THÁNH TERESA CALCUTTA, NGƯỜI MẸ LÒNG THƯƠNG XÓT

THÁNH TERESA CALCUTTA, NGƯỜI MẸ LÒNG THƯƠNG XÓT

Vị nữ tu Teresa thành Calcutta qua đời ngày 05.09.1997 đã được Hội Thánh tôn phong lên hàng Chân Phước ngày 19.10.2003, và ngày Chúa Nhật 04.09.2016 được tôn kính trên bàn thờ trong Hội Thánh Công Giáo là đấng Hiển Thánh.

Cuộc đời 87 năm trên trần gian của mẹ Thánh Teresa gắn bó với số phận của những người nghèo vừa về miếng ăn lương thực, quần áo, thuốc men chữ bệnh, nhà cửa, và vừa về gía trị nhân phẩm con người cùng đau khổ tinh thần của họ nữa.

  1. Gia đình, nôi nuôi dưỡng lòng thương xót

 Mẹ Thánh Teresa mở mắt chào đời bên nước Albania, vùng phía Đông Âu châu, nằm trong liên bang Nam Tư Cộng sản cũ thời Thống Chế Tito.  Albania là một nước nhỏ đại đa số dân cư theo Hồi giáo, đạo Công Giáo chỉ là một thiểu số trong xã hội này.  Gia đình Mẹ Teresa là một gia đình khá giả nếp sống bậc trung lưu có cuộc sống hạnh phúc, theo đức tin Công Giáo truyền thống đạo đức.

Buổi sáng nào người mẹ gia đình Drana của Teresa cũng đều đưa ba người con của bà đi nhà thờ đọc kinh cầu nguyện dâng Thánh lễ.  Buổi chiều tối gia đình tụ tập lại lần chuỗi mân côi, dù bận rộn hay có khách.  Vì với gia đình đó là điều quan trọng hơn cả.

Ngay từ khi con còn nhỏ, người mẹ gia đình Drana đã dậy các con mình sống bác ái lòng thương xót theo phương hướng Phúc âm của Chúa: “Những gì các con làm cho một người bé nhỏ hèn mọn nhất trong các con, chính là các con làm cho Thầy” (Mt 25,40).

5,972 Mother Teresa Photos and Premium High Res Pictures - Getty Images

Rồi hằng tuần, người mẹ Drana của Teresa có thói quen thăm hỏi những người bệnh nạn trong khu phố, và mang cho những người nghèo quần áo cũng như thực phẩm cần thiết.  Bà muốn con mình ngay từ nhỏ đã biết cùng đồng hành với những người như thế.  Bà thường nói với các con mình: “Các con có phúc lắm, có nhà ở đẹp, có đầy đủ lương thực và quần áo.  Các không con thiếu gì.  Nhưng các con không được quên có nhiều người phải sống trong hoàn cảnh thiếu ăn, có những trẻ em không có quần áo, khi đau bệnh, chúng không có thuốc trị bệnh cần thiết để chữa bệnh.”

Đời sống gương sáng của người mẹ Drana đã ghi khắc dấu vết sâu đậm trong tâm khảm đời sống của Teresa ngay từ nhỏ.  Có lần Teresa lúc nhìn lại thời nhỏ còn ở nhà với mẹ mình đã tâm sự: “Tôi không biết phải nói gì hơn nữa, gương sống của mẹ tôi, hay nếp sống đạo đức chăm chỉ đi nhà thờ cầu nguyện của mẹ tôi đóng vai trò ảnh hưởng rất quan trọng cho ơn kêu gọi của tôi trưởng thành chín mùi.”  Chính trong bầu khí chan chứa lòng thương xót đó của gia đình với những người chung quanh Teresa đã lớn lên và trở thành vị Thánh, người mẹ lòng thương xót sau này giữa lòng xã hội con người.

  1. Con đường lòng thương xót

 Lúc Teresa lên 12 tuổi đã cảm nghiệm thấy mình có ơn kêu gọi vào sống tu trì trong nhà Dòng, và còn hơn thế nữa cảm nghiệm ra ơn kêu gọi trở thành một nhà truyền giáo sang Ấn Độ, bên Á Châu.

Năm 18 tuổi Teresa đã nói với mẹ mình và cha sở ý muốn đi truyền giáo sang Bengale bên Ấn Độ để cùng làm việc với các Cha Dòng Tên Chúa Giêsu đang sinh sống nơi đó.  Nhưng để thực hiện được ý muốn đó, Teresa phải nhập Dòng Đức mẹ Loreto ở bên Dublin nước Ái nhĩ Lan.  Các nữ tu dòng Đức mẹ Loreto thời đó cũng đang hoạt động truyền giáo bên Bengale.

Teresa nghe theo tiếng gọi con đường đó và trở thành nữ tu của Dòng Loreto, rồi năm 1928 được sai sang Ấn Độ đến vùng Himalaja sống thời gian nhà tập tu luyện, sau đó đến Calcutta học thêm và trở thành cô giáo môn lịch sử, địa lý trường trung học St. Mary’s High School của nhà Dòng.

Nữ tu Teresa làm công việc trí thức dạy học ở trường học nội trú với nhiệt tâm đầy đủ trách nhiệm, nhưng tâm hồn luôn nghĩ đến việc truyền giáo cho những người nghèo nhất nơi những người nghèo bên Ấn độ, mà vị nữ tu ngày đêm ấp ủ hoài bão lúc nào cũng mơ tưởng mong muốn được sống được làm.  Vị Nữ tu Teresa tâm sự: “Tôi là cô giáo, đây là một nếp sống mới với tôi.  Ngôi nhà trường nội trú này rất đẹp cùng thuận lợi cho các học sinh.  Tôi yêu thích việc dậy học.  Tôi chịu trách nhiệm trông coi cả nhà trường, các nữ học sinh yêu mến tôi…”

Nhưng trong khu nhà trường nội trú đó, vị nữ tu Teresa không gặp được một ai là người nghèo đói bị bệnh hoạn, bị bị bỏ rơi ngoài đường phố.

Ngày 10 tháng Chín 1946 nữ tu Teresa đáp xe lửa đi Darjeeling vùng phía Tây Bengale, nơi xưa kia Teresa đã sống thời gian nhà tập, đi tĩnh tâm.  Khi xe lửa đến nhà ga thành phố Calcutta, vị nữ tu cô giáo trường nội trú nhìn thấy tận mắt cảnh từng đám đông người nghèo, người đau khổ thiếu thốn nghèo khổ, bệnh tật đui què sống chen chúc vất vưởng ngoài đường, những bà mẹ trẻ bồng bế cõng con không quần áo trên lưng, trên vai ăn xin ngoài phố xá… thật là một cảnh hãi hùng thương tâm với vị nữ tu trẻ tuổi Teresa.  Tâm hồn vị nữ tu Teresa bồi hồi dao động vì cảnh tượng quá thương tâm như thế

Tâm hồn con mắt vị nữ tu Teresa càng mở ra to lớn hơn, và nữ tu Teresa đã có quyết định quay ngược lại với ơn kêu gọi mà chị đã cảm nghiệm được từ lúc còn ở quê nhà bên Albania: muốn trở thành nhà truyền giáo sống cho người nghèo khổ cùng cực bên Ấn Độ!

Chính mẹ Thánh Teresa sau này đã tâm sự nói về quyết định quay ngược lại tận căn rễ của mình: “Trong đêm hôm đó mắt tôi đã mở ra nhìn thấy cảnh thương tâm cùng cực của con người nghèo khổ xấu số, và tôi cảm thấy tận sâu thẳm sự gì là căn bản ơn kêu gọi của tôi.  Đó là tiếng gọi mới của Chúa nói với tôi, một ơn kêu gọi trong lòng ơn kêu gọi.  Chúa kêu gọi tôi không được từ bỏ đời sống là nữ tu, nhưng hãy thay đổi nếp sống.  Có thế mới phù hợp nhiều hơn với tinh thần phúc âm, với tinh thần truyền giáo, mà Chúa ký thác ban gửi cho tôi…  Tôi cảm nghiệm ra rằng Chúa muốn tôi bỏ nếp sống thanh bình yên lặng tiện nghi nhà Dòng của tôi, mà đi ra ngoài đường sống phục vụ những người nghèo khổ.  Với tôi sứ mạng đã rõ ràng: Tôi phải đi ra khỏi nhà Dòng và sống với những người nghèo khổ cùng cực.  Chúa đã gọi tôi đến sống với những người không có sự gì ở thành phố Calcutta này…. Cuộc tĩnh tâm của tôi ở Darjeeling là những ngày suy nghĩ về sứ mạng ơn kêu gọi mới của tôi, mà tôi đã tiếp nhận trên đường tới đây.  Sau đó về lại Calcutta, tôi quyết định thay đổi nếp sống đời tu.”  Con đường dấn thân cho lòng thương xót với con người cùng khổ, cùng đinh trong xã hội Calcutta bên Ấn Độ bắt đầu từ quyết định thay đổi ra đi đến với họ của mẹ Thánh Teresa.

  1. Nhà Dòng lòng thương xót: Dòng thừa sai bác ái.

Con đường thay đổi nếp sống của nữ tu Teresa để ra đi sống với và cho người nghèo cùng khổ không đơn giản dễ dàng.  Vì phải vượt qua những chặng thử thách có phép chấp thuận của nhà Dòng Loreto cho nữ tu Teresa ra đi, phép của Đức Giám Mục Calcutta, phép của Thánh bộ giáo sỹ tu sỹ bên Roma, và sau cùng phép phê chuẩn của Đức Thánh Cha cho mẹ Teresa lập Dòng mới như mẹ thỉnh nguyện xin.

Sau những năm tháng khảo sát điều tra, ngày 7.10.1950 Tòa Thánh đã phê chuẩn chấp thuận cho mẹ Teresa thành lập Dòng Thừa sai bác ái bên Calcutta Ấn Độ để giúp phục vụ người nghèo khổ cùng cực trong xã hội.

Thế là ơn kêu gọi phục vụ truyền giáo cho người nghèo của mẹ Teresa về phương diện pháp lý theo luật đạo thành sự.

Ơn kêu gọi hoài bão lòng mong ước đến sống truyền gíáo lòng thương xót giữa những người nghèo khổ, mà mẹ Teresa đã đón nhận ơn soi sáng từ Thiên Chúa nguồn tình yêu thương, giờ đây thành hiện thực cho đời mẹ.

Như các Dòng truyền thống trong Hội Thánh Công Giáo, Dòng của Mẹ Teresa cũng có ba lời khấn: khó nghèo, vâng lời và khiết tịnh, ngoài ra Dòng còn buộc các chị em nữ tu lời khấn thứ tư nữa: sống vị tha bác ái thương người.

Mẹ Teresa, vị sáng lập Dòng Thừa sai bác ái tâm sự: “Chúng tôi có trách nhiệm bổn phận với lời khấn phục vụ cho hết mọi người không đòi hỏi thù lao được trả công.  Lời khấn này có nội dung là chúng tôi không làm việc phục vụ cho người giầu có, không làm việc vì thù lao tiền bạc, chúng tôi không được nhận tiền bạc thù lao.”

Dòng Thừa sai bác ái của Mẹ Teresa chọn áo Sari dài phủ kín thân thể của phụ nữ Ấn Độ vẫn thường mặc hằng ngày.  Áo Sari mầu trắng bằng vải thô, bên vành áo có ba vạch mầu xanh da trời nói lên ý nghĩa mầu của bầu trời.  Phía bên trái áo Dòng Sari có gắn cây Thánh Giá Chúa Giêsu, để nhắc nhở người nữ tu nhớ đến Chúa Giêsu.

Mẹ Teresa cắt nghĩa về áo dòng Sari: “Chiếc áo Dòng Sari giúp người nữ tu cảm nhận mình là người nghèo giữa những người nghèo, nhận ra mình cũng là người bệnh tật đau khổ, là trẻ em, là những người già yếu bị bỏ rơi.  Và với chiếc áo Dòng Sari cùng chia sẻ đời sống không có gì thừa tự để lại cho thế giới.”

Chiếc áo Dòng áo Sari hèn mọn theo kiểu của người phụ nữ bình dân trong xã hội Ấn Độ nói lên sâu đậm căn tính lòng thương xót cùng đồng cảm với con người của Dòng Thừa sai bác ái do mẹ ThánhTeresa sáng lập.

  1. Dụng cụ lòng thương xót

 Mẹ Thánh Teresa lúc còn sinh thời đã thuật kể lại về nhà Dòng Thừa sai bác ái phục vụ cho người nghèo, trẻ con, người bệnh tật bị bỏ rơi trên toàn thế giới: Dòng chúng tôi có 3.500 chị em nữ tu nơi 95 quốc gia với 445 nhà, chúng tôi càng cần thêm nhiều ơn kêu gọi nữa do Chúa gửi đến…

Chúng tôi là dụng cụ của Thiên Chúa.  Những công việc phục vụ cho bác ái tình yêu là những công việc phục vụ cho hòa bình.  Chúng tôi không bao giờ có ý nghĩ về chính trị.  Chúng tôi chỉ muốn phục vụ giúp đỡ người nghèo khổ, vì họ cần đến tình yêu của chúng tôi…

Công việc dấn thân phục vụ người nghèo, người cùng khổ là chứng từ cụ thể cho đức tin.  Nó cắt nghĩa cho người người nghèo, người đau khổ về tình yêu Thiên Chúa trao tặng cho họ.  Ở Ấn Độ, một phóng viên người Hoa Kỳ quan sát tôi săn sóc người bệnh bị bệnh da lở loét rất nguy hiểm, anh ta nói với tôi: “Dạ, việc như vậy dù có cho tôi một triệu Mỹ kim, tôi cũng không làm!”  Tôi nói lại ngay: Đúng thế, tôi cũng chẳng làm dù có được một triệu Mỹ kim!  Nhưng tôi làm vì tình yêu Chúa.  Người nghèo khổ bệnh tật này với tôi là thân thể Chúa Giêsu Kitô…  Anh phóng viên nghe thế đứng yên lặng rất mủi lòng cảm động, và hiểu nhận ra sức mạnh nào đã kêu gọi cùng thêm sức nâng đỡ việc làm của chúng tôi…

Chúng tôi luôn nỗ lực cố gắng tìm đến nơi có những người lâm vào hoàn cảnh đau khổ mà không có ánh sáng niềm hy vọng.  Đó là nơi những người nghèo khổ, đói khát và bị bệnh tật, nhất là những người bị bỏ rơi sinh sống vất vưởng.  Chúng tôi đến những nơi đó do Chúa sai đến và chỉ cho chúng tôi việc phải làm…

Với Mẹ Thánh Teresa và Dòng của Mẹ, cầu nguyện với Chúa là suối nguồn kín múc sức mạnh cho việc làm bác ái lòng thương xót con người mà Chúa gửi sai đến: “Ngày sống làm việc của chúng tôi đặt trên căn bản cầu nguyện.  Dòng chúng tôi là Dòng chiêm niệm ở giữa lòng trần gian.  Vì thế cầu nguyện là căn bản đời sống nhà Dòng.  Chúng tôi luôn luôn cầu nguyện khắp mọi nơi đang khi làm việc cũng như lúc đi dọc đường.  Nếu chúng tôi không liên lỉ sống kết hợp với Chúa, chúng tôi đâu có thể có sức lực để sống dấn thân hy sinh phục vụ được.”

Khi người ta xin Mẹ tấm thẻ địa chỉ của Dòng, Mẹ Thánh Teresa rút trong túi áo Dòng Sari ra một mảnh giấy nhỏ rẻ tiền mầu xanh, trên có in dòng chữ bằng tiếng Anh:

“Chúa Giêsu vui mừng hạnh phúc đến với chúng ta,
khi sự chân thật muốn được loan truyền,
khi sự sống muốn được cho bừng lên chỗi dậy,

khi ánh sáng muốn được bật chiếu tỏa lan ra,
khi tình yêu muốn được yêu mến,
khi niềm vui muốn được tiếp tục cho đi,
khi hòa bình muốn được xây dựng lan tỏa gieo rắc.”  (Mẹ Teresa)

Xin Mẹ Thánh Teresa cầu cho chúng con!

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long

MỘT LINH MỤC MÙ CON MẮT THỂ XÁC, LẠI SÁNG CON MẮT TÂM HỒN

Image may contain: 1 person
Lm Trần Chính Trực

MỘT LINH MỤC MÙ CON MẮT THỂ XÁC, LẠI SÁNG CON MẮT TÂM HỒN

(Ai gặp ngài dù một lần, đều để lại ấn tượng khó phai. Quê hương của ngài cách quê hương của tôi khoảng 20 km và tôi và ngài cũng đã nhiều lần gặp gỡ, hàn huyên)

Linh mục Phêrô Phạm Văn Dương, sinh ngày 6/6/1973, tại xứ Rú Đất, hạt Bảo Nham, giáo phận Vinh, thuộc địa bàn xã Long Thành, Yên Thành, Nghệ An.
Ngài là con thứ 3 trong gia đình làm nông nghiệp và có tới 10 anh chị em.
Cuộc đời dâng hiến của Ngài bắt đầu từ mốc gia nhập dòng Anh em Đức Mẹ Về Trời (AA) kể từ năm 1998.

Sau một thời gian học tập tại Việt Nam, năm 2002, thầy Dương qua Pháp.
Thật không may mắn, đến năm 2004, khi đường tu còn dang dở, đau thương ập đến với người tu sỹ trẻ tuổi khi thầy bị một loại virus đặc biệt tấn công khiến đôi mắt trở nên mù hẳn.

Con đường ơn gọi tưởng chừng chấm dứt. Giữa lúc đau khổ cuộc sống, thầy Phêrô Dương vẫn một lòng tin tưởng vào thánh ý Chúa.
Ngài rất lạc quan, cách nói chuyện vui vẻ, hay đùa, hay tếu ấy không bao giờ đầu hàng số phận.

Ngài được bề trên truyền chức vào ngày 14.10.2012 tại giáo xứ Hyppolyte, TGP Paris, Pháp quốc và chuẩn bị sứ mệnh phục vụ cộng đoàn tại Việt Nam.
Việc phong chức cho người khuyết tật hầu như “xưa nay hiếm”.

Hàng ngày, Cha vẫn tự dâng Lễ và làm các việc mà không hề cần ai trợ giúp, ngoại trừ việc dắt lên dắt xuống.

Những ai chứng kiến thì hoàn toàn nể trọng, cảm động và thán phục Cha.
Lời giảng của ngài xuyên thấm nhiều trái tim và nơi ngài, chúng ta sẽ thấy tỏ lộ lòng thương xót của Thiên Chúa.
Quả thật, như người đời ví von: “tàn nhưng không phế”. Ngài mù con mắt thể xác, nhưng rất sáng con mắt tâm hồn.

VIÊN CẢNH SÁT GIẢI CỨU MỘT PHỤ NỮ ĐỊNH NHẢY CẦU TỰ TỬ BẰNG VIỆC ĐỌC KINH THÁNH CHO CÔ TA NGHE

Giáo xứ Cần Giờ – DCCT
VIÊN CẢNH SÁT GIẢI CỨU MỘT PHỤ NỮ ĐỊNH NHẢY CẦU TỰ TỬ BẰNG VIỆC ĐỌC KINH THÁNH CHO CÔ TA NGHE

Hành động anh dũng của một viên sĩ quan cảnh sát Paraguay đã ngăn chặn được một người phụ nữ có ý định nhảy khỏi cầu và tự kết liễu đời mình, sau khi chị nghe viên sĩ quan đọc một đoạn Kinh thánh.

Vụ việc xảy ra vào Chúa nhật, ngày 9 tháng 8, tại cây cầu Costa Cavalcanti, nối Ciudad del Este và Hernandarias (Alto Paraná), nơi có nhiều trường hợp tự tử đã được ghi nhận.

Hôm đó, anh Juan Osorio thuộc Nhóm Đặc Vụ (GEO), đến hiện trường, tiếp cận và trò chuyện gần 30 phút với một phụ nữ đang muốn nhảy từ trên đỉnh cầu xuống.

Theo tờ Extra của Paraguay , người phụ nữ này đã phải đối mặt với cái chết của con gái mình, khiến cô rơi vào trạng thái trầm cảm.

Trong cuộc trò chuyện đầy xúc động, viên cảnh sát đã đọc cho chị nghe Tin Mừng theo thánh Gioan 1:51 “Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người,” và cả hai đều khóc.

Viên cảnh sát kể rằng: “Tôi luôn mang theo cuốn Kinh thánh bên mình kể từ khi tôi bị bắn trong một cuộc đột kích. Tôi đã chọn chương 1 câu 51 của sách Gioan, vì tôi đã đọc nó trước đó. Và lúc ấy, tôi đã mở sách Kinh Thánh ra và đọc to cho cô ấy nghe.”

“Tôi đã cố gắng đối thoại với cô ấy bằng những câu Kinh Thánh. Mồ hôi tôi toát ra vì cự ly giữa sống chết rất bấp bênh. Tôi tiến lại gần hơn với cô ấy và nói với cô ấy, đưa tay ra nắm lấy tây tôi. Cô đã chịu nắm lấy tay tôi và với sự trợ giúp của những người khác tôi đã đưa cô ấy ra khỏi thành cầu.”

Gx. Cần Giờ – DCCT

Image may contain: one or more people, people standing, skyscraper, sky and outdoor

ĐỨC CHA VÀ CÔ TIẾP VIÊN HÀNG KHÔNG XINH ĐẸP

ĐỨC CHA VÀ CÔ TIẾP VIÊN HÀNG KHÔNG XINH ĐẸP

 

   Vào một ngày cuối năm 1965. Trên một chuyến máy bay đưa các Giám Mục người Mỹ trở về từ Ý sau khi đã dự Công Đồng Vatican 2, có một nữ tiếp viên hàng không rất xinh đẹp, tận tình và nhã nhặn phục vụ hành khách. Thế nhưng, trong suốt hành trình, cô tiếp viên hàng không trẻ đẹp này rất bực bội và rất mất tự nhiên vì có một người đàn ông, xem ra thiếu đứng đắn, cứ liên tục đảo đôi mắt chăm chú nhìn mình.

Càng đáng bất bình hơn, khi đó là một người đàn ông đã lớn tuổi. Cô lại càng khó chịu hơn, vì ngay sau đó cô được biết, người đàn ông ấy chính là Đức cha Fulton Sheen, Tổng Giám Mục thành New York, một con người nổi tiếng về khoa ăn nói, giảng dạy và đạo đức. Ngài là một Giám Mục tông đồ lừng danh nước Mỹ. Thật là quái gở không thể tưởng tượng! Một kẻ xem ra thiếu tư cách ấy, lại là con người của thành công, của sự nổi tiếng sao? Cô không hiểu nổi và thầm chê trách coi khinh vị Giám Mục già kia. Đến lúc chiếc phi cơ hạ cánh, kỳ quái thật, vị Giám Mục già bị coi là “thiếu đứng đắn” kia lại không xuống cùng lúc với các hành khách. Không hiểu ngài có toan tính gì mà lại đợi mọi người trên máy bay xuống hết, chỉ còn mỗi mình ngài là vị khách xuống sau cùng. Đã vậy, khi đến cầu thang máy bay, Đức Cha Fulton Sheen còn ghé sát mặt mình vào tai cô tiếp viên hàng không nói thầm thì những lời gì đó, ngoài cô gái, chẳng ai có thể nghe thấy…

   Câu chuyện đến đó, tưởng chừng kết thúc. Những tưởng sự khó chịu của cô gái tiếp viên hàng không rồi cũng trôi qua, cái nhìn tưởng như khiếm nhã của vị Giám Mục già rồi cũng chẳng còn ai nhớ, có chăng một ánh mắt dù khiếm nhã (theo như ý nghĩ của cô gái), thì cũng chỉ là một ánh mắt thoáng qua như bao nhiêu ánh mắt mà cô gái bắt gặp trong đời mình? Không phải thế. Mọi sự không trôi đi, không mất. 

   Bởi vào một buổi trưa, Đức Cha Fulton Sheen nghe tiếng gõ cửa, và sau đó là sự bất ngờ của Đức Cha khi ngài mở cửa. Trước mặt ngài là cô gái tiếp viên hàng không trẻ tuổi có sắc đẹp mặn mà trên chuyến bay hôm nào, đã từng có ánh mắt thiếu thiện cảm với ngài. 

  Cô gái lên tiếng chào Đức Cha và hỏi: “Thưa Đức Cha, Đức Cha có nhớ con không?” Đức Cha Fulton Sheen từ tốn trả lời: “Cha nhớ chứ. Con chính là cô gái tiếp viên hàng không trên chiếc máy bay đưa chúng tôi trở về từ Công Đồng Vatican II”. Cô gái nói tiếp: “Vậy Đức Cha có nhớ Đức Cha đã nói nhỏ vào tai con điều gì không?” Đức Cha trả lời: “Nhớ! Cha nhớ, Cha đã khen con đẹp lắm. Và cha hỏi con rằng, có bao giờ con đã cảm tạ Chúa vì Chúa đã ban cho con sắc đẹp tuyệt vời kia chưa?” Cô gái sung sướng nói tiếp: “Kính thưa Đức Cha, điều Đức Cha nói đã làm con băn khoăn nhiều. Cũng chính vì điều đó mà hôm nay con đến gặp Đức Cha. Vậy, theo ý Đức Cha, con phải làm gì để tạ ơn Chúa?” Hơi bất ngờ, Đức Cha Fulton Sheen lặng người suy nghĩ một chút. Sau đó Đức Cha dẫn cô gái tới trước tấm bản đồ thế giới treo trên tường, vẫn giọng nói ôn tồn, Đức Cha hỏi: “Có bao giờ con nghe nói tới một trại phong cùi nào ở Việt Nam mang tên là trại phong Di Linh chưa?” Cô gái ngước đôi mắt xanh như dò hỏi: “Kính thưa Đức Cha, có lần con đã đọc được trên báo. Con cũng đã được nghe ai đó kể một vài chuyện về trại cùi Di Linh.”

Đức Cha Fulton Sheen

  Đức Cha dõi mắt nhìn vào khoảng xa xăm trước mặt: “Này con, cách đây chưa lâu, cha nghe nói Đức Giám mục giáo phận Sài Gòn tên là (Maire Pierre Jean) Cassaigne (mất năm 1982 tại VN) đã từ chức Giám Mục Sài Gòn để đến phục vụ anh chị em trại phong Di Linh. Con có muốn cảm tạ Chúa bằng cách thử một lần đến trại phong Di Linh, gặp Đức Giám Mục Sài Gòn và ở lại với anh chị em bệnh phong khoảng sáu tháng không?” Quá bất ngờ trước lời đề nghị của Đức Giám Mục thành New York, cô gái không thốt lên một lời, lặng lẽ cúi chào Đức Cha rồi rút lui trong sự bàng hoàng của chính nội tâm của cô…

   Một lần nữa, người ta cứ tưởng rằng câu chuyện thật nhẹ nhàng, nhưng cũng thật mãnh liệt của Đức Cha Fulton Sheen và cô tiếp viên hàng không kia đã chấm dứt. Nhưng thật lạ lùng, chỉ bằng ấy lời đề nghị nhẹ nhàng, nhưng dứt khoát của Đức Cha, đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời của cô tiếp viên hàng không xinh đẹp.

  Những tháng đầu năm 1966, người ta đọc thấy một bảng tin đáng khâm phục trên các phương tiện truyền thông của Sài Gòn: Một nữ tiếp viên hàng không rất trẻ, rất đẹp của một hãng hàng không Hoa Kỳ đã xin nghỉ nghề làm tiếp viên hàng không để đến trại phong Di Linh của Việt Nam, tình nguyện chăm sóc các bệnh nhân phong.

  Thật đẹp, đẹp làm sao. Chỉ chừng ấy lời của một vị Giám Mục khả kính thôi, tâm hồn quả cảm của một cô gái lãng du thích phiêu bồng khi chọn cho mình nghề tiếp viên, rày đây mai đó, đã có thể chấp nhận trút bỏ tất cả tương lai đẹp như chính cái vẻ đẹp của cô để sống, không phải sáu tháng, nhưng là suốt đời cho một lý tưởng cũng đẹp không kém: TẠ ƠN THIÊN CHÚA. Chỉ chừng ấy thôi, lời của một vị Giám Mục khả kính đã biến một cô chiêu đãi viên hàng không xinh đẹp thành một nữ tu. Bởi chính cô, sau một thời gian phục vụ anh chị em phong, đã tự nguyện khoác lấy chiếc áo nữ tu trong Hội Dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn Việt Nam.

   Từ nay, bước vào đời sống tu trì, Người Nữ Tu, cô gái xinh đẹp ấy đã hoàn toàn trút bỏ mọi vướng bận của đời thường để yên tâm sống lý tưởng cảm tạ Chúa bằng việc phục vụ anh chị em phong Việt Nam. Người nữ tu đã từng làm tiếp viên hàng không ấy, đẹp quá. Chị đẹp, không chỉ là một sắc đẹp thân xác, mà chính là một vẻ đẹp lộng lẫy của tâm hồn. Người Nữ Tu ấy, không ai khác hơn, nhưng đó chính là Chị Louise Bannet. Chị đã tình nguyện ở lại trại phong Di Linh suốt đời. Nhưng biến cố của năm 1975 gây ra nhiều biến động, khiến Chị không thể tiếp tục ý nguyện của mình. Sau mười năm phục vụ người phong, Chị đã phải lên đường về nước. Một thời gian sau, Chị lại xin Nhà Dòng cho đi phục vụ bệnh nhân phong ở Tahiti.

Năm 1982, sau nhiều ngày bị căn bệnh ung thư quái ác hoành hành, Chị Louise Bannet đã qua đời giữa sự tiếc thương vô cùng của cộng đoàn anh chị em phong tại Tahiti. Và trong tình liên đới, cũng như trong lòng biết ơn của mình, cũng là chính lòng tiếc thương của các bệnh nhân phong Việt Nam nói chung và tất cả những ai từng sống tại trại phong Di Linh nói riêng,

Con người ta chết có phải là hết hay không?

https://www.facebook.com/suthatvatruyenthong/videos/902216540296614/?t=271

June 15  

 

Con người ta chết có phải là hết hay không?

Đã có rất nhiều nhà khoa học cùng biết bao máy móc hiện đại chỉ để tập trung khám phá bí ẩn của mộng mị… Và điều kỳ lạ trong những giấc mơ xảy ra thật nơi hiện thực vẫn khiến không ít người chúng ta phải trăn trở, suy nghĩ…

Nguồn: ĐKN. 

Cầu nguyện: 

Cầu nguyện: 

Lạy Chúa Giêsu, dân làng Nazareth đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công. Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người,

Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh, nơi một linh mục yếu đuối, trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.

Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.

Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

KHI BẠN CẦU NGUYỆN: NÂNG NHAU LÊN TRONG MÙA CHAY

KHI BẠN CẦU NGUYỆN: NÂNG NHAU LÊN TRONG MÙA CHAY

 Joseph C. Pham 

Một người vợ chẩn đoán bị ung thư.  Một người con rời khỏi Giáo Hội.  Một đồng nghiệp bị nhập viện sau một cú va chạm trên xa lộ.  Một người thân cận mất việc làm.  Hàng triệu người ngủ mà không có của ăn, không được chăm sóc y tế, và không nhà cửa.  Hàng ngàn phụ nữ trẻ bị buộc lao vào tình trạng nô lệ tình dục.  Một đất nước từ chối quyền sống của một thai nhi.  Toàn thể người dân chịu sự thống trị của một bạo chúa.

Có quá nhiều nỗi thống khổ trên thế giới tưởng chừng như không thể vượt thắng được.  Nhưng rồi Kinh Thánh lại dạy chúng ta hãy có niềm hy vọng vì điều dường như không thể đối với chúng ta lại có thể đối với Thiên Chúa (Lc 18:27).  Đây rõ ràng là lý do vì sao việc cầu nguyện chuyển cầu lại trở nên quá giá trị.  Và đây là lý do vì sao chúng ta muốn nhìn đến lời chuyển cầu trong Mùa Chay này.

Giá Trị Của Sự Chuyển Cầu. 

Chuyển cầu không giống với việc thờ phượng, việc soi sáng thiêng liêng, hay tạ ơn.  Đó không chỉ là việc cầu nguyện cho những người đang cần giúp đỡ.  Chuyển cầu là một sự kết hợp của việc xin Thiên Chúa đi vào một hoàn cảnh khó và việc tin rằng Chúa sẽ giải quyết gian khó ấy.

Bạn có muốn biết việc cầu nguyện chuyển cầu quan trọng thế nào đối với Thiên Chúa không?  Chỉ cần nhìn vào Kinh Lạy Cha có lẽ là tất cả mọi điều bạn cần.  Trong lời kinh ấy, Chúa Giêsu dạy chúng ta xin nhiều điều quan trọng: cho người ta thấy vinh quang của Thiên Chúa và thờ phượng Người; cho người ta được đón nhận kế hoạch của Thiên Chúa; để Thiên Chúa ban cho chúng ta lương thực hằng ngày, tha thứ tội lỗi, và bảo vệ chúng ta khỏi sự dữ.  Còn gì nữa, theo Thánh Luca, Chúa Giêsu đính kèm với lời cầu nguyện này bằng lời hứa là nếu chúng ta xin, thì chúng ta sẽ nhận lãnh (Lc 11:9). 

Việc chuyển cầu là quá giá trị đến nỗi chính Chúa Giêsu cũng cầu nguyện cách này.  Trong Bữa Tiệc Ly, chỉ vài giờ trước khi Ngài chịu chết, thì Ngài đã cầu nguyện cho các tông đồ của Ngài và cho chúng ta: bảo vệ chúng ta, ân sủng để chiến thắng cơn cám dỗ, thánh hoá chúng ta, và sự hiệp nhất của chúng ta (Ga 17:9-21).

Rõ ràng, lời cầu nguyện chuyển cầu không phải là một việc thiêng liêng hạng hai.  Đặc biệt là trong mùa đầy ân sủng như Mùa Chay, chuyển cầu có thể là một vũ khí mạnh mẽ chống lại tội lỗi, và sự sợ hãi ở nơi những người thân yêu của chúng ta và trong thế giới.

Sự Kiên Định

Sự kiên định là trung tâm của việc cầu nguyện chuyển cầu.  Người liên lỉ sẽ dành được sự chú ý của Thiên Chúa.  Chẳng phải đây là điều mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta qua dụ ngôn người bạn kiên định sao (Lc 1:5-13)?  Vào giữa đêm, một người thân cận đến xin giúp đỡ, nhưng người kia thì không muốn đi ra khỏi giường.  Bất chấp sự kháng cự của ông, cuối cùng thì người kia cũng ra khỏi giường và giúp người hàng xóm của ông – vì sự kiên định của người hàng xóm của ông.  Cùng một cách, Chúa hứa rằng rằng nếu chúng ta kiên định trong việc cầu nguyện chuyển cầu của chúng ta, thì Thiên Chúa sẽ đáp trả.

Hai câu chuyện khác từ Kinh Thánh cũng dạy cùng một thông điệp tương tự.  Một là câu chuyện dụ ngôn về một bà góa đã đến khẩn xin ông thẩm phán cho đến khi ông ta chấp nhận yêu cầu của bà thì thôi.  Chúa Giêsu nói với những người nghe Ngài rằng ông quan tòa không nhất thiết phải quyết định theo hướng có lợi cho bà vì bà đúng; mà chỉ vì bà ấy làm cho ông ta mỏi mệt (Lc 18:1-8).

Câu chuyện còn lại là một cuộc gặp gỡ thật sự mà Chúa Giêsu có với người phụ nữ Ca-na-an (Mt 15:21-28).  Con gái của bà đang cần chữa lành, nhưng vì bà là một người dân ngoại, nên Chúa Giêsu gần như là không sẵn lòng giúp.  Bất chấp việc nghe thấy Chúa Giêsu coi dân của bà như những con chó, bà vẫn kiên định.  Bà đã không bị từ chối.  Sau cùng, Chúa Giêsu đồng ý “Này bà, niềm tin của bà mạnh thật!” (15:8).  Những câu chuyện này thật đơn giản nhưng rõ ràng: hãy nhẫn nại!

Chúa Giêsu Chuyển Cầu Cho Chúng Ta

Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Ngài rằng các ông sẽ bỏ Ngài trong giờ Ngài cần giúp đỡ.  Rồi Ngài quay sang Phê-rô và nói, “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin.  Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22:32).  Ngài biết Phê-rô sẽ cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa sau khi ông từ chối là biết Chúa Giêsu, và Ngài đã cầu nguyện cụ thể cho sự trợ giúp ấy.

Chúa Giêsu không chỉ cầu nguyện cho Phê-rô hay các tông đồ.  Trong Thư Gửi Tín Hữu Do Thái, chúng ta đọc thấy rằng Ngài “sống mãi mãi để chuyển cầu” cho mỗi người chúng ta (7:25).  Hãy ghi lại hình ảnh này: Chúa Giêsu, giờ đây đã sống lại trong vinh quang và vẻ đẹp của Thiên Đàng, đang dành toàn bộ thời gian của Ngài – mãi mãi – để cầu nguyện cho chúng ta.  Ngay bây giờ, Ngài đang cầu nguyện cho bạn và cho những người thân yêu của bạn.

Theo cùng một cách thế, chúng ta là những người Công Giáo được dạy ngay từ rất sớm là hãy xin Mẹ Maria “chuyển cầu cho chúng con trong giờ lâm tử.”  Chúng ta tin rằng Đức Đồng Trinh Maria có một vai trò chuyển cầu đặc biệt trên thiên đàng.  Giống như bất cứ một người mẹ tốt lành nào, Mẹ có thể bước vào căn phòng của con trai mình bất cứ lúc nào và xin sự trợ giúp của Ngài.  Mẹ biết những thách đố và những vết thương và những nhu cầu của con cái Mẹ, và Mẹ hằng tiếp tục cầu nguyện cho họ.  Và giống như bất cứ một người mẹ tốt lành nào, Mẹ an ủi chúng ta khi chúng ta cầu nguyện cho những người thân yêu của chúng ta.  Mẹ tái đảm bảo với chúng ta rằng Mẹ ở cùng chúng ta, cầu nguyện ngay cạnh chúng ta.

Đây không phải là những sự thật ủi an sao?  Chúa Giêsu đã hứa rằng nếu chúng ta xin, thì chúng ta sẽ lãnh nhận.  Ngài đã hứa rằng nếu chúng ta kiên định trong việc cầu nguyện của chúng ta, thì chúng ta sê thấy Thiên Chúa hành động.  Và Ngài hứa rằng Ngài sẽ cùng chúng ta, cùng với Mẹ của Ngài, trong việc cầu nguyện cho hết mọi nhu cầu và bận tâm mà chúng ta dâng lên Ngài.  Chúng ta không bao giờ đơn độc trong cầu nguyện!

Ý Muốn Nhiệm Mầu Của Thiên Chúa

Nhưng chúng ta sẽ nói, “Tôi kiên định.  Nhưng tại sao một số lời cầu nguyện của tôi lại không được đáp trả?”  Đây là một trong những mầu nhiệm lớn lao của niềm tin nơi chúng ta.  Chúng ta biết rằng Chúa Giêsu luôn yêu thương chúng ta.  Chúng ta biết rằng Ngài không muốn thấy bất cứ ai đau khổ.  Nhưng chúng ta không luôn thấy những đáp trả cho những lời nguyện cầu của chúng ta, bất luận là ý hướng tốt lành thế nào và chúng ta đang kiên định cỡ mấy.  Câu trả lời tốt nhất chúng ta có thể mang lại là Thiên Chúa luôn đáp trả lời cầu nguyện của chúng ta, nhưng chúng ta không luôn biết cách nào và khi nào.

Joe Difato, nhà xuất bản của tạp chí này, là một gương của sự nhẫn nại.  Ông có một cô con gái lớn bị mù kể từ khi cô bé lên bốn.  Joe cầu nguyện thường xuyên cho con gái mình được chữa lành.  Giống như bất cứ người cha mẹ nào, ông muốn con gái ông sáng mắt.  Đồng thời, ông thấy chính bản thân mình bị thoái lui vào khả năng là con gái ông sẽ luôn mù.  “Tôi tin rằng Chúa Giêsu muốn chữa lành con gái tôi, và tôi cầu xin điều này”, ông nói.  “Nhưng con gái tôi vẫn cứ mù.  Đôi khi tôi mất niềm hy vọng là con gái tôi sẽ sáng mắt.  Đôi khi tất cả mọi điều tôi có thể làm là nỗ lực kiên định bất chấp sự hoài nghi của tôi.”

Bốn Mươi Ngày Cầu Nguyện

Trước sự bất lực của chúng ta để hiểu trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa, thì cách duy nhất là chúng ta tiếp tục tiến bước trong niềm tin của mình bằng việc kiên định.  Cách duy nhất để tiến bước là tin rằng Thiên Chúa sẽ đáp trả lại lời cầu nguyện của chúng ta theo sự khôn ngoan của Ngài và theo thời gian của Ngài.

Vì thế, khi Mùa Chay bắt đầu, tại sao lại không đặt ra một danh mục cầu nguyện của riêng chúng ta?  Hãy nghĩ về những người mà bạn biết là đang đau đớn, bất luận về thể lý hay tinh thần.  Hãy nghĩ về một hoặc hai hoàn cảnh trên thế giới đang lôi cuốn sự chú ý của bạn nhất – nạn dịch virus corona – và thêm chúng vào danh mục của bạn.  Rồi hãy nhìn vào danh mục mỗi ngày và cầu nguyện cho những nhu cầu này.

Chớ gì tất cả chúng ta “cầu nguyện không ngừng” trong Mùa Chay này (1 Tx 5:17).  Ai mà biết?  Có khi vào Chúa Nhật Phục Sinh, Thiên Chúa sẽ cho chúng ta một câu trả lời đặc biệt cho một trong những lời cầu nguyện sâu thẳm nhất của chúng ta cho ai đó trên danh mục của chúng ta!

Joseph C. Pham (Chuyển ngữ từ The Word Among Us)

From: Langthangchieutim

Cầu Nguyện.

Cầu Nguyện.

Lạy Chúa Giêsu, có những chuyện xảy ra làm con không vừa ý, khiến ngày sống của con vắng bóng niềm vui. Làm sao con có thể đón nhận mọi sự với nụ cười bao dung, và coi những trắc trở như chuyện bình thường của cuộc sống cho con bình an trước vấp váp của con, và nhẹ nhàng trước vấp váp của người khác.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

THI HÀI THÁNH BERNADETTE KHÔNG BỊ HƯ NÁT SAU HƠN MỘT THẾ KỶ

Image may contain: one or more people
No photo description available.

Phép Lạ Cha Phanxico Trương Bửu Diệp

THI HÀI THÁNH BERNADETTE ( NGƯỜI ĐƯỢC TRÔNG THẤY NHAN THÁNH ĐỨC MẸ TẠI LỘ ĐỨC) SAU KHI MẤT THI HÀI CỦA NGÀI KHÔNG BỊ HƯ NÁT SAU HƠN MỘT THẾ KỶ

Thánh nữ Bernadette (còn gọi là Marie Bernarde Soubirous) sinh ngày 7 tháng 1 năm 1844 tại Lourdes, Pháp và mất ngày 16 tháng 4 năm 1879) .
Thánh Bernadette được biết đến bởi hai sự kiện:
– Chứng kiến Đức Mẹ hiện ra tại Loures , Pháp
– Thân xác không hư nát mặc dù đã mất từ rất lâu. Giáo hội quyết định khám nghiệm thi hài Thánh nữ, và thấy thi hài vẫn như người sống.

Thánh Bernadette là con cả trong một gia đình thợ may nghèo ở Lourdes (Lộ Đức), thuộc miền Nam nước Pháp. Vào ngày 11 tháng 2 năm 1858 , Đức Mẹ Maria hiện ra với Bernadette ở một hang động trên bờ sông Gave gần Lourdes, lúc đó cô 14 tuổi. Tin này được lan truyền nhanh chóng. Ngày 16 tháng 7 năm 1858, Bernadette lại báo cho mọi người là cô lại thấy Đức Mẹ hiện ra với cô. Như vậy cô đã gặp Đức Mẹ 18 lần trong vòng 5 tháng. Thời gian này ở Lourdes cũng xảy ra nhiều hiện tượng lạ và cũng từ đó Bernadette có ý định đi tu.

Ngày 3 tháng 7 năm 1866, Bernadette vào dòng thánh Gildard. Sau một thời gian ở tu viện, Bernadette được mặc áo dòng và đổi tên là Maria Bernard. Năm 1867 Bernard bị phong thấp nhưng vẫn cố gắng làm công việc của một y tá. Từ tháng 10 năm 1875 sức yếu dần, Bernard không thể làm việc được nữa. Năm 1877, bệnh tình trở nặng và hấp hối giữa tuần Phục sinh năm 1879. Bà mất lúc 35 tuổi và được an táng trong hầm mộ tu viện.

Năm 1909 (sau 30 năm) , vì một nghi lễ tôn giáo, nhà thờ đã khai quật mộ. Đại diện nhà thờ, bác sĩ phẫu thuật và những người chứng kiến đã vô cùng kinh ngạc khi thấy thi thể của bà vẫn nguyên vẹn, dường như đang trong một giấc ngủ dài.

Bác sĩ phẫu thuật Tourdan đã ghi lại những gì ông quan sát được: “Cỗ quan tài của bà được mở ra dưới sự chứng kiến của mọi người trong đó có tôi. Di hài của Thánh Bernadette trong trang phục nữ tu không hề có mùi xú uế. Khuôn mặt, bàn tay và cẳng tay lộ ra bên ngoài, đầu nghiêng sang một bên, miệng hé mở có thể nhìn thấy hàm răng trắng. Hai tay đặt trên ngực, vẫn giữ được lớp da hoàn hảo”. Gia đình Bernadette đã làm lễ tắm rửa, thay quần áo và quan tài mới rồi đặt vào một vị trí khác sâu trong nhà mồ.

Năm 1913, Giáo hoàng Pius X chuẩn bị phong Thánh cho Bernadette. Để chứng nghiệm, quan tài của bà được yêu cầu mở ra một lần nữa nhưng do Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ nên việc này bị hoãn đến năm 6 năm sau. Năm 1919, lúc mở quan tài lần hai, di hài của bà vẫn nguyên vẹn. Năm 1925, Giáo hoàng Pius XI đã chính thức phong Thánh cho Bernadette.

Lần cuối, mộ bà lại được mở ra, di hài được đưa vào quan tài pha lê đặt tại nhà nguyện của nhà thờ Lourdes để mọi người chiêm ngưỡng cho đến nay.

(Sơ lược từ nguồn Wikipedia tiếng Việt).

Khi bạn đọc xong nhớ chia sẻ cho nhiều người được biết nghe.