Tin vui cho Giáo hội!

ĐỨC MẸ NÚI CÚI CẦU CHO CHÚNG CON

Ngày mai mùng 7 tháng 9 năm 2025, Chân phước Carlo Acutis sẽ được phong thánh và trở thành vị thánh đầu tiên của thế hệ Thiên niên kỷ!

Carlo, người đã qua đời khi mới 15 tuổi, đã sống một cuộc đời tập trung vào Bí tích Thánh Thể, cầu nguyện và tình yêu Thiên Chúa—và cũng là một thiếu niên của thời đại chúng ta. Ngài thích chơi điện tử, mặc giày thể thao và quần jean, và sử dụng tài năng máy tính của mình để truyền bá lòng sùng kính Bí tích Thánh Thể bằng cách ghi chép các phép lạ Thánh Thể trực tuyến.

Cuộc đời của ngài nhắc nhở chúng ta rằng sự thánh thiện có thể đạt được ở mọi lứa tuổi, mọi thế hệ. Nguyện xin Chân phước Carlo truyền cảm hứng cho tất cả chúng ta, đặc biệt là những người trẻ, để đặt Chúa Kitô lên hàng đầu và sử dụng những ân huệ của mình cho vinh quang của Thiên Chúa.

Cầu xin Chân phước Carlo cầu nguyện cho chúng ta Amen


 

“MỐI TÌNH MANELI”

Xuyên Sơn·

Nhân 68 năm Hiệp định Genève 1954: “MỐI TÌNH MANELI”

Tú Hoa

  1. “Mối tình Maneli” nghĩa là gì?

Mối liên hệ giao thiệp thương thảo bí mật của em trai cố TT Ngô Đình Diệm là ông Ngô Đình Nhu với CS Hà Nội nhằm thúc đẩy hai miền Nam- Bắc né tránh một cuộc xung đột ý thức hệ chỉ có lợi cho Trung Quốc được giới tình báo Hoa Kỳ tặng cho một cái tên là 

“Mối tình Maneli” (Maneli affair) [đúng ra nên dịch “Sự việc Maneli” hoặc “Bà mối Maneli”].

Trong cuộc thương thảo này, VNCH đồng ý viện trợ kinh tế bao gồm lúa gạo, sản phẩm gia dụng và y tế cho Hà Nội nếu Hà Nội đồng ý tuyên bố đứng trung lập, không gia nhập khối XHCN và cùng với VNCH tham gia liên minh “Các Nước Không Liên Kết” của Ấn Độ.

VNCH cam kết thương mại trao đổi với Bắc Việt và sẽ cố gắng giúp Hà Nội thoát khỏi tình trạng đói kém do đang bị cô lập với thế giới bên ngoài và phải sống bằng viện trợ chu cấp mọi thứ bởi Bắc Kinh để đến nỗi buộc lòng phải đi theo đường lối Đấu Tố của Mao Trạch Đông khiến hai trăm ngàn oan mạng bị giết chỉ trong vài năm.

Hà Nội lưỡng lự trước nước cờ táo bạo này của ông Ngô Đình Nhu vì biết rõ những cam kết mà VNCH đưa ra rất thật lòng dựa trên sự ổn định phát triển kinh tế của miền Nam VN trong suốt gần chín năm sau hiệp nghị Genève 1954.

Khi tình báo Hoa Kỳ liên tục gởi tín hiệu cho Washington biết về “mối tình Maneli”

động trời này của hai anh em ông Diệm, TT Kennedy vô cùng tức giận vì ông cho rằng đây là một sự “phản bội tàn nhẫn”.

Tòa Bạch Ốc từ đó quyết tâm loại bỏ hai anh em ông Diệm ra khỏi quyền lực bằng mọi giá.

Thế nhưng mười năm sau,nước Mỹ lại áp dụng y chang kế sách của ông Nhu,

Henry Kissinger thất hứa với chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, đi đêm với Chu Ân Lai làm cho VN mất quần đảo Hoàng Sa và thất thủ hoàn toàn sau đó; dẫn đến cả triệu thường dân Campuchia bị sát hại, trên hai triệu người Việt bị tan nhà nát cửa và tù tội để có được một hòa bình trong nhục nhã.

Đây mới đúng là một sự “phản bội tàn nhẫn” như TT Kennedy đã từng thốt lên trước đó.

  1. Tại sao lại gọi là “mối tình Maneli”?

Maneli là họ của ông Mieczysław Maneli, một người Ba Lan được cho là sinh vào ngày 22-1-1922 tại Miechów và mất vào ngày 9-4-1994 tại New York, Hoa Kỳ. Ông là đại diện cho Ba Lan trong Hội đồng Giám sát Hiệp nghị Genève 1954 về VN,có tên tiếng Anh là “The International Commission for Supervision and Control in Vietnam,” gọi tắt là ICC hay ICSC.

Hội đồng này gồm ba quốc gia, một thuộc thế giới tự do là Canada, một thuộc khối CS là Ba Lan và một thuộc khối Không Liên Kết là Ấn Độ.

Chính phủ CS tại Ba Lan hoàn toàn không có chủ định can thiệp sâu rộng vào nội tình chính trị của VN lúc bấy giờ nhưng vì Hà Nội cần Ba Lan làm cầu nối ngoại giao độc lập khỏi sự kềm tỏa của Trung Quốc để tìm hiểu thêm ý định chiến lược của hai anh em ông Diệm.

Cho nên, Maneli chỉ ráng đóng vai trò của một sứ giả, truyền đạt những thông điệp cần thiết từ Hà Nội, từ Moscow đến với hai anh em ông Diệm-Nhu và ngược lại.

Tuy nhiên, vòng xoáy chính trị giữa Moscow- Hà Nội- Sài Gòn- Ấn Độ- Hoa Kỳ khiến ông Maneli ngày càng bị lôi cuốn sâu vào nội tình VN.

Hoa Kỳ theo dõi chặt chẽ các chuyến đi ngoại giao của Maneli tới Hà Nội, Sài Gòn để biết hiểu rõ thêm ý đồ chiến lược của hai anh em Diệm Nhu. Từ đó, cái tên “mối tình Maneli” (Maneli Affair) được hình thành.

Kết cục của “mối tình Maneli” là TT Ngô Đình Diệm và ông Nhu điều bị giết sau vụ đảo chánh ngày 1-11-1963.

Người bật đèn xanh cho cuộc đảo chánh dẫn đến cái chết của TT Diệm là TT Hoa Kỳ John F. Kennedy, sau đó cũng bị ám sát bí hiểm không đối chứng trong cùng một tháng cùng năm.

Tại Hà Nội, phe Lê Duẩn cũng lên thay thế quyền hành của HCM, của PV Đồng và TBT Đảng Liên Xô Khrushchev – người ủng hộ lập trường VN trung lập của ông Diệm – cũng bị truất phế bởi phe Brezhnev ngay vào năm 1964.

Riêng Mieczysław Maneli, ông xin tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ vào thập niên 1980 và sống tại xứ sở này cho tới ngày ông mất.

III. Nội tình bên trong “mối tình Maneli”:

Không cách gì có thể trình bày hết được chi tiết và cũng không thể nào tóm gọn các chi tiết bên trong của “mối tình Maneli” chỉ qua một bài viết ngắn ngủi vì mỗi chi tiết đều có ý nghĩa vô cùng quan trọng liên quan đến lịch sử bi đát của VNCH, một quốc gia coi trọng tình tự dân tộc lên trên mọi chủ nghĩa, mọi tôn giáo, dẫn đưa đến tính mạng của gia đình

TT Ngô Đình Diệm, kể cả tính mạng của TT Kennedy, cũng như liên quan đến kế hoạch “phế mã tranh tiên” của Hoa Kỳ làm toàn bộ khối CS bị sa lầy trong chiến thắng quân sự mà rồi bị kiệt quệ và chia rẽ dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn tại Âu châu.

Tuy nhiên, một điều quan trọng nhất tạo sửng sốt cho mọi nhân vật có liên quan và khiến không ai có thể ngờ tới được nếu biết rõ tình tiết của “mối tình Maneli”

đích thân TT Ngô Đình Diệm cam kết sẽ trục xuất Hoa Kỳ ra khỏi miền Nam VN ngay lập tức nếu CS Bắc Việt chịu bãi binh và cùng đồng ý nắm tay với ông tham gia khối các nước Không Liên Kết do Ấn Độ chủ xướng.

Thái độ dứt khoát né tránh chiến tranh ý thức hệ tạo bởi hai siêu cường Liên Xô- Hoa Kỳ có Trung Quốc tham dự của TT Diệm làm sửng sốt không những Hà Nội mà ngay đến cả Moscow cũng bàng hoàng.

Moscow toan tính rằng việc trung lập hóa VN sẽ rất hay vì cùng một lúc xóa bỏ ảnh hưởng vô cùng sâu rộng của Trung Quốc lên Hà Nội và hất Hoa Kỳ ra khỏi Sài Gòn mà không cần súng đạn.

VN từ đó sẽ theo liên minh Ấn Độ vốn có đường lối ngoại giao cởi mở đối với Liên Xô. Từ đó, Liên Xô có thể gián tiếp ảnh hưởng lên VN thông qua Ấn Độ;

dù sao, Ấn Độ vẫn đáng tin cậy hơn là Trung Quốc, theo cách nhìn của Khrushchev, TBT Đảng CS Liên Xô lúc bấy giờ.

Riêng về Hà Nội, mở cửa qua lại kinh tế với VNCH là một điều không thể được vì cả miền Bắc vẫn còn đang run sợ Đấu tố và sẵn sàng ồ ạt bỏ HCM nếu có thông thương với miền Nam VN.

Cho nên, Hà Nội muốn kéo dài nỗ lực trung lập VN của hai anh em ông Diệm để Hoa Kỳ có thì giờ loại bỏ ông Diệm ra khỏi quyền lực dù biết rằng Moscow ủng hộ đề nghị này.

Hơn nữa, Hà Nội trong đó có cả HCM không đủ can đảm để qua mặt Bắc Kinh như ông Diệm cương quyết qua mặt Hoa Kỳ.

Đối với ông Diệm, quốc gia vẫn là trên hết nhưng đối với Hà Nội thì chủ nghĩa Mác Lê, thế giới đại đồng quan trọng hơn tương lai quốc gia.

  1. Hệ lụy của “mối tình Maneli”: Sau khi “mối tình Maneli” tan vỡ, dân tộc VN đã phải đổ máu cho chiến thắng tất yếu của chủ nghĩa CS, của thiên đường XHCN.

Kết thúc cuộc chiến tranh ý thức hệ phi lý vô nghĩa gây ra bởi Bắc Việt, dân tộc VN chẳng còn gì ngoài câu nói đau thương của TT Nguyễn Văn Thiệu mà đến giờ nhiều người cũng biết.

Thông qua “mối tình Maneli”, các sử gia sẽ thấy ngay được tấm lòng yêu nước của hai anh em ông Diệm.

Đối với hai ông, “quốc gia là trên hết!”. Hai ông đã cố ráng tìm đủ mọi cách để đất nước có hòa bình, dân chủ và độc lập bất chấp hy sinh tính mạng.

VN sau này sẽ lại quay về với con đường mà hai ông đã khởi xướng và nhìn lại hình ảnh của hai ông như là điểm tựa của một niềm tin, đó là tinh thần quốc gia dân tộc không bao giờ chết!

T.H.

(ĐCV, 18/6/2015)

https://youtu.be/1nnjb3qQn1E

Nguồn fb Nguyễn Phú Yên


 

DỨT BỎ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ tôi được!”.

“Dứt bỏ không phải là mất mát, nhưng là mở đường cho sự phong phú lớn hơn!” – Henri Nouwen.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa thách thức chúng ta đặt “Chúa trên hết, Chúa trước hết, không ai hơn Chúa, không chi bằng Chúa!”; nói cách khác, biết ‘dứt bỏ’ điều quý để có được điều quý hơn.

‘Dứt bỏ’ người thân và cả mạng sống không ám chỉ sự thù ghét phát sinh từ oán hờn; nhưng là cách thế tốt nhất để có thể yêu thương trong một ‘trật tự đúng’. “Từ bỏ không phải là phủ nhận tình thân, mà là để tình thân tìm được chỗ đứng trong ánh sáng của Chúa!” – Henri Nouwen. Đây là mấu chốt! Bởi lẽ, không ‘khởi đi’ từ Thiên Chúa, không ai có thể yêu người khác và yêu chính mình cách đúng đắn.

‘Dứt bỏ’ ám chỉ những ràng buộc ích kỷ. Điều này có nghĩa là những con người và sự vật có thể cản trở tình yêu chúng ta dành cho Thiên Chúa, dành cho tha nhân và thậm chí dành cho mình. Ví dụ, ai đó tìm cách ngăn cản bạn sống đời dâng hiến – ngay cả cha mẹ; trong trường hợp này, chúng ta phải ‘dứt bỏ’ theo nghĩa từ chối sự can thiệp của họ. “Dứt bỏ không phải là từ chối người thân, mà là chối từ quyền lực của họ trên lương tâm mình!” – Søren Kierkegaard. Chọn Chúa, từ chối những cám dỗ đến từ người khác, và cả những cám dỗ đến từ những ham muốn vô độ của bản thân – khi đó và chỉ khi đó – tình yêu của chúng ta mới thánh khiết, tinh anh, vốn tuôn chảy từ tình yêu Thiên Chúa. Bất kỳ hình thức yêu thương nào không đến từ Chúa đều đáng nghi!

Vậy mà sự chọn lựa của con người thật giới hạn, chỉ Thánh Thần mới có thể giúp chúng ta nhận ra quyền tối thượng của Thiên Chúa trong mọi sự, “Ý định của Chúa, nào ai biết, nếu chính Ngài chẳng ban Đức Khôn Ngoan, chẳng gửi thần khí thánh!” – bài đọc một. Chính sự khôn ngoan này đã giúp Phaolô nhìn Ônêsimô không như người nô lệ, nhưng như người anh em – bài đọc hai. Rõ ràng, chỉ khi chọn Chúa, ‘dứt bỏ’ những ích kỷ, bạn và tôi – những kẻ tựa nương vào Ngài – mới đủ khôn ngoan để cư xử đúng cách, “Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ, Ngài vẫn là nơi chúng con trú ẩn!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Anh Chị em,

Chúa đang ở đâu trong trong cuộc sống tôi? Phải chăng tình thân, danh dự, tiền bạc, và cả ý riêng hay những ham muốn lăng loàn đang điều khiển các chọn lựa của tôi? Bao lần tôi viện cớ tình thân để che giấu sự hèn nhát, lấy lý do danh dự để từ chối thứ tha? Bao lần tôi để thú vui, tiện nghi hay ý riêng điều hướng cuộc sống, rồi nhân danh tình yêu mà thực ra chỉ yêu chính mình? Chúa không muốn tôi chối bỏ người thân hay phủ nhận mình, Ngài muốn tôi ‘từ bỏ điều quý để có được điều quý hơn’; biết từ chối những cám dỗ khiến tôi yêu sai, yêu lệch, yêu méo mó. Hãy nhớ, đặt Chúa trên hết không làm tình yêu bé lại, nhưng mở nó ra để nó tinh khôi và có sức giải thoát!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, ước gì Chúa trên hết, Chúa trước hết trong mọi chọn lựa của con, hầu con biết yêu mọi sự, mọi người trong ánh sáng Chúa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

**************************************************

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN, NĂM C

Ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 14,25-33

25 Khi ấy, có rất đông người cùng đi đường với Đức Giê-su. Người quay lại bảo họ :

26 “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. 27 Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.

28 “Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có hoàn thành nổi không ? 29 Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi, lại không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chế giễu mà bảo : 30 ‘Anh ta đã khởi công xây, nhưng chẳng có sức làm cho xong việc.’ 31 Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng ? 32 Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà. 33 Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.”


 

Tư cách của kẻ sĩ dưới thời toàn trị

 Vài kỷ niệm đẹp với giáo sư Trần Ngọc Ninh ở VN sau 1975

Nguyễn Tư Quốc

Riêng tặng cô Trần Uyên Thi, chủ biên quyển Ước Vọng Duy Tân.

Phù thế giáo một vài câu thanh nghị – Nguyễn Công Trứ – 

 Tôi viết bài này, mừng thầy Trần Ngọc Ninh qua tuổi trường thọ và vẫn còn minh mẩn. Vị thầy mà các sinh viên y khoa Sài Gòn thuở trước ít có dịp gần gủi, nên ít hiểu ông. Những điều tôi sẽ kể đều là những sự kiện có thật, xảy ra sau tháng tư 1975, đến năm 1977 là lúc thầy rời khỏi Viện Nam. Tôi mong người nào có ngày viết sử, nên để mắt tới chuyện này, để biết rằng, ở miền nam, phần lớn trí thức không phải là những kẻ hèn. Có một bác sĩ đã dẫn lời giáo sư Nguyễn văn Trung, cựu khoa trưởng Đại học Văn khoa Sài gòn, nhận xét về giáo sư Trần Ngọc Ninh : Chỉ riêng lãnh vực văn hóa, ông đáng là thầy của họ (ý chỉ những giáo sư văn khoa ở Hà Nội vào nam sau 1975).

Giáo sư Đào Dức Hoành, lúc dạy sinh viên đã nói về người bạn thân của mình : Khi là sinh viên, anh đã đọc hết sách của nội trú. Khi là nội trú, anh đọc hết sách của thường trú. Khi là thường trú, anh đọc hết sách của giáo sư. Khi là giáo sư, không còn sách để đọc, anh đọc sang sách văn chương, lịch sử, ngôn ngữ học. Đó chỉ là một cách nói, vì ai vào thư viện trường y, mở sách ra, mà không thấy tên thầy Ninh, ông đã mượn và đả đọc gần hết sách của thư viện trường y khoa Sài Gòn. Khi học giả giáo sư Đào Duy Anh, từ Hà nội vào Sài Gòn, ghé thăm học giả Nguyễn Hiến Lê bàn về ngôn ngữ học.

Ông Nguyễn Hiến Lê bảo gs Anh nên tìm giáo sư Trần Ngọc Ninh mà nói chuyện, vì giáo sư Ninh giỏi hơn ông về lĩnh vực này Trong đại giảng đường trường y khoa Sài Gòn, ông là giám khảo buổi thi tốt nghiệp của sinh viên y khoa, ông nói “Các anh chớ có hội chẩn, một trăm con số không vẫn là con số không” Hội chẩn là cách tránh né trách nhiệm, sản phẩm của chế độ cộng sản, làm cho nhiều bệnh nhân thiệt mạng. Bà Bảy Vân, vợ hai của ông Lê Duẩn, kể chuyện về con gái mình ở Moscou bỏ mạng cũng vì chờ hội chẩn Khi giảng bài cho sinh viên, thầy Ninh bảo : Đây là lần cuối cùng, tôi giảng cho các anh chị về y khoa khoa học, vì sau này sẽ không còn y khoa khoa học nữa, mà chỉ có y khoa nhân dân thôi (nghĩa là hết khoa học).

Năm 1976, có một bà bịnh nhân bị gãy tay. Ông mổ xong, lúc tái khám, được bà cám ơn, bà nói : Xin đội ơn bác sĩ,, tay tôi nay đã khỏi, nhưng mắt tôi ngày càng mờ, không thấy gì rõ ràng nữa cả. Ông trả lời : Tôi cũng muốn được như bà đấy. Tôi muốn mắt tôi mờ để khỏi phải nhìn thấy những điều không muốn thấy, muốn tai tôi điếc để không phải nghe những điều không muốn nghe, muốn miệng tôi câm để khỏi phải nói những điều không muốn nói. Nghe xong, bà bệnh nhân sợ quá, bỏ đi tức khắc. Trong một bữa tiệc tiễn các bác sĩ sơ bộ chuyên khoa ngành chỉnh trục ra trường, có sự hiện diện của anh Năm Lực bí thư kiêm phó giám đốc bệnh viện Bình Dân. Gíáo sư Ninh phát biểu : “Lâu lắm rồi tôi mới thấy món thịt như bữa hôm nay”, rồi ông xin một trái ớt.

Giáo sư Ngô Gia Hy bảo : Anh thấy chưa đủ cay sao mà còn cần đến ớt. Năm Lực hiểu ra, không nói gì. Trong hành lang phòng mổ, lúc các nội trú chỉnh trực xin phép thầy chiều phải về trường học chính trị nên không thể phụ mổ với thầy . Ông bảo : Tốt, tốt lắm, các anh sẽ được dạy về chủ nghĩa Max-Lenin, đó là những lý luận một chiều, mà chiều đó ngược với chân lý ! Vì những lời lẽ đó, sinh viên tranh đấu thời VNCH Nguyễn Thanh Công đòi cho ông đi cải tạo – Nhưng rồi… sau cùng thì chính Công đã gánh những ê chề nhục nhã để “sáng mắt sáng lòng”, bị hạ tầng công tác, kiểm điểm vì khai man (hai hộ khẩu để mua nhu yếu phẩm), bị trù dập vì là trí thức tiểu tư sản thành thị. Cộng sản không ngu trên lãnh vực dùng người, nhất là trí thức. họ dùng trí thức như con cờ, được việc nhưng không bao giờ tin tưởng, vì trí thức không nằm trong thành phần cơ bản – Sau mỗi lần học chính trị, cộng sản bắt học viên phải báo cáo thu hoạch, có nghĩa là họ muốn biết học viên nghĩ gì để dễ bề đối phó.

Đêm trươ’c ngày thu hoạch, Đậu Ngọc Xuân người viết diễn văn cho ông Lê Duẫn (sau này lên làm bộ trưởng) đến tìm giáo sư Ninh trong bệnh viện Nhi Đồng để thuyết phục ông hôm sau phát biểu, do biết ông có uy tín trong hội đồng khoa, và đồng thời muốn thăm dò ý nghĩ của ông. Hôm sau GS Ninh phát biểu thế này : Học chính trị xong tôi mới biết, trong bao nhiêu năm trời tôi đã phạm rất nhiều sai lầm, nay tôi mới được mở mắt ra. trước kia tôi nghĩ mình cố học cố làm việc với kết quả tốt để cứu nhân độ thế. Nay tôi mới hiểu ra làm như thế là phản quốc. Tôi là tên đại phản quốc, đã phản lại đường lối cách mạng.

Học cho nhiều, làm cho tốt để phục vụ chế độ mỹ ngụy là phản động, cực kỳ phản động, lẽ ra tôi phải bỏ chết hết bọn ngụy kia thì mới tốt mới đúng. Họ biết ông nói kháy họ, thừa hiểu ông muốn nói gì, nhưng không thể bắt bẻ ông được. Lần khác, sau khi đã giảng cho các giáo sư bên thua cuộc về tính ưu việt của chế độ giáo dục xã hội chủ nghĩa, cán bộ tuyên huấn hỏi các giáo sư học viên xem có ý kiến gì không ?

Giáo sư Ninh trả lời là ông không có ý kiến, chỉ xin nêu một câu hỏi : Tuy Karl Marx đã được ăn học trong chế độ tư bản, Lenine trong chế độ sa hoàng, Mao Trạch Đông trong chế độ phong kiến Trung hoa, Hồ chủ tịch trong chế độ thuộc địa, thế mà họ lại lỗi lạc đến như thế, vậy thì rồi trong tương lai, các thế hệ được đào tạo trong môi trường giáo dục ưu việt xã hội chủ nghĩa sẽ sản sinh ra những anh tài kiệt xuất hơn Karl Marx, hơn Lenine, hơn bác Mao, hơn bác Hồ ư ?

Cán bộ giảng ngớ ra không thể trả lời, nói là sẽ hỏi “trên” để trả lời sau. Câu hỏi, mãi mãi không có lời giải đáp, dĩ nhiên rồi ! Ai mà dám trả lời một câu hỏi phạm thượng thế ! Đi học chính trị thời sau 75, là “ngữ cảnh” của câu thơ trào phúng thời ấy Chừng nào bạc giấy xài xu.

Người khôn đi học, thằng ngu dạy đời. Thời gian ấy, thầy Ninh như cái phao cho bọn thua cuộc ở trường y, ở bệnh viện bám vào dể tìm chút vui sống hàng ngày hầu quên đi cơ cực đói rách. Khi ông đi rồi, chẳng còn ai để bám víu, phải sống với bọn người theo “cơ hội chủ nghĩa”, chà đạp bạn bè đồng nghiệp lập công dâng đảng mong thăng quan tiến chức. Thật quá buồn ! Ai cũng hối tiếc thời gian trước tháng tư 75, tình thày trò, bạn bè, đồng môn, đồng nghiệp mới đẹp làm sao ! Nguyễn Tuân, nhà văn ngang tàng của Bắc Hà, lúc cuối đời có tâm sự với bạn bè “ Tao còn sống sót tới ngày hôm nay là nhờ biết sợ” Điều ấy nói lên sự khủng bố sắt máu của chế độ. Có lần tôi hỏi thầy, vì sao thầy không sợ họ ? Ông bảo từ khi ông mổ tách đôi hai trẻ dính siamois thì họ bắt đầu làm phóng sự ca tụng ông ở đài phát thanh Hà nội, nhất là khi Thông tấn Xã Tass ở Moscou đưa tin trên, như một thành tựu của xã hội chủ nghĩa, thì ông biết mình có cây dù che, vả lại ông đã tính chuyện ra đi nên ông… cóc sợ !

Lần khác, lúc trò chuyện bằng điện thoại, tôi hòi thày về giáo sư Tôn Thất Tùng, có thật là “thần Siêu, thánh Quát” như họ tuyên truyền không ? Ông trả lời : “Cái đáng nói ở giáo sư Tùng là thủ thuật mổ gan của ông, dùng ngón tay để cột các mạch máu thật nhanh, nhưng nếu dùng pince sẽ élégant hơn nhiều”. Rốt lại, theo tôi (người viết bài này) những gì gọi là khảo cứu của giáo sư Tôn Thất Tùng, với thời gian, chẳng có gì đáng để lại cho hậu thế, chưa kể ông theo chế độ, kết án thuốc độc khai quang của Mỹ gây ung thư gan cho dân miền bắc, nay ai cũng biết là do siêu vi trùng viêm gan B và C tạo ra. Lúc giáo sư Tùng vào nam sau 75, có hỏi giáo sư Ninh : “Ninh này, có cách nào mổ con nít mà không chết?” Giáo sư Ninh trả lời : “Anh phải bỏ hết các hành trang phẫu thuật cho người lớn để học lại về cơ thể học, sinh lý, bệnh lý, hồi sức nhi khoa, thì mới cứu sống được trẻ con. Thời ấy, vẫn chưa có ngành phẩu nhi riêng rẽ tại Hà Nội, và Liên xô dịch sách phẫu nhi cũ của Mỹ, đã xuất bản từ 10 năm trước đó. Trước lúc ông ra đi, họ báo cho ông biết, ông là một trong những giáo sư miền nam cũ, được quốc hội quyết định phong chức giáo sư, nhưng ông đã đi trước ngày thụ phong. Sự ra đi của ông, có ảnh hưởng rất lớn đến số phận của các bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ tù nhân cải tạo.

Họ được thả ra vì khi thày Ninh trả lời phỏng vấn của các đài phát thanh VOA và BBC. ông đã vạch trần sự dã man của chế độ toàn trị. Những suy nghĩ của vài trí thức miền nam khác mà tôi có dịp trò chuyện Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, phó chủ tịch hội Trí thức yêu nước thành phố HCM, đã nói với ông Võ văn Kiệt rằng, phải tuyển sinh trên tiêu chuẩn học lực, chứ không thể dựa trên lý lịch, vì sinh viên loại này sẽ không hấp thu được gì, chỉ mất thì giờ cho cả thày lẫn trò. Sau hai năm không có kết quả, ông từ chức các chức vụ được giao phó trong trường đại học Tổng Hợp, rồi trở về với nghiên cứu thực vật, rồi qua Pháp làm khảo cứu, sau đó tại Canada, đã cho xuất bản cuốn Cây Cỏ Việt Nam. Cái đáng khinh của người trí thức xã hội chủ nghĩa là ở chỗ này : Ông giáo sư đầu ngành thực vật ở Hà Nội viết sách, lấy tài liệu bao gồm cả hình ảnh từ cuốn Cây Cỏ miền nam của giáo sư Hộ nhưng không hề ghi xuất xứ nguồn tài liệu. Tệ hơn nữa, ông ta nói với giáo sư Hộ, nếu muốn tái bản cuốn Cây Cỏ Miền Nam thì phải đề tên ông vào cho dù ông không viết trang nào, nếu không thì không có chuyện tái bản cuốn sách. Giáo sư Hộ từ chối thẳng thừng vì ông chẳng sợ ai. Khi giáo sư Phạm Hoàng Hộ được trường đại học học Tổng Hợp báo cho biết, ông là một trong những giáo sư đầu tiên của miền nam được quốc hội phong chức giáo sư, và ông phải ra Hà Nội để nhận chức. GS Hộ trả lời : Tôi đã là giáo sư lâu rồi, không cần chức tước gì mới nữa. Và ông đã từ chối ra bắc. Việc này khiến tôi nghĩ đến thời quân chủ (gọi sai là phong kiến), có vua ban áo mão cân đai cho các tiến sĩ. Còn đâu qui chế tự trị đại học mà xưa kia, sinh viên cộng sản Huỳnh Tấn Mẫm đã kêu đòi, cốt để phá đám miền nam trong thời điểm trước 75! Tiến sĩ Phạm Văn Hai cũng là phó chủ tịch hội trí thức yêu nước, do vượt biên nên bị bắt. Thủ tướng Võ Văn Kiệt mời ông đến hỏi : “Tại sao anh bỏ đi, nếu anh muốn tôi sẽ thu xếp cho anh đi theo đường chính thức” Ông trả lời : “Người trí thức có thể chịu nghèo, chịu khổ, nhưng không thể chịu nhục. Các anh đã làm nhục trí thức miền nam lắm” 

From: TU-PHUNG


 

 Quy Luật Âm Dương – Hiểu Để Sống Thọ, Khỏe Tự Nhiên

Thật ra, phần lớn là vì chúng ta sống ngược lại với quy luật tự nhiên – quy luật Âm Dương.

 Buổi tối là thời điểm âm hàn – cơ thể cần được giữ ấm để phục hồi và tái tạo tế bào. Thế nhưng ta lại ăn uống lạnh, nằm máy lạnh, tắm đêm, uống nước đá… khiến tế bào không đủ nhiệt để sản sinh. Khi cơ thể lạnh, máu huyết ứ trệ, tắc chỗ nào là đau chỗ đó. Lâu dần, sinh ra bệnh.

Đó không hẳn là “bệnh”, mà là cơ thể đang báo động: “Tôi đang lạnh! Tôi đang thiếu dưỡng chất!”
Nhưng tiếc là ta lại không nghe. Ta đi tìm thuốc, dập triệu chứng, mà không thay đổi lối sống, cách ăn.

Cơ thể cần ấm để sống. Đôi chân phải đủ ấm (khoảng 37 độ) thì tuỷ xương mới tạo máu, tế bào mới phục hồi. Ban đêm lại càng cần bổ sung những thứ ấm nóng: một ít gia vị cay, một chút béo lành mạnh – để giữ lửa bên trong cơ thể.

Sống khỏe cần hiểu: Cơ thể cần gì để sống?
Muốn cơ thể khoẻ, tế bào cần đủ 4 nhóm chất quan trọng:

– Đạm – nuôi tế bào, tạo máu.
– Béo – giữ ấm, tạo nhiệt, giúp hấp thụ vitamin.
– Đường tốt – cung cấp năng lượng cho não, cho bạch cầu hoạt động.
– Tinh bột và khoáng chất – là nguồn năng lượng cơ bản, giúp cân bằng nhiệt trong cơ thể.

Nhiều người sợ đường, sợ béo mà kiêng khem cực đoan. Nhưng không ăn béo cũng mỡ máu, không ăn đường vẫn tiểu đường là vậy.

Điều quan trọng là ăn đúng loại, đúng cách, đúng thời điểm.

Ăn đúng không chỉ là ăn đủ chất, mà còn phải ăn đủ vị
Tạo hóa ban cho chúng ta 6 vị tự nhiên để nuôi và dẫn dưỡng chất đến đúng nơi cơ thể cần:

– Chua – dẫn lên não, thông tắc nghẽn, giúp tỉnh táo.
– Chát – dẫn xuống chân, giúp chắc xương, khỏe dây chằng.
– Đắng – làm mát cơ bắp, mát gan, rã mỡ.
– Cay – dẫn vào tuỷ xương, làm ấm cơ thể, trị lạnh đau.
– Ngọt – giúp lưu thông toàn thân, giải nhiệt, tăng đề kháng.
– Mặn – giữ nước, làm ấm thận, giúp tế bào trao đổi chất.

Không có vị nào là xấu – chỉ sai khi ta lạm dụng một vị hoặc thiếu vắng một vị trong thời gian dài.

Ví dụ: Ăn chua quá nhiều mà không ăn chát – dễ rụng tóc, nhão cơ, lạnh da. Ăn cay mà không có đắng – nóng gan, nổi mụn.

Mỗi vị là một “chìa khóa” để mở cánh cửa dẫn dưỡng chất đến từng bộ phận cơ thể.
Nếu chỉ ăn đủ chất mà thiếu vị, cơ thể sẽ nơi thừa nơi thiếu – sinh ra rối loạn.

Âm dương trong thực phẩm – cần biết để ăn đúng giờ, đúng mùa
– Vị cay – chát – mặn là dương → nên ưu tiên ăn buổi tối và trưa.
– Vị chua – đắng – ngọt là âm → nên ăn vào sáng và trưa.
– Củ dưới đất như khoai, củ sen, gừng… dương hơn rau lá trên mặt đất.
– Trái cây như cam, bưởi, dưa hấu… gần mặt trời – âm hơn.
– Nấu chín sẽ làm thực phẩm dương hơn ăn sống.

Buổi tối là giờ âm – đừng nạp thêm thực phẩm âm như trái cây, nước đá, rau luộc nguội. Hãy thêm gia vị cay nhẹ, chút dầu tốt, ăn món hầm ấm nóng – giúp tuỷ làm việc, tạo máu khi bạn ngủ.
Bạn có thể bắt đầu ngày mới bằng một ly nước ấm để giữ ấm dạ dày và kích hoạt khí huyết lưu thông nhẹ nhàng.

Sống thuận tự nhiên – khoẻ tự nhiên
Tổ tiên ta ngày xưa không có thuốc men hiện đại, không có máy lạnh, không có đồ tinh chế – mà vẫn sống khoẻ nhờ thuận theo tự nhiên:
– Ăn đúng mùa, đúng vị.
– Dùng lửa, dùng nắng.
– Ăn đủ béo từ hạt, từ dầu tốt, từ mỡ động vật sạch.
– Dùng muối biển, đường tốt, không qua tinh luyện.

Ngày nay, chúng ta bỏ lỡ hết:
– Sợ mỡ, sợ đường → mất cân bằng.
– Ăn rau quả lạnh buổi tối → âm thịnh dương suy.
– Uống nước lọc quá nhiều mà không thêm muối → mất khoáng, mệt mỏi.

Chỉ khi hiểu quy luật âm dương, ta mới làm chủ được sức khỏe của mình.
Chỉ khi trở về với tự nhiên, ta mới sống thọ, sống khỏe và an yên.

Hãy lắng nghe cơ thể mỗi ngày.
Hãy nhìn lại bữa ăn hôm nay – có đủ 4 nhóm chất? Có đủ 6 vị? Có thuận giờ thuận mùa không?
Chỉ cần vậy thôi, cơ thể bạn sẽ tự sửa chữa – mà không cần đến thuốc men.

Nếu bạn thấy điều này ý nghĩa, hãy chia sẻ cho người thân yêu – để cùng nhau sống khoẻ, sống vui, sống thuận tự nhiên

Nguồn: sưu tầm

From: Anh Dang & KimBằngNguyễn


 

Ông Joe Biden xuất hiện với băng gạc lớn trên đầu sau ca phẫu thuật ung thư da

Ba’o Dat Viet

September 6, 2025

Ngày 5 Tháng Chín, truyền thông Mỹ lan truyền hình ảnh cựu Tổng thống Joe Biden rời một nhà thờ ở Greenville, bang Delaware, với một miếng băng gạc lớn trên đầu. Hình ảnh được ghi lại cuối tháng Tám đã lập tức thu hút sự chú ý, làm dấy lên nhiều bàn tán về tình trạng sức khỏe của ông ở tuổi 82.

Theo Fox News, ông Biden gần đây liên tục xuất hiện với băng gạc che vết thương. Trước đó, trong tang lễ cựu Thống đốc Delaware kiêm Hạ nghị sĩ Mike Castle, ông cũng để lộ dấu vết phẫu thuật. Một ngày trước đó, ông đội mũ bóng chày khi ghé một tiệm kem địa phương, được cho là để che đi vùng tổn thương.

Văn phòng của ông Biden sau đó xác nhận cựu tổng thống vừa trải qua phẫu thuật Mohs, một thủ thuật phổ biến trong điều trị ung thư da. Phương pháp này loại bỏ từng lớp mô bị ung thư cho đến khi không còn tế bào bệnh lý, giúp giảm thiểu tổn thương mô lành. Ông Biden hiện trong quá trình hồi phục và được cho là “đáp ứng tốt” với điều trị.

Đây không phải lần đầu ông Biden đối mặt với ung thư da. Năm 2023, khi còn tại nhiệm, ông từng phẫu thuật cắt bỏ tế bào ung thư da ở ngực. Khi đó, bác sĩ Kevin O’Connor khẳng định toàn bộ mô ung thư đã được loại bỏ thành công, song ông vẫn phải tiếp tục theo dõi. Đệ nhất phu nhân Jill Biden cũng từng trải qua phẫu thuật Mohs để loại bỏ tổn thương trên da cùng năm đó.

Tuy nhiên, những diễn biến sức khỏe mới này khiến dư luận Mỹ thêm phần lo lắng. Hồi tháng Năm, báo chí tiết lộ ông Biden mắc ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 4 đã di căn đến xương – một dạng được đánh giá là hung hãn, với điểm Gleason 9 và nhóm độ 5, mức cao nhất.

Vấn đề sức khỏe của ông Biden đã trở thành tâm điểm sau màn tranh luận gây thất vọng trong cuộc bầu cử tháng 6-2024. Chỉ vài tuần sau đó, ông tuyên bố rút khỏi đường đua tái tranh cử tổng thống. Đến nay, hình ảnh băng gạc trên đầu càng khiến câu hỏi về thể trạng của ông thêm nóng bỏng.

Một số chính trị gia thuộc phe Cộng hòa, trong đó có Tổng thống Donald Trump, đặt nghi vấn liệu ông Biden cùng các trợ lý có che giấu bệnh tình trong thời gian ông còn tại nhiệm hay không. Dù chưa có bằng chứng cụ thể, tranh luận này chắc chắn sẽ còn kéo dài khi sức khỏe của ông Biden tiếp tục là chủ đề được công chúng Mỹ theo dõi sát sao.


 

Welles Crowther đã cứu ít nhất 12 mạng người

Anh Chi TTV2 

 Chỉ vài phút sau khi chuyến bay United Airlines 175 đâm vào tòa tháp Nam của Trung tâm Thương mại Thế giới, Welles Crowther, chàng trai mới 24 tuổi, đã để lại lời nhắn cho mẹ mình:

“Mẹ ơi, là con đây, Welles. Con chỉ muốn nói với mẹ rằng con vẫn ổn.”

Đó là cuộc gọi cuối cùng của anh — một bằng chứng cuối cùng về tình yêu và sự trấn an.

Welles làm nghề môi giới tài chính ở tầng 104. Nhưng khi thảm kịch xảy ra, anh không nghĩ đến sự an toàn của riêng mình. Anh chọn một con đường khác: lao xuống nơi hỗn loạn để cứu người.

Khi đến tầng 78, giữa khói lửa và đổ nát, Welles không còn là một nhân viên văn phòng bình thường. Anh trở thành một điều gì đó lớn lao hơn — “người đàn ông với chiếc khăn bandana đỏ”.

Anh buộc chiếc khăn đỏ quanh mặt, không phải để che giấu, mà để thở trong làn khói ngột ngạt. Rồi, với mảnh vải ấy, anh bắt đầu dẫn đường cho những người còn sống sót băng qua bóng tối và đống đổ nát.

Welles đã bế một người phụ nữ bị thương trên tay xuống 15 tầng. Sau đó, không ngần ngại, anh quay lại. Rồi lại cứu thêm người khác. Rồi lại quay lại. Anh đã làm đi làm lại con đường tử sinh ấy nhiều lần.

Anh nói với mọi người:

“Ai còn có thể đứng, hãy đứng dậy ngay. Và nếu bạn có thể giúp người khác, hãy làm đi.”

Giữa tiếng kêu khóc, khói đen và nỗi sợ hãi, giọng nói của anh là ngọn đèn soi sáng, mang đến bình tĩnh và quyết tâm. Anh không la hét, không bỏ chạy. Anh chỉ hành động — bằng một sự can đảm và lòng trắc ẩn khó tin, một bản năng bảo vệ mà không trường lớp nào có thể dạy.

Vài ngày sau, thi thể Welles được tìm thấy bên cạnh một nhóm lính cứu hỏa, trên tay vẫn còn cầm dụng cụ cứu hộ. Anh đã ngã xuống trên đường đi cứu lần cuối cùng.

Ling Young, một trong những người sống sót nhờ anh, đã nói về Welles bằng những lời đơn giản mà lay động:

“Anh ấy là thiên thần hộ mệnh của tôi. Nếu không có anh ấy, chúng tôi đã kẹt lại ở đó, chờ cái chết.”

Ngày hôm đó, Welles Crowther đã cứu ít nhất 12 mạng người. Anh ra đi với chiếc khăn bandana đỏ trên mặt — trở thành biểu tượng vĩnh hằng của sự hy sinh thầm lặng.

Có những anh hùng trở thành huyền thoại. Có người thành lãnh đạo. Nhưng những anh hùng vĩ đại nhất lại có khi chỉ là những con người bình thường, và với một chiếc khăn đỏ giản dị, họ nhắc nhở chúng ta rằng: sức mạnh lớn nhất trên đời này chính là tình yêu và ý chí cứu lấy người khác.

TG Văn Chương


 

Một lời nói sai lúc nóng giận, sẽ tạo ra vết thương không bao giờ lành

Lm Trần Chính Trực

 Dù bạn thông minh đến đâu, giàu có đến mức nào, hay có quyền lực ra sao… thì chỉ cần một cơn nóng giận bùng lên, mọi thứ đều có thể “rơi về số 0”.

Chỉ trong khoảnh khắc cảm xúc bốc đồng, chỉ số IQ của bạn tạm thời biến mất, và phải mất ít nhất vài phút sau, bạn mới có thể lấy lại sự bình tĩnh.

Và bởi vậy, hãy ghi nhớ: Trong lúc tức giận, tuyệt đối đừng đưa ra bất kỳ quyết định nào.

Sự cao quý của một con người không nằm ở bằng cấp, chức danh hay gia sản, mà nằm ở khả năng tự kiểm soát cảm xúc.

Khi ta để miệng lưỡi buông ra những lời làm tổn thương người khác, dù vô tình hay cố ý, thì đó cũng là hành vi dại dột nhất của lý trí.

Nhiều người nghĩ mình mất tự do vì hoàn cảnh, vì người khác, vì xã hội… Nhưng thật ra, chúng ta không tự do, là bởi bị cảm xúc tiêu cực bên trong chi phối.

Có một câu cổ ngữ rất đáng để suy ngẫm:

“Người có thể kiểm soát cảm xúc xấu trong lòng, mạnh hơn người có thể chiếm lấy cả một tòa thành.”

Bạn thấy đó, nước càng sâu thì càng lặng.

Càng hiểu chuyện, người ta càng biết cách nói chậm, nghĩ kỹ, và chọn im lặng đúng lúc.

Nói năng lưu loát có thể học trong hai năm. Nhưng học được sự im lặng đúng lúc… có khi cần cả đời.

Nói – là một loại khả năng.

Không nói – là một loại trí tuệ.

Và đôi khi, sức mạnh lớn nhất của con người không nằm ở việc “đáp trả” thật nhanh, mà nằm ở việc biết dừng lại, biết nhẫn, và biết giữ lòng mình bình yên giữa bão giông.

Nếu bạn đang giận dữ, nếu lòng đang xáo trộn…

Đừng phản ứng vội.

Hãy hít một hơi thật sâu, bước lùi lại một bước, giữ im lặng một lúc.

Vì có thể — chỉ một lời nói sai lúc nóng giận, sẽ tạo ra vết thương không bao giờ lành.


 

 Đặc vụ di trú liên bang đột kích nhà máy Hyundai ở Georgia, bắt giữ 475 người

Ba’o Nguoi-Viet

 Đặc vụ di trú liên bang đột kích nhà máy Hyundai ở Georgia, bắt giữ 475 người, phần lớn là công dân Nam Hàn, giới chức loan báo hôm Thứ Sáu, 5 Tháng Chín, theo ABC News.

Nhà máy Hyundai ở Ellabell, Georgia – cách Savannah khoảng 30 dặm về hướng Tây – bị đột kích “trong cuộc điều tra hình sự về việc nơi này bị cáo buộc mướn người bất hợp pháp và phạm nhiều tội nghiêm trọng khác,” Bộ Nội An (DHS) ra thông báo cho hay.

Những người bị bắt làm việc cho vài công ty thầu phụ cũng như cho công ty mẹ, Hyundai, theo ông Schrank.

“Đây là chiến dịch thi hành luật di trú lớn nhất ở một nơi duy nhất trong lịch sử HSI,” ông Steve Schrank, người phụ trách văn phòng HSI ở Atlanta, cho biết trong buổi họp báo sáng Thứ Sáu.


 

TIẾNG GÕ NHẸ CỦA THIÊN CHÚA TRONG TÂM HỒN CHÚNG TA – Rev. Ron Rolheiser, OMI

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn mỗi người và giữa thế giới này hiếm khi xuất hiện một cách kịch tính, choáng ngợp, hay gây chấn động đến mức không thể phớt lờ.  Thiên Chúa không hành động theo cách đó.  Thay vào đó, Ngài hiện diện một cách âm thầm, khiêm hạ, tưởng chừng bất lực nơi sâu thẳm lòng người.  Một sự hiện diện không ồn ào, không gây náo động.

 Ta có thể nhận ra điều ấy ngay từ cách Con Thiên Chúa giáng sinh vào trần gian.  Như chúng ta đã biết, Chúa Giêsu sinh ra không kèn trống, không quyền thế – chỉ là một hài nhi bé nhỏ, nằm bất lực trên rơm cỏ, như muôn vàn trẻ thơ khác.  Không có điều gì lạ lùng hay ngoạn mục theo con mắt nhân loại.  Trong suốt sứ vụ công khai, Chúa Giêsu cũng không dùng phép lạ để chứng minh thần tính, mà chỉ như những hành động đầy lòng thương xót và để mạc khải tình yêu Thiên Chúa.  Ngài không tìm cách chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa, mà là để dạy chúng ta biết Thiên Chúa là ai, và yêu thương chúng ta thế nào – một tình yêu vô điều kiện. 

Về cốt lõi, giáo huấn của Đức Giêsu về sự hiện diện của Thiên Chúa cho thấy: đó là một sự hiện diện âm thầm, ẩn giấu bên dưới bề mặt cuộc sống – như hạt giống âm thầm lớn lên khi người ta ngủ say, như men đang làm dậy bột trong âm thầm, như mùa xuân dần dần làm xanh một thân cây khô cằn, như hạt cải nhỏ bé bất ngờ vươn mình lớn mạnh, như người biết tha thứ cho kẻ thù của mình.  Thiên Chúa hành động trong âm thầm và nhẹ nhàng – một cách dễ dàng bị bỏ qua nếu ta không tỉnh thức.  Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải không phải là một Đấng thích gây ấn tượng hay ồn ào.

Và điều này dạy chúng ta một bài học rất quan trọng: Thiên Chúa hiện diện trong lòng ta – rất sâu, nhưng lại rất nhẹ, đôi khi khó cảm nhận, và dễ dàng bị lãng quên.  Tuy nhiên, dù không bao giờ áp đảo, sự hiện diện ấy vẫn mang một sức hút âm thầm nhưng mãnh liệt – như một tiếng gọi không ngừng nghỉ, mời ta hướng về Ngài.  Và nếu ta đáp lại, sự sống thiêng liêng sẽ tuôn trào – hướng dẫn, nuôi dưỡng và ban tràn đầy sức sống và năng lượng.

 Điều này rất quan trọng để hiểu cách Chúa hiện diện trong chúng ta.  Sự hiện diện như một lời mời gọi luôn tôn trọng sự tự do của chúng ta.  Thiên Chúa không áp đặt.  Ngài không rút lui, nhưng cũng không xâm lấn.  Ngài hiện diện nơi tâm hồn, như một hài nhi nằm bất lực trong máng cỏ – dịu dàng mời gọi ta bồng ẵm, nhưng hoàn toàn không cưỡng ép.

 Tác giả C.S. Lewis từng kể về cuộc trở lại Kitô giáo của ông – rằng ông là “người trở lại không mong muốn nhất trong lịch sử Kitô giáo.”  Lewis vốn không mặn mà về mặt tình cảm và trí tuệ với đức tin, nhưng ông không thể tiếp tục phớt lờ một tiếng nói nhỏ nhẹ nhưng dai dẳng bên trong mình.  Vì nó tôn trọng tự do, nên ông có thể bỏ qua nó trong một thời gian dài.  Nhưng điều đó không đồng nghĩa là tiếng gọi ấy biến mất.

 Về sau, ông nhận ra tiếng nói ấy luôn ở đó – như một cú thúc nhẹ không ngừng, một lệnh truyền đầy yêu thương, một “sự thôi thúc” mà nếu nghe theo, sẽ dẫn đến sự giải thoát đích thực.

 Ruth Burrows – một nữ tu dòng Cát Minh và cũng là một nhà huyền nhiệm người Anh – đã mô tả một trải nghiệm tương tự.  Trong cuốn hồi ký “Trước Nhan Thiên Chúa Hằng Sống,” bà kể về những năm tháng tuổi trẻ ít quan tâm đến tôn giáo.  Vậy mà cuối cùng bà không chỉ nghiêm túc với tôn giáo mà còn trở thành một nữ tu dòng Cát Minh và một nhà văn tâm linh tài năng.  Chuyện gì đã xảy ra?

 Bị kích động bởi một loạt tình huống ngẫu nhiên, một ngày nọ, bà thấy mình đang ở trong một nhà nguyện, nơi mà, gần như trái với ý muốn của mình, bà đã để mình mở lòng đón nhận một tiếng nói bên trong mà cho đến lúc đó bà chủ yếu phớt lờ, chính xác là vì nó chưa bao giờ xâm phạm đến tự do của bà.  Nhưng một khi được chạm đến, nó trào dâng như điều sâu sắc và chân thực nhất bên trong bà và định hướng cuộc đời bà mãi mãi.

 Giống như C.S. Lewis, một khi để cho tiếng gọi ấy vang lên trong lòng, bà cảm nghiệm nó như một mệnh lệnh nội tâm không thể lay chuyển – dẫn bà đến với sự tự do đích thực.

 Tôi cũng đã từng trải nghiệm điều đó.  Năm mười bảy tuổi, khi tốt nghiệp trung học, tôi chẳng có chút ước muốn tự nhiên nào để trở thành linh mục Công giáo.  Thế nhưng, giữa sự kháng cự mạnh mẽ về mặt cảm xúc, tôi vẫn cảm thấy một tiếng gọi bước vào đời sống tu trì.  Dù trong lòng còn chống đối, tôi đã vâng theo tiếng gọi ấy – một sự thôi thúc sâu thẳm.  Giờ đây, sau sáu mươi năm, tôi nhìn lại quyết định ấy như là một trong những quyết định sáng suốt, vô vị kỷ, đầy đức tin và đem lại sự sống phong phú nhất mà tôi từng chọn.  Tôi hoàn toàn có thể đã phớt lờ tiếng gọi ấy – và tôi mãi mãi biết ơn vì đã không làm vậy.

 Fredrick Buechner từng viết rằng: Thiên Chúa hiện diện trong ta như một dòng ân sủng tiềm ẩn.  Ân sủng ấy không phải như dàn kèn đồng chói lòa vang lên báo hiệu; nhưng nó đến, chạm vào và đánh động – nhẹ nhàng đến mức ta có thể chẳng nhận ra, hoặc lựa chọn quay lưng lại với nó.

 Thiên Chúa không bao giờ tìm cách áp đảo chúng ta.  Hơn ai hết, Thiên Chúa tôn trọng tự do của chúng ta.  Ngài hiện diện khắp nơi – trong ta và quanh ta – âm thầm, nhẹ nhàng, dễ bị quên lãng: như một tiếng gõ nhỏ, một cú chạm nhẹ.  Nhưng nếu ta mở lòng ra, đó sẽ là dòng chảy không ngừng của tình yêu và sự sống.

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim


 

Charlie Chaplin những ngày cuối đời

Năm 1977, trên con đường ven hồ Léman ở Corsier-sur-Vevey, Thụy Sĩ, một trong những khoảnh khắc cuối đời của Charlie Chaplin được ghi lại: ông ngồi trên xe lăn, dáng người mảnh khảnh, đôi mắt đã mệt mỏi sau gần chín thập kỷ biến động, bên cạnh là Oona O’Neill – người vợ trẻ hơn ông 36 tuổi, con gái của đại văn hào Eugene O’Neill. Oona lặng lẽ đẩy xe, gương mặt bình thản nhưng ánh lên sự tận tụy. Bên dưới tấm chăn phủ trên chân Chaplin có một chú chó nhỏ nép mình, khiến cảnh tượng vốn đã đầy tính nhân văn lại càng ấm áp hơn.

Cuộc đời Chaplin từ vinh quang rực rỡ ở Hollywood, trở thành “ông hoàng của tiếng cười” với những tác phẩm bất hủ như The Kid, City Lights hay Modern Times, đến những năm tháng bi kịch bị chính trị hóa và buộc phải rời Mỹ, đã nhuộm màu bi kịch lẫn hào quang. Ông tìm thấy sự bình yên cuối đời nơi miền quê Thụy Sĩ, và quan trọng hơn, tìm thấy bến đỗ trong cuộc hôn nhân với Oona. Khi kết hôn năm 1943, Chaplin đã 54 tuổi còn Oona chỉ vừa tròn 18. Hôn lễ khi ấy gây sóng gió dư luận, nhưng Oona bất chấp tất cả, dành cả đời để chăm sóc, sinh cho Chaplin tám người con và trở thành điểm tựa lớn nhất của ông.

Giai thoại kể rằng Chaplin từng nói, Oona đã cứu ông khỏi sự cô đơn, khỏi nỗi ám ảnh bị ruồng bỏ, đem lại cho ông hạnh phúc giản dị mà trước đó chưa bao giờ chạm tới. Họ cùng nhau đi qua ba thập kỷ, từ những năm tháng tuổi già yếu ớt cho đến phút cuối cùng. Giáng sinh năm 1977, Chaplin qua đời trong giấc ngủ ở tuổi 88, để lại khoảng trống mênh mông trong nền điện ảnh thế giới. Oona sống thêm mười bốn năm, luôn giữ cho ký ức về Chaplin sống mãi trong trái tim gia đình và công chúng.

Bức ảnh trở thành biểu tượng dịu dàng về tình yêu và sự đồng hành: thiên tài từng mang tiếng cười cho cả nhân loại cuối cùng cũng cần bàn tay chở che của một người phụ nữ, cần một gia đình để tựa nương. Đó là hình ảnh nhắc nhớ rằng đằng sau ánh đèn sân khấu và huyền thoại điện ảnh vẫn là một con người bình thường, khao khát được yêu thương đến phút cuối.

From: taberd-NguyenNThu