CSVN kêu gọi 5 Việt kiều ở hải ngoại bị chụp mũ ‘khủng bố’ ra đầu thú

Ba’o Nguoi-Viet

November 17, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Sau hơn một tháng ban hành cáo trạng truy tố năm người gốc Việt ở hải ngoại với cáo buộc “khủng bố” và “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân,” Bộ Công An CSVN lại kêu gọi “ra đầu thú, nếu không sẽ bị xét xử vắng mặt.”

Theo báo VietNamNet, hôm 17 Tháng Mười Một, Cơ Quan An Ninh Điều Tra Bộ Công An đã ban hành bản kết luận điều tra, chuyển hồ sơ đến Viện Kiểm Sát Tối Cao đề nghị truy tố, xét xử vắng mặt đối với các ông bà: Đào Minh Quân, tự Đào Văn, ở Orange County, tiểu bang California; Phạm Lisa (tên khác là Phạm Anh Đào, Lisa Phạm) ở Denmark, tiểu bang South Carolina; Huỳnh Thị Thắm (tức Huỳnh Tammy Thắm) ở Riverside County, California; Lâm Ái Huệ (tức Lâm Kim Huệ, Huệ Lâm) ở Canada, và Đào Kim Quang (tên khác là Francis Andre Solvang, Đào Văn Tiền) ở Oslo, Na Uy.

Một phiên tòa xử các bị cáo bị cho là liên quan đến tổ chức của ông Đào Minh Quân. (Hình: Tuổi Trẻ)

Những người này bị cáo buộc về các tội “khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân;” “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân,” xảy ra tại Sài Gòn và một số tỉnh, thành phố khác.

Theo Bộ Công An, những người nêu trên là “phản động lưu vong, cầm đầu, cốt cán” trong tổ chức Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời – một tổ chức thành lập tại Orange County, California, từ hơn 30 năm trước.

“Bộ Công An kêu gọi các bị can nhanh chóng ra đầu thú để được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật và thực hiện quyền bào chữa. Nếu không ra trình diện hoặc đầu thú thì coi như từ bỏ quyền tự bào chữa và sẽ bị xét xử vắng mặt,” bản kết luận nêu.

Trước đó, hôm 2 Tháng Mười vừa qua, Viện Kiểm Sát Tối Cao ở Hà Nội đã ban hành cáo trạng truy tố và phát lệnh truy nã, đồng thời kêu gọi năm người nêu trên ra đầu thú, song không có kết quả.

Liên quan vụ án này, Cơ Quan An Ninh Điều Tra cũng đề nghị truy tố, xét xử đối với 19 bị can ở Việt Nam về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.”

Kho xe gắn máy vi phạm bị cháy rụi hồi Tháng Tư, 2017, công an cáo buộc nhóm của ông Đào Minh Quân đốt phá. (Hình: Thái Hà/VnExpress)

Trong những năm qua, CSVN xử tù ít nhất 100 người, đa phần ở tuổi trung niên và cao niên, bị cho là liên quan đến tổ chức Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời.

Không riêng gì nhóm này, nhiều cá nhân chỉ phát biểu quan điểm chính trị khác với đường lối độc tài đảng trị của đảng CSVN qua mạng xã hội, vận động dân chủ hóa đất nước, đều bị bắt bỏ tù với các cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” hay “hoạt động lật đổ.” Càng ngày, bản án mà họ đối diện càng nặng nề hơn trước. (Tr.N) [kn]


 

10 CÂU  NÓI  KINH ĐIỂN CỦA NGƯỜI DO THÁI

Trong cuộc sống, những câu nói dưới đây vô cùng chuẩn xác và có thể giúp chúng ta định hướng được những việc nên làm:

  1. Một cốc nước sạch vì một giọt nước bẩn mà trở nên vẩn đục, nhưng một cốc nước đục không thể vì một giọt nước sạch mà trở nên tinh khiết.
  1. Trên đời này có 3 thứ mà người khác không thể cướp được từ chúng ta:

– Một là thực phẩm đã ăn vào dạ dày

– Hai là ý tưởng giấu trong tim

– Ba là những cuốn sách đã in vào não bộ

  1. Ngựa thường dễ bị khuỵu chân trên những con đường đất mềm, con người dễ ngã gục trong những lời đường mật.
  1. Trên đời này không có sự phân biệt rõ ràng giữa bi kịch và hỉ kịch (hạnh phúc). Nếu bạn có thể bước ra từ bi kịch, đò là hỉ kịch. Nếu bạn chìm đắm mãi trong hỉ kịch, đó là bi kịch.
  1. Nếu bạn chỉ biết chờ đợi, sự việc xảy ra sau đó chỉ có thể làm bạn già nua.
  1. Nếu không đọc sách, đi vạn dặm đường chẳng qua cũng chỉ là một người đưa thư.
  1. Khi hàng xóm nhà bạn gảy đàn lúc 24h sáng, chớ vội bực tức. Bạn có thể đợi đến 4h sáng sang gõ cửa gọi anh ta dậy và nói rằng bạn rất thích giai điệu anh ta vừa chơi.
  1. Bạn bè thực sự không phải là những người có thể ngồi với nhau nói chuyện cả ngày không hết mà là những người ngay cả khi chẳng nói với nhau câu nào vẫn không cảm thấy ngại ngùng.
  1. Thời gian là thầy thuốc sẽ chữa lành những vết thương trong tâm hồn nhưng tuyệt đối không phải là cao thủ trong việc giải quyết vấn đề vướng mắc.
  1. Thà hối hận trước những việc sai trái  đã làm còn hơn là không biết hối hận.

 From: ngocnga_12 & NguyenNThu

Bị Bộ Công an Việt Nam khởi tố, ông Lê Trung Khoa lên tiếng

BBC Vietnamese

Ông Lê Trung Khoa nói “có bất ngờ một chút” khi nhận được tin mình bị Bộ Công an Việt Nam khởi tố, nhưng trên thực tế đã lường trước việc này từ lâu.

Nhà báo Lê Trung Khoa, người sáng lập và chủ biên trang Thoibao.de tại Đức, vừa bị Bộ Công an Việt Nam khởi tố và phát lệnh bắt tạm giam.

Trong thông báo được phát đi vào tối ngày 17/11/2025, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an cho biết đã ra quyết định khởi tố bị can và lệnh bắt tạm giam ông Lê Trung Khoa và ông Đỗ Văn Ngà để điều tra về tội “Làm, tàng trữ, phát tán, tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điều 117 Bộ luật Hình sự.

Bộ Công an Việt Nam nói gì?

Bộ Công an cho biết vụ án hình sự liên quan đã được khởi tố vào ngày 8/11/2025 và giờ đây là bước khởi tố bị can.

Theo thông báo của Bộ Công an được đăng trên trang Thông tin Chính phủ, kết quả điều tra vụ án có đủ căn cứ xác định ông Lê Trung Khoa, sinh năm 1971 tại Thanh Hóa, và ông Đỗ Văn Ngà, sinh năm 1977 tại Gia Lai, đã có hành vi làm, tàng trữ, phát tán, tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Bộ Công an cho biết ông Khoa có quốc tịch Việt Nam, có hộ khẩu thường trú tại phường Đống Đa, thành phố Hà Nội.

Trên thực tế, ông Khoa đã sinh sống tại Đức nhiều năm. Trong cuộc trả lời phỏng vấn BBC News Tiếng Việt mới đây, ông cho biết mình mang quốc tịch Đức từ năm 2024.

Giải thích thêm vào tối 17/11 về vấn đề quốc tịch, ông Khoa cho biết ông hiện mang hai quốc tịch Đức và Việt Nam.

Việc ông Khoa mang quốc tịch Đức sẽ khiến các nỗ lực bắt giữ ông từ phía Bộ Công an Việt Nam gặp nhiều trở ngại về pháp lý và ngoại giao.

Ông Lê Trung Khoa hoạt động báo chí truyền thông tại Đức nên có thể hiểu là ông được điều chỉnh và bảo vệ bởi các quy định pháp luật về tự do báo chí, tự do biểu đạt của nước này.

Ông Ngà được xác định có quốc tịch Việt Nam, thường trú tại xã Tuy Phước Đông, tỉnh Gia Lai, khu vực thuộc tỉnh Bình Định trước đây.

Thông báo của Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an cho biết cơ quan này đang phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao “điều tra, làm rõ vụ án, hành vi phạm tội của các bị can để xử lý theo quy định pháp luật”.

Ông Lê Trung Khoa nói gì?

Ông Lê Trung Khoa, hiện sống tại Đức, là người sáng lập và chủ biên trang Thoibao.de, nơi thường đăng tải thông tin về chính trị Việt Nam, trong đó có nhiều bài viết về tranh giành quyền lực, tham nhũng, các vụ bê bối chính trị. Ông cũng thường đăng tải các nội dung tương tự trên các nền tảng mạng xã hội như YouTube, Facebook.

Dù bị chặn ở Việt Nam, trang Thoibao.de vẫn thu hút đông đảo người xem từ trong nước.

Trước đây, ông Khoa cho biết cảnh sát tại Đức từng nhận được thông tin ông bị đe dọa giết và đã triển khai biện pháp bảo vệ ông.

Chia sẻ với BBC News Tiếng Việt về việc mình bị khởi tố, nhà báo Lê Trung Khoa nói: “Tôi nghĩ rằng thời điểm này là thời điểm rất quyết định vì trong thời gian vừa qua chúng tôi đã đối diện với rất nhiều hình thức tấn công từ phía Việt Nam. Cụ thể nhất là những đợt tấn công DoS từ chối dịch vụ đối với trang Thoibao.de, rồi tấn công bằng các báo cáo [trên nền tảng mạng xã hội] để xóa bài của chúng tôi diễn ra hằng ngày.”

Ông Khoa nhận định rằng có thể phía Việt Nam đã mua những phần mềm mã độc của những công ty ở châu Âu trị giá nhiều triệu đô la để tấn công, nhưng không thành công.

“Bây giờ khi không làm được gì chúng tôi vì chúng tôi vẫn tiếp tục đăng tin thì phía Việt Nam dùng con bài khởi tố,” ông nói.

Về quyết định khởi tố của Bộ Công an Việt Nam, nhà báo Lê Trung Khoa nói: “Tôi muốn nhắn nhủ đến Chính phủ Việt Nam rằng trong Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam cũng đã quy định rất rõ về do biểu đạt, tự do báo chí. Vậy quý vị hãy thực hiện đúng điều đó cho mọi công dân của mình, kể cả những công dân Việt Nam đang ở nước ngoài. Cần phải tôn trọng điều đó và phải tôn trọng pháp luật.”

Ông Khoa cho biết mặc dù bản thân sẽ cẩn thận hơn, và sẽ thông báo với các cơ quan chức năng liên quan của Đức để họ nắm được diễn biến mới từ phía chính quyền Việt Nam, nhưng vụ truy tố không làm ảnh hưởng đến công việc hàng ngày của ông và Thoibao.de.

Điều 117

Điều 117 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi năm 2017, 2025) quy định về tội danh “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Đây là điều luật được sửa đổi từ Điều 88 của Bộ luật hình sự 1999 và có khung hình phạt cao nhất lên đến 20 năm tù.

Chính quyền Việt Nam từng áp dụng Điều 117 để khởi tố, bắt giam nhiều nhà hoạt động, người dân khiếu kiện đất đai, nhà báo tự do và những người bất đồng chính kiến khác.

Trong số những người từng bị khởi tố, bắt giam và phạt tù theo Điều 117 có nhà giáo Nguyễn Năng Tĩnh, nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng, nhà văn Nguyễn Tường Thụy, bà Cấn Thị Thêu và các con của bà là Trịnh Bá Phương và Trịnh Bá Tư (những người dân đòi đất và trở thành nhà hoạt động)…

Từ trước đến nay, nhiều cá nhân, tổ chức trong nước và quốc tế đã lên tiếng kêu gọi, yêu cầu bãi bỏ Điều 117, vì điều này có thể được nhà nước sử dụng để dập tắt tiếng nói bất đồng.

Vụ kiện giữa Vingroup và ông Lê Trung Khoa

Trong một vụ việc khác, nhà báo Lê Trung Khoa là một trong 68 cá nhân và tổ chức mà tập đoàn Vingroup mới đây đã tuyên bố khởi kiện và báo cơ quan chức năng về các hành vi phỉ báng, vu khống.

Vào ngày 4/11/2025, Tòa dân sự thuộc Tòa khu vực Vùng II, Berlin, đã xét đơn của ông Phạm Nhật Vượng và công ty VinFast Germany GmbH yêu cầu cấm ông Lê Trung Khoa lặp lại nhiều phát ngôn mà họ cho là vu khống. Tòa đưa ra phán quyết mang tính phân định rất rõ giữa phát biểu sự kiện và phát biểu ý kiến theo luật pháp về tự do ngôn luận của Đức.

Có một điểm tòa chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là cấm ông Khoa lặp lại phát ngôn: “Vingroup/VinFast đưa hối lộ.”

Tòa đánh giá đây là tuyên bố về sự kiện, tức một cáo buộc có thể kiểm chứng, nhưng ông Khoa không đưa ra được chứng cứ. Vì vậy, nếu ông tiếp tục lặp lại, ông sẽ bị phạt 250.000 euro cho mỗi lần, hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 2 năm. Đây là phần nguyên đơn thắng.

Ngược lại, các cáo buộc còn lại của nguyên đơn – như việc ông Khoa gọi Vingroup là “tập đoàn mafia”, “khủng bố”, hay cáo buộc “đặt bom” trụ sở Thoibao.de – đều bị tòa bác bỏ.

Tòa cho rằng các phát biểu này, dù không có chứng cứ, thuộc phạm vi ý kiến chủ quan của ông Khoa, được pháp luật Đức bảo vệ theo quyền tự do biểu đạt. Vì vậy, không thể áp lệnh cấm khẩn cấp đối với ông Khoa. Đây là phần bị đơn thắng.

Tòa cũng phân định trách nhiệm chi trả án phí dựa trên mức độ thắng – thua: nguyên đơn phải chịu 7/8 án phí và phần lớn chi phí luật sư của cả hai bên. Điều này phản ánh việc đa số yêu cầu của nguyên đơn đã bị bác bỏ.

Phán quyết này là quyết định tạm thời trong thủ tục khẩn cấp. Nguyên đơn tuyên bố sẽ kháng cáo và tiếp tục các vụ kiện khác; còn ông Khoa cho rằng phán quyết chứng minh đa số yêu cầu chống lại ông “không có cơ sở pháp lý” và thể hiện sự bảo vệ quyền tự do ngôn luận trong hệ thống tư pháp Đức.


 

Đạo chích bậc thầy – Đoàn Xuân Thu

Đoàn Xuân Thu

Phần I

Trong lịch sử Trung Hoa cổ đại, có một nhân vật nổi tiếng tên là Từ Trích (徐跖), người nước Tống, sống vào thời Xuân Thu – cùng thời với Khổng Tử. Từ Trích vốn là anh ruột của Tử Lộ, một môn đệ trung thành trong hàng Thập triết của Khổng phu tử. Nhưng nếu người em theo học đạo thánh hiền, thì người anh lại rẽ sang con đường khác: Con đường của kẻ trộm, nhưng là kẻ trộm có tài và có chí. Dân gian gọi ông là Đạo Chích (盜跖) – nghĩa đen là “kẻ cướp Từ Trích,” nhưng về sau thành danh xưng chung cho bọn trộm cắp bậc thầy.

Theo Trang Tử, Đạo Chích từng thống lĩnh tới chín ngàn thuộc hạ, hành nghề giữa thời loạn, chuyên cướp của nhà giàu và chia cho kẻ nghèo. Hắn có đạo lý riêng, thậm chí còn dạy người “nghề trộm,” biết chọn thời, biết phân vai, biết ẩn thân, và đặc biệt là phải có lòng trung thành giữa bọn trộm với nhau.

Trang Tử từng chép một cuộc đối thoại giả tưởng giữa Lão Tử và Đạo Chích, trong đó tên cướp biện luận rằng: “Người trị nước thì cướp của dân bằng phép tắc, ta cướp bằng tay – ai cao hơn ai?”

Lời ấy, dẫu ngông cuồng, vẫn phản chiếu một triết lý nghịch: trong xã hội đảo điên, thiện ác có khi chỉ cách nhau một lớp vỏ danh nghĩa.

Từ đó, hai chữ “đạo chích” dần mang nghĩa rộng hơn. Người ta không còn chỉ dùng để chửi mắng, mà còn hàm ý “tay trộm chuyên nghiệp, hành động tinh vi, có đầu óc tổ chức.” Một thứ “nghề” trong bóng tối, đòi hỏi sự kiên nhẫn, trí nhớ, và đôi khi cả… óc thẩm mỹ.

Và trong thế giới hiện đại, vẫn có những kẻ mang linh hồn của Đạo Chích xưa, nhưng khoác lên lớp áo của thời đại, Jack “Murph the Surf” Murphy, một huyền thoại có thật của nước Mỹ thế kỷ XX.

Phần II

Jack Roland Murphy sinh năm 1938 tại California – miền đất của ánh nắng, bãi biển và những kẻ mộng mơ. Ông là tay lướt sóng điệu nghệ, từng giành giải vô địch, có phong độ của một ngôi sao màn bạc. Nhưng đằng sau mái tóc vàng và nụ cười rạng rỡ là một tâm hồn phiêu lưu không yên – và cũng chính cái máu phiêu lưu ấy đã đẩy ông vào con đường của “nghệ thuật ăn trộm.”

Đêm 29 Tháng Mười, 1964, Murphy cùng hai đồng phạm lẻn vào Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ ở New York. Một đêm hoàn hảo cho tội ác: Hệ thống báo động không hoạt động, cửa sổ mở hé hai inch để thông gió, tủ trưng bày đá quý cũng hỏng còi. Chỉ trong vài phút, họ lấy đi 24 viên ngọc quý, trong đó có viên “Star of India” – sapphire xanh nặng hơn 560 carat, lớn nhất thế giới.

Sau khi tiêu xài hoang phí ở Miami, cả nhóm bị bắt. Murphy đồng ý giao nộp phần lớn tang vật để đổi lấy bản án nhẹ, chỉ ba năm tù. Viên “Star of India” được tìm thấy trong một tủ khóa ở bến xe buýt, còn viên “Eagle Diamond” thì biến mất vĩnh viễn – có lẽ bị cắt nhỏ và bán lẻ trên thị trường chợ đen.

Ra tù, Murphy thử làm người lương thiện nhưng thất bại. Năm 1972, ông bị kết án vì tội giết người trong một vụ tranh chấp băng nhóm ở Florida. Suốt 17 năm tù đày, ông dần thay đổi, học Kinh Thánh, trở thành mục sư Cơ đốc, đi khắp các nhà giam Mỹ rao giảng về sự hối cải. Câu chuyện của Jack Murphy – từ tay trộm ngọc lừng danh đến người rao giảng lòng nhân – khiến thiên hạ nhớ đến Đạo Chích của hai nghìn năm trước: cùng phạm tội, nhưng không mất nhân tính; cùng sống ngoài vòng pháp luật, nhưng vẫn biết sám hối.

Phần III – Từ New York đến Paris

Sáu mươi năm sau vụ Star of India, lịch sử lặp lại ở bên kia Đại Tây Dương. Paris – kinh đô ánh sáng – bàng hoàng chứng kiến một vụ trộm mà báo chí gọi là “phi vụ thế kỷ” trộm vương miện tại bảo tàng Louvre.

Sáng 19 Tháng Mười, 2025, bốn người bịt mặt dùng thang nâng cơ khí tiếp cận tầng thượng của Galerie d’Apollon, nơi trưng bày các báu vật hoàng gia Pháp. Họ cưa cửa sổ, vô hiệu hóa cảm biến, đập kính, gom tám món trang sức quý giá rồi biến mất chỉ trong bốn phút. Số hiện vật bị lấy đi gồm: Vương miện, vòng cổ, hoa tai và trâm ngọc lục bảo của các hoàng hậu Marie-Amélie, Marie-Louise và Eugénie de Montijo. Tổng giá trị ước tính 88 triệu euro, song theo giới chuyên môn, “vô giá” mới là con số đúng.

Hai nghi phạm bị bắt tại sân bay Charles de Gaulle và vùng Seine-Saint-Denis, nhưng phần lớn báu vật chưa được thu hồi. Giới chức lo rằng những viên ngọc lục bảo, sapphire và kim cương có thể đã bị tháo rời, làm tan biến manh mối – y hệt như viên Eagle Diamond năm xưa.

Câu hỏi lớn đặt ra, giữa thế kỷ XXI, trong một bảo tàng đầy camera và cảm biến, vì sao một vụ trộm như vậy vẫn xảy ra? Phải chăng, công nghệ dù tinh vi đến mấy vẫn không thể ngăn được trí tuệ và táo bạo của con người?

Nhà triết học Pháp có lần nói: “Tội phạm cũng là một phần của văn minh.” Quả thật, mỗi vụ trộm lớn đều phản chiếu mặt tối của thời đại: khi nghệ thuật bảo tồn gặp nghệ thuật tước đoạt, và khi lòng tham được tô điểm bằng kỹ năng. Từ Đạo Chích thời Xuân Thu, đến Murphy ở New York, rồi những kẻ trộm ở Paris – ba thế giới, một bản chất: kẻ thông minh dùng trí tuệ sai, và xã hội luôn trả giá cho việc ấy.

Trong hành lang sáng trắng của Louvre hôm nay, người ta vẫn để trống chỗ từng đặt chiếc vương miện. Khoảng trống ấy, hơn cả một mất mát vật chất, là lời nhắc về tính mong manh của văn minh.

Bởi chừng nào còn người ham vàng ngọc, còn kẻ dám thử thách công lý, thì bóng dáng của Đạo Chích – kẻ trộm bậc thầy từ nghìn năm trước – vẫn còn lang thang đâu đó giữa chúng ta, trong hình hài những con người tưởng như vô hại.

Đoàn Xuân Thu

From: Tu-Phung

Chị không thấy đất nước mình đã thay đổi nhiều lắm sao?

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Đàn Chim Việt

13/11/2025

Dân oan khắp nơi vì những chính sách xã hội bất cập

Tôi thấy nhiều người bình luận:

“Chị không thấy đất nước mình đã thay đổi nhiều lắm sao? Ngày xưa đường đất, giờ đường bê tông; ngày xưa nhà tranh, giờ nhà tầng. Sao chị không thấy sự phát triển đó để khen?”

Nghe rất ngu ngơ.

Bởi vì một đứa trẻ, dù không ai dạy, nó cũng sẽ lớn.

Bạn không thể tự hào rằng “ngày xưa tôi cao 80cm, giờ tôi 1m70” — vì đó là quy luật sinh học, không phải thành tựu.

Cũng vậy, một quốc gia sau hàng chục năm hòa bình mà có đường bê tông, có nhà cao tầng, không phải là điều để hãnh diện.

Đó là điều tự nhiên phải có, nếu con người còn làm việc và thời gian còn trôi đi.

Cái đáng nói là: khi bạn lớn lên, bạn trở thành người tử tế hơn, hay chỉ là một thân xác to hơn?

Một đất nước thật sự phát triển không đo bằng số tầng cao ốc, mà bằng mức độ tự do, công bằng và phẩm giá của người dân.

Bê tông có thể che mưa, nhưng không thể che sự bất công.

Đường nhựa có thể chạy nhanh, nhưng không thể chạy trốn khỏi nỗi sợ nói thật.

Và GDP có thể tăng, nhưng nếu niềm tin của con người giảm, thì đó không phải là phát triển – mà là phình to trong ảo tưởng.

Nếu muốn tự hào, hãy so với những nước cùng xuất phát điểm:

Hàn Quốc sau chiến tranh nghèo đói, 60 năm sau trở thành nền kinh tế công nghệ.

Nhật Bản từ đống tro tàn, vươn lên thành quốc gia văn minh bậc nhất thế giới.

Singapore không có tài nguyên, nhưng xây được nhà nước liêm chính, dân được tôn trọng.

Còn Việt Nam?

Sau gần nửa thế kỷ, người dân vẫn phải “xin” từng giấy tờ, “chạy” từng thủ tục, “đóng” từng khoản không tên.

Nếu đó là “phát triển”, thì xin hỏi: phát triển cho ai?

Cái đáng sợ nhất không phải là nghèo, mà là tự mãn trong nghèo trí tuệ.

Người ta tưởng rằng bê tông là biểu tượng của văn minh, mà quên rằng văn minh bắt đầu từ cách con người đối xử với nhau.

Một quốc gia có thể có đường cao tốc, nhưng nếu dân phải cúi đầu trước cửa quyền, thì đó chỉ là một xã hội được tráng xi măng lên sự sợ hãi.

Đừng khoe rằng đất nước đã khác xưa, khi điều duy nhất khác là lớp sơn ngoài tường.

Hãy hỏi xem:

– Con người có được tôn trọng hơn không?

– Tiếng nói của dân có được lắng nghe không?

– Và luật pháp có còn phục vụ công lý hay phục vụ quyền lực?

Bởi vì, một đất nước không thể gọi là phát triển, nếu người dân vẫn phải xin để được sống đúng luật.

Khi người dân phải nuôi cả nhà nước – đó không phải là phát triển.

Ở Việt Nam, từng đứa trẻ vẫn còn ngồi trên ghế nhà trường đã phải đóng tiền để “xây dựng đất nước”, “ủng hộ đồng bào thiên tai”, “xây trường học”.

Những em bé mới mười tuổi đã bắt đầu gánh nghĩa vụ “cứu người lớn” — trong khi người lớn ấy là những người đang được trả lương để quản lý quốc gia.

Mỗi khi bão lũ xảy ra, thay vì có quỹ dự phòng quốc gia được vận hành minh bạch, thì chính phủ lại ngửa tay xin tiền dân.

Từng người nông dân, công nhân, bà bán hàng rong, chủ tiệm tạp hoá, thậm chí từng lớp học, từng doanh nghiệp nhỏ… đều phải “đóng góp cứu trợ”.

Và rồi có người vẫn nói:

“Đất nước mình đã thay đổi nhiều rồi mà.”

Thay đổi ư? Khi người dân vẫn phải trả tiền cho những thứ lẽ ra thuộc về phúc lợi

Một đất nước đứng thứ 5 về quy mô kinh tế ở Đông Nam Á, nhưng trẻ em vẫn không được học miễn phí, bệnh nhân vẫn phải “đặt phong bì” để được nằm viện, và người già vẫn phải sống nhờ con cái, thay vì được bảo đảm bằng hệ thống an sinh.

Nếu đó gọi là “thay đổi”, thì đó là sự thay đổi trên giấy, chứ không phải trong phẩm giá con người.

Ở các quốc gia phát triển, người dân nộp thuế để được bảo vệ.

Còn ở Việt Nam, người dân nộp thuế, rồi lại bị kêu gọi đóng góp để vá lỗi của chính bộ máy.

Người dân trả tiền cho trường, rồi trường vẫn xuống cấp.

Trả tiền cho bệnh viện, rồi vẫn phải mang thuốc từ nhà.

Trả tiền cho quỹ thiên tai, rồi khi lũ về, người dân vẫn tự bơi trong nước mắt của mình.

Đó không phải là “phát triển” – mà là một vòng luẩn quẩn của sự bóc lột hợp pháp hoá bằng khẩu hiệu.

Còn những “điều tích cực” mà các bạn nói là gì?

Các bạn bảo: “Hãy nhìn vào những điều tích cực chứ.”

Vậy xin chỉ cho tôi: điều tích cực nào khiến người Việt hôm nay sống hạnh phúc hơn, công bằng hơn, hay ít sợ hãi hơn?

GDP đó có cao hơn những quốc gia từng thua xa Việt Nam ba mươi năm trước hay không?

Hãy thử nhìn quanh: bao nhiêu người lao động đang sống lay lắt với đồng lương không đủ trang trải.

Những con đường bê tông mà các bạn tự hào —chính là nơi từng đứa trẻ phải đạp xe sát bên container, xe khách, xe tải, vì không có nổi một làn đường an toàn cho người dân.

Đường có thể phẳng, nhưng sinh mạng con người lại gập ghềnh hơn bao giờ hết.

Ngay cả trong bệnh viện – nơi lẽ ra là chỗ cuối cùng còn lại của nhân đạo –

đã bao nhiêu người phải chết trước cánh cửa cấp cứu, chỉ vì không kịp nộp viện phí, chỉ vì y tá, bác sĩ còn bận “hỏi giấy tờ”?

Đó là cái mà bạn gọi là “phát triển” sao?

Một xã hội nơi mạng người rẻ hơn một chữ ký, nơi sự sống phải xếp hàng chờ được phép cứu, thì mọi chỉ số GDP đều vô nghĩa.

Nếu đó là “phát triển”, thì xin lỗi — đó không phải là tiến bộ, mà là sự thích nghi của người dân với bất công.

Một quốc gia không thể được gọi là “phát triển” khi trẻ em phải đóng góp để cứu người lớn,

khi người dân phải quyên góp cho những sai lầm của chính quyền, và khi người nộp thuế phải nộp thêm lần nữa để được đối xử như con người.

Thay đổi thật sự không nằm ở màu của bê tông, mà ở màu của lương tri.

Và chừng nào người dân còn phải đi xin công lý, thì mọi con đường lát nhựa chỉ là lớp sơn mỏng trên một nền đất mục.

Hong Thai Hoang


 

Josephine Chen hành nghề bác sĩ suốt 40 năm ở Laramie

My Lan Pham

Người ta tìm thấy cô bé bị đóng băng trong một toa tàu chở hàng, chỉ với một mảnh giấy gắn trên áo khoác — và cô lớn lên để cứu chính thành phố suýt khiến mình chết.

Mùa đông năm 1892, Laramie, Wyoming.

Một công nhân đường sắt nghe thấy tiếng khóc phát ra từ một toa hàng trống và phát hiện một bé gái, khoảng bốn tuổi, môi tím tái và run rẩy. Trên chiếc áo khoác sờn cũ của cô bé có gắn một mảnh giấy:

“Con bé tên là Josephine. Tôi không thể nuôi nó. Xin hãy tử tế hơn tôi.”

Phần lớn mọi người muốn gửi cô bé đến trại trẻ mồ côi ở miền Đông.

Nhưng Martha Chen, một người phụ nữ Mỹ gốc Hoa làm nghề giặt ủi — người đã mất con gái mình vì bệnh sốt tinh hồng nhiệt — nhìn vào đôi mắt sợ hãi ấy và nói:

“Con bé sẽ ở lại với tôi.”

Cả thị trấn xì xào:

Một người phụ nữ Trung Quốc nuôi một đứa trẻ da trắng ư?

Không phù hợp. Không tự nhiên.

Nhưng Martha phớt lờ tất cả, dạy Josephine học đọc dưới ánh nến, ghi sổ tiền giặt là, và biết cách đứng vững khi người ta xì xào sau lưng.

Josephine học được hai ngôn ngữ, hai nền văn hóa, và một chân lý không thể lay chuyển:

Gia đình không chỉ là huyết thống — mà là những người ở bên ta khi thế giới sụp đổ.

Khi 17 tuổi, Josephine làm việc tại phòng khám duy nhất của thị trấn. Mùa đông năm 1905, dịch bạch hầu (diphtheria) bùng phát ở Laramie.

Bác sĩ ngã bệnh vào ngày thứ ba.

Josephine — người đã học được mọi thứ sau năm năm ghi chép và chuẩn bị dụng cụ — đã thay thế ông.

Trong hai tuần liền, cô hầu như không ngủ:

Cô pha chế thuốc, theo dõi bệnh nhân và tổ chức cách ly dựa trên những gì đọc được trong nhật ký của bác sĩ.

Khi dịch bệnh qua đi, 23 người sống sót — những người vốn không có hy vọng sống.

Chính những dân làng từng nghi ngờ sự tồn tại của cô, giờ lại mang ơn cô vì đã cứu con họ.

Khi bình phục, bác sĩ — với lòng biết ơn sâu sắc — đã đề nghị tài trợ cho cô học y khoa.

Martha Chen còn sống để chứng kiến Josephine được nhận vào trường điều dưỡng, bước đầu tiên trên hành trình trở thành một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của bang Wyoming.

Nhiều năm sau, có người hỏi Josephine liệu cô có bao giờ nghĩ đến mẹ ruột của mình không.

Cô trầm ngâm một lúc rồi khẽ lắc đầu:

“Người phụ nữ tìm thấy tôi trong giá lạnh đã cho tôi sự sống.

Người phụ nữ nuôi dưỡng tôi đã cho cuộc đời tôi ý nghĩa.

Đó là điều mà nhiều người chẳng bao giờ có được từ chỉ một người mẹ — còn tôi thì may mắn có đến hai.”

Chiếc toa hàng — nơi từng suýt trở thành quan tài của cô — đã nằm rỉ sét nhiều thập kỷ bên ga tàu, như một lời nhắc nhở rằng:

Những khoảnh khắc lạnh lẽo nhất đôi khi lại để lại di sản ấm áp nhất.

Josephine Chen hành nghề bác sĩ suốt 40 năm ở Laramie — đỡ đẻ, nắn xương gãy, cứu người — và chứng minh rằng sự cứu rỗi không phải là kết thúc của câu chuyện.

Đôi khi, đó chỉ là khởi đầu.

Từ trang Bình luận thế sự


 

Công nghệ của lòng nhân ái

Giữa mùa đông khắc nghiệt của Canada, nơi tuyết có thể rơi dày cả mét và nhiệt độ hạ xuống âm hàng chục độ, có những chiếc ghế công cộng biết “ôm lấy con người”.

Không phải phép màu – mà là thiết kế mang trái tim con người: những ghế công cộng có lớp phủ giữ nhiệt tự động (thermal wrap). Khi tuyết bắt đầu rơi, lớp phủ này nhẹ nhàng cuộn xuống, bao bọc người nằm trên ghế như một chiếc kén ấm áp, ngăn gió lạnh và giữ hơi ấm cơ thể.

Công nghệ của lòng nhân ái

Cơ chế hoạt động thật tinh tế: cảm biến chuyển động hoặc nhiệt độ nhận biết khi có người ngồi hoặc nằm, và khi thời tiết giảm xuống mức nguy hiểm, tấm phủ cách nhiệt tự động bung ra. Chất liệu của nó tương tự như chăn cứu hộ – nhẹ, bền, chống nước, phản xạ lại nhiệt cơ thể để giữ ấm lâu hơn.

Một số mẫu còn tích hợp năng lượng mặt trời để cung cấp sưởi nhẹ hoặc ánh sáng ban đêm – đủ để người nằm cảm thấy an toàn giữa trời tuyết trắng.

Một thành phố biết “quan tâm bằng thiết kế”. Ở những đô thị lớn, nơi bóng dáng của người vô gia cư thường bị lãng quên giữa dòng người hối hả, những chiếc ghế này trở thành biểu tượng của lòng trắc ẩn đô thị.

Không ồn ào, không quảng bá, chúng chỉ lặng lẽ hiện diện – như lời nhắc rằng sự tử tế có thể được lập trình vào từng chi tiết của thành phố, từ ánh đèn đường đến một chỗ nghỉ qua đêm.

Không chỉ là nơi nghỉ, mà là “một chiếc ô nhân đạo giữa mùa tuyết”

Chúng không thay thế được mái nhà, nhưng trong những đêm âm 20°C, khi mọi nơi đã đóng cửa, chúng có thể cứu một mạng người. Và đôi khi, trong một thế giới đầy công nghệ và thép lạnh, điều ấm áp nhất lại nằm trong cách con người biết thiết kế để quan tâm nhau.

Những chiếc ghế này không chỉ được tạo ra để ngồi, mà để nhắc chúng ta rằng — lòng nhân ái cũng có thể được thiết kế.

(Sưu tầm)

From: Tu-Phung


 

 VinFast: Phiên tòa Berlin và hành trình gập ghềnh ở Mỹ-Bùi Văn Phú

Bùi Văn Phú

Bùi Văn Phú [bbc.com/vietnamese 12.11.2025]

Phiên tòa tại Đức và những chiếc xe phủ bụi tại Mỹ, VinFast đang trải qua một hành trình gập ghềnh ở bên ngoài biên giới Việt Nam.

Tháng 11/2021, VinFast đem xe ô tô chạy bằng điện qua Mỹ chào hàng lần đầu tiên trong một cuộc triển lãm quốc tế ở thành phố Los Angeles.

Là công ty ô tô còn non trẻ của Việt Nam, VinFast ra đời năm 2017, nên sự kiện “đem chuông đi đánh xứ người” gây chú ý trong cộng đồng người Việt và nhiều người đã đến xem. MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên đã nhiệt tình quảng cáo cho VinFast ngay tại nơi triển lãm, khi cô trả lời PhoBolsaTV rằng dù cô đã đặt mua Tesla, nhưng sẽ hủy và chờ năm sau mua xe VinFast.

Một người bạn của tôi kể khi ghé gian hàng VinFast dịp này đã được chiêu đãi nhiều món ăn ngon, rượu thơm.

Xem hình ảnh về cuộc triển lãm được lan truyền trên mạng xã hội, tôi thấy thiết kế ngoại hình của VinFast trông đẹp không thua các xe mini SUV của Honda, Toyota, Volvo, BMW hay Hyundai, KIA, là những thương hiệu được ưa chuộng từ nhiều năm qua tại Hoa Kỳ.

Qua năm 2022, VinFast cũng đưa mặt hàng tham gia triển lãm ôtô ở Las Vegas và New York. Đến tháng 4, công ty bắt đầu nhận đơn của khách hàng ở Mỹ đặt mua VF8 hay VF9 và chỉ cần đặt trước 200 đôla. Trong các đợt khuyến mãi, VinFast còn tặng quà nghỉ dưỡng ba đêm ở khu du lịch VinPearl, Nha Trang cho những người đặt mua xe.

Nhiều phòng trưng bày xe VinFast được mở ra ở California – tại các thành phố Santa Monica, Commerce, San Diego ở miền nam và San Mateo, Corte Madera, Berkeley và Richmond ở miền bắc.

Cùng lúc, VinFast đầu tư xây dựng một khu lắp ráp tại bang Bắc Carolina, bờ đông nước Mỹ, với kinh phí đầu tư 4 tỉ đôla và tuyên bố sẽ tạo ra 7.500 việc làm, ban đầu dự kiến bắt đầu vận hành vào năm 2024. Dự án này đã được Tổng thống Joe Biden lên tiếng khen vào lúc đó.

Tôi đã ghé qua vài nơi trưng bày VinFast ở vùng Vịnh San Francisco và có thể nói bề ngoài và nội thất của xe trông đẹp. Về động cơ hay pin xe, tôi không biết vì chưa bao giờ làm chủ một chiếc xe chạy bằng điện và cũng không có hiểu biết nhiều về kỹ thuật.

Theo lời nhân viên tiếp thị tại cửa hàng VinFast ở thành phố Berkeley, đã có 70.000 người trong và ngoài Việt Nam đặt mua xe, tuy không có con số riêng cho khách hàng ở Mỹ, nhưng ông nói xe sẽ được giao vào cuối năm 2022.

Nhà máy VinFast đặt ở Hải Phòng. Công ty dùng công nghệ thiết kế của Ý, máy xe từ Đức và pin chạy xe từ Trung Quốc. Mẫu xe VF8 và VF9 xuất khẩu qua Mỹ có giá trên 50.000 đôla và người mua có thể được hoàn trả 7.500 đôla theo chính sách năng lượng sạch của Hoa Kỳ thời Tổng thống Joe Biden.

Vào tháng 11 năm 2022, có một buổi lễ xuất quân ở bến cảng Hải Phòng đưa 999 xe VinFast đầu tiên vào thị trường Mỹ với sự hiện diện của Thủ tướng Phạm Minh Chính và Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Marc Knapper.

Sau chuyến hải hành vài tuần vượt Thái Bình Dương, vào ngày 15/12, con tàu VinFast chầm chậm lướt sóng dưới cầu Golden Gate tiến vào Vịnh San Francisco. Sau vài ngày qua các thủ tục hải quan và kiểm tra, tàu vào bến cảng dành cho xe ô tô ở Benicia.

Trưa ngày 19/12/2022, tôi vào cảng, nhìn những chiếc xe VinFast chạy từ tàu xuống bến, rồi vào bãi đậu, lòng không khỏi ngạc nhiên khi thấy đoàn xe đang chuyển bánh trên đất Mỹ là đến từ quê cũ của mình. Việt Nam nay thực sự đã có thể xuất khẩu xe ô tô! Có thật như thế không? Tôi muốn trực tiếp chứng kiến giờ phút lịch sử này, dù trước đó vài hôm nhiều tạp chí chuyên về ô tô ở Mỹ đã đăng những bài viết không thuận lợi về VinFast.

Ngày 13/12, các trang Dot.la Motortrend.com đăng bài có nhan đề nêu thắc mắc nếu VF8 chỉ chạy được 180 dặm cho mỗi lần sạc bình mà giá 55.000 đô la thì có thể cạnh tranh trong thị trường xe điện ở Mỹ được không?

Trang mạng Jalopnik.com ngày 14/12 có bài dài của Kevin Williams, The VinFast VF8 is simply not ready for America (Nói đơn giản thì VinFast VF8 chưa sẵn sàng cho Hoa Kỳ). Tác giả là phóng viên chuyên về ô tô mà VinFast đã mời sang thăm xưởng lắp ráp của công ty ở Hải Phòng, mọi chi phí do VinFast đài thọ. Ông cũng đã được lái thử xe VF8 khi đến thăm khu du lịch VinPearl, Nha Trang. Ông nêu nhận xét dòng xe VF8 quá tệ, chưa đủ tiêu chuẩn để vào thị trường Mỹ.

Một chi tiết tác giả đưa lên trong bài là khi đến thăm xưởng lắp ráp VinFast vào 10 giờ sáng mà ông thấy vắng công nhân làm việc, người đại diện VinFast nói họ đang ăn trưa.

Dù về lâu dài xe VinFast tốt xấu ra sao, nhưng ngày 20/12 trang Carscoops.com đưa tin ô tô sản xuất ở Việt Nam đã đạt đủ các tiêu chuẩn Mỹ để bán cho khách hàng.

Giữa tháng 5/2023, có thêm một chuyến tàu chở 1.879 xe VinFast đến Mỹ, cập cảng Benicia cho xuống hàng 1.098 xe, số còn lại được đem vào thị trường Canada.

Ngày 12/5, giới phê bình xe lại có những bài viết tiêu cực về Vinfast trên các tạp chí ô tô.

Bài trên Freencarreports.com có nhan đề Review: Don’t buy the VinFast 2023 VF8 City Edition (Trải nghiệm xe: Đừng mua VinFast 2023 VF8 City Edition).

Mack Hogan, sau khi chạy thử và thấy xe rung lắc mạnh, đã viết trên tạp chí Roadandtrack.com như sau: “Công ty đã đem vào thị trường một sản phẩm cho cảm giác chưa hoàn thiện và đáng xấu hổ.”

Các bài viết vào thời điểm này trên Motortrend.com Theautopian.com cũng khuyên khách hàng không nên mua xe VinFast, sau khi các tác giả chạy thử xe và phát hiện hàng loạt lỗi.

Một người Việt ở San Jose, cô Katie Vuong, đưa chuyện xe VinFast lên Facebook, tôi có hỏi và cô kể rằng người giúp việc đưa đón con cô đi học mỗi ngày với xe VinFast, nhưng trong vài tháng mà thấy chị ấy đổi xe mấy lần. Chị cho biết mỗi lần xe có trục trặc, công ty đổi ngay cho một xe mới để chạy trong khi chờ sửa xe bị hư.

Chính sách bảo hành của VinFast đã đáp ứng tốt cho khách hàng. Còn bảo hiểm cho xe VinFast đắt rẻ ra sao, tôi hỏi một người quen là nhân viên công ty State Farm và được biết giá bảo hiểm hai chiều cho VinFast VF8 là 1.700 đô la cho sáu tháng, cũng bằng với bảo hiểm cho Tesla.

Sau ba năm vào thị trường Mỹ, VinFast đã vài lần yêu cầu chủ xe đem xe đến nơi sửa chữa để điều chỉnh vài lỗi kỹ thuật, gọi là recall. Những điều chỉnh lỗi như thế cũng xảy ra với các thương hiệu xe khác đang lưu hành ở Mỹ.

Có một tai nạn xảy ra lúc 9 giờ tối ngày 24/4/2024 tại thành phố Pleasanton, vùng Vịnh San Francisco, liên quan đến xe VinFast được truyền thông đưa tin. Một gia đình 4 người đã tử nạn khi xe đang chạy thì tông vào một cây bên đường làm xe bốc cháy.

Trong vụ tai nạn này, người lái không phải là chủ xe. Một đồng nghiệp của người bị nạn cho biết trong quá khứ chiếc xe đã có vấn đề với tay lái, vì thế Cục An toàn Giao thông Quốc gia (National Highway Traffic Safety Administration, NHTSA) đã vào cuộc để điều tra và chưa có kết quả, theo nhật báo Los Angeles Times ngày 23/5/2024.

Ngày 12/9/2024, Reuters đưa tin NHTSA cũng bắt đầu tiến hành điều tra về hệ thống hỗ trợ giữ làn đường (Lane Keep Assist System) của một số xe VinFast, sau khi có 14 báo cáo trục trặc tay lái trong số 3.118 xe đã được bán ra tại Mỹ.

Sau ba năm có mặt tại thị trường Mỹ, không thấy VinFast quảng cáo bán xe trên truyền hình hay báo chí Mỹ và cũng không công khai con số xe đã bán được tại Hoa Kỳ.

Theo quan sát riêng, dựa trên những chuyến tàu VinFast cập cảng ở Mỹ và số lần nhìn thấy xe trên đường phố vùng Vịnh San Francisco, nơi tôi sinh sống, và trong những lần xuống Quận Cam ở nam California trong hai năm qua, tôi ước đoán VinFast đã bán được chừng 4.000 chiếc tại Mỹ, hầu hết bán cho người Việt ở California, nhiều nhất là miền Nam California.

Còn theo báo chí trong nước, VinFast bán được 2.636 tại California vào năm 2024.

Không chỉ đem xe qua Mỹ bán, ngày 15/8/2023, VinFast còn gây chú ý khi lên sàn chứng khoán NASDAQ ở New York, với mã cổ phiếu VFS, giá 15 đô la một cổ phiếu, hai tuần sau lên 82 đô la và hai tháng sau xuống còn vài đô la. Hiện tại, giá một cổ phiếu chỉ ở mức khoảng trên 3 đô la từ nhiều tháng qua.

Dự án xây dựng xưởng xe VinFast ở bang Bắc Carolina nay đã dời ngày hoàn tất đến năm 2028.

Khi ông Phạm Nhật Vượng đem sản phẩm VinFast ra thị trường quốc tế, nhiều người thắc mắc vì sao trình độ kỹ thuật của Việt Nam còn kém mà lại đem xe ô tô xuất khẩu sang Mỹ, làm sao cạnh tranh được trong thị trường ở một xứ tự do kinh doanh, khách hàng là vua và đã có nhiều thương hiệu xe được khách hàng chuộng từ lâu.

Tôi phát hiện những thông tin không tốt cho VinFast từ nước ngoài đều bị chặn và không tờ báo trong nước nào đưa tin về các sự cố của VinFast xảy ra ngay tại Việt Nam. Những người phản ánh lỗi xe VinFast trên mạng xã hội cũng bị rất nhiều người vào bình luận tấn công, chỉ trích.

Mới nhất, hồi tháng 9/2025, ông Phạm Nhật Vượng đã trình báo và khởi kiện 68 tổ chức và cá nhân với cáo buộc họ dùng mạng truyền thông xã hội để “vu khống”, “phỉ báng”, “bôi nhọ” về sản phẩm của tập đoàn VinFast và cá nhân ông.

Vụ xử đầu tiên hôm 4/11/2025 đã diễn ra tại một tòa dân sự ở thành phố Berlin, với nguyên đơn là ông Phạm Nhật Vượng và công ty Vinfast Germany GmbH ở Đức kiện tờ báo mạng Thoibao.de, do ông Lê Trung Khoa làm chủ bút, về việc đăng những bài viết có tính bôi nhọ, phỉ báng hay vu khống công ty VinFast và cá nhân ông Vượng.

Phán quyết của tòa chỉ cấm ông Lê Trung Khoa một điều là không được nhắc lại những lời phát biểu mang tính vu khống rằng Vinfast đã tìm cách hối lộ. Nếu không tuân lệnh tòa, ông Khoa sẽ bị phạt tiền 250.000 euro và tù từ 6 tháng đến 2 năm.

Còn những điểm khác mà VinFast muốn tòa xử ông Khoa – về việc nói xấu ông Vượng hay những phê bình tiêu cực về sản phẩm của VinFast và về công ty này – thì tòa cho đó là quyền tự do biểu đạt, phát biểu ý kiến.

Trả lời BBC News Tiếng Việt hôm 8/11, ông Lê Trung Khoa cho biết ông là người thắng trong vụ án vì ông sẽ chỉ phải trả 20% án phí, còn VinFast trả 80%.

Báo trong nước, như đã từng bao che và bênh vực cho VinFast trước nay, đưa thông tin trái ngược, xem như ông Phạm Nhật Vượng thắng lớn trong vụ kiện, rồi sau đó biên tập lại, lược bỏ các từ “chiến thắng”, “thắng kiện”, khi tập đoàn VinFast và ông Vượng cho biết họ sẽ kháng án.

Khi có ai đó phơi bày khuyết điểm của xe VinFast và nói những gì không đúng về cá nhân ông Phạm Nhật Vượng, nếu ông thấy mình bị vu oan thì đâm đơn kiện họ ra tòa để đòi lại sự công bằng cho sản phẩm và trả lại thanh danh cho ông; đó là điều bình thường.

Nhưng sau khi có phán quyết của tòa mà truyền thông trong nước lại cho rằng ông Phạm Nhật Vượng thắng cuộc thì không còn mấy ai tin VinFast, tin báo chí trong nước; như nhiều người đã không tin vào hồ sơ tài chính của công ty này khi được đăng trên báo phát hành tại Việt Nam.

VinFast phải trả 80% án phí và nếu số tiền đó có lên đến cả trăm nghìn đô la thì vẫn là quá nhỏ so với tài sản của VinFast. Nhưng không phải có nhiều tiền mà VinFast có thể che giấu được sự thật, hay có thể bắt những người phê bình, chỉ ra lỗi của sản phẩm phải im lặng.

Tháng 9 vừa qua, tôi có ghé lại phòng trưng bày xe của VinFast ở Berkeley thì thấy đã đóng cửa. Đến trung tâm bán xe và dịch vụ sửa xe lớn nhất trong vùng Vịnh San Francisco của VinFast, trong khu Auto Plaza ở thành phố Richmond, thì không còn thấy treo bảng hiệu VinFast. Văn phòng đóng cửa, bên trong trống trơn, bãi đậu xe còn vài chiếc VinFast chưa bán được, phủ đầy bụi.

– Tác giả là giảng viên đại học cộng đồng và là một nhà báo tự do từ vùng Vịnh San Francisco, California.


 

Trân Văn/ NV: Đảng vi quý, xã tắc vi thứ chi, dân vi khinh!

Tiếng Dân News

Nhiều cơ quan truyền thông ở Việt Nam vừa lược thuật cảnh báo của Ngân Hàng Thế Giới (World Bank – WB) rằng đến 2050, GDP của Việt Nam sẽ giảm ít nhất 12.5% nếu không có những biện pháp hữu hiệu để kinh tế-xã hội Việt Nam thích ứng với biến đổi khí hậu.

Trong cảnh báo vừa kể, WB tiếp tục nhắc lại viễn cảnh vốn đã được mô tả từ lâu: Một nửa diện tích của đồng bằng sông Cửu Long có thể sẽ chìm trong nước, tước đi sinh kế của hàng triệu người, gia tăng nguy hiểm cho an ninh lương thực quốc gia.

Tương lai Việt Nam không chỉ có sự u ám riêng trong lĩnh vực nông nghiệp. Biến đổi khí hậu khiến nước biển dâng cao còn đe dọa sinh hoạt, sinh kế của dân cư các khu vực duyên hải, khoảng 70% dân số và 433 khu công nghiệp tạo ra 90% hàng hóa xuất cảng sẽ bị ngập.

Ngoài tác động nguy hiểm của nước biển dâng cao, nhiệt độ tăng cao cũng sẽ ảnh hưởng đến nhiều nhà máy, xí nghiệp. Khoảng 1.3 triệu lao động, trong đó 70% là phụ nữ sẽ phải gánh chịu hậu quả của yếu tố này.

Mưa to, bão lớn vì biến đổi khí hậu còn gây ngập lụt. WB ước đoán, đến năm 2030, tỷ lệ hệ thống giao thông bị hư hỏng do ngập lụt sẽ tăng khoảng 40%. Nguy cơ các cảng biển quan trọng ở TPHCM, Hải Phòng bị ngập sẽ tăng gấp năm lần so với hiện nay, gây gián đoạn cho việc vận chuyển từ 68,000 tấn đến 106,000 tấn hàng hóa/ngày, thiệt hại sẽ vào khoảng $89 triệu/ngày.

Để dễ hình dung thiệt hại, WB dẫn thiệt hại mà trận bão Yagi năm 2024 từng khiến cảng Hải Phòng mất $955 triệu làm ví dụ minh họa.

Những yếu tố như nhiệt độ cực đoan, cung cấp điện gián đoạn, mưa lũ cực đoan,… đã, đang và sẽ còn làm năng suất lao động của Việt Nam giảm, lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu bị bào mòn.

Từ sự yếu kém của hạ tầng và bảo trì, WB lưu ý, thiệt hại sẽ lan truyền như hiệu ứng domino – hệ thống giao thông tê liệt vì tác động của biến đổi khí hậu sẽ làm mạng lưới cung ứng – phân phối (logistics) của Việt Nam tê liệt. Ứng phó chậm trễ chừng nào thì nội lực sẽ suy giảm chừng đó.

Do chậm chạp trong ứng phó, đến 2050, có thể sẽ có từ 100,000 đến 1.1 triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo. Nguy cơ bần cùng vì không đủ điều kiện tự bảo vệ trước thiên tai ở nhóm lao động kỹ năng và thu nhập thấp, cũng như các gia đình sống ở những khu vực như ven biển, đồng bằng, nông thôn được dự đoán là “đặc biệt cao.” Nếu không sớm đầu tư vào năng lượng sạch, nâng cao khả năng thích ứng của nông nghiệp, khả năng chống chịu của đô thị, thành tựu tích lũy từ tăng trưởng sẽ bị biến đổi khí hậu quét sạch.

Theo WB, tác động của biến đổi khí hậu có thể làm tăng trưởng giảm đều đặn 0.5 %/năm. Do vậy, nguồn thu cho ngân sách sẽ giảm trong khi chi tiêu sẽ tăng để khắc phục hậu quả, vào năm 2050, tài khóa có thể thâm hụt thêm 0.8% GDP…

***

Trong sáu tháng vừa qua, dân chúng Việt Nam choáng váng vì thiên tai dồn dập, hai cụm từ “bất thường” và “vượt mức lịch sử” liên tục được lập đi, lập lại. Thiên tai đổ đến dưới đủ mọi dạng: Hạn hán, nước mặn xâm nhập, dông lốc và đặc biệt là mưa to, bão lớn, sạt lở.

Riêng tác động của mưa, bão đã vắt kiệt nội lực của quốc gia lẫn nhiều cá nhân, gia đình. Ở miền Bắc, thiệt hại do tác động của mưa, bão khiến hàng trăm ngàn gia đình ở Hà Nội, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lào Cai, Hòa Bình, Phú Thọ, Tuyên Quang, Bắc Giang, Bắc Ninh,… khánh kiệt.

Miền Trung cũng thế. Người Việt bất lực và xót xa nhìn những Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Đồng,… bị thiên tai tàn phá.

Sau những Bến Tre, Tiền Giang, Kiên Giang,… với hàng trăm ngàn gia đình phá sản do thiếu nước ngọt mất trắng hoa lợi từ lúa, rau trái, tôm cá, tới lượt Cà Mau rúng động vì bờ biển sạt lở trên diện rộng, đất đai sụt lún,…

Thiệt hại do đủ loại thiên tai không còn được tính bằng ngàn tỷ mà là hàng chục ngàn tỷ, chưa kể thiệt hại về sinh mạng lên tới vài trăm. Tuy nhiên đó là những tổn thất có thể đo, đếm từ những đổ nát công khai, nếu có thể đo đếm thiệt hại của từng cá nhân, gia đình, đơn vị tính chắc chắn phải là trăm ngàn tỷ. Song đó chỉ là thiệt hại trước mắt. Tác động lâu dài của thiên tai khi nông thôn, đô thị, hạ tầng bị tàn phá, cũng như cá nhân và gia đình kiệt quệ đối với sự ổn định và cơ hội phát triển kinh tế-xã hội dẫu rất lớn nhưng không dễ ước đoán.

Đáng ngại là tác động của biến đổi khí hậu đối với Việt Nam đã được cảnh báo từ thập niên 1990. Đến 2009, chính quyền Việt Nam công bố kịch bản đầu tiên để ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao nhưng thực tế cho thấy họ chưa bao giờ xem điều chỉnh để thích ứng là chuyện sống còn của quốc gia, dân tộc. Vì không tính đến khả năng chống chịu, quy hoạch và nỗ lực phát triển chỉ tạo thêm những khu vực bị thiệt hại nặng nề do dễ ngập hơn, mức nước lụt cao hơn, rút chậm hơn, đồng bằng lún sụt, ven biển sạt lở nghiêm trọng hơn!

Trong sáu tháng vừa qua, dẫu thiên tai là chuyện nhãn tiền nhưng dường như cả hệ thống chính trị lẫn hệ thống công quyền chỉ dồn tâm lực, trí lực và sức lực vào những thứ như “sắp xếp lại giang sơn” và “kiện toàn nhân sự” bằng kỷ luật, điều chuyển, chỉ định…

***

Cách nay khoảng 2,500 năm, Mạnh Tử – một triết gia Trung Quốc – cho rằng “Dân vi quý, xã tắc vi thứ chi, quân vi khinh” (dân là quý nhất, sau đó là xã tắc tức quốc gia, còn vua là nhẹ nhất). Cha ông người Việt cũng nghĩ như vậy nên nhiều triều đại (Lý, Trần, Lê) đề cao tư tưởng “ý dân là ý trời.” Không phải tự nhiên mà Lý Thái Tổ khẳng định “Trên thuận thiên thời, dưới theo ý dân” khi quyết định dời kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Thăng Long (Hà Nội), hay Nguyễn Trãi nhấn mạnh “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” khi viết Bình Ngô Đại Cáo.

Quan sát những diễn biến tại Việt Nam, so tác động càng ngày càng đáng ngại của thiên tai đến kinh tế-xã hội với trọng tâm hoạt động của chính quyền Việt Nam ắt sẽ thấy, “lấy dân làm gốc”chỉ là khẩu hiệu. Thực tế cho thấy “đảng vi quý” còn “xã tắc vi thứ chi” và “dân vi khinh.” [kn]

https://baotiengdan.com/…/dang-vi-quy-xa-tac-vi-thu…/

Hình ảnh ngập lụt ở Huế, ngày 3 Tháng Mười Một, 2025. (Hình minh họa: Thanh Hue/Getty Images)


 

CÂU CHUYỆN VỀ “ÁNH HÀO QUANG VÀ CÁI CHẾT CỦA CON HƯƠU” …- Lm Giuse Ngô Mạnh Điệp


Lm Giuse Ngô Mạnh Điệp

Người ta kể rằng trong khu rừng kia, có một con hươu đực trưởng thành, sở hữu một cặp sừng tuyệt đẹp. Mỗi lần nó đi qua, nắng chiếu lên khiến cặp sừng lấp lánh như một chiếc vương miện của rừng xanh. Các con hươu cái ngưỡng mộ, lũ thú nhỏ thì trầm trồ, còn chính nó, nó cũng tự hào khôn xiết với cặp sừng này.

Nó biết mình mạnh mẽ, đẹp đẽ, và đáng ngưỡng mộ. Nhưng chính vì thế, nó dần không còn sợ hãi hiểm nguy, không còn cảnh giác như xưa.

Một ngày, khi bị bầy thú săn đuổi, nó lao vào rừng rậm để thoát thân. Thân hình nhanh nhẹn, đôi chân khoẻ mạnh vẫn có thể đưa nó đi xa, nhưng chính cặp sừng rực rỡ lại mắc kẹt giữa một lần nhẩy trượt chân ngã vào khe núi. Nó vùng vẫy trong tuyệt vọng, nhưng càng cố thì sừng càng bị giữ chặt hơn. Cuối cùng, nó không chết vì bị săn, mà chết khô vì không thoát khỏi chính thứ mà nó từng kiêu hãnh nhất.

Con người cũng vậy. 

Không ít người từng vượt qua những ngày tháng đói khổ, từng chịu đựng gian nan mà không gục ngã. Nhưng lại gục ngã chính lúc đang rực rỡ nhất, giữa ánh đèn sân khấu, giữa tiền tài, địa vị, danh tiếng. Bởi vì khi ta đạt được những điều khiến người khác ngưỡng mộ, cũng là lúc ta dễ mất cảnh giác với chính mình nhất.

Điều đáng sợ nhất không phải là lúc ta chật vật giữa khốn khó, mà là khi ta đứng trên đỉnh vinh quang, nơi người ta dễ say mê, dễ chủ quan và dễ quên mất sự mong manh của chính mình.

Trên đỉnh cao, phía trước là mây trời, nhưng phía sau lưng bạn luôn là vực thẳm. Một bước trượt chân, một phút kiêu ngạo, một giây bất cẩn và tất cả có thể tan biến.

Thành công là một đỉnh núi, nhưng cũng là nơi gió lớn nhất. Không giữ vững được mình, không biết khiêm nhường, không biết lùi lại một bước để nhìn xuống chặng đường đã qua… thì cái giá phải trả sẽ không chỉ là thất bại, mà là sụp đổ.

Đôi khi, thứ khiến ta mắc bẫy không phải là điểm yếu, mà chính là điều ta tự hào nhất: Ngã ngay ở vạch về đích…

Giữ được mình khi gian khó là bản lĩnh.

Nhưng giữ được mình khi huy hoàng mới là trí tuệ.

Nhưng để biết được điều đó đôi khi chúng ta phải trả giá….. đôi khi là cái giá khi đã ……… quá muộn.

(Sưu tầm)…

NB

From: Ngoc Bich & KimBang Nguyen


 

NHỮNG CHUYẾN XE CUỘC ĐỜI

Sau cơn tai biến mạch máu não, cha tôi yếu đi nhiều, không còn khả năng đi lại nữa. Chúng tôi mang về nhà một chiếc xe lăn tay cho cha. Nhìn cha ngồi tù túng trong chiếc xe với không gian nhỏ hẹp, chúng tôi vừa ái ngại, vừa xót xa.

Cha tôi, một người lính từng vào sinh ra tử, một người luôn hoạt động và mạnh mẽ… Bây giờ cha ngồi im lặng trên chiếc xe lăn hàng giờ liền. Tôi biết lòng cha đau đớn vì bất lực trước tình trạng bệnh tật của mình.

Thấy chúng tôi quấn quít, cha vui lắm, nhưng cha lại bảo:

Tụi con đừng lo cho cha nhiều, đứa nào có việc phải làm, phải học, cứ đi! Cha biết cách thích nghi với hoàn cảnh mà! 

Rồi cha cười nói:

Các con à, cuộc đời con người có nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn gắn với một chiếc xe. Khi sinh ra, con người nằm xe nôi. Nhỏ bé, yếu ớt, con người được yêu thương và chăm sóc bởi cha mẹ, người thân. Lớn lên một chút, con người chập chững bước những bước đi đầu tiên với chiếc xe tập đi. Giã từ thời thơ ấu, chúng ta bắt đầu hòa nhập vào thế giới với bao nhiêu phương tiện: xe đạp, xe máy, xe hơi… Và từ đây, chúng ta cứ luôn ao ước thay đổi chiếc xe đời mình sao cho mới hơn, hiện đại hơn, tốt hơn…

Các con ơi, cha cũng đang ngồi trên một chuyến xe của đời mình. Chiếc xe lăn này là một chiếc xe trong cuộc đời của cha và cha không tuyệt vọng vì điều đó. Cái chính là cha vẫn sống lạc quan, yêu đời trên chuyến xe đời mình.

Xung quanh chúng ta có biết bao mảnh đời vất vả, cực nhọc, những người gắn mình với chiếc xe ba gác chở thuê, xe xích lô, xe đẩy bán hàng rong trên phố, nhưng họ vẫn sống, vẫn vươn lên.

 Có những người đi toàn xe hơi đắt tiền, đời mới, nhưng những chuyến xe cuộc đời họ lại không có bến đỗ phẳng lặng, hạnh phúc…

Ai rồi cũng phải đi chuyến xe cuối cùng của đời mình. Phải làm thế nào để trong chuyến xe đó, chúng ta ra đi trong sự thanh thản, yên bình, trong sự thương tiếc của người thân, bạn bè.

 Làm được điều đó không phải là điều đơn giản, dễ dàng vì những chuyến xe trong cuộc đời mỗi người. Không có vé “khứ hồi”, chúng ta chỉ được đi có một lần!

From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen


 

Những người con hoang của J. P. Sartre-Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục 

05/11/2025

Sau chiến tranh thứ hai, nước Pháp hoang tàn, đổ nát. Có một De Gaulle trở về, đem vinh dự và hy vọng cho cả nước Pháp. Nhưng chưa đủ. Nước Pháp cần một biểu tượng văn hóa: J.P. Sartre. J.P. Sartre trở thành đứa con tinh thần của giới trí thức, của cả nước Pháp, nhất là sau khi ông làm giám đốc tờ Les temps modernes. Ít khi nào có một trí thức, nếu không nói là lần đầu tiên, vừa là triết gia, vừa là nhà văn tài hoa đến như ông.

Sau khi xuất bản La nausée (1938), Le Mur (1939), ông thay thế dần chỗ ngồi của A. Malraux, và chẳng bao lâu sau của André Gide, trong văn học Pháp. Ông đã tạo cho mình một chỗ đứng, một thế giới của riêng Sartre, Univers Sartrien… Rồi Sartre cho ra đời Chemins de la liberté, Les mouches, 1943; tác phẩm lớn L’être et le Néant, 1943; Huis clos, 1944; Morts sans sépulture, 1946; La Putain respectueuse, cuốn sách gây xì căng đan ở nước Pháp năm 1946; Critique de la raison dialectique, Les mains sales, 1948; Le diable et le bon Dieu, 1951.

Bên cạnh Sartre là một nhà văn trẻ hơn, A. Camus, sau này trở thành cặp Sartre-Camus; mỗi tác phẩm của A. Camus như thể hiện linh hồn của tư tưởng Sartre. Cả hai đã ảnh hưởng toàn bộ giới trẻ và trí thức Pháp, mặc dầu A.Camus luôn luôn từ chối cái nhãn Hiện Sinh mà người ta gán cho ông.

Tác phẩm của hai nhà văn này đề cập đến những vấn đề con người, chẳng hạn như mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh, vấn đề trách nhiệm, dấn thân, nhập cuộc, hoài nghi, phủ nhận mọi chủ nghĩa, mọi giáo điều… Rồi vấn đề hiện hữu và hư vô, hiện sinh tại thế, hiện hữu và yếu tính… Ðời phi lý, buồn chán, thừa thãi, và con người nổi loạn… Những tư tưởng đó đã gây ra trong văn chương Pháp không biết bao tranh luận, thậm chí cả ngộ nhận, hiểu lầm từ nhiều phía.

Năm 1980, Sartre chết. Nước Pháp đã tiễn đưa một nhà trí thức sáng chói với những lễ nghi vinh dự mà họ đã dành cho Victor Hugo đúng 100 năm trước đó.

1945-1955 là thời kỳ vàng son của Sartre và Camus. Nhưng họ đã chẳng có ảnh hưởng gì tới sinh hoạt văn học Việt Nam. Tình hình Việt Nam lúc đó rối như mớ bòng bong, ai còn bận tâm tới văn chương, triết lý? Ðó cũng là cái khoảng thời gian trống và nghèo nàn nhất của văn học Việt, từ Nam ra Bắc. Các trào lưu văn học Tiền chiến hay Tự Lực Văn Ðoàn đều tắt tiếng. Người tản cư trôi dạt xuống các vùng Hà Ðông, Phủ Lý, Nam Ðịnh, vào đến Thanh Hóa, rồi sau đó quay về dinh tê. Kẻ khác tham gia kháng chiến. Mỗi người tứ tán mỗi nơi…

Nhưng kể từ sau Hiệp định Genève với cuộc di cư từ miền Bắc của một triệu người, Sartre và Camus có cơ hội có mặt ở miền Nam và ảnh hưởng của họ kéo dài hơn một thập niên. Ở đây cần xác định rõ là tư tưởng của họ gây ảnh hưởng trong văn chương, tiểu thuyết, một thứ sản phẩm thị dân, đối tượng là các thành phần thanh niên, trí thức thành thị. Dù sao đi nữa, thành phần này cũng là mặt nổi của một xã hội. Nói tới sinh hoạt văn học, nghệ thuật, là nói tới họ.

Còn phần triết học thì quá ít người được biết tới. Thật vậy, vào thời kỳ từ cuối 50 đến 70, tại các đại học Văn Khoa Sài Gòn, Huế, Ðà Lạt và sau này Vạn Hạnh… triết lý Hiện sinh của Sartre đã không được giảng dạy. Thảng hoặc có dạy đi nữa trong các chứng chỉ Siêu hình và Lịch sử Triết học, các giáo sư thời bấy giờ cũng chọn Nietzsche, Kierkergaard, Merleau-Ponty, và nhất là Heideigger. Cùng lắm là có đả động qua loa đến G. Marcel hay E. Mounier, những triết gia hữu thần, trái ngược hẳn với trào lưu Hiện sinh của J.P. Sartre.

Xét về mặt nghiên cứu thì ngay các trường đại học quốc gia ở Huế, Sài Gòn, cũng không có điều kiện cung cấp đầy đủ tài liệu cho sinh viên sử dụng, ngoại trừ Viện Ðại học Ðà Lạt, một đại học bán công mà thành phần ban Giảng huấn hầu hết là các cha Dòng Tên người ngoại quốc – có thể coi đây là một hình thức du học tại chỗ. Nơi đây, có hơn 5000 ngàn đầu sách đủ loại về văn chương và triết học bằng tiếng Pháp.
Nhưng vì Sartre không có trong học trình, tôi không dám chắc đã có bao nhiêu sinh viên có đủ điều kiện để miệt mài hết cuốn L’être et le Néant hay Critique de la raison dialectique? Cái sự không dám chắc đó, tôi đặt ngay cả vào bản thân thành phần Giáo sư trong ban giảng huấn nữa! Thật khó mà biết được có bao nhiêu người đã đọc?
Vì thế, triết học Hiện sinh ở chiều sâu, ở phần căn cốt sách vở của Sartre, số người biết rành rõi có thể đếm trên đầu ngón tay. [1]

Nhưng âm vang của “hư vô,” “hữu thể,” “tồn thể,” “những xao xuyến siêu hình,” “dấn thân,” “nhập cuộc,” “trách nhiệm,” “người trong cái toàn thể,” “người trong hoàn cảnh,” “tha nhân,” “đời phi lý,” “con người phản kháng”… là những từ ngữ quyến rũ đến độ người ta phải nói tới, phải suy nghĩ. Nó như một thứ ma lực lôi cuốn giới trẻ, sinh viên, trí thức. Những cuốn tiểu thuyết của họ, nhất là của Camus, đặt tâm thức giới trẻ vào những suy nghĩ miên man về ý nghĩa cuộc đời, đặt nghi vấn về tất cả mọi vấn đề, của chính tự thân và của người khác, rồi cuối cùng rơi vào sự trống rỗng không lời giải đáp. Có thể nói, tâm trạng thanh niên trí thức lúc bấy giờ là thử tìm hiểu xem cuộc đời đáng sống hay không đáng sống?! Một câu hỏi đáng lý chẳng nên đặt ra cho một người trẻ tuổi sắp sửa bước vào đời. Cái để lại trong tâm thức người trẻ, sau khi nghi vấn, tra hỏi về đủ mọi vấn đề là tâm trạng trống rỗng, vô nghĩa như người khách lạ. Và có lẽ đó là ảnh hưởng lớn nhất mà triết lý này để lại.

Ví giả J.P. Sartre chỉ là một triết gia thuần túy và không bao giờ là nhà văn; Ví giả A. Camus là một nhà văn không mang trọng trách rao truyền một tư tưởng triết lý. Nếu họ không có chức năng đó, hoặc họ chỉ đảm nhiệm một vai trò, một chức năng nhất định, như các triết gia hiện sinh khác như Heidegger, Kierkergaard, thì hẳn triết lý hiện sinh đã không gây ồn ào, náo nhiệt như thế. Cái ồn ào mà tôi muốn nói ở đây là nó đã làm nảy sinh ra rất nhiều những đứa con hoang đủ loại.

Triết lý hiện sinh vỉa hè là bằng chứng của vô số những nhận định ngộ nhận, hiểu lầm và qui chụp, đẻ ra những đứa con hoang mà chính J.P Sartre cũng chẳng bao giờ có thể nhìn thấy hết được. Bởi vì nó đã trở thành một sản phẩm xã hội và bất cứ một hiện tượng xã hội nào cũng có thể bị đưa lên giàn phóng để tra xét và nguyền rủa.

Cái triết lý hiện sinh vỉa hè ấy, qua F. Sagan, đã trở thành sản phẩm tiêu thụ xã hội có tính cách thời thượng mà thực chất không dựa trên một suy lý nghiêm chỉnh nào để có thể quy chiếu vào Sartre hay Camus được. Sản phẩm của đứa con hoang đó được du nhập vào Việt Nam và được đón tiếp ồn ào ở thành thị. Từ kiểu ăn mặc, đi đứng, kiểu lái xe, ngồi lên xe; rồi âm nhạc, điện ảnh với “nouvelle vague,” với James Dean. Sagan một bên, James Dean một bên. Phải chăng đó chính là hai đứa con hoang của Sartre? Từ lối sống, lối nghĩ, lối làm tình, đến cả lối chết… Tại miền Nam, trong thi ca, tiểu thuyết và báo chí, chỗ nào cũng thoáng ẩn hiện bóng dáng của thứ triết lý này. Ðến độ, người ta thấy rằng từ Mai Thảo đến Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền đều là những kẻ truyền thừa của thứ triết lý ấy. Khi mà Quách Thoại chẳng may mệnh yểu, Mai Thảo nói tới sự tự do chọn lựa cái chết, buộc mọi người phải liên hệ tới sự tự do tuyệt đối của triết lý Hiện sinh. Hiện tượng bề ngoài được bao trùm bởi cái không khí hiện sinh đó thật ra chỉ phù phiếm, chẳng có căn bản gì. Tờ Sáng Tạo, được tiếng là cửa ngõ đi vào triết lý hiện sinh, từ đầu tới cuối chỉ có bốn bài viết về hiện sinh, trong khi tờ Ðại Học ở Huế có 21 bài, tờ Bách Khoa có 24 bài.

Một số nhà văn nữ thập niên 60, như Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Lệ Hằng, Chu Tử, Nguyễn đình Toàn v.v… ít nhiều cho thấy bóng dáng của Sagan hiện diện trong truyện của họ. Tôi không dám bảo là họ bắt chước, nhưng có nhiều người cho rằng đó là thứ triết lý thời thượng, một kiểu theo đuôi hay làm dáng trí thức. Vậy thì phải chăng đây cũng là một thứ con hoang của Sartre? Trong giới giáo sư dạy triết thời đó, thế hệ thứ hai với những người như Ðặng Phùng Quân, Nguyễn Quốc Trụ, Huỳnh Phan Anh, Trần Nhựt Tân, Trần Văn Nam… Hầu như tất cả các luận án cao học ngành Triết thời đó đều đề cập đến các triết gia hiện sinh, nhưng đặc biệt không thấy một luận án Triết nào trong số họ đề cập đến triết hiện sinh của Sartre. Cắt nghĩa điều này như thế nào? Huỳnh Phan Anh viết Văn chương và kinh nghiệm hư vô. Nguyễn Quốc Trụ viết Văn chương và sự khả hữu. Trần Công Tiến viết Từ Hiện Tượng luận Husserl đến Hiện tượng luận Heidegger.
Liệu có bao nhiêu độc giả đã đọc họ và có bao nhiêu người hiểu họ?
Tôi chỉ có thể đặt câu hỏi, nhưng không thể trả lời thay cho những người khác. Cách trình bày khó hiểu và đôi khi khúc mắc, tối tăm trong những tác phẩm vừa kể đôi khi cho thấy một trí tuệ phi thường của người viết. Ðộc giả có tâm trạng mặc cảm khi đọc những bài viết như thế.
Nơi đây, triết học thực sự trở thành một món quà mà Thượng đế chỉ dành cho một số người đã được lựa chọn.
Không ai dám truy vấn chính mình đến ngọn nguồn về trình độ đọc sách và truy vấn người viết về khả năng hiểu biết và diễn đạt.
Người viết không cần biết người đọc hiểu được bao nhiêu. Nếu người đọc không hiểu thì lỗi thuộc về họ. Phải chăng nơi các giáo sư triết này thấp thoáng bóng những đứa con hoang của Sartre? Một hình thái theo đuôi, bắt chước, thời thượng? Liệu phê phán như thế có oan cho họ không? Với thiện chí của người trí thức trẻ, cố gắng nghiên cứu triết lý hiện sinh, họ trở thành đứa con hoang của Sartre, bị xếp ngang hàng với những cô cậu hippy choai choai.

Trong nghiên cứu văn chương, người ta đọc thấy những đề tài như Chinh phụ ngâm với tâm thức lãng mạn của kẻ lưu đầy, Nguyễn Công Trứ với cảm thức hư vô, Tản Ðà với khát vọng vĩnh cửu.
Ðến Phật giáo, Lão giáo cũng nhập cuộc. Người ta vào đạo Phật qua lối ngõ của J.P. Sartre. Từ lăng kính Nho, Phật, Lão đến lăng kính Hiện tượng luận.

J.P. Sartre

Công giáo bảo thủ nhập cuộc kiểu khác: hạ bệ và nguyền rủa thứ triết lý này. Ðại loại như “Chúng tôi tố cáo mầm phản loạn trong Văn nghệ”, “Lại một trạng thái cuồng loạn phơi bày trong tiểu thuyết”, “Chúng tôi cực lực phản đối cái thuyết dã thú hóa ra con người của ông Thạch Chương”, “Tiểu thuyết Nguyễn Thị Hoàng, sự buôn lậu tư tưởng trong một con bịnh dân thành phố…” .
Ðấy là những bài viết nhằm phê phán triết học ấy ở bình diện luân lý. Họ không nhằm phê phán Sartre, bởi một lẽ dễ hiểu, họ không có điều kiện để hiểu Sartre. Họ chỉ có thể phê phán những sản phẩm xã hội mà họ nghi ngờ là từ Sartre mà ra, những sản phẩm bị coi là con hoang của Sartre. Vì sự phê phán trên bình diện luân lý của tiểu thuyết đã đi trật đường, liệu có thể xếp sự chống đối của họ cũng vào loại con hoang của Sartre không? Con hoang của những đứa con hoang?

Hết văn chương, tôn giáo lại thêm chính trị nhập cuộc. Những người anh em theo phía bên kia nay chửi thứ triết lý hiện sinh với ẩn ý chính trị ở Lữ Phương, Khải Triều… Chẳng hạn như các bài “Ðọc các tác phẩm của Chu Tử”, “Hiện tượng dâm ô, đồi trụy trong văn học hiện nay”, “Từ văn hóa cải lương đến văn chương đồi trụy và thứ cần sa của ngoại bang”. Ðã hẳn những bài viết như thế không cần đòi hỏi bất cứ một chút kiến thức nào về chủ nghĩa hiện sinh cả.
Ðó chỉ là những thứ con hoang đến hoang tưởng, gán cho Sartre bất cứ cái gì mà họ muốn.

Người ta tưởng rằng những đứa con hoang của J.P Sartre sau ngày 30-04 đã tiêu tan theo cuộc cách mạng ấy. Nhưng không, Sartre vẫn đội mồ sống dậy. Sartre cùng với Camus vẫn còn đó, bằng xương, bằng thịt.

Theo dịch giả nổi tiếng thời 60-70 Trần Thiện Ðạo, cuốn L’étranger của Camus đã có 3 dịch giả dịch rồi. Chuyên gia dịch hàng đầu của miền Bắc, ông Dương Tường, lại cất công dịch một lần thứ tư, 1995. Rồi Nguyễn Văn Dân là người thứ 5 lại mới dịch lại vào năm 2002.
Dịch lại như thế vì tác giả quá nổi tiếng? Vì tác phẩm quá hay? Vì người đọc ham chuộng? Vì người dịch trước dịch dở, tồi tệ? Vì có người dịch rồi thì dịch sau đỡ tốn công sức? Camus có bao nhiêu tác phẩm, tại sao lại cứ nhè cuốn đó mà dịch?
Cái hiện tượng dịch lại sách đã dịch cũng thấy được ở cuốn Bác sĩ Zivago, dịch lần thứ ba. Hay hơn thế nữa, lấy sách dịch in lại mà không cần đề tên dịch giả như trường hợp nạn nhân là Phùng Khánh?

Sự tụt hậu về sinh hoạt dịch ở Việt Nam có đến 50 năm và một thế kỷ.
Sách mới không dịch, cứ nhè sách cũ, sách đã dịch rồi dịch lại như một nhu cầu đọc giải trí, thay vì nhu cầu nghiên cứu. Một hiện tượng quái gở không hiểu được. Tại sao lại dịch lại những cuốn như vừa kể, mà trước đây được xếp vào loại sách phản động, không phản động thì đồi trụy?

Phải chăng vì những đứa con hoang của Sartre vẫn tiếp tục hoành hành trên thị trường chữ nghĩa ở miền Nam?

Ðứa con hoang có thể là cuối cùng của Sartre có lẽ là giáo sư tiến sĩ Trần Trọng Ðăng Ðàn. Ðối với văn học miền Nam nói chung, ông giáo sư này là kẻ chém treo ngành. Ông chém, chặt, nhổ, bứng từng dây mơ rễ má cái văn học, văn hóa đồi trụy ấy. Ông viết cuốn Văn hóa văn nghệ, Nam Việt Nam, 1954-1975 dày hơn ngàn trang mà tôi phải bỏ ra 50 đô la để bê nó về. Sót ruột lắm!
Gọi là nghiên cứu của một tiến sĩ giáo sư mà từ trang đầu đến trang cuối chỉ thấy chửi là chửi.
Ông chửi rất bài bản, nhìn đâu cũng thấy đồi trụy, đĩ điếm, thấy nọc độc của chủ nghĩa thực dân. Ông chửi các nhà văn, nhà văn hóa miền Nam kể như không trừ một ai. Chửi tất cả các sách dịch bất kể tác giả, bất kể loại, trong đó có Camus, Sagan.
Giáo sư đi theo vết chân của Lữ Phương, Khải Triều, mắc bệnh quáng gà mất rồi.

Ra khỏi khuôn viên đại học Văn Khoa đường Nguyễn Trung Trực thời đó, ra khỏi Sài Gòn, người dân miền Nam vẫn sống hiền hòa, vẫn chịu đựng chiến tranh, không có chút nào là triết nọ. Thần tượng của họ là Bà Tùng Long, cùng lắm là Lê Xuyên, là Bạch Tuyết, Hùng Cường, là Kim Dung. Ðổ oan cho toàn miền Nam cái tiếng văn hoá đồi trụy, nọc độc chế độ thực dân mới thật là hồ đồ.

Nếu cho rằng cái văn chương ấy, cái nọc độc ấy, cái âm mưu ấy làm ung thối miền Nam đến toàn là đĩ điếm, đồi trụy thì phải cắt nghĩa thế nào về hiện trạng xã hội Việt Nam hiện giờ?
Nó là do cái nọc độc nào, cái âm mưu nào đã đưa xã hội đất nước con người đến một tình trạng sa đọa được hợp lý hóa, được hợp pháp hóa và nhất là được bình thường hóa.
Cái sa đọa đạo đức, xã hội trầm kha nhất của đất nước hiện nay là bình thường hóa sự sa đọa, mất ý thức về sa đọa. Chữ mà người ta dùng để chỉ về điều này được gọi là thời mạt. Phải chăng đây là thời mạt của Sartre còn sót lại?

________________________________________
Một số dữ kiện về tên các bài viết, các con số đã được trích dẫn ra từ bài viết công phu: “Hiện sinh ở miền Nam 1955-1975,” của Nguyễn Văn Trung, từ trang 346 đến 390, trong bộ sách: Nhìn lại những chặng đường đã qua 1955-1995. Nxb Nam Sơn. Montréal 2000.