KHÚC THÁNH THẦN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Thánh Thần hằng ngự trên ông!”.

Niềm vui đích thực không ở nơi vô tín, cũng không ở của cải, quyền lực hay địa vị; nó chỉ được tìm thấy trong Chúa Kitô, nơi đời người bắt đầu cất lên khúc Thánh Thần!

Kính thưa Anh Chị em,

Các bài đọc hôm nay gặp nhau ở một điểm chung: những con người để đời mình trở thành ‘khúc Thánh Thần’. Đó là cụ Simêon, đôi bạn trẻ Maria – Giuse, và tất cả những ai, theo Gioan, “ở lại trong ánh sáng”.

Luca giới thiệu Simêon bằng một nét bút tài tình với ba lần nhắc đến Thánh Thần. “Thánh Thần hằng ngự trên ông”; “ông được Thánh Thần linh báo”; và “được Thần Khí thúc đẩy”. Simêon không chỉ là một cụ già đạo đức, nhưng là người sống cùng Thánh Thần. Ông lắng nghe linh hứng của Ngài, để Ngài hướng dẫn từng bước, và sẵn sàng lên đường khi được giục giã. Nhờ đó, giữa bao người qua lại trong đền thờ, ông nhận ra Hài Nhi nhỏ bé kia chính là Đấng Kitô. Ẵm lấy Ngài trong tay, Simêon cất tiếng hát Nunc dimittis. Cả một đời chờ đợi, giờ đây, được kết tinh thành ‘khúc Thánh Thần’, vang lên trong bình an. “Tiếng thì thầm của Thánh Thần còn hay hơn mọi tiếng la lớn, dẫn con nhẹ nhàng về phía đúng đắn!” – 7 Loaves & Fishes.

Bên cạnh đó, Giuse và Maria, những con người ngoan ngoãn với các chuyển động của Thánh Thần. Cách riêng Maria, Mẹ không đặt bất cứ một trở ngại nào cho công trình của Ngài. Gioan Phaolô II nói, “Đức Maria đã trung thành đáp ứng mọi yêu cầu của Thiên Chúa, đáp ứng mọi chuyển động của Chúa Thánh Linh!”. Trước cửa đền, Mẹ lắng nghe lời tiên tri của Simêon, “Con Trẻ sẽ là dấu chỉ bị chống báng, và một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn!”. Maria đón nhận lời ấy trong thinh lặng. Mẹ chấp nhận lưỡi gươm không phải vì hiểu hết, nhưng vì đã trao trọn đời mình cho Thánh Thần. “Đừng bao giờ nghi ngờ cách Chúa làm việc nơi con. Hãy tôn trọng việc Ngài thực hiện trong tâm hồn con bằng thinh lặng!” – John Hardon.

Và theo Gioan, những ai “tòng thuộc Thánh Thần” còn là những con người “bước đi trong ánh sáng”, nghĩa là đi trên con đường Đức Giêsu đã đi và yêu anh chị em mình như Ngài yêu. Ở đâu có tình yêu ấy, ở đó con người “biết Thiên Chúa”, và tình yêu Thiên Chúa trở nên hoàn hảo. Đời sống của họ, dù âm thầm, vẫn trở nên một khúc ca bền bỉ, được Thánh Thần ngân lên giữa trần gian. “Chỉ có tình yêu mới biến những việc bình thường thành ánh sáng!” – Chiara Lubich.

Anh Chị em,

“Thánh Thần hằng ngự trên ông!”. Đức Phanxicô nhận xét, “Khi Maria đặt Hài Nhi Giêsu vào vòng tay Simêon, ông bắt đầu hát – cử hành một “phụng vụ” đích thực. Mỗi khi Chúa Giêsu được đặt vào giữa dân Ngài, niềm vui lại bừng nở!”. “Khi Đức Kitô ở giữa, niềm vui và bình an nở rộ ngay cả trong gian khó!” – Timothy Keller. Cũng thế, chỉ có điều này mới làm cho cuộc sống chúng ta trở nên phong phú và giữ cho tâm hồn chúng ta được sống: đặt Chúa Giêsu vào nơi Ngài thuộc về, giữa dân Chúa! Thánh Vịnh hôm nay vang lên cùng một tâm tình, “Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, dạy con sống lắng nghe; để cả đời con trở thành ‘khúc Thánh Thần’ – vang lên trong thinh lặng, khép lại trong bình an!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 

Lời Chúa Thứ Hai, 29/12, ngày thứ 5 trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh

Ánh sáng soi đường cho dân ngoại.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 2,22-35

22 Khi đã đủ thời gian, đến ngày các ngài phải được thanh tẩy theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, 23 như đã chép trong Luật Chúa rằng : “Mọi con trai đầu lòng phải được thánh hiến, dành riêng cho Chúa”. 24 Ông bà cũng lên để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. 25 Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. 26 Ông đã được Thánh Thần linh báo là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. 27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để làm điều người ta quen làm theo luật dạy, 28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng :

29“Muôn lạy Chúa, giờ đây
theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
30Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
31Chúa đã dành sẵn cho muôn dân :
32Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.”

33 Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những điều người ta nói về Người. 34 Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi : “Cháu bé này được đặt làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. 35 Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà. Như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra.”


 

 “NẾU CÓ KIẾP SAU… ANH SẼ KHÔNG BAO GIỜ YÊU EM!”- Truyen ngan HAY

Góc nhìn An Nam

Anh là một chàng sinh viên nghèo!

Làm thêm vất vả để kiếm thêm tiền trang trải học phí. Em là tiểu thư cành vàng lá ngọc con nhà giàu có khá giả, gia đình có tới mấy osin.

Lần đầu tiên về quê đến cây quế, rau lang…., và cả ngò gai, em cũng không phân biệt được.

Anh gặp em lần đầu tiên trong ngày khai giảng. Em đứng đó vui cười với đám bạn, mải mê làm đổ ly sữa lên váy trắng… Ngượng ngùng, anh đưa em áo khoác che vết loang. Giây phút ấy em mãi không quên anh.

Bốn năm học đại học, em muốn giúp anh nhiều lắm, muốn cuộc sống anh đỡ vất vả vì phải vừa học vừa làm. Đưa tiền cho anh. Anh đâu có nhận, anh nói anh không làm được cho em thì thôi…

Tốt nghiệp, đáng lẽ chia tay, chỉ là tình yêu thời đại học thôi mà…!

Nhưng em đã quyết định theo anh.

Gia đình em phản đối quyết liệt, nhưng em vẫn chọn cho mình người đàn ông của cả cuộc đời.

Nên vợ nên chồng, về quê sống trong căn nhà lụp xụp của mẹ anh. Rồi em mang thai, nhiều khi trái gió trở trời người đau ê ẩm.

Anh thương em, mùa đông cũng như hè đi làm kiếm thêm tiền nuôi vợ.

Thế rồi trong một tai nạn xe, anh liệt đôi chân. Nằm một chỗ ở nhà, tất cả mọi việc đều trông cậy vào em. Ba mẹ em nghe tin… xót dạ, thương yêu đến đón em về nhưng em từ chối!

Chữa bệnh cho anh, em bán hết mọi thứ trong nhà, cuối cùng chiếc nhẫn cưới ba phân vàng 18 kara cũng hết…

Ba mẹ em thấy con gái khổ nhiều, lại cho tiền.

Cứ thế cuộc sống nghèo ở một vùng quê cứ lặng lẽ đau buồn trôi qua!

Em làm giáo viên, anh nằm nhà viết sách. Em đã trút bỏ hình ảnh lá ngọc cành vàng năm nào để trở thành người vợ đảm đang. Đi chợ đã biết trả giá từng ngàn, quần áo bình thường, cân đo đong đếm còn tốt hơn những người phụ nữ khác vì em có học hành…

Bác sĩ bảo chồng em không còn đi được nữa, nhưng em không tin, hàng ngày vẫn bóp chân cho anh, hy vọng một phép màu, kỳ tích sẽ đến…

Ngày ấy, em nghe có một bác sĩ châm cứu rất giỏi. Em chở anh lên xe, đường dài hơn 20 cây số, đưa anh đi châm cứu hai ngày một lần không kể ngày nắng ngày mưa, ngày lạnh ngày nóng.

Anh nhìn em khóc: “Nếu còn có kiếp sau, anh sẽ không bao giờ yêu em nữa, em quá khổ vì anh!”.

Một năm sau phép màu đến thật sự, chân anh hồi phục cũng là lúc anh nhận được giải thưởng Quốc tế từ những cuốn sách anh viết. Không ai nghĩ sẽ có ngày hôm nay…!

Rồi họ mời sang Pháp thuyết trình ba năm, anh do dự, em nói: “Anh phải đi, cơ hội không đến hai lần đâu anh…!”.

Nhìn lại quãng đời, em đâu còn trẻ đẹp như xưa… Chồng, con, vất vả, thân hình gầy gò ốm yếu!

Pháp là đất nước của tình yêu, nhiều người nói anh đi sẽ không trở lại. Em chỉ mỉm cười đáp lại: “Em và anh đã trải qua bao nhiêu sóng gió, nếu vì một việc thế này em không sợ mất anh!”.

Ba năm sau anh về, không báo trước, muốn dành cho em một sự bất ngờ. Nhưng vừa xuống xe anh đến nhà…, đã thấy em đứng đó. Anh hỏi sao biết anh về mà ra đón, em trả lời:

-“Em chờ ở đây mỗi ngày, chỉ cần là xe lạ chạy ngang, em hy vọng nó dừng lại, em không bỏ qua chuyến nào…!”.

Anh nhìn vợ rồi khóc mà nói: “Nếu còn có kiếp sau, anh sẽ không bao giờ yêu em, tình yêu của em làm anh đau lắm, đau lắm, tình yêu của em đã khiến em chịu quá nhiều khổ đau!”

Em đáp trả lời anh: “Tình yêu luôn luôn là khổ đau cay đắng. Tình yêu như một bông hoa sen, hoa sen đẹp nhưng nó có cái nhụy sen, hạt sen rất đắng. Nếu còn có kiếp sau, em sẽ vẫn muốn được yêu anh!”.

  • Đinh Trực sưu tầm

Ảnh lên màu: by Thái Sơn

Chuyện của Sơn


 

Đức Giáo Hoàng Leo XIV và cuộc chiến với Trump – Trúc Phương/Người Việt

Ba’o Nguoi-Viet

December 27, 2025

Trúc Phương/Người Việt

Kể từ khi Đức Giáo Hoàng Leo XIV – vị giáo hoàng đầu tiên sinh ra tại Mỹ – lên ngôi vào Tháng Năm, 2025, mối quan hệ giữa Tòa Thánh Vatican và Tòa Bạch Ốc dưới thời Tổng Thống Donald Trump bắt đầu bước vào giai đoạn căng thẳng.

Đức Giáo Hoàng Leo XIV vẫy tay chào các tín hữu khi ngài đến trên xe trước khi đọc thông điệp và ban phép lành Urbi et Orbi cho thành phố và toàn thế giới, trong khuôn khổ lễ Giáng Sinh, tại Quảng Trường Thánh Phêrô ở Vatican hôm 25 Tháng Mười Hai, 2025. (Hình minh họa: Tiziana FABI / AFP via Getty Images)

Khi Vatican không thể không lên tiếng

Xuất thân từ Chicago và với kinh nghiệm mục vụ dài năm tại Mỹ Latin, Đức Giáo Hoàng Leo XIV liên tục chỉ trích chính sách nhập cư cứng rắn, kế hoạch can thiệp quân sự vào Venezuela cũng như một số khía cạnh ngoại giao của chính quyền Trump. Những phát ngôn thẳng thắn của Ngài không chỉ phản ánh lập trường truyền thống của Giáo Hội Công Giáo về phẩm giá con người mà còn đánh dấu sự chuyển hướng mạnh mẽ hơn trong cách Giáo Hội Mỹ đối phó với chính quyền hiện tại.

Mới đây, ngày 18 Tháng Mười Hai, Đức Giáo Hoàng Leo XIV bổ nhiệm Giám Mục Ronald Hicks, 58 tuổi, làm tổng giám mục mới của Tổng Giáo Phận New York – một trong những giáo phận quan trọng nhất nước Mỹ, nơi được xem là “thủ đô của các tổng giám mục trên thế giới.” (“Archbishop Capital of the World”).

Đây được xem là động thái mang tính biểu tượng cao, thể hiện đường lối quyết liệt hơn của tòa thánh trong vấn đề nhập cư. Giám Mục Hicks, gốc Chicago như chính Đức Giáo Hoàng Leo XIV, từng có nhiều năm làm việc tại El Salvador và Mexico, nổi tiếng với những cuộc vận động giúp người nghèo và tận tình hỗ trợ trẻ mồ côi và trẻ bị bỏ rơi. Kinh nghiệm cá nhân với người di cư từ Mỹ Latinh khiến Giám Mục Ronald Hicks trở thành biểu tượng cho cộng đồng Công Giáo Hispanic ngày càng lớn mạnh tại Mỹ.

Việc bổ nhiệm Giám Mục Ronald Hicks diễn ra đúng vào thời điểm chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch trục xuất hàng loạt và kiểm soát biên giới nghiêm ngặt. Tân Tổng giám mục Hicks sẽ thay thế Hồng Y Timothy Dolan – tròn 75 tuổi và vừa từ chức theo quy định giáo luật.

Nổi tiếng giao tiếp khéo léo và có mối quan hệ thân thiện với Tổng Thống Trump, Hồng Y Dolan từng chủ trì buổi cầu nguyện tại hai lần nhậm chức của ông Trump (2017 và 2025). Dưới thời Hồng Y Dolan, Giáo Hội Mỹ gần như luôn né tránh đối đầu trực tiếp các chính sách nhập cư của ông Trump. Gần đây, Hồng Y Dolan bị chỉ trích dữ dội khi so sánh Charlie Kirk, nhà hoạt động chính trị bảo thủ bị ám sát vào Tháng Chín, với Thánh Phaolô! (“Pope Leo appoints pro-migrant archbishop of New York, signaling Church’s more robust approach to Trump”/CNN).

Ngược lại, Giám Mục Hicks được đánh giá là người luôn biết lắng nghe, xây dựng cầu nối xã hội và không mang “tinh thần chiến tranh văn hóa.” Nhà bình luận Công Giáo Michael Sean Winters nhận định tân tổng giám mục New York sẽ “tuân theo đường hướng của Đức Giáo Hoàng Leo XIV,” với trọng tâm bảo vệ người nghèo, người di cư và công bằng xã hội – những giá trị cốt lõi trong giáo huấn Công Giáo. Việc bổ nhiệm trên nhận được sự ủng hộ từ Hồng Y Blase Cupich của Chicago, người thân cận với Đức Giáo Hoàng Leo XIV và giữ vai trò quan trọng tại Văn Phòng Giám Mục Vatican.

Chỉ vài tuần trước khi công bố việc bổ nhiệm Giám Mục Hicks, Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ (United States Conference of Catholic Bishops – USCCB) đã phát đi thông điệp đặc biệt, trong một động thái hiếm thấy, lên án “việc trục xuất hàng loạt một cách không phân biệt” và “dùng ngôn từ hạ thấp nhân phẩm” nhằm vào người nhập cư của chính quyền Trump.

Với 216 phiếu thuận, năm phiếu chống và ba phiếu trắng, ngày 12 Tháng Mười Một, USCCB ra tuyên bố: “Chúng tôi hết sức lo ngại khi thấy trong cộng đồng chúng ta đang lan rộng bầu không khí sợ hãi và bất an xung quanh việc lập hồ sơ (người nhập cư) và thực thi luật di trú. Chúng tôi cũng vô cùng đau buồn trước thực trạng tranh luận hiện nay và việc bôi nhọ, quỷ hóa người di dân” (“A Christian Answer to Trump and Trumpism Is Finally Here/The New York Times”).

Đức Giáo Hoàng Leo XIV trực tiếp dẫn dắt làn sóng chỉ trích này. Trong các phát biểu gần đây, Ngài gọi việc đối xử người di cư tại Mỹ là “vô nhân đạo” và nhấn mạnh rằng những kẻ tự xưng “ủng hộ sự sống” nhưng cổ xúy “việc đối xử vô nhân đạo với người di cư” thì khó có thể được coi là “pro-life.”

Ngày 4 Tháng Mười Một, khi một số nhà báo nêu tình trạng đối xử tồi tệ nhằm vào những người bị nhốt tại một trại giam ICE ở Broadview, Illinois; và việc chính quyền từ chối một phái đoàn, trong đó có một giám mục Công Giáo, vào trại giam để làm lễ dâng Mình Thánh Chúa cho tù nhân, Đức Giáo Hoàng Leo XIV trả lời, bằng cách viện dẫn Kinh Thánh, rằng vào ngày tận thế, “chúng ta sẽ được hỏi, bạn đã đối xử với người ngoại quốc như thế nào?” (Đức Giáo Hoàng Leo XIV ám chỉ lời trong Ma-thi-ơ 25:35: “Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi tiếp rước.”).

Với người Công Giáo, việc giúp người nghèo và người bị thiệt thòi nói chung luôn là nền tảng của đức tin. Theo một thống kê, có đến hơn 2,000 đoạn Kinh Thánh quy định hoặc ủng hộ việc phục vụ người nghèo và tận hiến cho công lý. Tiếng nói chỉ trích của các giám mục về chính sách tàn bạo nhằm vào người nhập cư đang tạo sức ảnh hưởng mạnh. Khắp nơi, từ New Jersey đến California, các linh mục và mục sư dẫn đầu những cuộc biểu tình, tẩy chay lực lượng ICE và đưa ra các sáng kiến chống lại hành động tàn bạo của ICE (“Who can tame Trump? An unlikely candidate is emerging: the Catholic church”/The Guardian).

Tòa Bạch Ốc vs. Vatican

Không dừng lại ở vấn đề nhập cư, Đức Giáo Hoàng Leo XIV còn lên tiếng mạnh mẽ về chính sách đối ngoại của Trump. Ngài kêu gọi Trump không sử dụng vũ lực để lật đổ Tổng Thống Nicolás Maduro của Venezuela. “Với bạo lực, chúng ta sẽ không thắng,” Ngài nhấn mạnh. Đức giáo hoàng lo rằng việc Mỹ tăng cường hiện diện quân sự tại Caribe, thực hiện 21 cuộc tấn công vào những con tàu tình nghi vận chuyển ma túy (khiến ít nhất 83 người thiệt mạng), cùng lời đe dọa trực tiếp nhắm vào Nicolás Maduro chỉ làm tình hình thêm căng thẳng, và cuối cùng người dân Venezuela là những kẻ chịu khổ.

Về Ukraine, Đức Giáo Hoàng Leo XIV cảnh báo kế hoạch hòa bình của ông Trump – vốn nhượng bộ Nga và gần như loại bỏ sự can dự Châu Âu – đang đe dọa phá vỡ liên minh truyền thống xuyên Đại Tây Dương. “Không thể tìm kiếm thỏa thuận hòa bình mà không có Châu Âu,” Đức Giáo Hoàng Leo XIV khẳng định sau cuộc gặp Tổng Thống Volodymyr Zelensky của Ukraine. Ngài cũng chỉ trích những phát ngôn của ông Trump khi gọi lãnh đạo Châu Âu là “yếu kém” và nói châu lục này đang “suy tàn.”

Tòa Bạch Ốc dĩ nhiên phản ứng gay gắt. Thư Ký Báo Chí Karoline Leavitt bác bỏ cáo buộc việc “đối xử vô nhân đạo” với người nhập cư và đổ lỗi cho chính sách thời Biden. Phần mình, ông Trump tỏ ra “ngạc nhiên” trước các chỉ trích từ đức giáo hoàng, nói mình “chẳng nghe ông ấy nói gì cả,” và nhắc rằng anh trai của đức giáo hoàng – ông Louis Prevost – là người ủng hộ MAGA nhiệt tình (“White House pushes back on Pope Leo’s statement that immigrants are subject to ‘inhuman treatment’ in the US”/Politico).

Sự đối đầu giữa Vatican và Tòa Bạch Ốc không phải mới. Ngày 18 Tháng Hai, 2016, (cố) Đức Giáo Hoàng Phanxicô (người Argentina) từng nói: “Kẻ nào chỉ nghĩ đến việc xây những bức tường, bất kể ở đâu, chứ không phải xây những cây cầu, thì kẻ ấy không phải là người theo đạo Cơ Đốc. Điều này không có trong Phúc Âm.”

Giờ đây, với Đức Giáo Hoàng Leo XIV – một người Mỹ – cuộc xung đột mang tính nội tại hơn. Nhà bình luận Công Giáo Austen Ivereigh nhận xét Đức Giáo Hoàng Leo XIV đang “đặt ra một áp lực lớn lên chính quyền Mỹ, đặc biệt với những người Công Giáo trong nội các Trump như JD Vance hay Marco Rubio.” Trong khi đó, chuyên gia Anna Rowlands từ đại học Durham University (Anh) bình luận rằng kinh nghiệm “làm người di cư” của chính đức giáo hoàng tại Peru đã định hình lập trường của Ngài, đặc biệt việc bảo vệ quyền được đoàn tụ gia đình cũng như nhu cầu tinh thần của người bị giam giữ.

Phe bảo thủ gọi Đức Giáo Hoàng Leo XIV là “Giáo hoàng thức tỉnh” (woke pope). Cần nhắc lại, chủ nghĩa dân tộc Kitô giáo (Christian nationalism) xưa giờ vẫn đồng hành chặt chẽ với phong trào MAGA. Tuy nhiên, với tư cách là đức giáo hoàng người Mỹ đầu tiên, Đức Giáo Hoàng Leo XIV lợi thế mà không bất kỳ chính trị gia nào, kể cả Trump, có được. Đó là việc đánh động trực tiếp đến lương tâm hàng chục triệu người Mỹ mà không bị coi là “có sự can thiệp từ bên ngoài.” Cũng cần nhấn mạnh: ông Trump, 79 tuổi, chỉ “gọi gió hô mây” ba năm nữa; trong khi đó, Đức Giáo Hoàng Leo XIV 70 tuổi, từ nay đến khi về với nước Chúa, sẽ cai quản cộng đồng giáo dân 1.3 tỷ người trong đó có 20% dân số Mỹ.

Sức mạnh chính trị, trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, không là một tính chất vĩnh hằng. Chỉ có việc đặt phẩm giá con người làm trung tâm mới mang lại giá trị trường tồn. Chống lại bạo lực lẫn sự thiếu đạo đức, Đức Giáo Hoàng Leo XIV kêu gọi “công lý, đoàn kết và sự tôn kính thực sự với sự sống.” Từ Dinh Thự Giáo Hoàng ở Castel Gandolfo cách Rome khoảng 25 km – nơi Ngài thường xuyên tiếp xúc báo chí, Đức Giáo Hoàng Leo XIV đưa ra một thông điệp có sức lay động, không chỉ với Washington mà cả toàn cầu: Phẩm giá con người không thể bị bóp nát bởi bàn tay chính trị thô lậu và không thể được biện minh bằng bất kỳ lý lẽ bất nhân nào. [dt]


 

GP Cần Thơ sẽ tổ chức Thánh Lễ Phong Thánh LM Trương Bửu Diệp năm 2026

Ba’o Nguoi-Viet

December 21, 2025

CẦN THƠ, Việt Nam (NV) – Giáo Phận Cần Thơ, Việt Nam, sẽ tổ chức Thánh Lễ Phong Chân Phước Cố Linh Mục Trương Bửu Diệp vào Thứ Năm, 2 Tháng Bảy, 2026, tại Trung Tâm Hành Hương Tắc Sậy, xã Phong Thạnh, tỉnh Cà Mau.

Hôm Thứ Sáu, 19 Tháng Mười Hai, Giám Mục Lê Tấn Lợi, giám mục Giáo Phận Cần Thơ, gởi ra thông cáo cho biết như vậy.

Tượng Linh Mục Trương Bửu Diệp tại văn phòng Truong Buu Diep Foundation, Garden Grove. (Hình minh họa: Facebook Truong Buu Diep Foundation)

“Trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, Tòa Giám Mục Giáo Phận Cần Thơ hân hoan loan báo một niềm vui trọng đại của giáo phận và của giáo hội tại Việt Nam: Tòa Thánh đã chính thức chấp thuận việc tổ chức Thánh Lễ Phong Chân Phước cho Tôi Tớ Chúa – Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp, do đặc sứ của Đức Thánh Cha Leo XIV là Đức Hồng Y Luis Antonio G. Tagle, quyền bộ trưởng Bộ Loan Báo Tin Mừng, chủ sự,” thông cáo cho biết.

Giám Mục Lê Tấn Lợi cho biết thêm: “Đây là hồng ân đặc biệt Chúa ban cho giáo phận chúng ta, đồng thời là niềm khích lệ lớn lao cho mọi thành phần dân Chúa noi gương Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp trung thành sống đức tin, nồng nàn yêu mến Chúa và tận tâm hy sinh phục vụ tha nhân.”

“Xin toàn thể cộng đoàn dân Chúa hiệp thông trong lời tạ ơn Thiên Chúa, đồng thời sốt sắng cầu nguyện cho công việc chuẩn bị và tổ chức Thánh lễ Phong Chân Phước được diễn ra tốt đẹp và sinh nhiều hoa trái thiêng liêng,” vị giám mục chánh tòa Cần Thơ thêm.

Giám mục kêu gọi: “Tôi tha thiết kêu gọi quý linh mục, tu sĩ nam nữ và anh chị em giáo dân, trong khả năng và trách nhiệm của mình, nhiệt tình cộng tác và chung tay góp phần để việc tổ chức Thánh Lễ Phong Chân Phước Phanxicô Trương Bửu Diệp được sốt sắng, chu đáo và tràn đầy ý nghĩa đức tin.”

Được biết đây là lần đầu tiên có một Thánh Lễ Phong Chân Phước được cử hành tại Việt Nam. 

Thông cáo của Giám Mục Lê Tấn Tới nói về việc tổ chức Thánh Lễ Phong Chân Phước Cố Linh Mục Trương Bửu Diệp. (Hình: Giáo Phận Cần Thơ)

Tiểu sử Linh Mục Trương Bửu Diệp

Theo Vatican News, Linh Mục Trương Bửu Diệp sinh ngày 1 Tháng Giêng, 1897, tại họ đạo Cồn Phước, làng Tấn Đức, nay thuộc ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

Thân phụ của linh mục là ông Trương Văn Đặng và thân mẫu là bà Lê Thị Thanh. Năm 1904, sau khi mẹ qua đời, vị linh mục tương lai theo cha sang tỉnh Battambang, Cambodia, sinh sống.

Năm 1909, linh mục vào Tiểu Chủng Viện Cù Lao Giêng, sau đó, tiếp tục tu học tại Đại Chủng Viện Phnom Penh, Cambodia, và được thụ phong linh mục tại thủ đô nước này năm 1924.

Từ năm 1924 đến năm 1927, linh mục được bổ nhiệm làm phó xứ Hố Trư, một họ đạo của người Việt Nam sinh sống tại tỉnh Kandal, Cambodia. Từ năm 1927 đến năm 1929, Linh Mục Trương Bửu Diệp về làm giáo sư tại Tiểu Chủng Viện Cù Lao Giêng.

Từ năm 1930, linh mục được bổ nhiệm làm chánh xứ họ đạo Tắc Sậy, tỉnh Bạc Liêu, nay thuộc xã Phong Thạnh, tỉnh Cà Mau.

Suốt 16 năm thi hành sứ vụ, linh mục tận tụy chăm sóc đoàn chiên, đặc biệt yêu thương người nghèo, không phân biệt lương giáo. Giữa thời loạn lạc chiến tranh, dù được khuyên lánh nạn, linh mục vẫn kiên quyết ở lại với giáo dân, khi nói: “Tôi sống giữa đoàn chiên và nếu có chết cũng giữa đoàn chiên.”

Ngày 12 Tháng Ba, 1946, Linh Mục Trương Bửu Diệp bị Nhật bắt cùng với hơn 70 giáo dân họ Tắc Sậy. Linh mục đứng ra tranh đấu cho dân, đồng thời an ủi những người cùng bị giam. Sau lần thứ ba bị mời đi làm việc, linh mục không trở về. Sau đó vài ngày, giáo dân tìm thấy xác linh mục tại một cái ao, với vết chém sau ót ngang mang tai và thân xác trần trụi như Chúa Giêsu trên thập giá.

Thi hài linh mục được vớt lên và chôn cất trong phòng thánh nhà thờ Khúc Tréo, Bạc Liêu, đến năm 1969 thì được di dời về an táng tại Tắc Sậy, nơi ngày nay trở thành điểm hành hương của đông đảo tín hữu kính nhớ một vị mục tử đã sống và chết vì đoàn chiên.

Sau khi linh mục qua đời, rất nhiều tín hữu bắt đầu đến kính viếng mộ linh mục, xin linh mục chuyển cầu và nhận được nhiều phép lạ.

Nhà thờ Tắc Sậy ở xã Phong Thạnh, tỉnh Cà Mau. (Hình: Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Việt Nam)

Án phong Chân Phước 

Năm 2013, Giám Mục Tri Bửu Thiên, giám mục Giáo Phận Cần Thơ,  mở án điều tra cấp giáo phận, thu thập chứng cứ, lời chứng, và các phép lạ. Hồ sơ được hoàn tất vào năm 2017 và được gửi sang Vatican. Năm 2019, Bộ Tuyên Thánh kết luận điều tra có giá trị để khởi sự án phong Chân Phước.

Ngày 25 Tháng Mười Một, 2024, trong cuộc tiếp kiến dành cho Hồng Y Marcello Semeraro, bộ trưởng Bộ Phong Thánh, Đức Giáo Hoàng Francis cho phép bộ ban hành sắc lệnh nhìn nhận sự tử đạo của Linh Mục Trương Bửu Diệp (bị giết vì sự căm thù đức tin).

Trong thư đề ngày 3 Tháng Mười Hai, gởi đến Linh Mục Cleber Willian Lopes Pombal, thuộc Dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ, Tổng Giám Mục Edgar Pena Parra, phụ tá quốc vụ khanh Tòa Thánh Vatican, cho biết, theo ý định của Đức Giáo Hoàng Leo XIV, nghi thức tuyên phong Chân Phước cho Đấng Đáng Kính Tôi Tớ Chúa Phanxicô Trương Bửu Diệp sẽ được cử hành vào vào Tháng Bảy, 2026, như đã nêu ở trên.

Nhà thờ Tắc Sậy 

Theo trang web vietnamtourist.com, nhà thờ Tắc Sậy, hay còn biết đến là nhà thờ Cha Diệp, được xem là một trong những nhà thờ Công Giáo đẹp nhất miền Tây sông nước. Đây cũng là nơi an nghỉ cuối cùng của Linh Mục Trương Bửu Diệp.

Nhà thờ được xây dựng năm 1925 và Linh Mục Trần Minh Kính là chánh xứ đầu tiên, từ Tháng Tám, 1926. Năm 1930, Linh Mục Trương Bửu Diệp là chánh xứ.

Tên Tắc Sậy xuất phát từ đặc điểm địa hình vùng này, có nhiều lau sậy, muốn đi vào nhà thờ phải đi qua một con đường tắt. Do người Nam biến âm “tắt” thành “tắc,” cho nên có tên Tắc Sậy.

Ngày nay, nhà thờ là một trong những điểm hành hương nổi tiếng nhất Việt Nam, thu hút nhiều du khách và giáo dân đến chiêm ngưỡng, dâng lễ, cầu nguyện, và khấn vái,…nhất là trong dịp Tết, những ngày lễ lớn của người Công Giáo, và ngày giỗ Linh Mục Trương Bửu Diệp. (Đ.D.)


 

NGHĨ KHÁC ĐI ĐỂ HẠNH PHÚC

Những Câu Chuyện Thú Vị

– Khi chán nản, hãy nghĩ xem mình còn lại bao nhiêu ngày để dằn vặt, còn bao nhiêu thời gian để phung phí? Bạn vui, một ngày cũng qua đi, bạn buồn một ngày cũng kết thúc. Nếu nhận ra điều này hẳn sẽ không dễ dãi để cuộc sống mình âm u nữa.

– Khi phiền muộn, hãy nghĩ xem thật ra cuộc sống là những phép trừ, gặp nhau một lần là ít đi một lần, sống hết một ngày là giảm đi một ngày, có gì đáng để phí hoài? Không quên tình nghĩa, không nghĩ thị phi, không chấp oan trái, không nợ nần ai, không thẹn với lương tâm là được.

– Khi thấy bi thương, hãy xem cuộc sống là một hành trình, chúng ta đến đây hai tay trắng thì rời đi cũng sẽ như vậy, không thể mang theo dù chỉ là hạt bụi hay một áng mây bay. Những công danh lợi lộc, những thế thái nhân tình, đều phải để lại. Hiểu rõ điều này rồi thì có gì phải bận tâm mà phiền lòng?

Khi không được như ý, hãy so sánh với sự bận rộn của những người giàu có, chúng ta sống biết đủ chính là niềm hạnh phúc. Rồi nhìn qua những người đang đau khổ trong bệnh viện, chúng ta vẫn mạnh khỏe chính là niềm hạnh phúc. Và hãy xem trên thế giới một giây có bao nhiêu người phải rời đi, chúng ta vẫn còn sống chính là niềm hạnh phúc… Con người muốn có một đời sống khỏe thì tâm phải đơn giản, thân phải nhẹ nhàng.

– Khi nổi giận, hãy nghĩ xem có nên vì những kẻ không đáng mà ấm ức? Có cần vì những việc không quan trọng mà bực mình? Ăn uống đúng cách, làm việc điều độ, vận động vừa đủ, nghỉ ngơi hợp lí, khoản nào tiết kiệm thì tiết kiệm, phần nào nên tiêu thì chi ra. Bạn tốt thì gia đình và người thân mới tốt, mọi người đều sẽ tốt.

– Khi tính toán, hãy nghĩ xem con người đi một vòng trong thế gian đều trở về điểm 0, sao phải chi li so bì, không biết nhường nhịn? Nói nhiều thì tổn thương người, tính nhiều thì tổn thần khí, chi bằng đừng so đo nữa, làm một người vui vẻ dễ chịu, không thẹn với lòng!

Làm người, còn sống được là tốt.

Có cơm để ăn, có nước để uống, có áo để mặc, có giường để ngủ, có núi để leo, có sách để đọc, có việc làm ổn định đó chính là hạnh phúc.

Bài và ảnh sưu tầm.

Mỹ tấn công tổ chức Nhà nước Hồi giáo tại Nigeria đúng vào ngày Giáng Sinh – RFI

RFI

Cuộc tấn công của Mỹ nhắm vào các lực lượng thuộc tổ chức Nhà nước Hồi giáo (Daech / IS) tại Nigeria đã diễn ra đúng vào ngày Giáng Sinh, 25/12/2025. Trên mạng Truth Social, tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố : « Chúc mừng Giáng Sinh với mọi người, kể cả với những phần tử khủng bố đã chết ». Ông đe dọa « sẽ có thêm nhiều kẻ khủng bố khác bị tiêu diệt nếu việc thảm sát tín đồ Thiên Chúa Giáo tiếp diễn ».

Đăng ngày: 26/12/2025 

 

Tại một sạp báo ở Lagos, Nigeria, ngày 26/12/2025: Trang nhất của các báo đưa tin về những cuộc không kích của Mỹ nhắm vào các phần tử Nhà nước Hồi giáo tại Nigeria. REUTERS – Sodiq Adelakun

Trọng Thành

Theo AFP, Nigeria đã xác nhận các vụ tấn công của Mỹ, đồng thời « cam kết hợp tác » với các đối tác quốc tế trong đó có Mỹ, nhằm chống lại mối đe dọa khủng bố và bạo lực cực đoan, nhưng bác bỏ thông tin về làn sóng thảm sát nhắm vào người Thiên Chúa Giáo.

Thông tín viên Loubna Anaki tường trình từ New York :

« Tôi đã cảnh báo những phần tử khủng bố này, nếu họ không ngừng thảm sát tín đồ Thiên Chúa Giáo, họ sẽ phải trả giá đắt. Và tối nay họ đã phải trả giá ». Với những lời lẽ như trên, tổng thống Mỹ thông báo Washington đã tiến hành nhiều cuộc không kích tại Nigieria. Nhiều cuộc oanh kích nhắm vào các vị trí của lực lượng Nhà nước Hồi giáo tại bang Sotoko ở miền bắc.

Theo lời tư lệnh lực lượng Mỹ tại châu Phi, cuộc can thiệp quân sự này được tiến hành theo đề nghị của chính quyền Nigeria, và « nhiều phần tử khủng bố đã bị tiêu diệt ». Đây là lần đầu tiên Mỹ tiến hành một cuộc can thiệp quân sự như vậy tại Nigeria trong bối cảnh từ nhiều tuần lễ nay, Donald Trump khẳng định tại Nigeria đã diễn ra « làn sóng thảm sát » nhắm vào tín đồ Thiên Chúa Giáo.

Tuyên bố của ông Trump bị chính quyền địa phương bác bỏ. Tuy nhiên điều này không khiến chủ nhân Nhà Trắng ngừng đe dọa tiến hành can thiệp vũ trang. Bộ trưởng Chiến Tranh Pete Hegseth đã hoan nghênh chiến dịch quân sự đêm qua và cảnh báo có thể sẽ có các chiến dịch khác.

Hơn một nửa trong tổng số 180 triệu dân của Nigeria theo đạo Hồi, chiếm đa số khu vực phía bắc. Phía nam, đa số dân Nigeria theo Thiên Chúa Giáo. Theo AFP, chính quyền Nigeria và giới nghiên cứu độc lập không thừa nhận nạn truy bức tôn giáo tại quốc gia này, một cáo buộc thường xuyên được nêu ra bởi phe chủ trương ly khai tại Nigeria, vốn có nhiều ảnh hưởng tại Washington.


 

LÒNG THAM VÔ ĐÁY NHƯNG CHỈ CẦN NHỮNG MẨU BÁNH VỤN VẶT

Luân Lê

 Mỗi chúng ta ai cũng có nhu cầu để được sống tốt đẹp và thịnh vượng hơn, nhưng không đồng nghĩa với việc gắng sao cho thoả lòng tham của mình đối với những giá trị của người khác và để làm những điều bất chính. Lòng tham là con đường nhanh nhất dẫn đến tai hoạ và những thảm kịch.

Mới nghe thì có vẻ như đã thấy nhận định này của tôi hàm chứa trong đó đầy những mâu thuẫn và sẽ có nhiều người muốn mắng tôi ngay khi đọc những câu này. Thế nhưng xin nhẫn nại thêm một chút và chúng ta cùng nhau mổ xẻ điều tôi vừa nói.

Chẳng phải gì to tát đâu xa, tôi nói ngay đến việc người ta hành xử với nhau tàn ác còn hơn cả loài cầm thú mà chúng sẵn sàng giết thịt nhau khi có loài nào đó tấn công cái tổ hoặc cướp đi miếng ăn của nó. Có phải gì hiếm hoi đâu, chuyện những người không may mà đi trộm chó, mèo, gà, trâu hay các tài sản khác của người dân ở những vùng quê, người ta phát hiện ra thì những tên trộm cắp kia chỉ có nước chết hoặc thương tật đầy mình. Dân làng xúm vào đánh đập, gậy gộc đủ cả, cứ thế mà nã vào đầu, phang vào chân, tay, mạng sườn kẻ cắp cho đến khi chết. Thế có phải là người ta quyết bảo vệ tài sản của mình đến cùng bằng những hành động vô nhân tính hay không.

Những hành vi ấy quả là man rợ không có đất nước văn minh nào làm thế như dân chúng ta. Thử hỏi luật pháp và chính phủ còn có giá trị gì nữa để mà duy trì và điều chỉnh hành vi con người. Nhìn vào đấy thì thấy rõ là người dân sẽ làm mọi cách kể cả là hung bạo và dãn man nhất để quyết bảo vệ cho được tài sản của mình, dù chẳng phải gì to tát. Hiện trạng này ở các vùng quê thì không thiếu. Vậy có phải là họ đang hành xử không cả bằng thời thực dân, phong kiến? Ngày xưa còn có công đường để kêu quan khi làng xóm mâu thuẫn, bắt được kẻ trộm, cướp thì đều lôi lên quan mà tâu bẩm và xét xử theo luật lệ. Chứ cũng không đến nỗi như bây giờ. Mà một dân tộc tàn ác với nhau như thế có khi nào đất nước văn minh và tốt hơn lên được? Mà nó chỉ làm cho con người ngày càng tàn bạo và coi thường luật pháp hơn thôi, như thế thì cái chính phủ kia cũng bị xem thường chứ đâu có giá trị gì để mà người dân cần đến. Quả là nguy cấp cho một đất nước mà con người sẵn sàng hung khí, hô hào một cách hung hãn để mà hành hạ đồng loại mình. Thật đau đớn và bại hoại hết chỗ nói.

Với chuyện con chó, con trâu đã kinh khủng như vậy. Vậy còn chuyện hôi của khi có người bị tai nạn trên đường, chuyện ngang nhiên nhặt tài sản của người khác mang về sử dụng. Đấy là hành vi khác gì trộm cướp và coi khinh luật pháp đâu. Thế thì quả là loạn lạc thực sự rồi chứ còn phải chờ đợi đến đao binh, bom đạn, chém giết gì mới cho là loạn lạc.

Với cái miếng ăn và tài sản của mình thì bảo vệ bằng được, nhưng sẵn của người khác hở ra là lấy cắp. Mà cũng bởi lối suy nghĩ này nên hầu như là ai cũng tính vào chính phủ để có quyền chức mà tìm cách đục khoét của công, làm giàu cho mình và gia đình. Cứ nhìn vào tệ trạng tham nhũng, sự suy thoái về con người, các cơ sở hạ tầng quốc gia thiếu thốn, sơ sài, yếu kém thì có thể thấy rõ nó là kết quả của việc vơ vét cho đầy túi tham của mình mà không để tâm gì đến việc chung của đất nước… tất cả đều xuất phát từ lòng tham vô đáy mà nên.

Thế nhưng đó chỉ là những cái vụn vặt và nhỏ mọn thôi, chỉ như những mẩu bánh có thể ăn được ngay tức khắc. Còn cái lớn hơn như chuyện chính sách kinh doanh làm ăn, chuyện đánh thuế tiêu dùng, chuyện chèn ép thương nhân, chuyện bị gây phiền hà trong công việc, chuyện bị cướp đoạt tài sản bằng cách tham nhũng ngân khố quốc gia với những con số khổng lồ, mà tất cả những cái đó rất thiết thực đánh vào túi tiền và chất lượng sống, vào điều kiện kinh doanh và cơ hội phát triển của người dân, thì dân chúng lại thờ ơ như chuyện riêng của nhà quan, chẳng màng gì cả, vì người ta không thấy nó bị thiệt hại gì như việc tên trộm, cướp lẻn vào nhà bắt trộm con chó hay dắt trộm trâu, bò của người ta đi mất. Nhận thức của người dân khiến tôi lo lắng tới những hậu họa khôn lường, vì nếu một lúc nào đó họ không thể lao động đủ để đóng thuế, sông hồ và không khí ô nhiễm, thực phẩm độc hại, bệnh viện thì tăng giá, giáo dục thì nâng học phí, lộ phí đi đường và xăng, dầu, điện, nước cứ leo thang. Thế thì họ định sống thế nào và làm gì để mà trả cho những thứ đó hay lại nhăm nhăm để cướp giật của người khác?

Mà cũng vì cái lòng tham vô đáy nhưng lại dễ thỏa mãn bằng những cái nhỏ nhặt này của người Việt mà các quốc gia khác lợi dụng điểm yếu đó để khai thác và bóc lột chúng ta từ tài nguyên thiên nhiên đến trí tuệ và sức người. Họ chỉ cần rót cho ít vốn vào làm ăn, đầu tư, hoặc cho vay với lãi suất thấp, chuyển giao công nghệ giá rẻ (mà có nguy cơ làm ô nhiễm môi trường, độc hại với con người, năng suất thấp, vận hành tốn kém và lại mau hỏng), cam kết vài điều khoản mà có vẻ như có lợi cho chính phủ, cho người dân bằng cách chia ít lợi nhuận hoặc chia sẻ quyền lợi kinh tế, thế là làm ráo, làm tuốt và làm nhanh cật lực. Bởi thế mà chúng ta cứ bị bóc lột sau khi đã bị dụ dỗ và mua chuộc bằng ít lợi ích cho thỏa cái lòng tham của mình. Đây chính là vấn đề lớn của dân tộc mà chúng ta phải nhận ra và thay đổi, nếu không thì chúng ta sẽ luôn bị mua chuộc và lợi dụng để cho người khác làm ăn mà thôi.

Quốc gia nào mà xây dựng bằng lòng tham, thì quốc gia đó sẽ sụp đổ bởi những mẩu bánh mỳ.

Bởi vậy tôi mới nói, đa phần người dân thì lòng tham vô đáy, nhưng chỉ cần những mẩu bánh vụn vặt để no cái bụng và ấm cái thân là đã đủ rồi, chẳng cần gì khác cả. Quốc gia lụn bại và suy vong cũng từ đây mà ra.

(Trích: MỘT NGƯỜI QUỐC DÂN)


 

 Bài học về chánh trị mà ai cũng thuộc – Nguyễn Gia Việt

Lê Vi

Nguyễn Gia Việt

Chúng ta không cần đọc tin “thuyết âm mưu” kiểu ai đi ai ở, ai giành ai nhường. Vì suy cho cùng ai cũng như ai thôi.

Làm chánh trị đại kị nhứt là biến mình thành kẻ thù của toàn dân. Với kiểu xốc xã hội lên mà không thấy lợi lộc gì, chỉ thấy mất mát hao tốn nhiều hơn.

Xài hình phạt tràn lan trong khi dân hoàn toàn vô sản. Ngày xưa Lão Tử  từng nói, quản trị như chiên cá nhỏ, con cá nhỏ khi chiên chỉ trở một lần, cứ lấy đũa trở riết cá nát bét.

Thế lớn trong thiên hạ, cứ tan lâu rồi lại hợp, hợp lâu rồi lại tan. Đó là câu mở đầu của Tam Quốc Chí.

Không sợ, phải nhìn và bước qua khi bánh xe lịch sử xoay chuyển.

Lịch sử là của chung dân tộc, không phải của hương hoả dòng họ hay cá nhân, đảng phái nào mà muốn làm gì cũng đặng.

Lịch sử buồn nhưng lịch sử công bằng. Lịch sử đi qua và vẫn còn đâu đó. Không thể xóa nhòa hay che ép nó đặng. Tại vì lịch sử khúc đó làm người ta nhớ hoài.

Lịch sử có tánh lặp lại.

Vũ Tài Lục nói “Không đọc sử không đủ tư cách nói chuyện chính trị”.

Không có chế độ chánh trị nào là “mãi mãi” dù là cai trị tàn bạo.

Nhìn lịch sử Đông Tây thấy rõ ràng hễ là chế độ chánh trị thì cũng có thời, tức là có lên có xuống, lên làm sau thì xuống như vậy.

Nghiệp quả.

Chúng ta thấy nhà Trần ở VN lợi dụng hôn nhân lên ngôi thì sau đó bị nhà Hồ cũng dùng hôn nhân mà lật.

Chu Nguyên Chương dùng khởi nghĩa nông dân lật Nguyên Mông lập ra Minh triều thì sau đó cũng bị một cuộc khởi nghĩa nông dân khác do Lý Tự Thành lật đổ.

Có những triều đại, thể chế hùng cường, sức ảnh hưởng của nó kinh khủng.

Bên Châu Âu chúng ta nhìn lại thời kỳ hưng thịnh của đế chế Công Giáo Vatican khi từ thần quyền lan qua tới pháp quyền, chánh trị, cai trị và rồi cũng có ngày chựng lại lui vào nhà thờ và trao trả quyền quyết định chánh trị lại cho mọi người dân.

Hay thời đế quốc Anh, khi nữ hòang Victoria còn tại vị mà, đất của Anh trên khắp thế giới đến nổi có câu truyền ”Mặt trời không bao giờ lặn trên đất của đế quốc Anh”, nhưng rồi sau đó các xứ đòi độc lập, Anh cũng cũng phải lui về phía sau, thời thế mà.

Ở Châu Á, sẽ lấy ví dụ quân Mông Cổ và nhà  Nguyên  Mông.

Có một thời người Mông Cổ-đế chế Mông Cổ đặt chân từ Á sang Âu. Vó ngựa Mông Cổ kéo dài từ thảo nguyên Mông Cổ xuống Trung Hoa, qua Nhựt Bổn, Triều Tiên, Đại Việt, Miến Điện, Java, sang Ba Tư. Từ vùng đất lạnh giá như Siberia cũng như vùng đất nóng bức Arabia, tới Đông Âu như: Moscou, Vladmir (Nga), Kiev (Ukraine), Varsovie, Cracovie (Ba Lan), Lienitz (Đông Đức), Budapest (Hungary), tiến đến sát thành Vienne (Áo), tiến tới sông Volga…

Quân Mông Cổ tới đâu cũng đốt phá, cướp bóc, giết người, hãm hiếp tàn bạo.

Năm 1271, Hốt Tất Liệt đã tuyên bố thành lập nhà Nguyên, triều đại Nguyên Mông cai trị nước Trung Hoa trong hai thế kỷ 13 và 14, cai trị Trung Hoa 97 năm (1271- 1368). Tuy nhiên sử gia Trung Hoa chỉ công nhận từ năm 1280 là năm nhà Tống không còn cầm quyền nữa đến năm 1368 là năm người Mông Cổ bị đuổi khỏi Trung Hoa, dài 88 năm, gồm 11 đời vua.

Trong 97 năm cai trị, Mông Nguyên đã tàn bạo với Trung Hoa với chánh sách không nhẹ tay.

Nguyên Mông thi hành chánh sách áp bức bóc lột phân chia giai cấp hết sức tàn nhẫn, phân loại như sau: Mông Cổ là số 1,tới là Hồi, Thổ, Tạng, Tây Hạ, Ba Tư …Dưới là  Khiết Đan, Nữ Chân, cuối cùng bét nhứt là Hán mà Mông Cổ gọi là “Nam Nhân”.

Người Hán không được cầm võ khí, không được tụ tập đông người, không được tụ họp đi săn, hành lễ tôn giáo…Mông Cổ diệt 5 họ lớn của người Hán.

Người Mông Cổ được ưu tiên như khi bị tội giết người thì người Mông Cổ chỉ bị phạt bằng gậy và đưa lên biên giới phía Bắc xung vào quân đội, còn người Hán và các dân tộc khác bị xử tử.

Người Hán không được lấy người Mông Cổ làm vợ, nhưng Mông Cổ có quyền lấy thiếp người Hán. Người Hán ít được bổ vào cơ quan hành chánh.

Về thuế khóa, Mông Cổ được miễn, các dân tộc khác nộp 1/3, Hán tộc hay Nam nhân nộp toàn bộ. Ruộng đất của người Hán bị Mông Cổ chiếm đoạt gần hết ,người Hán chỉ làm nô tì, nông nô hạng bét.

Dận số Trung Hoa thời kỳ đầu nhà Nguyên Mông có 100 triệu người, sang cuối triều Nguyên chỉ còn 60 tới 80 triệu người.

Đến cuối nhà Nguyên dân Trung Hoa đói rả ruột. Đê điều không tu sửa nên bể nhiều trận dân chết cả vùng, dân chết đói thê thảm, dịch bịnh tràn lan. Tương truyền nhà Chu Nguyên Chương chỉ còn 3 hột lúa.

Cứ nghĩ những chánh sách giết-cướp-cai trị tàn bạo của Nguyên Mông là mãi mãi?

Không.

Sau những năm đó xuất hiện rất nhiều cuộc khởi nghĩa từ tôn giáo tới nông dân.

Chu Nguyên Chương (1328 – 1398) xuất  thân  từ  gia đình bần nông,năm 17 tuổi, cha và anh đều bị chết vì bịnh dịch, Chu Nguyên Chương phải xuất gia làm sư, vì gặp năm đói, phải đi khất thực ở nhiều nơi .

Từ năm 1352 Chu Nguyên Chương tham gia Hồng Cân quân (quân khăn đỏ) của Quách Tử Hưng tới tháng giêng năm 1368 Chu Nguyên Chương xưng đế, kể ra có 16 năm chinh chiến.

Khẩu hiệu “Đánh giặc Hồ, khôi phục Trung Hoa, cứu dân tộc Hán”.

Sau khi lên ngôi,trước tình cảnh kinh tế be bét, dân đói tràn lan, Chu Nguyên Chương phải thi hành nhiều chánh sách an dân thời hậu chiến.

Ông nhận thức được rằng: “Thiên hạ mới định, tài lực trăm họ còn khó khăn, giống như con chim mới tập bay, không thể nhổ lông nó, như cái cây mới trồng, không thể lay gốc nó mà phải nâng niu nuôi dưỡng”.

Chúng ta không thể không nhắc tới sự tàn bạo của nhà Minh khi xâm lăng Đại Việt.

Năm 1407 thời Minh Thành Tổ Chu Đệ, nhà Minh tràn qua chiếm nước Việt thời Đại Ngu của họ Hồ. Sau đó thi hành chánh sách cực kỳ tàn bạo, đốt sách, phá chùa, phá hủy tận diệt nền văn hiến của Việt Nam, bắt hết những trí thức của chúng ta qua Tàu, con nít mà đẹp cũng bắt luôn.

Nhà Minh với Trương Phụ cai trị Việt Nam bằng máu, tàn sát  đốt phá và hủy diệt.

Minh Thành Tổ từng nói  rằng: “An Nam vốn cùng chữ viết và phong tục tập quán giống người Trung Hoa, lại đã từng là đất của Trung Hoa hơn  một ngàn năm trước kia.”

Nhưng rồi chúng ta có Lê Lợi,có Nguyễn Trãi, có khởi nghĩa Lam Sơn..

Kể từ năm 1407 khi nhà Minh đánh bại nhà Hồ cai trị Việt Nam và chấm dứt năm 1427 khi Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh, thì có 20 năm Minh đô hộ xứ Việt trong máu và máu.

Và từ năm 1416 khi  Lê Lợi chánh thức khởi nghĩa, và năm 1428 khi ông lên ngôi lập ra nhà Hậu Lê, vị chi Lê Lợi có 12 năm chinh chiến.

Thịnh cực tất suy, dân ý thức sẽ làm chánh trị, một cuộc cách mạng.

Chánh trị mà, dân tộc đất nước trường tồn chứ “chế độ chánh trị”cũng có lúc lên có lúc cáo chung thôi, không có gì là mãi mãi hết.

Tuấn kiệt như sao buổi  sớm

Nhơn tài như lá màu thu.

– Nguyễn Gia Việt


 

Vươn mình, nhìn từ bài học Minh trị, Minh mạng

Ba’o Tieng Dan

24/12/2025

Mai Phan Lợi

Dòng chảy lịch sử đôi khi đặt các dân tộc trước những ngã rẽ rất hẹp: Hoặc bước tới bằng một cú nhảy đau đớn, hoặc đứng lại để rồi bị cuốn trôi.

Nhìn vào hai cái tên tưởng như chỉ cách nhau một chữ “Minh” – Minh Trị và Minh Mạng – mới thấy sự khác biệt trong lựa chọn tư duy có thể quyết định số phận của cả một quốc gia.

Và từ những bài học ấy, câu chuyện “vươn mình” hôm nay hiện lên không còn là khẩu hiệu, mà là một đòi hỏi khắc nghiệt của thời đại.

Giữa thế kỷ XIX, Nhật Bản dưới thời Minh Trị đã chấp nhận tự mổ xẻ chính mình. Thiên hoàng và tầng lớp lãnh đạo trẻ hiểu rằng nếu tiếp tục khép cửa trong chiếc áo giáp truyền thống, Nhật Bản sẽ trở thành miếng mồi của phương Tây.

Vì thế, họ dám làm những việc bị coi là “phản truyền thống”: Bãi bỏ chế độ phiên trấn, xóa đặc quyền của võ sĩ samurai, gửi sứ đoàn Iwakura sang châu Âu – Mỹ học cách tổ chức nhà nước, xây dựng quân đội, cải cách giáo dục.

Đó là một cuộc cách mạng từ trên xuống, quyết liệt và liên tục, chấp nhận trả giá để đổi lấy tương lai. Kết quả là chỉ sau vài thập niên, Nhật Bản bước ra khỏi thân phận một nước phong kiến để trở thành cường quốc công nghiệp.

Trong khi đó, ở Việt Nam cùng thời, triều Minh Mạng lại lựa chọn con đường ngược lại. Trước những biến động dữ dội của thế giới, triều đình ưu tiên sự ổn định nội tại, siết chặt tư tưởng, hạn chế giao thương, bế quan tỏa cảng và duy trì trật tự cũ.

Chân dung vua Minh Mạng (trái) được minh họa trong cuốn sách “Journal of an Embassy to the Courts of Siam and Cochin-China, exhibiting a view of the actual State of these Kingdoms của John Crawfurd (1783-1868), in ở London năm 1828. Ảnh phải: Thiên hoàng Minh Trị năm 1873. Nguồn: Wikimedia/ Tiếng Dân edit

Những quyết sách ấy xuất phát từ mong muốn bảo vệ nền nếp và quyền lực truyền thống, nhưng hệ quả là đất nước ngày càng lạc hậu, không đủ sức đề kháng khi làn sóng xâm lược của thực dân phương Tây ập đến.

Lịch sử đã ghi lại cái giá của sự chậm trễ ấy bằng cả một giai đoạn mất chủ quyền và đau thương kéo dài.

Đặt hai hình ảnh đó cạnh nhau, người ta dễ nhận ra một điểm chung đáng suy ngẫm: Trong những thời khắc sinh tử, cải cách không bao giờ là con đường bằng phẳng. Nó luôn vấp phải sự phản kháng – khi thì từ thói quen, khi thì từ lợi ích đã ăn sâu vào cấu trúc quyền lực.

Thời Minh Trị, tầng lớp samurai mất bổng lộc đã nổi dậy chống đối. Nhưng triều đình Nhật không “hạ nhiệt” cải cách để xoa dịu họ, mà kiên quyết đi tiếp.

Ngược lại, sự bảo thủ thời Minh Mạng lại được củng cố bởi chính những người hưởng lợi từ trật tự cũ, khiến triều đình càng khó thoát khỏi vòng tự trói mình.

Nhìn về hiện tại, câu chuyện “vươn mình” của Việt Nam cũng đang đứng trước thử thách tương tự. Khi cải cách được đặt ra với mục tiêu tinh gọn bộ máy, chống tham nhũng, thay đổi cách vận hành quyền lực và phân bổ nguồn lực, thì sự kháng cự là điều khó tránh.

Những tiếng nói muốn “giữ nguyên để an toàn”, muốn “lò nguội” để bảo toàn lợi ích, về bản chất không khác nhiều so với tư duy đóng cửa của quá khứ.

Lịch sử cho thấy, nếu cải cách bị ngắt quãng hoặc thỏa hiệp nửa vời, cái giá phải trả thường lớn hơn rất nhiều so với những xáo trộn ngắn hạn.

Điểm đáng chú ý trong phép so sánh Minh Trị – Minh Mạng không nằm ở việc thần thánh hóa cá nhân lãnh đạo, mà ở bài học về tính liên tục của cải cách.

Nhật Bản đã không thể “hóa rồng” nếu những chính sách duy tân chỉ kéo dài vài năm rồi bị đảo ngược.

Cũng vậy, bất kỳ nỗ lực thay đổi hệ thống nào ngày nay đều cần thời gian đủ dài để chính sách đi vào đời sống, để những hạt giống mới kịp nảy mầm và đơm hoa.

Sự gián đoạn, trong nhiều trường hợp, chính là món quà cho sự trì trệ.

Sau cùng, lịch sử luôn đặt lên vai người cầm lái một áp lực đạo đức nặng nề. Khi đất nước đứng trước cơ hội và thách thức đan xen, việc chọn cải cách hay né tránh không chỉ là quyết định chính trị, mà là lựa chọn mang tính trách nhiệm với các thế hệ tương lai.

Người Nhật thời Minh Trị đã cải cách trong nỗi lo bị nuốt chửng nếu chậm chân. Việt Nam hôm nay cải cách trong khát vọng không bị bỏ lại phía sau.

Hai hoàn cảnh khác nhau, nhưng cùng chung một lời nhắc: nếu không dám thay đổi khi còn có thể, lịch sử sẽ thay đổi thay chúng ta, theo cách khắc nghiệt hơn nhiều.

Vươn mình, vì thế, không phải là câu chuyện của những lời hô hào, mà là sự lựa chọn giữa Minh Trị và Minh Mạng – giữa dấn bước cải cách để sống, hay co mình giữ ổn định để rồi tụt lại.

Lịch sử đã trả lời một lần, và câu trả lời ấy vẫn còn nguyên giá trị cho hiện tại.


 

 VÌ SAO GIÁO HỘI MỪNG GIÁNG SINH NGÀY 25 THÁNG 12?

Công Giáo Rôma – Chính Trực

 VÌ SAO GIÁO HỘI MỪNG GIÁNG SINH NGÀY 25 THÁNG 12?

Nhiều người cho rằng ngày 25 tháng 12 được chọn để thay thế các lễ hội ngoại giáo của người Rôma như Saturnalia, Sol Invictus hay thần Mithra. Tuy nhiên, đa số các học giả ngày nay không đồng tình với giả thuyết này.

Ngày 25 tháng 12 đã ăn sâu vào tâm thức chúng ta mỗi khi nghĩ đến Giáng Sinh – với cây thông, ánh đèn và hình ảnh ông già Noel. Nhưng liệu đó có thật sự là ngày Chúa Giêsu giáng sinh? Và nếu không thể xác định chính xác, vì sao Giáo Hội lại chọn ngày này để mừng biến cố Nhập Thể?

Các Tin Mừng chỉ cung cấp rất ít chi tiết. Chẳng hạn, thánh Luca kể rằng các thiên thần đã báo tin cho những mục đồng đang canh giữ đàn chiên ngoài đồng (Lc 2,8).

Nhưng liệu các mục đồng có ở ngoài đồng vào giữa mùa đông hay không?

Ông Andrew McGowan, Viện trưởng Chủng viện Thần học Berkeley (Đại học Yale), cho rằng chi tiết này “có thể gợi đến mùa xuân, mùa chiên sinh sản”, vì vào tháng 12 lạnh giá, chiên thường được nhốt lại.

Vậy có phải ngày 25 tháng 12 được chọn để thay thế các lễ ngoại giáo không?

Ông McGowan tỏ ra hoài nghi. Theo ông, giả thuyết này tuy phổ biến nhưng gặp nhiều vấn đề. Trước hết, không có bất cứ văn bản Kitô giáo cổ nào nói rằng Giáo Hội cố ý chọn ngày này để đối trọng với các lễ ngoại giáo. Đúng là các tác giả Kitô giáo thời đầu có liên hệ giữa ngày đông chí và Chúa Kitô – chẳng hạn thánh Ambrôsiô gọi Chúa là “Mặt Trời đích thực”, vượt trên các thần linh giả tạo – nhưng các ngài xem đó là dấu chỉ của chương trình quan phòng Thiên Chúa, chứ không phải kết quả của một sự sắp đặt mang tính chiến lược của Giáo Hội.

Khoảng năm 200, thánh Clêmentê thành Alexandria cho biết đã có nhiều ngày khác nhau được đề nghị cho ngày Chúa Giêsu ra đời, như 20 hoặc 21 tháng 4, hay 20 tháng 5. Đáng chú ý là ngài không hề nhắc đến ngày 25 tháng 12.

Theo Jon Sorenson (Catholic Answers), thánh Hippôlytô thành Rôma, trong tác phẩm Chú giải sách ngôn sứ Đanien (khoảng năm 204), đã khẳng định Chúa Giêsu sinh ngày 25 tháng 12. Ngài viết rằng Chúa giáng sinh tại Bêlem vào ngày 25 tháng 12, và chịu khổ hình vào ngày 25 tháng 3.

Trong một tác phẩm khác của Hippôlytô là Biên niên sử, ngài cho rằng Chúa Giêsu sinh ra chín tháng sau ngày tạo dựng vũ trụ. Theo cách tính của ngài, vũ trụ được tạo dựng vào ngày xuân phân, 25 tháng 3, và vì thế, chín tháng sau – tức ngày 25 tháng 12 – là ngày Chúa giáng sinh.

Ông McGowan cho biết rằng đến thế kỷ IV, đã có hai ngày được nhìn nhận rộng rãi là ngày sinh của Chúa Giêsu: ngày 25 tháng 12 tại Tây phương và ngày 6 tháng 1 tại Đông phương, đặc biệt ở Ai Cập và Tiểu Á.

Điều đáng chú ý là thánh Hippôlytô cũng xác định ngày Chúa chịu chết là 25 tháng 3. Vậy phải chăng Giáo Hội còn biết chính xác cả ngày Chúa chịu đóng đinh? Ông McGowan nhận xét rằng, nghe có vẻ lạ, nhưng chìa khóa để xác định ngày Chúa sinh lại nằm ở việc xác định ngày Chúa chịu chết vào lễ Vượt Qua.

Theo Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu bị đóng đinh đúng lúc chiên Vượt Qua đang được sát tế, tức ngày 14 tháng Nisan theo lịch Do Thái. Còn theo các Tin Mừng Nhất Lãm, Bữa Tiệc Ly diễn ra vào đầu ngày 15, và Chúa chịu đóng đinh vào sáng hôm sau – vẫn là ngày 15. Vào khoảng năm 200, Tertullianô thành Carthage cho biết người ta đã tính rằng ngày 14 tháng Nisan tương ứng với ngày 25 tháng 3 theo lịch Rôma. Ngày này về sau được cử hành là lễ Truyền Tin – đúng chín tháng trước ngày 25 tháng 12.

Đức Bênêđictô XVI cũng xác nhận mối liên hệ này trong tác phẩm Tinh thần Phụng vụ. Khi ấy còn là Hồng y Joseph Ratzinger, ngài viết rằng yếu tố quyết định trong việc xác định ngày Giáng Sinh chính là mối liên kết giữa công trình tạo dựng, Thập Giá và mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa Kitô.

Tại Đông phương, người ta cũng gắn kết ngày Chúa chịu chết và ngày Chúa được thụ thai, nhưng dựa trên lịch Hy Lạp địa phương. Ngày 14 của tháng xuân đầu tiên – tương ứng với ngày 6 tháng 4 – được coi là ngày Chúa chịu chết và nhập thể; chín tháng sau là ngày 6 tháng 1, ngày mừng Giáng Sinh theo truyền thống Đông phương.

Giám mục Êpiphanô thành Salamis viết rằng ngày 6 tháng 4 là ngày “Chiên Thiên Chúa được cưu mang trong lòng trinh khiết của Đức Trinh Nữ thánh thiện, Đấng đã và đang xóa bỏ tội trần gian.” Cho đến nay, Giáo Hội Armenia vẫn mừng lễ Truyền Tin vào đầu tháng 4 và lễ Giáng Sinh vào ngày 6 tháng 1.

Như thế, ngày 25 tháng 12 không đơn thuần là sự vay mượn từ các lễ hội ngoại giáo, nhưng phát xuất từ một suy tư thần học sâu xa của Hội Thánh sơ khai: mầu nhiệm Nhập Thể, Thập Giá và công trình tạo dựng đều quy hướng về cùng một chương trình cứu độ duy nhất của Thiên Chúa.

Jos Nguyen chuyển ngữ  – Aleteia.org)


 

LUẬT NHÂN QUẢ

 

Bạn hãm hại người khác, thì sẽ có người khác hãm hại bạn.

 Bạn lừa dối người khác, cũng sẽ có người khác lừa dối bạn.”

 Đó không phải là lời nguyền, mà là luật nhân quả vận hành một cách âm thầm nhưng chính xác.

Bởi mọi hành động, dù là thiện hay ác, đều để lại dấu vết – và rồi, sớm hay muộn, cuộc đời sẽ trả lại đúng thứ mà bạn đã gieo ra.

 Khi bạn khiến ai đó tổn thương, đừng nghĩ rằng thời gian sẽ làm họ quên. Thời gian chỉ khiến vết thương lắng xuống, để rồi một ngày, chính bạn sẽ nếm lại cảm giác đó trong một hình thức khác.

 Không phải vì ai đó trả thù, mà vì trời đất có luật công bằng của riêng mình. Người hãm hại kẻ khác tưởng rằng mình thắng, nhưng thật ra họ đang đánh mất lòng tin, danh dự và phước phần của chính mình.

 Người lừa dối tưởng rằng mình khôn, nhưng lại đang gieo mầm nghi ngờ, để rồi mai này chính họ sẽ bị lừa trong cay đắng.

Nhân quả không đến ngay, nhưng một khi đã đến, không ai tránh được

 Sống ở đời, khôn ngoan không phải là mưu mẹo, mà là biết nghĩ cho hậu quả của từng việc mình làm.

 Làm điều đúng, lòng nhẹ. Làm điều sai, tâm bất an.

 Càng sống thiện, càng gặp lành; càng sống ác, càng gặp dữ – ấy là quy luật muôn đời, không ai có thể đổi.

Vì vậy, đừng tìm cách hại người để mình được lợi,vì cái lợi ngắn ngủi hôm nay có thể là cái họa dài lâu ngày mai.

 Hãy sống chân thành, ngay thẳng, và biết ơn, bởi cuối cùng, cuộc đời sẽ luôn trả lại cho bạn đúng những gì bạn đã gieo ra – không hơn, không kém.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu


 

Chuyện thật như đùa – Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng 

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

22/12/2025

Diella – Bộ trưởng phụ trách Trí tuệ nhân tạo

Albanie là một nước nhỏ, chưa đến ba triệu dân ở châu Âu. Nước này từng là một quốc gia xã hội chủ nghĩa dưới thời nhà độc tài Enver Hoxha, rồi thoát khỏi chế độ XHCN sau khi Bức tường Berlin và Liên Xô sụp đổ. Nhưng cũng như nhiều nước cựu XHCN khác, Albania mang theo một di sản nặng nề: tham nhũng ăn sâu vào bộ máy quyền lực. Đã lâu người ta không còn nhắc đến đất nước nhỏ bé ấy. Bỗng nhiên, năm 2025, Albania gây chấn động dư luận quốc tế khi tuyên bố bổ nhiệm “cô” Diella làm bộ trưởng, một bộ trưởng hoàn toàn được tạo ra bằng trí tuệ nhân tạo.

Diella trong tiếng Albania có nghĩa là “Mặt Trời”, được chọn như biểu tượng của ánh sáng và minh bạch. Trước đó, Diella chỉ là một trợ lý ảo trên cổng dịch vụ hành chính điện tử e-Albania, giúp người dân làm giấy tờ. Đến tháng 9 năm 2025, trong lễ ra mắt nội các mới, Thủ tướng Edi Rama bất ngờ công bố Diella trở thành “Bộ trưởng Nhà nước phụ trách Trí tuệ nhân tạo”, đồng thời giao cho cô một nhiệm vụ cực kỳ nhạy cảm: giám sát toàn bộ các gói thầu công, lĩnh vực vốn gắn chặt với tham nhũng và lợi ích nhóm. Theo Thủ tướng Rama, giao việc này cho một AI sẽ giúp quy trình trở nên “100% không tham nhũng”, bởi máy móc thì không quan hệ, không thân hữu, không phong bì. Hình ảnh Diella được dựng như một phụ nữ mặc trang phục truyền thống Albania, với giọng nói và gương mặt của một nữ diễn viên thật.

Khi Diella xuất hiện và phát biểu trước Quốc hội Albania, khung cảnh vừa lịch sử vừa căng thẳng. Phe phản đối cho rằng đây là một quyết định vi hiến, vì bộ trưởng phải là con người và phải chịu trách nhiệm. Phe ủng hộ thì nói thẳng: con người đã làm quá tệ, tệ đến mức người ta sẵn sàng thử đặt niềm tin vào máy móc. Chuyện nghe như đùa, nhưng lại hoàn toàn là chuyện thật.

Và nếu thử đặt giả thiết Việt Nam cũng có Diella, không phải một, mà là cả một hệ thống Diella, thì cái lợi sẽ thật khổng lồ. Máy móc không ăn hối lộ. Như vậy, toàn bộ những kẻ sống bằng việc “ăn” sẽ mất nguồn sống. Bộ trưởng, thứ trưởng, vụ trưởng, cục trưởng… tất cả bọn tham nhũng sẽ “chết đói”. Người dân thì được hưởng lợi ngay lập tức: làm việc không cần quen biết, không cần cúi đầu, không cần phong bì. Lần đầu tiên sau nhiều thập niên, luật có thể được áp dụng như luật, chứ không phải như món hàng mua bán. Đó sẽ là một cao trào sung sướng thật sự, một cảm giác giải phóng: thà để máy móc cai trị còn hơn để con người như ngày nay..  .

Nhưng chính ở đỉnh cao ấy, bi kịch bắt đầu. Bởi vì khi một xã hội sung sướng vì không còn tin con người, thì đó không phải là chiến thắng của công nghệ, mà là sự sụp đổ của niềm tin đạo đức. Diella không biết xấu hổ, không biết sợ dân, không biết day dứt. Khi một quyết định gây oan sai, câu trả lời sẽ chỉ là: thuật toán đã vận hành đúng. Và thế là trách nhiệm biến mất. Quyền lực không còn gắn với một con người có thể bị chất vấn, mà tan vào hệ thống vô hình.

Nhưng cần nói thêm một điều còn nguy hiểm hơn nữa: đằng sau Diella không phải là sự trung lập tuyệt đối, mà là các thuật toán (nói một cách đơn giản là những chuỗi lệnh) và các kho dữ liệu do chính con người tạo ra. Máy móc không tự sinh ra đạo đức; nó chỉ lặp lại những gì con người đã lập trình cho nó. Vì vậy, yếu tố con người không hề biến mất. Nó có thể ẩn mình sâu hơn, kín đáo hơn và khó truy vết hơn. Khi có sai lầm, người dân không biết trách ai: Diella không chịu trách nhiệm, còn những con người đứng sau thì vô hình. Một kiểu quyền lực như vậy đôi khi còn nguy hiểm hơn tham nhũng công khai, bởi nó lạnh lùng, vô danh, không thể chất vấn và cũng không thể lật đổ.

Tuy nhiên, tôi chỉ mong những người đang nắm quyền kịp nhận ra rằng Diella là lời cảnh báo dành cho chính họ. Sự ra đời của những Diella không xuất phát từ lòng yêu máy móc, mà từ sự tuyệt vọng của con người trước một bộ máy đã quá bẩn, quá lì và quá quen sống bằng phong bì. Nếu họ biết sợ, biết xấu hổ và biết dừng lại, có lẽ Diella sẽ mãi chỉ là một câu chuyện “thật như đùa” ở một đất nước xa xôi. Nhưng nếu họ vẫn tiếp tục coi quyền lực là đặc quyền để ăn cắp, sẽ đến một ngày, trên chính mảnh đất này, người ta buộc phải thay con người bằng những Diella — không phải vì máy móc tốt hơn, mà vì những người lãnh đạo đã hoàn toàn không đáng tin cậy.