CHI TIẾT TỪNG GIỜ TRONG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA CHẾ ĐỘ CS LIÊN XÔ – Trần Trung Đạo

Trần Trung Đạo

Giới thiệu: Mikhail Sergeyevich Gorbachev qua đời ngày 30 tháng 8, 2022, sau một cơn bệnh dài, thọ 91 tuổi. Ông là lãnh đạo thứ 8 và cũng là lãnh đạo cuối cùng của Liên Xô. Ngoài chức vụ Tổng Bí Thư, ông còn kiêm chức vụ Chủ tịch Nhà Nước Liên Xô và Chủ tịch Chủ Tịch Đoàn Xô Viết Tối Cao.  Gorbachev được bầu vào chức vụ Tổng Bí Thư đảng CSLX vào tháng 3, 1985. Dưới thời ông, hai chính sách nổi tiếng Glasnost (Cởi mở) và Perestroika (Cải tổ) được giới thiệu vào năm 1985. Sau sáu năm với nhiều thay đổi và xáo trộn, ngày 25 tháng 12, 1991 Gorbachev “ngưng chức”.

Ngày này được đánh dấu là ngày cuối cùng của Liên Xô mặc dù trên thực tế chế độ CSLX đã chấm dứt trước đó khi 15 nước “Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Xô” trong đó có cả Nga tuyên bố độc lập.

Bài viết khá dài này gồm hai phần:

1) Tóm tắt diễn tiến ngày cuối cùng của  Mikhail Gorbachev trong cương vị lãnh đạo Liên Xô.

2) Nhận định của người viết (1) về sự chuyển động không ngừng của xã hội con người đã thúc đẩy các mâu thuẫn có tính triệt tiêu của chế độ CS bộc phát nhanh, (2) Tham nhũng thối nát, chạy đua vũ trang và, riêng tại LX, trung ương không giữ được các địa phương đã dẫn tới sự sụp đổ không tránh khỏi của chế độc CSLX.

——

“Merry Christmas!” Một viên chức trong đoàn tùy tùng của Tổng Bí Thư Mikhail Gorbachev chào Ted Koppel và nhóm phóng viên của hãng tin ABC đang đứng chờ trước bậc thềm điện Kremlin. Ted Koppel chào lại nhưng anh chàng Rick Kaplan, phụ tá của Ted Koppel, phản đối, “Với tôi anh phải chúc là Happy Hanukkah mới phải.” Rick Kaplan nói thế chỉ vì anh ta gốc Do Thái. Viên chức Liên Xô không hiểu Hanukkah nghĩa là gì và tưởng là Honecker nên hỏi ngược, “Tại sao tôi phải chào Happy Honecker chứ nhỉ?”

Thật ra, thắc mắc của viên chức Liên Xô không phải là không có lý do. Ngày 25 tháng 12, 1991 không chỉ là ngày cuối cùng của hệ thống CS Liên Xô mà có thể cũng là ngày cuối của Erich Honecker nữa. Tên lãnh tụ CS Đông Đức này bị truy tố tại Đức và được Gorbachev cho phép tỵ nạn chính trị tại Liên Xô. Erich Honecker sợ bị Boris Yeltsin tống cổ về Đức nên hôm qua đã chạy sang tòa đại sứ Chile ở Moscow xin tỵ nạn. Báo chí loan tin sáng hôm đó Erich Honecker vừa xin tỵ nạn chính trị lần nữa nên viên chức trong đoàn tùy tùng Gorbachev liên tưởng đến y khi nghe “Happy Hanukkah.”

Ngày 25 tháng 12 là ngày nhiều tỷ tín đồ Thiên Chúa Giáo trên thế giới kỷ niệm ngày Chúa Jesus giáng trần nhưng tại Moscow, ngày 25 tháng 12, 1991 là ngày chính thức cáo chung của chế độ Cộng Sản. Thật khó tin nhưng đang diễn ra trước mắt nhân loại. Ngày cuối cùng của chế độ CS Liên Xô được tường thuật theo từng giờ trong tác phẩm Moscow, December 25, 1991, the last day of Soviet Union của Conor O’Clery mà người viết tham khảo.

Tối ngày 24

Thời tiết Moscow lạnh xuống gần 0 độ F. Những lớp tuyết dày trên dưới chân tường điện Kremlin là dấu vết của cơn bão tuyết ba ngày trước. Nửa đêm 24 tháng 12, một đoàn hành hương đến cầu kinh dưới chân tháp Thánh Nicholas. Từ khi chính sách Glasnost ra đời, việc tiếp xúc tôn giáo có phần cởi mở. Nhiều đoàn hành hương có cơ hội đến thăm viếng các nhà thờ lớn ở Liên Xô. Phần đông người trong đoàn đến từ Hoa Kỳ. Dù Giáng Sinh theo lịch Julian do Giáo Hội Chính Thống Giáo Nga dùng là ngày 7 tháng Giêng, những người hành hương này muốn đón Giáng Sinh theo lịch Mỹ ở Moscow. Những ngọn đèn cầy được thắp lên trong đêm đông tại quốc gia CS hàng đầu thế giới. Những người hành hương không biết một cách chi tiết những gì sắp xảy ra trên đất nước này trong vài giờ nữa.

Sáng sớm ngày 25

Mikhail Sergeyevich Gorbachev, Tổng Bí Thư đảng CS kiêm Chủ tịch Cộng Hòa Liên Bang Xô Viết thức dậy sớm. Ông ta ý thức ngay rằng, tất cả những gì ông sắp sửa làm từ bữa ăn sáng do đầu bếp Shura phục vụ và cả biệt điện nguy nga mà vợ chồng ông ta nghĩ trước đó sẽ ở cho đến chết đều sẽ là lần cuối. Chiếc xe đặc biệt ZIL-41047 chờ ông. Hai viên đại tá có khuôn mặt lạnh như tiền ngồi trên chiếc Volga theo sau xe của Gorbachev. Họ không phải là cận vệ nhưng là người mang chiếc cặp trong đó chứa các thông tin tuyệt mật để phát động chiến tranh nguyên tử. Hai đại tá này biết chiều tối nay họ sẽ chào từ biệt Mikhail Gorbachev để phục vụ lãnh đạo Cộng Hòa Nga Boris Yeltsin.

Mikhail Sergeyevich Gorbachev được thế giới ca ngợi như là người đã thổi vào không khí chính trị Liên Xô làn gió mới và được trao tặng giải Nobel Hòa Bình 1990 nhưng trong nước dân chúng đổ hết công phẫn lên ông ta. Tên Gorbachev đồng nghĩa với suy thoái, thất nghiệp, vật giá leo thang, tem phiếu. Người dân thường dĩ nhiên vội biết và cũng không cần biết, Gorbachev là lãnh đạo CS thứ tám và cũng là người kế thừa một gia sản lạc hậu, ung thối từ trong máu của chế độ.

Nhiều câu chuyện cười ở Moscow về thái độ bất mãn của người dân đối với Gorbachev. Ví dụ, trong một tiệm rượu, một người khách đứng dậy bỏ đi, các bạn anh ta hỏi đi đâu, anh chàng đáp đi giết Gorbachev chứ đi đâu, anh ta mở cửa ra đi thật nhưng trở lại ngay, bạn bè hỏi sao giết Gorbachev mà nhanh thế, anh chàng đáp không giết được vì phải sắp hàng dài quá.

9 giờ sáng ngày 25

Mikhail Gorbachev và đoàn tùy tùng đến dinh chủ tịch ở điện Kremlin hơi trễ hơn thường lệ chút ít. Hãng tin Mỹ ABC gồm Ted Koppel và Rick Kaplan có mặt ngay tại chỗ dừng xe. Họ được Gorbachev cho phép tường thuật biến cố lịch sử này. Theo lời kể lại của Ted Koppel, Gorbachev rất trầm tĩnh. Nhân viên làm việc trong điện Kremlin vẫn tới đủ nhưng không có việc nào làm khác hơn là dọn dẹp. Thời khóa biểu tiếp khách trước đây được tính từng phút, hôm đó trống không. Mặc dù theo thỏa thuận, Gorbachev có đến cuối năm để dời ra khỏi điện nhưng thực tế Yeltsin đã tóm thu hết quyền hành và các phương tiện thông tin. Đơn vị phòng vệ điện Kremlin vẫn túc trực nhưng không đặt dưới quyền chỉ huy của Gorbachev mà trực thuộc thẳng Yeltsin. Chiếc điện thoại màu trắng trên bàn làm việc của Gorbachev còn hoạt động nhưng không ai gọi vào.

10 giờ sáng ngày 25

Trong lúc điện Kremlin chìm trong im lặng, Tòa Nhà Trắng Nga lại sôi nổi với hàng loạt chương trình hoạt động trong ngày mới của nền Cộng Hòa. Tòa nhà quốc hội Nga này là biểu tượng của trận chiến chống chế độ toàn trị khi Yeltsin đứng trên xe tăng thách thức đám lãnh đạo CS cực đoan hồi tháng Tám trước đó. Boris Yeltsin lãnh đạo Nga đến văn phòng làm việc. Ông lên văn phòng đặt trên tầng thứ năm bằng cầu thang riêng phía sau. Trên bàn làm việc hàng loạt sắc lịnh chờ ông ký. Một chế độ hình thành bằng máu, dao búa và súng đạn đang được giải thể bằng sắc lịnh. Một trong những sắc lịnh ông phải ký hôm nay là giải tán cơ quan KGB và thay bằng Federalnaya Sluzhba Bezopasnosti gọi tắt là FSB tức Cơ Quan An Ninh Liên Bang Nga. Không chỉ trong ngành an ninh, mật vụ mà cả sắc lịnh về các hí viện, nhạc viện, các viện hàn lâm, trường đại học, viện bảo tàng v.v… từ nay đều trực thuộc Cộng Hòa Nga.

Các cơ quan ngoại giao quốc tế cũng vậy. Bộ trưởng Ngoại Giao Eduard Shevardnadze nổi tiếng thời Gorbachev bị trục xuất ra khỏi nhiệm sở và thay bằng Bộ trưởng Ngoại Giao Nga Andrey Kozyrev. Tại tất cả nhiệm sở ngoại giao khắp các múi giờ trên toàn thế giới, cờ Liên Xô bị hạ xuống và cờ Cộng Hòa Nga ba màu được kéo lên. Nhiều đại sứ vội vã đánh điện cho Yeltsin tuyên bố trung thành. Tòa đại sứ lớn nhất của Liên Xô là tòa đại sứ tại Washington DC với hơn 300 nhân viên thuộc nhiều sắc tộc. Các nhân viên chia thành nhiều nhóm theo sắc dân và tự tuyên bố họ là đại diện cho cộng hòa của họ tại Hoa Kỳ.

Gần 11 giờ sáng Tổng thống Nga Boris Yeltsin qua phòng họp quốc hội Nga ở lầu 1. Tổng cộng 252 đại biểu quốc hội đang tập trung để chứng kiến ngày lịch sử. Nhân dịp này, Boris Yeltsin thông báo tin vui rằng 11 quốc gia cựu Liên Xô trong phiên họp tại Kazakhstan đã đồng ý thành lập Khối Thịnh Vượng chung.

12 giờ trưa ngày 25

Mikhail Gorbachev ăn trưa xong. Phía sau phòng ăn có một phòng nhỏ bỏ trống. Tổng bí thư CS Liên Xô vào, đóng cửa lại và nằm nghỉ. Các phụ tá của ông hớt hải đi tìm. Gorbachev phải có mặt để ký thư từ biệt gởi các lãnh đạo thế giới mà ông có quan hệ tốt. Một danh sách khá dài từ Tổng thống Hoa Kỳ George H. W. Bush cho đến Thủ tướng Anh John Major và cả các ông hoàng như Vua Juan Carlos và Nữ Hoàng Sofia của Spain.

Bài bình luận trên báo Nga buổi sáng hôm đó chẳng tốt lành gì cho lãnh tụ CS Mikhail Gorbachev. Tờ Rossiyskaya Gazeta tiết lộ các cam kết mật Yeltsin dành cho Gorbachev khi về hưu bao gồm số phụ cấp bằng với mức lương hiện nay của ông ta có điều chỉnh theo mức lạm phát, hai chiếc xe riêng và một đoàn tùy tùng 20 người kể cả tài xế và an ninh. Đây là thỏa thuận kín giữa Gorbachev và Yeltsin nhưng đã bị cánh Yeltsin tiết lộ cho báo chí biết. Các báo còn cho rằng Gorbachev đòi hỏi một đoàn phục vụ lên đến 200 người. Thật ra, theo Chernyaev, phụ tá của Gorbachev, ông ta chưa bao giờ đòi hỏi một số lượng nhân viên phục vụ đông như thế. Phe Yeltsin chỉ bịa ra để làm nhục Gorbachev.

4 giờ chiều ngày 25

Gorbachev và phụ tá Andrei Grachev xem lại diễn văn mà 4 giờ nữa ông sẽ đọc và quyết định thay chữ “từ chức” bằng chữ “ngưng các hoạt động” trong chức vụ chủ tịch Liên Bang Xô Viết. Diễn văn được sửa tới sửa lui nhiều lần chung quanh các điểm xung khắc giữa Yeltsin và Gorbachev.

Cũng trong buổi chiều cuối cùng này, Gorbachev gọi điện thoại chào từ giã tổng thống Hoa Kỳ George H. W. Bush.

Buổi điện đàm được truyền hình ABC thu. Gorbachev mở đầu trước bằng gọi một cách thân mật “George thân mến, chúc mừng Giáng Sinh đến anh và Barbara!” và nói tiếp “George, tôi muốn báo anh biết một tin quan trọng. Trước mặt tôi là diễn văn từ nhiệm. Tôi sẽ rời khỏi chức vụ tổng tư lịnh và chuyển giao quyền sử dụng vũ khí nguyên tử sang tổng thống Liên Bang Nga.”

Buổi điện đàm diễn ra trong không khí rất thân mật và tổng thống Hoa Kỳ mời Gorbachev viếng thăm Hoa Kỳ lần nữa. Cả hai đều tránh nhắc tới tên Yeltsin.

Trời đã về chiều. Gorbachev và hai phụ tá thân cận nhất của ông ngồi quanh nhau bên ly cà phê cuối cùng. Cả ba đồng ý, sau khi đọc diễn văn, Gorbachev sẽ ký quyết định từ nhiệm thay vì ký trước như dự tính.

Trong lúc nhấp cà phê, câu chuyện về số phận Nicolae Ceausescu của Romania được nhắc đến. Mặc dù Gorbachev ví Ceausescu như là Hitler của Romania, cả hai đã duy trì một quan hệ lãnh đạo các quốc gia trong khối CS. Chỉ ba tuần trước khi vợ chồng Nicolae Ceausescu bị xử bắn, Gorbachev đã tiếp y tại điện Kremlin. Trong dịp đó Gorbachev khuyên Ceausescu đừng ngại thực hiện các cải cách dân chủ và tiên đoán “đồng chí sẽ còn sống trong dịp hội nghị các lãnh đạo CS Liên Xô và Đông Âu” tổ chức ngày 9 tháng Giêng, 1991. Ngày đó không bao giờ đến và Nicolae Ceausescu cũng đã chết rồi.

7 giờ tối ngày 25

“Kính thưa toàn thể nhân dân,”giọng Mikhail Gorbachev hơi lạc đi vì xúc động, gò má ông rung lên. Trong chốc lát, ông lấy lại bình tĩnh, “Số phận đã quyết định rằng, khi tôi trở nên lãnh đạo đất nước, hiển nhiên đã có những sai trái trầm trọng trong quốc gia này. Chúng ta có đầy đủ mọi thứ, đất đai, dầu khí, tài nguyên thiên nhiên và Tạo Hóa đã ban cho chúng ta trí tuệ và tài năng – Tuy nhiên, mức sống của chúng ta tệ hại hơn nhiều so với các quốc gia kỹ nghệ khác và khoảng cách mỗi ngày rộng thêm. Lý do rõ ràng vì xã hội bị bóp ngặt trong tay của một hệ thống quan quyền được tạo ra để phục vụ một ý thức hệ, và phải chịu gánh nặng chạy đua vũ trang, căng thẳng tột cùng. Tất cả cố gắng để thực hiện các cải cách nửa vời đều lần lượt dẫn đến thất bại. Đất nước không còn hy vọng gì nữa.”

Gorbachev tiếp tục nói về các cải cách ông thực thi từ 1985, dù sao, đã là những viên gạch cần thiết lót lên con đường dẫn đến chế độ dân chủ và theo ông “xã hội đã đạt được tự do, tự do về chính trị và tự do về tinh thần.”Gorbachev chấm dứt diễn văn lúc 7:12 phút tối. Ông nhìn lên ống kính truyền hình và thêm vào câu nữa “Chúc quý vị mọi điều tốt đẹp.”

Tại sao Liên Xô sụp đổ?

Các lý do làm Liên Xô sụp đổ là nguồn thúc đẩy sự nghiên cứu của nhiều sử gia, nhà nghiên cứu, nhà phân tích và vẫn còn đang được nghiên cứu, phân tích. Tuy nhiên, như nhiều người đồng ý, nguyên nhân sâu xa vẫn là (1) những mâu thuẫn có tính triệt tiêu trong bản chất của chế độ CS độc tài toàn trị, (2) sự chuyển hóa không ngừng của xã hội và (3) các nguyên nhân trực tiếp gồm tình trạng tham nhũng thối nát, chạy đua vũ trang và trung ương không giữ được địa phương.

Mâu thuẫn có tính triệt tiêu của chế độ CS

Nếu chỉ nhìn từ bên ngoài, chế độ CS Liên Xô không thể nào sụp đổ. Sau Thế Chiến thứ Hai, Liên Xô có một đạo quân khổng lồ gồm 500 sư đoàn trong đó có 50 sư đoàn thiết giáp. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh với Mỹ và Tây phương, Liên Xô duy trì một đạo quân từ 3 triệu người đến 5 triệu người. Khoảng thời gian Liên Xô sụp đổ, Liên Xô có 210 sư đoàn với một phần tư là các sư đoàn thiết giáp. Kho vũ khí hạt nhân Liên Xô có 27 ngàn đầu đạn nguyên tử trong đó 11 ngàn đầu đạn có tầm bắn xa đến tận nước Mỹ. Mỗi đầu đạn nguyên tử có thể tàn phá một thành phố của Mỹ.

Bên ngoài hùng mạnh nhưng bên trong, Liên Xô là một cơ chế chính trị chứa đựng các mâu thuẫn nội tại dẫn đến thối rữa. Chủ nghĩa Marx-Lenin đề cao “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” nhưng thật sự từ Cách mạng CS tại Nga, Trung Cộng, Cu Ba, Bắc Hàn, Việt Nam v.v… đều phát xuất từ một nhóm nhỏ cán bộ CS biết vận dụng các lý do lịch sử và bất đồng nhất thời trong xã hội để phát động chiến tranh và sau đó tiếp tục cai trị nhân dân bằng súng đạn, nhà tù, sân bắn. Người dân không có quyền chọn lựa. Mâu thuẫn đối kháng mang tính triệt tiêu nhau giữa chế độ độc tài toàn trị và quyền sống, quyền tự do chọn lựa của con người vì thế đã bắt đầu ngay khi cách mạng CS thành công và sâu sắc dần theo thời gian.

Sự chuyển hóa tri thức xã hội

Như người viết đã có dịp phân tích bài Trung Cộng không đáng sợ, sự chuyển hóa tri thức của xã hội là nguồn lực chính thúc đẩy cách mạng dân chủ tại các quốc gia CS. Nguồn lực đó nhanh hay chậm tùy theo điều kiện mỗi nước nhưng là một tiến trình không thể bị ngăn chặn bởi bất cứ một cơ chế độc tài nào. Những nguồn đối kháng từ bên trong các nước CS đã âm thầm lớn mạnh chỉ chờ cơ hội là bùng vỡ. Sức sống của đất nước cũng như của xã hội là một dòng chảy không bao giờ ngừng nghỉ, các thế lực cầm quyền độc tài chỉ là những khe đá, có thể làm chậm dòng thác văn minh nhưng không thể nào ngăn chặn được.

Khi nhận thức con người được mở rộng, sự sợ hãi sẽ giảm dần. Điều này thể hiện không chỉ ở người dân Liên Xô lúc đó mà cả các cấp lãnh đạo CS Liên Xô cũng không còn sợ các biện pháp chế tài của trung ương đảng. Chưa bao giờ trong lịch sử đảng CS Liên Xô có một ủy viên bộ chính trị từ chức. Không cần phải tìm hiểu cũng biết điều gì sẽ xảy ra cho Boris Yeltsin nếu ông ta từ chức trong thời kỳ Lenin, Stalin.

Yếu tố chính tác động vào sự sụp đổ của Liên Xô, hệ thống CS tại châu Âu và sẽ diễn ra tại Trung Cộng cũng như Việt Nam chính là nội lực phát xuất từ xã hội, kết quả của các phong trào xã hội và sự chuyển hóa không ngừng của xã hội. Các quốc gia CS còn lại như Trung Cộng, Việt Nam tìm mọi cách để ngăn chặn sự phát triển tự nhiên của văn minh con người, cố tình che đậy, bưng bít thông tin nhưng chỉ làm chậm lại tiến trình cách mạng dân chủ một thời gian ngắn mà thôi. Cuộc chiến tranh xói mòn từng mảnh nhỏ này đang diễn ra từng giờ, từng phút và phần thắng đang nghiêng dần về phía người dân.

Tham nhũng thối nát, chạy đua vũ trang và trung ương không giữ được địa phương

Thập niên 1970 Liên Xô có vẻ trong vị trí ổn định và có ảnh hưởng quốc tế nhất. Vị trí của Liên Xô lên cao tại Phi Châu, Trung Đông và Á Châu. Tuy nhiên sau cuộc gặp thượng đỉnh Vladivostok giữa Leonid Brezhnev và Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford tình hình bắt đầu đổi khác. Nền kinh tế Liên Xô suy sụp dần vì hơn 30%, nhiều phân tích cho rằng hơn một nửa, ngân sách quốc gia phải đổ vào cuộc chạy đua vũ trang với Mỹ. Giống như đòn kinh tế Mỹ đang áp dụng hiện nay đối với Vladimir Putin, thập niên 1980, Hoa Kỳ cũng thỏa thuận với Saudi Arabia để giữ giá dầu thấp nhằm đánh vào nền kinh tế sống nhờ xuất cảng dầu khí của Liên Xô.

Gorbachev kế thừa một “sự nghiệp cách mạng” nhưng trong thực tế một gánh nặng của chủ nghĩa độc tài toàn trị kéo dài từ 1917 cho đến tháng 3 năm 1985, thời gian ông được chọn làm tổng bí thư đảng. Cơ chế chính trị trung ương không giữ được các cộng hòa địa phương. Trước Giáng Sinh 1991 vài ngày, 11 nước cộng hòa Xô Viết gồm Ukraine, Liên Bang Nga, Belarus, Armenia, Azerbaijan, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Moldova, Turkmenistan, Tajikistan và Uzbekistan tuyên bố họ không còn là những tiểu quốc trong Liên Bang Xô Viết. Bốn nước Estonia, Lithuania, Latvia, Georgia chọn nghiêng hẳn về phía Tây Phương thay vì theo Nga.

Không có con đường nào khác dành cho các lãnh đạo độc tài CS

Chế độ CS là một chế độ đi ngược dòng phát triển văn minh nhân loại và quyền con người như Mikhail Sergeyevich Gorbachev xác nhận “hệ thống toàn trị đã ngăn chặn một quốc gia để trở nên giàu có và thịnh vượng, hệ thống đó phải bị giải thể.” Điều đó đã xảy ra tại Nga, Đông Âu, Phi Châu và đương nhiên sẽ xảy ra tại Trung Cộng và Việt Nam.

Cách mạng dân chủ là một tiến trình không thể nào đảo ngược. Các lãnh đạo CSVN chỉ có một trong hai chọn lựa, hoặc như Mikhail Gorbachev hoặc như bị lật đổ như Nicolae Ceausescu, Erich Honecker chứ không có chọn lựa thứ ba nào.

Trần Trung Đạo


 

MÔN ĐỆ VÔ DANH – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ông đã thấy và đã tin!”.

“Niềm tin nhỏ đưa linh hồn lên thiên đàng, niềm tin lớn đưa thiên đàng xuống linh hồn!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Thiên đàng không ở đâu xa, nhưng chính là Đấng Phục Sinh đang sống trong linh hồn. Vì thế, sau đại lễ Giáng Sinh, hôm nay, Mẹ Hội Thánh cho chúng ta nghe Tin Mừng Phục Sinh và kính nhớ thánh Gioan Tông Đồ – ‘môn đệ vô danh’ – chứng nhân của niềm tin ấy.

Trong Phúc Âm thứ tư, Gioan thường được gọi là “môn đệ kia”, người không bao giờ được nêu tên nhưng luôn ẩn mình dưới danh hiệu “người Chúa Giêsu yêu”. Sự vô danh này không phải là thiếu sót, nhưng là một chọn lựa khiêm hạ. Thực tế, chính ‘môn đệ vô danh’ ấy đã đáp lại tình yêu của Thầy cách trọn vẹn. Dưới chân thập giá, khi nhóm Mười Hai tứ tán, Gioan ngoan cường đứng đó, thay mặt Hội Thánh, nhận lời trối của Thầy. Từ nơi ấy, Gioan trở nên kiểu mẫu cho người môn đệ Giêsu mọi thời. “Hãy dám yêu! Tình yêu con ‘trao đi và nhận về’ sẽ dẫn con gần Thiên Chúa hơn và gần hơn nữa!” – Henri Nouwen.

Chính tình yêu nồng nàn đã ban cho Gioan một trực giác đức tin sâu sắc. Phêrô và Gioan cùng chạy, cùng thấy những dải vải trong ngôi mộ trống; nhưng chỉ với Gioan, “Ông đã thấy và đã tin!”, “Một số điều phải được tin trước khi được thấy!” – Ralph Hodgson. Gioan nhận ra ‘một Ai đó’ đằng sau những gì có thể thấy. Với đôi mắt của một tình yêu sắt son, Gioan kịp nhận ra Đấng Phục Sinh, mặc cho những hỗn mang và vô vọng của chiều thứ Sáu còn đè nặng trên họ.

Gioan thấy gì? Chính Gioan trả lời, “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống” – bài đọc một. Đằng sau những gì có thể thấy từ máng cỏ, Gioan như phượng hoàng – Khải Huyền cho biết – chấp cánh bay vút lên tận mút cùng thời gian và mút cùng không gian, để chiêm ngưỡng Ngôi Lời hằng sống. Đó là Ngôi Lời đã mặc lấy xác phàm mà đại lễ Giáng Sinh vừa mừng kính, cũng là Đấng Phục Sinh đang sống, đang hoạt động trong Hội Thánh nhờ quyền năng Thánh Thần. “Con đã xin Chúa ban cho con sự hiểu biết. Ngài muốn con nhìn vượt lên trên những điều tự nhiên!” – Pat Holland.

Anh Chị em,

“Ông đã thấy và đã tin!”. Gioan tin, vì đã để những gì mình thấy và nghe đi vào tâm trí và con tim; từ đó, dần khám phá Thầy Giêsu là ai. Và chính niềm tin ấy giữ Gioan bình tâm trong khủng hoảng, trầm lắng trong thử thách. “Đức tin không bao giờ biết mình được dẫn đi đâu, nhưng nó yêu và biết Đấng dẫn dắt mình!” – Oswald Chambers. Đọc lại Tin Mừng Phục Sinh trong những ngày này, Mẹ Hội Thánh hỏi mỗi người chúng ta, “Con thấy gì?”. Thấy “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một”; thấy nhân loại nhẫn tâm đẩy Người Con ấy ra tận đồng vắng; thấy nhân loại ác tâm treo Đấng Cứu Độ lên giá tội nhân! Đổi lại sự vô tâm, Hội Thánh mời chúng ta chiêm ngắm và tin như Gioan; hầu thiên đàng – Giêsu – rồi sẽ xuống tận linh hồn.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, khác với ‘môn đệ vô danh’, con – ‘môn đệ vô duyên!’. Dạy con tin yêu, để giữa hỗn mang, con vẫn ngoan cường, bởi thiên đàng Giêsu đã ngự trong con!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

********************************************

LỜI CHÚA NGÀY 27/12, KÍNH THÁNH GIOAN TÔNG ĐỒ, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG

Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.    Ga 20,2-8

2 Sáng sớm ngày Phục Sinh, bà Ma-ri-a Mác-đa-la chạy đi gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói : “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.”

3 Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. 4 Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. 5 Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. 6 Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, 7 và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. 8 Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. 


 

LÒNG THAM VÔ ĐÁY NHƯNG CHỈ CẦN NHỮNG MẨU BÁNH VỤN VẶT

Luân Lê

 Mỗi chúng ta ai cũng có nhu cầu để được sống tốt đẹp và thịnh vượng hơn, nhưng không đồng nghĩa với việc gắng sao cho thoả lòng tham của mình đối với những giá trị của người khác và để làm những điều bất chính. Lòng tham là con đường nhanh nhất dẫn đến tai hoạ và những thảm kịch.

Mới nghe thì có vẻ như đã thấy nhận định này của tôi hàm chứa trong đó đầy những mâu thuẫn và sẽ có nhiều người muốn mắng tôi ngay khi đọc những câu này. Thế nhưng xin nhẫn nại thêm một chút và chúng ta cùng nhau mổ xẻ điều tôi vừa nói.

Chẳng phải gì to tát đâu xa, tôi nói ngay đến việc người ta hành xử với nhau tàn ác còn hơn cả loài cầm thú mà chúng sẵn sàng giết thịt nhau khi có loài nào đó tấn công cái tổ hoặc cướp đi miếng ăn của nó. Có phải gì hiếm hoi đâu, chuyện những người không may mà đi trộm chó, mèo, gà, trâu hay các tài sản khác của người dân ở những vùng quê, người ta phát hiện ra thì những tên trộm cắp kia chỉ có nước chết hoặc thương tật đầy mình. Dân làng xúm vào đánh đập, gậy gộc đủ cả, cứ thế mà nã vào đầu, phang vào chân, tay, mạng sườn kẻ cắp cho đến khi chết. Thế có phải là người ta quyết bảo vệ tài sản của mình đến cùng bằng những hành động vô nhân tính hay không.

Những hành vi ấy quả là man rợ không có đất nước văn minh nào làm thế như dân chúng ta. Thử hỏi luật pháp và chính phủ còn có giá trị gì nữa để mà duy trì và điều chỉnh hành vi con người. Nhìn vào đấy thì thấy rõ là người dân sẽ làm mọi cách kể cả là hung bạo và dãn man nhất để quyết bảo vệ cho được tài sản của mình, dù chẳng phải gì to tát. Hiện trạng này ở các vùng quê thì không thiếu. Vậy có phải là họ đang hành xử không cả bằng thời thực dân, phong kiến? Ngày xưa còn có công đường để kêu quan khi làng xóm mâu thuẫn, bắt được kẻ trộm, cướp thì đều lôi lên quan mà tâu bẩm và xét xử theo luật lệ. Chứ cũng không đến nỗi như bây giờ. Mà một dân tộc tàn ác với nhau như thế có khi nào đất nước văn minh và tốt hơn lên được? Mà nó chỉ làm cho con người ngày càng tàn bạo và coi thường luật pháp hơn thôi, như thế thì cái chính phủ kia cũng bị xem thường chứ đâu có giá trị gì để mà người dân cần đến. Quả là nguy cấp cho một đất nước mà con người sẵn sàng hung khí, hô hào một cách hung hãn để mà hành hạ đồng loại mình. Thật đau đớn và bại hoại hết chỗ nói.

Với chuyện con chó, con trâu đã kinh khủng như vậy. Vậy còn chuyện hôi của khi có người bị tai nạn trên đường, chuyện ngang nhiên nhặt tài sản của người khác mang về sử dụng. Đấy là hành vi khác gì trộm cướp và coi khinh luật pháp đâu. Thế thì quả là loạn lạc thực sự rồi chứ còn phải chờ đợi đến đao binh, bom đạn, chém giết gì mới cho là loạn lạc.

Với cái miếng ăn và tài sản của mình thì bảo vệ bằng được, nhưng sẵn của người khác hở ra là lấy cắp. Mà cũng bởi lối suy nghĩ này nên hầu như là ai cũng tính vào chính phủ để có quyền chức mà tìm cách đục khoét của công, làm giàu cho mình và gia đình. Cứ nhìn vào tệ trạng tham nhũng, sự suy thoái về con người, các cơ sở hạ tầng quốc gia thiếu thốn, sơ sài, yếu kém thì có thể thấy rõ nó là kết quả của việc vơ vét cho đầy túi tham của mình mà không để tâm gì đến việc chung của đất nước… tất cả đều xuất phát từ lòng tham vô đáy mà nên.

Thế nhưng đó chỉ là những cái vụn vặt và nhỏ mọn thôi, chỉ như những mẩu bánh có thể ăn được ngay tức khắc. Còn cái lớn hơn như chuyện chính sách kinh doanh làm ăn, chuyện đánh thuế tiêu dùng, chuyện chèn ép thương nhân, chuyện bị gây phiền hà trong công việc, chuyện bị cướp đoạt tài sản bằng cách tham nhũng ngân khố quốc gia với những con số khổng lồ, mà tất cả những cái đó rất thiết thực đánh vào túi tiền và chất lượng sống, vào điều kiện kinh doanh và cơ hội phát triển của người dân, thì dân chúng lại thờ ơ như chuyện riêng của nhà quan, chẳng màng gì cả, vì người ta không thấy nó bị thiệt hại gì như việc tên trộm, cướp lẻn vào nhà bắt trộm con chó hay dắt trộm trâu, bò của người ta đi mất. Nhận thức của người dân khiến tôi lo lắng tới những hậu họa khôn lường, vì nếu một lúc nào đó họ không thể lao động đủ để đóng thuế, sông hồ và không khí ô nhiễm, thực phẩm độc hại, bệnh viện thì tăng giá, giáo dục thì nâng học phí, lộ phí đi đường và xăng, dầu, điện, nước cứ leo thang. Thế thì họ định sống thế nào và làm gì để mà trả cho những thứ đó hay lại nhăm nhăm để cướp giật của người khác?

Mà cũng vì cái lòng tham vô đáy nhưng lại dễ thỏa mãn bằng những cái nhỏ nhặt này của người Việt mà các quốc gia khác lợi dụng điểm yếu đó để khai thác và bóc lột chúng ta từ tài nguyên thiên nhiên đến trí tuệ và sức người. Họ chỉ cần rót cho ít vốn vào làm ăn, đầu tư, hoặc cho vay với lãi suất thấp, chuyển giao công nghệ giá rẻ (mà có nguy cơ làm ô nhiễm môi trường, độc hại với con người, năng suất thấp, vận hành tốn kém và lại mau hỏng), cam kết vài điều khoản mà có vẻ như có lợi cho chính phủ, cho người dân bằng cách chia ít lợi nhuận hoặc chia sẻ quyền lợi kinh tế, thế là làm ráo, làm tuốt và làm nhanh cật lực. Bởi thế mà chúng ta cứ bị bóc lột sau khi đã bị dụ dỗ và mua chuộc bằng ít lợi ích cho thỏa cái lòng tham của mình. Đây chính là vấn đề lớn của dân tộc mà chúng ta phải nhận ra và thay đổi, nếu không thì chúng ta sẽ luôn bị mua chuộc và lợi dụng để cho người khác làm ăn mà thôi.

Quốc gia nào mà xây dựng bằng lòng tham, thì quốc gia đó sẽ sụp đổ bởi những mẩu bánh mỳ.

Bởi vậy tôi mới nói, đa phần người dân thì lòng tham vô đáy, nhưng chỉ cần những mẩu bánh vụn vặt để no cái bụng và ấm cái thân là đã đủ rồi, chẳng cần gì khác cả. Quốc gia lụn bại và suy vong cũng từ đây mà ra.

(Trích: MỘT NGƯỜI QUỐC DÂN)


 

 Bài học về chánh trị mà ai cũng thuộc – Nguyễn Gia Việt

Lê Vi

Nguyễn Gia Việt

Chúng ta không cần đọc tin “thuyết âm mưu” kiểu ai đi ai ở, ai giành ai nhường. Vì suy cho cùng ai cũng như ai thôi.

Làm chánh trị đại kị nhứt là biến mình thành kẻ thù của toàn dân. Với kiểu xốc xã hội lên mà không thấy lợi lộc gì, chỉ thấy mất mát hao tốn nhiều hơn.

Xài hình phạt tràn lan trong khi dân hoàn toàn vô sản. Ngày xưa Lão Tử  từng nói, quản trị như chiên cá nhỏ, con cá nhỏ khi chiên chỉ trở một lần, cứ lấy đũa trở riết cá nát bét.

Thế lớn trong thiên hạ, cứ tan lâu rồi lại hợp, hợp lâu rồi lại tan. Đó là câu mở đầu của Tam Quốc Chí.

Không sợ, phải nhìn và bước qua khi bánh xe lịch sử xoay chuyển.

Lịch sử là của chung dân tộc, không phải của hương hoả dòng họ hay cá nhân, đảng phái nào mà muốn làm gì cũng đặng.

Lịch sử buồn nhưng lịch sử công bằng. Lịch sử đi qua và vẫn còn đâu đó. Không thể xóa nhòa hay che ép nó đặng. Tại vì lịch sử khúc đó làm người ta nhớ hoài.

Lịch sử có tánh lặp lại.

Vũ Tài Lục nói “Không đọc sử không đủ tư cách nói chuyện chính trị”.

Không có chế độ chánh trị nào là “mãi mãi” dù là cai trị tàn bạo.

Nhìn lịch sử Đông Tây thấy rõ ràng hễ là chế độ chánh trị thì cũng có thời, tức là có lên có xuống, lên làm sau thì xuống như vậy.

Nghiệp quả.

Chúng ta thấy nhà Trần ở VN lợi dụng hôn nhân lên ngôi thì sau đó bị nhà Hồ cũng dùng hôn nhân mà lật.

Chu Nguyên Chương dùng khởi nghĩa nông dân lật Nguyên Mông lập ra Minh triều thì sau đó cũng bị một cuộc khởi nghĩa nông dân khác do Lý Tự Thành lật đổ.

Có những triều đại, thể chế hùng cường, sức ảnh hưởng của nó kinh khủng.

Bên Châu Âu chúng ta nhìn lại thời kỳ hưng thịnh của đế chế Công Giáo Vatican khi từ thần quyền lan qua tới pháp quyền, chánh trị, cai trị và rồi cũng có ngày chựng lại lui vào nhà thờ và trao trả quyền quyết định chánh trị lại cho mọi người dân.

Hay thời đế quốc Anh, khi nữ hòang Victoria còn tại vị mà, đất của Anh trên khắp thế giới đến nổi có câu truyền ”Mặt trời không bao giờ lặn trên đất của đế quốc Anh”, nhưng rồi sau đó các xứ đòi độc lập, Anh cũng cũng phải lui về phía sau, thời thế mà.

Ở Châu Á, sẽ lấy ví dụ quân Mông Cổ và nhà  Nguyên  Mông.

Có một thời người Mông Cổ-đế chế Mông Cổ đặt chân từ Á sang Âu. Vó ngựa Mông Cổ kéo dài từ thảo nguyên Mông Cổ xuống Trung Hoa, qua Nhựt Bổn, Triều Tiên, Đại Việt, Miến Điện, Java, sang Ba Tư. Từ vùng đất lạnh giá như Siberia cũng như vùng đất nóng bức Arabia, tới Đông Âu như: Moscou, Vladmir (Nga), Kiev (Ukraine), Varsovie, Cracovie (Ba Lan), Lienitz (Đông Đức), Budapest (Hungary), tiến đến sát thành Vienne (Áo), tiến tới sông Volga…

Quân Mông Cổ tới đâu cũng đốt phá, cướp bóc, giết người, hãm hiếp tàn bạo.

Năm 1271, Hốt Tất Liệt đã tuyên bố thành lập nhà Nguyên, triều đại Nguyên Mông cai trị nước Trung Hoa trong hai thế kỷ 13 và 14, cai trị Trung Hoa 97 năm (1271- 1368). Tuy nhiên sử gia Trung Hoa chỉ công nhận từ năm 1280 là năm nhà Tống không còn cầm quyền nữa đến năm 1368 là năm người Mông Cổ bị đuổi khỏi Trung Hoa, dài 88 năm, gồm 11 đời vua.

Trong 97 năm cai trị, Mông Nguyên đã tàn bạo với Trung Hoa với chánh sách không nhẹ tay.

Nguyên Mông thi hành chánh sách áp bức bóc lột phân chia giai cấp hết sức tàn nhẫn, phân loại như sau: Mông Cổ là số 1,tới là Hồi, Thổ, Tạng, Tây Hạ, Ba Tư …Dưới là  Khiết Đan, Nữ Chân, cuối cùng bét nhứt là Hán mà Mông Cổ gọi là “Nam Nhân”.

Người Hán không được cầm võ khí, không được tụ tập đông người, không được tụ họp đi săn, hành lễ tôn giáo…Mông Cổ diệt 5 họ lớn của người Hán.

Người Mông Cổ được ưu tiên như khi bị tội giết người thì người Mông Cổ chỉ bị phạt bằng gậy và đưa lên biên giới phía Bắc xung vào quân đội, còn người Hán và các dân tộc khác bị xử tử.

Người Hán không được lấy người Mông Cổ làm vợ, nhưng Mông Cổ có quyền lấy thiếp người Hán. Người Hán ít được bổ vào cơ quan hành chánh.

Về thuế khóa, Mông Cổ được miễn, các dân tộc khác nộp 1/3, Hán tộc hay Nam nhân nộp toàn bộ. Ruộng đất của người Hán bị Mông Cổ chiếm đoạt gần hết ,người Hán chỉ làm nô tì, nông nô hạng bét.

Dận số Trung Hoa thời kỳ đầu nhà Nguyên Mông có 100 triệu người, sang cuối triều Nguyên chỉ còn 60 tới 80 triệu người.

Đến cuối nhà Nguyên dân Trung Hoa đói rả ruột. Đê điều không tu sửa nên bể nhiều trận dân chết cả vùng, dân chết đói thê thảm, dịch bịnh tràn lan. Tương truyền nhà Chu Nguyên Chương chỉ còn 3 hột lúa.

Cứ nghĩ những chánh sách giết-cướp-cai trị tàn bạo của Nguyên Mông là mãi mãi?

Không.

Sau những năm đó xuất hiện rất nhiều cuộc khởi nghĩa từ tôn giáo tới nông dân.

Chu Nguyên Chương (1328 – 1398) xuất  thân  từ  gia đình bần nông,năm 17 tuổi, cha và anh đều bị chết vì bịnh dịch, Chu Nguyên Chương phải xuất gia làm sư, vì gặp năm đói, phải đi khất thực ở nhiều nơi .

Từ năm 1352 Chu Nguyên Chương tham gia Hồng Cân quân (quân khăn đỏ) của Quách Tử Hưng tới tháng giêng năm 1368 Chu Nguyên Chương xưng đế, kể ra có 16 năm chinh chiến.

Khẩu hiệu “Đánh giặc Hồ, khôi phục Trung Hoa, cứu dân tộc Hán”.

Sau khi lên ngôi,trước tình cảnh kinh tế be bét, dân đói tràn lan, Chu Nguyên Chương phải thi hành nhiều chánh sách an dân thời hậu chiến.

Ông nhận thức được rằng: “Thiên hạ mới định, tài lực trăm họ còn khó khăn, giống như con chim mới tập bay, không thể nhổ lông nó, như cái cây mới trồng, không thể lay gốc nó mà phải nâng niu nuôi dưỡng”.

Chúng ta không thể không nhắc tới sự tàn bạo của nhà Minh khi xâm lăng Đại Việt.

Năm 1407 thời Minh Thành Tổ Chu Đệ, nhà Minh tràn qua chiếm nước Việt thời Đại Ngu của họ Hồ. Sau đó thi hành chánh sách cực kỳ tàn bạo, đốt sách, phá chùa, phá hủy tận diệt nền văn hiến của Việt Nam, bắt hết những trí thức của chúng ta qua Tàu, con nít mà đẹp cũng bắt luôn.

Nhà Minh với Trương Phụ cai trị Việt Nam bằng máu, tàn sát  đốt phá và hủy diệt.

Minh Thành Tổ từng nói  rằng: “An Nam vốn cùng chữ viết và phong tục tập quán giống người Trung Hoa, lại đã từng là đất của Trung Hoa hơn  một ngàn năm trước kia.”

Nhưng rồi chúng ta có Lê Lợi,có Nguyễn Trãi, có khởi nghĩa Lam Sơn..

Kể từ năm 1407 khi nhà Minh đánh bại nhà Hồ cai trị Việt Nam và chấm dứt năm 1427 khi Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh, thì có 20 năm Minh đô hộ xứ Việt trong máu và máu.

Và từ năm 1416 khi  Lê Lợi chánh thức khởi nghĩa, và năm 1428 khi ông lên ngôi lập ra nhà Hậu Lê, vị chi Lê Lợi có 12 năm chinh chiến.

Thịnh cực tất suy, dân ý thức sẽ làm chánh trị, một cuộc cách mạng.

Chánh trị mà, dân tộc đất nước trường tồn chứ “chế độ chánh trị”cũng có lúc lên có lúc cáo chung thôi, không có gì là mãi mãi hết.

Tuấn kiệt như sao buổi  sớm

Nhơn tài như lá màu thu.

– Nguyễn Gia Việt


 

Vươn mình, nhìn từ bài học Minh trị, Minh mạng

Ba’o Tieng Dan

24/12/2025

Mai Phan Lợi

Dòng chảy lịch sử đôi khi đặt các dân tộc trước những ngã rẽ rất hẹp: Hoặc bước tới bằng một cú nhảy đau đớn, hoặc đứng lại để rồi bị cuốn trôi.

Nhìn vào hai cái tên tưởng như chỉ cách nhau một chữ “Minh” – Minh Trị và Minh Mạng – mới thấy sự khác biệt trong lựa chọn tư duy có thể quyết định số phận của cả một quốc gia.

Và từ những bài học ấy, câu chuyện “vươn mình” hôm nay hiện lên không còn là khẩu hiệu, mà là một đòi hỏi khắc nghiệt của thời đại.

Giữa thế kỷ XIX, Nhật Bản dưới thời Minh Trị đã chấp nhận tự mổ xẻ chính mình. Thiên hoàng và tầng lớp lãnh đạo trẻ hiểu rằng nếu tiếp tục khép cửa trong chiếc áo giáp truyền thống, Nhật Bản sẽ trở thành miếng mồi của phương Tây.

Vì thế, họ dám làm những việc bị coi là “phản truyền thống”: Bãi bỏ chế độ phiên trấn, xóa đặc quyền của võ sĩ samurai, gửi sứ đoàn Iwakura sang châu Âu – Mỹ học cách tổ chức nhà nước, xây dựng quân đội, cải cách giáo dục.

Đó là một cuộc cách mạng từ trên xuống, quyết liệt và liên tục, chấp nhận trả giá để đổi lấy tương lai. Kết quả là chỉ sau vài thập niên, Nhật Bản bước ra khỏi thân phận một nước phong kiến để trở thành cường quốc công nghiệp.

Trong khi đó, ở Việt Nam cùng thời, triều Minh Mạng lại lựa chọn con đường ngược lại. Trước những biến động dữ dội của thế giới, triều đình ưu tiên sự ổn định nội tại, siết chặt tư tưởng, hạn chế giao thương, bế quan tỏa cảng và duy trì trật tự cũ.

Chân dung vua Minh Mạng (trái) được minh họa trong cuốn sách “Journal of an Embassy to the Courts of Siam and Cochin-China, exhibiting a view of the actual State of these Kingdoms của John Crawfurd (1783-1868), in ở London năm 1828. Ảnh phải: Thiên hoàng Minh Trị năm 1873. Nguồn: Wikimedia/ Tiếng Dân edit

Những quyết sách ấy xuất phát từ mong muốn bảo vệ nền nếp và quyền lực truyền thống, nhưng hệ quả là đất nước ngày càng lạc hậu, không đủ sức đề kháng khi làn sóng xâm lược của thực dân phương Tây ập đến.

Lịch sử đã ghi lại cái giá của sự chậm trễ ấy bằng cả một giai đoạn mất chủ quyền và đau thương kéo dài.

Đặt hai hình ảnh đó cạnh nhau, người ta dễ nhận ra một điểm chung đáng suy ngẫm: Trong những thời khắc sinh tử, cải cách không bao giờ là con đường bằng phẳng. Nó luôn vấp phải sự phản kháng – khi thì từ thói quen, khi thì từ lợi ích đã ăn sâu vào cấu trúc quyền lực.

Thời Minh Trị, tầng lớp samurai mất bổng lộc đã nổi dậy chống đối. Nhưng triều đình Nhật không “hạ nhiệt” cải cách để xoa dịu họ, mà kiên quyết đi tiếp.

Ngược lại, sự bảo thủ thời Minh Mạng lại được củng cố bởi chính những người hưởng lợi từ trật tự cũ, khiến triều đình càng khó thoát khỏi vòng tự trói mình.

Nhìn về hiện tại, câu chuyện “vươn mình” của Việt Nam cũng đang đứng trước thử thách tương tự. Khi cải cách được đặt ra với mục tiêu tinh gọn bộ máy, chống tham nhũng, thay đổi cách vận hành quyền lực và phân bổ nguồn lực, thì sự kháng cự là điều khó tránh.

Những tiếng nói muốn “giữ nguyên để an toàn”, muốn “lò nguội” để bảo toàn lợi ích, về bản chất không khác nhiều so với tư duy đóng cửa của quá khứ.

Lịch sử cho thấy, nếu cải cách bị ngắt quãng hoặc thỏa hiệp nửa vời, cái giá phải trả thường lớn hơn rất nhiều so với những xáo trộn ngắn hạn.

Điểm đáng chú ý trong phép so sánh Minh Trị – Minh Mạng không nằm ở việc thần thánh hóa cá nhân lãnh đạo, mà ở bài học về tính liên tục của cải cách.

Nhật Bản đã không thể “hóa rồng” nếu những chính sách duy tân chỉ kéo dài vài năm rồi bị đảo ngược.

Cũng vậy, bất kỳ nỗ lực thay đổi hệ thống nào ngày nay đều cần thời gian đủ dài để chính sách đi vào đời sống, để những hạt giống mới kịp nảy mầm và đơm hoa.

Sự gián đoạn, trong nhiều trường hợp, chính là món quà cho sự trì trệ.

Sau cùng, lịch sử luôn đặt lên vai người cầm lái một áp lực đạo đức nặng nề. Khi đất nước đứng trước cơ hội và thách thức đan xen, việc chọn cải cách hay né tránh không chỉ là quyết định chính trị, mà là lựa chọn mang tính trách nhiệm với các thế hệ tương lai.

Người Nhật thời Minh Trị đã cải cách trong nỗi lo bị nuốt chửng nếu chậm chân. Việt Nam hôm nay cải cách trong khát vọng không bị bỏ lại phía sau.

Hai hoàn cảnh khác nhau, nhưng cùng chung một lời nhắc: nếu không dám thay đổi khi còn có thể, lịch sử sẽ thay đổi thay chúng ta, theo cách khắc nghiệt hơn nhiều.

Vươn mình, vì thế, không phải là câu chuyện của những lời hô hào, mà là sự lựa chọn giữa Minh Trị và Minh Mạng – giữa dấn bước cải cách để sống, hay co mình giữ ổn định để rồi tụt lại.

Lịch sử đã trả lời một lần, và câu trả lời ấy vẫn còn nguyên giá trị cho hiện tại.


 

 VÌ SAO GIÁO HỘI MỪNG GIÁNG SINH NGÀY 25 THÁNG 12?

Công Giáo Rôma – Chính Trực

 VÌ SAO GIÁO HỘI MỪNG GIÁNG SINH NGÀY 25 THÁNG 12?

Nhiều người cho rằng ngày 25 tháng 12 được chọn để thay thế các lễ hội ngoại giáo của người Rôma như Saturnalia, Sol Invictus hay thần Mithra. Tuy nhiên, đa số các học giả ngày nay không đồng tình với giả thuyết này.

Ngày 25 tháng 12 đã ăn sâu vào tâm thức chúng ta mỗi khi nghĩ đến Giáng Sinh – với cây thông, ánh đèn và hình ảnh ông già Noel. Nhưng liệu đó có thật sự là ngày Chúa Giêsu giáng sinh? Và nếu không thể xác định chính xác, vì sao Giáo Hội lại chọn ngày này để mừng biến cố Nhập Thể?

Các Tin Mừng chỉ cung cấp rất ít chi tiết. Chẳng hạn, thánh Luca kể rằng các thiên thần đã báo tin cho những mục đồng đang canh giữ đàn chiên ngoài đồng (Lc 2,8).

Nhưng liệu các mục đồng có ở ngoài đồng vào giữa mùa đông hay không?

Ông Andrew McGowan, Viện trưởng Chủng viện Thần học Berkeley (Đại học Yale), cho rằng chi tiết này “có thể gợi đến mùa xuân, mùa chiên sinh sản”, vì vào tháng 12 lạnh giá, chiên thường được nhốt lại.

Vậy có phải ngày 25 tháng 12 được chọn để thay thế các lễ ngoại giáo không?

Ông McGowan tỏ ra hoài nghi. Theo ông, giả thuyết này tuy phổ biến nhưng gặp nhiều vấn đề. Trước hết, không có bất cứ văn bản Kitô giáo cổ nào nói rằng Giáo Hội cố ý chọn ngày này để đối trọng với các lễ ngoại giáo. Đúng là các tác giả Kitô giáo thời đầu có liên hệ giữa ngày đông chí và Chúa Kitô – chẳng hạn thánh Ambrôsiô gọi Chúa là “Mặt Trời đích thực”, vượt trên các thần linh giả tạo – nhưng các ngài xem đó là dấu chỉ của chương trình quan phòng Thiên Chúa, chứ không phải kết quả của một sự sắp đặt mang tính chiến lược của Giáo Hội.

Khoảng năm 200, thánh Clêmentê thành Alexandria cho biết đã có nhiều ngày khác nhau được đề nghị cho ngày Chúa Giêsu ra đời, như 20 hoặc 21 tháng 4, hay 20 tháng 5. Đáng chú ý là ngài không hề nhắc đến ngày 25 tháng 12.

Theo Jon Sorenson (Catholic Answers), thánh Hippôlytô thành Rôma, trong tác phẩm Chú giải sách ngôn sứ Đanien (khoảng năm 204), đã khẳng định Chúa Giêsu sinh ngày 25 tháng 12. Ngài viết rằng Chúa giáng sinh tại Bêlem vào ngày 25 tháng 12, và chịu khổ hình vào ngày 25 tháng 3.

Trong một tác phẩm khác của Hippôlytô là Biên niên sử, ngài cho rằng Chúa Giêsu sinh ra chín tháng sau ngày tạo dựng vũ trụ. Theo cách tính của ngài, vũ trụ được tạo dựng vào ngày xuân phân, 25 tháng 3, và vì thế, chín tháng sau – tức ngày 25 tháng 12 – là ngày Chúa giáng sinh.

Ông McGowan cho biết rằng đến thế kỷ IV, đã có hai ngày được nhìn nhận rộng rãi là ngày sinh của Chúa Giêsu: ngày 25 tháng 12 tại Tây phương và ngày 6 tháng 1 tại Đông phương, đặc biệt ở Ai Cập và Tiểu Á.

Điều đáng chú ý là thánh Hippôlytô cũng xác định ngày Chúa chịu chết là 25 tháng 3. Vậy phải chăng Giáo Hội còn biết chính xác cả ngày Chúa chịu đóng đinh? Ông McGowan nhận xét rằng, nghe có vẻ lạ, nhưng chìa khóa để xác định ngày Chúa sinh lại nằm ở việc xác định ngày Chúa chịu chết vào lễ Vượt Qua.

Theo Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu bị đóng đinh đúng lúc chiên Vượt Qua đang được sát tế, tức ngày 14 tháng Nisan theo lịch Do Thái. Còn theo các Tin Mừng Nhất Lãm, Bữa Tiệc Ly diễn ra vào đầu ngày 15, và Chúa chịu đóng đinh vào sáng hôm sau – vẫn là ngày 15. Vào khoảng năm 200, Tertullianô thành Carthage cho biết người ta đã tính rằng ngày 14 tháng Nisan tương ứng với ngày 25 tháng 3 theo lịch Rôma. Ngày này về sau được cử hành là lễ Truyền Tin – đúng chín tháng trước ngày 25 tháng 12.

Đức Bênêđictô XVI cũng xác nhận mối liên hệ này trong tác phẩm Tinh thần Phụng vụ. Khi ấy còn là Hồng y Joseph Ratzinger, ngài viết rằng yếu tố quyết định trong việc xác định ngày Giáng Sinh chính là mối liên kết giữa công trình tạo dựng, Thập Giá và mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa Kitô.

Tại Đông phương, người ta cũng gắn kết ngày Chúa chịu chết và ngày Chúa được thụ thai, nhưng dựa trên lịch Hy Lạp địa phương. Ngày 14 của tháng xuân đầu tiên – tương ứng với ngày 6 tháng 4 – được coi là ngày Chúa chịu chết và nhập thể; chín tháng sau là ngày 6 tháng 1, ngày mừng Giáng Sinh theo truyền thống Đông phương.

Giám mục Êpiphanô thành Salamis viết rằng ngày 6 tháng 4 là ngày “Chiên Thiên Chúa được cưu mang trong lòng trinh khiết của Đức Trinh Nữ thánh thiện, Đấng đã và đang xóa bỏ tội trần gian.” Cho đến nay, Giáo Hội Armenia vẫn mừng lễ Truyền Tin vào đầu tháng 4 và lễ Giáng Sinh vào ngày 6 tháng 1.

Như thế, ngày 25 tháng 12 không đơn thuần là sự vay mượn từ các lễ hội ngoại giáo, nhưng phát xuất từ một suy tư thần học sâu xa của Hội Thánh sơ khai: mầu nhiệm Nhập Thể, Thập Giá và công trình tạo dựng đều quy hướng về cùng một chương trình cứu độ duy nhất của Thiên Chúa.

Jos Nguyen chuyển ngữ  – Aleteia.org)


 

LUẬT NHÂN QUẢ

 

Bạn hãm hại người khác, thì sẽ có người khác hãm hại bạn.

 Bạn lừa dối người khác, cũng sẽ có người khác lừa dối bạn.”

 Đó không phải là lời nguyền, mà là luật nhân quả vận hành một cách âm thầm nhưng chính xác.

Bởi mọi hành động, dù là thiện hay ác, đều để lại dấu vết – và rồi, sớm hay muộn, cuộc đời sẽ trả lại đúng thứ mà bạn đã gieo ra.

 Khi bạn khiến ai đó tổn thương, đừng nghĩ rằng thời gian sẽ làm họ quên. Thời gian chỉ khiến vết thương lắng xuống, để rồi một ngày, chính bạn sẽ nếm lại cảm giác đó trong một hình thức khác.

 Không phải vì ai đó trả thù, mà vì trời đất có luật công bằng của riêng mình. Người hãm hại kẻ khác tưởng rằng mình thắng, nhưng thật ra họ đang đánh mất lòng tin, danh dự và phước phần của chính mình.

 Người lừa dối tưởng rằng mình khôn, nhưng lại đang gieo mầm nghi ngờ, để rồi mai này chính họ sẽ bị lừa trong cay đắng.

Nhân quả không đến ngay, nhưng một khi đã đến, không ai tránh được

 Sống ở đời, khôn ngoan không phải là mưu mẹo, mà là biết nghĩ cho hậu quả của từng việc mình làm.

 Làm điều đúng, lòng nhẹ. Làm điều sai, tâm bất an.

 Càng sống thiện, càng gặp lành; càng sống ác, càng gặp dữ – ấy là quy luật muôn đời, không ai có thể đổi.

Vì vậy, đừng tìm cách hại người để mình được lợi,vì cái lợi ngắn ngủi hôm nay có thể là cái họa dài lâu ngày mai.

 Hãy sống chân thành, ngay thẳng, và biết ơn, bởi cuối cùng, cuộc đời sẽ luôn trả lại cho bạn đúng những gì bạn đã gieo ra – không hơn, không kém.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu


 

Chuyện thật như đùa – Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng 

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

22/12/2025

Diella – Bộ trưởng phụ trách Trí tuệ nhân tạo

Albanie là một nước nhỏ, chưa đến ba triệu dân ở châu Âu. Nước này từng là một quốc gia xã hội chủ nghĩa dưới thời nhà độc tài Enver Hoxha, rồi thoát khỏi chế độ XHCN sau khi Bức tường Berlin và Liên Xô sụp đổ. Nhưng cũng như nhiều nước cựu XHCN khác, Albania mang theo một di sản nặng nề: tham nhũng ăn sâu vào bộ máy quyền lực. Đã lâu người ta không còn nhắc đến đất nước nhỏ bé ấy. Bỗng nhiên, năm 2025, Albania gây chấn động dư luận quốc tế khi tuyên bố bổ nhiệm “cô” Diella làm bộ trưởng, một bộ trưởng hoàn toàn được tạo ra bằng trí tuệ nhân tạo.

Diella trong tiếng Albania có nghĩa là “Mặt Trời”, được chọn như biểu tượng của ánh sáng và minh bạch. Trước đó, Diella chỉ là một trợ lý ảo trên cổng dịch vụ hành chính điện tử e-Albania, giúp người dân làm giấy tờ. Đến tháng 9 năm 2025, trong lễ ra mắt nội các mới, Thủ tướng Edi Rama bất ngờ công bố Diella trở thành “Bộ trưởng Nhà nước phụ trách Trí tuệ nhân tạo”, đồng thời giao cho cô một nhiệm vụ cực kỳ nhạy cảm: giám sát toàn bộ các gói thầu công, lĩnh vực vốn gắn chặt với tham nhũng và lợi ích nhóm. Theo Thủ tướng Rama, giao việc này cho một AI sẽ giúp quy trình trở nên “100% không tham nhũng”, bởi máy móc thì không quan hệ, không thân hữu, không phong bì. Hình ảnh Diella được dựng như một phụ nữ mặc trang phục truyền thống Albania, với giọng nói và gương mặt của một nữ diễn viên thật.

Khi Diella xuất hiện và phát biểu trước Quốc hội Albania, khung cảnh vừa lịch sử vừa căng thẳng. Phe phản đối cho rằng đây là một quyết định vi hiến, vì bộ trưởng phải là con người và phải chịu trách nhiệm. Phe ủng hộ thì nói thẳng: con người đã làm quá tệ, tệ đến mức người ta sẵn sàng thử đặt niềm tin vào máy móc. Chuyện nghe như đùa, nhưng lại hoàn toàn là chuyện thật.

Và nếu thử đặt giả thiết Việt Nam cũng có Diella, không phải một, mà là cả một hệ thống Diella, thì cái lợi sẽ thật khổng lồ. Máy móc không ăn hối lộ. Như vậy, toàn bộ những kẻ sống bằng việc “ăn” sẽ mất nguồn sống. Bộ trưởng, thứ trưởng, vụ trưởng, cục trưởng… tất cả bọn tham nhũng sẽ “chết đói”. Người dân thì được hưởng lợi ngay lập tức: làm việc không cần quen biết, không cần cúi đầu, không cần phong bì. Lần đầu tiên sau nhiều thập niên, luật có thể được áp dụng như luật, chứ không phải như món hàng mua bán. Đó sẽ là một cao trào sung sướng thật sự, một cảm giác giải phóng: thà để máy móc cai trị còn hơn để con người như ngày nay..  .

Nhưng chính ở đỉnh cao ấy, bi kịch bắt đầu. Bởi vì khi một xã hội sung sướng vì không còn tin con người, thì đó không phải là chiến thắng của công nghệ, mà là sự sụp đổ của niềm tin đạo đức. Diella không biết xấu hổ, không biết sợ dân, không biết day dứt. Khi một quyết định gây oan sai, câu trả lời sẽ chỉ là: thuật toán đã vận hành đúng. Và thế là trách nhiệm biến mất. Quyền lực không còn gắn với một con người có thể bị chất vấn, mà tan vào hệ thống vô hình.

Nhưng cần nói thêm một điều còn nguy hiểm hơn nữa: đằng sau Diella không phải là sự trung lập tuyệt đối, mà là các thuật toán (nói một cách đơn giản là những chuỗi lệnh) và các kho dữ liệu do chính con người tạo ra. Máy móc không tự sinh ra đạo đức; nó chỉ lặp lại những gì con người đã lập trình cho nó. Vì vậy, yếu tố con người không hề biến mất. Nó có thể ẩn mình sâu hơn, kín đáo hơn và khó truy vết hơn. Khi có sai lầm, người dân không biết trách ai: Diella không chịu trách nhiệm, còn những con người đứng sau thì vô hình. Một kiểu quyền lực như vậy đôi khi còn nguy hiểm hơn tham nhũng công khai, bởi nó lạnh lùng, vô danh, không thể chất vấn và cũng không thể lật đổ.

Tuy nhiên, tôi chỉ mong những người đang nắm quyền kịp nhận ra rằng Diella là lời cảnh báo dành cho chính họ. Sự ra đời của những Diella không xuất phát từ lòng yêu máy móc, mà từ sự tuyệt vọng của con người trước một bộ máy đã quá bẩn, quá lì và quá quen sống bằng phong bì. Nếu họ biết sợ, biết xấu hổ và biết dừng lại, có lẽ Diella sẽ mãi chỉ là một câu chuyện “thật như đùa” ở một đất nước xa xôi. Nhưng nếu họ vẫn tiếp tục coi quyền lực là đặc quyền để ăn cắp, sẽ đến một ngày, trên chính mảnh đất này, người ta buộc phải thay con người bằng những Diella — không phải vì máy móc tốt hơn, mà vì những người lãnh đạo đã hoàn toàn không đáng tin cậy.


 

CHIẾN ĐẤU VỚI CẢ THẾ GIỚI TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI

Anh Chi TTV2 – Quan điểm cá nhân

CHIẾN ĐẤU VỚI CẢ THẾ GIỚI TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI

Bà đang chết dần vì căn bệnh ung thư đã di căn vào xương – nhưng những tập đoàn hóa chất đang tìm cách hủy hoại danh tiếng của bà không hề hay biết điều đó. Và bà đã sắp xếp để họ không bao giờ được biết.

Vào những năm 1950 tại Mỹ, người ta tôn sùng một loại “thuốc tiên” gọi là DDT. Loại thuốc trừ sâu này được hứa hẹn sẽ chấm dứt nạn đói và diệt trừ bệnh tật. Người ta phun nó ở khắp nơi: trên đồng ruộng, trong công viên nơi trẻ em chơi đùa. Các quảng cáo hô hào: “Sống tốt hơn nhờ hóa chất”.

Nhưng Rachel Carson, một nhà sinh vật học biển, đã nhận ra một điều mà các quảng cáo không hề nhắc tới: Lũ chim đang biến mất.

Cuộc chiến chống lại những “gã khổng lồ”

Rachel không phải là một nhà hoạt động chính trị. Bà là một nhà khoa học điềm tĩnh, yêu đại dương. Nhưng khi thấy những đàn chim chết hàng loạt, cá biến mất khỏi dòng sông và những người nông dân đổ bệnh kỳ lạ, bà biết mình không thể im lặng.

Bà phát hiện ra sự thật kinh hoàng: DDT không hề tự phân hủy. Nó tích tụ và ngấm sâu vào chuỗi thức ăn, gây ung thư, hủy hoại gen và làm sụp đổ cả hệ sinh thái.

Suốt 4 năm, bà dồn hết tâm sức viết cuốn sách “Mùa xuân vắng lặng” (Silent Spring). Cái tên đầy ám ảnh: Một mùa xuân mà không còn tiếng chim hót, vì lũ chim đã chết sạch.

Bí mật đau đớn

Năm 1960, khi đang viết dở cuốn sách, Rachel phát hiện mình bị ung thư vú thể ác tính. Bà phải phẫu thuật, rồi xạ trị. Căn bệnh di căn vào hạch rồi vào xương. Những đợt điều trị khiến bà kiệt sức, buồn nôn, nhiều lúc không thể cầm nổi bút.

Nhưng bà không nói cho ai biết.

Bà hiểu rằng nếu các tập đoàn hóa chất biết bà đang bị ung thư, họ sẽ dùng nó để tấn công bà. Họ sẽ nói bà là kẻ “hysteria”, là người đàn bà bệnh tật nên suy nghĩ không tỉnh táo, rằng nghiên cứu của bà chỉ là sự sợ hãi vô căn cứ của một kẻ sắp chết.

Thế là, trong khi âm thầm chiến đấu giành giật sự sống trong phòng bệnh, bà vẫn xuất hiện đầy bản lĩnh trước công chúng để chiến đấu cho sự sống của chim chóc, cá tôm và con người.

Chiến thắng của sự thật

Cuốn sách xuất bản năm 1962 đã gây ra một cơn địa chấn. Các đại gia ngành hóa chất như Monsanto, DuPont tuyên chiến với bà. Họ đổ hàng triệu đô la vào truyền thông để bôi nhọ bà là “kẻ cổ hủ muốn đưa thế giới về thời kỳ tăm tối”.

Rachel vẫn đứng vững. Bà xuất hiện trên truyền hình, điềm tĩnh và đầy sức thuyết phục. Bà ra điều trần trước Quốc hội Mỹ. Dưới tác động từ cuốn sách của bà, Tổng thống Kennedy đã ra lệnh điều tra. Dư luận bắt đầu thức tỉnh và đặt câu hỏi: Chúng ta đang phun cái gì lên thức ăn của mình thế này?

Di sản còn mãi

Rachel Carson qua đời năm 1964, ở tuổi 56, chỉ hai năm sau khi cuốn sách ra đời. Bà không sống đủ lâu để thấy DDT bị cấm chính thức hay sự ra đời của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA).

Nhưng nhờ có bà, những con đại bàng đầu hói đã được cứu khỏi bờ vực tuyệt chủng. Nhờ có bà, phong trào bảo vệ môi trường hiện đại mới thực sự bắt đầu. Mỗi khi chúng ta nói về thực phẩm sạch hay bảo vệ thiên nhiên, Rachel Carson vẫn luôn ở đó.

Bà có thể dành những năm cuối đời để nghỉ ngơi trong yên bình. Nhưng bà đã chọn đối đầu với những thế lực quyền lực nhất hành tinh, dù biết mình sẽ bị tấn công tàn nhẫn, chỉ vì bà tin rằng: “Ai đó phải nói ra sự thật.”

Và bà đã nói, cho đến hơi thở cuối cùng. Nhờ giọng nói ấy, mùa xuân của chúng ta vẫn còn tiếng chim ca.

Vầng Sáng Lịch Sử

#anhchiquandiemcanhan


 

 CÔNG BẰNG Ở ĐÂU?

Xuyên Sơn

 CÔNG BẰNG Ở ĐÂU?

Câu hỏi như sau:

Trên đời này có tồn tại công bằng hay không?

Câu trả lời là:

Có. Đó là Thời Gian.

Tất cả mọi người đều có 24 tiếng/ngày.

Và đó là sự công bằng.

Vì vậy:

– Nếu mình nghèo, đừng đổ lỗi cho thế giới vì mình cũng có 24 tiếng để làm giàu

– Nếu mình kém, đừng đổ lỗi cho thế giới vì mình cũng có 24 tiếng để học hỏi

– Nếu mình ốm, đừng đổ lỗi cho thế giới vì mình cũng có 24 tiếng để xây dựng sức khoẻ

– Và nếu mình cho rằng thế giới này chẳng có gì công bằng, thì mình có 24 tiếng để cảm nhận sự công bằng của cuộc sống.

Chúng ta đều có 24 tiếng, nhưng có người lựa chọn ngủ nướng, có người lựa chọn làm việc, có người lựa chọn suy nghĩ tích cực, có người lại lựa chọn những suy nghĩ tiêu cực, có người lựa chọn can đảm làm việc khó, có người lựa chọn sự sợ hãi không dám làm…

và có lẽ nào chúng ta đã nhầm?

Cuộc sống rất công bằng, nhưng LỰA CHỌN của mỗi người mới chính là điều không công bằng.

Hãy lựa chọn cho đúng!

____________

(Nguồn:Sưu tầm/TOP Ebook Free)


 

TỘI ÁC CỦA ĐẾ QUỐC MỸ ĐỐI VỚI NHÂN DÂN VIỆT NAM.

Trịnh Mạnh Dũng

TỘI ÁC CỦA ĐẾ QUỐC MỸ ĐỐI VỚI NHÂN DÂN VIỆT NAM.

Từ Đức Minh

– Chúng dụ dỗ 24.000 du học sinh, con cái Đảng viên, nhà giàu Việt Nam sang Mỹ học tập.

– Chúng tiếp nhận cả tỷ USD của các đồng chí lãnh đạo Đảng viên chuyển tiền bạc tham ô sang mua nhà cửa để kiếm thẻ xanh ở Mỹ.

– Chúng xúi giục, kích động các con cháu Đảng viên bỏ Việt Nam sang Mỹ định cư.

Ví dụ như:

con gái Nguyễn Tấn Dũng,

con trai thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Trương Tấn Sang,

con tướng Trung,

con bộ trưởng Kim Tiến…

– Chúng cung cấp gần 50 triệu đô-la nhằm hỗ trợ Việt Nam rà phá huỷ bom mìn chưa nổ.

– Chúng đã đền cho Việt Nam hơn 46 triệu đô-la nhằm hỗ trợ cho công dân Việt Nam khuyết tật, nhiễm chất độc dioxin.

– Chúng lập ra tổ chức USAID cung cấp 12 triệu đô la hỗ trợ cho Việt Nam phòng hạn hán và xâm nhập mặn hàng trăm nghìn hộ gia đình các tỉnh phía nam.

– Chúng cho Việt Nam 9,5 triệu USD để ứng phó với dịch COVID-19,

trong đó bao gồm 5 triệu USD cho quỹ hỗ trợ kinh tế.

– Chúng cho bác sĩ, dụng cụ thuốc men vào Việt Nam chữa bệnh miễn phí cho người nghèo.

– Chúng thay Đảng Cộng Sản Việt Nam lên tiếng phản đối Trung Cộng giết hại ngư dân Việt Nam trên Biển Đông.

Từ Đức Minh

Xuyên Sơn


 

 LÀM NGHỀ GÌ ?

Trần Tố Ngọc

 LÀM NGHỀ GÌ ?

Lù Trọng Thắng

Bên Tàu có câu chuyện dân gian đại khái rằng, hôm ấy Diêm Vương xét duyệt cho hai người phụ nữ đầu thai lên thế gian. Người thứ nhất, Diêm Vương hỏi:

– Trước khi xuống đây nhà ngươi làm nghề gì ?

– Dạ, con làm nghề bán thân.

– Bán thân là gì ?

– Dạ… là làm… đĩ.

Ngập ngừng một chút, Diêm Vương phán:

-Tội nghiệp, thôi ta cho ngươi đầu thai lên làm con gái nhà giàu.

Đến người phụ nữ thứ hai, Diêm Vương hỏi:

– Trước khi xuống đây ngươi làm nghề gì ?

– Dạ, con làm đầy tớ của nhân dân ạ.

– Nghĩa là sao ?

– Dạ, là quan chức nhà nước đấy ạ.

Ngập ngừng một chút, Diêm Vương phán:

– Ta cho ngươi đầu thai lên làm con trâu.

Người phụ nữ hốt hoảng:

– Tâu Diêm Vương sao kỳ vậy ? Con làm quan là phục vụ nhân dân, là có công lao sao lại bắt con đầu thai lên làm trâu. Trong khi chị kia làm đĩ thì lại cho chỉ đầu thai lên làm con nhà giàu.

– Ngươi bình tĩnh nghe ta giải thích. Ta hỏi là hỏi vậy thôi chớ hồ sơ các ngươi đã có đầy đủ đây nầy: Cô kia tuy làm đĩ xấu xa nhưng đó là bước đường cùng, cổ kiếm được đồng tiền phải chịu đắng cay tủi nhục. Nên ta cho cổ cơ hội để bù đắp. Còn nhà ngươi, ngươi đã nhiều lần bán thân cho quan cấp trên để được thăng chức, tội nầy đáng lý phải cưa hai nấu dầu. Nhưng đến khi có quyền cao chức trọng, ngươi lại vơ vét công quỹ, ăn hối lộ để làm giàu nên ta phạt ngươi đầu thai lên làm trâu để kéo cày suốt đời trả món nợ kia, và khi về già ngươi sẽ bị xẻ thịt lột da để đền cái tội bán dâm đổi chức…

Nghe Diêm Vương phán xong, chị ta ôm mặt khóc nức nở:

– Trời ơi, cả đời làm quan lại không bằng con đĩ nè trời!

Tố Ngọc Trần Sưu tầm