Đức Tin: Một Gia Tài Vô Giá

 
ĐỨC TIN – MỘT GIA TÀI VÔ GIÁ
 
                                                                      tác giả: Túc Lynh
 
Con là một tân tòng nhỏ bé, yếu đuối. Quan trọng nhất, là con còn rất non trẻ trong việc sống đạo và phương pháp giữ đạo. Con xin tự giới thiệu về mình như thế, để quý vị có cách nhìn rộng lượng hơn dành cho con, khi con được chia sẻ về đức tin còn mong manh của con.  
Thời gian gần đây, con đã được dịp tiếp xúc với nhiều người con cái yêu quý của Chúa.
 Người thì con được nhìn thấy một niềm tin và cách sống theo Thánh Ý Chúa rất gương mẫu – Ở gia đình đó con thấy tràn ngập hạnh phúc khi họ có một đức tin tuyệt đối vào Chúa.
 Người thì con được nhờ hiệp lời cầu nguyện, vì theo anh bạn nhỏ này có thể vì con là người mới theo Chúa. Nên Chúa đặc biệt ưu ái mà nhận lời nhanh hơn, những gì cậu bé đó cầu xin Chúa.
 Người thì bảo, con là đứa được Chúa ra tay chữa lành một cách kịp thời. Cô ấy cho rằng, con đã được Chúa trao ban một ơn đặc biệt. Và muốn con nên thường xuyên hiệp lời để gia tăng thêm niềm tin tuyệt đối vào Vị Đại Thiên Y là Chúa.
 Người thì muốn con phải được thêm nhiều ơn Chúa, bằng việc tìm mọi cách để được gần gũi và tiếp cận với Chúa qua nhiều hình thức. Chị đã rất nhiệt tình đưa con tham gia vào nhiều hội nhóm trong giáo xứ.
 Nhưng cho dù bằng cách nào, phương pháp hay hình thức nào thì con cũng nhận ra rằng Chúa  đã nhận lời con cầu xin mỗi khi con rước Chúa vào lòng.
Có rất nhiều người nói với con rằng: Đức tin là một cái ơn, không phải ai cũng được, không phải ai cũng nhận ra.
Theo con thì đức tin được con xem như là một “gia tài”. Mà “gia tài” này không bắt buộc phải có một di chúc thì mình mới được thừa hưởng.
Gia tài theo thói thường thì khi muốn hưởng thì phải có di chúc, hoặc muốn có được nó thì ít nhất phải có công tạo dựng, hay có công trạng gì đó. Mà có người chỉ vì một gia tài nhỏ bé đã đánh mất bản chất và mạng sống của mình. Ngày trước khi con có dịp chứng kiến những nghịch cảnh chỉ vì một gia tài, mà cha mẹ, vợ chồng, con cái chống lại nhau. Ngày đó, con đã được nghe những lời rất đau lòng từ người mẹ, người cha than thở rằng. Không ngờ có ngày chính những đứa con thân yêu của mình, vì chút tài sản của do mình tạo ra mà con mình lại kiện ngược mình hòng tranh giành chút tài sản. Những tình cảm anh chị em thân nghĩa ngày nào, chỉ vì một căn nhà tự mà ngoảnh mặt không nhìn nhau và lôi nhau ra tòa để xỉ vả nhau. Bằng mọi cách họ tìm thật nhiều chứng cứ để tranh lợi về phần mình. Con tin rằng khi quý vị chứng kiến những tình cảnh trái ngang đó, quý vị sẽ rất chán ngán cho cái tình đời.
Con đã từng chứng kiến nhiều người đã sở hữu được những gia tài là tiền của, nhà đất. Chỉ sau một thời gian thì gần như họ khổ sở vì nó. Người thì lo lắng tìm cách gìn giữ, nhất quyết không chia sẻ cho người khác khi cần thiết, người thì tìm mọi cách để kiếm thêm. Nói chung là gần như ít có người nào cảm thấy an toàn khi sở hữu trong tay một gia tài. Gia tài nhiều thì lo nhiều, gia tài ít thì lo ít. Họ được nó nhưng họ lại không có được cái bình an thật sự.
Nói tóm lại, để hưởng một gia tài không phải là một vấn đề đơn giản. Mà cái gia tài này, lại không được vững bền. Ở bên nó, con người ta không bao giờ nhìn thấy được cái gia tài trên cả tuyệt vời là “Đức tin”. Vì người ta rất thích bám chặt vào những giá trị vật chất hiện tại.
Sở dĩ con phân tích về gia tài một cách cụ thể như thế để chứng minh cho quý vị hiểu là vì sao con ví Đức tin là một gia tài vô giá.
Khi con sở hữu được Đức tin là gần như con cảm thấy rằng, con đang được thừa hưởng một  gia tài vô cùng to lớn. Mà gia tài này nếu mình thật tâm xin thì Người Chủ, Người Cha, Một Người có đầy đủ quyền thế trao ban bất cứ lúc nào cho mình, mà không cần phải có bất cứ một loại giấy xác nhận nào và thời hạn.
Khi con nhận ra con có Chúa, thì điều đầu tiên con xin Chúa cho con biết tin vào Chúa. Để được Chúa trao tặng ơn này thì con không quên nhờ Đức Mẹ đã cầu giúp cho con. Và con đã được.
Giờ đây, khi chính con được Chúa trao tặng Đức tin. Và những người bạn của con (tất cả họ đều chưa là người Công Giáo), nhưng đều có được “đức tin” nơi Chúa thì chúng con cảm thấy mình rất giàu có. Giàu có ân sủng, giàu có bình an, giàu có tình yêu…
Khi con xin con rất ao ước được rước Chúa vào lòng, thì bây giờ con đã được. Khi con xin con được nhiều dịp để gần gũi với Chúa thì con lại được một chị cho con tham gia vào một hội trong giáo xứ. Hội này lại được cầu nguyện cùng với các linh mục, và được Chầu Thánh Tâm Chúa hàng tuần. Con gần như rất vui và bình an.
Khi chúng con có được “gia tài” này thì chúng con rất an vui, trái với những người được thừa hưởng của cải vật chất thế gian, luôn sợ phải bị mất, tìm cách cất giấu… Gia tài của chúng con không những đem lại hạnh phúc bền vững, mà còn cứu giúp chúng con thoát những lần nguy hiểm trong đời sống. Gia tài chúng con còn cứu giúp chúng con thoát khỏi những cơn bệnh hiểm nghèo, mà cho dù có bỏ ra bao nhiêu tài sản cũng không được chữa lành. Và đặc biệt là chúng con luôn muốn chia sẻ gia tài này, với tất cả những ai chúng con quen biết.
Chúa bảo là chính đức tin của con đã cứu con, chúng con đã tin và chúng con, đứa thì được chữa lành ung thư, người thì được chữa lành bệnh hư thận… Đức tin không những chữa lành bệnh tật thể xác mà còn cho cả tâm hồn nữa. Khi chúng con được gia tài này thì trong lòng chúng con luôn thấy bình an, vui tươi và nhẹ nhàng.
Con rất chân thành cám ơn quý vị đã đọc tâm tình chia sẻ của con. Mục đích của con là chỉ mong mọi người đều có một gia tài thật trù phú cho riêng mình để được an vui hơn. Và nhân đây con cũng xin quý vị cho con một lời cầu nguyện để con biết cách gìn giữ và làm gia tài đức tin của con được vững chắc và phong phú hơn.
Saigon, ngày 25 tháng 7 năm 2011
Con,
 Túc Lynh

 

 

Chúa đi tìm tôi, tôi đi tìm Chúa

CHÚA ĐI TÌM TÔI, TÔI ĐI TÌM CHÚA 


                                                     Anne du Saint’ Esprit NGUYỄN HẢI TRIỀU

 Chúa đã phải vất vả đi tìm tôi nhiều lần.
 
1. Hồi nhỏ, tôi ở cùng cha mẹ, anh chị em tôi trong một ngôi chùa nhỏ miệt Gia Định. Những năm sống trong chùa, tôi tụng kinh với sư thầy, chơi đùa và học chữ với các ni cô, cho đến khi Chúa vào chùa tìm gặp tôi, Người quyết định đem tôi đi nơi khác . Tôi từ giã gốc đa sân chùa để theo cha mẹ lên sống trên cao nguyên.
 
2. Trên cao nguyên, cha tôi có cơ hội gặp gỡ một linh mục dòng Châu Sơn, rồi cha mẹ tôi trở lại Đạo, đồng thời Chúa cũng tạo điều kiện cho tôi chọn Chúa. Tiếc thay, ở chặng này, tôi đã không hợp một ý với cha tôi là đem hình Phật Thích Ca, tượng Quan Thế Am Bồ Tát, chuông, mõ, bát nhang dâng cúng chùa để lập bàn thờ Chúa. Bấy giờ, tôi ngắm Tượng Chúa Chịu Nạn cha tôi mới đưa về một cách lạnh lùng và ác cảm, . Hỡi ôi, chẳng hiểu vì sao, từ lúc bấy giờ, tôi bắt đầu ghét Chúa, tôi ghét Người Chịu Chết Treo Đau Thương trên Thánh Giá ấy biết bao ! Tôi dõng dạc thưa cha tôi rằng con vẫn theo đạo Phật.
 
Có lẽ hồi đó Chúa khóc nhiều vì tôi….
 
 Chúa tìm dịp khác để được gần gũi tôi . Hồi đó, cha tôi mang về nhà những tập Thánh Ca khổ nhỏ với nhiều bài hát ngắn dễ thuộc, để anh tôi làm bài tập đàn ghitar …. Tôi tuy còn nhỏ, nhưng nghe anh đàn hát cũng thuộc được nhiều bài hát mà chỉ có người Công Giáo quen đi nhà thờ mới biết hát. Như bài :”Con kính dâng Cha cùng bánh và rượu nho, hồn con đây với xác con đây”, thì tôi thuộc luôn cả các Tiểu Khúc sau đó. Không biết khi nghe một tiểu Phật Tử như tôi hát Thánh Ca mà lòng vô tư như hát “ Tết Trung Thu rước đèn đi chơi “vậy thôi thì Chúa có mỉm cười không nhỉ !
 
Vậy rồi vài năm sau đó, Chúa lại đưa gia đình tôi trở xuống Saigon. Ở Sàigòn, chúng tôi rơi vào giữa một xóm Đạo, riêng tôi phải học trường Dòng. Hai môi trường này làm cực lòng tôi lắm. Chúa đang đi tìm một Phật Tử trong một gia đình Công Giáo đây, nhưng tôi đã ghét Chúa, bây giờ càng ghét thêm, bởi vì tôi phải đọc kinh, phải học chung với những người mặc áo Dòng đen, phải trốn vào buồng tắm mỗi sáng Chúa Nhật vào giờ các bà Quản, ông Trùm ghé nhà viếng thăm và dạy Giáo lý cho anh em chúng tôi.
 
Một ngày nọ, cha tôi ra lệnh: “Thôi các con hãy chịu đi Rửa Tội thì các ông bà sẽ không tới nhà ta nữa”. Lập tức, tôi bị điệu vào cha Xứ để người chọn ngày rửa tội cho. Tôi là đứa ương ngạnh và đang trong tâm trạng bất mãn vì bị ép buộc như vậy nên khi linh mục ban Bí Tích Rửa tội cho tôi, tôi đã lãnh nhận mà bất phục, bất ưng. Trời ơi, làm sao thành việc !
 
Về nhà, tôi không đi lễ, không đọc kinh. Tôi chối Chúa rồi.
 
Chúa lại phải đi tìm tôi lần nữa, bởi vì tôi còn bỏ cả trường Dòng, bởi vì ở đâu có sự hiện diện của Chúa, của Đạo Công Giáo thì tôi ghét cay ghét đắng nơi đó.
 
Nhưng không dễ cho tôi đâu. Chúa lôi cổ tôi trở về nơi chốn cũ, bắt tôi phải học chung với các Tu sĩ áo đen nọ.
 
Tôi học chăm vì không thích nói chuyện với ai, tan học là về nhà, hóa ra lại thuộc hạng có hạnh kiểm tốt, vì thế có một soeur rủ tôi : “Đi tu nhé. ” Cho tới nay, thật tình tôi không hiểu nổi tại sao, chỉ sau một ngày, ngày hôm sau, chính tôi lại là người mở miệng xin với soeur ấy dẫn tôi vào gặp Bề Trên tu viện để xin nhập Dòng . Ai thay đổi lòng dạ tôi lúc bấy giờ ? Ai mở miệng tôi ? Tôi không biết. Chúa biết. Chỉ có Chúa biết . Chúa tìm tôi làm gì và Chúa định gì thì cứ thế mà theo. Lần đầu tiên trong đời tôi tỏ ra ngoan ngoãn với Chúa. Chắc hồi đó Chúa cười vui rồi.
 
Tôi đi tu. Vào Dòng, tôi được rửa tội lại với đầy đủ ý thức, ý muốn, tự do và lòng yêu mến. Tôi thực sự gia nhập vào đời sống của một Tu sĩ Công Giáo, đó là cầu nguyện và làm việc theo Tôn chỉ Dòng. Tôi yêu mến đời sống tu trì. Bây giờ tình thế đảo ngược rồi : Tôi đi tìm Chúa. Tôi đon đả, háo hức đi tìm Chúa và muốn tận hiến cho Người.
 
Nhưng không, sau một thời gian dài, Chúa lại dọn đường cho tôi đi nẻo khác. Tôi hiểu rằng tôi phải về với gia đình thôi vì bây giờ chính gia đình mới là nơi tôi sống chứ không phải nơi nào khác. (Lần này tôi cũng vâng lời Chúa rất ngoan). Tôi tiếp tục đi tìm Chúa nơi hoàn toàn vô định, đầy rẫy khó khăn chứ không hề êm ả, bằng yên như trong nhà Dòng, nơi có cha tôi đang trong cơn lâm tử, nơi có mẹ tôi vất vả trăm chiều, nơi không có 1 hạt gạo trắng mà chỉ có bo bo, mì sợi, nơi tôi lao động mà chẳng có lương và cần thiết nhất, nơi ấy, những người thân tôi đang xa Chúa. Ước mong sao anh chị em tôi nhận ra tiếng Chúa gọi trong đời, Chúa vẫn đang đi tìm họ, Chúa thương yêu và muốn họ trở về với Người biết bao. Kính xin độc giả, người đọc những dòng tâm tình này, vì cánh đồng của Chúa, xin cho họ một lời cầu. Xin đa tạ.
 
Cảm tạ lòng Thương Xót Chúa một đời con, trăm triệu bài Thánh Ca không nói hết.
 
 Con đã gặp Chúa rồi, xin đừng bao giờ để con xa lìa Chúa nữa.
 
 
Sài gòn, ngày 16 tháng 10 năm 2008.
 
 Kỷ niệm ngày mẹ tôi thuận đến với
 
 Giờ Cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa.
 
 Anne du Saint’ Esprit NGUYỄN HẢI TRIỀU
 
 (Cựu thành viên Ban Thánh Nhạc GP Sài gòn)

Phép lạ: Mẹ Hằng Cứu Giúp che chở


                             PHÉP LẠ: MẸ HẰNG CỨU GIÚP CHE CHỞ

 

 

                                                                                  Kim Nguyễn

Chúa Nhật 11-5-2008 vừa qua, chúng con trong “Hội Bảo Trợ Ơn Gọi Dòng Chúa Cứu Thế” đã được kêu gọi tới để dự phiên họp TỔ CHỨC KỲ 10 cho Tĩnh Tâm 3 ngày hành hương kính Đức Mẹ Hằng Cứu Gíup vào cuối tháng 6 năm 2008 này tại Nhà Dòng Chúa Cứu Thế Houston, Texas.

Sau đó Cha Bề Trên Phụ Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế là Cha Dominic Đinh Minh Hải có bàn một chút về “Căn Nhà Hành Huơng ĐỨC MẸ”. Chúng con được biết phí tổn dự trù khoảng trên một triệu. Lễ đặt viên đá đầu tiên đã khởi sự vào ngày 14-10-2006. Tuy sự trợ giúp của Cộng Đồng Dân Chúa và các cơ sở thương mại cũng khá nhưng cho tới nay vẫn chứa thể tiến hành được vì nguồn tài trợ vẫn chưa đạt đủ tiêu chuẩn. Cha Bề Trên Phụ Tỉnh Đominic Đ- M -Hải đã xin mọi người góp ý tìm cách nào để có thêm được sự đóng góp cho công cuộc xây cất “NHÀ MẸ” được mau chóng hoàn thành hầu giúp khách hành hương khắp nơi về Tĩnh Tâm có chỗ tiện nghi an toàn không sợ mưa gió bão táp làm sập lều như hồi năm 2005.

Cũng chính về vụ Lều bị sập nên Nhà Dòng CCT đã quyết định xây “Đền Mẹ”. Con còn nhớ kỳ hè năm đó, chính là năm 2005. Cũng như mọi năm , hành hương kính Đức Mẹ tại Nhà Dòng Chúa Cứu Thế (Texas) lại được tổ chức. Hôm đó, vào ngày thứ Bảy tức là ngày thứ nhì của “Tĩnh Tâm”. Mưa gió đã bắt đầu từ thứ sáu, sang ngày thứ Bảy thì có vẻ trầm trọng hơn như là bão sắp tới. Con cũng muốn đi tham dự, nhưng vì nhà Dòng xa nhà con khỏang gần 1 giờ lái xe mà khí hậu lại không tốt, đường đi thì trơn trượt, nên con đành ở nhà cầu kinh thôi. Chiều tối có 3 chị trong Hội Đạo Binh Hồn Nhỏ đã kêu điện thoại cho con để báo một hung tin: lều bị sập, làm con kinh hoàng.
Con mường tượng lại chiếc lều khổng lồ này có thể chứa tới cả 1000 người như không.

Hằng năm cứ vào khoảng tháng 6 là có những ngày Tĩnh Tâm kính Đức Mẹ HCG và căn lều lại được dựng lên với biết bao công lao khó nhọc của các Cha, các Thầy trong Dòng và nhiều người trong Cộng Đồng các giáo xứ đã đến giúp. Thật không ngờ, đến kỳ Hành Hương thứ 7 lại xẩy ra chuyện không hay. Cha Bề Trên lúc đó là Cha Châu Xuân Báu đang ở trong Nhà Nguyện khi vừa hay tin không lành liền quì sấp xuống đất đấm ngực ăn năn tội để nài xin Lòng Chúa Thương Xót cùng xin Mẹ đỡ nâng, phù hộ. Nhiều người đã bật lên tiếng than khóc thảm thiết và chạy toán loạn để tìm người thân, cũng như tìm đường về nhà. Thật là hỗn loạn, như sắp tận thế đến nơi.  Nhưng qúa lạ lùng ! Lúc đó, trong Lều với số người khá đông khoảng 300 người và khi gió thổi mạnh , những cây cột gỗ dựng lều chuyển động rồi thình lình đổ ập xuông tứ phía và căn lều siêu vẹo sụp xuống. Ai ai cũng kinh sợ, cho rằng các cây gỗ cao và lớn như vậy mà ngã xuống rồi đè lên đám đông thì chắc chắn sẽ có nhiểu người thiệt mạng, nêú không cũng bị thương tích rất nặng . Nhưng không như mọi ngừơi tưởng . Kiểm điểm tổng quát lại tất cả sau khi biến cố xẩy ra, chỉ có vài người bị sướt da đôi chút là vì xô nhau chạy nên té mà thôi. (Con chỉ nghe có 3 người : 2 người bị trầy da chút xíu và 1 người bị đau cánh tay, thế thôi) không một ai bị nặng cả . Cũng như các nơi dùng cho Cung Thánh, bàn thờ và các dụng cụ âm thanh , đều còn nguyên không hư hại . Một điều nữa là hệ thống dây điện được giăng khắp nơi cho đèn và âm thanh cũng không có dây đìện nào chạm nhau để có thể gây ra hoả hoạn.

Các dụng cụ cũng không bị hư hại gì. Đó là điều mà tất cả mọi người có mặt đều phải tin rằng có “Bàn tay Hiền Mẫu” nhúng vào che chở con cái Mẹ. Nhà Dòng đã dâng Thánh Lễ Tạ Ơn sau đó. Chúng con nghe được chuyện “Lều Sập” và mọi người được an toàn nên đã sấp mình xuống cảm tạ Thiên Chúa và Mẹ vô cùng vì có Mẹ cầu bầu liên lỉ với Chúa nên con cái được bảo vệ cách riêng.

Giờ đây thấy Cha Bề Trên, các Cha và các Thầy lo lắng xin mọi người cầu nguyện và góp ý cho việc tài trợ xây cất ĐỀN MẸ HCG CHÓNG HOÀN THÀNH thay thế cho căn lều đã bị sập. Chúng con chỉ biết ngày đêm cầu xin cùng cố gắng đóng góp trong khả năng mình có thể và kêu gọi kính mời mọi người xa gần hửơng ứng.  Mong rằng có thể đạt được mục đích thiêng liêng mà Nhà Dòng ước nguyện:
*Tổ chức Đại Hội & Hành Hương kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
*Đón Tiếp các cuộc Tỉnh Tâm, Cấm Phòng, các Khóa Giáo Lý, Tĩnh Huấn, Canh Tân Đức Tin cho người lớn & giơí trẻ.
*Tiện dụng cho các hội họp Tông Đồ của mọi đoàn thể Công Giáo và các sinh hoạt văn hóa.
 

Có một điều chúng con cũng xin thưa rõ hơn là hằng năm khách hành hương kéo về Dòng Chúa Cứu Thế không phải chỉ có Giáo Dân khắp nơi, mà còn rất nhiều người ngọai đạo và đã có nhiều người được Chúa ban nhiều ơn qua các linh mục đã xin Mẹ Hằng Cứu Giúp cầu bầu cùng CHÚA như chuyện Bác B. M. trên 70 tuổi, là nhà văn đã đi nhiều nhà thờ để nghe giảng. Cho đến một hôm , bác đến nhà Dòng CCT và được nghe Cha Antôn N-Q-Dũng thuyết giảng, tự nhiên Bác cảm nhận được Tình Yêu tuyệt vời của Thiên Chúa. Bác ra về và đã viết một bài đăng báo về sự cảm nhiệm này. Bác cũng tỏ ý định muốn được làm con cái Chúa. Kính xin mọi người cầu cho Bác và cho dân ngoại. Nếu đúng là Ý Chúa thì Dòng Chúa Cứu Thế sẽ trở thành Trung Tâm Truyền Giáo mạnh mẽ nhất.
 

Chúng con nhớ đến một năm , hành hương kính Mẹ . Đó là năm 2004 cũng chính là năm bão lụt ở Houston,Texas rất nặng. Cha Micae Giuse N-T-Luân từ Nhà Dòng Chúa Cứu Thế ở Long Beach, Cali. đã về Nhà Dòng CCT ở Houston, Texas Tĩnh Tâm, và có nhiều người được ơn chữa lành. Đặc biệt có 1 ngừơi bị tê liệt cả 2 chân , phải ngồi trên xe lăn đã lâu vì các bắp thịt ở chân teo nhỏ lại , được Chúa chữa lành đi lại được, và bắp thịt ở chân đã trở lại bình thường sau khi Cha đặt tay cầu nguyện, trước sự chứng kiến trên 400 người. Ngày hôm sau, con đã tới Nhà Dòng và may mắn tiếp xúc trực tiếp với anh đó, trông anh thật khỏe mạnh, đi lại bình thường.  Kỳ tổ chức Đại Lễ kinh Lòng Chúa Thương Xót 2007. Có một tấm hình chụp khi rước kiệu, khi rửa ra thì thấy hình có 2 luồng ánh sáng đỏ và trắng chiếu từ trời xuống trên đoàn người đi rước chỗ Cha PhaoLô Ng-v-Thạch. Còn nhiều dấu lạ khác nữa nếu có dịp chúng con xin chia xẻ sau.

Riêng chúng con trong Hội Đạo Binh Hồn Nhỏ cũng xin cảm tạ về muôn Hồng Ân Chúa ban xuống cho mọi người và cho chúng con qua các Linh mục đã xin Mẹ HCG cầu bầu.
*** Năm nay,cuối tháng 6(27, 28, 29) năm 2008, lại một lần nữa , cha Micae-Giuse N-T-Luân về thuyết giảng với đề tài “ĐỨC MẸ THƯƠNG XÓT”, và đặt tay cầu nguyện xin Thiên Chúa chữa lành phần hồn, phần xác. Xin thông báo tới toàn thể Cộng Đồng Dân Chúa xa gần.

Sau đây , con xin trích một đọan các Cha Nhà Dòng đã kêu mời đóng góp như sau:
YỂM TRỢ XÂY DƯNG NHÀ HÀNH HƯƠNG DÂNG KÍNH ĐỨC MẸ HẰNH CỨU GIÚP
Xin Qúy Vị rộng rãi hổ trợ chúng tôi xây dựng Mái Nhà Hành Hương Tôn Kính Mẹ Hằng Cứu Giúp và phục vụ nhu cầu tâm linh cho mọi giới đoàn chiên Chúa. Qúi Ân Nhân Nhà Mẹ sẽ được hưởng quyền lợi thiêng liêng gồm Thánh Lể và lời khẩn cầu chúng tôi dâng mỗi ngày tại Nguyện Đường Mẹ HCG, theo ý chỉ đặc biệt của Qúi Vị.

Chính vì vậy kính xin Quí Cha , Quí Tu Sĩ và Cộng Đồng Dân Chúa dâng lời cầu xin cho “ĐỀN MẸ” được thành hình mau chóng.
Rất mong ý kiến xây dựng, cầu nguyện và lòng hảo tâm đóng góp của tất cả Qúi vị khắp nơi .
Kính chúc Qúi Cha, Qúi tu sĩ và Quí vị hồn an xác mạnh trong Chúa và Mẹ

Mọi chi tiết và yểm trợ, xin vui lòng gởi thẳng về:
DÒNG CHÚA CỨU THẾ TẠI HOUSTON , TEXAS
3417 W. Little York St. Houston , TX 77091
Phone: (713) 681-5144

Số không trong Hội Đaọ Binh Hồn Nhỏ
Kim Nguyễn

                                                                                                           

Chúa đã biến đổi cuộc đời của tôi

                             Chúa đã biến đổi cuộc đời của tôi 

                                                                                       Maria Thanh Nguyễn

 Tôi tên là Maria Thanh Nguyễn xin làm chứng và chia sẻ, về những ơn Chúa Thánh Thần đã biến đổi con người và chữa lành bệnh tật cho tôi.  Nhờ những lần đi Tĩnh Tâm CTDS, Chúa Thánh Thần đã dạy cho tôi biết nhận ra ý nghĩa của một cuộc sống làm người Kitô. Tôi luôn đọc chuỗi Kính Lòng Chúa Thương Xót lúc 3 giờ, năng xưng tội và đi Lễ hàng ngày, lúc trước tôi không bao giờ đi Lễ ngày thường.

Sau ngày 30 – 4 -1975, chúng tôi cũng chung một số phận nước mất nhà tan, nhà tôi ở trong quân đội phải đi trình diện và không thấy về.

 Lúc ấy tôi mang thai được hơn 3 tháng, đang sống hạnh phúc, nay còn một mình trong căn nhà của gia đình tôi.  Mãi gần 4 năm sau, nhận được thư của nhà tôi từ miền Bắc gửi về, tôi lo đưa con đi thăm chồng. Gặp mặt và nói chuyện chừng 20 phút là hết giờ, cha biết mặt con gái đầu lòng, bao nhiêu năm xa cách, bao nhiêu chuyện muốn nói mà không nên lời.

 Hơn 7 năm chờ đợi nhà tôi cũng được về với gia đình, chúng tôi có thêm 1 cháu trai và chờ đoàn tụ với gia đình, bất ngờ nhà tôi phát bệnh, những chứng bệnh ảnh hưởng thời gian tù đày , thiếu thốn nơi rừng thiêng nước độc. Anh đã bỏ lại tất cả, ra đi một mình.

 Rồi mẹ con tôi cũng được bảo lãnh sang Mỹ, tôi cứ tưởng Mỹ là thiên đàng như mọi người ở VN đều nghĩ vậy, sang đến nơi mới thấy trở ngại đủ thứ, thời tiết thì khắc nghiệt. Gia đình tôi ở miền Bắc nước Mỹ mùa đông thì dài, mùa hè rất ngắn. Các cháu đi học, còn tôi thì thầy chẳng ra thầy, thợ chẳng ra thợ, tôi chán nản và chỉ muốn trở về VN, nhưng biết có về cũng không được sống an lành, nghĩ đến tương lai các con nên tôi ở lại. Từ đó tôi lạnh nhạt và xa Chúa, rồi bao nhiêu chuyện xảy ra cho gia đình, tôi đã oán trách và còn có ý định bỏ Chúa nữa, lúc đó tôi chỉ biết oán trách, mà không nghĩ đến mình là kẻ tội lỗi, vô ơn bội nghĩa. Nhưng Thiên Chúa đầy lòng nhân hậu, đã tha thứ hết lỗi lầm, Ngài luôn đồng hành che chở và gìn giữ chúng ta.

Năm 2001 con gái tôi đi học về lái xe đường trơn tuyết đụng vào thành cầu, xe hoàn toàn hư.  Hai năm sau, con trai tôi vì lái xe nhanh đụng vào những thanh sắt mà người ta để vào những khúc đường quanh co, xe lật nhiều vòng thành 1 đống sắt.  Chúa đã bảo vệ, gìn giữ các cháu không bị thương tích gì, một phép lạ rõ ràng, tôi cũng chỉ biết cảm tạ Chúa, đi tạ ơn nhưng rồi lại quên, vẫn không thay đổi đời sống của mình.

Cũng trong năm này trong gia đình tôi lại xảy ra chuyện buồn nữa, tôi đau khổ đến tận cùng gần ngã gục, tôi đã chạy đi xin khấn khắp nơi. Chúa đã nhẹ nhàng đưa tay đỡ tôi lên, và cứu chúng tôi.  Ngài thật là tuyệt vời, đã làm những điều kỳ diệu, và bao ân sủng Ngài đã thương ban cho chúng tôi. Gia đình con muôn đời cảm tạ Chúa, chúng con nguyện yêu Chúa với hết cuộc đời còn lại của chúng con.  Muôn đời cảm tạ Chúa đã cho con cơ hội ăn năn sửa lỗi lầm , thay đổi đời sống, nhờ những lần đi Tĩnh Tâm do cha Phêrô Nguyễn Đức Mầu hướng dẫn, Chúa Thánh Thần đưa cha về nhà thờ St Helena ở Philadelphia, Pa. Hôm đó tôi đi cùng vợ chồng người em gái, cô ấy đã đi khóa ở CA. Còn tôi thì mới đi lần đầu, thật sự cũng vì tò mò mà đi, nhưng Chúa Thánh Thần đã đến và thanh tẩy tôi, rồi những khóa kế tiếp, qua bàn tay cha Mầu, Chúa Thánh Thần đã chữa lành bệnh đau bao tử, và tay phải của tôi đã hết đau.

 Nhờ những lời dạy dỗ của Cha mà chúng tôi biết mở lòng ra, thương yêu chia sẻ với mọi người, biết đọc kinh Phụng Vụ, Thánh Kinh. Ngày trước không bao giờ tôi đọc vì mỗi lần mở sách thấy chữ nhiều chi chít nên ngại lắm, rồi lại bỏ, bây giờ tôi đọc say mê mà chỉ sợ hết, nên phải đọc từ từ. Tôi biết đọc chuỗi Kính Lòng Chúa Thương Xót, và thích nghe những bài hát Thánh Linh, mở mắt ra là hát cả ngày, các con tôi nói ” mẹ lúc này vui vẻ yêu đời qúa”, tôi nói với các cháu “Phải luôn nhớ cảm tạ Chúa, vì bao nhiêu ơn lành Ngài đã thương ban cho chúng ta”.  Chúng con cũng cảm tạ Chúa đã ban cho Giáo Hội có nhiều nam nữ Tu Sĩ, Kitô hữu tài giỏi sáng tác ra những bài Thánh Ca tuyệt vời đầy ý nghĩa, đánh động những tâm hồn chai đá, làm thay đổi đời sống nhiều người.

Chúa Thánh Thần cũng đã đưa cha Mầu về Giáo Xứ chúng tôi ở Pennsylvania. Sau 3 ngày Tĩnh Tâm như luồng gió mới của Chúa Thánh Thần thổi đến cộng đồng, rất nhiều người được chữa lành, và thay đổi đời sống Tâm Linh, cộng đồng tôi đã có 2 người xin vào đạo. Cha còn lập nhóm cầu nguyện Betania (Canada), nhóm Phoenixville, Philadelphia bây giờ lại có thêm nhóm Lòng Chúa Thương xót ở NJ.

Chúng con cám ơn cha, cám ơn các anh chị trong nhóm Betania lúc nào cũng sát cánh, đã không ngại đường xa, đi giúp cha tĩnh tâm ở khắp nơi, kể cả VN và Âu Châu, các anh chị đã bỏ công ăn việc làm và bỏ cả tiền túi để làm phương tiện di chuyển. Xin Chúa ban nhiều ơn lành cho cha và các anh chị.

Nay tôi đã dọn về Oklahoma, nhưng vẫn liên lạc với các em để biết về sinh hoạt của các nhóm, và những lần cha về Tĩnh Tâm, rất tiếc vì không có cơ hội đi nhiều như hồi còn ở bên đó. Tôi nhận thấy tất cả anh chị em trong các nhóm Thánh Linh đều dễ thương, ai cũng có lòng bác aí hi sinh và luôn nghĩ đến những người khác.  Mới về Ok tôi buồn và nhớ những lần được đi Tĩnh Tâm, cảm tạ Chúa nay tôi đã gặp được các bạn cùng chung một chí hướng. Chúng con xin cảm tạ chúc tụng, tôn vinh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần, đã thương yêu và biến đổi cuộc đời chúng con.  

 Và sau hết, Đấng mà chúng con luôn kính mến là Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh Vô Nhiễm Nguyên Tội, là Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ của chúng con, xin ấp ủ chúng con trong vòng tay yêu thương của Mẹ. Lạy Nữ Vương Thiên Đàng xin nhận nơi đây lòng yêu mến chân thành của chúng con.

 Maria Thanh Nguyễn, OK

NIỀM VUI VÀ HẠNH PHÚC KHI TIN NHẬN CHÚA GIÊSU

CÁM ƠN ĐỨC CHÚA JESUS VÌ NGÀI ĐÃ CỨU CHUỘC TÔI

                                                                                          Thắng Cung – California

Tôi không bao giờ quên được ngày ấy 14 tháng 9 năm 1986, khoảng 11 giờ sáng tôi chơi tennis với một người Mỹ, ông Al Buabier.  Sau 1 tiếng đồng hồ hai bên quyết hạ nhau, chúng tôi mệt nhoài, toát mồ hôi ngồi nghỉ mệt và có dịp tâm sự với nhau. Tôi chia sẻ với Al về cuộc đời của tôi.  Sinh ra và lớn lên trong một gia đình Phật giáo tại Việt Nam, học hết bậc trung học tôi được động viên vào trường bộ binh Thủ Đức.  Sau đó tôi đã tình nguyện vào binh chủng Thủy Quân Lục Chiến chiến đấu với cộng sản Bắc Việt, đến cuối tháng 3 năm 1975 bị thương và bị bắt nhốt tù đến cuối tháng 3 năm 1977 được phóng thích về Sài Gòn. Năm 1981, tôi vượt biên tới Nam Dương, sau đó định cư tại Hoa Kỳ…

Ông Al nhìn tôi với vẻ thương xót rồi nói (tất nhiên bằng Anh ngữ) “ông cần Chúa Jesus.  Chúa nói “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ…” Ông đến với Chúa đi.”  Tôi hỏi lại ông “Đến với Chúa, nghĩa là gì?”  Ông AL nói ”Nếu ông thực sự muốn biết, hãy gặp tôi tại nhà thờ của tôi lúc 6 giờ rưỡi chiều.  Bây giờ tôi về nhà cầu nguyện cho ông.”  Sau đó chúng tôi chia tay.

Tôi về nhà và nôn nao trong lòng cách lạ kỳ.  Tôi muốn sớm được gặp lại ông Al tại nhà thờ.  Lúc ấy “thì giờ không phải như tên bay” mà là như rùa bò nhưng rồi cũng tới lúc.  Tôi đến nhà thờ của Al khoảng 6 giờ chiều, Al đã có mặt ở đó.  Ông bắt đầu giải thích cho tôi “đến với Chúa” nghĩa là “tin rằng Chúa Jesus là con của Đức Chúa Trời hằng sống” và “tiếp nhận Ngài là Cứu Chúa của mình.” Rồi ông giải thích cho tôi sự cứu rỗi của Chúa Jesus.  Ngài là Đức Chúa Trời thành nhân chịu chết trên thập tự giá để chuộc tội cho nhân loại.  Vì mọi người đã phạm tội…Chỉ một mình Ngài là Đấng Cứu Thế mới có thể chuộc tội cho họ….v..v..

Sau đó ông hỏi tôi có công nhận mình là một tội nhân không?  Với sự thành tâm ăn năn tôi trả lời : Yes!  Ông hỏi tiếp tôi có muốn tiếp nhận Chúa Jesus là Cứu Chúa của mình không?  Với lòng khao khát ước mong tôi trả lời:  Yes!

Cảm tạ Đức Chúa Trời, Ngài đã ban cho tôi một đức tin như một trẻ thơ, những giây phút đó tôi đã không hoài nghi hay thắc mắc chi cả.  Sau đó Al nắm tay tôi và hướng dẫn tôi cầu nguyện tin nhận Chúa, mời Ngài làm chủ đời tôi và Cứu Chúa của tôi.

Sau đó chúng tôi chia tay, Al tặng tôi một cuốn NIV Kinh Thánh, và một cassette tape loại “Praise The Lord – Ca ngợi Chúa”.  Tối hôm ấy, mở cassette tape nghe bài “Jesus! What a wonder You are!’’ tôi vô cùng xúc động. Tôi nghe đi nghe lại nhiều lần, tôi đã khóc nức nở vì quá sung sướng, vì tội lỗi đã được tha thứ và linh hồn đã được cứu rỗi, được làm con Đức Chúa Trời toàn năng.  Cảm tạ Chúa, Ngài đã tái sinh tôi, tái tạo tâm linh tôi… Ngợi khen Chúa.  Hallelujah!!!

CÁM ƠN ĐỨC CHÚA JESUS VÌ NGÀI ĐÃ VÀ ĐANG THÁNH HÓA ĐỜI TÔI.

Sau khi đã cứu chuộc tôi, chọn lựa tôi là con của Ngài, quyền năng của Chúa đã làm cho tôi không còn đam mê thế gian này, và làm cho tôi say mê lời Ngài.  Lời Chúa qua Kinh Thánh soi sáng tôi (open my mind), giúp tôi xa lánh tội lỗi, sống một cuộc đời thanh khiết đẹp lòng Chúa.  Chúa biến đổi tôi rất nhiều, điển hình như ”bỏ hút thuốc lá’’, khi chưa biết Chúa tôi rất ghiền và hút rất nhiều.  Đã hai lần bỏ vì biết thuốc lá rất hại, xong chỉ bỏ được ít lâu rồi hút trở lại và khi hút thì lại hút gấp đôi.  Nhớ lời Chúa nói rằng… Thân thể chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Linh…

Tôi cậy ơn Chúa và cầu xin Ngài giúp “bỏ hút thuốc” cách tự do (1986).  Tới nay không bao giờ hút trở lại. Bây giờ mùi khói thuốc làm tôi rất khó chịu.  Đồng thời tôi cũng bỏ ruợu, bia… ngoài ra từ một con người tham danh, ham lợi, tham quyền Chúa đã khiến tôi chẳng còn ham hố cái gì nữa của cuộc đời tạm này mà chỉ còn ham Chúa mà thôi.  Khi trước tôi hay nóng nảy, hay sân-si.  Ngày nay Chúa làm cho biết khiêm tốn, thích nhu mì.  Thế  là tam độc “Tham—Sân—Si” lúc còn là một Phật tử tôi đã cố gắng bỏ mà không được, nay nhờ ơn Chúa “tam độc” không còn nữa… cũng như “tư vô lương tâm: từ bi hỉ xả.”  Trước kia muốn thực hiện nhưng khó quá, ngày nay bởi ơn Chúa, cùng bước với Ngài mỗi ngày, thực hiện “tư vô lương tâm” trở nên dễ dàng và nhẹ nhàng.  Cám ơn Chúa!  Chúa khiến tôi yêu tha nhân hơn vì có tình yêu của Chúa ở trong lòng, Chúa biến đổi nhiều lắm đến nỗi bạn bè của tôi nói rằng con người tôi khi xưa và ngày nay như hai mặt của bàn tay.  Chúa làm cho tôi ngày càng trở nên giống như Ngài… Tạ ơn Chúa!  Hallelujah !!!

CÁM ƠN ĐƯC CHÚA JESUS VÌ NGÀI ĐÃ CHỮA LÀNH BỊNH CỦA TÔI.

Thời gian ở trong tù cộng sản (1975-1977) tôi đã bị bịnh “đau cột sống” vì hằng ngày phải vào rừng chặt cây, phải vác những khúc cây thật nặng và di chuyển thật xa.  Sau khi được phóng thích tôi đã đến nhiều bệnh viện ở Việt Nam để chữa trị (bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn, Phan Thanh Giản..vv..) nhưng chỉ tiền mất, tật mang.  Sau đó tôi đổi sang Đông Y, uống thuốc bắc và nhờ các thầy châm cứu nhưng cũng không thuyên giảm chút nào.  Đến khi qua Mỹ được chữa trị bằng phương pháp vật lý trị liệu, bằng chiropractic nhiều nơi nhiều lần cũng không khá gì hơn.

Sau khi được biết Chúa, tôi đã cầu khẩn Ngài chữa bịnh cho tôi, vài tháng sau đó bịnh ‘’đau cột sống’’ đã tiêu tan một cách kỳ diệu.  Cùng năm đó (1986) bao tử tôi bị loét (ulcer) bác sĩ gia đình gởi đi X-Ray và thử phân (phân có máu) qua các kết quả đó bác sĩ đề nghị tôi đi giải phẫu nhưng tôi đã từ chối và cầu nguyện xin Chúa chữa bịnh.  Vài tuần sau triệu chứng đau bao tử không còn nữa.  Tôi báo cáo cho bác sĩ, ông gởi đi X-Ray trở lại, kỳ diệu thay vết loét không còn nữa, bác sĩ nói đúng là phép lạ!  Quả thật “Ngài là Jehovah Đấng Chữa Lành tôi!”  Ngợi khen Chúa.  Hallelujah!!!

CÁM ƠN ĐỨC CHÚA JESUS VÌ NGÀI LÀ ĐẤNG CHĂN DẮT TÔI.

Chúa đã tạo dựng nên tôi, Ngài có một chương trình cho đời tôi.  Trong thời gian chiến tranh tại chiến trường Quảng Trị nơi tuyến đầu lửa đạn, thời kỳ “Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972 đơn vị chúng tôi đã tái chiếm “cổ thành” khi là quốc kỳ được cắm tại cổ thành thì rất nhiều đồng đội của tôi đã nằm xuống, nhưng Chúa đã thương xót tôi, gìn giữ mạng sống tôi, đến “Tháng Ba Gẫy Súng” (3/1975) vì Mỹ bỏ Việt Nam, Tổng thống Thiệu bán nước chúng tôi phải rút lui khỏi vùng một, đơn vị tôi bị tan rã, tôi bị thương và bị việt cộng bắt, tôi đã toan tự sát để khỏi rơi vào bàn tay cộng sản nhưng không thành.  Trong trại giam lúc quá tuyệt vọng tôi đã rủa xả Hồ Chí Minh để cho bọn việt cộng bắn tôi vì nghĩ rằng biết đâu chết sẽ hóa kiếp khác đỡ khổ hơn.  Ba bộ đội cộng sản đã bao vây tôi , dí AK50 vào người tôi, vào đầu tôi…nhưng một cấp chỉ huy đã ra lệnh “Đừng bắn!  Nó điên rồi!”  Thế mới biết mỗi người sanh ra đều phải một lần chết, khi nào chết?  Chúa là Đấng tạo dựng con người, Ngài định đoạt đời sống con người. Khi Ngài đã gọi về muốn ở thêm một giây trên cõi đời này cũng không được.  Khi Ngài gọi, muốn giã từ thế gian một phút sớm hơn cũng không xong.

Đó là trường hợp của tôi…. Tôi cảm tạ Chúa!  Nhưng lần đó nếu tôi đã chết nhưng không có Chúa Jesus là Cứu Chúa của tôi thì tôi có thể phải ở trong “hỏa ngục” đời đời.

Nhưng phước hạnh thay!  Chúa cho tôi còn sống, cho tôi được biết Ngài, được làm con của Ngài để rồi những ngày còn lại trong cuộc đời, hàng ngày, được tương giao với Chúa qua việc đọc Kinh Thánh và cầu nguyện, hằng tuần (mỗi Chúa Nhật) được thờ phượng Chúa với các anh chị em cùng niềm tin, được sống làm vinh hiển danh Chúa.  Ôi!  Sung sướng làm sao.  Tôi không thể nào diễn tả được phước hạnh bằng lời nói vì đó là một cảm nghiệm trong nội tâm.  Sung sướng nhất là được rao truyền ơn cứu rỗi của Chúa Jesus cho người khác, được “Chúa tái lâm” đem về nước vinh hiển của Ngài để đời đời được tôn vinh Chúa, thờ phượng Ngài.

“Ôi ! Thật là một ” Ân sủng diệu kỳ”!  Cảm tạ Chúa!

HALLELUJAH! HALLELUJAH! HALLELUJAH!….. AMEN.

Qua lời chứng này tôi ước ao và cầu nguyện rằng quý vị nào có dịp đọc lời chứng của tôi nhưng chưa tin nhận Chúa Jesus là Cứu Chúa của mình, xin hãy “đến với Chúa”, mời Ngài ngự vào lòng mình, làm chủ cuộc đời mình, chắc chắn quý vị sẽ kinh nghiệm quyền năng tái tạo của Đức Chúa Trời trên đời sống mình.  Ngài sẽ ban cho quý vị một cuộc đời mới vô cùng ý nghĩa và một sự sống mới–Sự sống đời đời— Amen.

Thắng Cung – California
www.thanhlinh.net

Cảm tưởng của một cựu tân tòng.

Cảm tưởng của một cựu tân tòng.

Kính thưa Cha Quản Nhiệm,

Kính thưa các bạn Tân tòng và Quí vị đọc giả rất quí mến,

Khi con ghi lên những cảm tưởng này, không phải để tự đề cao mình, nhưng chỉ vì một lý do duy nhất là để cảm tạ Chúa vì muôn ngàn ơn phúc Chúa đã ban xuống cho chính con cũng như gia đình con.

1. Cảm tưởng trước khi theo đạo:

 

Trước đây con là một người lương dân không biết Chúa là ai, mà tính tình con lại ngang bướng và  nóng nảy, điều gì con đã không thích thì khó mà thuyết phục được.Lúc 18 tuổi khi con quen biết một cô gái, tính tình nhỏ nhẹ, dễ thương, và con đã đem lòng luyến ái và tỏ ý đi đến hôn nhân. Nhưng ngặt một điều: gia đình con rất sùng Phật, mà người bạn gái con lại rất sùng kính Chúa.  Dầu mở thì có thể ép được nhưng nợ duyên làm sao ngăn cản được. Kết quả chúng con đã đi đến biện pháp: xin phép chuẩn., đạo ai nấy giữ và chúng con đã tổ chức đám cưới lúc con lên 19 tuổi.

Trước khi làm đám cưới con hứa với Cha chủ lễ là con để cho vợ con tự do giữ đạo và sinh con ra sẽ cho chịu phép Rửa tội. Nhưng sau khi cưới xong thì trái hẳn, nên hai con trai của con đã lên 10 và 12 tuổi mà vẫn chưa được Rửa tội. Vợ con phải đi lễ chui. Vợ con vẫn kiên trì giữ đạo và cầu nguyện cho con.

Dù con chưa muốn theo đạo, nhưng con vẫn tin vào Chúa vì thế trước khi đi vượt biên, con đã nguyện xin cùng Chúa và cầu xin cùng Thánh Martinô de Pores tại nhà thờ Ba Chuông, nghĩa là con đã chọn Thánh Bổn mạng cho con từ lúc đó.

Đến năm 1979 gia đình con vượt biên qua đảo và đến Canada bình yên. Một ơn lạ đã đánh động lòng con khi con thấy biết bao kẻ đi vượt biên đã bỏ mình trên biển cả, gia đình con lại được đoàn tụ trọn vẹn, và khi đến trại tỵ nạn, con thấy người lương cũng như người đạo khắc bản “Tạ ơn” gắn đầy vách tường. Những điều đó làm con suy nghĩ rất nhiều. Vì thế, sau khi đến Canada, con bắt đầu tìm hiểu đạo. Mới đầu mỗi tuần con làm việc 7 ngày, sau đó con làm việc 6 ngày.  Mỗi Chúa Nhật con đều dẫn vợ và các con đi lễ. Sau đó hai con trai của con được lảnh nhận bí tích Thanh tẩy.

Trước ngày lễ Tôn phong các Thánh Tử Đạo Việt Nam 19-6-1988, được ơn Chúa thôi thúc con đã đi qua Rôma để dự lễ Phong Thánh. Con chứng kiến nghi thức quá trọng thể, đầy cảm động và sự uy hùng của Giáo hội Công giáo làm cho đức tin của con thêm vững mạnh. Sau đó con đi qua Pháp để viếng thăm Lộ Đức, nơi Đức Mẹ hiện ra năm 1858 và Đền thờ kính Bà Thánh Têrêsa Hài Đồng GiêSu tại Lisieux. Khi đến đây dự lễ con thấy mọi người đều sốt sắng lên rước lễ, duy mình con là người Việt, lại là lương dân nữa, con nghĩ rằng, những người này lên rước lễ họ sẽ được nhiều ơn lành, do đó, mặc dầu là người lương nhưng con cũng lên rước lễ, vì hy vọng được nhiều ơn Chúa để chống trả các tính xấu.

Sau khi trở về lại Toronto, sự quyết định theo đạo của con trở thành mạnh mẽ. Vào tháng 6 năm 1993, sau khi nghe tin Khóa Song nguyền của Chương trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình do Cha Chu Quang Minh phụ trách, hai vợ chồng chúng con cùng tham dự. Trong ba ngày học hỏi con tiếp thu được nhiều điều, hay nhất là được Chúa cải hóa lòng con và con đã xin nhận bí tích Rửa tội.

Ngày hồng phúc đã đến với con: Thứ tư ngày 16-6-1994, con được diễm phúc lảnh nhận bí tích Rửa tội bởi Cha Phêro Chu Quang Minh và Cha Giuse Trần Xuân Lãm với sự tham dự của anh chị em trong Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình. Từ giây phút này, con cảm nhận rằng: Chúa thương con quá nhiều, mặc dầu trước đây con xem Chúa như là người xa lạ, đôi khi con còn chống lại Chúa nữa. Nhưng Chúa vẫn kiên tâm chờ đợi sự đáp trả của con. Hôm nay đây lòng con tràn ngập vui mừng vì đã được chính thức trở thành con cái Chúa, tên tuổi con đã được ghi vào sổ sách của Hội Thánh. Một người khác vui mừng không kém hơn con đó là Anna Đinh thị Nhu, một người vợ đã nhẫn nhục hơn 30 năm để cầu nguyện cho con, bà vui mừng đến nỗi nước mắt trào dâng, vì Chúa đã nhận lời bà khấn nguyện. Chúng con muôn đời xin tạ ơn Chúa.

2- Cảm tưởng sau khi theo đạo:

 

Trước đây con hung hăng khó tính với vợ con bao nhiêu thì bây giờ con lại nhẹ nhàng với vợ con bấy nhiêu. Con không còn cấm vợ con đi lễ mà trái lại con nhắc nhở vợ con đi lễ. Nhờ ơn Chúa con tham dự các ngày lễ Chúa Nhật và ngay cả ngày thường khi rảnh con vẫn đi lễ sáng. Con về thăm Việt Nam 4 lần, suốt cả tuần, con đều thức dậy sớm để đi lễ vì con đã hiểu được ý nghĩa cao trọng của Thánh lễ Misa.

Từ ngày con qua Canada đến nay Chúa ban cho gia đình con bình an, cuộc sống được ổn định. Đặc biệt Chúa ban cho chúng con thêm một cháu gái nữa. Cháu này sinh ra đã được làm con Chúa rồi. Cho đến nay gia đình đã có được hai con trai đã ra trường và cháu gái sắp vào trung học.

Điều làm con ngạc nhiên nhất là tính con nóng nảy, bướng bỉnh, khô khan như vậy đó thế mà Chúa đã uốn nắn con thành người mềm mỏng, biết phục thiện. Từ đó con xác tín rằng dù là người khô khan nguội lạnh và cố chấp đến đâu Chúa cũng cải hóa được, nếu ai biết tìm đến với Ngài.

Nhân dịp này con xin chân thành cám ơn quí vị ân nhân đã giúp con trong cuộc hành trình tìm kiếm Chúa. Con xin cám ơn quí Cha, cha mẹ đôi bên, cha mẹ tinh thần, các anh chị trong gia đình Thăng Tiến Hôn Nhân đã nâng đỡ tôi từng bước trên con đường tìm đến Chúa, đặc biệt tôi xin cám ơn người vợ hiền của tôi, bà hiểu tôi hơn ai hết. Bà đã chịu đựng tính tình của tôi và kiên trì cầu nguyện cho tôi hơn 30 năm qua. Tôi nghĩ rằng sự hy sinh và kiên nhẫn của nhà tôi mà Chúa đã hoán cải con người của tôi. Tôi thành thật xin lỗi và cám ơn nhà tôi. Xin Thiên Chúa trả công bội hậu cho tất cả quí vị ân nhân đã làm ơn cho tôi.

3- Đôi lời tâm sự với anh chị em tân tòng:

 

Các bạn tân tòng thân mến,

Trong tình bạn tân tòng với nhau, tôi thành thật chia sẻ cùng các bạn một vài tâm tình. Chắc các bạn cũng như tôi, làm sao chúng ta quên được những giây phút linh thánh và đầy cảm động của ngày chúng ta được lảnh bí tích Rửa tội. Chính ngày đó song thân của chúng ta, cha mẹ đỡ đầu, anh chị em hoặc chính vợ chồng hay con cái của chúng ta cùng nhau chung vui tiệc mừng và chụp hình kỷ niệm vì đó là ngày đại hỷ của chúng ta.

Thưa các bạn, quả thật, chúng ta là những người được diễm phúc vì một chuỗi thời gian khá dài chúng ta không biết Chúa là ai! Thế nhưng Chúa vẫn chờ đợi chúng ta và gọi chúng ta vào làm vườn nho của Ngài lúc trời đã xế bóng. Cuối cùng Ngài vẫn trả cho chúng ta “Một đồng”giống như những người khởi công từ lúc sáng sớm. Phải chăng Ngài đã quá yêu thương và ưu đãi chúng ta.

Hạnh phúc được làm con Chúa thật quá lớn lao, không biết lấy gì sánh ví. Chắc các bạn còn nhớ rõ những tư tưởng đã học trong lớp: Tất cả những chức tước ở trần gian này, không có chức tước nào lớn lao và cao trọng bằng tước hiệu người Kitô hữu. Chúng ta đã được diễm phúc đó.Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta luôn yêu quí danh hiệu đó và cố gắng sống xứng đáng một người Kitô hữu đúng nghĩa. Đó chính là nguyện ước của anh chị em tân tòng chúng ta.

Kính thưa quí Cha và quí đọc giả, đó là những tâm tình, cảm nghĩ phát xuất tự đáy lòng con xin được chia sẻ với mọi người để chúng ta cùng nhau dâng lên Thiên Chúa lời ngợi khen, cảm tạ vì lòng Chúa yêu thương nhân loại vô cùng.

Ngày 6-8-1999

Martinô Trần văn Dần

Lời chứng của Maria Phạm

ĐAU KHỔ TRONG ÂN PHÚC

Lời chứng của Maria Phạm

             Nghe ra thật nghịch lý và thật khó để chấp nhận là bây giờ, với cái tuổi đời 50 của tôi, mới thật sự cảm nhận được tất cả.   Cuộc đời trải qua của tôi quả là một phép lạ.   Tôi được sinh trưởng trong một gia đình thật đạo đức và được cha mẹ thương yêu một mực giáo dục con cái rất cẩn thận, nên nhờ thế mà khi lớn khôn tôi có được một đức tin thật vững vàng và có nền tảng.   Ấy thế mà vì để có một việc làm trong thời bao cấp, tôi ngang nhiên từ chối Chúa, tôi cũng giống như Thánh Phêrô chối Chúa thuở xưa vậy!   Đồng thời, trong suốt thời gian ấy bao nhiêu năm trời dài đằng đẵng ấy, tôi đã bỏ đạo, để phấn đấu, để được tiếng khen tặng của người đời, và trong tôi dần dần đã quên Chúa.   Cuộc sống cứ thế êm đềm trôi qua bao nhiêu năm tháng, và Chúa vẫn lặng lẽ sống trong tôi; Ngài đang chờ đợi tôi!?  Tưởng chăng cuộc đời nếu cứ mãi cho tôi hạnh phúc, nhưng chẳng được gì ngoài những bất công, dối trá, và tất cả sống như sẵn sàng dẫm đạp lên nhau trong công việc và trong cuộc sống ngày lại ngày.   Tôi bắt đầu cảm thấy bất mãn và chán nản.   Sau đó, tôi bỏ nhiệm sở vào thành phố, bỏ lại sau lưng bao mơ ước bao kỳ vọng, và tôi đã lập gia đình khi đã được 23 tuổi đời.   Chồng tôi lại là người ngoại đạo.   Chúng tôi đến với nhau và ăn ở với nhau một cách tự nguyện, không có đám cưới, cũng không có đám hỏi, và cũng không ai chứng dám.  

Tôi cho đó là định mệnh của cuộc đời đưa đẩy!?  Tôi làm dâu trong một gia đình có tất cả 4 người con.   Chồng tôi lại là con trai trưởng trong gia đình chồng.   Vô phước cho tôi, anh là một người đàn ông có tính rất trăng hoa.   Anh luôn sẵn sàng đánh đập tôi nếu tôi phản đối việc làm sai quấy và tội lỗi của anh ấy!    Tôi đã sống trong những tháng năm đau khổ của cuộc đời làm thân phận đàn bà và làm vợ.   Thật tuyệt vọng cho tôi, và thật tội nghiệp cho tôi, là có những lúc tôi chỉ còn nghĩ đến chuyện tự huỷ cuộc đời mình, hy vọng rằng tôi có thể thoát được cuộc đời phiền khổ và hệ lụy không hy vọng, không tia sáng, không lối thoát này chăng!?  Nhưng bởi tình mẹ quá bao la, thương con mình sẽ không có ai trên đời đùm bọc và che chở, nên tôi đã cố gắng sống trong chịu đựng, trong nhục nhã, và trong ê chề.  

Cuộc sống của tôi cứ thế từng ngày trôi qua trong nặng nề, cho đến một ngày sự chắt chiu của tôi, đã giúp tôi mua được cho mình một căn nhà.   Nói là nhà cho nó sang, chứ nó chỉ là nền đất, vách là xi măng được trộn với báo, bên trên che nắng che mưa bằng mái tôn.   Dẫu sao tôi cũng có được một nơi riêng cho mẹ con tôi, có chỗ trú ẩn chui ra chui vào của riêng mình.   Trong suốt thời gian này, tôi vẫn bỏ Chúa.   Tôi vẫn can đảm chịu đựng những trận đòn nhừ tử của chồng tôi những lúc ổng về trong say xỉn, vẫn triền miên đổ xuống trên thân thể ốm o của tôi.   Đã bao nhiêu trăm lần tôi có ý định bỏ nhà ra đi, nhưng rồi còn đi đâu cho được khi đã có 2 con cùng chồng.   Đã thế sau đó tôi lại phải hứng chịu cảnh chồng tôi bị thất nghiệp, gia đình chúng tôi bị bế tắc trong cảnh thiếu thốn, khó khăn, và khốn khổ, nhất là thương cho 2 con của tôi.   Nên tôi đã chịu khó tìm đến những nơi nào mà có người chỉ cho tôi biết là linh thiêng, tôi sẽ tìm mọi cách để chạy đến mà khấn nguyện, mà xin van, mà khóc lóc, nhưng mãi lâu tôi vẫn chẳng thấy được gì?.
Nhưng bỗng vào một đêm thật khuya trong giấc chiêm bao, tôi đã được diễm phúc mơ thấy Mẹ Maria.   Tôi chợt tỉnh thức và đã khóc như mưa vì được Mẹ cho thấy như được Mẹ nhắc nhở, và như người vừa mới được hồi sinh sau một cơn bạo bịnh.   Sáng hôm sau, tôi đã dùng xe đạp của tôi tìm đến nhà thờ FATIMA quỳ dưới ảnh Mẹ.   Được khóc với Mẹ và xin với Mẹ tha thứ bao nhiêu tội lỗi của tôi đã phạm trong quá khứ và trong hiện tại của tôi.   Xin Mẹ dủ lòng thương mà cứu vớt cho gia đình chúng tôi.   Không gì vui sướng cho bằng là lời van cầu thành khẩn của tôi đã được Mẹ nghe, tha thứ và ban ơn trên gia đình của chúng tôi, vì sau đó 3 ngày chồng tôi đã có việc trở lại, và cuộc sống của tôi sau đó cũng được tạm ổn.   Tự tôi sau đó cũng chỉnh đốn lại cuộc sống của mình vì Đức Tin quá yếu kém và cố gắng sửa đổi cuộc sống cho xứng đáng với tình yêu thương của Chúa và Mẹ đã ban cho.   Tôi đã siêng năng đi Lễ.   Mua những bài giảng của cha Kham về nghe và từ đó tôi như được Chúa Thánh Linh đốt nóng lên trong trái tim tôi một tình yêu vô bờ bến mà tôi chưa từng cảm nhận được như thế bao giờ, giúp cho tôi càng ngày càng được thấm nhuần trong tư tưởng khao khát muốn tìm kiếm Chúa nhiều hơn trong cuộc sống, và chỉ có Ngài mới đem lại cho tôi cuộc sống thật sự hạnh phúc và trong no thỏa.  
Tôi đã thuyết phục được chồng tôi sau một thời gian liên lỉ cầu xin cùng Ngài là cả hai vợ chồng tôi được làm Phép Chuẩn để tôi được Rước Lễ và được mãn nguyện sống trong Chúa mà không sợ phạm tội cùng Ngài.   Tôi cũng bắt đầu gia nhập vào hội đoàn, cố gắng xin Chúa thánh hóa bản thân, cầu nguyện không ngừng nghỉ, đã nhận được biết bao nhiêu ân huệ Chúa ban.   Như hiện giờ trong 3 đứa con của tôi, đã có 2 cháu theo đạo và được Ngài quan phòng tất cả.   Các cháu lập gia đình, có vợ ngoan hiền và có Đạo, nên tôi rất sung sướng và muôn đời tôi vẫn luôn muốn ca ngợi, cảm tạ, và tri ân Ngài, một tình yêu quá bao la và vô tận vô cùng.   Nhưng bên cạnh những hoan lạc ấy, thì sự chịu đựng của tôi vẫn còn, nhưng không như ngày xưa là tôi thường oán trách Chúa, gào thét, hay luôn than vãn; còn bây giờ, tôi biết phó mặc tất cả cho Chúa định đoạt và lo liệu.   Nhờ ơn Chúa Thánh Linh, tôi đã hiểu ra Lòng Thương Xót của Ngài thật sâu thẳm, thật vô biên hải hà, và độ lượng.   Ngài không bao giờ trao cho ai Thánh Giá nặng hơn sức của mình chịu đựng.    Chỉ duy một điều là chúng ta có đón nhận Ngài và tình yêu của Ngài hay không mà thôi! Nếu nặng nề, chúng ta xin Chúa giúp sức và thêm sức, để chúng ta cảm thấy Thánh Giá được trở nên nhẹ nhàng và bình an.   Cuộc sống đau khổ thì lúc nào cũng len lỏi, nhưng theo kinh nghiệm sống của tôi đã quá thấm thía.   Tôi có một thói quen là ngồi trước tượng Chúa Chịu Nạn để ngắm nhìn, chiêm ngưỡng, và cầu nguyện.   So sánh với Chúa chịu nạn, thì sự khổ đau của chúng ta trên cõi đời này thì nào thấm thía chi!??  Thế là tôi đối thoại cùng Chúa, lắng nghe tiếng chỉ bảo của Ngài, và mọi ưu tư buồn phiền, đã tan biến đi. 

Lậy Chúa! Chúa đã yêu thương và chờ đợi tất cả chúng con.   Chúa đã kiên nhẫn dù chúng con thật bất xứng trước Thiên Nhan Chúa.   Chúa vẫn sẵn sàng tha thứ, chờ đợi con trở về, bồng ẵm con lên, như đứa con tội lỗi hoang đàng sống xa lánh Chúa đã từ lâu.   Tình yêu của Chúa, con biết lấy gì đền đáp cho xứng!??  Cảm ơn Chúa đã tẩy xóa tất cả tội lỗi của con và xin dâng lên Chúa thân xác đớn hèn này như hy tế để đền tội của con và của gia đình con. 

Nguồn:

http://thanhlinh.net/thanhthan/chungtu/MaryPham.htm

Làm chứng cho Chúa của Lê Anh Kiên

Làm Chứng Cho Chúa của Lê Anh Kiên
Quê Quán: Hải Dương, Việt Nam

Lời Cám Ơn: Thanhlinh.net chân thành cám ơn anh Kiên đã gởi lời chứng của mình về tình yêu và lòng thương xót của Chúa dành cho anh. Đây là hồng ân cao quý Chúa dành cho anh, một người bạn trẻ sống nơi đất khách quê người tìm được ý nghĩa đời mình qua Lời Chúa.

Tôi sinh ra và lớn nên trong một gia đinh có truyền thống thờ cúng Ông bà tổ tiên. Gia đình tôi chỉ có hai anh chị em và Cha mẹ. Con cháu cả dòng họ đều là đạo Phật. Gia đinh tôi là một gia đình thuộc tầng lớp trung bình của xã hội Việt Nam. Tuổi thơ tôi lớn nên thật êm đềm trong tình yêu thương của Cha mẹ và những nguời thân xung quanh. Tôi không biết đến Chúa là ai cả. Ở nơi tôi sinh sống chỉ có duy nhất một nhà thờ đạo Thiên Chúa Giáo. Tôi thuờng lấy làm không thích về những nguời tin Chúa và ghét bỏ họ. Bởi một điều tôi cho rằng là Cha mẹ tôi như thế nào thì tôi như vậy. Nhưng thực sự tôi cũng không hiểu gì về giáo lý nhà Phật. Chỉ có một điều tôi thấy làm lạ, đó là tuy tôi ghét những nguời tin Chúa nhưng tôi lại thích đến nhà thờ, đứng bên ngoài để nghe họ hát những bản Thánh ca vào những buổi thờ phuợng thứ 7 hàng tuần.

Những năm tháng êm đềm tuổi thơ của tôi cứ dần trôi qua, cho đến năm tôi 17 tuổi. Do đua đòi theo lối sống thời hiện đại, với ban bè. Tôi học ngày một kém đi. Suốt ngày chỉ lo chơi bời với bạn bè và lao đầu vào ruợu chè, cờ bạc, internet với những trò game. Thậm chí có những lần tôi ngồi ở quán internet đến cả 1 tuần mà không chịu về nhà. Những khi hết tiền tôi thuờng về nhà móc trộm tiền của mẹ hoặc là mang chiếc xe đi đến hiệu cầm đồ để lấy tiền tiêu. Rồi tôi xa vào con đuờng nghiện ngập thuốc men. Tôi đã tập hút thuốc lá để chứng tỏ mình là dân ăn chơi đàn anh. Càng ngày tôi càng xa lầy trong vũng bùn tội lỗi. Tôi đã đi ăn trôm, ăn cắp để lấy tiền tiêu xài. Cho đến một ngày Cha mẹ tôi phát hiện ra đứa con của mình ngày một hư hỏng. Cha mẹ tôi rất buồn và đã khuyên bảo tôi rất nhiều nhưng tính nào tật lấy, tôi vẫn không chịu sửa đổi. Cha tôi là một nguời nghiện ruợu nên thấy tôi như thế càng làm cho Cha tôi thêm buồn và uống ruợu nhiều hơn. Mẹ tôi thì không ngớt lời khuyên bảo tôi. Còn tôi thì cho rằng Cha mẹ và những nguời xung quanh ghét bỏ mình, nên tôi đã quyết định bỏ học để đi bụi đời. Bao năm tháng trôi qua, Cha mẹ tôi không ngớt lời khuyên bảo tôi, chạy vạy lo cho tôi học  đuợc một ngành nghề với hi vọng tôi sẽ biết chú tâm vào làm ăn, từ bỏ con đuờng tội lỗi và lo xây dựng cuộc sống cho tương lai. Thế nhưng tôi vẫn cứ như vậy, làm cũng không chịu làm mà chỉ lo chơi bời. Rồi bao nhiêu những hi vọng của Cha mẹ đặt nơi tôi cũng tan biến hết, khi tôi bỏ bê công việc không chịu làm với hết lý do này đến lý do khác do tôi đặt ra. Đã bao lần tôi cãi Cha mẹ tôi vì tôi cho rằng Cha mẹ không hiểu mình, mà nào tôi đâu biết rằng Cha mẹ đang chịu đựng những nỗi đau đớn vì tôi. Tôi chỉ nghĩ rằng tất cả mọi người đang xa lánh mình. Tôi buồn chán khi nghĩ rằng mình thật vô ích khi sống trên trần gian này.

Tôi chỉ muốn đi đến một nơi thật xa để quên đi cái quá khứ của mình. Rồi cơ hội ấy cũng đến với tôi, khi xã tôi có một đợt tuyển công nhân đi lao động tại Malaysia. Mọi mong uớc của tôi đã đuợc thỏa mãn. Chỉ hai tháng sau đó tôi đã đuợc đặt chân đến Malaysia, một nơi mà không có ai biết đến tôi, và cái quá khứ xấu xa đầy tội lỗi của tôi. Tôi tự hứa với lòng mình rằng tôi sẽ quyết tâm để làm lại từ đầu. Tôi sẽ lập nghiệp với chính đôi bàn tay của mình. Thế nhưng mọi việc không đơn giản như tôi suy nghĩ. Qua Malaysia rồi, tôi mới thấu hiểu đuợc cái cảm giác xa nhà và độc thân tự mình lo toan mọi việc. Thật khó khăn cho tôi, nhưng với lòng đầy quyết tâm, tôi cố gắng và lao đầu vào kiếm tiền. Sau những ngày tháng làm việc rồi thì tôi cũng dành dụm đuợc 1 số tiền khá lớn. Đang chuẩn bị gửi tiền về thì có một người bạn rủ tôi đi sang nhà một nguời bạn chơi. Khi sang đến nơi tôi thấy họ đang đánh bạc. Với bản tính cũ và với ham muốn là mình sẽ có thể kiếm thêm chút đỉnh để gửi thêm về nhà, sẵn lúc đang có tiền, tôi ngồi xuống chơi mà không hề suy nghĩ gì. Càng chơi tôi càng thua lỗ cho đến lúc tôi không còn đuợc lấy một đồng lẻ nào. Bao nhiêu là quyết tâm, sức lực và hi vọng đã tan biến chỉ trong một đêm.

Tôi ra về như kẻ mất hồn, tôi như bị suy sụp hẳn đi. Duờng như không còn sức lực để làm gì nữa. Càng ngày tôi càng chán nản, tôi lao đầu vào ruợu chè. Rồi có bao nhiêu tiền tôi lại cờ bạc với hi vọng gỡ gạc đuợc, nhưng rồi mọi suy nghĩ đó đa đưa tôi đến sự tuyệt vọng. Lại thêm việc làm ở công ty và cách đối sử hà khắc và tệ bạc với công nhân khiến tôi đa bỏ trốn ra ngoài. Trong thời gian đầu tôi xin đuợc việc làm cho một ông chủ cai thầu xây dựng trong một ngôi chùa, đuợc một tháng sau đó, cũng do cờ bạc ông chủ tôi đã đánh thua hết cả tiền nhận thầu, công trình nên ông ta đã bỏ trốn. Thế là cả một tháng lương của tôi đi cùng ông luôn. Tôi lại càng buồn chán hơn. Tôi lao đầu vào chơi bời và đua đòi cùng bạn bè, rồi không đi làm không có tiền. Ngày này qua ngày khác tôi chỉ uống rượu. Những lúc uống ruợu vào tôi không làm chủ đuợc bản thân mình. Đã có những lúc say ruợu, tôi vác kiếm đi lang thang ngoài đuờng mà không hề nghĩ rằng mình là nguời bất hợp pháp có thể bị bắt bất cứ lúc nào. Tôi đã tham gia vào những băng nhóm tội phạm. Với bản tính liều linh khiến tôi sớm trở thành dân đàn anh trong băng đảng. Suốt ngày chỉ uống ruợu và bàn tính mưu kế, tìm địa điểm để cuớp bóc kiếm tiền. Tôi đa tham gia rất nhiều phi vụ, nhưng không lần nào thành công. Tôi cảm thấy duờng như có một Đấng nào đó đang đi cùng, bảo vệ và giúp tôi tránh khỏi những tội ác. Cứ lần nào có tôi tham gia thì băng nhóm thất bại . Việc không có, đi cuớp cũng thất bại khiến tôi trở nên nghèo nàn. Một ngày kia tôi đuợc một nguời bạn giúp kiếm cho đuợc một công việc với đồng lương cũng khá ổn định.

Tôi bắt đầu vào những ngày làm việc mới cùng với hai người bạn. Nhưng vẫn đâu đấy, tôi vẫn uống rượu. 1 thời gian sau đó cũng chính ruợu cũng đã chia cách chúng tôi. Chỉ còn tôi cố gắng trụ được lại thêm, nhưng đã buồn rồi mà có hai người bạn làm cùng cũng đi mất. Bởi vì tôi là người ra ngoài nên chẳng có bạn, có chăng cũng chỉ là những người bạn trai quen qua nhậu nhẹt. Cuộc sống trở nên vô ý nghĩa với tôi. Có những lúc nằm nhìn trần nhà tôi nghi rằng chẳng lẽ cuộc đời mình vô ý nghĩa thế này sao. Mình không làm đuợc việc gì có ích cho đời sao ? Thời gian cứ trôi đi, tôi cứ sống lẻ loi một mình trong căn phòng trống buồn bã.

Rồi một ngày nọ nguời bạn cùng làm cũ của tôi rủ tôi qua nhà cậu uống ruợu, cậu ấy nói ở bên ấy vui lắm, nhiều bạn bè, lại nhân tiện ngày chủ nhật thế nên tôi qua luôn. Nhậu nhẹt xong, cậu ấy mời tôi buổi tối hôm đó đi nhà thờ. Cậu không nói gì với tôi về Chúa nhưng cậu ấy nói là đến đó tìm hiểu, ở đó vui lắm. Thế là tôi nhận lời. Buổi tối chủ nhật hôm đó tôi đi đến nhà thờ cùng các bạn, tôi vốn không hiểu gì về Chúa nhưng tôi thấy mọi người nơi này vui vẻ, cởi mở và gần gũi với nhau, tôi thấy họ thân mật với tôi làm như chúng tôi quen nhau từ truớc rồi hay sao ấy. mà thấy họ sống như một gia đinh vậy.

Sau buổi thờ phượng hôm đó, lúc ra về tôi có thấy họ bán sách. vốn ở một mình buồn nên tôi muốn mua một quyển sách về đọc. vả lại quyển sách này khá dầy mà lại giá rất rẻ. ở bên này kiếm đuợc quyển sách của nguời việt nam thật là khó, thế là tôi liền mua một quyển với giá 5 đồng. tôi mua có một quyển mà họ tặng thêm cho tôi đến 5 quyển truyền đạo nho nhỏ. tôi thích thú ra về lòng đầy mừng vui. Sau buổi Thờ phuợng ngày hôm đó tôi thấy duờng như có điều gì đó động cham vào lòng của tôi. Về nhà, tôi mở cuốn sách ra đọc, tôi tìm hiểu và biết đuợc rằng Chúa là đấng sáng tạo nên trời đất, và Chúa Giêsu là Người mà đã chết đền thay tội lỗi cho con người chúng ta. Thế mà bấy lâu nay tôi không biết, tôi cứ đi tìm và thờ phuợng những thần ở đâu đâu. Tôi mở tiếp tục cuốn sách và đọc tiếp ở trong Hêbơrô 13: 5 lời Chúa có hứa rằng: “Chớ tham tiền : hãy lấy điều mình có làm đủ rồi, vì Đức Chúa Trời có phán rằng : Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu. ” Đây là câu Kinh thánh đầu tiên đụng chạm vào lòng của tôi. Tôi ngừng không đọc nữa, tôi nằm suy nghi một hồi rằng tại sao Chúa lại phán như vầy với tôi. Tôi lại nghĩ về cuộc đời của tôi. 20 tuổi rồi mà tôi chưa nghe ai nói ngọt ngào với tôi như thế. ngay cả Cha mẹ tôi cũng có những lúc xa lánh ghét bỏ tôi, bạn bè tôi chỉ đến với tôi những lúc tôi có tiền, khi tôi hết tiền thì chẳng còn ai bên tôi cả. Tôi chợt hiểu rằng nguời bạn hữu tốt là người khi mà cả thế giới xa lánh mình thì người ấy đến bên mình an ủi và động viên. Tôi cũng không hiểu sao tôi lại tin vào quyển sách ấy như thế. và tôi thấy Chúa như là nguời bạn thân hữu tốt ấy của tôi.

Thế là sau suy nghĩ ngày hôm đó, tôi quyết định đến nhà thờ để tìm hiểu về Chúa. Cuối tuần đó, tôi lại sang bên nhà bạn để đi đến nhà thờ. Khi lên xe thì tôi gặp Chị Thái là người hầu việc Chúa, thì chị có chia sẻ về tình yêu của Chúa. Và tôi nhân biết rằng Ông Trời mà tôi hay kêu cầu đây rồi, nhưng tôi vẫn chưa tiếp nhận Chúa vì tôi muốn có thời gian tìm hiểu. Hai tuần sau đó, tôi mới thực sự được Chúa kêu gọi và từ đó tôi đã mở lòng mình ra tiếp nhận Chúa ngự trị vào lòng làm Vua, làm Chúa trong cuộc đời tôi.

Sau buổi tối tôi tiếp nhận Chúa vào lòng thì tôi đuợc Chúa biến đổi một cách lạ lùng. Vì nơi tôi làm việc ở rất xa, nên tôi đã quyết định chuyển chỗ làm và nơi ở sang gần nơi nhóm họp để tiện cho việc đi lại học tập và nhóm họp. Và điều kì diêu là Chúa đã sắm sẵn cho tôi một nơi ở và một công việc ổn định. Tuy cũng hơi xa so với nơi của hội thánh, nhưng buổi tối nào tôi cũng đi bộ cả tiếng đồng hồ để lên học lời Chúa, thậm trí có những hôm tôi đi làm về muộn, khi lên đến nơi thì mọi người đa tan học và ra về rồi. Tôi lại lủi thủi ra về nhưng tôi thấy đấy là niềm vui. Chúa đã biến những điều buồn đau, sự cô đơn của tôi thành niềm vui. Chúa đã dùng những con cái của Ngài giúp đỡ và chia sẻ về tình yêu thương của Ngài cho tôi. Tôi cảm thấy như là tôi đang đuợc sống quãng đời hạnh phúc nhất mà tôi có từ trước tới nay. Tôi thấy cuộc đời mình có ý nghĩa hơn, vui vẻ hơn trong tình yêu thương, trong ngôi nhà của Ngài. Thời gian trôi đi trong êm đềm, tôi ngày càng học đuợc lời Chúa nhiều hơn, và lời Chúa đã thay đổi tôi rất nhiều. tôi bỏ được rượu chè và đặc biệt là thuốc lá, cái thứ mà tôi đã cố gắng bỏ rất nhiều lần với hết cả quyết tâm nhưng vẫn không đuợc. Nhưng Chúa đã làm điều ấy cho tôi một cách dễ dàng. Tôi mới hiểu được rằng bằng sức mình tôi không làm được gì cả, trong mọi việc nếu tôi nhờ cậy Chúa thì tôi có thể làm được. Và câu Kinh Thánh : tôi làm đuợc mọi sự là nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi, đã khắc sâu vào trong tấm lòng tôi. Có những khi tôi gặp những nan đề thử thách trong cuộc sống tôi thuờng nhớ tới lời Chúa phán rằng. Mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời. Mỗi một nan đề xảy đến là để giúp tôi có đuợc một kinh nghiệm về tình yêu của Chúa.

Trong thời gian ngắn ngủi tôi tin Chúa, tôi đã tích góp đuợc một số tiền nho nhỏ để gửi về nhà để giúp cho Cha mẹ tôi ở nơi quê nhà. Chúa cũng giúp tôi biết yêu thương và ăn nói nhẹ nhàng hơn cùng Cha mẹ, tôi cũng nói về Chúa cho Cha mẹ tôi, lúc đầu Cha mẹ tôi rất cứng lòng nhưng do sự cầu nguyện mà Chúa đa ban cho tôi và do Cha mẹ thấy đuợc đời sống tôi thay đổi khi tôi tin nhận Chúa mà Cha mẹ đã mềm lòng và đồng ý cho tôi buớc theo con đường của Chúa và hầu việc Ngài. Từ một con người hư đốn, đàn anh của giới giang hồ, tôi đã trở về với con người sống có mục đích, biết yêu thương như ngày hôm nay thì thực sự là một phép lạ. Và tôi không biết lấy gì để đền đáp ơn huệ của Chúa dành cho tôi . Tôi chỉ biết cầu nguyện và dâng cuộc đời tôi nên cho Chúa sử dụng theo thánh ý của Ngài. Tôi ước mơ rằng sau này khi trở về Việt nam, tôi có có hội đi học truờng Kinh Thánh để tìm hiểu biết thêm và trau rồi về Lời của Chúa để đem tình yêu của Chúa cho những người xung quanh, và trước hết là cho gia đình của tôi.

Lê Anh Kiên – Malaysia

Lời chứng của Giuse Ngô Sơn Hà

Lời chứng của Giuse Ngô Sơn Hà

–         “Ê mày, có gặp thằng Hà Trumpet không? Tao nghe tụi nó nói kỳ này nó good lắm: không rượu, không cờ bạc, không gái, lại còn vào hội cầu nguyện Đặc sủng gì đó”

–         “Tao không tin, nó mà bỏ rượu, cờ bạc, gái, hút thì trời sập”

 

“Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”

(Lc 1, 37)

Đúng, trời đã sập lên tôi một chữ “YÊU” không thể cảm nhận hết được. Chúa đã dẫn tôi về bằng con đường kỳ diệu của Ngài.

Tôi có người Mẹ rất yêu thương tôi. Ngược lại tôi cũng yêu thương mẹ nhiều, vì tôi được mẹ nuông chiều từ bé đến lớn. tôi nhớ là chưa bao giờ bị mẹ đánh đòn, dù tôi hư hay lỗi phạm.

Thế rồi một biến cố xảy đến.

Mẹ tôi bệnh nặng, bác sĩ chê, cho nên tôi luôn ở bên chăm sóc. Mỗi lần tôi xoa bóp, nói chuyện với cụ thì cụ chỉ nói có 1 câu: “Con ơi, chịu khó đi nhà thờ nhà thánh đi con”. Tôi vâng dạ, nhưng có lẽ tình thương cụ dành cho tôi chưa hết, nên cụ đã bắt tôi phải hứa với người thứ 3: đó là anh bạn thân cùng Giáo Xứ:

“Bác Trác ơi, bác dẫn em nó vào Hội cầu nguyện của bác nhé”. “

Con ơi, con hứa với mẹ là con theo bác Trác mà vào Hội cầu nguỵên nhé”.

“Vâng, con xin hứa. mẹ yên tâm”

Nhưng thật lòng lúc đó tôi vâng dạ là vì thương mẹ, để mẹ yên tâm, bằng an về với Chúa mà thôi.

Rồi sau ba ngày, cụ đã về với Chúa.

Thấy tôi buồn nhiều, bà chị đã cho tiền để hai cha con tôi đi hành hương Đức Mẹ La Vang cho khuây khỏa, thế mà tôi xin được ơn chữa khỏi bệnh đau bụng kinh niên.

Rồi nhớ lại lời hứa với mẹ, tôi đến nhóm cầu nguyện. Buổi đầu tiên, tôi thấy chả có gì hay ở nhóm này. đọc Kinh Thánh, hát Thánh Ca, cầu nguyện, vv… toàn những chuyện bình thuờng…

Nhưng tôi vẫn kiên trì đến nhóm. Dần dần tôi nhận thấy mọi sự lo âu trong cuộc sống thường nhật bớt dần, rồi càng lúc sự bình an càng thay dần vào chỗ của lo lắng trăm chuyện. Đặc biệt anh Trưởng Nhóm thường xuyên ghé nhà tôi thăm hỏi, động viên, chia sẻ, nâng đỡ tôi tinh thần lẫn vật chất, đã làm cho tôi có cái nhìn khác tích cực hơn, thiện cảm hơn. Rồi tôi tìm hiểu, cầu nguyện và đã được tham dự khóa học Kinh Thánh và Cầu Nguyện 18 tuần tại DCCT Kỳ Đồng. những ngày học Kinh Thánh và Cầu Nguyện là những ngày đã làm cho tôi ngộ ra nhiều điều mới lạ trong cuộc sống Đạo. Và từ đó, bản thân tôi đã thay đổi theo năm tháng cùng với Lời Chúa trong Kinh Thánh và những giờ cầu nguyện.

Chúa đã thương cắt bỏ hết mọi thói xấu: cờ bạc, rượu, hút sách, phim đen, truyện đen, … sau 50 năm tôi bị chúng xiềng xích mà cứ tưởng là mình đang ngụp lặn trong tự do.

“Hữu xạ tự nhiên hương”, người bạn đời của tôi cũng theo học khóa Kinh Thánh và Cầu Nguyện, và cũng rất siêng năng đi họp nhóm. Các các con tôi trở nên ngoan hơn, có công ăn việc làm ổn định. Rồi nợ nần căn nhà đã trả hết dần. Giờ đây lại còn của dư của để…

Nhưng điều làm cho tôi sung sướng hạnh phúc nhất, là tôi đã cảm nghiệm được Lòng Thương Xót của Cha đã hoàn toàn biến đổi cuộc đời tôi, đã dùng quyền năng Thần Khí Ngài mà tháo bỏ mọi gông xiêng tôi đã tự nguyện để mình bị trói buộc suốt thời gian hơn nửa cuộc đời tôi. Cũng chính Cha đã ban mọi ơn huệ tâm linh và vật chất cho tôi, như chiếc áo mới, nhẫn mới, dép mới, khi tôi quyết tâm trở về với Ngài.

Lạy Cha, con cảm tạ, tri ân Cha đã dẫn con về trong tình yêu và Thần Khí của Cha. Xin phó thác hữu thể con trong tay Cha, một đứa con nhỏ bé, yếu đuối, mỏng giòn, để Cha luôn dắt con bước đi trong Thần Khí của Cha.

Lạy Chúa Giêsu, con xin đầu phục Ngài trọn vẹn, để bước theo Chúa trên con đường vâng phục thánh ý Cha.

Cầu xin Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse chúc lành và cầu bàu cho con.
Giuse Ngô Sơn Hà

Noel 2009

Nguồn: http://thanhlinh.net/thanhthan/chungtu/NgoSonHaVN.htm

Ơn gọi từ tượng đài Chúa Kitô

ƠN GỌI TỪ TƯỢNG ĐÀI CHÚA KITÔ

Khi đi tham quan tượng đài Chúa Kitô, tôi nhớ lại câu chuyện về cha Martin Đinh Trung Hòa. Trước khi đi tu để trở thành linh mục, cha vốn là một bác sĩ sản khoa, đã có người yêu và đã đính hôn. Khi đi viếng tượng đài Chúa Kitô ở đỉnh núi Tao Phùng, bác sĩ Hòa đã cảm nhận ơn gọi theo Chúa. Sau đó, bác sĩ đã gia nhập Dòng Tên và được tấn phong linh mục.

Thanh niên vượt biển

Thanh niên Martin Đinh Trung Hòa vượt biển đến Úc năm 17 tuổi, sau đó anh ghi tên học lại trung học tại Melbourne. Hòa là một học sinh giỏi, ít nói, tính tình nhu mì và hiền từ với cặp kính cận trông rất thư sinh. Mãn trung học, Hòa thi đậu Tú tài với điểm rất cao. Vượt qua khóa thi tuyển vào đại học, Hòa được trường Đại Học Mornash, Melbourne nhận cho theo học phân khoa ngành y.

Bác sĩ có người yêu

Theo như Hòa tâm sự và chia sẻ với bạn hữu cùng cộng đoàn Dân Chúa, thì trong thời gian học ngành y khoa, Hòa đã có người yêu. Một ý trung nhân đã yêu thương nhau khoảng 3, 4 năm. Hai cô cậu đã làm đám hỏi và chờ ngày kết hôn.

Năm 1993, Hòa tốt nghiệp Bác Sĩ y khoa và được nhận vào làm trong bệnh viện Melbourne ngay sau đó. Cánh cửa công danh, sự nghiệp và tình yêu đang mở rộng thênh thang. Thế nhưng tâm hồn Hòa lúc nào cũng bất ổn, xao động và trống vắng không thể tả được, hình như đang thiếu thốn, khát khao một điều gì đó.

Gia đình cũng chẳng hiểu Hòa là người như thế nào? Mỗi lần bàn đến chuyện hôn nhân thì Hòa lơ là, làm người yêu phải chờ đợi lâu, khổ sở. Cô ta đâm chán nản. Hòa xin người yêu cho khất lại cuộc hôn nhân và đi tìm cho bằng được một câu trả lời.

Thăm viếng tượng đài Chúa Kitô

Năm 1995 nhân dịp chuyến về thăm quê hương Việt Nam, Hòa ra Vũng Tàu, leo lên núi viếng tượng Chúa Giêsu, rồi chàng chui vào bên trong tượng Chúa, leo lên những bậc thang. Khi đang bước lên các bậc thang thì chợt nghe như có những tiếng vang đâu đó trong đầu óc của Hòa: Ta là Đường! Ta là Đường! Hòa mỉm cười thú vị nghĩ rằng mình đang bước đi trên những bậc thang ở trong Chúa và tò mò tự hỏi: “Nếu Ngài là đường, thì Ngài dẫn nhân loại đi đến đâu?”

Thế rồi Hòa tiếp tục leo nốt các bậc thang còn lại. Khi lên đến bậc thang nơi vai của Chúa, chàng ngẩng mặt lên thấy một bầu trời trong xanh. Hòa chợt hiểu và tự nghĩ: “Chúa sẽ dẫn ta về Trời với Chúa Cha”.

Chàng vội vàng lùi bước xuống nhanh dưới chân Chúa và chạy ra ngoài một quãng xa, nhìn lại rồi thốt lên: Trời ơi! Tất cả đây là sự thật”. Từ đó Hòa đặt trọng tâm vào niềm tin vững mạnh nơi Chúa và cầu nguyện liên lỷ cho con đường đang tìm kiếm. Hòa đặt câu hỏi với Chúa: “Chúa ơi! Chúa muốn con làm gì? Chúa muốn con đi đâu, con sẽ theo đó”.

Tìm đến với Chúa

Nhưng mỗi khi chàng nghĩ về hôn nhân, thì cảm thấy như có một cánh cửa đóng sầm trước mặt. Vậy mà khi suy nghĩ về đời sống tu trì, thì tâm hồn trở nên an bình, có niềm vui và sự sống. Thế rồi chàng Bác Sĩ trẻ tuổi này luôn bỏ ra nhiều thì giờ để tham dự các khóa tĩnh tâm và nao nức tìm đến gần Chúa.

Có một lần Hòa gặp Cha Linh Hướng, để xin Ngài hướng dẫn, Cha nói: “Hòa như một con bò, hì hục sau cánh cổng, đang tìm lối thoát”. Cha Linh Hướng hỏi Hòa: “Con đang tìm gì”? Hòa trả lời: “Con muốn đi tìm Chúa Giêsu”. Cha hỏi lại: “Chúa Giêsu là ai?” Chàng đáp: “Chúa Giêsu là Thiên Chúa xuống thế cứu chuộc con người”. Cha linh hướng nghiêm trang nói: “Không phải! Chúa Giêsu là người, và con càng trở thành người bao nhiêu, con càng trở nên giống Chúa bấy nhiêu”.

Gia nhập Dòng Tên và phục vụ ở Đông Timor

Sau đó Hòa quyết định xin gia nhập Dòng Tên tại Úc. Qua những tháng năm Hòa vừa là một Bác Sĩ trong bệnh viện, vừa phải vào đại học trau dồi, triết, thần học và kinh thánh cho con đường tu học.

Vào năm 1999 và năm 2001, thầy Đinh Trung Hòa đã hai lần tình nguyện sang Đông Timor, nhập với nhóm y tế Hồng Thập Tự Úc Châu để giúp các nạn nhận chiến tranh và nghèo khó tại đây. Nhìn thấy những cảnh khó nghèo, bần cùng và bất hạnh của những người đang tỵ nạn Đông Timor, Bs Hòa cảm nhận được là mình cần phải dấn thân phục vụ Chúa qua những nạn nhân này.

Truyền chức Phó Tế và Linh Mục

Cuối năm 2005, trong thánh Lễ truyền chức Phó Tế cho thầy Martin Đinh Trung Hòa SJ, một linh mục đã giới thiệu thầy Hòa là một vị Bác Sĩ sản khoa đã từng giúp các Sản Phụ sinh đẻ “mẹ tròn con vuông” thì cả nhà thờ vỗ tay cười như nắc nẻ. Nhiều sản phụ đã xì xèo: “Eo ơi! mình mà có bầu, ai mà dám đến khám bệnh cha Hòa”.

Lúc 10 giờ sáng, thứ Bảy ngày 8/7/2006. Thầy Martin Đinh Trung Hòa SJ đã chính thức được thụ phong linh mục do ĐGM Chris Prowse phụ tá TGP Melbourne đặt tay truyền chức tại nhà thờ Thánh Í Nhã Dòng Tên, vùng Richmond, Melbourne. Rất đông giáo dân Việt Nam đến tham dự.

Tác giả: Đỗ Tân Hưng

Nguồn:    http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=chapter&id=50&ib=197&ict=1398

Thánh Lễ tại tư gia một Phật tử

 

                    Thánh Lễ tại tư gia một Phật tử 

Linh mục Dzu Mai Liên đã ghi lại cảm tưởng của cha khi đi dâng Thánh Lễ an táng cho một bệnh nhân tại tư gia của một Phật tử như sau: 

Xế trưa hôm đó, một cú điện thoại của chị trưởng nhóm Tiếng Vọng: “Cha ơi, em Thảo ở đường Phan Văn Trị, Bình Thạnh, mới mất. Cha đến làm phép xác nhé, rồi đưa đi hỏa tảng luôn, em đã rửa tội rồi, cả nhà đều Phật giáo”. 

Đầu giờ chiều hôm đó, chúng tôi đến nhà em. Thật bất ngờ và xúc động khi được biết em tự nguyện theo đạo qua đời sống đức tin của những anh chị em Công Giáo chăm sóc em. Khi ở với gia đình, em vẫn luôn vững lòng trông cậy và thành tâm sống đức tin của mình giữa mọi người không cùng niềm tin với em. Và cảm động biết bao, khi bà ngoại của em, một Phật tử sùng đạo, lại thỏa mãn mọi yêu cầu để em sống đức tin của mình. 

Em xin được đi lễ Chúa nhật hằng tuần, thấy em bệnh, bà thuê Honda ôm mỗi tuần chở em đi lễ nhà thờ. Trước khi em nằm xuống và khi đã ra đi, chính bà và người thân đã chủ động liên hệ với các anh chị em trong nhóm Tiếng Vọng và quý Sơ Dòng Phan Sinh để xin cầu kinh, giúp đỡ phần hồn cho em. 

Các thiện nguyện viên đã xin dâng lễ ngay tại nhà của em rồi mới đưa đi hỏa táng. Gia đình đã đồng ý và lấy khăn che hết các tượng Phật thờ trong nhà. Đó là một ấn tượng khó phai mờ trong đời linh mục của chúng tôi vì những anh chị em khác tôn giáo đã niềm nở đón tiếp Chúa đến với họ. 

              Gương hy sinh của các linh mục và nam nữ tu sĩ 

Tony Trần tỏ ra rất thán phục những gương hy sinh của các người sống đời thánh hiến như sau: 

Tôi rất khâm phục cha T. cha K. – những linh mục đầy nhiệt huyết – vì các ngài, tuy bận rộn, nhưng luôn dành nhiều thời giờ để thăm hỏi, giúp đỡ và ban bí tích cho những bệnh nhân xấu số trong những giây phút cuối đời. Các ngài sẵn sàng nói “có”, khi những tình nguyện viên điện thoại đến hay gặp các ngài để xin giúp trong những trường hợp nguy tử vào những giờ thật bất tiện trong ngày. 

Tôi nghiêng mình cảm phục các Sơ L., T., Q….đang giúp các trại phong Qui Hòa, Bến Sắn và đặc biệt là Trung Tâm Mai Hòa dành cho các bệnh nhân HIV/AIDS ở giai đoạn cuối có được một sự thanh thản trước khi từ giã cõi đời. Họ chăm sóc cho những bệnh nhân hoàn toàn bị người đời và ngay cả những người thân bỏ rơi vì thân thể quá khủng khiếp! 

Nhìn các Sơ nắm tay, đút từng muỗng cháo, mát-xa những chỗ đau nhức, chịu khó lắng nghe từng lời của những bệnh nhân nói không nên lời vì miệng bị lỡ loét trắng cả bên trong. Không còn lời nào hay hơn, đẹp hơn để diễn tả những hành động nhân ái của những nữ tu đã từ bỏ thiên chức làm mẹ theo xác thịt để hiến thân trọn vẹn cho Chúa bằng cách trở nên những người mẹ thiêng liêng đối với những đứa con đang thiếu vắng tình thương. 

Tôi cũng muốn nhắc đến những nam tu sĩ, những thanh niên được thánh hiến đang phục vụ cách nầy hay cách khác để đồng hành với các nhóm tình nguyện trong việc giúp đỡ các bệnh nhân xấu số. Họ không phải là linh mục nên ít được mọi người tôn trọng theo phẩm vị, nhưng người ta lại kính trọng họ trong việc dấn thân phục vụ. Họ đã bước theo Chúa Kitô trong việc âm thầm phục vụ. 

Trích từ: www.Dunglac.org

Sách Những Nẻo Đường Việt Nam của Đỗ Tân Hưng

   Nguồn: http://www.dunglac.org/upload/book/f__1190608215.htm

Sự khám phá mới của Bác sĩ Chang Shu Wen

“We must obey God rather men”  Act 5:2

Vâng Lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người .

“SỰ THẬT SẼ GIẢI THOÁT ANH EM” .

“The truth will set you free” Jn 8:32

THIÊN CHÚA LÀ CỘI NGUỒN VÀ LÀ CÙNG ĐÍCH CỦA NHÂN LOAI.
God is the Source and the must be the Last of Goal of human beings.

 Lời giới thiệu của Nguyễn HyVọng

Tôn giáo giúp con người sống xứng với nhân phẩm, vì con người không thuần tuý vật chất mà còn có linh hồn. Tôn giáo là niềm khao khát của linh hồn, vì thế con người không tôn giáo, không có sự bình an.

Bác sĩ Chang Shu-wen đã tìm hiểu Phật giáo cẩn thận và nhận thấy tôn giáo này có nhiều mâu thuẫn, viễn vông, dị đoan, mê tín, yếm thế, trốn đời dẫn đưa đất nước và dân tộc đến nghèo đói, lạc hậu… Trong khi đi tìm một Đạo Thật, Bác sĩ Chang She-wen đã khám phá tư tưởng chỉ đạo tốt nhất cho dân tộc, cho đất nước phát triển, văn minh, tiến bộ, và giúp mọi nguời, được sống ấm no, hạnh phúc. Đạo Thật và tư tuởng chỉ đạo tốt nhất đó chính là: Công Giáo.

Cuộc hành trình đi tìm Đạo Thật rât lý thú của Bác sĩ Chang Shu-wen, mà những ai hiểu giá trị cao quý của tôn giáo, không thể không đọc.

KHÁM PHÁ MỚI

Bác sĩ Chang Shu-wen sinh trưởng Vùng Bắc Trung Hoa, theo học ngành Y Khoa tại Bắc Kinh và Nam Kinh. Hiện tại, ông đang hành nghề y sĩ tại Taipei, Đài Loan.

Tôi là Chang Shu-wen, 62 tuổi sinh trưởng tại vùng thôn quê đẹp đẽ Fong-cheng Hsien, thành phố Antung, lục địa Trung Hoa.

Xuất thân từ một gia đình theo Khổng giáo, chúng tôi thừa hưởng một truyền thống lâu đời trong dòng họ, đó là thờ Trời, tôn kính tổ tiên và sùng bái Đức Khổng Phu Tử. Cha mẹ tôi không phải là những Phật tử, mặc dù ông bà vẫn ăn chay những ngày mồng một và ngày rằm mỗi tháng theo âm lịch. Qua cách sống như thế, suốt thời thơ ấu, tôi không có một liên hệ nào với Phật giáo.

 Vào khoảng thời gian chấm dứt chương trình Trung học, tôi và các bạn cùng lớp tổ chức một buổi du ngoạn thăm các thắng cảnh vùng đồi núi Chie-shan. Vùng này có rất nhiều chùa chiền của các tôn giáo Phật giáo và Lão giáo. Ở một ngôi chùa Phật giáo nọ, chúng tôi đã lưu lại trong bốn ngày. Trong thời gian bốn ngày, tôi đã có dịp nhìn xem tận mắt cách trang trí, các lễ phục, các tượng ảnh và tham dự các buổi cầu nguyện của những Phật tử. Tôi đã tham dự những buổi cầu nguyện này một cách nghiêm trang chăm chú. Qua những giây phút này, so sánh với những đơn sơ của đạo giáo, trong tâm hồn tôi bỗng nhiên bộc phát một nhận thức sâu xa về sự xa hoa hào nhoáng của thế gian và vật chất thế tục. Một nỗi buồn xuất hiện xâm chiếm tâm hồn tôi.

Tôi đến gặp, nói chuyện với một nhà sư và tìm hiểu lý do tại sao các tu sĩ lại từ bỏ mọi sự thế gian và ngay cả gia đình để sống trong các nhà chùa như vậy. Tôi được trả lời rằng những người này đã tìm hiểu về Phật Pháp và sau đó bị lôi cuốn sống đời sống tu hành để thực tập các nhân đức với hy vọng sẽ đạt được một đời sống tâm linh giải thoát khỏi sự áp chế của nhục dục.

 Trong thực tế có hai bậc tu hành:

 * Bậc thứ nhất có tầm học cao hiểu rộng, giảng đạo cho các thiện nam tín nữ.

* Bậc thứ hai thấp hơn, dù sống trong nhà chùa nhưng vẫn còn liên hệ đến thế tục về phương diện vật chất, những người này lưu lại trong chùa vì hoàn cảnh nghèo khó, thiếu ăn thiếu mặc ngoài đời.

 Lại cũng có những người tội phạm, bị chính quyền truy nã, tìm đến cửa Phật để náu thân. Vì trong thời gian đó, pháp luật không được áp dụng cho những người đã xuống tóc qui y trong các nhà chùa. Dù tội lỗi của họ có nặng nề đến đâu đi nữa, pháp luật coi như họ đã tách ra khỏi thế giới con người và coi như đã chết.

 Hầu hết các nhà tu hành thuộc bậc thứ hai vì họ đã chán cảnh đời thế gian, đã thất bại trên chính trường, đã thua lỗ trong việc làm ăn buôn bán hoặc tình duyên bị gãy đổ. Với sự khổ hạnh trong đời tu hành, họ nhận diện được sự dối trá, phù du của thế gian và quyết định nương nhờ cửa từ bi tìm bình an cho tâm hồn.

 Các nhà tu hành ở bậc thứ hai có thể tiến lên bậc thứ nhất nếu qua thời gian, họ tìm hiểu, học hỏi, tiến triển trong việc sống đời sống nhân đức theo Phật pháp. Theo Phật pháp, tất cả mọi người đều bình đẳng. Bất cứ ai cũng có thể thành Phật, nếu người ấy sống nhân đức:  Vị Giáo chủ thứ Sáu trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa không biết đọc biết viết nên ông không hiểu gì hết những lời giảng huấn của Vị tiền nhiệm Thứ Năm. Nhưng khi được linh ứng, ông có thể quảng diễn tất cả mọi điều giống như Vị Giáo chủ trước đã giải thích và giảng dạy. Chính vì thế ông được chọn làm vị thừa kế.  Đó là những kiến thức đầu tiên của tôi về Phật Giáo.

 Sau khi tốt nghiệp Trung học, tôi được gửi đi Bắc Kinh để học Đại Học. Những vấn đề liên hệ đến ý nghĩa, cứu cánh của đời sống con người luôn luôn xâm chiếm tôi. Mỗi lần như thế, tôi lại nghĩ đến Phật pháp: Sự bình đẳng trong sự sống của tất cả các loại sinh vật theo Phật pháp khiến tôi suy nghĩ nhiều. Tôi khâm phục và tán thưởng những châm ngôn, những kinh kệ và các bài luận giảng về vấn đề này.

 Bắc kinh là nơi qui tụ các vị chân tu và các tu sĩ học giả. Tôi có dịp liên lạc với nhà sư Tai-hsu, một người được toàn quốc biết đến qua việc chú giải bộ sách “Bốn mươi hai chương”. Tôi đã được nghe ông giảng những bài giảng rất có ý nghĩa. Có những bài giảng với những câu tôi vẫn còn nhớ rõ:

 … “Sự liên hệ giữa người đàn ông với vợ mình và gia đình còn nặng nề hơn nhà tù đối với người tù. Như hạn tù không bao giờ chấm dứt, người đàn ông sẽ không bao giờ được phép từ bỏ gia đình…”.

 Tôi cũng có lần được nghe nhà sư Chang-hsing giảng giải về sách của Đức Phật qua cái nhìn Triết học. Sau đó mặc dù tôi kết luận rằng mỗi người đều phải có một tôn giáo, nhưng tôi vẫn chưa tìm được một tôn giáo cho chính mình.

 Một ngày nọ, tôi có dịp đến thăm một Thánh đường đạo Công giáo, tôi hỏi mượn một số sách về đọc, nhưng người giữ thư viện cho biết rằng sách chỉ dành cho những người nào muốn tìm hiểu về đạo Công giáo mượn thôi. Từ hôm đó, tôi có ý định tìm hiểu về đạo Công giáo.

 Tôi theo học tại trường Quân Y. Viện trưởng của trường là một người theo đạo Thệ phản (Protestant). Vào ngày thứ bảy chúng tôi không có lớp. Ông Viện trưởng thường mời một Mục sư đến giảng đạo và hướng dẫn các sinh viên học hỏi về Kinh Thánh. Tôi chẳng hiểu nhiều về những điều giảng dạy đó, chính vì thế, tôi thờ ơ với Kitô giáo.

 Sau thời gian theo học tại Bắc Kinh, tôi được gửi đi Nam Kinh. Ở Nam Kinh, tôi cũng thường tham dự những buổi thuyết trình về Phật pháp do một giảng viên của Đại học Chin-Linh diễn giảng: Giáo sư Mei-Kwan-hsi. Ông dùng những danh từ khoa học khi nói chuyện khiến những thính giả như tôi hiểu dễ dàng hơn.

Thời gian sau đó, tôi lại thường đến một nhà thờ Thệ phản với mục đích tìm kiếm sự an bình cho tâm hồn vì nhiều lúc tôi cảm thấy băn khoăn trong vấn đề tôn giáo. Nhưng không nơi nào tôi tìm được sự an bình cả.

 Cuối cùng tôi trở lại với Phật giáo với ý nghĩ rằng đây chính là tôn giáo tôi đang tìm kiếm và sự băn khoăn trong tâm hồn tôi sẽ được giải thoát. Trong giai đoạn này tôi tìm hiểu về Phật pháp rất nhiều.

Bên cạnh những sách vở Y khoa phải học và đọc, tôi coi như mình có bổn phận phải đọc thêm sách Phật rồi dần dà tôi có thói quen đọc những sách này ngay cả những khi giải trí. Tôi không liên lạc với gia đình nhiều, vì tôi thiết nghĩ theo sách nhà Phật, đối với người đàn ông: gia đình, vợ con là những phiền toái bên ngoài, giống như tiền bạc, danh vọng. Tất cả là những quyến rũ khiến cho người ta không tập trung được để đạt tới giải thoát. Những điều này phải được từ bỏ.

 Chiến tranh Hoa-Nhật bùng nổ, chính cuộc chiến này và lòng yêu nước trong tôi đã khơi dậy một vấn đề khiến tôi phải suy nghĩ về niềm tin của mình vào Phật giáo. Vì khi kẻ thù xâm lăng quốc gia mình, nếu muốn bảo vệ quốc gia, một người ái quốc phải hy sinh mọi sự để chống lại quân thù. Giáo thuyết “cấm sát sinh” chính là tự trói tay nộp mình cho kẻ xâm lăng. Và giáo thuyết cho rằng mọi sự của trần gian đều là giả trá phù vân, vậy tinh thần ái quốc và lòng yêu nước cũng là giả trá phù vân sao? Có lẽ chính giáo thuyết này đã đưa các quốc gia vùng Á Châu (hầu hết theo Phật giáo) trở thành thuộc địa của Tây Phương hay sống dưới một chiêu bài độc lập giả hiệu. Trung Hoa phải cẩn thận trong bài học này.

Những tư tưởng như thế khiến tôi nhận thấy sự khiếm khuyết của Phật giáo. Có thể gom tóm những khiếm khuyết này như sau:

 1.  Về phương diện Khoa học:

Tôi học và hoạt động trong lãnh vực Y Khoa. Với khoa học, mọi sự đều phải được chứng minh. Những câu chuyện, sự kiện kể trong sách Phật thiếu chứng tích lịch sử, chỉ là những chuyện thần thoại như thuyết luân hồi chẳng hạn. Những giáo thuyết này rất quan trọng nhưng không thể minh chứng theo khoa học, lịch sử hay luận lý.

 2.  Giáo thuyết xa vời:

Được trở thành Phật là cứu cánh của hầu như tất cả các Phật tử, nhưng để đạt được cứu cánh này, người ta phải trải qua ba hình thức hay trạng thái: trạng thái khổ hạnh, trạng thái hữu thực và trạng thái hư không. Người ta phải thoát ra ngoài sự nhơ nhớp và tội lỗi của thế tục. Nhưng làm sao một người có thể thoát ra ngoài thế tục được nếu họ bắt buộc phải sống trong thế tục đó?

 3. Giáo lý trừu tượng và quá huyền bí:

Sách về Phật pháp thì vô số kể. Xét về phương diện văn học, những sách này rất có giá trị dù khi đã được dịch ra ngoại ngữ, nhưng tất cả đều quá khó hiểu, khiến người đọc không thể tiến xa hơn được. Giáo lý có thể rất cao vời, nhưng cần phải được diễn đạt trong tầm hiểu biết của mọi người. Trong Phật giáo, nghi lễ theo phái Chuan chẳng hạn, được mọi người ưa thích. Qua nghi lễ này, người tham dự hy vọng sẽ được siêu thoát, được linh sáng khi suy niệm. Nhưng phương pháp suy niệm lại không hợp lý khiến ngừơi ta cảm thấy trống rỗng khi kết thúc và sự siêu thoát có vẻ quá cao vời bất khả đạt.

 4. Sự mâu thuẫn và đối nghịch:

Trong Phật pháp nhấn mạnh về “cấm sát sinh”.

Một ngày nọ, tôi đến thăm nhà sư nổi tiếng Tai-hsu và hỏi ông: “Chúng tôi là Bác sĩ Y Khoa, chuyên tìm tòi, sát hại tiêu diệt các loại vi khuẩn độc tố. Phật pháp có cho phép chúng tôi làm việc này không?”. Sau một lúc im lặng, nhà sư Tai-hsu trả lời: “Tiêu diệt các loại vi khuẩn độc tố có hại cho con người không thuộc về giới luật “cấm sát sinh”. Tôi im lặng, nhưng phải giải thích thế nào về nguyên lý bình đẳng của sinh vật? Làm sao có thể phân biệt được lúc nào là sát sinh và lúc nào là không sát sinh?

 Một thí dụ khác: Lamaism là một phái của Phật giáo tại Trung Hoa. Mỗi năm, phái Lamas tổ chức một buổi lễ Trừ-Tà trong lâu đài Yung-Ho, Bắc Kinh, để xua đuổi tà thần và chúc lành cho dân chúng. Một trong những vật dụng xử dụng để đánh đuổi tà thần này là một cây roi dài kết bằng da người. Họ dạy cấm sát sinh trong khi lại xử dụng một cây roi làm bằng da người là làm sao?

 5. Sự thờ ơ lãnh đạm:

Từ bi là một nhân đức quan trọng của Phật pháp. Nhưng sự từ bi này theo tôi có vẻ rất vô tình: Được thực hiện về hình thức nhiều hơn; làm việc bố thí đồng thời khinh thường kẻ nhận bố thí.

Những điều này và còn nhiều điều khác nữa tôi không nhớ hết, đều là những ý kiến cá nhân, có thể không đúng với ý kiến của những người khác. Nhưng chính những điều này đã là những động lực khiến tôi bất đồng và rời bỏ Phật giáo. Từ đó, không bao giờ tôi đến viếng một ngôi chùa nào và thăm hỏi một nhà sư nào nữa.

Tuy vậy, những tư tưởng về sự phù du chóng qua của của cải thế tục và cứu cánh của đời sống con người vẫn là hai vấn đề làm cho tôi băn khoăn, đặc biệt vào khoảng thời gian chúng tôi đến Đài Loan.

Công việc tại nhà thương nơi tôi được gửi tới không nhiều lắm. Tôi có thì giờ nhiều hơn để suy tư về quá khứ, hiện tại và tương lai. Tôi cảm thấy đời sống mình sao bấp bênh và trống rỗng quá, có lẽ tôi phải có một tôn giáo làm nơi nương tựa cho tâm hồn.

 Một hôm nọ, đi dạo trên đường Chung-chen ở Taipei, ngang qua ngôi chùa Shan-tao nhưng không dừng lại vì tôi không còn cảm thấy chùa chiền là nơi đáp ứng được những khắc khoải của tâm hồn. Đến cuối đường, nơi một nhà thờ Công giáo tọa lạc, tôi đã định vào, nhưng cuối cùng tôi nghĩ có lẽ nên gởi thư đến trước để hỏi thăm vấn đề tìm hiểu về Giáo lý Đạo Công giáo.

Tôi đã liên lạc được với Cha Fang, Linh mục Chánh sở của nhà thờ, ngài giới thiệu tôi với Cha Kung để Cha hướng dẫn tôi về Giáo lý.

Tôi rất vui khi được làm quen với Cha Kung, ngài hướng dẫn tôi tìm hiểu về Giáo lý Đạo Công giáo. Sau một thời gian, tôi quyết định xin Rửa tội, vì tôi khám phá ra đây chính là giáo hội tôi đã bỏ bao thời giờ để kiếm tìm.

 So sánh với tôn giáo tôi đã biết trước đó, tôi nhận thấy như sau:

 1. Tất cả những điều Đạo Công giáo giảng dạy đều có nền tảng Triết học, lịch sử hay Thần học.

 2. Đạo Công giáo có những tín điều xác thực, không mâu thuẫn, xây dựng trên nền tảng vững chắc. Có những mầu nhiệm với trí óc con người không hiểu được, nhưng Giáo hội trình bày rõ ràng và thành thật rằng những mầu nhiệm này vượt qua trí tưởng của con người. Giáo hội cũng cho biết lý do tại sao họ chấp nhận những mầu nhiệm ấy và họ không bao giờ bắt buộc ai phải tin vì mỗi người đều có tự do riêng.

 3. Có những sách Giáo lý, thủ bản về đạo thích hợp với trình độ của mọi giới. Giải thích về chân lý để mọi người đặt niềm tin, về các giới răn để mọi người tuân giữ, về các Bí tích để mọi người lãnh nhận và cầu nguyện. Tất cả mọi sự rất rõ ràng, minh bạch, không giống như Phật giáo, người ta chẳng biết bắt đầu từ đâu vì quá nhiều sách vở và những nghi lễ phức tạp.

 4. Các Linh mục Công giáo được Giáo hội trao cho năng quyền giảng dạy từ Chúa Kitô: “Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc.”. Ai trao quyền cho các nhà sư giảng dạy? Theo những qui tắc nào? Tiêu chuẩn nào là chính thức? Tôi chỉ thấy có những nhà sư này giới thiệu, ca tụng nhà sư kia hoặc tự giới thiệu mình mà không có một bản quyền nào từ trên. Trong Công giáo, tôi đã tìm thấy và đặt được niềm tin mình trên nền tảng của Đức tin đạo giáo.

 5. Đạo Công giáo rao giảng về tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với con người. Một tình yêu không những không hạ thấp phẩm giá con người, trái lại còn nâng con người lên trong nhân phẩm, thêm sức mạnh linh thiêng và giúp con người tự tin trong việc trao phó mọi việc nơi Thiên Chúa. Ở bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào luôn luôn họ được Thiên Chúa bảo vệ và gìn giữ.

 6. Đạo Công giáo mời gọi mọi người sống Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến. Những dân tộc sống ở Tây Phương qua nhiều thế kỷ đã được giáo dục theo những nhân đức này. Họ trở thành những dân tộc hiếu động, can đảm và lạc quan không phải chỉ trong lãnh vực tôn giáo mà cả ngay trong đời sống hằng ngày. Họ rất nhiệt thành với sự hăng hái mạnh mẽ trong các lãnh vực khoa học, đào sâu kiến thức con người, xây dựng xã hội, giúp đỡ những kẻ nghèo khó bần cùng và cải tiến đời sống con người. Tất cả có lẽ chỉ vì họ đã được giáo dục trong ba nhân đức thần thông này.

 7. Đối diện với những đau khổ của con người và tội lỗi của thế gian. Đạo Công giáo thực sự lăn xả vào vấn đề, cố gắng tìm hiểu và biến đổi tất cả nên tốt hơn. Giống như một ngôi nhà đang bốc cháy, Phật giáo tìm đường chạy ra ngoài trong khi Công giáo tìm cách vào nhà để dập tắt ngọn lửa. Hoặc cũng giống như một căn nhà sắp đổ xuống, Phật giáo muốn phá đi hoàn toàn, nhưng Công giáo tìm cách chống đỡ và xây dựng lại để mọi người có thể ở trong đó.

 8. Đức Giáo Hoàng qua nhiều thời đại luôn luôn khuyến khích mọi tín hữu yêu mến quốc gia dân tộc mình, xây dựng đất nước và dự phần vào công việc xã hội, để tìm hiểu, cải tiến và thánh hoá. Phật giáo lo làm sao để thoát ra ngoài sự phức tạp này: đi thật xa để không còn vướng víu vào nữa.

 Tóm lại, cám ơn Chúa, tôi đã trở thành người Công giáo. Vì tôi đã có dịp tìm hiểu về cả hai tôn giáo và so sánh. Công giáo đã cho tôi thấy một con đường để cải tổ xã hội, quốc gia và chính linh hồn mình. Tôi đã được Rửa tội hơn mười hai năm rồi. Tôi thú nhận là trong suốt khoảng thời gian này tôi đã chưa đạt được những tiến triển về đường nhân đức, nhưng tôi hạnh phúc vì mình là người Công giáo. Cả gia đình tôi cũng đã Rửa tội và bất cứ khi nào có thể, tôi đều loan truyền đạo Công giáo đến bạn bè và những đồng nghiệp của tôi

Bác sĩ Chang Shu Wen