếp theo để ra trình diện.

Nhưng mọi chuyện đã thay đổi trong nhiệm kỳ thứ hai của chính quyền Trump.

Chính phủ Việt Nam gần đây đã chấp thuận những trường hợp bị Mỹ trục xuất và là những người rời Việt Nam trước mốc 1995.

Hồi tháng 2/2025, chính phủ Việt Nam đã cam kết hỗ trợ việc hồi hương của hàng chục công dân bị giam giữ tại Hoa Kỳ và nhanh chóng xử lý các yêu cầu trục xuất mới sau khi chính quyền ông Trump đe dọa áp thuế thương mại và trừng phạt thị thực.

Tháng 10/2025, bà Melissa Trần bị bắt giam khi ra trình diện ICE, sau đó bị giam năm ngày ở Baltimore, Maryland “mà không có lời giải thích”.

Sau đó, bà Melissa Trần được cho về nhà nhưng rồi bị bắt lại vào lần trình diện kế tiếp hồi tháng 11/2025, bị tạm giam, sau đó bị đưa lên máy bay đến Louisiana, rồi lên máy bay về Việt Nam, mà “không có bất kỳ thông báo nào”.

Một trong những giải pháp được xem là mang lại nhiều hi vọng nhất hiện nay là xin ân xá cho bà Melissa Trần từ thống đốc sắp nhậm chức của bang Virginia – nơi bà Trần bị kết tội trộm cắp.

Tuy nhiên, quy trình xin ân xá này rất khó khăn và sẽ kéo dài, theo luật sư.

Trong khi đó, Bộ An ninh Nội địa Mỹ đã trả lời về vụ việc của bà Trần:

“ICE đã bắt giữ Trần Thị Mộng Tuyền, một người nhập cư bất hợp pháp từ Việt Nam, với tiền án bao gồm làm giả, trộm cắp, gian lận và viết séc gian lận. Một thẩm phán di trú đã ban hành lệnh trục xuất cuối cùng cho bà vào năm 2004. Bà ấy có hơn 20 năm để rời khỏi Hoa Kỳ và được hưởng đầy đủ quy trình tố tụng hợp pháp,” Trợ lý Bộ trưởng An ninh Nội địa Tricia McLaughlin viết trong phản hồi với kênh truyền thông WJZ Investigates. “Thông điệp của Tổng thống Trump và Bộ trưởng Noem rất rõ ràng: người nhập cư bất hợp pháp phạm tội không được chào đón tại Hoa Kỳ.”

Thượng nghị sĩ Dân chủ Chris Van Hollen của Maryland đã lên án vụ trục xuất bà Trần, theo CBS News, và nói rằng đây là một câu chuyện “quá bi thảm”, “không đáng để xảy ra”, và rằng văn phòng của ông sẽ nỗ lực đưa bà quay về Mỹ.

Hàng trăm người Mỹ gốc Việt đã bị trục xuất, hàng ngàn người nằm trong nguy cơ cao

Nhiều người Việt đã rời đất nước để sang Mỹ tị nạn sau 30/4/1975

Trong vài tháng qua, đã có hàng trăm người gốc Việt bị Mỹ trục xuất về Việt Nam, đặc biệt trong các tháng Sáu và Bảy, theo luật sư.

Chính phủ Mỹ và Việt Nam không công bố chính thức các con số này.

Ước tính hiện có khoảng 16.000 người từ Đông Nam Á – gồm Việt Nam, Campuchia và Lào – có lệnh trục xuất của chính phủ Mỹ, nhưng chưa bị trục xuất.

Những người này hiện đều có nguy cơ bị giam giữ và trục xuất ngay lập tức, trong khi chính phủ Mỹ đang cố gắng yêu cầu các quốc gia quê hương của họ cấp giấy tờ hồi hương.

Trong trường hợp các quốc gia này không đồng ý, thì chính phủ Hoa Kỳ sẽ cố gắng trục xuất họ sang một nước thứ ba, luật sư cho hay.

“Đây là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra đối với những trường hợp này, bởi vì việc trục xuất sang nước thứ ba sẽ đưa họ đến những nơi mà họ không có bất kỳ mối liên hệ nào.

“Thường là trong những điều kiện vô cùng khắc nghiệt, bao gồm cả việc một số người bị bỏ tù ngay khi họ đặt chân tới nơi.

“Và mọi thứ đều được thực hiện trong bí mật. Chính phủ không hề thông báo trước cho họ rằng họ đang bị đưa tới một nước thứ ba. Họ [chính quyền] cũng không cho họ bất kỳ cơ hội nào để phản đối quyết định trục xuất đó,” luật sư Jennie Pasquarella nói.

Tháng 7/2205, Bộ An ninh Nội địa Mỹ đã nối lại các chuyến bay trục xuất người nhập cư bằng việc đưa năm người từ Việt Nam, Lào, Jamaica, Cuba và Yemen đến Eswatini, một quốc gia nhỏ bé ở miền nam châu Phi.

Một công dân gốc Việt khác bị Mỹ trục xuất sang Nam Sudan hồi tháng 5/2025.

Chấn thương từ Chiến tranh Việt Nam

Nhưng người Việt chạy khỏi Sài Gòn sau năm 1975 để tới Mỹ tị nạn chịu nhiều vết thương tâm lý chồng chất, theo luật sư Jennie Pasquarella

Theo bà Jennie Pasquarella, điều quan trọng là cần phải nhìn thấy toàn bộ bức tranh của việc trục xuất này.

Đó là bức tranh về một cộng đồng người Việt phải di cư sang Mỹ sau khi “chính phủ Mỹ đã can thiệp vào đất nước của họ” thời Chiến tranh Việt Nam.

Những người này chịu các chấn thương tâm lý chồng chất, theo luật sư.

Họ cũng chính là lớp người rời Việt Nam trước năm 1995 mà nay chính phủ Việt Nam mới tiếp nhận họ (trong trường hợp bị Mỹ trục xuất).

Chiến tranh Việt Nam kết thúc đã dẫn đến cuộc khủng hoảng người tị nạn ở Đông Dương. Khoảng 1,5 triệu người Việt đã phải rời bỏ đất nước do cuộc chiến này. Một phần rất lớn trong số đó định cư tại Mỹ.

Người nhập cư Việt Nam và con cái của họ chào đời tại Hoa Kỳ tạo nên một trong những cộng đồng người di cư lớn nhất tại Hoa Kỳ, với 2,3 triệu người.

Khi đến Mỹ, những người vừa trải qua cú sốc chiến tranh và lìa xa quê hương lại trải qua một cú sốc khác do thiếu hụt các nguồn lực hỗ trợ dành cho cộng đồng người tị nạn.

Theo luật sư, nhiều người nhập cư mà bà từng tiếp xúc đã trải qua những khủng hoảng về sức khỏe tâm thần. Đây cũng chính là lý do khiến họ hoặc con cái họ phạm tội thời thanh thiếu niên.

Do Việt Nam không tiếp nhận họ, những người này tiếp tục ở lại Mỹ và đã xây dựng một cuộc sống ổn định, khiến bà Jennie Pasquarella cho rằng “rất đau lòng” khi họ bị trục xuất.

“Phần lớn những người hiện nay bị đưa vào diện trục xuất đều trên 40 tuổi. Họ có sự nghiệp, họ đã học hành ở đây, họ có con, có cháu.

“Họ không biết gì về Việt Nam, và vì thế mức độ tổn hại giờ đây nghiêm trọng hơn rất nhiều so với việc họ bị trục xuất cách đây 20–30 năm,” luật sư nói.

Luật nhập cư ‘lỗi thời’

Bà Monica Moreta Galarza bị quật ngã xuống đất khi chồng bà bị bắt bên ngoài tòa án di trú ở thành phố New York

Luật nhập cư được cập nhật lần cuối vào năm 1996 và những thay đổi khiến luật này trở nên hà khắc hơn rất nhiều và làm tăng hậu quả cũng như hình phạt cho những trường hợp như bà Melissa, theo luật sư Jennie Pasquarella.

Nhiều thay đổi cần phải được chỉnh sửa. Nhưng bà Jennie Pasquarella tin này điều này sẽ không xảy ra với một Quốc hội hiện tại mà bà đánh giá là không hiệu quả.

Vụ việc của bà Melissa Trần phản ánh rõ luật nhập cư của Hoa Kỳ lạc hậu đến mức nào, theo luật sư.

“Luật này không tính đến thực tế rằng một người có thể mắc sai lầm từ rất nhiều năm trước, nhưng họ đã chứng minh được họ đã thay đổi hoàn toàn, họ đóng góp cho cộng đồng và xã hội. Và họ không nên bị trừng phạt vì sai lầm đó suốt phần đời còn lại.”

“Nhưng bi kịch là luật không nhìn thấy con người đã thay đổi và đã làm mọi điều mà xã hội mong đợi họ làm. Về cơ bản, luật nói rằng: vâng, anh có thể bị trừng phạt suốt đời, chúng tôi không quan tâm. Bà Melissa là một ví dụ điển hình cho điều đó.”

“Có thể ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực mà chúng ta đang chứng kiến ​​bởi chính phủ liên bang, nhưng tại thời điểm này, chúng ta đang sống trong một cuộc khủng hoảng và rất khó để kiềm chế chính phủ này và buộc họ phải chịu trách nhiệm,” bà Jennie Pasquarella nói.

Với những người hiện đang trong diện bị trục xuất nhưng vẫn còn ở Mỹ, bà Jennie Pasquarell cho rằng họ nên kiếm tư vấn pháp lý trước khi bị ICE bắt giam.

“Hãy quay lại tòa án nơi họ bị kết án và xem liệu có cơ hội nào để bản án có thể được hủy bỏ hoặc sửa đổi hay không,” bà nói.

Bởi một khi đã bị ICE bắt giam, thì họ sẽ không có thời gian để thực hiện các thủ tục pháp lý để cứu mình.

Và tệ hơn nữa là khi bị trục xuất về Việt Nam, thì cơ hội để quay lại Mỹ của họ là rất mong manh, bà Jennie Pasquarell cho hay.


 

Bão tố, lũ lụt – Một thách thức về sinh thái và môi trường mà còn là một thách thức chiến lược sống còn của Hà Nội

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

09/12/2025

Tôi còn nhớ khi chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ vào tháng 12-1946 thì tôi có mặt ở Hà Nội và chứng kiến chỉ trong một đêm sau một tiếng nổ kinh hoàng và nhà đèn tắt phụt và ngày hôm sau, bộ đội chủ lực của Võ Nguyên Giáp đã rút lui ra khỏi Hà Đông và chỉ còn lại dân quân du kích ở lại cầm chân Pháp và làm vật hy sinh chết dần, chết mòn..

Người Pháp đã mau chóng ổn định an ninh Hà nội dần trở lại nếp sinh hoạt bình thường cho đến năm 1954 với Hiệp định Genève chia đôi hai bên ở Vĩ Tuyến 17..

Trong suốt gần 10 năm trời ở Hà Nội, tôi không hề thấy cảnh tượng Hà Nội chìm trong biển nước như hiện nay..Nay  cứ một trận mưa thì Hà Nội biến thành một hồ nước nhân tạo. Xe cộ chết máy la liệt trông đến thảm thương.

Vì Hà Nội xưa có những hồ chứa nước như Hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm, hồ Trúc Bạch một sự điều hòa đúng mực..

Vào miền Nam, tôi ở Đà Nẵng một năm mới chuyển vào Sài Gon. Lên Đại học, học ở Viện Đại Học Đà Lat. Ra trường, đổi về Nhatrang trong 6 năm. Mùa hè ra Huế sống hơn 2 tháng, coi thi ở Quảng Ngãi, Quảng Trị..

Nhắc đến đây, tôi xin đặc biệt nhớ lại những kỷ niệm khó quên ở Phan Thiết, tôi không còn nhớ năm nào? Nơi mà nay cũng chìm đắm trong lũ lụt.

Chỉ biết rằng,  trước đây, tôi được điều động ra Phan thiết với vai trò phó hội đồng thi. Trương Ân, hiệu trưởng Quy Nhơn -một người bạn cũ Đà lạt làm chủ tịch. Hai chúng tôi đến ở nhà  một người bạn học cũ, anh Tùng được điều đi nơi khác..

Một lần, một nữ giáo viên vốn bố mẹ làm chủ vựa nước mắm mời đến nhà ăn. Cô Ung Thị Bạch Tuyết. Ôi thì sơn hào hải vị, cái gì ngon nhất, hai chúng tôi đều được hưởng. Cũng bữa tiệc đó, có một nữ giáo viên

đem lòng “ mê” tôi. Số tôi đúng là số “con rệp”, đi đâu gieo rắc họa đến đấy. Em nữ giáo viên tên N. có ngỏ lời bằng cách tặng tôi bài hát rất ư “ thôn nữ quê” : “hãy trả lời em đi anh” với băng casette.

Về nhà, Trương An cho vào máy, rồi hát rống lên: Hãy trả lời em di anh..Tôi nghe mà lòng lạnh tanh.  Trong khi Trương Ân nói: Này toa, em này nó mê toa rồi đố. Tôi lặng thinh.

Khi hai chúng tôi quay về, tại phi trường Phan Thiết, cả một bày nữ giáo viên ra tiễn đưa, trong đó có N. , nước mắt lưng tròng.. Sau này N. trở thành nhà

văn nữ khá nổi tiếng. Quà mang về là thứ nước mắm nhĩ thứ hảo hạng, cộng với mực phơi hai nắng trên nóc các thuyền đánh cá, ăn mới ngon và mới ngọt làm sao.

Ôi, cả một thời yên bình và hạnh phúc cho một con dân miền Nam.

Nhắc lại như một hồi ức khó quên!!!

Trong những năm tháng ấy, tôi chưa hề chứng kiến những trận bão như số 11, 12, 13 và những trận lụt khủng khiếp, nước ngập sâu đến mái nhà, dân chúng phải leo lên mái nhà. Lũ lụt trong khoảnh khắc phá tan cầu đường, thiệt hại chẳng những tài sản, nhất là đến sinh mạng con người.

Được biết, một gia đình nuôi đến 4000 con vịt, sau cơn lũ, chỉ còn khoảng 900 con. Người khác, ở Quảng Bình, có khoảng 100 gốc sầu riêng, sau lũ còn lại vài gốc.

Chưa kể, hàng trăm người bị lũ cuốn trôi mà nhiều người sau này không tìm được xác..

Nghĩ đến đây, bất giác như buồn nôn…

Tôi chỉ hỏi mà không có câu trả lời cho mình và cho đồng bào bị nạn..

Dân chúng trong khắp các tỉnh thành lập các đoàn cứu trợ để kịp thời để đền bù các thiệt hại về nhà cửa và nhất là người chết oan..

Lấy gì và bằng cách nào đền bù cho những oan hồn chết oan mà vốn mạng người là vô giá!!

Tôi theo dõi các bản tin mỗi ngày và  tôi nhận ra hai điều:

  • Dân chúng chỉ thấy đây là “tai trời” mà không một lời oán thán nhà cầm quyền.
  • Một cơn lụt lội khủng khiếp như thế, nhưng tôi không hề thấy cấp lãnh đạo cấp tỉnh bên cạnh người dân. Nói chi đến thủ tướng Phạm Minh Chính hay ông Tô Lâm? Người ta chỉ có cơ hội nhìn thấy các ông trong những chuyến công du liên tiếp, bên cạnh các mệnh phụ phu nhân ăn mặc  sang trọng.
  • Hình như thể họ thuộc một tầng lớp lãnh đạo chỉ biết cai trị hơn là người của dân chúng.

Tuy nhiên, nhà nước cộng sản Hà Nội đã không hề tiết lộ nạn phá rừng, xẻ núi, lấp ao hồ, lấp dòng sông để xây xa lộ, xây đường cao tốc và xây dinh thự.

Đất nước hình như chỗ nào cũng bị “xi măng hóa” hay “ nhựa hóa” đến độ mưa lũ xuống không có tầng đất xốp để hấp thụ nước nên gây nạn ngập lụt.

Mà đáng nhẽ, nó cần “một thành phố bông gòn” để có thể hấp thụ nước, tránh lũ lụt.

Nạn phá rừng tùy tiện lấy gỗ đã tạo ra nạn sạt lở, vì không có cây rừng ngăn chặn.

Nghĩ đến đây, tôi nghĩ đến trường hợp hãng Cimexcol, Minh Hải với Dương Văn Ba, toa rập với các quan chức đã cho người sang Lào khai thác gỗ, tạo ra dòng chảy sạt lở mà chúng gọi là “Chương trình phát tiển Lào”.

( Xin tóm lược  trở lại năm 1985, cách mạng Lào chiến thắng. Để kỷ niệm chiến thắng này, quân đội cách mạng Lào đã lập ra” công ty phát triển rừng núi Lào là Borisat Phattana Khet  Phoudoi, gọi tắt là BKKP. Công ty được đặt dưới chỉ đạo của đại tướng Khăm Tây Xiphandoong- thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc Phòng Lào.

Công ty lại liên doanh với một công ty mới thành lập tại TP Hồ Chí Minh và tỉnh Minh Hải, gọi là Cimexcol liên doanh..( Trích Đời của Hồ Ngọc Nhuận, trang 307). 

  • Về phía người dân

Dân chúng thì vô trách nhiệm. Rác cứ đem đến lỗ ống cống mà đổ gây nghẹt ống cống và nước lũ không trôi được..Lấy trường hợp Kênh Nhiêu Lộc cứ phải vét đi vét lại vì dân chúng coi con kênh như chỗ xả rác .

Đường Cỏ Ngư ở Hà Nội được ví như con đường tình Duy Tân ở Sài gòn. Nhưng hai bên đường mọc đầy quán ăn chen lấn cả lề đường làm con đường bị ô nhiễm trầm trọng..

Hiện nay, không ai còn biết, bao nhiêu ao hồ ở Hà Nội đã bị vùi lấp làm nhà ở?

Mảnh đất nào cũng bị cời xấy lên bằng xi măng làm nhà ở hoặc bằng nhựa đường làm các xa lộ, các cao tốc.

Hà Nội chỉ nhìn thấy cái lợi nhất thời mà không  có một cái nhìn về tương lai của một đất nước.

Mưa xuống không có lớp đất xốp, bãi cỏ để thẩm thẩu nước mưa gây nạn lụt gây ra sức tác hại về môi sinh, môi trường đến không thể nào tính hết thiệt thại bằng tiền.

Cả nước như chìm vào biển nước, dân chúng không biết kêu cứu vào ai. Hà Nội chỉ đưa ra những giải pháp vá víu cục bộ, nhất thời.

Năm nay lụt thì có thể năm sau cũng tiếp tục lụt lội ở một mức độ kinh kihủng hơn.

Có một cái gì bảo đảm là tương lai sẽ hết ngập lụt?

 Sự sửa chửa những sai lầm về môi sinh, môi trường đòi hỏi những tốn phí gấp hai, gấp ba lần hơn trước?

Đó là cái giá mà chúng ta phải trả cho sự sai lầm ngu ngốc của mình..

Nay vẫn ưu tiên tiếp tục xây dựng những đền đài, cung điện như đài” tưởng niệm những nạn nhân đại dịch Cô Vít”?

Chúng ta chỉ biết lên tiếng cảnh báo, còn trách nhiệm là ở quan chức lãnh đạo Hà Nội!!!!

Ước gì Hà Nội học được bài học của Thủ tướng Lý Quang Diệu mà vứt mẩu thuốc lá xuống đường cũng bị phạt nặng.

Đó là một nếp sống văn minh và văn hóa cao mà người dân biết tự trọng tuân thủ.

Viết những dòng này, chúng tôi mong mỏi một đất nước “ độc tài dân chủ vì người dân” như nhiều xã hội Đông nam Á như Nhật, Đại Hàn, Singapore  thay vì một “ đất nước độc tài mà quyền lợi của đảng trên hết” như Việt nam, Triều Tiên.

Phần Hai: Sự lựa chọn ưu tiên chiến lược dưới sự trình bày của giáo sư Khương Hữu Lộc.

Phần bài viết này chủ yếu dựa trên sự trình bày khoa học, khách quan về mọi mặt giúp có một cái nhìn sáng tỏ và khách quan về sự chọn lựa sống còn cho Việt Nam.

Chúng ta không thể không ưu tiên giải quyết vân đề lũ lụt.

Thứ nhất, không thể nào không giải quyết sự an toàn giao thông nếu không giải quyết hạ tầng cơ sở với nạn ngập lụt trên khắp các tỉnh thành từ Nam ra Bắc.

Sự ưu tiên giải quyệ’t nạn lũ lụt này đòi hỏi một chi phí từ 70 chục tỉ đồng tiền Mỹ đến 100 tỉ đồng.

Không có sự chi phí ưu tiên thì xe điện đi ngang qua các vùng lũ lụt không có sự an toàn của những vùng địa lý thiên nhiên với những hồ chứa nước.

Chưa nói đến các tảng băng ở bắc cực nay tan nhanh tạo ra một dòng chảy như thác lũ đổ ra biển, làm cho mực nước biển tăng lên!! ảnh hưởng trục tiếp đến địa lý thiên nhiên khu vực.

Bên Mỹ, các xa lộ đều có hệ thống Master Plan- một hệ thống ao, bờ để giúp thoát nước..

Nhưng mặt khác, để đất nước phát triển không thể không nghĩ tới một dòng xe điện cao tốc với tốc độ trung bình 350 kilo/mét giờ. Từ ga xe lửa Ngọc Hồi đến ga Thủ Thiêm, đi qua 22 trạm chỉ mất 5 tiếng thay vì 33 tiếng của xe lửa đã lỗi thời của thời Pháp để lại.

Tuy nhiên, sẽ có sự cạnh tranh với việc xử dụng phương tiện máy bay. Chi phí vé máy bay thường tốn kém hơn, mặc dầu chỉ mất hai giờ 10’ bay từ Hà Nội vào Sài Gon.

Tuy nhiên, chúng ta đừng quên là hành khách phải có mặt ở phi trường một tiếng đồng hồ trước cho việc check in cũng như thủ tục đợi lấy hành lý.

Thời tiết xấu cũng ảnh hưởng tới các chuyến bay với thời gian chờ đợi tại các phi trường không phải là điều dễ chịu..

  • Các công ty góp phần xây dựng đường cao tốc Bắc-Nam.

Hiện nay được biết có 6 công ty. Trong đó có hai công ty của người VN là Vin Speed và Taco. Trong đó việc góp vốn của công ty là 20 %, 80% còn lại vay vốn nhà nước không tiền lời, trả dần trong 30 năm.

Vin Speed là của ông Phạm Nhật Vượng- một người dám nghĩ và dám làm. Và làm là có thể lỗ. Và vì vậy khó có kết quả tài chánh hay thương mại, nhưng vẫn phải đứng ra đấu thầu.

Trễ một năm, tiền vốn dự chi có thể tăng không trù liệu trước được. Giả dụ  đầu tư 65 tỉ đô la, cho rằng tiền lời hàng năm là 5% vẫn lợi thế hơn làm đường cao tốc.

Việt Nam phải lựa chọn các nhà đầu tư như Nhật, Pháp và cả Trung Quốc. Nhờ đó có sự kiểm soát lẫn nhau, tránh việc cài đặt các thiết bị do thám có hại cho an ninh quốc gia.

Đồng thời về mặt quyền lợi pháp lý, phải có sự bảo đảm quyền lợi bảo trì vốn là điều kiện tối ưu.

Và trong một thời gian nhất định, phải bàn giao việc chuyển giao công nghệ toàn bộ cho Việt Nam.

Nước Mỹ ưu tiên phát triển kỹ nghệ xe hơi. Trong khi nước Pháp ưu tiên phát triển kỹ nghệ xe điện cao tốc. Vì thế với kinh nghiệm nhiều năm, chúng ta nên mời Pháp tham gia chương trình kỹ nghệ đường sắt cao tốc cũng như mời cả Nhật bản.

Về mặt thương mại, mỗi một nhà ga là một điểm hội tụ tất cả những lợi ích thương mại như giao thông, vận tải, nhà băng, khu vực buôn bán làm ăn, các khu chung cư, các khu thương mại,  khu du lịch, các nhà hàng ăn như một thành phố đô thị mới phát triển và bền vững.

Lợi ích kinh tế không phải là nhỏ.

Trong trường hợp khi có nhu cầu quân sự, việc chuyển quân, các nhu cầu quân sự như súng ống, đạn dược, xe cộ chỉ mất vài tiếng đồng hồ, tránh tình trạng bị động, không thích ứng kịp..

Trước những lợi ích về nhiều mặt như thế, việc khai thác đường xe lửa cao tốc Bác- Nam là điều chẳng đặng đừng, không làm không được.

Và càng trì trệ, vốn sẽ đội lên không theo kịp..


 

Chấp Nhận Cuộc Đời – Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Làm sao vui vẻ chấp nhận cuộc đời nếu gặp: 

1-Sự bất như ý: 

Nhìn lại quãng đời đã qua của chúng ta, chắc chắn mỗi người trong chúng ta, đa số đều gặp những hoàn cảnh bất như ý:

* Làm nghề nghiệp mà mình không thích, không phải sở trường. Tốt nghiệp ngành này lại đi làm ngành nghề khác. Riêng tôi tốt nghiệp đại học luật khoa, không làm luật sư mà làm nghề dạy học. Rồi sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, lại đi tù cộng sản. Năm 1983 ở tù về, không được dạy học, phải làm nhiều nghề để sống: dạy kèm tư gia, giặt bao nylon, bán bia và nước ngọt. Qua Mỹ, làm chỗ sang băng nhạc, tiệm grocery, bán bảo hiểm.

* Nhiều người thất nghiệp, mất nhà, mất xe, không có tiền bạc, sống cơ cực, khổ sở.

* Nhiều người gặp gia đình đỗ vỡ, chia ly tan tác ngoài ý muốn, con cái thất học, nheo nhóc.

*Nhiều khi con cái không làm theo ý mình hoặc hư hỏng, không chịu học hành theo băng đảng, hút sách.

Nếu gặp sự bất như ý mà chúng ta không thể giải quyết được vì nó vượt ngoài tầm tay, sự hiểu biết, khả năng của chúng ta thì ta phải làm sao?

Chỉ có cách duy nhất là chịu đựng, không than van, và liên tục cầu nguyện. Cho nên nhà thờ, đoàn thể, các nhóm cầu nguyện rất cần thiết để chúng ta chia sẻ những khó khăn, những lo âu, chán nản mà chúng ta thường gặp trong cuộc sống. Chẳng những cầu nguyện mà còn cần phải ca ngợi Chúa về những hoàn cảnh bất như ý mà ta đã gặp phải. (1)

Đời sống tâm linh rất quan trọng. Chúng ta thường xuyên đến nhà thờ, cầu nguyện với Thiên Chúa toàn năng, chắc chắn khi Chúa đóng cửa này sẽ mở cửa khác cho chúng ta. “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gỏ thì cửa sẽ mở cho.” (Mt 7, 7-12) 

2- Bịnh hoạn, Tật nguyền 

Nhà Phật có nói: Sinh Lão Bịnh Tử. Ai trong chúng ta cũng phải đi qua con đường này. Không thoát được. 

Bịnh tật là tất yếu phải xảy ra. Khi lớn tuổi, sức khoẻ suy yếu, sinh ra bịnh tật… tiểu đường, cao máu, cao mở, đau nhức… chưa kể có người bị các chứng bịnh nan y như ung thư, đau thận, đau gan, đau phổi, đau tim, mổ tim… Không phải chỉ có những người già cả mới bịnh hoạn, có khi còn trẻ cũng đã vướng nhiều bịnh nan y rồi. Vậy làm sao được bình an khi gặp trường hợp không may xảy ra như bịnh hoạn?

 Rất khó chấp nhận hoàn cảnh đau khổ, bịnh tật. Để được an ủi, để có thể chịu đựng những đau đớn về thể xác và về tinh thần, có thể học hỏi niềm tin, niềm cậy trông của thánh Gióp, niềm tin vào Chúa để chịu đựng khổ sở, khó khăn, chịu nhục hình như các thánh tử đạo Việt Nam. Học tập gương Thánh Giu se, gương Đức Mẹ, nhất là gương Chúa Giê su chịu đựng khổ hình, đau đớn nơi thập giá. Nhờ đó chúng ta có thể chịu đựng được những đau khổ, khó khăn của chính mình. (1) 

3- Đau khổ, cô đơn. 

Sự cô đơn, sống một mình, chịu đựng hoàn cảnh trống vắng, đơn độc.

Đến lúc nào đó, một trong hai vợ chồng phải ra đi sớm. Người còn lại phải chịu đựng sự cô đơn, mất mát vô cùng lớn lao không có gì bù đấp được. Vì gặp cảnh cô đơn chúng ta mới đến với Chúa, chúng ta cần Chúa nhiều hơn nữa. Xem cô đơn là một điều kỳ diệu! 

Làm sao khám phá niềm vui trong đau khổ? 

Trong đau khổ làm sao có niềm vui? Tìm thấy “thú đau thương” chăng?

Thánh Phaolô biểu lộ ước muốn của mình là biết “thông phần những đau khổ của Đức Kitô, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người.”

Thánh nhân đã nghe Chúa phán với mình: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.”

“Thầy ở trong Cha, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em.”

Hàng ngày luôn luôn thức tỉnh, học tập, cố gắng thực hành yêu thương và tha thứ. “Yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ đã ngược đãi anh em.” (Mt 5, 44) Nói thì dễ, nhưng làm rất khó. Với sức con người bình thường chúng ta không làm được, nhưng với ơn Chúa chúng ta có thể làm được.

 4- Sự chết: 

Dầu là dân thường hay vua chúa, quan quyền, đến lúc nào đó cũng phải ra đi. Sự chết là tất yếu của đời sống của con người. Ai ai cũng trúng số “độc đắc” một lần, đó là sự chết. Nhưng vẫn có rất nhiều người, nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ chết? 

Để cảm nghiệm về cái chết, ta nên thường xuyên đi đọc kinh nhà quàn, tham dự các thánh lễ an táng, tiễn đưa những người bạn bè, người thân quen, đã ra đi, để cảm nghiệm: “rồi chính mình cũng sẽ chết” cũng sẽ nằm im lặng, bất động trong quan tài giống như thế. 

Khi nhắm mắt rồi, cát bụi lại trở về với cát bụi hư vô: 

*Khi đôi mắt nhắm nghiền và đôi tay lạnh ngắt

Quả tim không chuyển nổi máu tươi hồng

Thì danh vọng phải trả về cho sắc sắc

Thì bạc tiền đành hoãn lại chốn không không…

Những ân ái, hận thù và mưu chước

Những thăng trầm vinh nhục cũng luôn trôi. (2) 

*Đời sống con nguời mong manh, mỏng dòn:

“Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục,

Mạnh giỏi chăng là được tám mươi,

Mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,

cuộc đời thấm thoát chúng con đã khuất rồi.” (Thánh Vịnh 90,10)

 *“Con đừng sợ án chết.

Hãy nhớ rằng: có những kẻ đã đi trước con,

Và sẽ có những người theo sau.

Đó là điều Đức Chúa quyết định cho hết mọi người phàm

Tại sao cưỡng lại điều Đấng Tối Cao đã muốn?” (Sách huấn ca 41, 3-4)

Đối với người kitô hữu:

 Người chết là người đã vĩnh viễn hoàn tất đời mình. Là người Kitô hữu, chúng ta phải biết đón nhận sự hoàn tất đó với một tâm hồn bình an cao cả, vì mc khải Kitô giáo đã cho biết rằng cái chết như cánh cổng to lớn mở vào thánh điện an vui vĩnh hằng. Như thánh Phaolô đã xác định: vào ngày cuối cùng, cái hư hoại trong ta sẽ trở nên bất hoại, cái khả tử sẽ nên bất tử (x. 1Cor 15, 53)” (LM Thái Nguyên, bài “Suy gẫm về sự chết”, nguồn simonhoadalat.com). 

Đức Giê-su khi biết mình sẽ phải chết, đã nhắc đến cuộc ra đi vượt qua của Ngài để các môn đệ yên tâm và không hoảng sợ trước sự chết.Lòng anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em” (Ga 14, 1-2). 

Trong thư Rô-ma, thánh Phao-lô đã khẳng định: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài” (Rm 6, 8).”

Với niềm tin tưởng vào Đức Kitô, niềm an ủi lớn lao là chết không phải là yên nghỉ mà là tiếp tục sống. Vì cái chết chính là ngưỡng cửa đi vào đời sống vĩnh cửu. Với người Ki-tô hữu, “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Thánh Phanxicô Assisi).

 Quả thật, với một cái nhìn đầy lạc quan và hy vọng, một niềm tin về đời sống vĩnh cửu, có sự sống lại đời sau nên trong giờ phút lâm chung thi sĩ Tagore đã thốt lên: “Bởi yêu cuộc đời nên tôi cũng yêu cả sự chết”. (3)

Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận cũng nói: “Sự chết cũng là một bổn phận cuối cùng mà con làm cách sẵn sàng và đầy yêu mến”. (Sách Đường Hy Vọng và Dẫn Giải) 

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tháng 08 năm 2021 

(1) Sách Quyền Năng của Tâm Hồn biết ca ngợi LM Nguyễn Đức Mầu

(2) Trong bài Cảm Nghĩ tuổi già:

xem thêm: Đời Người Luôn Có: 2 Thứ Không Thể Sợ

(3) Trong bài “Kitô Hữu và Sự Chết” của Aug Trần Cao Khải


 

“Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mt 5, 44)

Lời Kinh Đêm

 Lạy Chúa của con!

Trong cuộc sống không tránh khỏi việc có những người hợp với mình, yêu thương mình, nhưng cũng có những người ganh ghét mình, hoặc không đủ quý mến để có thể cảm thông cho mình. Và ngược lại, có những người con rất dễ làm việc chung, có thể ở cạnh 24/24 mà vẫn vui vẻ, vì có thể hiểu và chia sẻ với nhau. Nhưng cũng có nhiều người, thật khó để hòa hợp, thật khó để vị tha, thật khó để yêu thương họ!

Mặc dù hôm nay con chọn câu lời Chúa này, nhưng con lại cầu nguyện cho chính con. Yêu người yêu mình thì rất dễ rồi, nhưng yêu người ghét mình, và cầu nguyện cho những người ngược đãi mình quả là rất khó khăn với con.

Xin Chúa là Cha yêu thương ban sức cho con, để con có thể học từ Chúa cách yêu thương người khác như tình yêu vô điều kiện của Người đối với con người chúng con. Xin Chúa ban ơn cho con, để con có thể yêu thương bao dung người con không thích, mỗi ngày dù chỉ là mỗi chút.

Amen.

*T.A

#lờikinhđêm #loikinhdem #lkd – loikinhdem.org 


 

YÊU KẺ THÙ… KHÓ QUÁ KHÔNG? – Pio Ngô Phúc Hậu

Linh Mục Mi Trầm

Pio Ngô Phúc Hậu

Câu chuyện về Lm Piô Ngô Phúc Hậu

Một linh mục cao niên vùng truyền giáo, được mời đi xức dầu bệnh nhân. Khi về, ngài lẳng lặng đi vào phòng riêng, đóng cửa và gục đầu xuống trên bàn viết. Buồn quá! Buồn tê tái! Buồn đến chết được! Cả đời mới có một lần buồn như thế!…

Nhiều năm sau cha già mới kể lại chuyện buồn hôm ấy…

– Nguyễn – Trần là hai dòng họ nổi tiếng của giáo xứ P.H., đông nhân danh nhất, giàu nhất, có nhiều người làm công chức nhất, công chức bên đạo cũng như bên đời, có nhiều người đi tu nhất, dâng cúng tiền bạc nhiều nhất cho nhà thờ và các cơ sở tôn giáo.

– Hai dòng họ ganh đua nhau từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn. Họ Trần dâng cúng cho nhà thờ một trăm triệu đồng, thì họ Nguyễn sẽ dâng cúng một trăm mốt. Họ Nguyễn có mười người học đại học, thì họ Trần phải cố gắng có mười một. Bên họ Trần có mười người đi tu thì bên họ Nguyễn sẽ có mười một người…

– Một lần kia có cuộc tranh chấp về đất đai. Không bên nào chịu thua. Ban đầu thì cãi nhau to tiếng. Sau đó là chửi nhau thô tục. Cuối cùng là đánh nhau dữ dội. Cả hai bên đều có người u đầu, phù mỏ. Ông trưởng tộc họ Nguyễn bị trọng thương năm thở thoi thóp, rên hư hư…

Cha xứ được mời đi xức dầu bệnh nhân. Cha xứ và nạn nhân nhìn nhau bằng ánh mắt thương cảm. Trước khi xá giải và xức dầu, cha xứ mở lời :

– Xin ông giục lòng ăn năn tội, xin Chúa tha thứ mọi tội, nhất là tội đánh nhau. Vậy ông có sẵn sang tha thứ cho người đánh ông không?

– Thưa cha không. Đây là mối thù truyền kiếp con không thể tha được.

Cha xứ moi trong túi kẻ liệt ra một cây Thánh giá giơ cao lên và rỉ rả khuyên lơn.

– Ông xem Chúa bị đóng đinh đau đớn vô cùng, oan khiên vô cùng. Vậy mà Chúa vẫn cứ một niềm: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.

– Chúa khác, con khác. Chúa tha thứ kệ Chúa. Còn con thì chết cũng không tha.

Khuyên nhủ không được, nói ngọt không được, cha xứ đổi giọng, giọng cứng cỏi, giọng chua chát:

– Nếu ông không tha thứ cho người ta thì Chúa cũng không tha thứ cho ông đâu. Ông phải xuống Hỏa Ngục đấy.

– Xuống thì xuống. Còn tha thứ thì không bao giờ.

Hù dọa không xong, cha xứ chuyển sang chiến thuật năn nỉ:

– Xin ông nhìn xem Chúa bị đóng đinh và xin Chúa ban cho ông ơn quảng đại, bao dung, tha thứ…

– Thôi, thôi, đã nói là thôi…!

Ông trưởng tộc họ Nguyễn không thèm nhìn ảnh Chúa thọ nạn. Ông quay mặt nhìn vào bức tường. Cha xứ thất vọng ôm mặt khóc thầm. Bỗng có tiếng gào lên: “Bố đi mất rồi…”.

Cha xứ lủi thủi ra về. Không Bí tích Hòa Giải, không Bí tích Xức Dầu, không trao Mình Chúa. Sau lưng cha xứ chỉ còn tiếng khóc hậm hực, tiếng khóc oán thù. Chập trùng. Chập trùng.

Một kỷ niệm buồn, buồn tê tái, buồn chưa từng có trong đời mục vụ của một linh mục.

Nghe cha già kể chuyện, mình thấy xót xa trong tim, mình thấy tê tái trên làn da. Buồn quá!

Buồn vô cùng! Buồn lâu lắm rồi mới hồi tỉnh để đặt vấn đề.

– Tại sao một Kitô hữu, một người đạo dòng, một người đang đứng bên bờ vực thẳm của sự chết, mà lại chống đối luật bác ái của Chúa một cách quyết liệt và cực đoan đến như thế?

– Phải chăng “yêu kẻ thù và chúc lành cho kẻ thù” là điều không thể thực hiện được đối với thân phận con người?

– Phải chăng luật bác ái Kitô giáo thay vì nâng con người lên hàng thần thánh, thì lại ném nó xuống làm thân phận con thú?

Hình ảnh ông trưởng tộc họ Nguyễn tắt thở ngay sau khi từ chối nhìn Đức Giêsu thứ tha làm lương tâm mình bứt rứt khôn nguôi. Mình liên tưởng đến những kỷ niệm chồng chất trên đường truyền giáo.

۩ Mình mở một lớp Giáo lý dự tòng. Học viên ngồi đầy phòng lớp. Mình thấy phấn khởi quá chừng. Hôm ấy mình nói về bác ái Kitô giáo. Mình nhắc lại nguyên văn giáo huấn của Đức Giêsu: “Nếu không cầu nguyện và chúc lành cho kẻ thù, thì không xứng đáng làm con của Đấng đã cho mặt trời mọc lên soi sáng cho cả người lành lẫn người dữ…”. Mình đang cao hứng khai triển bài Tin Mừng, thì bỗng cụt hứng.

Một người đàn bà đứng lên dõng dạc phát biểu: “Đạo này khó quá à, tôi theo không được đâu. Tôi có một đứa con dâu, nó hỗn lắm, tôi không thể tha thứ được. Tôi đã ghi băng đàng hoàng dặn con cháu tôi không được coi nó như con cái trong gia đình”. Vừa dứt lời, bà ngoe ngoảy ra về và… không bao giờ trở lại lớp học nữa. Buồn ơi là buồn!

۩ Hôm ấy mình đang rảo bước trên đường phố, thì bỗng phải dừng lại để chứng kiến một chuyện buồn. Một thằng cu tí bên hàng xóm chạy về. Khóc hu hu. Khóc hậm hực. Mẹ nó đằng đằng sát khí.

– Tại sao mày khóc?

– Thằng Tèo nó đánh con.

– Nó đánh mày thì mày đánh nó. Tại sao mày ngu mà khóc?

Người đàn bà đằng đằng sát khí ấy là một Kitô hữu trong họ đạo của mình. Bà dạy con mình trả thù, ngược lại với giáo huấn của Đức Giêsu. Buồn ơi là buồn!

Chuyện buồn này gọi nhớ về một chuyện xa xưa.

۩ Thằng cu tí đang chập chững tập đi. Nó vấp phải cái ghế, lăn đùng ra, khóc òa lên. Mẹ nó lấy roi mây quất lên cái ghế vô tri, vừa quất vừa dạy đời: “cái ghế này làm cho con tao ngã. Tao đánh mày. Tao đánh mày. Chừa nhá”. Được mẹ trả thù giùm, thằng cu tí thôi khóc, sung sướng quá chừng. Người mẹ cũng sung sướng, vừa sung sướng vừa hãnh diện về tài dỗ trẻ em của mình. Bà không ngờ rằng chính bà đang đào tạo đứa con để nó không thể tha thứ như Chúa muốn. Từ bà mẹ này mình nhớ đến một bà mẹ khác.

۩ Bà đang bồng con, thì ông nội đến chơi. Ông nội đón cháu từ tay bà mẹ. Ông cưng cháu, nựng cháu. Nựng theo kiểu đấng nam nhi đội đá vá trời xanh. Ông hôn cháu như bão táp. Ông chà cái cằm râu lởm chởm của mình lên mặt mũi nõn nà của thằng cháu mới lên hai tuổi. Thằng cháu khóc òa lên. Ông nội cười khằng khặc. Bà mẹ lấy tay đánh nhẹ lên vai ông nội, vừa đánh vừa la : “Mẹ đánh ông nội này!… Nín đi con”. Thằng bé được mẹ trả thù giùm, nín ngay. Bà mẹ cười hả hê.

Bà mẹ ấy ơi, bà đã vô tình gieo hạt giống hận thù vào tâm não của em bé. Hạt giống ấy nảy nở và lớn lên bao trùm hết cuộc đời của nó. Thế là nó không thể tha thứ theo yêu cầu của Đức Giêsu. Đáng tiếc vô cùng!

Sau khi ôn lại những kỷ niệm buồn rải rắc đó đây, mình ngẫm nghĩ và ngộ ra rằng “yêu kẻ thù, cầu nguyện cho kẻ thù, chúc lành cho kẻ thù, để xứng đáng làm con của Cha trên trời” là một giáo lý cao siêu nhưng không vượt tầm với của con người. Loài người có thực hiện được giáo huấn ấy hay không là do những nguyên nhân rất cụ thể.

– Nếu bà mẹ nào cũng lấy roi trừng phạt cái ghế vì nó làm cho con của bà vấp ngã ; nếu bà mẹ nào cũng giả vờ đánh ông nội, để cho con mình nín khóc…, luật “yêu kẻ thù” sẽ mãi mãi ở ngoài tầm với của loài người.

– Nếu có những bà mẹ khuyến khích, năn nỉ con cái tha thứ và cầu nguyện cho những người ghét mình, nói xấu mình… thì giáo huấn “yêu kẻ thù” bắt đầu thăng hoa. Nếu tối nào cha mẹ cũng dạy con xin lỗi nhau trước khi đi ngủ, thì giáo huấn “yêu kẻ thù” đang là hiện thực.

– Thánh Phaolô yêu cầu tín hữu: “Giận ai thì giận nhưng khi mặt trời lặn xuống thì hãy quên hết đi”. Đó là tập luyện tha thứ, y như võ sĩ: tập luyện cơ bắp. Thời gian yêu kẻ thù như một tập quán sẽ chẳng còn xa bao nhiêu nữa.

– Trong thực tế, đã có biết bao nhiêu người sẵn sàng yêu kẻ thù, thứ tha cho người làm khổ mình một cách bất công. Cụ thể là Thánh Stêphanô. Kẻ thù ném đá vào ngài như mưa. Vậy mà ngài vẫn một niềm tha thứ, yêu thương như Đức Giêsu trên khổ giá: “Lạy Chúa, xin Chúa tha cho họ”. Tuyệt vời! Trên tuyệt vời!

“Yêu kẻ thù” là đỉnh điểm chót vót của bác ái Kitô giáo. Khó lắm, nhưng không khó quá. Để vươn tới đỉnh điểm ấy, thì giáo dục và luyện tập là phương tiện cần thiết. Nhưng có bao nhiêu người đang tập luyện yêu thương và tha thứ ?

Pio Ngô Phúc Hậu


 

CẢNH NGƯỜI DÂN BỊ NGẬP LỤT TẠI HÀM THẮNG, LÂM ĐỒNG (BÌNH THUẬN cũ)

Truyền Thông Thái Hà 

Sáng 5/12/2025, hàng trăm nhà dân tại phường Hàm Thắng (Lâm Đồng) đã chìm trong biển nước do sự kết hợp của mưa lớn, triều cường và việc hồ thủy lợi Sông Quao xả lũ. Khu vực này đã bị ngập nặng trong hai ngày liên tiếp.

Mặc dù trời đã hửng nắng, nước lũ vẫn rút rất chậm, khiến nhiều nhà ven sông Cái và nhà ở phường Hàm Thắng vẫn bị ngập gần lút mái và cửa nhà bị xô đổ. Do có kinh nghiệm từ trận lũ trước, người dân đã di dời từ sớm, nhưng nhiều người vẫn ở lại khu trọ để bảo vệ tài sản. Người dân phải dùng xuồng máy để di chuyển và nhiều gia đình ở khu dân cư Bến Lội phải nhận cơm trưa từ thiện do không thể nấu ăn.

Thiệt hại trên toàn tỉnh Lâm Đồng rất nghiêm trọng, ghi nhận một người tử vong. Toàn tỉnh có gần 3.300 nhà bị ngập; hơn 3.300 ha nông nghiệp và hơn 4.000 gia súc, gia cầm bị mất. Lũ lụt cũng gây ra hơn 16 điểm sạt lở và hư hỏng 4 cầu cống. Giao thông bị chia cắt nặng nề khi hơn 300 m Quốc lộ 1 qua cầu Bến Lội ngập gần một mét, và nhiều tuyến đèo quan trọng như Mimosa, Prenn, D’ran, Gia Bắc đều bị ngập lụt.

https://vnexpress.net/khu-dan-cu-o-lam-dong-chim-trong…

https://vnexpress.net/nguoi-dan-phan-thiet-chua-bao-gio…

Sáng 5/12, mặc dù trời nắng song nước rút chậm, hàng trăm căn nhà của phường Hàm Thắng vẫn chìm trong biển nước. Ảnh: Phước Tuấn

 Xấu hổ và vô cùng xấu hổ

Việt Nam Thời Báo

 

Cầu Long Biên khánh thành năm 1902 sau khi khởi công xây dựng 1898, mất 4 năm. Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn khởi công 1877 và khánh thành năm 1880, mất 3 năm. Tuổi đời của Cầu Long Biên là 120 năm. Tuổi đời của Nhà Thờ Đức bà là 142 năm.

Hai công trình điển hình này do Thực dân Pháp “cướp nước” ta để lại như là dấu tích của một thời thực dân. Giờ đã đến lúc phải sửa chữa cho những thứ tồn tại hàng thế kỷ như vậy.

Nhưng… Cầu Long Biên muốn sửa chữa nhưng trình độ Công nghệ của ta, tạm gọi vậy cho có vẻ khoa học, rất kém. Nên đang muốn nhờ chính phủ Pháp cho tiền để sửa chữa và… cử người Pháp sang làm cho gọn.

Nhà thờ Đức Bà cũng chẳng khác gì. Sửa chữa từ 2017 khi Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn là người Quản trị Công trình này cam kết với Ủy Ban Nhân dân TP.HCM là họ sẽ hoàn thành năm 2019 vì đã có tiền để làm. Đến cuối 2018 thì họ xin thêm đến 2023 vì “nó phức tạp quá”.

Đang mừng khấp khởi là đến 2023 sẽ gỡ hàng rào bao quanh. Không!

Chiều ngày 04/08/2022 giới chức có thẩm quyền công bố là họ mới xin đến 2027, tức là 5 năm nữa mới hoàn thành sửa chữa và vẫn còn thòng thêm câu là “trong tình hình diễn biến thuận lợi, nếu có những phát sinh mới sẽ được bổ sung để xin gia hạn tiếp giấy phép sửa chữa”. Tức là chưa chắc 2027 là thời hạn cuối cùng mà sẽ là dài dài. Việc còn đến 5 năm nữa mà vẫn không hoạch định được việc mình làm cho thấy gì.

Điều đáng nói là tất cả các chuyên gia phục hồi sửa chữa này đều là từ Pháp và Ý sang từ 2017, tức là người Việt vẫn không thể làm được cái việc mà người Pháp 142 năm trước đã làm.

Từ cầu Long Biên đến Nhà Thờ Đức Bà đều chung một kết quả thấy được: người nước ta không biết và không làm chủ được những thứ tri thức và kỹ năng đã có từ hàng thế kỷ trước.

Vậy chúng ta bước vào kỷ nguyên 4.0 bằng cái gì? Bằng việc không học Số học và nhảy luôn vào Đại số hay sao. Bằng việc không học Tiểu học mà thi thẳng lên Tiến sĩ hay sao.

Đất nước có 26.000 tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ, tức là 10 Sư đoàn thạc sĩ mà đến lúc sửa cầu Thăng Long do Liên Xô làm từ 1985 vẫn không làm nổi.

Công nghệ của Pháp hơn 140 năm trước vẫn không hiểu gì chưa nói tới chuyện để làm. Vậy đất nước ta, dân tộc ta đứng ở đâu trong kho tàng tri thức của Nhân loại.

Rất xấu hổ!

Vô cùng xấu hổ!

Và bất lực!

Hung Phan


 

Đời là bể khổ, thái độ của chúng ta trước đau khổ – Phùng Văn Phụng

Phùng Văn Phụng

1)Có ai trong chúng ta nói rằng suốt đời không có đau khổ? 

Nhà Phật nói đến Khổ đế (là một trong tứ diệu đế): Sự thật về đau khổ có ba thứ làm chúng ta đau khổ là:Tuổi già, bịnh tật và cái chết. Ngay cả khi không già, không bịnh tật và chưa chết, con người vẫn đau khổ vì khi ta có những ham muốn và thèm khát nhưng ta không đạt được ước nguyện đó. Ngay cả khi thoả mãn những nhu cầu đó rồi sau đó ta vẫn chán nản, không hài lòng nên dẫn đến đau khổ (1) 

Dầu nghèo nàn hay giàu có, dầu sang trọng hay hèn kém đều đã trải nghiệm đau khổ. 

Nếu nghèo không có tiền đi bác sĩ mua thuốc trị bịnh. Khổ vì không có tiền để trả tiền điện, nước, tiền chợ, tiền sinh hoạt tối thiểu cho các nhu cầu căn bản để sống còn, để tồn tại. Khổ vì nợ nần chồng chất không biết bao giờ trả được. 

Người có tiền cũng khổ; hoặc bị mất tiền vì bị lường gạt, bị đánh cắp, hoặc con cái hư hỏng không chịu học hành theo băng nhóm hút sì ke, ma túy, phá làng, phá xóm v.v…

Có người đau khổ vì bị người yêu bất ngờ chia tay.  

Khổ thể xác vì không đủ cơm ăn, áo mặc, cực nhọc cả ngày, đổ mồ hôi để kiếm miếng ăn. 

Khổ vì chẳng may gặp gặp bịnh nan y như ung thư, stroke, heart attack rồi bị tê liệt nằm một chỗ không chữa trị được.   

Hoặc con người bị bịnh đui mù, què quặt do bẩm sinh hay do biến chứng từ các bịnh khác.

 Khổ tinh thần vì mất người thân yêu do tai nạn xe cộ hay tai nạn dưới nước như tắm biển, câu cá bị nước cuốn, hay bị lật thuyền. 

Con người còn bị đau khổ vì mất chức, mất quyền, mất tiền bạc v.v… 

Con người còn chịu đau khổ vì bị mất danh dự do bị vu cáo, vì vô tình hay cố ý bị đặt chuyện, dựng chuyện để nói xấu, hạ uy tín, hạ nhục làm cho chúng ta đau khổ. 

 2)Đau khổ không chừa một ai. Còn sống là còn đau khổ. 

*Cảm nghiệm đau khổ, cay đắng, đau đớn khi tôi mất đi đứa con trai đang sống chung trong nhà chỉ mới 48 tuổi. Cháu đóng góp mọi thứ sinh hoạt trong gia đình. Ra đi vì tai nạn khi hai con còn nhỏ 16 và 11 tuổi. Con trai tôi chịu sống chung mặc dầu đủ điều kiện ra ở riêng. Ở chung nhà để đóng góp mọi chi phí sinh hoạt trong nhà như điện nước, thuế má…

Khi vắng bóng con trai, bầu khí trong nhà vô cùng trống vắng, vẫn còn cảm giác con tôi đi đâu đó, sẽ trở về?

*Sau tháng 04 năm 1975, đang có đời sống tự do thoải mái với vợ và các con. Bị cộng sản lường gạt, kêu gọi “trình diện học tập cải tạo”, đi trình diện, bị tù gần 8 năm trong các trại tù trong rừng núi âm u, sơn lam, chướng khí ở miền Bắc như Lào Cai, Vĩnh Phú… bị bỏ đói triền miên. Ăn bo bo không xay, ăn khoai mì (ngoài bắc gọi là sắn) cứng ngắt, ăn bắp, ăn khoai trừ cơm. Mỗi bữa cơm được phát vài khúc khoai mì đắng nghét, hoặc vài trái bắp cứng ngắt với tô canh rau muống chỉ lỏng bỏng nước và vài cọng rau. 

Trong tù tất cả anh em đều sụt cân, ốm nhom, ốm nhách như những bộ xương cách trí biết đi. Những năm 1978, 1979 cứ vài ngày anh em tù chúng tôi đã ra đi vì kiệt sức.

Đây là cảm nghiệm đau khổ lâu dài nhất. 

 * Cuộc đời của thánh Gióp cũng là bài học suy ngẫm về cuộc đời mà nhiều người hay than thở “đời là bể khổ”. 

Ông Gíóp là người kính sợ Thiên Chúa. Bảy người con trai và ba người con gái đều chết hết và tài sản của ông cũng bị cướp hết, nhà cửa không còn. 

Bấy giờ ông Gióp trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói: 

“Thân trần truồng sinh ra từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. ĐỨC CHÚA đã ban cho, ĐỨC CHÚA lại lấy đi: Xin chúc tụng danh ĐỨC CHÚA (Gióp 1-20,21) 

3)Tại sao Thiên Chúa là Đấng tốt lành và nhân từ vô cùng lại để chúng ta phải chịu đau khổ? 

Lm Paul O’Sullivan đã viết như sau: 

*Nguyên nhân rất đơn giản chỉ vì đau khổ là một hồng ân trọng đại (trang 113) (1)

Khó khăn lớn nhất về đau khổ là chúng ta không biết cách chịu đau khổ.

(trang 115) (2)

Những đau khổ hằng ngày của chúng ta, đau khổ nhỏ nhất cũng như đau khổ lớn nhất, nếu như chịu được cho nên, sẽ đem lại cho chúng ta triều thiên tử đạo.

-Nếu chúng ta không chịu đau khổ cho nên thì chúng ta sẽ bị mất hết các ân sủng và phần thưởng vô giá mà đau khổ lẽ ra đã đem đến cho chúng ta. 

Chúng ta hãy ghi nhớ những điều này về vấn đề đau khổ: 

*Mỗi khi gặp đau khổ, chúng ta được thông phần vào cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu Kitô, vì thế đau khổ đem lại một công phúc khôn lường.

*Nếu chúng ta biết chấp nhận một cách nhẫn nại vì lòng mến Chúa, đau khổ sẽ mất hết nọc độc và sự cay đắng của nó.

*Nếu chúng ta cầu xin, nhất định Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta dư đủ sức mạnh để chấp nhận đau khổ Người gởi đến cho chúng ta.

*Những đau khổ sẽ cứu chúng ta khỏi những cực hình ghê rợn trong luyện ngục.

*Đau khổ, nếu chịu cho nên, sẽ làm cho chúng ta trở nên những vị thánh.(3) 

(1) (2) (3) Trích Sách “Con đường nên thánh dễ dàng” của Lm Paul O’Sullivan, O.P 

 Phùng Văn Phụng 

(1)               Tứ diệu đế là gì?

(2)               https://hoasenphat.com/kien-thuc-phat-giao/y-nghia-bon-chan-ly-cua-tu-dieu-de.html 

Ngày 25-10-2021