VỀ VIỆC: THEO ĐẠO CÔNG GIÁO (Nguyễn Phúc Liên Thành )

Thư Thông Báo Cùng

Quý Chiến hữu, Thân hữu, 

và Đồng bào Quốc nội và Hải ngoại

VỀ VIỆC: THEO ĐẠO CÔNG GIÁO

Tôi, Nguyễn Phúc Liên Thành sẽ theo đạo Công giáo và chịu phép rửa tội vào dịp lễ Chúa Phục Sinh tại nhà thờ “kính”, tức nhà thờ Chánh Tòa của Cộng Đồng Công Giáo tại Orange County, California, vào lúc 6 giờ chiều, ngày 11 tháng 4 năm 2020. Đa Chỉ tại Garden Grove, California, USA. 

 Tôi, Nguyễn Phúc Liên Thành, sinh ra trong một gia đình Hoàng Tộc với truyền thống  Phật Giáo từ lâu đời. Bà nội tôi là phu nhân của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, chắt nội đời thứ 5 của vua Gia Long. Người anh ruột của bà, Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, là Đệ I Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Anh tôi, Nguyễn Phúc Liên Phú, là Đại Lão Hòa Thượng Thích Chơn Kim [đã viên tịch gần 2 năm nay]. Một người chú bên cánh bà nội tôi, Đại Lão Hòa Thượng Thích Chơn Trí, là nguyên giáo sư Trường Bồ Đề, Huế [đã viên tịch sau 1975 tại Huế].

Ngay từ thuở nhỏ, anh em chúng tôi đã được mẹ dẫn vào chùa tại xóm An Lăng, Quận Hương Thủy,Tỉnh Thừa Thiên, để được thầy Ngoạn, tức Thích Thiện Lạc làm lễ Quy Y. Thầy đã đặt pháp danh cho tôi là Nguyên Tịnh.

Rồi thời gian qua nhanh, cuộc chiến tàn khốc giăng trải trên toàn cõi quê hương, tôi vào lính, trở thành người lính Việt Nam Cộng Hòa, cầm súng gìn giữ non sông, tổ quốc, bảo vệ đồng bào miền Nam trước làn sóng xâm lăng của Bắc quân cộng sản.

Còn nhớ vào một đêm mùa đông tháng 12 năm 1970, trời mưa và lạnh, với chức vụ là Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế, tôi đã đích thân chỉ huy một Toán Đặc Nhiệm, thuộc Lực Lượng Cảnh Sát Đặc Biệt của BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế, phục kích tại sân của ngôi chùa mà năm xưa tôi đã Quy Y, bắn chết tên Thiếu Tá Thanh Bình, tức Nguyễn Đối, đặc công cộng sản cùng với 2 tên khác. Những tên đặc công cộng sản còn lại tháo chạy trong bóng đêm. Chúng tôi đã ngăn chặn được kế hoạch của bọn chúng dự định tàn sát Giáo dân tại Làng Phủ Cam nhân dịp đêm lễ Giáng Sinh năm đó, năm 1970.

Ngay sau đó tôi cho lệnh lục soát ngôi chùa và bắt giữ Thầy Ngoạn, tức Thích Thiện Lạc, người đã làm lễ Quy Y và đặt pháp danh cho tôi khi tôi còn nhỏ được Mẹ nắm tay dẫn đi vào chùa làm lễ Quy Y.

Nghe tôi bắt thầy Thích Thiện Lạc, mẹ tôi kinh hoảng nói với anh Cả của tôi : “Nói hắn thả thầy ra, đời thuở nhà ai hắn lại đi bắt thầy đã làm kễ Quy Y và đặt Pháp danh cho hắn, thằng con bất hiếu.”

Mẹ tôi đã giận tôi và cả gần sáu tháng bà không nói, không nhìn mặt tôi.

Mẹ tôi cũng như hằng trăm ngàn Phật Tử ở cố đô Huế, họ đối với quý Thầy một lòng tôn kính. Những điều Thầy nói, những việc Thầy làm, tất cả đều đúng, tuyệt đối phải nghe theo lời Thầy dạy.

Tôi bắt những tên Việt cộng đội lốt thầy tu. Tôi bắt Thầy Ngoạn hoạt động cho Việt cộng, chứ đâu phải bắt Thích Thiện Lạc đạo đức tu hành như mẹ tôi và hằng trăm ngàn Phật Tử ở Huế vẫn lầm tưởng.

Và… suốt thời gian gần 10 năm trong chức Vụ Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế, tôi là một chứng nhân và cũng là tác nhân của một giai đoạn lịch sử đầy bi thương của miền Nam Việt Nam từ 1964 đến 30 tháng 4 năm 1975. Vì vậy mà từ năm 2000 đến 2019, tôi — như nhà văn Nguyễn Hiến Lê đã từng nói –“Đem tâm tình viết lịch sử”. Tôi đã hoàn tất 4 tác phẩm liên quan đến các hoạt động của đám cộng sản giả dạng tu sĩ nằm vùng trong Phật Giáo để phá hoại miền Nam Việt Nam, đưa đến thảm họa ngày 30 tháng 4 năm 1975. Đó là những cuốn:

1/ Biến Động Miền Trung                            

2/ Huế Thảm Sát Mậu Thân 1968

3/ Thích Trí Quang, Thần Tượng Hay Tội Đồ Dân Tộc

4/ Trận Chiến Tình Báo, Phản Tình Báo, Giữa VNCH/CIA và Tình Báo Cộng Sản Hà Nội [1955-1975]

Tôi đã hoàn thành trách nhiệm đối với sự thật về một khía cạnh của lịch sử miền Nam Việt Nam từ 1963 đến 1975. Giờ đây tôi đã lớn tuổi, muốn tìm về niềm tin tôn giáo để được thanh thản trước khi từ giả cõi trần mệt mỏi nầy.

Thế nhưng hiện nay tôi không thể tìm lại được những ngôi chùa cổ kính ngày xưa với những vị sư tu hành đạo hạnh như Thầy Thuyền Tôn, Thầy Từ Hiếu. Giờ đây Phật Giáo Việt Nam trong nước và hải ngoại đang ở trong giai đoạn cuối của Pháp nạn, giai đoạn tan rã hoàn toàn không còn đứng dậy nổi, bởi nhiều lý do như sau:

1/ Đa số tăng lữ là do Bộ Công An cộng sản đào tạo. Bọn họ được huấn luyện bởi một trường huấn luyện tăng sĩ Phật Giáo của Bộ Công An tại Tỉnh Bình Định. Học xong chúng được tung ra nắm quyền điều khiển các chùa trong nước và hải ngoại.

2/ Hàng tăng lữ được CSVN đào tạo này là một lũ ăn cướp, một lũ Cộng tăng, tham tăng, dâm tăng.

3/ Đa số chùa chiền và tăng lữ tại Việt Nam là của Ủy Ban Tôn Giáo thuộc mặt Trận Tổ Quốc. Bọn chúng chỉ biết đảng cộng sản và “bác Hồ” của chúng chứ không biết Đức Phật là ai. Bọn chúng đã để tượng của ác quỷ Hồ Chí Minh ngang hàng với tượng Phật Thích Ca trên bàn thờ Phật.

4/ Tại hải ngoại cũng vậy, hằng ngàn tăng lữ trẻ từ trong nước được đảng CSVN đưa ra hải ngoại. Tất cả bọn chúng là Công an.

5/ Hằng ngàn ngôi chùa tại hải ngoại được thành lập do tiền của chính Phủ Cộng Sản Việt Nam và tiền đóng góp của một số lớn Phật tử bị mê hoặc vì thiếu thông tin chính xác.

6/ Tại một số lớn các chùa ở Hoa Kỳ, nhất là ở California, từ trụ trì xuống hàng tăng lữ nam, cũng như nữ, đều là công an cộng sản trá hình.

7/ Một số lớn các chùa tại hải ngoại là cơ sở kinh tài, rửa tiền, đưa người từ Việt Nam sang Hoa Kỳ dưới dạng tu sĩ, tôn giáo. Mỗi người có giá là $ 40.000 đô.

8/ Những tu sĩ giả dạng này kêu gọi tín đồ đóng góp tiền mua chùa, xây chùa. Một thời gian sau, thầy bán chùa lấy tiền chạy cùng sư cô mất dạng, chẳng tìm được thầy ở đâu cả.

Tóm lại Pháp nạn đang ở cao điểm, Phật giáo đang trên đà hủy diệt bởi đảng cộng sản Việt Nam, vì Tăng Đoàn Phật Giáo do Bộ Công An Cộng Sản Việt Nam đào tạo và điều khiển.

Trời chẳng cứu mà Đức Phật cũng không cứu pháp nạn nầy. Chỉ có những tín đồ thuần thành, những Phật tử chân chính cùng nhau ngồi lại với nhau, tìm một hướng đi, một con đường chân chính thì may ra. Thế nhưng, tìm những người nầy không khác gì “mò kim đáy biển”.

Nếu còn mê lầm, còn cố chấp, còn không chấp nhận sự thật xấu xa, tồi bại của đám tu sĩ Phật giáo Việt Nam Thống Nhất và Phật giáo Quốc doanh của đảng cộng sản Việt Nam hiện tại, thì Phật Giáo Việt Nam sẽ đi đến cuối mùa Pháp nạn, tan rã hoàn toàn.

Tôi tôn kính mọi tôn giáo đặt tình người và sự công bằng lên trên tất cả, không phân biệt chủng tộc, phái tính, và giai cấp xã hội. Nhưng riêng phần tôi, sau khi nghĩ là mình đã hoàn thành sứ mạng của một công dân Việt yêu mến tự do và nhân phẩm và nay đã đến lúc suy niệm và cần có quyết định về đời sống tâm linh của bản thân.

Gần 8 tỷ người hiện diện trên quả đất vào giờ phút này chắc hẳn không phải là một ngẫu nhiên. Vũ trụ có hằng ức triệu thiên hà đứng vững trong không gian trong một tư thế liên lập toán học chính xác không thể tưởng tượng được mà chỉ cần một sai số cực nhỏ cũng sẽ làm vỡ tan tành. Điều này phải có nguyên nhân. Và nguyên nhân đầu tiên, theo tầm hiểu biết thô thiển của bản thân tôi, chính là Đấng Tối Cao đã tạo dựng nên vũ trụ tuyệt hảo này mà trong đó mỗi một cá nhân — tuỳ theo khả năng trí tuệ của mình — có quyền, có trách nhiệm và có tự do xác định cho mình một sứ mạng và con đường mình phải đi theo. Và tôi đã lựa chọn.

Tôi sẽ theo đạo Công giáo và chịu phép rửa tội vào dịp lễ Chúa Phục Sinh tại nhà thờ “kính”, tức nhà thờ Chánh Tòa của Cộng Đồng Công Giáo tại Orange County, California, vào lúc 6 giờ chiều, ngày 11 tháng 4 năm 2020. Đa Chỉ tại Garden Grove, California, USA. 

Xin kính mời quý chiến hữu, thân hữu và đồng bào yêu mến tôi tham dự.

Thân kính,

Nguyễn Phúc Liên Thành

P.O.BOX 6147

Fullerton, CA. 92834. USA

Phone: 626-257-1057

Email :  nguyenphuclt1966@gmail.com

From: TU-PHUNG

ĐỨNG VỚI LẼ THẬT!

Image may contain: 1 person, smiling, standing

Bible Man Story

ĐỨNG VỚI LẼ THẬT!

Hoa Hậu California Carrie Prejean đã bị tước vương miện Hoa Hậu California bởi vì câu trả lời của Hoa Hậu trong lúc được lọt vào vòng top 5 của Miss USA năm 2009. Carrie Prejean đã nói rằng, “Hôn nhân nên chỉ giữa người một nam và một người nữ mà thôi. Tôi không có ý chống ai bên ngoài kia cả, nhưng đó là cách tôi được nuôi dạy.” (Marriage should be between a man and a woman. No offense to anybody out there, but that’s how I was raised.)

Ngày 21/4/2009 trên đài TV NBC’s talk show, Hoa hậu California Carrie Prejean trả lời về việc Giám Khảo Perez Hilton đặt câu hỏi cho Hoa Hậu California về vấn đề the same sex marriage trong cuộc Thi Hoa Hậu

Miss USA tại Las Vegas trong tháng 4. Giám Khảo Perez Hilton nói rằng, “Cô Prejean nên để chính trị và tôn giáo của mình sang bên bởi vì Miss USA đại diện tất cả người Mỹ.” Miss California Carrie Prejean trả lời rằng, “Tôi không lấy lại những gì tôi đã nói. Tôi nói từ lòng tôi, từ niềm tin của tôi và vì Đức Chúa Trời của tôi. Vấn đề không phải là quan điểm chính trị. Đối với tôi, vấn đề là quan điểm của Thánh Kinh. Nó khiến tôi mất vương miện nhưng tôi không quan tâm. Tôi biết tôi có thể đi ra ngoài và nói với các bạn trẻ về việc đứng lên bảo vệ những gì bạn tin và chớ bao giờ thỏa hiệp chính các bạn với bất cứ ai hay bất cứ điều gì, ngay cả nếu đó là vương miện Hoa Hậu Mỹ đi nữa!”

Khi được đài NBC phỏng vấn hỏi về cảm xúc của cô thế nào, cô đáp, “Happy. Điều này xảy ra vì một nguyên do. Để trả lời câu hỏi đó trước cả nước đang theo dõi, Đức Chúa Trời đã thử thách phẩm cách và đức tin của tôi. Tôi vui mừng vì thành thật với chính mình!”

Cô Carrie nói rằng nếu được hỏi câu khác hay trả lời theo cách giám khảo hỏi, chắc chắn cô đã thắng. Nhưng cô nói, “Tôi không hối tiếc vì đã trả lời thành thật. Tôi nói lên một quan điểm thật với chính mình, và đó là tất cả những gì tôi có thể làm.”

“Cô Claudia Jordan, một trong những giám khảo nói với tôi rằng, đáng ra thì tôi đứng trung lập trong vấn đề nhạy cảm này, chứ không nên có câu trả lời thẳng như thế.” (Bà này có lý, nhưng không có lẽ thật). Cô Carrie nói tiếp, “Nhưng điều đó đi ngược lại với những gì tôi tin và đứng với. Khi tôi được hỏi một câu hỏi thẳng, tôi sẽ đưa ra câu trả lời thẳng. Tôi không đứng giữa. Tôi sẽ đứng hoặc bên này, hoặc bên kia!”

“Tôi hãnh diện với chính mình và tôi có rất nhiều người ủng hộ và hãnh diện vì tôi. Vương miện hoa hậu không phải là điều Đức Chúa Trời muốn cho cuộc đời tôi trong tối đó. Tôi cảm thấy như mình đã thắng. Tôi cảm thấy như tôi là người chiến thắng. Tôi quả thật sự cảm thấy như thế!”

Câu gốc suy gẫm:

“Con hãy lấy đức tin và tình thương trong Đấng Cứu Thế Giê-su mà giữ vững những mẫu mực về tín lý lành mạnh con đã nghe ta dạy. Nguyền xin Đức Thánh Linh, Đấng đang ngự trong chúng ta, giúp đỡ con, để con giữ được những điều đã ủy thác cho con.” (2 Ti-mô-thê 1:13-14)

Nguồn: Tin và Sống

LỄ ĐỨC MẸ GUADALUPE

LỄ ĐỨC MẸ GUADALUPE

Một Thánh Lễ để vinh danh Đức Mẹ Guadalupe đã có từ thế kỷ thứ 16.  Niên sử của thời đại đó kể cho chúng ta biết câu chuyện sau đây:

Một người thổ dân nghèo hèn tên Cuatitlatoatzin được rửa tội và lấy tên là Juan Diego.  Ông 57 tuổi, goá vợ và sống trong một làng nhỏ gần Mexico City.  Vào buổi sáng thứ Bảy, ngày 9 tháng 12 năm 1531, ông đến nhà nguyện gần đó để tham dự lễ kính Đức Mẹ.

Khi đang đi trên ngọn đồi gọi là Tepeyac thì ông nghe có tiếng nhạc du dương như tiếng chim hót.  Sau đó một đám mây sáng chói xuất hiện, đứng trên đám mây là một trinh nữ người thổ dân mặc y phục như công chúa của bộ lạc Aztec.  Trinh nữ nói chuyện với ông bằng tiếng bản xứ và sai ông đến với Đức Giám Mục của Mexico, là một tu sĩ dòng Phanxicô tên Juan de Zumarraga, và yêu cầu Đức Giám Mục xây cất một nguyện đường nơi Trinh Nữ hiện ra.

Dĩ nhiên vị Giám Mục không tin, và bảo Juan Diego xin Trinh Nữ cho một dấu chỉ.  Trong thời gian này, người chú của ông bị bệnh nặng.  Điều đó khiến ông cố tránh né không muốn gặp Trinh Nữ.  Tuy nhiên, Đức Trinh Nữ tìm ông, đảm bảo với ông là người chú sẽ khỏi bệnh, và bảo ông hái các bông hồng quanh đó để làm bằng chứng với vị Giám Mục.  Lúc ấy là mùa đông thì không thể có bông hoa nào mọc được, nhưng lạ lùng thay, gần chỗ Trinh Nữ hiện ra lại đầy dẫy những hoa hồng tuyệt đẹp.  Và ông đã dùng chiếc áo tơi của mình để bọc lấy các bông hồng đem cho vị Giám Mục.

Trước sự hiện diện của Đức Giám Mục, ông Juan Diego mở áo tơi ra và bông hồng đổ xuống tràn ngập khiến vị Giám Mục phải quỳ gối trước dấu chỉ lạ lùng ấy.  Lạ lùng hơn nữa, trên chiếc áo tơi lại có in hình Đức Trinh Nữ như ngài đã hiện ra với ông ở đồi Tepeyac.  Đó là ngày 12 tháng Mười Hai 1531.

Lời Bàn

Việc Đức Maria hiện ra với Juan Diego dưới hình thức một người đồng hương của ông nhắc nhở cho chúng ta thấy, Đức Maria và Thiên Chúa, là Đấng đã sai ngài đến, chấp nhận mọi dân tộc.  Trong hoàn cảnh thời bấy giờ, khi người Tây Ban Nha đối xử tệ hại và dã man với người thổ dân, việc hiện ra là lời khiển trách người Tây Ban Nha cũng như một biến cố trọng đại đối với người thổ dân Mỹ Châu.  Trước khi có biến cố này, việc trở lại Kitô Giáo chỉ thưa thớt, nhưng sau đó họ trở lại cả đoàn.  Theo một sử gia đương thời, có đến chín triệu người thổ dân trở lại đạo Công Giáo trong một thời gian rất ngắn.  Ngày nay, chúng ta thường nghe là Thiên Chúa ưu đãi người nghèo, và Đức Mẹ Guadalupe minh chứng rằng tình yêu Thiên Chúa dành cho người nghèo, và chính Mẹ đồng hóa với người nghèo là một chân lý đã có tự ngàn xưa, được phát xuất từ Phúc Âm.

Lời Trích

Đức Maria nói với Juan Diego: “Hỡi con rất yêu dấu của Mẹ, ta là Trinh Nữ Maria, là Mẹ của Thiên Chúa thật, Người là Tác Giả của Sự Sống, là Tạo Hóa của muôn loài và là Chúa của Thiên Đàng cũng như Trái Đất… và điều ta mong muốn là một nhà thờ sẽ được xây cất ở đây cho ta, là nơi ta sẽ chứng tỏ lòng khoan dung và nhân hậu của ta đối với người thổ dân, và tất cả những ai yêu mến và tìm đến ta, như một người Mẹ đầy lòng thương xót của con và của mọi người dân của con…” (trích từ niên sử cổ).

Lời Nguyện: Kinh dâng nước Việt Nam cho Đức Mẹ MARIA Vô Nhiễm Nguyên Tội

Lạy Mẹ MARIA Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng con toàn thể giáo hữu Việt Nam hết lòng tin cậy chạy đến cùng Mẹ.

Mẹ là Mẹ THIÊN CHÚA, là Mẹ chúng con, Mẹ là Nữ Vương Toàn Năng, là Đấng bầu cử cho chúng con trước tòa Chúa.  Biết bao nhiêu lần, Mẹ đã cứu vãn Giáo Hội, và các dân tộc trong cơn nguy biến.

Chúng con hết lòng thành kính hiến dâng Giáo Hội và tổ quốc Việt Nam cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ.  Để thực hành mệnh lệnh của Mẹ, và để nhờ Mẹ che chở phù trì, ngày nay và mãi mãi.

Xin Mẹ gìn giữ Giáo Hội Việt Nam.  Xin Mẹ soi sáng hàng Giáo Phẩm, dìu dắt và thánh hóa các Linh Mục.  Xin Mẹ giúp sức cho toàn thể giáo dân được trung thành giữ luật Chúa, và sốt sắng làm việc tông đồ.  Xin Mẹ nâng đỡ và ủi an những anh chị em của chúng con, đang phải khốn khó vì Đạo Chúa.

Xin Mẹ chúc lành cho tổ quốc Việt Nam.  Xin Mẹ hướng dẫn các nhà lãnh đạo dân tộc, xin Mẹ đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần tất cả các cơ cấu quốc gia, xin Mẹ cho toàn thể dân Việt biết đoàn kết, để cùng nhau xây dựng lại giang sơn.

Nhất là xin Mẹ cứu chúng con thoát nạn Cộng Sản vô thần, để mọi người được sống trong tự do, hòa bình, ngõ hầu Nước Chúa được mở rộng khắp nơi.

Chúng con nguyện muôn đời ghi nhớ ơn Mẹ, và cùng nhau xây dựng một đền thờ hay một công tác nào khác dâng kính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, để lưu truyền cho hậu thế ơn che chở đặc biệt của Mẹ.

Lạy Mẹ MARIA Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng con thành khẩn kêu đến Mẹ, vì chúng con biết Mẹ sẽ nhậm lời chúng con.  Và mặc dầu mọi nỗi khó khăn hiện tại, chúng con tin chắc Trái Tim Mẹ sẽ thắng.  Amen!

From: Langthangchieutim

Gia đình đại phúc: 3 anh em ruột làm Linh Mục – Hội Mẹ Hằng Cứu Giúp & St.Alfonso

HOIMEHANGCUUGIUP.COM
Gia đình đại phúc: 3 anh em ruột làm Linh Mục Ông bà cố có đến 3 người con làm Linh Mục cho Chúa. Chiều ngày 31.5.2018 tại GP Nha Trang, 28 Thầy Phó Tế được thụ phong Linh mục qua Đức Giám Mục giáo phận Nha Trang trong đó có hai anh em ruột ….

TUYÊN XƯNG, SỐNG VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC TIN

TUYÊN XƯNG, SỐNG VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC TIN

+ ĐTGM Giuse Nguyễn Năng

1- Không một tôn giáo nào có một lịch sử kỳ lạ như Kitô giáo. Quả vậy, không một tôn giáo nào bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương như Kitô giáo; và cho dù bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương, Kitô giáo không hề bị tiêu diệt, trái lại vẫn không ngừng tăng trưởng cả về phẩm chất lẫn số lượng. Đó là những bí ẩn của lịch sử không thể lý giải bằng lý lẽ tự nhiên, nhưng chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của niềm tin.

Quả vậy, ngay từ những năm tháng đầu tiên loan báo Tin Mừng, Hội Thánh đã trải qua 300 năm bị bách hại dưới thời các hoàng đế Roma. Rồi từ đó, Phúc Âm được rao giảng ở đâu, thì ở đó không sớm thì muộn, các Kitô hữu cũng bị bắt bớ và giết chết, Hội Thánh bị bách hại và loại trừ. Lịch sử Hội Thánh là một lịch sử đầy những cuộc tử đạo, ở khắp mọi miền trên thế giới, vào hết mọi thời kỳ trong lịch sử.

Ngay trong thời đại chúng ta, trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI này, nếu tính tổng cộng tất cả các Kitô hữu, gồm Công giáo, Chính thống, Anh giáo và Tin lành, thì hằng năm có khoảng 170.000 người tử đạo, 200.000.000 người chịu bách hại vì đức tin Kitô giáo.

Trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này, 117 vị thánh đã được phúc tử đạo trong một giai đoạn bách hại kéo dài đúng 117 năm, tính từ hai vị tử đạo tiên khởi vào năm 1745 đến vị cuối cùng vào năm 1862, qua các triều đại vua Lê chúa Trịnh, Tây Sơn và các triều nhà Nguyễn. Đó là chưa kể chân phước Anrê Phú Yên tử đạo vào năm 1644, và hằng trăm ngàn tín hữu chết vì đức tin nhưng chưa được phong thánh.

Bức tranh trên đây là một thực tế, và đó cũng là một điều bí ẩn của lịch sử Hội Thánh. Các Kitô hữu bị ghét, vì trước hết, chính Chúa Giêsu đã bị ghét và đã chịu tử hình trên thánh giá. Chúa Giêsu chính là vị tử đạo đầu tiên vì Tin Mừng mà Ngài rao giảng. Ngài là con đường dẫn đến sự sống đích thực, nhưng thế gian lại yêu sự tối tăm hơn ánh sáng.

Chúa nói: “Vì anh em không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em… Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em… Họ chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15, 19-21). Đơn giản chỉ là thế. Sâu xa là như vậy.

Tuy nhiên, Chúa đã hứa ở cùng Hội Thánh mọi ngày cho đến tận thế, và Chúa đã tuyên bố không quyền năng nào có thể tiêu diệt Hội Thánh. “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).

2- Ngày lễ các thánh tử đạo tại Việt Nam hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại đời sống đức tin của các thánh tử đạo Việt Nam để xem các ngài đã tuyên xưng, đã sống và làm chứng cho đức tin thế nào.

Tại sao các Kitô hữu bị ghét bỏ, bị bắt bớ và giết chết? Các thánh tử đạo đã làm gì?

Các thánh tử đạo bị giết chỉ vì tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu. Lòng tin ấy biểu lộ qua việc tôn thờ thánh giá Chúa. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được!” Thánh Têôphan Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”

Chắc chắn không phải vì các ngài đã theo đạo Tây mà phản bội tổ quốc và dân tộc. Các ngài tôn trọng vua quan và hết lòng vì quê hương. Thánh linh mục Tự đối đáp với quan tòa: “Tôi kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được”.

Nhiều vị thánh đã ở trong hàng ngũ quân đội bảo vệ đất nước. Thánh Trần Văn Trung là một binh sĩ, đã bị giết vì khẳng khái tuyên bố: “Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ”. Thánh linh mục Khuông từng tuyên bố: “Đạo Giatô không những cấm tín hữu chống lại triều đình, mà còn khuyến khích để họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương an ninh thịnh vượng”.

Yêu nước không có nghĩa là phải thù ghét loại trừ các Kitô hữu và chống lại Kitô giáo.

3- Lời tuyên xưng của các thánh tử đạo không chỉ là lời tuyên bố trong một khoảnh khắc nhất thời trước khi chết, nhưng đó là hoa trái kết tinh từ một đời sống thấm nhuần Lời Chúa. Các ngài đã sống đức tin, đã thể hiện Tin Mừng yêu thương trong chính đời sống của mình.

Trước hết, đời sống đức tin của các thánh tử đạo được biểu lộ ngay trong bổn phận hằng ngày của đời sống gia đình.

Dù thời đó, chế độ đa thê vẫn đang thịnh hành trong xã hội Việt Nam, nhưng các thánh tử đạo đã trung thành với giáo huấn một vợ một chồng của Phúc Âm. Dĩ nhiên có những vị lúc đầu đã không trung thành với lời cam kết hôn nhân, như các thánh Gẫm, binh sĩ Huy, Cai Thìn, quan Hồ Đình Hy… đã có thời gian sa ngã, thế nhưng sau đó tất cả đều biết trở về để vun đắp lại mái ấm gia đình của mình.

Các thánh chu toàn bổn phận nuôi dạy con cái theo tinh thần đức tin. Thánh Thọ căn dặn các con vào thăm trong tù: “Các con thân mến, cha không còn làm gì giúp các con ở thế gian này được nữa, cha chỉ còn lo chuẩn bị tâm hồn đón nhận những thử thách cuối cùng. Ý Chúa đã muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố gắng vâng lời mẹ. Các con lớn hãy nhớ quan tâm săn sóc em mình. Các con nhỏ phải biết kính trọng vâng lời anh chị. Hãy thương yêu nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ. Hãy nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày. Chúa trao cho mỗi người một thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung giữ đạo”.

Về phần thánh Anê Lê Thị Thành, vị thánh nữ duy nhất trong số các vị tử đạo, người con gái thứ hai của ngài là cô Anna Năm xác nhận: “Bố mẹ chúng tôi chỉ gả các con gái cho những người thanh niên đạo hạnh. Sau khi tôi kết hôn, mẹ tôi thường đến thăm chúng tôi và khuyên bảo những lời tốt lành. Có lần mẹ dạy tôi: “Tuân theo Ý Chúa, con lập gia đình là gánh rất nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ chồng. Hãy vui lòng nhận thánh giá Chúa gửi cho”. Người cũng thường khuyên vợ chồng tôi: “Hai con hãy sống hoà hợp, vui vẻ, đừng để ai nghe chúng con cãi nhau bao giờ”.”

Kế đến, sống đức tin là sống Tin Mừng yêu thương.

Thánh y sĩ Phan Đắc Hòa rộng tay giúp người nghèo khổ, riêng bệnh nhân túng thiếu, không những ông chữa bệnh miễn phí, lại còn giúp tiền giúp lúa. Thánh Martinô Thọ nói: “Công bằng chưa đủ, phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều kiện”, nên ngài trồng thêm vườn dâu kiếm tiền giúp người thiếu thốn. Người cùng tử đạo với ngài là Gioan Cỏn từng mạnh dạn đấu tranh cho người nghèo chống lại chính sách đòi sưu cao thuế nặng. Thánh Năm Thuông là ân nhân của viện cô nhi trong vùng. Còn thánh Trùm Đích thường xuyên thăm viếng trại cùi và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh dịch tại nhà mình.

Điều quan trọng trong đời sống đức tin của các thánh tử đạo là lòng tha thứ.

Nếu lòng anh dũng giúp các vị tử đạo bình thản đón nhận cái chết không run sợ, không quỵ lụy khóc than, thì chính lòng bao dung thứ tha mới là đặc tính phân biệt vị tử đạo với những vị anh hùng vì lý do khác.

Các tín hữu chỉ thực sự chết vì đạo nếu biểu lộ được tình yêu, lòng nhân ái, sự bao dung của Tin Mừng. Các vị chắc chắn không đồng ý với bản án bất công của triều đình, nhưng như Đức Giêsu trên thánh giá vẫn cầu nguyện cho quân lính giết hại mình, các chứng nhân tử đạo vẫn tiếp tục yêu thương vua quan và những người hành xử mình.

Khi viên quan nói: “Tôi phải theo lệnh vua, đừng giận tôi nhé”, linh mục Théophane Ven đáp: “Tôi chẳng ghét gì ai cả, tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho quan”. Thánh Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười khi ngài đọc: “Cầu Chúa Giêsu, xin cho các quan trị nước cho yên càng ngày càng thịnh”.

4- Lời tuyên xưng và đời sống đức tin của các thánh tử đạo đã làm trổ sinh hoa trái phong phú trên quê hương Việt Nam thân yêu này.

Chính đời sống của các thánh tử đạo đã cảm hóa và chiếm được tình cảm của bà con hàng xóm. Dù triều đình nhà Nguyễn ra chiếu chỉ bách hại, bà con hàng xóm vẫn tỏ dấu hiệu thân ái với người công giáo.

Thánh linh mục Vũ Bá Loan là niên trưởng 84 tuổi, được mọi người kính trọng gọi bằng “cụ”, ngài không bị đánh đòn; và trong ngày xử, mười lý hình chạy trốn, đến người thứ mười một, đã lịch sự xin phép: “Việc vua truyền cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho. Cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về trời cụ nhớ đến cháu nhé”.

Trong vụ án thánh linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: “Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cổ quan tài để biểu lộ lòng tôi quí cụ.”

Hơn nữa, ngay trong lúc bị giam tù, các ngài đã đưa hằng trăm người đến với Chúa. Và từ đó đến nay, hạt giống Tin Mừng không ngừng lớn lên trong đất nước này. Tin Mừng như men đang thấm vào mọi sinh hoạt xã hội để đưa thế gian đi theo con đường của chân lý Phúc Âm.

Là con cháu các thánh tử đạo, chúng ta hãy phát huy gia sản đức tin mà cha ông đã để lại cho chúng ta. Đức tin ấy đã lớn lên trong máu và nước mắt, trong hy sinh và gian khổ. Bao nhiêu thế hệ đã nằm xuống để chúng ta được trung kiên với đức tin tông truyền.

Ngày nay, tuy không còn phải chịu những đau thương dữ dằn như trong quá khứ, nhưng chúng ta đang phải đối diện với một cuộc tấn công khác có thể còn nguy hiểm gấp bội, đó là sức mạnh của tiền bạc, địa vị, khoái lạc, tự do buông thả. Những sức mạnh này đã làm cho bao nhiêu tín hữu gục ngã, đã lôi kéo bao nhiêu Kitô hữu rời xa Hội Thánh, đã làm cho biết bao người quên Thiên Chúa.

Chúng ta hãy bắt chước các thánh tử đạo tuyên xưng đức tin một cách xác tín, ý thức. Chúng ta có thể nói như thánh Phaolô không: “Tôi biết tôi đã tin vào ai?” (2 Tm 1,12). Hãy để cho lòng tin vào Chúa thấm nhuần và biến đổi cuộc sống chúng ta, để tất cả mọi hành vi, ứng xử, chọn lựa, thái độ, của chúng ta luôn tỏa chiếu sức mạnh của Tin Mừng và tạo nên một sức hấp dẫn đối với những người chung quanh để đưa họ đến với Chúa Giêsu Cứu Thế.

 TÌNH CA TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Bài tình ca tử đạo

Thắm màu máu đỏ tươi

Trầm hùng và tuyệt diệu

Âm vang cả đất trời.

Những con người yếu đuối

Có sức mạnh niềm tin

Dẫu hiểm nguy không ngại

Vẫn hiên ngang ngước nhìn.

Da vàng và máu đỏ

Sắc màu thiêng Việt Nam

Kiên cường ôm thập giá

Dám chết vì đức tin.

Ác nhân luôn hèn hạ

Dùng đủ mọi cực hình

Nhưng tín nhân không sợ

Vẫn yêu Chúa hết tình.

Bài tình ca tử đạo

Những nốt yêu hòa âm

Êm đềm ngọt giai điệu

Dệt tình khúc Việt Nam. 

Viễn Dzu Tử

Kinh nguyện 

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 

Đội ơn Thiên Chúa muôn trùng

Ban cho các Đấng Anh Hùng Việt Nam

Một lòng chối bỏ trân cam

Mặc ai dụ dỗ chẳng ham phúc trần.

Máu đào dâng hiến trọn thân

Quyết tâm theo Chúa- chứng nhân Nước Trời

Ngày nay cho đến muôn đời

Thanh nhàn vĩnh phúc, gương soi chiên đoàn.

Chúng con còn ở trần gian

Nguyện xin các Thánh thông ban hộ phù

Ơn thiêng: sức mạnh, thân tu 

Nếu không tử đạo, cần cù siêng năng.

Vượt qua tục luỵ, lưới giăng

Noi gương các Thánh, Chúa hằng xót thương

Chờ ngày Chúa gọi lên đường

Về cùng các Thánh đồng hương Nước Trời. Amen.

(Thế Kiên Dominic)

Gia đình bà góa quá ẩn tượng cả mười người con đi tu

SVCONGGIAO.NET
Gia đình bà góa quá ấn tượng vì có mười người con thì đi tu cả mười Một người mẹ đã nỗ lực tần tảo nắng mưa trưa tối nuôi 10 người con hết sức trưởng thành. Ấn tượng hơn nữa là người mẹ vĩ đại này lại chỉ là một go…

VỊ LINH MỤC VIỆT NAM RẤT ĐẶC BIỆT VÌ CÓ CHA THUỘC ĐẠO CAO ĐÀI VÀ CÓ MẸ THUỘC ĐẠO PHẬT

Image may contain: 1 person, smiling, text

Lm Jos Trần Chính Trực

VỊ LINH MỤC VIỆT NAM RẤT ĐẶC BIỆT VÌ CÓ CHA THUỘC ĐẠO CAO ĐÀI VÀ CÓ MẸ THUỘC ĐẠO PHẬT

Nhất gia tam Đạo. Tam nhân tam Tôn. Một gia đình ba Tôn giáo. Ba con người ba Tôn giáo.

Chuyện lạ không tưởng này đã xảy ra trong gia đình cha Phêrô Giuse Maria HÀ THIÊN TRÚC, đương kim Chánh xứ Martinô thuộc Tổng Giáo phận Sài Gòn.

Quả vậy, cha Trúc đã xuất thân trong một gia đình có thân phụ là một tín đồ thuộc Đạo Cao Đài và thân mẫu thuộc Đạo Phật.

Ngài nguyên là một bác sĩ y khoa có tâm và kiêm là một ca sĩ hát rất tâm tình.

Cha ngài vì muốn ngài trưởng thành về tâm linh và vững mạnh về kiến thức nên đã đặt tên ngài là Thiên Trúc, tên cũ của Ấn Độ, một quốc gia Phật Giáo.

Cả ông cố và bà cố đều tôn trọng niềm tin của nhau, cùng sùng Đạo của riêng mình và đã tôn trọng sự chọn lựa tâm linh của các con, và đã chấp nhận cho con trai mình là Hà Thiên Trúc được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội để gia nhập Giáo Hội Công Giáo.

Cha Trúc đã từng sống bên những người Công giáo đạo đức thánh thiện, đã được nghe biết về Chúa Giêsu cách sâu xa ấn tượng thuyết phục.

Chính vì thế mà cha Trúc đã gia nhập Đạo Công giáo vào năm 19 tuổi với sự chấp thuận, tôn trọng và ủng hộ rất vô tư của cả cha lẫn mẹ.

Ngài được Rửa tội ở Giáo xứ Tân Định, Sài Gòn năm 1989 và được gia nhập vào Giáo xứ này.

Không dừng lại ở đó, cha còn say mê Đạo Công Công giáo đến nỗi đã muốn trở thành một Linh mục để đem ơn cứu độ cho nhân thế.

Cha đã được cha sở Gioan Baotixita Võ Văn Ánh giới thiệu vào Đại Chủng viện dưới sự dìu dắt tận tình vô tư trước đó của cha nghĩa phụ Giuse Maria Đỗ Duy Lạn.

Chính cha Lạn đã khuyến khích, đã nâng đỡ, đã hướng dẫn bác sĩ Hà Thiên Trúc trong những bước đầu của ơn gọi linh mục.

Và cuối cùng cha đã được truyền chức Linh mục.

Vậy là cha Trúc tuy đang có một tương lai sán lạn cho mình, và cũng đang phục vụ, mang lại an ủi cho nhiều bệnh nhân, nhưng đã chọn đi tu trở thành linh mục, và có lẽ đã làm nhiều người thắc mắc, khó hiểu.

Vậy là bác sĩ Trúc từ việc chữa lành thể xác con người cách chóng qua lại trở nên “bác sĩ” chữa lành tâm linh con người cách Vĩnh cửu.

Khẩu hiệu đời linh mục mà cha đã chọn chính là những câu ca ngợi Thiên Chúa của Đức Mẹ là: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa » (Lc 1,46).

Sở dĩ cha Trúc có đến 3 tên Thánh vì cha rất yêu thích Thánh Phêrô, rất sùng kính Đức Mẹ và tri ân cha nghĩa phụ Giuse Maria Đỗ Duy Lạn nên đã chọn tên Thánh Giuse để tưởng nhớ cha cố.

Cha đã thành tâm tìm hiểu Đạo Công giáo và đã khiến cha hết sức thán phục và quyết định gia nhập Đạo.

Cha Trúc khi còn là một Chủng sinh đã từng tâm sự như sau:

“Ba con rất sùng đạo Cao Đài, ăn chay trường, đạo đức, có ước muốn con cái giúp ích cho đời (như: đặt tên chị con là “Thanh Tuyền” với ước mong phục vụ vô vị lợi cho đời như “giòng suối trong” chảy hoài không ngưng nghỉ, và hiện chị con là bác sĩ đang giúp ích rất nhiều cho các bệnh nhân và cho xã hội trong lãnh vực ngoại thần kinh và chẩn đoán hình ảnh).

“Và ba con cũng đã giác ngộ trên đường Đạo nên có ước mong các con cái sẽ được thăng tiến trong đời sống tâm linh (như đặt tên con là “Thiên Trúc”, tên cũ của Nước Ấn Độ – cái nôi của Phật giáo).

“Má con cũng là người sùng đạo Phật, đã dẫn các con cái quy y Phật. Má cũng thường đi học và nghe thuyết pháp về Phật giáo vào các chiều chủ nhật hàng tuần ở chùa Xá Lợi. Bản thân con cũng được má con dẫn quy y Phật vào năm học lớp 6, pháp danh “Thiện Tuấn”.
“Ba má con rất quan tâm, chăm sóc, giáo dục nhiều cho các con cái về tri thức và đạo đức.”

Cha Trúc chính là chứng nhân cho câu Kinh Thánh: “”Quả thật, tôi nghiệm biết rằng Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận!” (Cv 10, 34-35).

Hồng ân Chúa vẫn ngày ngày tuôn đổ như nắng như mưa xuống trần gian không phân biệt.

Bất cứ ai thành tâm thiện chí mở rộng tâm hồn, thì sẽ được đón nhận dồi dào ơn Chúa.

Chúng ta cùng nhau cúi đầu tạ ơn Chúa, chúc mừng cha, cầu cho cha Thiên Trúc và chúng ta ngày càng gần trái tim Chúa hơn. Amen.

Nguồn: Giuse Kích

 Tại Sao Hầu Hết Các Bác Sĩ Ở Mỹ Lại Tin Vào Thế Giới Tâm Linh?

 Tại Sao Hầu Hết Các Bác Sĩ Ở Mỹ Lại Tin Vào Thế Giới Tâm Linh?

Là cường quốc số một thế giới, Hoa Kỳ đi đầu trong rất nhiều lĩnh vực công nghệ trong đó có y học. Nhưng khác với các ngành khoa học khác, một cuộc khảo sát trên phạm vi toàn quốc về niềm tin tôn giáo của các bác sĩ tại Mỹ, kết quả thật bất ngờ: “Hầu hết các bác sĩ Mỹ đều tin vào sự tồn tại củaThần và thế giới bên kia.”

Khi công nghệ tân tiến cũng phải bó tay

Việc sở hữu thế mạnh về khoa học – công nghệ đã giúp Mỹ ứng dụng rất nhiều những phát minh vào nền Y học nói chung và các trang thiết bị y tế hiện đại tại các bệnh viện Mỹ nói riêng. Mỹ cũng được coi là đất nước có chất lượng dịch vụ y tế thuộc hàng tốt nhất thế giới.

Ngoài các trường đại học danh tiếng như Đại học Harvard, Đại học Johns Hopkins, Đại học Yale…nơi có các trung tâm nghiên cứu y học và đội ngũ giáo sư đầu ngành đã giành nhiều giải Nobel y học, các bác sĩ ở Mỹ cũng được trả mức lương cao ngất ngưởng. Do đó Mỹ được cho là mảnh đất mơ ước của tất cả các bác sĩ trên toàn thế giới.

Ngay cả khi sở hữu những công nghệ y học tân tiến và khám phá ra nhiều loại thuốc đặc trị hiệu quả thì vẫn có khá nhiều trường hợp khiến nền y học nước này phải bó tay ngay cả khi bệnh được phát hiện sớm.

Sự ra đi đột ngột của Steve Jobs, cha đẻ hãng công nghệ hàng đầu thế giới Apple đã khiến thế giới bàng hoàng và nuối tiếc. Nhiều người đặt câu hỏi rằng tại sao ở một đất nước có ngành y học tiên tiến nhất, với những bác sĩ có chuyên môn giỏi nhất, Steve Jobs vẫn phải đầu hàng số phận khi mới 56 tuổi và đang ở trên đỉnh cao sự nghiệp.

Trước đó, Steve Jobs đã trải qua hai lần phẫu thuật. Năm 2004, ông trải qua ca phẫu thuật đầu tiên và các bác sĩ điều trị cho biết là khá thành công, bệnh đã được chữa trị khỏi. Nhưng sau đó không bao lâu, căn bệnh ung thư của ông lại tái phát, Steve Jobs buộc phải từ chức rồi cuối cùng ra đi trong tình trạng cơ thể suy kiệt.

Một trường hợp khác là tiến sĩ giải phẫu não Eben Alexander. Ông tốt nghiệp đại học danh tiếng Harvard, có kinh nghiệm trong ngành phẫu thuật thần kinh 25 năm, và là một trong những bác sĩ nổi tiếng nhất trong giới chuyên môn ở Mỹ.

Năm 2008, ông đột nhiên bị viêm màng não, và được đưa tới bệnh viện cấp cứu kịp thời.. Dù được điều trị tích cực bởi ekip bác sĩ cũng là những đồng nghiệp giỏi nhất trong ngành thần kinh học của ông, Eben Alexander vẫn bị rơi vào hôn mê và tình trạng này kéo dài liên tục trong 7 ngày. Điện não đồ cho thấy não của tiến sĩ thần kinh học Eben Alexander không còn hoạt động, tỉ lệ sống sót chỉ còn là 2%. Các bác sĩ điều trị đều bất lực và thông báo cho gia đình ông chuẩn bị hậu sự. Tuy nhiên, khi mọi nỗ lực của y học dường như đã bó tay thì Eben Alexander lại hồi sinh sau một trải nghiệm siêu thường.

Trải nghiệm siêu thường

Sau đúng 7 ngày hôn mê, khi các bác sĩ và người thân của ông đều đã chuẩn bị tinh thần cho trường hợp xấu nhất xảy ra thì Eben Alexander bắt đầu hồi phục trở lại. Sự hồi phục thần kỳ của ông khiến các bác sĩ điều trị và giới chuyên môn không thể nào lý giải nổi, cho đến khi Alexander kể về những trải nghiệm cận tử của mình và cho xuất bản cuốn sách “Proof of Heaven” (Chứng cứ về thiên đường).

Khi ở trong trạng thái cận kề cái chết, tiến sĩ Alexander thấy mình bay tới một nơi giống như “thiên đường”, ở đó bầu trời tuyệt đẹp, có những đám mây trắng, có những sinh vật màu trắng phát sáng, có âm nhạc du dương, thanh thoát. Eben Alexander còn gặp một thiên thần với đôi mắt màu xanh dương.

Ông nói: “Cảm giác rõ ràng, chân thực và sâu sắc ấy mang đến cho tôi một lý do khoa học để tin vào sự tồn tại của ý thức của con người sau khi chết”. Trước đó ông luôn hoài nghi về sự tồn tại của thế giới linh hồn, ngay cả khi các bệnh nhân của ông kể về trạng thái cận tử, bác sĩ Eben Alexander đều cho rằng đó chỉ là ảo giác.

Cho tới khi chính bản thân mình được trải nghiệm, thì bác sĩ Eben Alexander mới thực sự tin rằng những gì bệnh nhân của mình kể là chân thực, và những quan niệm của ông cũng thay đổi. Ông nói: “Mọi người đều nói sự tồn tại của ý thức sau khi chết là điều hoang đường, khó tin. Nhưng trạng thái mà tôi trải qua không phải là ảo giác. Tôi cảm nhận nó rõ ràng như những sự kiện chân thực đã từng xảy ra trong đời tôi. Trong nhiều thập niên qua, tôi hành nghề bác sĩ phẫu thuật não tại một trong những cơ sở y khoa danh tiếng nhất tại Mỹ. Giống như mọi đồng nghiệp, tôi hiểu rõ những lý thuyết về não bộ nhưng niềm tin cũ đã sụp đổ bởi những trải nghiệm mà tôi vừa có được”.

Một trải nghiêm tương tự khác của bác sĩ Rajiv Parti, là Trưởng khoa của một bệnh viện Tim danh tiếng tại Mỹ. Ông có một sự nghiệp rất thành công và cuộc sống vật chất sung túc nhưng cũng không tránh được quy luật Sinh – Lão – Bệnh – Tử. Ông được chuẩn đoán là mắc ung thư tiền liệt tuyến và đã phải qua nhiều đợt phẫu thuật.

Vào năm 2010, do biến chứng sau ca phẫu thuật, ông được đưa vào cấp cứu tại bệnh viện Đại học California trong tình trạng nguy kịch, toàn bộ các cơ quan nội tạng của ông hầu suy kiệt khiến các bác sĩ phải đưa ống thông vào trong cơ thể để hỗ trợ. Tuy nhiên, chỉ sau vài giờ, bác sĩ Rajiv Parti bị nhiễm trùng nặng kèm với sốt cao khoảng 40,5 độ.

Sau khi tiêm mooc-phin giảm đau, ông lại được đưa vào phòng phẫu thuật. Chính ở thời điểm này, bác sĩ Rajiv Parti khẳng định đã nhìn thấy thiên đường. Sự việc này về sau đã được ông viết lại trong cuốn sách “Dying to wake up” (Chết để thức tỉnh).

Ông kể rằng, cơ thể mình cảm giác như đang bay lơ lửng trong không khí và nhìn thấy bản thân mình đang nằm trên bàn mổ và nghe các bác sĩ khác đang nói chuyện, thậm chí còn ngửi thấy mùi thuốc sát trùng. Cùng lúc đó, ông thấy gương mặt của mẹ và em gái. Bà mặc bộ đồ truyền thống của Ấn Độ, em gái thì mặc quần bò, áo lửng màu xanh đang ngồi ở nhà. Họ đang cùng chuẩn bị bữa tối có rau, sữa chua và cơm. Rajiv Parti đã viết: “Tôi có thể hồi tưởng lại toàn bộ quá trình trải nghiệm khi cận kề cái chết: Tôi đã gặp được tổ tiên của mình ở ranh giới của địa ngục, một vài tiền kiếp mà tôi đã trải qua – đủ để giải thích những khổ nạn xảy ra trong đời mình và tại sao lại luôn phải ỷ lại vào những đơn thuốc như thế?

Và tôi còn có vinh hạnh được gặp hai vị thiên sứ hộ mệnh tỏa ra thứ hào quang rực rỡ là Raphael và Michael. Họ bước ra từ một biển hoa, trên thân còn tỏa ra sức mạnh từ bi thuần chính tới mức khó có thể dùng ngôn ngữ để diễn tả”.

From: TU-PHUNG