Gió chướng đã đổi chiều – Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

06/12/2025

 Reviendrez-vous un jour, ô frères exilés(Một ngày nào đó, các anh sẽ trở về, ôi những đứa con lưu lạc)

  Cách đây đúng 50 năm-đúng nửa thế kỷ- trên chiến hạm chỉ huy Blue Ridge thuộc hạm đội thứ 7 đang đậu ngoài khơi bờ biển Việt Nam VN vào lúc miền Nam đang hấp hối.

Trên phòng chỉ huy của viên đô đốc Hạm đội thứ bảy, người ta thấy tề tựu đông đủ các ký giả nhà báo Mỹ đã từng có mặt trên các chiến trường VN như Stanley Karnov, tác giả cuốn Viêt Nam, a history. Frank Sneppp với các cuốn: Decent Interval và An Insinder Account of Saigon. David Halberstam với The best and the Brightest.. và Neil Sheehan, John Kenneth Galbraith..vv.

Tất cả bọn ký giả này, trừ Stanley Karnov và trum mật vụ Frank Snepp  đều là bọn ký giả thuộc thành phần phản chiến, luôn tìm cách bêu xấu và phát biểu tiêu cực về miền Nam. Bọn họ gián tiếp là nguyên cớ đưa đến sự suy sụp miền Nam vào ngày 30 tháng tư, 1975, toa rập với tên H. Kissinger.

Tôi gọi sau này là: Người Mỹ thua Mỹ ngay tại Mỹ.

Đặc biệt, phụ tá Trùm mật vụ Frank Snepp đã từ Đài Loan đến đây được vài giờ để đón tiếp một nhân vật quan trọng: Đại sứ Martin. Ông đại sứ là người Mỹ cuối cùng rời VN mà trên tay chỉ ẵm theo một gói: Đó là lá cờ Mỹ. Ngay khi vừa đặt chân lên bong tàu vào lúc 2 giờ 47, giờ Sài Gòn, ông nhận được một điện tín của H.Kissinger với nội dung như sau:

« Với lời khen ngợi nồng nhiệt vì ông đã chu toàn toàn trách nhiệm. Nước Mỹ đến như thế nào thì lúc ra đi cũng như thế!!!”

Nhìn từ trên bong tàu, các ký giả ngoại quốc đã thấy hàng ngàn những chiếc thuyền nhấp nhô như lá tre trôi trên biển. Đó là những thuyền đủ loại, đủ cỡ của những người Việt Nam đầu tiên bỏ chạy Cộng Sản. Họ là ai, số phận họ sẽ ra sao sau này?

Chẳng ai trong số những ký giả trên và ngay cả những người ngồi trên những chiếc thuyền đó có thể tiên đoán đuợc điều gì. Chỉ biết bỏ chạy đã. Chữ bỏ của chạy lấy người diễn tả đúng trong hoàn cảnh như thế này. Số phận họ ra sao không ai dám nghĩ tới, ngay cả đối với kẻ lạc quan nhất.

Và đã có hơn 100.000 ngàn người trong số 250.000 ngàn người như thế đã được vớt đi định cư.từ các chiến hạm của hạm đội 7. Cuộc ra đi thật bi tráng và tuyệt vọng đến tức tưởi. Số phận họ có khác gì những con thuyền lênh đênh trên biển cả như những lá tre?

Vâng những lá tre trên một đại dương mà lẽ sống chết đang chờ đợi họ.

Bằng mọi giá họ đã ra đi mà nếu nay ngồi nghĩ lại, nhiều người không mường tượng nổi, họ đã có thể làm một điều như vậy.

Nhưng cái “sô” vớt người trên biển trong tuần lễ cuối cùng của tháng tư và đầu tháng năm của người Mỹ cũng nói lên được cái gì:

 Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, hoành tráng, ngay cả việc trốn chạy.

Đó là những thuyền nhân Việt Nam đầu tiên chạy trốn làn gió chướng từ trong đất liền đã thổi giạt họ ra biển..

Nhìn cảnh tượng đó, Stanley Karnov quay sang David Haberstam vừa cười vừa nói: Công việc đang xảy ra trước mắt chúng ta đây, ngày hôm nay như những chứng nhân lịch sử vào những giờ phút cuối cùng của miền Nam chắc hẳn có công của ông đấy.

Haberstam trả lời:

Tôi chỉ là một ký giá làm việc cho quyền lợi nước Mỹ trên mảnh đất nghèo nàn và khốn khổ này. Mỗi người Mỹ đến đây mang theo mình một trách nhiệm, một sứ mệnh.

  Chẳng hạn sứ mệnh của E. Lansdale và tôi- mặc dầu khác nhau- Nhưng tất cả, chúng ta đều làm vì nước Mỹ!!

 – Chắc là ông hãnh diện lắm.

– Đương nhiên, vì thế mà tôi có mặt ở đây trong giời phút này. Thôi, mời ông nhìn xem cảnh tượng dưới kia xem.

Ông cứ tưởng tượng, trong số 100 ngàn người dưới kia, ít ra cũng đến phân nửa ở tuổi vị thành niên, Cái hình ảnh ngưới lếch thếch, lang thang với từng đoàn người người nối đuôi nhau chạy trốn

Nếu tôi là họa sĩ, tôi chỉ vẽ lên cái cảnh này đũ diễn tả cái hiện trạng người Việt bỏ chạy. Và nếu cần nói một điều gì về lúc đó, về tâm trạng những người bỏ chạy thì có thể tóm tắt trong một câu: Tất cả đều hoang mang và không có một chút hy vọng gì về tương lai cả

Bài hát vui Que sera sera của Doris Day trở thành câu hỏi cho mỗi người Việt bỏ nước ra đi.

Những điều nhận xét của ký giả Haberstam sau này chỉ đúng có một nữa phần đầu của câu chuyện.

Trong lúc đó, một sĩ quan đang trình với viên đô đốc chỉ huy chiến hạm 7 là có một vị tướng lãnh trẻ VN(NCK) vừa đáp trực thăng của ông xuống bong tàu muốn được gặp.

Vị đô đốc ra lệnh một cách tắt gỏng là: Ông nói với ông ta là tức khắc cởi bộ quân phục cũng như lon của ông ra và không được tuyên bố gì..

Đây là nước nước Mỹ trên biển chứ không phải là VNCH nữa.

 Nhiều người sau này cho biết là viên tướng VN sau đó đã nhục nhã khóc, quỳ xuống, ngữa mặt lên trời và hét to lên:

« Ta thề với trời đất là ta sẽ trở về.”

Sau này được biết là ông đã giữ đúng lời thề, ông đã về..

Nhưng vấn đề là về để làm gì và về như thế nào? Đó là chuyện khác.

Và cứ như thế, không phải chỉ có đêm 29 tháng tư, mà tiếp câu chuyện đêm nay còn được tiếp diễn dài dài.

Các con số thuyền nhân trốn khỏi Việt Nam càng gia tăng theo nhịp độ của những chính sách của Hà Nội như “đi vùng kinh tế mới”. “học tập cải tạo”, “đánh tư sản, mại bản”, và cuối cùng “đi bán chính thức” nhằm vào giới Hoa Kiều. Cứ mỗi một đợt chính sách lại thêm số người trốn ra đi khỏi nước.

Tổng cộng đã có gần hai triệu người trốn đi như thế.

Đấy là còn chưa kể những nguời để lại xác trên biển cả. Con số này chẳng ai biết là bao nhiêu? Và cũng chẳng ai có thì giờ tìm hiểu làm gì. Người chết thì đã chết. Phải vậy không? Tiếc nuối rồi cũng nguây ngoa, người Việt đến được các xứ tự do mọi người đều quyết tâm cất cật lực để lo sinh kế, miếng ăn trước đã.

Tất cả những chính sách vừa kể trên là nhằm đánh vào những thành phần phản động, ngụy quân, ngụy quyền, tay sai Mỹ Ngụy. Nước nhà đã độc lập, nay bỏ nước ra đi thì không phản động thì còn là cái gì?

Nhưng chính thức thì có thể quả quyết rằng, nhà nước không cưỡng bức một ai phải bỏ xứ ra đi, và cũng không giữ một ai muốn ra ra nước ngoài sinh sống.

Và cuối cùng để giữ thể diện, vừa loại bỏ được những thành phần ” rác rưởi” muốn vứt, vừa kiếm được tiền hoặc để trao đổi trong thương thuyết, nhà nước Cộng Sản đã đồng ý với Liên Hiệp Quốc theo một chương trình “ra đi trong vòng trật tự”(orderly Departure Program).

Thảm cảnh thuyền nhân trên biển vì thế đã giảm mức độ đi nhiều.

Tất cả câu chuyện, những thảm cảnh trên biển cả nay đảo ngược trở thành cái mà Michel Tauriac trong Hồ sơ đen của Cộng sản (Le dossier noir du Communisme)(1) tóm tắt đầy đủ ý nghĩa tóm gọn trong một câu:

Những con bò sữa thuyền nhân”.

Gió đã đổi chiều, gió chướng đã thổi họ ra biển, nay ngọn gió nào đã đưa họ về?
(1) Cuốn sách Le livre noir du Communisme, Hắc thư về chủ nghĩa cộng sản, do nhà Robert Laffont xuất bản, Paris, năm 1997, 846 trang do Stephane Courtois cầm đầu với 11 tác giả.

Hình ảnh thật biểu tượng và gợi hình. Thật vậy, tất cả những con bò sữa thuyền nhân đã ra đi với hai bàn tay trắng để lại tiền bạc, nhà cửa ruộng vườn. Họ đã vắt được bao nhiêu sữa ở những con bò đó:

Vắt lúc ra đi và nhất là vắt lúc trở về.

 Nói chi đâu xa, tôi có căn nhà kiểu biệt thự ở số 224B Nguyễn Hùynh Đức, quận Phú Nhuận. Căn nhà đó lúc mua là 5 triệu 300 ngàn trước 75. Tính theo trị giá vàng thời đó là khoảng 80 chục cây. Ra đi hợp pháp, có giấy tờ hẳn hoi, đi bằng cửa chính ra Tân Sơn Nhứt.
Kể cũng lạ, tên đường phố ở Sài Gòn thường đổi cả, chỉ có phi trường Tân Sơn Nhứt là vẫn để nguyên, phải chăng bởi vì tên đó chẳng gợi nhớ lên một ấn tượng gì? Lúc ra đi, cái được coi như giấy thông hành là mảnh giấy mà nội dung như sau: Căn nhà 224B Nguyễn Huỳnh Đức do nhà nước quản lý. Quản lý là giữ giùm? hay giữ luôn?

Việc ra đi theo diện người Hoa, bán chính thức hay việc quản lý nhà cửa đất đai, tài sản nằm trong tay Bộ nội vụ. Công việc bộ này là đảm trách và tổ chức nhằm “nhổ sạch lông” những bọn người lưu vong này.

Kẻ dỗi hơi ngồi tính nhẩm chuyện nhổ sạch lông này đem lại cho nhà nước ít nhất là 25 tấn vàng. Tôi không tin vào con số, đúng sai khó đoán vì không biết tính toán. Nhưng ấn tượng trong đầu tôi là nhiều lắm, nhiều lắm lắm. Nhưng 25 tấn vàng vẫn là chuyện nhỏ.

Vẫn là chuyện vắt đi. Vắt lại mới là quan trọng.

Trách chi những nhà báo Mỹ ở trên. Chính người Việt đã quên cái thảm cảnh liều chết ra đi với bất cứ giá nào,

 Nay họ đã quay trở về mà không thấy tủi hổ và khongo biết ngượng.

Và để gọi những thuyền nhân thì có nhiều tên gọi tùy theo thời kỳ: lúc đầu là bọn bán nuớc, bọn tay sai. Cho mãi đến 1990 cũng còn có người gọi Việt kiều là những tên Việt gian. Nói chung họ coi đó là thành phần rác rưởi của chế độ cũ, muốn thải loại, muốn tống đi cho rảnh mặt. Và gọi một cách vô tội vạ nhất là người nước ngoài. Nghĩa là có sự phân biệt đối xử giữa người trong nước và ngoài nước.

Sau này chữ được dùng hơn cả là Việt Kiều.

Rồi cứ như thế sau thời kỳ mở cửa mà số lượng người Việt về nước cũng như kiều hối đã bắt buộc mọi người phải thay đổi lại thế nhìn, thế bắn. Không ai có thể từ chối được những món quà, không phải 10 đô la trong ngày lễ Noel mà là 3 tỉ đô la. 3 tỉ đô la! Không phải chỉ 3 tỉ đô mà nay nhiều lần hơn 10 tỉ-15 tỉ, chiếm tỉ trọng một phần ba ngân sách nhà nước.

Nhờ đó tình nghĩa hàn gắn những vết sứt sẹo, những lời nói mà bình thường chỉ được coi như kẻ thù.

Gió đã đổi chiều nên ngôn ngữ cũng đã đổi theo. Những chiếc thảm đỏ đã trải dài từ phi trường Tân Sơn Nhứt đến Nội bài chạy thẳng vào Bắc bộ Phủ.

Thật là trớ trêu đến nực cười ra đi trốn chui, trốn nhủi, lúc trở về thảm đỏ dưới chân..

Những thành phần rác rưởi ta vừa nói ở trên, những con bò sữa đã vắt cạn chẳng bao lâu sau trở thành rác quý mà người ta có thể chế biến thành những sản phẩm, những vật liệu để xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh. Đã chẳng ai ngờ điều đó đã xảy ra. Rác rưởi cứ thể đổi hình đổi dạng mà tính ra tiền bằng những sản phẩm mới.

Những anh thuyền chài có thể ra đi vỏn vẹn chiếc quần đùi nay chễm trệ ngồi Mercedes. Những mệnh phụ nói tiếng Mỹ oe oé mà nếu không có cuộc đổi đời này cùng lắm chỉ bán cá chợ Trần Quốc Toản.

Kể gì đến những hiện tượng nhỏ nhoi đó.

Đã có rất nhiều thay đổi tràn đầy hy vọng như thế đối với giới người Việt di tản, nhất là nơi người trẻ. Họ không còn là cô nữ sinh cười e lệ, hỏi không dám mở lời mà nay là những chuyên viên hàng đầu của xã hội Mỹ. Có những người trong bọn họ đã làm ra số vốn bạc tỷ. Có người trong bọn họ cùng với bạn đầu tư nửa tỷ đô la tại nơi mà trước đây được coi là thánh địa của cuộc kháng chiến chống Mỹ..Củ Chi với những địa đạo, nơi tự hào về cuộc chiến thần thánh trong tương lai trở thành biểu tượng “thung lũng của ngành tin học.”

Đã chẳng ai từ hai phía, người trong nước cũng như người nước ngoài nhìn thấy được điều đó ngay từ đầu.

Chuyện kể ra như một giấc mơ hay như câu chuyện thần thoại.

Và cái kim chỉ đường cho người Việt tương lai là hãy nhìn vào giới trẻ đang lên. Họ chiếm đa phần. Tương lai thuộc về họ, đời sống thuộc về họ, cộng đồng VN là họ.

Không phải do một thiểu số những người lớn tuổi như tôi. Những người bỏ nước ra đi đã chỉ nhớ cái phần đầu câu chuyện mà quên phần cuối.

Những người không biết kể chuyện và những câu chuyện kể càng ngày càng nhạt phèo như nước ốc.Thời của họ đã hết. Ngay cả Thời của Thánh thần hay Thiên đường mù cũng bị bỏ quên lãng.

Những người còn bám víu vào quá khứ có thể được coi là những người không thức thời. Nhưng nếu không bám víu vào đó thì họ còn gì là họ?

Họ chỉ còn là những loài củi mục trong đám cây rừng đang xanh lá. Củi mục thì làm gì? Đốt làm củi cũng không xong.

Nhưng chắc hẳn nhiều người không

nghĩ như thế. Bỏ vấn đề chính tri, lịch sử xã hội qua

một bên thì vẫn còn lại vấn đề nhân cách, vấn đề đạo lý con người. Củi mục thì cũng vẫn là củi.

Người ta nói, nhìn cây thì thấy rừng, nhưng nhìn củi mục thì thấy gì? Thà là như anh thuyền chài, thà là như chị bán cá nói tiếng Mỹ oe éo.

Thà là như thế.

Phải nhớ rằng cuộc ra đi bất hạnh đã trở thành đại hạnh cho chính mình, cho con cháu mình, cho cái nơi mình đi tới và cả cái nơi mà từ đó mình đã ra đi.

Hãy nhìn vào những con số để nhận ra câu chuyện thần thoại về người Việt di tản.

Năm 1987, có 8 ngàn người về thăm quê hương, đến năm 1993 thì con số tăng lên 160 ngàn người, đến năm 2002 là 380 ngàn người. Con số tự nó nói lên điều gì rồi và người ta bắt đầu vỡ lẽ ra. Bên cạnh đó, kiều hối đem lại một sốn tiền tươi là 2 tỷ 6 đôla trong năm 2003. Hãy làm một so sánh cho rõ. Năm 2003, Việt Nam xuất khẩu được 20 tỉ đôla, trừ vốn liếng cho sản xuất, lời ròng của 20 tỷ vị tất đã được 5 tỷ?

Có một điều, nhiều người vô tình quên là năm nay có 2 triệu lượt khách đến Việt Nam. Cứ giả dụ, mỗi người khách tiêu 2000 đô la đầu người. Số tiền thu được sẽ là bao nhiêu? Trong số 300.000 người Việt về thăm quê hương, cứ cho là vừa tiêu sài, vừa cho bà con họ hàng, ở từ hai tuần đến một tháng, mỗi người đổ đồng chi tiêu 4000 đô la cho một chuyến về thăm quê hương, cán cân ngân sách cũng như nền kinh tế Việt Nam đã được kích cầu lên không nhỏ.

Tiềm năng thật lớn. Tương lai cũng đầy hứa hẹn.

Đó là nền kinh tế sống nhờ trên những kỹ nghệ không khói.

10 năm nữa, dự đoán số khách du lịch là 10 triệu người-năm như Thái Lan hiện nay, với các đường bay thẳng Sài Gòn-Mỹ, Sài Gòn-Âu Châu. Chuyện đã xảy ra và chắc sẽ xảy ra.

Lúc đó tiền đổ vào qua du lịch không phải là nhỏ nên hiện nay trên hầu hết 60 tỉnh thành của VN đều có khu du lịch đủ kiểu.

Điều đáng nói hơn nữa là nay có một số Việt Kiều về nước kinh doanh đầu tư với 74 dự án được chấp nhận với số vốn 540 triệu đô la. Những Việt kiều như Nguyễn chánh Khê với phát minh chế tạo thành công than Nano áp dụng vào việc sản xuất mực không phải là hiếm.

Năm vừa qua, dự án khu khách sạn Vinpearl Resort- Spa, 5 sao, tại đảo Hòn Tre, Nhatrang đã khánh thành vào cuối năm với số tiền đầu tư là 500 tỉ đồng.Phần lớn các số tiền đầu tư này tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, tin học, lắp ráp, du lịch.

Cũng vì thế, nhà nước đã chẳng tiếc lời gọi Việt Kiều là những người con của đất nước. Những lời lẽ trân trọng mật ngọt đã hẳn là không thiếu. Gió chướng đã không còn nữa.

Gió đã đổi chiều, ngôn ngữ đổi chiều, giọng lưỡi đổi giọng. Không còn có chữ nghĩa làm đau lòng nhau nữa.

Trên tất cả các sách báo, trên các trang nhà, không còn có thể tìm thấy bất cứ thứ chữ nào nói xa nói gần đến chế độ miền Nam trước đây nữa.

Những chữ như bọn ngụy quân, ngụy quyền và bọn tay sai đã không tìm thấy trong tự điển của bộ chính trị nữa.

Ngược lại không thiếu những chữ mật ngọt như “Tổ quốc Việt Nam, quê hương thân thiết luôn giang rộng vòng tay chào đón những người con xa xứ.”

Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt nam định cư ở nước ngoài giữ gìn quan hệ gắn bó với quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước”.

Luật quốc tịch điều hai thì viết rõ ràng thế này:” Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam “Người Việt nam ở nước ngoài là bộ phần không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam.”

Nhà nước lại còn trích dẫn câu nói của ông Hồ mà không ai tự hỏi xem ông nói lúc nào và bao giờ: “Tổ quốc và chính phủ cũng luôn luôn nhớ thương đồng bào, như bố mẹ thương nhớ những người con đi vắng. Đất nước hòa bình..” bác nói với kiều bào ở Thái lan về nước năm 1960.

Hình như người ta đã quên cái cảnh bồng bế xô đẩy nhau lên máy bay và bằng bất cứ giá nào phải đi bằng được. 29 năm sau, câu chuyện kể về thuyền nhân chỉ còn là dĩ vãng mà cả bên này bên kia đều đã quên hoặc cố tình quên.

Thật ra không hẳn là như vậy. Nhà nước chính quyền hoan hỉ nhận những đồng tiền Đôla từ mọi nơi gửi về cũng như người Việt mang tiền về nước.

Mang tiền về thì được chứ đừng mang chữ về. Chữ hiểu theo nghĩa rất rộng là sách báo, tư tưởng, âm nhạc, nghệ thuật.

Từ khi có nhà nước Cộng Sản đến nay..Chữ vẫn là độc quyền tuyệt đối nằm trong tay đảng.Nó nằm trong một hệ thống khép kín: Chủ nghĩa hay ý thức hệ – bạo lực khủng bố – và một chính quyền toàn trị. (ideology, terror and totalitarian government).

Chẳng lạ gì, trước khi về VN, người ta thường khuyên có một điều duy nhất: anh muốn làm gì thì làm:

chẳng hạn anh có thể cờ bạc, chơi bời đủ kiểu, tắm đủ kiểu, phòng trà đủ kiểu, âm nhạc đủ kiểu, cà phê đủ kiểu, gái đủ kiểu, sex đủ kiểu, ngủ trưa đủ kiểu, ngủ tối đủ kiểu, ăn đủ kiểu, vừa ăn vừa chơi đủ kiểu, đĩ điếm đủ kiểu, hối lộ đủ kiểu, lưu manh lường gạt đủ kiểu, gian trá đủ kiểu, buôn bán mánh mung đủ kiểu, làm giầu đủ kiểu, đầu cơ đủ kiểu, công an đủ kiểu, phường khóm đủ kiểu, công ty đủ kiểu, cơ quan đủ kiểu, chính quyền địa phương đủ kiểu, chính quyền trung ương đủ kiểu, luật pháp đủ kiểu, thằng ăn cắp xử thằng ăn cướp đủ kiểu và cuối cùng xã hội lọan đủ kiểu.

Ta có quyền đủ kiểu hết, miễn là đừng đụng đến chính trị.

Vì trên hết, vẫn có một nhà nước toàn trị ở trên tất cả những đủ kiểu đó. Trước khi lên máy bay về nước, còn dặn với theo: nhớ nhé đừng đụng đến chính trị.

Phải nhìn nhận rằng, sự suy đồi đạo đức xã hội ở VN đã đi quá xa đến mức nó xuống cấp, vượt xa những nước tư bản Phương Tây. Đến nỗi phải kêu lên một câu: Có nước nào như nước ấy không?

Phát triển kinh tế không đồng nhịp với cải tiến xã hội và đạo đức. Về Xã hội, chỉ nhìn giao thông đường phố Sài Gòn, Hà Nội là đủ hiểu. Về đạo đức, chỉ nhìn thực trạng học đường ở VN là đủ hiểu.

Mặc dầu vậy, ngày nay, có nhiều bà con Việt Kiều tính về ở hẳn VN. Có người trong đám này về Việt Nam dưỡng già với xe hơi SUV.

Có những ông già lấy tiền xã hội của Mỹ về tậu nhà, tậu cửa, líu lưỡi khen ngọng và hãnh diện nói: mấy chục năm không sáng tác được, nay về ở VN nhờ đó mới hoàn thành được tác phẩm. Có ông Nhà văn ” tiến bộ” nay trở thành thứ ” Chim hót trong lồng”.

Tất cả đều thuộc loại người không biết ngượng.

 Trong vòng 10 năm nữa, khi xa lộ đông tây hoàn thành, khi 6 tuyến xe điện ngầm xây dựng xong, khi đường hầm Hải Vân nối liền Nam Bắc nay đã hoàn tất, thành phố Sài Gòn sẽ thay mặt đổi tên chẳng còn ai nhận ra nó nữa.

Nay ở Sài Gòn, đã có những khu nhà “Làng Việt Kiều “. Người ta dự trù có 4 khu như thế, với những biệt thự sang trọng, đủ tiện nghi như ở Mỹ, Canada.Người ta thấy những Việt Kiều lái những chiếc xe SUV, hay ngồi nhâm nhi ly rượu cocktail bên bờ sông Sài Gòn. Những căn nhà có những bãi cỏ xanh, mái nhà mầu cam kiểu California, những hồ bơi với những cây dừa với những hàng chữ tiếng Anh Welcome.

Đây là, chẳng phải ai khác, mà là những nguời di tản, những rác rưởi 37 năm trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo. Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?

 Chẳng hạn, anh chàng Võ Q, kèm theo cái tên Larry, nay đã 65 tuổi, trước đây là một sĩ quan không quân, quân đội VNCH. Anh ta ta đã rời bỏ vùng Southern Califronia cách đây 2 năm cùng với vợ, còn có tên cúng cơm là Lynda để về ở đây. Anh ta khoe căn nhà với vẻ hãnh diện không cần giấu giếm với đồ dùng toàn bằng Inox, phòng tắm lớn có vòi tắm hơi, thiết trí theo kiểu Jacuzzi của Ý. Sàn nhà mầu hồng bóng lộn. Anh còn chỉ cho thấy và nói thêm: Không phải cẩm thạch đâu nhé, đá hoa cương thứ thiệt đấy.

 Thiệt là quá rẻ, còn rẻ hơn ở Hoa Kỳ rất nhiều. “Thiệt là Việt Kiều”.

Một anh khác tên Hoàng Tiến, chả bù cho lúc ra đi lếch thếch, lang thang, nay anh trở thành chủ nhà thầu đang có những kế hoạch xây cất nhà cho Việt Kiều với những dự án ” thành phố xanh” (Green city).

Cái điều oái ăm đến quái gở là khi ở Mỹ, người ta tìm cách đặt tên Little Saigon, Phở Bắc, bánh mì Tân Định, bánh cuốn Đakao, Restaurant Hoài Hương để nhớ về;nay ở Việt Nam thì người ta lại muốn đặt tên cho những khu thương xá là ” tiểu Cali “, ” tiểu Fairfax ” để nhớ đến.

Và cứ như thế, sẽ có một số người Việt gốc Mỹ sống riêng biệt trong những tiểu quốc của họ bên cạnh những người Việt bản xứ.

 Khi ở Mỹ thì họ nhớ Việt Nam, khi ở Việt Nam họ lại tiếc lối sống Mỹ. Họ trở thành người ngoại quốc trước mắt những người đồng loại của họ.

  Họ tưởng về quê thật, nhưng lại mang tâm trạng một thứ chủ nhân, cách biệt với dân bản xứ.Và điều rõ rệt là Hoàng Tiến đã bực tức về một căn nhà hàng xóm đã vứt những bao rác ra đường ngay cổng nhà anh ta, đã mở nhạc Karaoké tùy tiện ầm ĩ cả lên. Anh bực tức nói:

– Như thế không phải lối sống Mỹ, không biết tôn trọng luật pháp.

Như thế là thiếu văn minh. Khi ở Mỹ thì anh muốn bảo tồn văn hoá Việt, không muốn trở thành Melting pot hay Sálát Mỹ. Anh bắt con đi học tiếng Việt. Về VN, đụng mở mồm là anh xổ tiếng Mỹ cho oai. Quả là về sống ở Việt Nam thì lại là câu chuyện khác.

Trong tương lai, Hoàng Tiến sẽ còn phải bực tức nhiều về những điều trái tai gai mắt: chẳng hạn một anh cán bộ phường cứ xồng xộc vào nhà chẳng điện thoại trước.

Riêng Nguyễn Anh, năm nay mới 35 tuổi về Việt Nam làm việc cho một công ty nước ngoài. Ra đi từ nhỏ, kể như không biết gì về Việt Nam, anh cũng không có ý ở hẳn VN.Nhưng anh cũng có một vài nỗi khổ vặt khác.

Nguyễn Anh sửng sờ khi làm một việc gì giúp người khác không nhận được một tiếng thanh kiu, thanh kiếc gì hết. Anh cũng khó chịu khi mọi người chen lấn không xếp hàng khi trả tiền.Nhất là các cô thiếu nữ trông khả ái, dịu hiền, nhưng cũng huých tay chân như ai.

Gần như mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy sống chen lấn chụp giựt. Nguyễn Anh có hơi buồn về con người Việt Nam vốn có tâm hồn, vốn thương người mà một tai nạn xe cộ xảy ra đến chết người mà mọi người dửng dưng. Quả thực, tuy là người Việt Nam, nhưng anh lại không hiểu gì về người mình.

Lại nói đến giải trí, Nguyễn Anh không hiểu được là người Việt Nam “Xem thể thao” chứ không chơi thể thao.

Mấy triệu người thức đêm, bỏ công ăn việc làm, bỏ học để dán mắt vào đài truyền hình theo dõi một trận đá banh. Thật là vô lý vì hại sức khỏe. Chỉ có 22 cầu thủ thực sự chơi thể thao, còn cả nước chỉ ngồi xem thể thao, chưa kể còn cá độ.Hình như cái gì ở Việt Nam cũng có thể trở thành cờ bạc. Lại một điều nữa, Nguyễn Anh không hiểu được.

Nguyễn Anh thì chỉ thích đi đánh golf. Nhưng muốn chơi ngon, Nguyễn Anh phải lấy vé máy bay ra Phan Thiết chơi, vì ở đó có sân chơi nổi tiếng là đẹp. Ít ra thì điều đó cũng làm Nguyễn Anh vui lòng.

Nhưng có người thấy như thế thì lấy làm kỳ cục. Họ chép miệng, tội tình gì mà phải cất công như thể để chơi Golf. Chơi đâu chả được. Phí tiền nữa. Nguyễn Anh không đáp lại, vì anh có cái lý của anh. Đúng là anh thấy người Việt mê đá banh một cách kỳ cục. Nhưng ngược lại, họ cũng thấy anh không giống ai.

Còn về thanh niên, thiếu nữ thì chửi thề không biết ngượng mồm, nhất là thanh niên, thiếu nữ gốc Bắc. Mở mồm ra là địt. Sáng ra, chỉ hỏi giá cả món hàng đã bị một người con gái xinh đẹp phạng cho một câu.

 Nói gì thì nói, nghĩ gì thì nghĩ. Thời gian sẽ xoá nhoà tất cả vết tích cũ: thời gian cứ trôi qua, nhiệt tình chống Cộng giảm xuống và tình hoài hương lại trỗi dậy.

Những vị lãnh đạo trong nước thì nghĩ rằng: Nhân dân muốn quên hết mọi thứ.Những người này hiện ở đây vì đất này là tổ quốc của họ. Chúng ta không có quyền trách mắng họ. Chúng ta tiếp đón họ. Chúng ta không muốn để Việt kiều gây chiến tranh lần nữa.

Tự nhiên bật ra một câu hỏi: Nhưng nhân dân là ai mới được cơ chứ?
Nhưng tôi cho rằng lịch sự trớ chêu có những bài học không bao giờ chúng ta học hết được.

Chiếc soái hạm Blue Ridge 37 năm trước trong vai trò chở binh lính Mỹ và người tỵ nạn VN ra khỏi miền Nam thì hiện nay đang đậu ở bãi Tân Sa, Hải Phòng!

Đố ai biết được ngày hôm nay vai trò của Blue Ridge đên VN với mục đích gì?

© Nguyễn Văn Lục


 

BÀI GIÁO KHOA CŨ

Xuyên Sơn

Bài học cũ, đơn giản nhưng dạy trẻ con biết hoài niệm, biết nghĩ về những gì đã có.

Đọc lại một trang giấy nhỏ, đã cũ, đã bị phế bỏ, mà nghĩ rằng người viết chẳng có chức phận hay quyền hành gì, nhưng họ hành động như một người Việt buộc phải cẩn trọng trách nhiệm với trăm năm sau.

Chỉ tự tâm niệm mà cẩn trọng.

Không cần phải có một tôn giáo hay lý tưởng vĩ đại nào, chỉ cần một tấm lòng học làm người, biết thương nhớ mẹ cha, đã là một công dân tử tế trên nước Việt.

“Con không cần phải khấn, vì hồn mẹ lúc nào cũng phảng phất bên con”.

Thật ra, câu văn chỉ là một lời an ủi. Nhưng cảm động đến có thể rơi bước mắt. Lời dạy còn âm thầm nhắc rằng khi hành động bất kỳ điều gì, đều có một lương tâm truyền đời dõi theo và nhắc nhở.

Nếu không có mẹ cha và người đi trước, thế hệ hôm nay dễ dàng trở thành hành động, suy nghĩ vô loài.

Chân thành với giáo dục không khó, nhưng cố gắng tạo dáng vẻ cho giống như giáo dục thì rất khó.

Nhiều năm cải cách, gắng gượng thay đổi sách giáo khoa cho thấy một tương lai dân tộc rất mơ hồ: một hệ thống vật vã, gượng gạo tạo ra cái mới – rất giả tạo – bởi mang quá nhiều mặc cảm với cái cũ đã hoàn chỉnh từ một thể chế khác.

Sẽ chẳng ngạc nhiên, khi hôm nay, mọi thứ giả dối đang lên ngôi:

Giả trí thức, giả văn bằng, giả học vị… và cuối cùng là giả làm một người yêu nước.

Nhạc sĩ Tuấn Khanh


 

NGÓN TAY CHỈ MẶT TRĂNG

Xuyên Sơn

Phật không phải vị thần, cũng không phải thượng đế và cũng chẳng phải giáo chủ gì hết.

Phật là trạng thái tỉnh, còn chúng sinh hiện nay đang trong trạng thái mê.

Phật là người đã giác ngộ.

Giác là tỉnh, Ngộ là nhận ra.

Còn chúng sinh là những người chưa tỉnh.

Đức Phật là người tỉnh, truyền lại cách tỉnh lại cho nhân gian. Đơn giản vậy thôi. Tớ tỉnh rồi, tớ nhận ra và muốn giúp các bạn tỉnh. Không phải sáng lập phái, cũng không áp đặt.

Loài người mới tiến bộ tới mức chấp nhận sự bình đẳng của mọi người từ màu da sắc tộc đến xuất thân.

Phật coi vạn vật bình đẳng, từ cỏ cây hoa lá chim muông bình đẳng như con người hết. Không phân biệt, thậm chí không phân biệt ta và ngoài ta luôn.

Đức Phật là người, cái ngài tìm thấy gọi là Đạo.

Đạo vốn có hằng có và tự có như vậy. Ngài không sáng tạo ra, cũng chẳng chuyển rời, mà chỉ đơn giản là thấy.

Cho nên không có chuyện Đức Phật di chuyển bốn biển hay hô mưa gọi gió. Ngài cũng chẳng trừng phạt được ai, vì tội xếch mé hay nói xấu Ngài.

Có tu sĩ Bà La Môn đến xúc xiểm, Ngài cũng chỉ dùng lời mà đáp, ông kia nghe thì nghe, không nghe thì không nghe.

Ngài cũng chẳng có Như Lai Thần Chưởng đánh sấp mặt mấy thằng bật Ngài.

Đơn giản, Ngài chỉ là người, và người này đặc biệt là đã tỉnh ngộ.

Đạo đơn giản là các quy luật tự nhiên mà Ngài thấy.

Nghĩa là gì, ra mưa Ngài vẫn ướt.

Gai đâm, Ngài vẫn đau.

Tất cả những gì quyền năng và sự khủng khiếp nhân gian nói về Đức Phật là họ gán như vậy. Và tôi cũng biết luôn rằng, Ngài chẳng cho ai được cái gì.

Làm gì có mà cho. Một xu dính túi cũng không. Những gì cầu khẩn từ một vị thần ban phát là người đời tự tưởng vậy. Họ kính, họ cầu, và họ tự nghĩ vậy.

Đức Phật tuy không cho đời một xu. Nhưng cái cho đời chính là một con đường. Nôm na, ông là bậc thầy và chỉ vẽ. Làm hay không là do người nghe, ông không liên quan, không cấp vốn, không gò ép, không chiêu dụ, không tiếp tay.

Cái thấy và cái biết của Đức Phật không được ngài nói hết kể hết, vì theo ngài đó là vô nghĩa. Sau này, chúng sinh ngộ sẽ tự biết.

Cái mà Đức Phật truyền duy nhất đó là: con đường diệt Khổ.

Đầu tiên, Ngài xác định đối tượng cần giải quyết. Đó là Khổ.

Chiết nghĩa được từ này chắc cả vạn quyển không xong. Đơn giản, ta cứ gọi là Khổ đã.

Tiếng Anh dịch là suffering  (sự chịu đựng).

Sau này, bạn sẽ hiểu Khổ không phải khổ đau ta hay dùng mà Khổ đơn giản là sự sai lệch giữa kỳ vọng và thực tế. Thực tế mưa, bạn muốn nắng, đó là khổ. Thực tế nóng, bạn muốn lạnh, đó là khổ. Khi nào, thực tế mưa bạn thấy vui, nắng cũng thấy vui, đi qua đống rác thấy thối, nhưng vẫn vui và chấp nhận rác thì phải thối, thì bạn là Phật.

Phật không dạy Cân Đẩu Vân, không dạy biến hình, không dạy thần thông.

Ngồi thiền 49 ngày, rồi quyết định theo con đường Trung Đạo và soạn ra Tứ Diệu Đế cho đời.

Xác định được Khổ, ngài viết là Khổ Đế. Tiếp theo, Ngài dạy nguyên nhân Khổ tức Tập Đế.

Khi biết nguyên nhân Khổ, lại dạy diệt Khổ rồi thì sẽ như nào, tức là Diệt Đế. Diệt Đế nôm na là mục đích muốn tới. Cuối cùng, nắm rõ mục đích, Ngài mới dạy cách đi tới đích tức Đạo Đế, cách diệt Khổ. 

Và cách diệt Khổ có 8 cách tức

Bát Chánh Đạo.

Cực kỳ rõ ràng và khúc chiết.

Không à uôm loằng ngoằng.

Phật chỉ truyền cho nhân gian bốn điều trên, tức Tứ Diệu Đế, bốn chân lý kỳ diệu.

Chúng sinh nắm được bốn điều kỳ diệu trên là đạt con đường tiệm tu đắc quả

A La Hán. Tuy chậm nhưng chắc chắn.

Tức là trước khi ngộ, chẻ củi gánh nước. Sau khi ngộ, cũng chẻ củi gánh nước. Không có biến hình, không có bay lượn, không có siêu giàu.

Tất cả vẫn y nguyên chỉ là trước đây Vô Minh tức ngu, giờ sáng, biết và hiểu quy luật nó thế. Trước khi ngộ, sờ tay bị điện giật. Sau khi ngộ, sờ tay điện vẫn giật, chỉ là biết rồi nên không sờ nữa.

Vũ trụ đất trời vẫn vận hành như trước, chỉ là kẻ ngộ rồi không còn khổ vì thấy nó bình thường, quy luật nó phải thế. Không còn ái ly biệt khổ, cái khổ vì xa cách người mình yêu.

Không còn oán tăng hội khổ, cái khổ vì gặp kẻ mình ghét.

Không còn cầu bất đắc khổ, cái khổ vì cầu không được ước không thấy.

Đức Phật nói rằng nếu yêu quý ngài, noi theo ngài thì cũng chỉ làm được người khôn, chứ không tự tu thì không thành được kẻ ngộ.

Tất cả những hình tượng lập ra để thờ Phật là do đời sau yêu mến, suy tôn và tưởng nhớ nên lập ra, chứ Đức Phật không mong cái đó, cũng không tạo dựng cái đó. Tất cả đều bình đẳng,

và phải tự ngộ, ta chỉ là người vẽ chút kinh nghiệm, các người thấy ta sai thì cứ bỏ mà tự tìm đúng, đừng lạy ta để xin ta.

Ngàn năm mặt trời vẫn thế là bản thể mặt trời. Nhưng nhận thức về mặt trời của con người luôn thay đổi, ngày càng sáng rõ hơn. Thay đổi mãi, đổi mãi để tiệm cận đến bản thể thực sự của mặt trời. Cho dù nhận ra rồi, thì mặt trời vẫn thế, chỉ là con người đó đỡ khổ vì ngu vì vọng tưởng mặt trời thôi. Chứ đừng mong dịch chuyển hay bắn rụng mặt trời…

Nguồn: (alex alpha)

Gia Nguyễn  trích đoạn & biên tập lại từ Duyên Kha Lê Hoàng


 

Miền Trung Lũ Ngập Nhưng Lương Tâm Ai Vẫn Khô Hạn?

Luong Nguyen

Miền Trung Lũ Ngập Nhưng Lương Tâm Ai Vẫn Khô Hạn?

(Nhận từ Người phương Nam)

Có lẽ chưa bao giờ cảm giác bất lực lại trĩu nặng như những ngày này, khi mở bất kỳ trang tin nào cũng thấy hình ảnh nước đục ngầu phủ lên mái nhà, người ta ngồi co ro trên nóc tôn, gương mặt trắng bệch vì lạnh, vì đói, vì sợ. Miền Trung, dải đất gầy guộc mà tôi từng lớn lên, vốn đã quen với điệp khúc “năm thì mười hoạ bão lũ”, bỗng dưng những năm gần đây như bị đẩy vào tâm điểm của một trò thí nghiệm tàn nhẫn: lũ hết đợt này đến đợt khác, nước hết dâng lại rút, rồi lại dâng, mỗi lần là thêm vài chục sinh mạng, thêm vài chục ngàn căn nhà ngập sâu, thêm vài trăm ngàn phận người trắng tay.

Là người con miền Trung, tôi không lạ gì cảnh nước lụt tràn sân, gùi sách trên đầu lội đến trường, đêm nằm nghe tiếng mưa ràn rạt trên mái tranh mà tim nơm nớp lo lắng. Nhưng cái lũ ngày xưa, dù khốc liệt – vẫn là lũ trời: mưa nhiều, nước sông lên, rồi vài ngày nó cũng rút; người ta xắn quần lên dọn bùn, dựng lại mái nhà, trồng lại luống rau, vá lại cuộc đời. Còn bây giờ, càng nhìn càng thấy đây không chỉ là lũ của thiên nhiên, mà là lũ của lòng người, là kết quả cộng dồn của bao năm quyết định sai lầm, của cách đối xử tàn nhẫn với rừng, với sông, với đất.

Ai cũng biết dọc thượng nguồn bao con sông miền Trung, bao nhiêu năm nay người ta cho phép mọc lên dày đặc những đập thuỷ điện. Hết dự án này tới dự án khác, rừng bị xẻ ngang, bị “dọn dẹp” tới tận chân núi để làm đường, làm hồ, làm nhà máy. Đến khi mưa lớn, nước đổ về, hồ đầy, lại vội vã “xả lũ theo quy trình”, mà cái quy trình ấy hình như chỉ có mỗi một bước: “mở cửa xả và… mặc kệ phía hạ du xoay xở ra sao”. Cái mà lẽ ra phải là công trình bảo vệ – điều tiết nước, giảm lũ – thì nay lại trở thành bản lề nhân tai, biến trận lũ vốn dĩ đã nặng nề vì mưa thành cơn cuồng nộ cuốn phăng làng mạc.

Nhưng bi kịch không chỉ nằm ở chỗ “thiên tai + nhân tai”, mà còn nằm ở cách người ta đối xử với những người đang chìm trong nước. Giữa lúc bao nhiêu xóm làng kêu cứu, người dân phải leo lên nóc nhà, đứng cả ngày trên cột điện chờ một chiếc xuồng, một chiếc ca nô đi ngang, thì có những nhóm thiện nguyện – tự họ gom góp, tự họ thuê ca nô, tự họ xông vào vùng nước xiết cứu người. Ấy vậy mà thay vì được hỗ trợ, họ lại bị… nhắc nhở là “vượt quyền”, “không phối hợp đúng tuyến”. Nghe mà nghẹn. Người ta có thể tranh luận mãi về quy trình, về phân cấp, nhưng trước mặt là mạng người, là đứa nhỏ đang bám cột dừa, là bà già đang ngồi ôm cái rương áo quần trên mái nhà, thì có lý do nào, có văn bản nào quan trọng hơn việc cứu cho được con người đó hay không?

Buồn hơn nữa là những câu chuyện “hậu trường” của các đoàn cứu trợ. Biết bao người ở trong và ngoài nước, gom từng đồng, từng thùng mì, từng bao gạo, áo ấm, thuốc men để gửi về. Thế mà khi xe cứu trợ đến cửa ngõ địa phương, lại thấp thoáng những “thủ tục”, những “điều tiết”, những dạng “cống nạp mềm”, nếu không khéo léo, không “biết điều”, thì hàng sẽ nằm ở đó, hoặc bị “xin lại một phần” trước khi đến tay người dân. Có nơi còn muốn đoàn phải “đi theo danh sách” do mình lập sẵn, trong khi người cho chỉ muốn trao tận tay những gia đình khẩn cấp, những mái nhà đang trắng tay. Trong một thảm hoạ, lòng người vốn đã tổn thương, mà còn phải hoài nghi xem phần gạo mình gửi có đến đúng chỗ không, đó là một loại đau buồn rất khó gọi tên.

Ở bên này bờ Thái Bình Dương, mỗi mùa lũ về, tôi lại thấy những cảnh rất ngược nhau. Trong bao nhiêu buổi lễ ở nhà thờ Việt Nam, sau thánh lễ, cha xứ lại nhắc khéo: “Tuần này xin cộng đoàn cầu nguyện đặc biệt cho đồng bào vùng lũ, và nếu có thể, xin mỗi gia đình góp một chút tình thương…”. Khay quyên góp chuyền qua từng hàng ghế, cả nhà đạo gốc lẫn đạo… theo vợ, ai cũng móc túi, có khi chỉ vài đồng lẻ, có khi là một ngân phiếu khá hơn, nhưng đó là tấm lòng. Bên chùa cũng vậy: sau buổi tụng kinh hay lễ Vu Lan, thầy trụ trì đứng nhắc nhẹ: “Chúng ta ở xa, không gánh nước, không kéo dây được, thôi thì góp chút tịnh tài, tịnh vật gửi về cho bà con bớt khổ”. Những thùng quyên góp đặt ở cổng chùa, trên bàn tiếp tân hội trường, đầy dần lên; người già lấy tiền hưu, người mới đi làm bớt lại ly cà phê, đứa nhỏ bớt tiền ăn quà, gom lại thành chuyến hàng đi về phương trời bão gió.

Những nỗ lực ấy âm thầm, đều đặn, năm này qua năm khác. Thế nhưng, trái ngược với tấm lòng đó là những lời lẽ độc địa vẫn đều đặn xuất hiện trên mạng xã hội từ một bộ phận “dư luận viên” nào đó: họ xem những người Việt hải ngoại chỉ là “3///”, là “khát nước”, là “ngụy”, là “ăn cơm Mỹ thờ ma…”. Hễ thấy ai ở nước ngoài nhắc tới chuyện cứu trợ, phê phán việc phá rừng, xả lũ bừa bãi, hay cách chính quyền đối xử với dân vùng lũ, là lập tức bị chụp mũ, bị chửi rủa, bị bôi nhọ. Thật trớ trêu: những bàn tay chìa ra từ nhà thờ, từ chùa, từ hội trường cộng đồng ở tận trời Tây thì gọi là “phản động”, còn những lời nhạo báng đau thương đồng bào, bào chữa cho sai lầm của bộ máy lại được xem như “đúng lập trường”, “bảo vệ nhà nước”.

Cái bất lực lớn nhất với tôi, và chắc với nhiều người, không phải là không làm gì được, mà là thấy rất rõ nguyên nhân mà không ai chịu đứng ra nhận trách nhiệm. Mưa lớn hơn, bão dày hơn, đó là xu thế khí hậu toàn cầu, không riêng gì ta. Nhưng phá rừng “tới tận chân núi” cho lâm tặc và cho các dự án, chặn hết dòng sông để làm thuỷ điện, quy hoạch bê tông lên cả vùng trũng tự nhiên, buộc dân nghèo phải sống chen chúc ở những nơi vốn là đường thoát lũ, đó là lựa chọn của con người. Cảnh báo của giới chuyên gia, của báo chí độc lập, của những tiếng nói lẻ loi nhiều năm qua chẳng thiếu, vậy mà mỗi mùa mưa đến, ta vẫn lặp lại kịch bản: “bất ngờ trước mưa lớn kỷ lục”, “đang rà soát quy trình xả lũ”, “sẽ kiểm điểm, rút kinh nghiệm sâu sắc”.

Tôi không biết phải an ủi người dân vùng lũ bằng lời nào nữa. Nói “rồi cũng qua” thì tàn nhẫn, vì qua đợt lũ này sẽ tới những khoản nợ mới, những mùa màng mất trắng, những đứa trẻ phải nghỉ học, những ngôi nhà chưa kịp trả xong tiền vay đã trôi mất. Nói “cố gắng lên” thì nghe sáo rỗng, vì bao đời nay họ đã cố gắng hơn ai hết. Cứ mỗi mùa lũ đi qua là thêm một lớp người rời quê, bỏ ruộng, bỏ đồi chè, bỏ rẫy cà phê, bỏ xóm nhỏ bên sông mà đi làm thuê xứ khác, bám trụ ở thành phố, ở xứ người, chỉ vì họ không thể mãi sống chung với cái kiểu lũ không còn giống như xưa.

Có người bảo: “Thiên tai thì ở đâu chẳng có, Mỹ, Nhật, châu Âu cũng lũ, cũng bão”. Đúng, nhưng cái làm người ta phẫn nộ ở đây là cảm giác bị bỏ mặc và bị đối xử như “đối tượng quản lý” hơn là công dân. Người dân không được tham gia vào những quyết định lớn liên quan đến rừng, đến sông, đến thuỷ điện, đến quy hoạch; đến khi hậu quả ập xuống cuộc đời họ, thì lời giải thích lại là “biến đổi khí hậu”, là “trận mưa lịch sử”, là “tình hình rất phức tạp”. Còn những ai cố gắng tự tổ chức, tự lo cho nhau, từ nhóm đi ca nô đến các đoàn cứu trợ độc lập, thì đôi khi lại bị gây khó, bị soi, bị gán nhãn.

Viết những dòng này, tôi biết mình cũng chỉ là một người đứng bên lề, nhìn quê hương từ xa qua màn hình, chia sẻ được chút tiền, chút lời, chút vật chất, nhưng không thể thay được tấm phao, chiếc xuồng, vòng tay cụ thể cho ai đó đang giữa dòng lũ. Cái cảm giác bất lực ấy không chỉ là chuyện cá nhân, mà là một nỗi buồn chung của cả một thế hệ người Việt lưu lạc: nơi mình sinh ra thì cứ hết lũ này đến lũ khác, hết “tai trời” đến “hoạ người”; nơi mình đang sống thì bình yên hơn, nhưng lòng lúc nào cũng giằng xé.

Có lẽ điều duy nhất còn lại mà chúng ta có thể làm, ngoài việc tiếp tục cứu trợ, tiếp tục đứng về phía những nạn nhân, là không im lặng trước những nguyên nhân đã quá rõ. Bởi vì nếu mỗi mùa lũ đi qua chỉ kết thúc bằng vài câu “chia buồn sâu sắc” và vài dòng thống kê thiệt hại, thì những cơn lũ năm sau, năm sau nữa sẽ còn dữ hơn, rộng hơn, tàn phá hơn. Và đến một lúc nào đó, người miền Trung sẽ không còn gì để mất, ngoài ký ức về những ngôi làng từng nằm yên bên triền sông, trước khi bị nuốt chửng bởi những quyết định mà họ chưa từng được hỏi ý kiến một lần.

 (1) BẢO TỒN TIẾNG VIỆT | Miền trung lũ ngập nhưng lương tâm ai vẫn khô hạn | Facebookig


 

CẦN KHỞI TỐ HÌNH SỰ 86 CHỦ DOANH NGHIỆP THỦY ĐIỆN XÃ LŨ “ĐÚNG QUY TRÌNH”

Manh Dang

Khá nhiều bạn đã hiểu nhầm khi trích dẫn lại câu thần chú “đúng quy trình” của các chủ doanh nghiệp thủy điện, để cho rằng việc xả lũ gây chết người và hư hại tài sản của công dân và nhà nước trong tuần qua sẽ được miễn trừ trách nhiệm.

Vì lẽ, “đúng quy trình” chỉ là khi căn cứ vào các văn bản hành pháp về quản lý, điều hành đối với các đập thủy điện mà thôi. Chúng không hoàn toàn có giá trị để truy cứu trách nhiệm khi xảy ra việc gây thiệt hại như vừa xảy ra.

Vì trách nhiệm mặc định của họ là phải bảo đảm an toàn cho tính mạng và tài sản của dân, của nhà nước trong mọi hoạt động của đập thủy điện (chứ không riêng việc xả lũ).

Nền tảng trách nhiệm của pháp lý họ là các quy định từ cơ quan lập pháp (quốc hội), gồm Bộ luật Dân sự (về bồi thường trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng) và Bộ luật Hình sự.

Với mức độ thiệt hại như cơn lũ lụt vừa qua, mặc dù nhà báo Lê Trung Khoa (Đức) đưa tin số người tử nạn lên đến 2.257 người không thể kiểm chứng được. Nhưng, chính truyền thông trong nước đưa tin, số người thiệt mạng là 409 người, số tài sản thiệt hại là 85.000 tỷ đồng (Vietnamnet) cũng đã cho thấy sự thiệt hại vô cùng to lớn về người và tài sản.

Nếu khách quan, chế độ phải cho khởi tố hình sự ngay tại các tỉnh, thành bị thiệt hại.

Việc khởi tố không chỉ trong phạm vi số 86 chủ doanh nghiệp thủy điện xả lũ, mà cả các quan chức thuộc các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan.

Do đó, nếu chỉ có “soi” các văn bản hành pháp để truy trách nhiệm, thì dễ đưa đến kết luận rằng không có cơ sở pháp lý nào để xử lý đối với họ, rằng tất cả đều đã “đúng quy trình”, một quy trình “sát nhân”.

Vấn đề còn lại là chế độ có đủ khách quan để thực hiện việc khởi tố hình sự hay không mà thôi, vì lẽ, cơ sở pháp lý đã có sẵn và hoàn toàn đầy đủ trong trường hợp này.

Qua mạng xã hội, tôi được biết có một luật sư đã đề xuất việc khởi kiện dân sự để yêu cầu đòi bồi thường. Điều này rất đáng quý, nhất là trong bối cảnh luật sư trong nước bị “rọ miệng” phát ngôn, cũng như không mấy sẵn lòng đứng ra bảo vệ pháp lý cho người dân bị thiệt hại, mà con số có thể lên đến hàng vạn người. Gồm thân nhân người tử nạn, người thiệt hại tài sản…

Thế nhưng, nếu chỉ khởi kiện dân sự để yêu cầu bồi thường thiệt hại là chỉ mới đúng phần nào về hậu quả mà thôi. Chưa thỏa đáng về tính chất nguy hiểm của sự việc khi nó phủ rộng đến nhiều tỉnh thành, vừa mức độ thiệt hại vô cùng to lớn.

Cho nên, cần khởi tố hình sự để còn có thể chế tài, trừng phạt sự vô trách nhiệm của những người có liên quan. Trong vụ án khởi tố hình sự, khi đó, mới nên đưa vấn đề khởi kiện dân sự vào để yêu cầu bồi thường thiệt hại chung trong một vụ án.

Chỉ như thế, sự việc mới có thể được giải quyết toàn diện, đầy đủ, hợp tình, hợp lý và đặc biệt, mang tính răn đe, phòng ngừa về sau.

Còn không, tất cả mọi biện pháp đều chỉ như “gãi ngứa” ngoài da mà thôi. Đến hẹn mùa bão lụt hàng năm, điệp khúc “đúng quy trình” sẽ lại được nhắc như câu thần chú của bọn doanh nghiệp thủy điện tham tàn. Đổi lại, có lẽ lại có hàng trăm đồng bào khác thiệt mạng oan ức và hàng chục ngàn tài sản, vốn liếng của nhân dân lại đội nón ra đi…

Manh Dang

——-///——-

Ảnh: Thủy điện Sông Ba xả lũ

– Tin Vietnamnet: https://www.facebook.com/share/p/14SKD22SDKh/

– Tin nhà báo Lê Trung Khoa: “”Họp Quân ủy Trung ương hôm qua. Số người dân chết/ mất tích đến 15h 24/11 ~ 2.257 người.” https://www.facebook.com/share/p/16knuCBivq/

@người theo dõi


 

Con nhớ mọi người nhiều lắm

Thao Teresa

Cha Daren Zehnle, linh mục Giáo phận Springfield, tiểu bang Illinois, Hoa Kỳ đã qua đời sau khi bị đột quỵ và xuất huyết não, hưởng dương 47 tuồi. Cuộc đời ngài mang dấu ấn của nhiều mất mát bi thương. Ngài là con sinh đôi, nhưng người anh song sinh của ngài đã mất ngay sau khi chào đời. Đến năm mười tuổi, ngài đã mất cả cha lẫn mẹ: cha mất khi ngài lên tám và mẹ mất vì ung thư não khi ngài lên mười.

Trong một cuộc phỏng vấn với Thời báo Công giáo năm ngoái, khi biên tập viên hỏi ngài sẽ nói gì với những người thân yêu khi gặp lại họ trên thiên đàng, ngài đã đáp lại thật đơn sơ nhưng đầy xúc động:

“Tôi nghĩ họ sẽ nói với tôi điều mà có lẽ tôi cũng sẽ nói với họ: ‘Con nhớ mọi người nhiều lắm.’”

-Sachin jose ettiyil-


 

Họ là họ mà ta là ta. Làm gì nhau??- Thái Hạo

Công Tú Nguyễn – Chuyện tuổi Xế Chiều

Họ là họ mà ta là ta. Làm gì nhau??

——–

Lũ lụt: thủ tướng Thái Lan xin lỗi và nhận hoàn toàn trách nhiệm

1.

Về trận lũ lụt nghiêm trọng vừa xảy ra, dẫn theo báo Tuổi trẻ, Thủ tướng Thái Lan Anutin Charnvirakul phát biểu: “Tôi rất tiếc và xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Không cần phân bua nguyên nhân”. Ông cho biết chính phủ “đã không làm đủ tốt” và sẽ đẩy nhanh nỗ lực khắc phục hậu quả.

Khi được hỏi về việc đình chỉ quan chức quận Hat Yai, ông nói rõ: “Không ai phải chịu trách nhiệm ngoài tôi. Tôi là người chịu trách nhiệm trước toàn bộ tình hình này”. “Lúc này, chúng ta cần hợp tác chứ không phải đổ lỗi”.

Đối với các trường hợp thiệt mạng, Thủ tướng thông báo chính phủ sẽ hỗ trợ 2 triệu baht (khoảng 62.000 USD – khoảng 1,6 tỉ đồng VN) tiền mai táng cho mỗi gia đình và đảm bảo sớm bàn giao thi thể cho thân nhân.

Nguyên nhân của lũ lụt Thái Lan lần này được cho là do lượng mưa kỷ lục trong hơn 300 năm qua, cộng với các yếu tố khác như địa hình trũng và hệ thống quản lý nước quá tải đã cùng lúc tạo ra “tổ hợp thảm họa”.

2.

Còn chúng ta vì vẫn đang miệt mài cãi nhau về lũ lụt Nam Trung bộ làm chết hơn 100 người là do thiên nhiên hay có yếu tố con người (thủy điện), nên chưa một ai thấy mình có trách nhiệm để lên tiếng xin lỗi người dân và đứng ra nhận trách nhiệm cả.

Tôi luôn nhấn mạnh trong các bài viết của mình rằng, thiên tai hay thảm họa là việc của trời, nhưng để xảy ra thiệt hại thì phải tìm nguyên nhân ở con người, mà ở đây là hệ thống chính quyền – từ dự báo, cảnh báo, di dời, cứu nạn đến các vấn đề căn bản hơn như quy hoạch, xây dựng, hệ thống thoát lũ…

Ở Thái Lan, thảm họa xảy ra thì lập tức người đứng đầu chinh phủ đứng ra nhận trách nhiệm, “Không cần phân bua nguyên nhân”. Ứng xử này chắc chắn sẽ giúp họ khắc phục và tránh được các thảm họa tương tự trong tương lai, vì họ nhận thức một cách rõ ràng nguyên nhân từ phía mình.

Đó là biểu hiện của một nền văn-hóa-chính-trị trưởng thành: không né tránh, không đổ lỗi, nhận hết trách nhiệm về mình. Và theo tôi, xét về đạo đức công vụ, đó là điều kiện tối thiểu phải có để đưa một đất nước đi lên.

Thái Hạo


 

Viết vài hàng cho tháng 11 năm 2025 – Phùng Văn Phụng

Phùng Văn Phụng

Ngày 18-11-2-25 tôi có thăm anh H. Trần ở West Houston Rehabilitation and Healthcare Center số 13428 đường Bissionnet.  Anh H. lớn hơn tôi một tuổi cũng là đoàn viên Liên Minh Thánh Tâm của giáo xứ NLNT.

Trước tháng 03 năm 2020, chưa có đại dịch Covid 19, chúng tôi thường đọc kinh ở nhà của đoàn viên, anh H thường đi chung với chúng tôi.

Anh đã nằm trong nursing home này được hai tháng nay. Anh bị bịnh tiểu đường, cao máu, cao mở, thần kinh tọa, thường xuyên đau nhức hai chưn và đau nhức lưng. Anh đã phải dùng xe lăn và đi lại rất khó khăn.

Bây giờ mọi sinh hoạt bình thường đều phải nhờ y tá trong nursing home. Anh nói: Ăn uống ngày ba bữa có người lo, nhưng nằm trong này buồn quá không thoải mái như ở nhà.

Tôi suy nghĩ: bạn bè đã vào Nursing home trước, chừng nào tới phiên mình đây?

*****

Và tôi liên tưởng đến câu nói mà tôi đã viết trên tường:

Làm sao “vui để đợi chết”?

Làm sao để có sự vui vẻ. Làm sao để có TÂM AN.

Làm sao khi gặp bịnh nhiều, không tự mình lo được, các sinh hoạt tối thiểu cũng cần người khác giúp đỡ như ăn uống, tắm rửa, vệ sinh cá nhân v.v… mà TÂM mình vẫn AN.

Làm sao để có thể chấp nhận bị chỉ trích, công kích mỗi ngày? Nặng nề hơn nữa là bị người khác mạ lỵ thậm tệ mà tâm vẫn BÌNH AN, không giận? Vì nếu giận sẽ hại tim, làm tim đau nhói, không ngủ được. Mất ngủ làm cho sức khỏe dần dần suy kém, “ăn không ngon, ngủ không yên?” sức đề kháng giảm, dễ sinh ra bịnh.

Mỗi người đều có bí quyết để cho TÂM AN? Riêng cá nhân tôi, muốn có tâm an, ngủ ngon, khi bị chỉ trích, công kích, nặng lời; nếu có giận, tôi chỉ để ảnh hưởng của sự tức giận thoảng qua chừng năm mười phút, rồi tôi không nghĩ tới nữa, không quan tâm tới nữa. Tôi nghĩ nếu mình giận là mình bị thiệt thòi. Vì sao vậy? Vì tức giận, thù ghét là mình đang uống thuốc độc mà mong cho người khác chết.

 Ngoài ra tôi suy nghĩ chắc người công kích tôi, mạt sát tôi, tôi nghĩ là họ có vấn đề về tâm lý hay về sức khoẻ. Họ đang bị bịnh tiểu đường, cao máu hay đang bị binh gì nặng lắm sức khoẻ không tốt hoặc họ có vấn đề về tâm lý, đang lo âu nhiều chuyện không giải quyết được như con cái bất hoà nhau, gây gỗ nhau, hay đang thiếu nợ không có tiền trả, hay con cái bỏ nhà đi hoang chưa trở về, hoặc đang thất nghiệp, đang dùng chất nghiện… tâm họ bất an nên đem sự bất an đến cho mình.

Để có sự vui vẻ, tâm bình an, tôi liền suy tư, liên hệ đến câu: Nếu ngày mai tôi không còn nữa hôm nay tôi nên nghĩ gì? Hay nếu ngày hôm nay là ngày cuối cùng trong cuộc đời tôi, tôi nên làm gì? Có nên buồn giận ai, oán hận ai không?

Chẳng những không oán giận họ mà còn phải thương họ nữa và tôi bắt đầu cầu nguyện cho người đó được vui vẻ và bình an.

Để chi vậy?

Để họ có tâm an, có lòng khoan dung, lạc quan, yêu đời, họ sẽ có cái nhìn tích cực hơn và KHÔNG còn chê bai, chỉ trích nặng lời người khác – trong đó có tôi chịu ảnh hưởng.

Tôi cũng đang tập luyện dần dần để nếu có những lời nói không hay, không tốt, từ bên ngoài tác động vào tâm hồn tôi, sẽ không ảnh hưởng đến trái tim tôi, làm cho tôi bất an.

Hy vọng nhờ ƠN CHÚA tôi sẽ tìm thấy được BÌNH AN.

Phùng Văn Phụng

Ngày 30 tháng 11 năm 2025


 

Đời nào trị thủy lỏng lẻo, đời ấy mất nước-Hong Thai Hoang

Hong Thai Hoang added a photo to the album: CHÍNH TRỊ KHAI PHÓNG 

Trong lịch sử Á Đông, không có tai họa nào mà vua chúa sợ hãi hơn nước lũ.

Không phải vì nước mạnh, mà vì nước vô tình.

Một con đê vỡ không chỉ cuốn trôi ruộng vườn mà còn cuốn trôi luôn cả thiên mệnh của một triều đại.

Vì vậy mà cổ nhân dạy:

“Trị thủy là gốc của trị quốc.”

Ai trị được nước thì trị được dân.

Ai không trị được nước thì sớm muộn cũng mất lòng dân

Câu chuyện Đại Vũ trị thủy – ba lần đi ngang nhà mà không dám bước vào – không phải chỉ là truyền thuyết.

Nó là tuyên ngôn chính trị đầu tiên của nhân loại:

Trị thủy phải đặt dân lên trước bản thân.

Trị thủy là trách nhiệm cá nhân của người lãnh đạo.

Ở Trung Hoa và Đại Việt, bất kỳ triều đại nào cũng xem việc chống lũ là chuyện của vua, không phải chuyện của trời, càng không phải chuyện của dân.

Đời nào trị thủy lỏng lẻo, đời ấy mất nước.

Lịch sử ghi đầy:

Nhà Tống suy yếu vì vỡ đê sông Hoài.

Nhà Minh nổi loạn vì Hoàng Hà dâng cuốn nửa triệu dân, quan lại giấu số liệu.

Nhà Lê lập chức “Hà Đê Sứ”, ai để vỡ đê thì tru di tam tộc.

Nhà Nguyễn đặt “Nha đê chính”, quan địa phương phải canh đê 24/24 vào mùa mưa.

Quan lại ngày xưa hiểu rằng:

Nước lên mà dân chết, đó là lỗi của quan – không phải lỗi của trời.

Không một triều đại nào dám đổ cho dân “không kịp ứng phó”, hoặc bảo rằng “thiên tai bất khả kháng”.

Vì đối với người xưa, thiên tai chỉ là phép thử, còn thất trách mới là tội lỗi.

Nhà Trần để lại một câu chuyện đẹp:

Khi nước sông Hồng dâng cao, Hưng Đạo Vương từng đích thân ra đắp đê.

Lệnh là:

“Thà hư của, không được để dân tử thương.”

Cổ nhân không có vệ tinh, không có radar, không có công nghệ, nhưng họ có một thứ duy nhất mà chúng ta ngày nay lại đang thiếu: văn hóa báo trước.

Họ lập trống báo lũ, sứ giả chạy ngựa, từng làng có người túc trực để truyền hiệu lệnh.

Không hề có chuyện: “đã báo mà xã không nhận được”, “đã gửi Zalo mà ai đó không xem”, “nước lên quá nhanh”.

Nếu dân không kịp chạy, thì quan không còn lý do để tồn tại.

Cổ nhân hiểu rằng: nước giống như dân – vừa tạo ra phồn thịnh, vừa có thể cuốn trôi cả một triều đại.

Tư Mã Quang viết:

“Lũ lớn mà dân không chết là do đức của vua.

Lũ nhỏ mà dân vẫn chết là lỗi của quan.”

Ở đây, nước chỉ là hình ảnh.

Cái mà các triết gia châu Á muốn nói chính là:

Quản trị tốt thì thiên tai thành thử thách.

Quản trị kém thì thử thách thành thảm họa.

Và cội nguồn của quản trị tốt không phải là xây thêm đê, thêm trạm – mà là minh bạch, cảnh báo, trách nhiệm cá nhân.

Đừng chờ nước dâng mới thông báo.

Đừng để dân chết rồi mới họp.

Đừng lấy thiên tai để che thiên chức.

Hôm nay: Nước có thể không khác xưa, nhưng cách đối xử với nước đã khác

‘Thời cổ đại, quan chống lũ để giữ nước.

Ngày nay, có khi người ta chống lũ bằng cách… giải thích.

Khi nước cuốn trôi nhà cửa, ruộng vườn, khi hàng trăm hộ dân ngập sâu, lý do thường được nghe nhất lại là:

“Mưa lớn bất thường”

“Nước lên quá nhanh”

“Xã không kịp nhận thông báo”

“Đã báo qua Zalo”

Những câu nói ấy, nếu trở về 500 năm trước, chắc chắn là tội lớn của quan trông đê.

Vì với cổ nhân:

Trị thủy không chỉ là chống lũ – mà là giữ đạo làm quan.

Không canh nước, không cảnh báo, không chịu trách nhiệm thì dù đê có cao đến đâu cũng vô nghĩa.

Điều cổ nhân để lại cho chúng ta hôm nay

Lịch sử không yêu cầu chúng ta phải đắp đê bằng tay hay chạy ngựa báo tin.

Nhưng lịch sử yêu cầu chúng ta phải giữ lấy tinh thần trị thủy:

Minh bạch thông tin là đạo đức trị quốc.

Không có minh bạch, thiên tai nào cũng biến thành thảm họa.

Cảnh báo sớm là quyền của dân.

Dân cần thời gian để chạy – đó là điều cổ nhân đã biết cách đây 2.000 năm.

Trách nhiệm là ngưỡng cuối của quyền lực.

Không ai có thể đứng trên thiên tai để đứng ngoài trách nhiệm.

Thiên tai không đáng sợ bằng sự vô trách nhiệm.

Cổ nhân từng nói:

“Nước vô tình, quan không được vô tâm.”

Một quốc gia có thể chịu nhiều đau thương.

Nhưng quốc gia ấy sẽ không bao giờ sụp đổ vì thiên tai.

Quốc gia chỉ suy tàn khi:

nỗi đau của dân bị xem như chuyện nhỏ,

sinh mạng con người bị lẫn vào số liệu,

và thiên tai trở thành lý do để né tránh trách nhiệm.

Cổ nhân để lại cho chúng ta một bài học giản dị mà thấm thía:

“Giữ đê là giữ dân. Giữ dân là giữ nước.”

Hong Thai Hoang

Bài viết được thực hiện suốt 4 tiếng khi cơ thể gần như mệt lả – nếu bạn muốn copy – hãy ghi nguồn.


 

Vui để đợi chết – Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

 Theo giai thoại của người Trung Hoa thì ngày xưa có một người tên là Vinh Khải Kỳ tỏ ra là một bậc tiên ông đạo cốt, mình mặc áo lông cừu, lưng thắt dây, ngày ngày giao du ở sơn thủy, vui thú cầm ca, chậm rãi rảo bước, tay đánh đàn, miệng ca hát không ngừng. Một hôm đức Khổng Tử đi dạo gặp Vinh Khải Kỳ, ngài mới hỏi ông: “ Tiên sinh làm thế nào mà thường vui vẻ, ca hát như thế?”.

 Khải Kỳ thưa: “ Trời sanh muôn vật, loài người cao quý nhất. Ta đã được làm người, đó là điều đáng vui. Người ta sinh ra có người đui què, có người non yếu… mà ta thì khỏe mạnh sống lâu, thế là hai điều đáng vui. Còn cái nghèo là sự thường của thế gian, cái chết là hết sự đời. Ta nay biết vui với cảnh đời để đợi cái chết thì còn gì lo buồn nữa.?”

 Lạc quan, vui sống là đức tính cơ bản nhất của người Kitô. Người Kitô nhận ra phẩm giá cao cả của mình và tiếp nhận mọi sự xảy đến như một hồng ân của Chúa. Cây cỏ đồng nội, muôn thú trên rừng không nhọc công tích trữ mà còn được Chúa che chở nuôi nấng, huống chi con người là hình ảnh của Người… Mỗi ngày có niềm vui, nỗi khổ của nó. Hãy quẳng gánh lo đi và vui sống từng phút giây như một ân ban của Chúa, đó là bí quyết để giúp ta được hạnh phúc ở đời này.

 Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài.

(VietCatholic News Nov 2004)

ĐỪNG ĐÁNH MẤT PHẨM CHẤT CAO ĐẸP CỦA MÌNH – Linh mục Inhaxiô Trần Ngà 

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà 

(Suy niệm Chúa nhật I mùa Vọng năm A)

 Sứ điệp: Luôn tỉnh táo và canh phòng đừng để những đam mê thế tục cướp mất phẩm chất cao đẹp của mình.

***

Con người có giá trị rất cao

 Cách đây vài ba trăm năm việc buôn bán nô lệ xảy ra khá phổ biến tại Mỹ. Những người nô lệ bị xem như súc vật, như một thứ hàng hóa có thể mua đi bán lại dễ dàng. Họ không được xem như con người có danh dự hay phẩm giá. 

Và hôm nay, trong thời đại văn minh nầy, cũng còn đó những người bị mua đi bán lại và thậm chí có người tự bán thân mình để sắm nhà lầu xe hơi. Như vậy, còn đâu phẩm giá con người? 

Trong khi đó, Hội thánh dạy chúng ta biết rằng Ki-tô hữu là người có phẩm giá cao và rất đáng trân trọng. Thánh Lê-ô Cả giáo hoàng dạy như sau:  

 “Hỡi các Ki-tô hữu, hãy ý thức về phẩm giá của bạn. Giờ đây bạn đã được thông phần bản tính Thiên Chúa… Bạn hãy nhớ Chúa Giê-su là Đầu của bạn và bạn là chi thể của Ngài. Hãy nhớ rằng bạn đã được cứu thoát khỏi quyền lực tối tăm, đã được đưa vào trong ánh sáng và Nước Thiên Chúa.

 Nhờ Bí tích Thánh Tẩy, bạn đã trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần (…..) được cứu chuộc bằng Máu Đức Ki-tô. ”

Ngoài ra, thánh Athanasiô và một số các giáo phụ khác đã mạnh mẽ khẳng định rằng: “Con Thiên Chúa nhập thể làm người để con người được trở nên Thiên Chúa” (GLHTCG 460). 

Chỉ có tội lỗi mới có thể huỷ hoại giá trị con người 

Dù có bị lũ lụt cuốn trôi hết sản nghiệp, dù có làm ăn thua lỗ, trở thành người trắng tay… thì phẩm chất con người vẫn còn nguyên vẹn.

Dù có bị mất mát tay chân vì tai nạn hay bệnh tật, thì danh giá người ta vẫn không vì thế mà bị sứt mẻ, hao mòn…Chỉ có tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể huỷ hoại danh giá, cướp mất phẩm chất cao đẹp của con người.

 Xét về mặt tâm linh, khi phạm tội trọng, chúng ta bị cắt lìa khỏi Chúa Giê-su như cành nho lìa khỏi thân nho, như bàn tay bị cắt lìa cơ thể… Khi ấy chúng ta không còn là chi thể của Chúa Giê-su, không còn là đền thờ của Ba Ngôi Thiên Chúa, mà chỉ còn là một chi thể chết, một cành héo khô. 

Hãy tỉnh thức, đừng đánh mất giá trị cao quý của mình

Bước vào mùa Vọng, Lời Chúa kêu mời chúng ta hãy tỉnh táo nhận ra giá trị cao quý của mình để bảo toàn nó bằng mọi giá. 

Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su dạy chúng ta hãy làm như người chủ khôn ngoan, canh chừng cẩn mật, không để cho kẻ trộm đào ngạch khoét vách nhà mình, lấy đi kho báu của mình, cướp mất phẩm giá cao quý của mình.

 Trong bài trích thư gửi tín hữu Rô-ma được chọn đọc hôm nay, thánh Phao-lô cũng thức tỉnh chúng ta đừng mê ngủ, đừng để những đam mê thế tục cướp mất phẩm chất cao đẹp của mình: “Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng” (Rm 13,12-14). 

Lạy Chúa Giê-su,

Vì yêu quý mỗi người chúng con, Chúa sẵn sàng hiến dâng mạng sống để cứu chuộc chúng con và nâng chúng con lên hàng con cái quý yêu của Chúa. Xin cho chúng con luôn trân trọng phẩm giá cao đẹp của mình và quyết tâm bảo vệ phẩm chất nầy bằng mọi giá. Amen. 

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

From: ngocnga_12- NguyenNThu


 

Trump có cớ để siết chặt chính sách nhập cư

Ba’o Nguoi-Viet

November 28, 2025

Hiếu Chân/Người Việt

Vụ phục kích hai người lính Vệ Binh Quốc Gia (VBQG) ở thủ đô Washington DC là cái cớ hoàn hảo để chính quyền Trump đẩy mạnh việc siết chặt chính sách di trú, đặt ra nhiều hệ luỵ xấu cho các cộng đồng di dân ở Hoa Kỳ.

Những bó hoa để tại nơi hai binh sĩ Vệ Binh Quốc Gia bị một người Afghanistan từng làm việc với CIA bắn, trong đó có một người qua đời, gần trạm Farragut West Metro Station ở Washington DC hôm Thứ Sáu, 28 Tháng Mười Một. (Hình minh họa: Brendan Smialowski/AFP via Getty Images)

Đảo ngược chính sách di trú

Tổng Thống Donald Trump hết sức tức giận sau vụ hai binh sĩ VBQG West Virginia, Sarah Beckstrom 20 tuổi, và Andrew Wolfe 24 tuổi, bị phục kích chỉ cách Toà Bạch Ốc vài dãy phố. Cô Beckstrom qua đời vì vết thương quá nặng trong khi anh Wolfe đang rất nguy kịch.

Hung thủ được xác định là một người tị nạn từ Afghanistan, 29 tuổi. Ngay lập tức, trong một bài diễn văn ở Mar-a-Lago, nơi tổng thống đón Lễ Tạ Ơn cùng gia đình, ông Trump tuyên bố “chúng ta phải xem xét lại mọi người lạ đã vào nước này từ Afghanistan.”

Theo chỉ thị của ông, Sở Di Trú và Nhập Tịch (USCIS) sau đó thông báo tạm thời đình chỉ toàn bộ việc xem xét hồ sơ di trú của người Afghanistan, từ tị nạn, thị thực di dân, và không di dân đến việc cấp thẻ thường trú nhân (thẻ xanh). Trước đó, cơ quan này đã có kế hoạch xem xét lại trường hợp tất cả những người tị nạn được định cư thời chính quyền Biden, đóng băng việc cấp thẻ xanh cho họ, theo hãng tin Bloomberg.

Trong một loạt bài đăng trên Truth Social hai ngày qua, ông Trump thông báo điều động thêm 500 VBQG đến thủ đô, đổ lỗi cho chính quyền tiền nhiệm Joe Biden tiếp nhận người tị nạn từ Afghanistan, đảo ngược chính sách di trú hiện hành, đe dọa tước quốc tịch Mỹ của những người nhập cư “đang xói mòn sự thanh bình của nước Mỹ.” Ông đồng thời dọa sẽ cắt hết phúc lợi liên bang, trợ cấp liên bang của những người chưa phải là công dân và trục xuất tất cả những người nước ngoài tỏ ra “không phù hợp với văn minh Phương Tây!”

“Tôi sẽ tạm dừng vĩnh viễn việc di cư từ tất cả các nước Thế Giới Thứ Ba để cho phép khôi phục hoàn toàn hệ thống của Mỹ, chấm dứt hàng triệu trường hợp tiếp nhận bất hợp pháp của Biden, kể cả những trường hợp được ký bằng bút ‘tự động’ của Biden Ngủ Gục và trục xuất tất cả những ai không mang lại lợi ích cho nước Mỹ,” ông Trump viết trên mạng xã hội trước khi đăng bài đe doạ bãi bỏ toàn bộ các sắc lệnh hành pháp đã được Tổng Thống Joe Biden ban hành trước đây, viện cớ những sắc lệnh đó được ký tự động bằng bút “tự động.”

Những lời đe dọa này báo hiệu một bước leo thang mới trong chính sách nhập cư của chính quyền Trump. Ngay sau khi nhậm chức hồi Tháng Giêng, ông Trump đã đẩy mạnh việc truy tìm, bắt giam và trục xuất những di dân ở Mỹ không giấy tờ, ngăn chặn làn sóng vượt biên vào Mỹ bất hợp pháp, và bãi bỏ quy chế định cư tạm thời cho hàng trăm ngàn người từ các quốc gia bất ổn.

Tại sao Afghanistan?

Dù ai cũng đau xót trước cái chết vô cớ của người nữ VBQG mới 20 tuổi Sarah Beckstrom, dù ai cũng căm giận với hung thủ Rahmatullah Lakanwal, nhưng việc sử dụng vụ sát nhân làm cái cớ để trừng phạt cả một cộng đồng người Afghanistan là không hợp lẽ.

Khi rút quân khỏi Afghanistan hồi Tháng Tám, 2021, chính phủ Mỹ thời Biden mở chiến dịch “Operation Allies Welcome” (OAW), đưa sang Mỹ hàng ngàn người Afghanistan từng cộng tác với quân đội Mỹ trong thời gian chiến tranh chống khủng bố, lo sợ bị Taliban trả thù sau khi tổ chức khủng bố này chiếm được quyền kiểm soát Afghanistan. Chiến dịch này có phần giống với các chương trình tiếp nhận người Việt tị nạn Cộng Sản và tái định cư các sĩ quan VNCH sau khi Sài Gòn thất thủ năm 1975.

Hãng tin Reuters ghi nhận có 70,000 người Afghanistan được tiếp nhận theo chương trình OAW trong khi hãng tin Bloomberg nói có hơn 190,000 người Afghanistan được Mỹ tiếp nhận từ năm 2021. Còn theo tổ chức nghiên cứu Migration Policy Institute, đến năm 2022, có khoảng 200,000 di dân Afghanistan ở Mỹ, tập trung ở khu vực thủ đô Washington và tiểu bang California. Hầu hết những người này được ở Mỹ theo diện “Bảo Hộ Tạm Thời” (Temporary Protected Status for Afghanistan – TPS), một quy chế đã bị Bộ Trưởng Bộ Nội An (DHS) Kristi Noem bãi bỏ từ ngày 14 Tháng Bảy vì cho rằng ở Afghanistan tình hình an ninh đã được cải thiện, kinh tế ổn định để người di cư có thể quay về.

Hung thủ Rahmatullah Lakanwal là một trong những người Afghanistan được vào Mỹ năm 2021 theo chương trình OAW nêu trên. Theo giám đốc CIA, nghi can Lakanwal từng là thành viên đơn vị “Zero Unit,” được CIA thành lập, huấn luyện và bố trí hoạt động bí mật ở tỉnh Kandahar ở Afghanistan. Sau năm 2021, Lakanwal được sang Mỹ, tạm cư ở tiểu bang Washington cùng vợ và năm người con. Cuối năm 2024, anh ta nộp hồ sơ xin tị nạn (asylum), được Bộ Nội An thẩm vấn, được chấp thuận và được cấp quy chế tị nạn vào ngày 23 Tháng Tư, ba tháng sau ngày ông Trump nhậm chức. Vẫn chưa rõ Lakanwal có động cơ gì khi lái xe xuyên qua nước Mỹ đến thủ đô Washington DC phục kích các binh sĩ VBQG đang tuần tra gần Tòa Bạch Ốc. Hành động của Lakanwal thật ghê tởm, anh ta sẽ phải trả cái giá đắt nhất, có thể phải lãnh án tử hình.

Nhưng không thể vì tội lỗi của một cá nhân để trừng phạt cả một cộng đồng. “Mía sâu có đốt, nhà dột có nơi,” lập luận của ông Trump rằng ngay cả những người nhập cư vào Mỹ một cách hợp pháp cũng đặt ra mối đe dọa an ninh cho người Mỹ để rồi ông ra lệnh xem xét lại toàn bộ chính sách nhập cư có điều gì đó phi lý không chấp nhận được. Nên để ý ông Trump đã phớt lờ chuyện hung thủ vào nước Mỹ một cách chính thức, được Bộ Nội An cấp quy chế tị nạn đúng luật, mà chỉ tập trung đổ lỗi cho chính quyền Biden tiền nhiệm.

Bước chuyển của chính sách di trú Mỹ

Và không chỉ dừng ở người Afghanistan, ông Trump mở rộng sang “tạm dừng vĩnh viễn việc di cư từ tất cả các nước Thế Giới Thứ Ba” (Third World Countries). Khi được hỏi “Thế Giới Thứ Ba” là những nước nào thì Bộ Nội An đưa ra danh sách 19 nước đã bị hạn chế nhập cảnh vào Mỹ theo một sắc lệnh của ông Trump hồi Tháng Sáu. Bộ Nội An xác nhận cơ quan này đang xem xét toàn bộ các hồ sơ xin tị nạn từ 19 quốc gia này đã được chấp nhận, thậm chí đã được cấp quy chế thường trú nhân (thẻ xanh), dưới thời chính quyền Joe Biden. Vụ sát hại các VBQG hôm Thứ Tư, 26 Tháng Mười Một, làm cho công việc xem xét lại đó càng trở nên cấp bách hơn nữa.

Những quốc gia này là Afghanistan, Miến Điện, Chad, Congo, Equatorial Guinea, Eritrea, Haiti, Iran, Libya, Somalia, Sudan, Yemen, Burundi, Cuba, Lào, Sierra Leone, Togo, Turkmenistan, và Venezuela. Đây phần lớn là những nước độc tài chuyên chế, đang có chiến tranh, bất ổn chính trị, kinh tế kiệt quệ, không bảo đảm quyền sống tối thiểu của người dân. Cánh cửa vào Mỹ đã đóng với hàng triệu công dân các nước này.

Phản ứng quá đáng của ông Trump sau vụ giết hại VBQG cho thấy người nhập cư vẫn là vấn đề trung tâm trong sinh hoạt chính trị nước Mỹ trước cuộc bầu cử giữa kỳ năm 2026. Biến người nhập cư thành vật tế thần giúp chính quyền Trump hướng sự chú ý của công luận ra khỏi những đề tài gay gắt như vật giá leo thang, bảo hiểm y tế đắt đỏ, thậm chí vụ hồ sơ của tỷ phú ấu dâm Jeffrey Epstein đang gây chia rẽ trầm trọng trong hàng ngũ MAGA. Nó chuyển trọng tâm chính sách di trú của chính quyền Trump từ chỗ truy lùng, bắt giam, và trục xuất những di dân vi phạm pháp luật, rồi đến những di dân không vi phạm pháp luật nhưng sống ở Mỹ không có giấy tờ, chuyển sang nhắm vào những người tị nạn, di dân vào Mỹ hợp pháp, thậm chí đã có thẻ xanh hoặc đã nhập tịch Mỹ.

Ông Trump và đảng Cộng Hòa cũng hy vọng với chính sách di trú cứng rắn nhất, họ có thể tiếp tục thuyết phục cử tri rằng, mọi người nhập cư, dù hợp pháp hay bất hợp pháp, đều là mối đe dọa an ninh cho nước Mỹ, cho người Mỹ, và từ đó họ hy vọng sẽ giành được lá phiếu trong kỳ bầu cử sắp tới.

Sự dịch chuyển chính sách này là rất đáng lo ngại, không chỉ cho công dân của 19 quốc gia nêu trên mà cho các cộng đồng nhập cư ở Mỹ nói chung.

Trở ngại pháp lý

Chưa rõ ông Trump và chính quyền của ông có đủ thẩm quyền để ban hành và thực thi một chính sách di trú khắc nghiệt và rộng rãi như vậy hay không bởi vì thẩm quyền hoạch định chính sách di trú thuộc về Quốc Hội. Những biện pháp mới mà ông Trump chỉ đạo thực hiện có nguy cơ sẽ bị Quốc Hội bác bỏ, bị toà án liên bang ngăn chặn, và chắc chắn sẽ bị dẹp nếu tổng thống kế nhiệm vào năm 2028 là người của đảng đối lập.

Cộng đồng quốc tế khá bất ngờ với những tuyên bố chính sách mới của ông Trump. Bà Jasmin Lilian Diab, giám đốc Viện Nghiên Cứu Di Trú đại học Lebanese American University của Mỹ ở Lebanon, nói quyết định “ngừng xem xét việc di cư của hàng ngàn người tị nạn có thể phá hủy các gia đình, các cộng đồng địa phương, và xói mòn tính chất toàn vẹn của hệ thống di trú. “Trong khi sự kiện gần đây là rất bi thảm, việc dùng một sự kiện cá biệt để biện hộ cho chính sách đóng băng di trú hàng loạt không thích hợp với các bằng chứng cho thấy không có mối liên hệ giữa dòng người di cư và sự gia tăng tội phạm,” bà Dian nói với hãng tin Reuters. Rất nhiều công trình nghiên cứu cho thấy tỉ lệ phạm tội do người nhập cư gây ra luôn thấp hơn rất nhiều so với người bản địa, kể cả ở Hoa Kỳ.

Ông Farhan Haq, phát ngôn viên của tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, kêu gọi chính phủ Mỹ tiếp tục tiếp nhận người người di cư và tị nạn, tuân thủ các cam kết của Công Ước Liên Hiệp Quốc về Người Di Cư năm 1951, 1953, và 1967 mà Quốc Hội Mỹ đã phê chuẩn. “Người di cư phải được bảo vệ theo luật pháp quốc tế và phải được xem xét theo pháp luật,” ông Jeremy Laurence, phát ngôn viên cơ quan nhân quyền Liên Hiệp Quốc, nói với báo chí tại Geneva, Thụy Sĩ, theo Reuters. [đ.d.]