Cuộc hành trình của đời tôi

Cuộc hành trình của đời tôi

                                                                                 Linh mục Bửu Dưỡng, O.P.

                                                                                               nguồn: xuanha.net

http://translate.google.com/translate?hl=en&sl=vi&tl=en&u=http%3A%2F%2Fkeditim.net

 
Tác giả của bài viết này là Giáo sư Triết học của Viện Đại Học Sài Gòn, Việt nam. Ngài là hậu duệ của các Vua Triều Minh Mạng, Tự Đức. Dưới những triều đại này, Giáo Hội Công giáo đã bị cấm cách và sát hại gắt gao vào khoảng thế kỷ 19. Hiện tại, Ngài là một Linh mục Dòng Đaminh. Ngài là Phó Giám tỉnh của Dòng và là Chủ tịch của Tổ chức các Dòng tu tại Việt nam. Bài này được viết trong chuyến du hành sang Pháp trên tàu André Lebon vào năm 1935, bảy năm sau ngày Ngài Rửa tội theo Giáo Hội Công giáo và năm năm trước ngày Ngài được phong chức Linh mục. Ngài sang Pháp du học và lãnh nhận Thánh chức Linh mục.


Tôi rời Huế vào ngày 24 tháng 10 năm 1935. Nơi đầu tiên tôi sẽ đến là Nha Trang để thăm cha tôi hiện đang làm tỉnh trưởng tại đây.

Thường thường chuyến xe lửa khởi hành từ Hà nội đến rất đúng giờ, nhưng hôm nay không hiểu vì sao nó lại trễ mất một giờ đồng hồ. Tôi đã đến ga thật sớm và vì thế phải chờ đợi. Nhà ga vào buổi sáng gió rất mạnh. Cái lạnh thấm vào da thịt tôi và những người cùng đi tiễn chân tôi. Cho đến hôm nay, khi ngồi nhớ lại cái giây phút chia ly đó, tôi cầu xin Chúa trả công bội hậu cho tất cả những ai đã vì lòng bác ái bảo bọc, nâng đỡ cho những người hiến thân cho Chúa trên đường tu hành.

Tôi vẫn thường có những cuộc hành trình tương tự lúc còn nhỏ, khi tôi chưa ý thức được sự việc chung quanh và chưa lo lắng về đời sống vật chất. Hôm nay, trong chuyến đi này, với một sự thanh thản cố hữu, tôi sẽ vượt qua các đồng bằng, những con đường ngoằn nghèo dốc núi. Theo đuổi những vô tư không phải vì không biết lo lắng, nhưng là vì muốn thực hành những nhân đức trong đời sống con người. Tôi yêu đời và tôi muốn sống hết cho tình yêu này, nhưng giờ đây, cũng với tình yêu ấy, tôi muốn nó được hòa nhịp với chân lý cao vời.

Như thế, với cùng một tuyến đường, với cùng những quang cảnh quen thuộc, những núi non, những sông ngòi, cũng nói chuyện dông dài với những người bên cạnh, tôi vẫn là tôi, vẫn là con người cũ. Vẫn là con người cũ nhưng bên trong đã có thật nhiều thay đổi. Cảm nhận được niềm hạnh phúc đang dâng lên, nghĩ tới những hạnh phúc sẽ đến. Tôi hối tiếc quá, hai mươi năm trời của đời sống đã qua trong đời mình với những lầm lỗi, thiếu sót và vô tâm. Làm sao tôi có thể được sống lại một lần nữa những ngày tháng đó? Rồi tôi tự hỏi không biết những người trẻ khác có lầm lỗi, thiếu sót và vô tâm như thế không? Và sau một thời gian dài hoang phí tuổi trẻ liệu họ có được một tiếng gọi thần linh nào đánh động không?

Tạ ơn Chúa vì Ngài đã thương đến con và tôi cầu nguyện cho những người khác.

Vô tình trong chuyến đi, tôi gặp S., anh là một người rất thông minh, đa năng, đa tài. Anh biết đánh đàn Tây-ban-cầm, anh biết đánh cờ, anh biết làm thơ và cả hội họa nữa (Một người có đủ tài Cầm, Kỳ, Thi, Họa). Anh cũng bỏ mất thời tuổi trẻ như thế. Tất cả những cố gắng trong suốt những năm học trường nhà Dòng với các Sư Huynh chỉ đưa đến một kết quả duy nhất là anh có được các cấp bằng cao hơn để tiến thân. Những khủng hoảng tinh thần đã xảy đến, nhưng niềm tin (hay niềm-không-tin) của anh đã không thay đổi, một niềm tin không có Chúa cũng chẳng có Phật.

Anh thật sự yêu mến và bênh vực Giáo Hội Công giáo. Anh nhớ hầu hết giáo lý đã học tại trường nhà Dòng. Anh cho đó là sự thật, nhưng điều lạ lùng là: Tại sao anh ta lại không có Đức Tin? Phải chăng vì anh ta chưa nhận được ơn Chúa? Hay là vì anh ta còn quyến luyến vật chất thế trần đến độ không nghe được tiếng gọi của Chúa? Hỏi, mà tôi không trả lời được một câu nào cả, nhưng đó là vấn đề của riêng anh ta với Thiên Chúa, chỉ có Chúa và anh ta có câu trả lời.

Theo nhận định của tôi, không có một hướng đi nào rõ ràng cho linh hồn của anh, Có thể nói anh là biểu tượng cho đại đa số tuổi trẻ Việt nam, nhưng anh đã giúp tôi trên cuộc hành trình tôi đã đi qua từ Phật đến Chúa, chắc anh ta sẽ ngạc nhiên nếu tôi cho anh biết rằng anh đã giúp tôi nhận ra Chúa. Nhưng thưa anh kính mến, tôi xin anh đừng hãnh diện vội và kết luận rằng anh đã đưa tôi đến với Chúa, anh hãy cảm tạ Chúa vì Ngài đã lưu tâm đến anh, hướng dẫn anh đạt được kết quả này qua những việc làm anh không ngờ, đã không nghĩ và lưu tâm tới.

Việc gặp gỡ anh S. trên chuyến xe lửa đó đã giúp tôi nhìn lại con đường thiêng liêng tôi đã đi qua.

Trước kia, tôi rất ghét Kitô giáo và như thế tôi không muốn có một liên hệ nào dù xa dù gần với các Linh mục hay người có đạo. Tôi không bao giờ đọc một sách báo nào dính dáng đến đạo Công giáo. Cái ấn tượng ghét đạo đã khiến tôi trở thành cực đoan một cách vô lý đến nỗi mỗi khi nhìn thấy chữ “Thiên Chúa” tôi cảm thấy khó chịu và nếu có thể, tôi sẽ sửa thành chữ “Trời”. Trong lớp học dạy cho các trẻ em, tôi chống lại việc dùng chữ “Thiên Chúa”. Lòng ác cảm đã khiến tôi trở thành điên rồ.

Lạy Chúa! Xin tha thứ cho con! Xin tha cho con mối ác cảm điên loạn ấy! Con biết rằng Chúa hiểu con, với một tâm hồn ngay thật con đã lạc lối, chạy theo những dự tưởng sai lầm và rồi quá trớn…

Trong suốt năm học cuối cùng sửa soạn cho việc thi tốt nghiệp trung học, anh S. đến trọ tại nhà chúng tôi. Chúng tôi học cùng năm nhưng khác trường, anh học tại trường nhà Dòng của các Sư huynh, còn tôi học tại trường công lập của Chính phủ. Chúng tôi nói chuyện với nhau rất hợp qua các đề tài học hành và giải trí, nhưng khi vô tình đề cập đến vấn đề tôn giáo hay đức tin, chúng tôi không tránh được việc cãi cọ. “Cãi cọ” có lẽ không đúng lắm, vì thường tôi đáp trả bằng những lời lẽ khá nặng nề và anh không chống cự vì anh đang ở trọ tại nhà tôi. Để đối lại với những tấn công nặng nề của tôi, anh chỉ đáp lại một cách cầm chừng và sau đó lại làm hoà với nhau. Anh không tự mình bênh vực, anh chỉ lập lại những chân lý đã nghe từ các Sư huynh trong trường.

Rất ít khi chúng tôi nói chuyện với nhau về tôn giáo. Cũng chẳng lạ gì vì môi trường chúng tôi sống là một môi trường ngoại giáo, những vấn đề như Đức tin hay tôn giáo chúng tôi nghĩ chỉ làm mất thì giờ mà chẳng có lợi ích gì.

Hiếm hoi bàn luận về tôn giáo như thế, thế mà trong thời gian này có một vài mẫu chuyện cũng đã khiến tôi phải suy nghĩ. Ngay đến lúc này, tôi còn nhứ như in một câu chuyện như sau:

Câu chuyện xảy ra vào một buổi tối, khi chúng tôi đang ngồi ngắm trăng trong bầu khí mát mẻ trước hiên nhà bên bờ sông. Chúng tôi nói đủ mọi thứ chuyện. Như những thanh thiếu niên nói chuyện trong lúc nhàn rỗi. Chúng tôi đề cập đến đủ mọi thứ đề tài, trừ đề tài tôn giáo và nhân đức. Rồi chẳng biết từ đâu, vấn đề tôn giáo chen vào, hình như bắt nguồn từ câu chuyện nói về những người coi tử vi và bói toán mà chúng tôi đã tìm gặp để nhờ xem về kết quả kỳ thi cuối năm. Có lẽ liên can đến việc này mà vấn đề tôn giáo và đức tin được đề cập đến.

Tôi mở đầu: “Mặc dù thuyết nhà Phật đã được quảng bá rất sâu rộng nhưng Đức Phật không phải là Đấng Sáng tạo. Chúng ta tin rằng Trời đã tạo nên và nuôi dưỡng chúng ta, nhưng chúng ta lại không thờ Trời. Chúng ta chỉ dâng lễ vật lên bàn thờ Phật và rồi sống theo ý riêng mình, chúng ta cũng kính thờ Khổng tử và tin tưởng vào tử vi và bói toán. Con người thật lạ lùng.”.

Anh S. phản ứng ngay: “Người Kitô hữu không giống vậy. Họ tin Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng và là Đấng Sáng tạo. Họ không tin thờ Thiên Chúa một cách vô lý như chúng ta. Giống như người Do Thái, nhưng người Do Thái vì giải thích Cựu Ước theo ý riêng của họ, nên họ vẫn còn đang mong đợi Đấng Cứu Thế trong khi người Kitô hữu tin Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu thế đã đến.

Thật ra, nhiều thế kỷ trước khi Chúa Giêsu giáng sinh, các Tiên tri trong thời Cựu Ước đã loan báo về thời gian và nơi chốn Ngài sẽ được sinh ra, họ còn nói chi tiết hơn cả về đời sống khó nghèo, sự đau khổ và cái chết bi thảm của Ngài. Người Do Thái tin những lời tiên này, nhưng họ từ chối không tin vào con người Giêsu.

Những lời lẽ này khiến tôi suy nghĩ nghiều.

Những câu chuyện không đầu không cuối như thế từ bạn bè, gia đình, những người quen qua một vài lần gặp gỡ như Bác sĩ D., Kỹ sư C.. Họ không chủ ý, nhưng họ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa tôi trở lại đạo Công giáo. Có lẽ Chúa đã từ đó tỏ lộ cho tôi lòng quảng đại của Ngài, vì lòng oán ghét đạo của tôi, thay vì Chúa gởi đến những người có đạo để thuyết phục tôi, Ngài đã dùng những lương dân để đánh thức linh hồn tôi hướng về Ngài.

Những lần nói chuyện như thế, dù tôi đã phải suy nghĩ nhiều về nó, nhưng vẫn chưa đủ mạnh để phá vỡ cái hàng rào đang ngăn cách tôi với Kitô giáo. Chúa còn hướng dẫn tôi đến khám phá ra chân lý và sự kỳ diệu của tôn giáo qua sách vở, báo chí. Những lý lẽ của anh S. đã thật sự khiến tôi xiêu lòng, nhưng vì quá gần đến kỳ thi cuối năm, nên mọi việc đều phải gạt sang một bên, nhất là đó lại là vấn đề tôn giáo với tôi là một thiếu niên. Tôi vẫn sống với một tinh thần của một Phật tử và ác cảm với Kitô giáo.

Ngày loan báo kết quả tôi đậu kỳ thi cuối năm, tôi ra phố và ghé lại tiệm bán sách Đắc Lập để mua một vài cuốn sách. Tự cho mình đã trưởng thành đã mãn nguyện về chuyện học hành, tôi có thể mua đọc vài cuốn sách dành cho người lớn. Tuy nhiên, khi nhìn những cuốn sách này, tôi thấy xấu hổ và thay vào đó, tôi đã mua hai cuốn sách của Chanteaubriand và Pascal đó là cuốn Le Génie du Christianisme và Pensées. Tôi mua những cuốn sách này chỉ vì ưa lối viết văn của Chanteaubriand và Pascal hơn là mua để đọc, vì tôi có thể đoán được nội dung của nó ca tụng Giáo hội Kitô giáo. Tôi không phải là đọc giả của những loại sách này.

Những cuốn sách vô tội này đã phải chịu một số phận hẩm hiu trong một góc nhà không ai đụng tới cho mãi đến khi tôi thu dọn đồ đạc, sách vở đi Hà Nội để theo học Đại học tại đây. Khi đóng thùng những cuốn sách không cần thiết để bỏ lại nhà, vô tình tôi mở cuốn Pensées và đọc qua một vài hàng trong một trang nào đó. Tôi chú ý vì đoạn văn có nhiều ý nghĩa. Đồng thời, cùng lúc ấy có một sức mạnh lạ thường nào đó chen vào tâm hồn tôi, thế là tôi quyết định đem hai cuốn sách đó đi theo.

Có vài lần khi đọc vài đoạn văn trong đó, tôi cảm thấy bối rối. Thật ra nó chỉ tạo trong tôi một chút tình cảm hơn là nó đã lôi kéo được tôi. Tình cảm này đã khiến tôi tìm hiểu nhiều hơn về vấn đề.

Có những khoảng thời gian tôi cảm thấy bất an trong đời sống, dường như tôi đang trải qua những cơn khủng hoảng của đời sống, cái tâm trạng này kéo dài trong suốt ba năm liền.

Những loại tâm trạng tương tự như thế từ buổi thiếu thời khi còn học tại trung học lại trở lại trong trí tôi: Những lần tôi không giải trí chung với các bạn trong giờ giải trí, những đêm dài mất ngủ, những buổi chiều trống rỗng sau khi nghe vài bản nhạc buồn, sau khi vẽ một vài nét trên tấm vải mới căng cho bức tranh lạ. Tất cả những tâm trạng ấy đưa tôi đến việc tự hỏi: “Có phải Kitô giáo là một tôn giáo thật và tôi phải theo hay không?”.

Tôi phải theo? Thật là một điều ngoài trí tưởng tượng! Không bao giờ! Không bao giờ! Dù nó đúng, nó thật, nó hay…nhưng “ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Thật ra sự bướng bỉnh đã làm tôi hóa ra ngu đần: Câu tục ngữ trên áp dụng vào vấn đề tôn giáo không đem lại một ý nghĩa nào cả.

Trong khi coi Kitô giáo như một tôn giáo của ngoại bang, tôi không để ý đến những vấn đề khác như Đức Phật của Phật giáo là người Ấn Độ, Đức Khổng Tử là người Trung Hoa và nhất là Chúa Giêsu mặc dù không phải là người Âu Châu nhưng Ngài được các quốc gia trong lục địa này tôn thờ. Họ tôn thờ không phải Ngài là người này hay người kia, nhưng chỉ vì họ tin Ngài là Chúa và họ tôn thờ Thiên Chúa.

Thiên Chúa là Chúa của tất cả các quốc gia dân tộc, không dành riêng cho một quốc gia dân tộc riêng rẽ nào. Khi Ngài đến trần gian mặc lấy xác phàm, Ngài đã được sinh ra trong dân tộc Do Thái. Dân tộc Do Thái này vì thế đã được gọi là dân được tuyển chọn. Họ tôn thờ Thiên Chúa của họ, họ đã không bị chi phối bởi các nguồn đức tin khác từ Ấn Độ, từ Trung Hoa, từ Hy Lạp hay Rôma, mặc dù các quốc gia này đã có những nền văn minh tân tiến hơn so với họ.

Dân tộc Do Thái qua thời gian vẫn trung thành với Đấng Sáng tạo, dĩ nhiên cũng có những trường hợp riêng lẻ cá nhân chạy theo niềm tin này khác, nhưng cách chung họ coi việc thờ phượng Thiên Chúa như một điều bắt buộc trong đời sống. Có lẽ đây chính là lý do tại sao Thiên Chúa đã tuyển chọn dân tộc này làm dân riêng của Ngài. Còn biết bao nhiêu những điều bí ẩn khác tôi chưa hiểu thấu.

Chúa Kitô chính là Chúa của tất cả. Mọi người có nhiệm vụ phải tôn thờ Ngài, yêu mến Ngài, phục vụ Ngài, tuân giữ các giới răn của Ngài và vâng lời Ngài.

Còn đối với con người, bất cứ ai ở bất cứ đâu đều có thể đưa ra một triết thuyết nào đó rồi chỉ dạy, hướng dẫn người khác và tin rằng điều đó có ích lợi cho nhân loại. Những người như thế, họ hy vọng sẽ đưa đến hạnh phúc cho con người. Về phía chúng ta, chúng ta nên kính trọng họ, không nên nhìn vào họ trong khía cạnh con người với những lầm lỗi và yếu đuối, chấp nhận những điểm tốt, hữu ích, đừng theo những điểm xấu, sai lầm, tránh những cố chấp và bần tiện. Trí óc con người không phải là ơn mạc khải, cũng không phải là ánh sáng của giáo huấn của Giáo Hội, nó chỉ là một mớ kiến thức được suy đi luận lại, thế mà nó muốn diễn tả những bí nhiệm của vũ trụ, nó muốn giải quyết vấn đề sinh tử. Làm sao tránh được những sai lầm phải có?

Chúng ta không đề cập đến những người tự ái, ham danh vọng, cố chấp trong những sai lầm của họ để rồi khư khư nắm giữ những tà thuyết gây thiệt hại cho nhân loại. Chúng ta chỉ nói đến những vĩ nhân, những triết gia, những người khôn ngoan, những người đã sống trong những thời đại và vì hoàn cảnh chưa bao giờ họ được nghe nói tới một tôn giáo thật, họ không thể thay đổi để tiến đến một niềm tin thật. Đó không phải lỗi của họ. Họ là những anh hùng, đời sống đầy nhân đức có khả năng siêu phàm trong nhiều lãnh vực. Họ là những người đáng kính, nhưng chúng ta không thể đưa niềm kính trọng đó trở thành một nghi lễ thờ phượng, coi họ như thần thánh, đồng hóa họ với thần linh và Thiên Chúa đấng sáng tạo vũ trụ.

Chúng ta phải ý thức, phải nhìn vào trật tự của vũ trụ và nhân loại, chúng ta phải phân biệt Đấng Toàn năng và con người, Đấng Sáng tạo và loài thụ tạo.

Ngay cả những vĩ nhân danh tiếng như Socrates, Plato, Aristotle của Hy Lạp, Khổng Tử của Trung Hoa hay vị ẩn sư đã thành Phật tại Ấn Độ. Tất cả những Vị này đều cho biết rằng họ là con người đang đi tìm hiểu, học hỏi và sống những nhân đức để đạt đến cứu cánh của đời sống con người. Đức Khổng Tử đã nói: “Không phải ta sinh ra đã hiểu biết, nhưng như những người khôn ngoan và thánh thiện khác, ta đã bắt đầu học hỏi, nhận thức không ngừng, đó là tất cả những gì ta có thể nói với các con.”…

Chính Đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Mouni) sau khi đã được kính trọng như Đức Phật, Ngài đã nói: “Tất cả mọi người đều có khả năng thành Phật”. Như thế, tất cả chúng ta đều có thể thành Phật với điều kiện phải sống đời sống từ bỏ một cách thật sự những ước muốn riêng tư và tách mình ra khỏi thế gian tục lụy. Và một ngày nào đó, chúng ta sẽ đạt được trạng thái vô vi thoát tục. Nói một cách khác, sẽ được “giải thoát”, có nghĩa là thành Phật. Phật, như thế chính là con người sau khi sống một đời sống nhân đức toàn vẹn đã được giải thoát. Họ không phải là thần linh.

Với những người này chúng ta phải tôn kính, sự thờ phượng chỉ dành cho một mình Thiên Chúa mà thôi, Đấng đã dựng nên và yêu thương chúng ta. Nếu chúng ta không biết Ngài, không biết giáo huấn của Ngài, chúng ta phải đi tìm, phải học hỏi đế biết Ngài. Nếu chúng ta thờ ơ, chúng ta sẽ giống như những đứa con rơi không biết cha mẹ mình là ai. Một cách sống thờ ơ như thế sẽ đưa đến tội lỗi và là dấu chỉ của sự vô ơn.

Những điều này dù sao tôi cũng chỉ mới nghĩ đến trong những năm gần đây. Trước kia, sự thù oán và những tư tưởng vô lý khiến tôi mù lòa không nhìn thấy, không chấp nhận Kitô giáo. Tệ hại hơn nữa, nó còn lấn át đi cả tiếng gọi nội tâm không ngừng kêu mời tôi đến học hỏi, tìm tòi về chân lý thật sự ấy.

Đọc lại những dòng tư tưởng trên, tôi mỉm cười tự hỏi sao một người đã là tôi lại có thể viết được những điều này…Thật vậy! Lạy Chúa! Ngài yêu con biết bao. Dù con đã ngỗ nghịch, Ngài vẫn âm thầm tiếp tục dìu dắt con trở lại với Ngài. Ước muốn duy nhất của Ngài nơi con đó là Ngài muốn con thoát khỏi án phạt đời đời và trao cho con một hạnh phúc bất diệt.

Càng ngày, tôi càng tin tưởng hơn vào chân lý nơi Giáo Hội Công giáo, nhưng tôi không nghĩ đến việc sẽ rửa tội. Mỗi lần ý nghĩ rửa tội xuất hiện là mỗi lần tôi vội xua đuổi nó ngay. Mỗi lần tôi nhìn những người Công giáo Việt nam, tôi có cảm tưởng họ đang theo một tôn giáo của ngoại bang, nó xa lạ và khác thường với phong tục tập quán dân tộc, nó có vẻ “Tây” quá. Nhìn vào cách ăn nói, các nghi lễ, hình dáng nhà thờ… nó có vẻ Âu tây hơn là một màu sắc quốc tế. Đối với tôi, yêu mến văn hóa Khổng Tử, kính trọng đời sống kham khổ của các tu sĩ Phật giáo là những ngăn trở khiến tôi khó đến với Công giáo. Đời sống tự do của người Công giáo và ngay cả các Linh mục khó cho tôi có thể nghĩ rằng họ là những người tin Chúa và là tôi tớ của Chúa.

Một ngày nọ, khi đến thăm ông nội tôi, tôi gặp một Tu sĩ Phật giáo đang ở nhà ông tôi. Vị tu sĩ không ngớt lời ca ngợi những Thày tu Dòng khổ hạnh truyền giáo (Cistercians) tại một ngôi nhà mới lập gần Huế. Đời sống của các Tu sĩ này đã ảnh hưởng tôi thật nhiều. Sự tìm hiểu của tôi về đời sống của họ đưa tôi đến sự khâm phục và cuối cùng dẫn tôi đến việc quyết định gia nhập Giáo hội Công giáo.

Tôi trình bày đời sống và niềm tin của tôi với Linh mục Bề trên nhà Dòng và chính Ngài đã Rửa tội cho tôi ngày 15 tháng Tám năm 1928.

Phép Lạ Ngày 13 Của Tôi

Phép Lạ Ngày 13 Của Tôi

Sat, 15/10/2011                                             Anthony Lê Ngọc

                                                                    nguon: thanhlinh.net

  Vào khoản tháng 2 năm 2007, sau khi được bác sĩ kiểm nghiệm và xác nhận tôi đã bị chứng bệnh Ung thư gan vào thời kỳ thứ 4 ( tức là thời kỳ cuối của căn bệnh) . Tôi biết không còn hy vọng nhiều, tôi chỉ biết cầu nguyện phó thác vào sự quan phòng của Chúa và trông cậy vào Mẹ Maria, mặt khác tôi cố gắng làm mọi việc theo sự điều trị mà bác sĩ yêu cầu , vì tôi tin tưởng Chúa sẽ làm việc qua tay bác sĩ hoặc bằng một cách nào đó.
       Sau một thời gian trị liệu khoản 8 tuần lễ , bác sĩ cho biết thuốc đã không giúp gì cho bệnh gan của tôi, bác sĩ đưa cho gia đình tôi 2 điều kiện để chọn , vì ông đã bó tay với căn bệnh của tôi.
       Điều kiện 1 là sẽ ngưng điều trị vì thuốc đã không giúp được bệnh mà còn hành tôi đau đớn.
       Điều kiện 2 là sẽ thử loại thuốc khác (thuốc này ông biết là không giúp gì như thuốc kỳ trước) với lại sự phản ứng thuốc này mạnh gấp mươi lần .
       Tôi đã quyết định điều kiện 2 , vợ và các con tôi cũng ủng hộ theo tôi như vậy . Bên cạnh đó chúng tôi cầu nguyện nhiều hơn nữa , gia đình ở Việt nam của tôi cũng nhờ các Hội đoàn cùng cầu nguyện cho tôi. Hằng ngày chúng tôi thường lần chuỗi Lòng thương xót Chúa và chuỗi Mân côi. Chúng tôi đọc kinh chung qua mạng v..v…
        Và sau lần trị liệu tiêm thuốc đầu tiên của thuốc kỳ 2, trong người tôi đã không bị hành đau đớn như lời bác sĩ báo trước, nên ông đã cho tôi tiêm thuốc thêm liền tuần lễ kế tiếp (thay vì tiêm 1 tuần và nghỉ 3 tuần rồi mới tiêm lại theo chu kỳ ). Và tôi được tiêm 2 tuần rồi nghĩ 1 tuần.
        Cho đến ngày 13 tháng 5 năm 2007 , chúng tôi cũng cầu nguyện như thường lệ , khi tái khám lại ngày 14 tháng 5 2007, thì bác sĩ xác nhận tôi đã qua thời kỳ nguy hiểm, vì cục bứu ung thư đã teo dần và sức khỏe tôi đang tiến triển tốt hơn. Tôi biết Chúa đang làm viêc trên căn bệnh của tôi qua lời cầu bàu của Mẹ.
        Tôi muốn chia sẽ niềm vui này của tôi để ca ngợi Thiên Chúa và Mẹ Maria. Không phải chỉ lần này mà đã nhiều lần trong đời tôi được ơn vào ngày 13.
        “GiêSu , Maria , Giuse , con mến yêu. xin cứu chữa các bệnh nhân.”

Anthony Lê Ngọc

Thiếu Nữ Được Ơn Chữa Lành Tại Medjugorje

: Thiếu Nữ Được Ơn Chữa Lành Tại Medjugorje
Thứ Sáu, Ngày 16 tháng 12-2011                                   nguồn: memaria.org
                                                                                          Nguồn: Spiritdaily.com(Hình cô Silvia Busi, người được ơn chữa lành tại Medjugorje năm 2005)

Cô Silvia Busi người Ý bị bịnh lúc 16 tuổi và phải ngồi xe lăn vì đôi chân của cô không bước đi được. Nhưng 9 tháng sau, cô bỗng dưng hết bịnh vì cô tham dự một buổi Đức Mẹ Maria hiện ra với thị nhân Medjugorje là anh Ivan Dragicevic.

Lúc này cô Silvia được 23 tuổi, và cô tuyên bố:

“Món quà đức tin là hồng ân lớn lao nhất mà tôi nhận được.”

Từ tháng 10 năm 2004 thì cô Silvia, một học sinh ở Padua, nước Ý bắt đầu đau bịnh, nhưng đến tháng 6 năm 2005 thì cô đi hành hương và tại đỉnh đồi Hiện Ra ở Medjugorje lúc cô đang tham dự một buổi Đức Mẹ Maria hiện ra với anh Ivan thì cô bỗng dưng đứng lên và bước đi.

“Đầu tháng 10 năm 2004, tôi là một cô gái bình thường đến trường, có bạn bè, đi nhảy đầm và bơi lội. Bỗng dưng chỉ trong vài ngày, tôi bị đau và bỗng thầy mình phải ngồi xe lăn. Gia đình tôi và tôi đã trải qua những giây phút đau đớn nhất. Những tháng sau đó, tôi sụt cân, và bị bịnh kinh phong, đến nỗi tôi đau khổ và xuống tinh thần nhiều.“

“Mẹ tôi cảm thấy cần đến với Chúa để xin Chúa chữa lành cho tôi. Mẹ tôi là sức mạnh của tôi. Trong 9 tháng tôi ngồi xe lăn, mẹ tôi gia nhập một nhóm cầu nguyện làm giờ đền tạ Đức Mẹ Maria. Nhóm quy tụ mọi người vào mỗi ngày thứ sáu để đọc chuỗi kinh Mân Côi, tham dự thánh lễ và chầu Thánh Thể. Cha mẹ tôi đều tham dự nhóm và cả tôi nữa vì tôi không thể ở nhà một mình được.”

“Vào tháng 5 là tháng Hoa của Đức Mẹ Maria nên mẹ tôi quyết định phải tham dự nhóm để cầu nguyện và dự thánh lễ hàng ngày chứ không là hàng tuần. Lúc đầu tôi cảm thấy khó khăn nhưng rồi tôi cần tham dự nhóm để cảm thấy bình an.“

“Chúng tôi quyết định đi hành hương Medjugorje cũng đột ngột như căn bịnh của tôi và sự chữa lành Chúa ban cho tôi. Vào ngày 20 tháng 6, người y tá bảo tôi rằng bà ấy cùng với mẹ tôi đi hành hương Medjugorje. Tôi hỏi xem liệu tôi có được đi chung với họ không. Thế là 3 ngày sau, chúng tôi cùng ngồi xe bus đi Medjugorje, có cả ba tôi đi theo nữa. Chúng tôi đến nơi vào ngày 24 tháng 6, đó là ngày lễ kính Thánh Gioan Tiền Hô, và cũng là ngày kỷ niệm Đức Mẹ Maria hiện ra ở Medjugorje. “

“Khi tôi biết rằng thị nhân Ivan Dragicvevic có một buổi hiện ra với Đức Mẹ Maria và anh ta cho mọi người tham dự chung vào buổi tối thì tôi quyết định đi đến đó dù biết là xe lăn không thể đưa tôi lên đồi Hiện Ra được. Tuy nhiên, người ta đã khiêng tôi lên đỉnh đồi lúc 8 giờ tối, tức là trước khi Đức Mẹ Maria hiện ra khoảng 2 tiếng đồng hồ.“

“Tại đỉnh đồi ấy, tôi bước đi vào đêm 24 tháng 6 năm 2005. Sau hai tiếng đồng hồ cầu nguyện, tôi được người trưởng nhóm bảo tôi hãy xin ơn Đức Mẹ Maria vì Mẹ sẽ từ Thiên Đàng xuống trần gian để lắng nghe lời cầu nguyện của mọi người hiện diện. Lúc ấy tôi xin Đức Mẹ Maria hãy cho tôi thêm sức mạnh để bình an chấp nhận thử thách của một cuộc sống trên xe lăn vì tôi chỉ mới có 16, 17 tuổi mà thôi và tương lai thì quá dài, thật là đáng sợ.”

“Trong khi Đức Mẹ Maria hiện ra với anh Ivan thì tôi thấy một luồng ánh sáng ở bên trái, màu trắng sáng láng và một tiếng động lớn. Khi nhìn thấy vậy, tôi sợ quá nên cúi đầu xuống, không dám nhìn lên. Tuy vậy, trong suốt buổi hiện ra, tôi vẫn thấy luồng ánh sáng qua kẽ mắt của mình.”
 
Sau buổi hiện ra những người khiêng Silvia không còn thấy cô ấy nữa vì cô ngã xuống trên đống đá của ngọn đồi. Tuy nhiên Silvia không cảm thấy đau mà cô lại được chữa lành.

“Tôi nhớ lại giống như mình nằm trên tấm nệm mềm chứ không phải trên những tảng đá nhọn và sắc. Tôi cũng nhớ rằng có một giọng êm ái nói với tôi và làm cho tôi cảm thấy bình an. Vài phút trôi đi, tôi mở mắt và thấy ba tôi đang khóc, nhưng đó là lần đầu sau 9 tháng, tôi thấy đôi chân mình nhúc nhích được. Tôi nói với ba tôi rằng:

“Ba ơi, con được chữa lành rồi, con có thể đi lại được rồi!”

“Rồi tôi thấy có một bàn tay đưa ra và tôi nắm lấy. Tôi bật khóc vì không thể tưởng tượng được sự chữa lành cao cả ấy. Tôi bắt đầu bước đi, đôi chân tôi teo lại nhưng tôi không té vì tôi biết rằng hình như có một sợi dây vô hình giữ tôi lại ở đàng sau.”

“Sáng hôm sau, khoảng chừng 5 giờ sáng, tôi leo lên núi Krizevac để cầu nguyện và đi đàng thánh giá chung với nhóm của tôi. Khi tôi từ Medjugorje trở về thì tôi vẫn còn bị kinh phong, tôi phải cần đi hành hương Medjugorje lần nữa để được chữa lành hoàn toàn.”

“Tôi tiếp tục bị kinh phong. Mới đầu tôi mắc cở nên không chịu làm chứng về ơn chữa lành Chúa ban cho tôi, và tôi bị kinh phong nhiều lần trong một ngày. Rồi linh mục Ljubo Kurtovic từ Medjugorje đến Turin để gặp gỡ nhóm cầu nguyện và ngài bảo tôi rằng:

“Con cần phải cảm tạ và vinh danh Thiên Chúa về những hồng ân mà Chúa đã ban cho con!”

Khi ở Medjugorje thì vị linh mục Dòng Phanxico tên là cha Ljubo Kurtovic thường hay liên lạc với dân làng và khách hành hương. Vì thế cô Silvia Busi xem cha Ljubo là một máng thông ơn cho việc chữa lành hoàn toàn của cô. Cô lần chuỗi kinh Mân Côi và làm chứng như sau:

“Trước khi từ giã thì cha Ljubo cầu nguyện và chúc lành cho tôi. Mấy ngày sau, tất cả bịnh kinh phong biến mất. Sau một năm, tôi không cần phải uống thuốc nữa. Cảm tạ Chúa tôi đã được chữa lành toàn bộ.”

Dù cho cô Silvia Busi được Chúa chữa lành thể xác hoàn toàn nhưng cô cho rằng ơn lành lớn nhất là sự chữa lành phần hồn:

“Món quà lớn nhất mà Thiên Chúa ban cho tôi và cho gia đình tôi là tái khám phá ra hồng ân của Thiên Chúa, đức tin và hoán cải. Con đường rất dài và chúng tôi mới bắt đầu và sẽ tiếp tục đi trong suốt cuộc đời. Những sự khó khăn còn đó nhưng với quyền năng của đức tin và lời cầu nguyện, chúng tôi có thể lướt qua và đối diện với những khó khăn ấy.”

Với ơn hoán cải này, hình như Chúa đã thắp sáng một ngọn lửa trong tôi. Nhưng lửa cần được bắt đầu với củi, nên đức tin cần được nuôi dưỡng bởi lời cầu nguyện, bằng cách tham dự thánh lễ,  chầu Chúa Giêsu Thánh Thể, lần chuỗi kinh Mân Côi, đọc Thánh Kinh, ăn chay, và xưng tội thường xuyên ít nhất mỗi tháng một lần. Với những việc sùng kính ấy, ngọn lửa sẽ không tắt và dù cho có gió cũng không sao.“

Đối với tôi, được chữa lành hồn xác thật sự là điều quan trọng và đẹp đẽ nhất trong cuộc sống. Tôi cầu nguyện với trọn trái tim và mỗi ngày tôi cảm nghiệm thêm rằng:

“Tình yêu của Thiên Chúa và Đức Mẹ Maria cành cho tất cả chúng ta thật là bao la và không giới hạn.”

Kim Hà
16/12/2011
 

CHỨNG NHÂN TÌNH YÊU

CHỨNG NHÂN TÌNH YÊU

 

                                                                                               Lm. John Nguyễn, New York.

Vào ngày 13 tháng 11 năm 2009, theo tờ Dallas Morning News đã đưa tin, bà Carrie Gehling, 45 tuổi, đã bị mất cả hai chân vì bệnh tiểu đường, đau tim, và cần được ghép thận sau nhiều năm lọc thận.  Bác sỹ cho biết bà đang gặp nguy cơ đến tính mạng.  Trong lúc bệnh tật và khó khăn, Bà Gehling chạy đến Đức Ông và cũng là cha xứ Mark Seitz tại nhà thờ Saint Rita ở Dallas, tiểu bang Texas, để nhờ ngài tìm kiếm quả thận cho bà.  Khi nhận được tin này, Đức Ông Seitz đã suy nghĩ, tại sao không phải là tôi?  Sau đó, ngài quyết định tặng quả thận của mình cho bệnh nhân, ngài coi việc hiến tặng này là biểu lộ tình yêu và nhiệm vụ của linh mục.  Ngài nói rằng: “Tôi noi gương Chúa Giê-su vì Ngài đã hy sinh mạng sống cho tôi, thì tôi cũng có thể cho đi một quả thận cho người đang cần được sống”.

 

 Hơn nữa, ngài rất ngưỡng mộ lòng dũng cảm của bà Gehling khi phải đối phó với căn bệnh khủng khiếp này, nhưng bà ấy luôn vẫn tin tưởng vào lòng nhân từ và tình yêu của Thiên Chúa khi tiếp cận với những người khác.  Để có được đức tin mạnh mẽ như thế, thì bà ta cũng đã trải qua một kinh nghiệm về quá khứ của tuổi trẻ.  Như lời bà Gehling nói với Dallas Morning News rằng: Khi được 20 tuổi, bà đã bị mất niềm tin một thời gian sau khi người cha qua đời vì căn bệnh đau tim.  Một ngày kia, tôi tỉnh dậy và nghĩ rằng, mình thật là điên khùng.  Bà nói tiếp: Nếu cha tôi còn sống sau cơn đau tim, thì ông ta chỉ sống như một loài thực vật.  Vậy những gì Chúa đã làm là tốt nhất.  Lời sau cùng, bà Gehling nói rằng: Không có từ ngữ nào có thể nói lên lời cảm ơn.  Làm thế nào để có thể nói lời cảm ơn với một người đã cho bạn một cuộc sống mới!  Bà đã gọi đây là quả “thận thánh”, trong khi đó vị linh mục Seitz nói, món quà ấy chỉ là một cố gắng sống theo gương của Chúa Kitô.

 

Gương mục tử hiến tặng quả thận có thể dẫn đưa chúng ta đến gần với trang Tin mừng hôm nay về sự từ bỏ, quên mình và làm chứng cho Tin mừng, cho tình yêu Thiên Chúa một cách sống động và thiết thực hơn.  Cha Seitz đã chia sẻ sự sống của mình cho bà Gehling, một người đang khát khao để được sống.

 

Khi Chúa Giê-su sai các Tông đồ đi rao giảng, thì Ngài ban cho các ngài được quyền chữa trị trên các thần ô uế, và chỉ thị đầu tiên của Ngài đối với các Tông đồ là không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không mang lương thực, bao bị, tiền bạc v.v… Khi nghe những lời căn dặn này, chúng ta nghĩ rằng, nó không thực tế trong bối cảnh của xã hội ngày nay.  Bởi vì, chung quanh chúng ta đâu có ai nghèo đến nỗi không có hai áo, giày dép, bao bị, tiền bạc, ngay cả các linh mục, tu sỹ cũng ăn mặc đàng hoàng, và có những điều kiện tối thiếu để sinh hoạt hàng ngày, đằng khác có người còn dư thừa không chỉ có hai bộ mà có cả tủ quần áo thì sao!  Chúng ta có lý do để cho rằng, lời dặn của Chúa Giê-su không phù hợp với những gì con người đang có, sử dụng và hưởng thụ.

 

Cho nên, chúng ta cần tìm hiểu sâu hơn trong bối cảnh của đoạn Tin mừng.  Lúc bấy giờ dân chúng đang sống trong cảnh lầm than, đói khổ, bệnh tật và hoạn nạn, bị áp bức và thống trị, cho nên họ cũng mong được giải thoát khỏi cảnh khốn khổ lầm than.  Chúa Giê-su là nhà cách mạng cho công lý, cho sự thật, cho hòa bình trước khổ đau của con người.  Lời căn dặn và chỉ thị của Ngài mang ý nghĩa nhân sinh hơn, bởi vì lời rao giảng đó phải được gắn liền với việc làm.  Nếu các Tông đồ không sống, không thực hiện đời sống khó nghèo thì giáo lý của Chúa Giê-su rao giảng cho ai?  Khi Chúa trao cho các ông có quyền trong tay, rồi chuyện gì sẽ xảy ra, vì lòng tham của con người là vô tận.  Đằng sau lời căn dặn đó, Chúa Giê-su muốn các Tông đồ đừng bám víu vào của cải vật chất, phải siêu thoát và từ bỏ, thì mới có thể rao giảng và làm chứng cho Thiên Chúa giàu lòng từ bi và nhân ái.  Ấy thế mà vẫn có Giu-đa bán Thầy vì tham tiền.

 

Có lẽ bài học được rút ra từ Lời Chúa cho chúng ta hôm nay, bài học đó không chỉ dừng lại trên phương việc sử dụng của cải vật chất sao cho hợp lý, mà còn là bài học của cái tâm biết thương người.  Giáo hội cần có tấm lòng quảng đại của những vị mục tử tốt lành dám hy sinh vì đoàn chiên bệnh tật, nghèo nàn, đau khổ, và tất cả mọi người kitô hữu mang danh Chúa Kitô dám sống và làm chứng cho tình yêu.  Nếu chúng ta nhận ra khuôn mặt của Chúa Giê-su đang hiện diện trong những người nghèo khổ, bệnh tật, bị áp bức là lúc chúng ta sống với giá trị của Tin mừng.

 

Cho dù, những lời chỉ thị của Chúa Giê-su cho các Tông đồ ngày xưa trong hoàn cảnh khác xa với hiện tại ngày nay, nhưng lời đó vẫn tiếp tục mời gọi mọi người chúng ta thực hiện trong cuộc sống hôm nay.  Như lời cha Seitz nói: “Việc làm của tôi là cố gắng theo gương Chúa Giê-su”. Và Mẹ Têrêxa Calcutta thì nói: “Không ai nên Thánh một mình, và không ai lên Thiên Ðàng một mình”.

 

Lạy Chúa, mọi người chúng con được Chúa sai đi làm chứng nhân tình yêu Thiên Chúa giữa dòng đời, thì xin cho chúng con biết sống yêu thương, chia sẻ, cảm thông, và biết tìm kiếm Nước Trời là cùng đích của cuộc đời chúng con.

 

Lm. John Nguyễn, New York.

Chứng nhân Cổng Trời Kiều Duy Vĩnh trở thành Kitô hữu

Chứng nhân Cổng Trời Kiều Duy Vĩnh trở thành Kitô hữu

16.03.2011                                                 trích: luongtamconggiaovietnam

LTCG (16.03.2011) – Kiều Duy Vĩnh là người từng trải qua 15 năm trong các trại tù cộng sản Việt Nam. Ông là cựu đại úy trong Quân Đội Viễn Chinh của Pháp. Năm 1960, ông Kiều Duy Vĩnh bị bắt vì tội “phản cách mạng”, cho đến năm 1970 mới được thả. Năm 1972, ông Kiều Duy Vĩnh lại bị bắt lần thứ hai cùng với nhiều người khác.


———————-

Vào ngày 14/3/2011 vừa qua, ông Kiều Duy Vĩnh, nhân chứng sống của một thời lịch sử đầy cay đắng của Bắc Việt đã trở thành một người Kitô hữu.

Kiều Duy Vĩnh là cựu học sinh trường Bưởi – Chu Văn An. Ông gia nhập quân đội Pháp và học trường võ bị Đà Lạt cùng lớp với Phó Tổng Thống của chính quyền Sài Gòn – Nguyễn Cao Kỳ. Mới 27 tuổi, ông đã là sỹ quan nổi tiếng chinh chiến nhiều trận mạc. Sau khi những người cộng sản lên năm quyền vào năm 1954, cuộc đời ông đầy đau khổ với những biến cố rất lớn đã xảy ra với gia đình ông. Bố của ông bị tử hình vì là địa chủ, ông đã bị giam cầm 2 lần tổng cộng 17 năm tù, vợ và các con phải vượt lên để sống giữa những cảnh vùi dập đầy đau khổ.

Linh Mục Đa Minh Vũ Quang Mỹ đang ân cần hỏi thăm Bác Kiều Duy Vĩnh

Trong những ngày bị giam cầm, ông đã từng ở cùng với rất nhiều Linh Mục, tu sĩ công giáo, đặc biệt với cha chính Vinh, chính xứ Nhà thờ Lớn Hà Nội. Ông đã gặp rất nhiều tấm lòng khoan dung, nhân hậu và sự hi sinh vô bờ bến của các Anh chị em người công giáo.

Ông đã ghi lại những ngày tù cay đắng đó trong tác phẩm “Cổng trời Cắn Tỷ” và “Người tu sỹ tử vì đạo Đỗ Bá Lung”. Trong tác phẩm: “Cổng trời Cắn Tỷ”, ông đã kể lại hết sức chân thực sự sống sót của duy nhất 2 người là chính ông và ông Nguyễn Hữu Đang là người cầm đầu trong vụ “Nhân văn giai phẩm” trong số 72 người bị giam ở trại Quyết tiến (Cổng trời). Lý do sống sót được ông kể lại : “Tôi sở dĩ sống sót là vì tôi không phải là người theo đạo. Nếu tôi mà đeo Thánh giá ở ngực và biết câu Kinh thì tôi phải chết đã lâu rồi”. Thật vui là, sau 80 năm làm người, hôm nay ông đã được chịu phép rửa và trở thành một người Kitô hữu.

Trong tác phẩm của mình ông Vĩnh đã viết về những người bạn tù của mình như sau: “Tôi đã thật sự gặp các vị thánh tử vì đạo. Các vị thánh tử vì đạo bằng xương bằng thịt sống cạnh tôi nhiều năm… Tôi vốn xa lạ với các tên Phêrô, Phaolồ và Mađờlen. Nhưng cái tên Đỗ Bá Lung thì cho đến hết đời tôi không thể nào quên được”.  

Đúng là “vị thánh” Đỗ Bá Lung đã “chết đi và sống lại” vẫn còn mãi trong tâm tưởng của ông Vĩnh nên vẫn tiếp tục theo dõi, nâng đỡ đời sống tâm linh cho ông Kiều Duy Vĩnh để đến hôm qua, khi tỉnh táo nhất là lúc ông yêu cầu xin được làm lễ rửa tội.


Cha Đa Minh Vũ Quang Mỹ, Chính xứ Tư Đình, đang trao nến sáng cho ông Vĩnh

Một người bạn tù là ông Nguyễn Ngọc Thu đã vội vàng đi chở Cha xứ Tư Đình là Cha Vũ Quang Mỹ (Cha Trí) đến nhà Ông Vĩnh để làm lễ rửa tội cho ông. Cha Trí đã chọn tên thánh cho ông Vĩnh là Phaolô, ngụ ý là ông đã trở về với Chúa trong cuộc đời làm người đầy sóng gió.

Sau khi chịu phép rửa và phép Xức dầu thánh, hôm nay chúng tôi sang thăm ông và thấy sức khỏe của ông tốt hơn. Một người đã nói: “Chúng tôi thấy bác ngày càng khỏe hơn trong khi cộng sản đang ngày càng yếu đi, để xem ai “đi” trước”. Dù không thể nói được, ông đã mỉm cười thật vui. Kính mong Thiên Chúa gìn giữ ông và giúp ông chóng bình phục.

Maria Nguyễn Ngọc Khánh

Chứng nhân Cổng trời Phaolô Kiều Duy Vĩnh đã được Chúa gọi về

Chứng nhân Cổng trời Phaolô Kiều Duy Vĩnh đã được Chúa gọi về                                            trích: Nuvuongcongly.net

9/07/12
Chứng nhân Cổng trời Phaolô Kiều Duy Vĩnh đã được Chúa gọi về

Gia đình thân tộc, bạn bè vừa cho biết tin ông Phao lô Kiều Duy Vĩnh đã được chúa gọi về lúc 4h chiều ngày thứ 7 ngày 7 tháng 7 năm 2012.

Thánh lễ an táng cử hành lúc 10h sáng nay 9/7/2012 tại nhà thờ giáo họ Ngọc Lâm. Thánh lễ an táng do Linh mục Đaminh Vũ Quang Mỹ chủ sự.

Kiều Duy Vĩnh là cựu học sinh trường Bưởi – Chu Văn An. Ông gia nhập quân đội Pháp và học trường võ bị Đà Lạt cùng lớp với Phó Tổng Thống của chính quyền Sài Gòn – Nguyễn Cao Kỳ. Mới 27 tuổi, ông đã là sỹ quan nổi tiếng chinh chiến nhiều trận mạc. Sau khi những người cộng sản lên năm quyền vào năm 1954, cuộc đời ông đầy đau khổ với những biến cố rất lớn đã xảy ra với gia đình ông. Bố của ông bị tử hình vì là địa chủ, ông đã bị giam cầm 2 lần tổng cộng 17 năm tù, vợ và các con phải vượt lên để sống giữa những cảnh vùi dập đầy đau khổ.

Trong những năm tháng lao tù, nhất là tại Trại giam Cổng trời, ông may mắn được sống cùng với một số linh mục, tu sĩ công giáo như cha Chính Vinh, tu sĩ Đỗ Bá Lung. Những tháng năm lao khổ đã được ông viết lại trong tập “Cổng trời Cẳn Tỷ”.

Ông đã viết về những bạn tù Công giáo bằng những lời lẽ đầy thán phục: “Tôi đã thật sự gặp các vị thánh tử vì đạo. Các vị thánh tử vì đạo bằng xương bằng thịt sống cạnh tôi nhiều năm… Tôi vốn xa lạ với các tên Phêrô, Phaolồ và Mađalena. Nhưng cái tên Đỗ Bá Lung thì cho đến hết đời tôi không thể nào quên được”.

Sau khi ra tù, ông tiếp tục chịu nhiều áp bức do bàn tay sắt của chế độ.

Ngày 14/3/2011, ông Kiều Duy Vĩnh, nhân chứng sống của một thời lịch sử đầy cay đắng của Bắc Việt đã trở thành một người Kitô hữu và chọn thánh Phaolo làm thánh quan thầy.

Hình ảnh đến thăm Chứng Nhân Cổng trời (Cổng Trời Cắn Tỷ) Phaolô Kiều Duy Vĩnh

08.04.2011                              trích: luongtamconggiaovietnam


 LTCG (08.04.2011)

HÌNH ẢNH ĐẾN THĂM NHÂN CHỨNG CỔNG TRỜI PHAOLÔ KIỀU DUY VĨNH 

Hồi Ký Phần 1 : Cổng Trời Cắn Tỷ

Trưa hôm nay chúng tôi sang Gia Lâm đến nhà người chứng nhân lịch sử tại trại giam cổng trời, chứng nhân còn lại 72 người trong trại giam cổng trời ngày ấy, nhân chứng của các Đức Thánh Tử Vì Đạo

Xem ông viết trong Hồi Ký của ông ở đây: Đức Thánh Tử Vì Đạo Thứ Hai Mà Tôi Được Gặp

Ông say sưa nói về tất cả những gì ông gặp và ông luôn luôn khảng định với chúng tối rằng tôi là chứng nhân, “Tôi nói sự thật…., tôi không nói sai”. Rồi ông nói với Cha Tư rằng Các Cha phải dạy cho mọi người trở thành “Người”, chứ đừng như người CS)…

Ông nhắc đi nhắc lại là phải làm một Đài ở Cổng Trời để Tưởng Nhớ Các Đức Thánh Tử Vì Đạo…

Những thao thức của ông Phaolô Kiều Duy Vĩnh cũng được Maria Nguyễn Ngọc Khánh viết trong bài : Chứng nhân Cổng Trời Kiều Duy Vĩnh trở thành Kitô hữu mà chúng tôi trích dẫn dưới đây.


Trong những ngày bị giam cầm, ông đã từng ở cùng với rất nhiều Linh Mục, tu sĩ công giáo, đặc biệt với cha chính Vinh, chính xứ Nhà thờ Lớn Hà Nội. Ông đã gặp rất nhiều tấm lòng khoan dung, nhân hậu và sự hi sinh vô bờ bến của các Anh chị em người công giáo.  

Ông đã ghi lại những ngày tù cay đắng đó trong tác phẩm “Cổng trời Cắn Tỷ” và “Người tu sỹ tử vì đạo Đỗ Bá Lung”. Trong tác phẩm: “Cổng trời Cắn Tỷ”, ông đã kể lại hết sức chân thực sự sống sót của duy nhất 2 người là chính ông và ông Nguyễn Hữu Đang là người cầm đầu trong vụ “Nhân văn giai phẩm” trong số 72 người bị giam ở trại Quyết tiến (Cổng trời). Lý do sống sót được ông kể lại : “Tôi sở dĩ sống sót là vì tôi không phải là người theo đạo. Nếu tôi mà đeo Thánh giá ở ngực và biết câu Kinh thì tôi phải chết đã lâu rồi”. Thật vui là, sau 80 năm làm người, hôm nay ông đã được chịu phép rửa và trở thành một người Kitô hữu.

Trong tác phẩm của mình ông Vĩnh đã viết về những người bạn tù của mình như sau: “Tôi đã thật sự gặp các vị thánh tử vì đạo. Các vị thánh tử vì đạo bằng xương bằng thịt sống cạnh tôi nhiều năm… Tôi vốn xa lạ với các tên Phêrô, Phaolồ và Mađờlen. Nhưng cái tên Đỗ Bá Lung thì cho đến hết đời tôi không thể nào quên được”. 

Đúng là “vị thánh” Đỗ Bá Lung đã “chết đi và sống lại” vẫn còn mãi trong tâm tưởng của ông Vĩnh nên vẫn tiếp tục theo dõi, nâng đỡ đời sống tâm linh cho ông Kiều Duy Vĩnh để đến hôm qua, khi tỉnh táo nhất là lúc ông yêu cầu xin được làm lễ rửa tội.
Maria Nguyễn Ngọc Khánh
Xem thêm ở đây


Sau thời tù đầy ông đã viết những câu này!

Nguồn: www.giaoxuthaiha.org

NGƯỜI ĐẠO PHẬT LẦN CHUỖI MÂN CÔI

NGƯỜI ĐẠO PHẬT LẦN CHUỖI MÂN CÔI

                                                                              trích: memaria.org

Anh Phan Tiến Quá – một người Phật giáo, từng là chuyên viên phụ trách âm thanh ánh sáng tại  tụ điểm ca nhạc126 nổi tiếng và rất quen thuộc trong giới trẻ tại TP. HCM. Đất nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, nhiều tập đoàn lớn của nước ngoài vào làm ăn tại Việt Nam. Anh Quá có cơ hội đến làm việc cho một siêu thị lớn, cuộc đời anh vì thế mà thay đổi hòan toàn.

Khi còn lãnh đồng lương khiêm tốn, anh có đời sống khép kín, ít giao tiếp và rất yêu thương vợ con. Nhưng kinh tế khá lên, thì anh bắt đầu cởi mở hơn, giao lưu nhiều hơn với bạn bè. Muốn làm ăn thì phải là tay sành điệu, sành điệu với bạn bè và sành điệu trong ánh mắt các em ….gà móng đỏ ! Các quán bia ôm là địa chỉ anh thường xuyên lui tới. Vợ anh đau khổ vật vã vì người chồng phản bội nhưng chị không sao kéo anh về với gia đình được.

Bất ngờ anh mất việc, tiền bạc vì thế mà cạn kiệt dần, nợ nần chồng chất, không lối thoát. Anh trở nên gánh nặng cho người vợ mà anh từng nhẫn tâm phản bội. Mỗi ngày qua đi là một nỗi đau dày xé lương tâm anh. Qua bao đêm dày vò, thao thức, anh quyết định tự tử và xin hiến xác cho khoa học. Ít ra, anh nghĩ rằng, như thế là anh làm được một việc có ích cho đời sau khi chết ! Vợ con anh không còn phải chịu đựng người chồng khốn nạn này nữa! Và cái ngày định mệnh ấy đã đến ……..

Ngày 13/07/2006, anh bỏ nhà ra đi từ rất sớm để thực hiện ý định tự vẫn. Anh đi lang thang vô định, thẫn thờ không biết đi đâu, về đâu ! Gia đình cuống cuồng tìm kiếm nhưng vô ích ! Nhiều lần gọi điện thoại cho anh, chỉ nhận được những tiếng trả lời ò í e… anh đã tắt máy di động rồi ! Càng hoảng sợ, càng không biết làm gì, nhất là vợ con anh, họ chỉ biết ôm mặt mà khóc, kinh hoàng nghĩ đến giờ phút nhận xác của anh trở về !

Thật may mắn, anh có người em cột chèo có đạo, hiền lành và rất thật thà, cô em vợ tân tòng tốt bụng này hay giúp đỡ gia đình anh. Anh yêu mến họ mọi điều, duy chỉ có một điều anh không thích là họ đọc kinh Kính mừng hàng ngày. Anh rất ghét khi họ cầm Chuỗi Mân Côi, miệng thì nhai nhải câu “Kính mừng Maria” …. Anh có ngờ đâu, lúc này chỉ có cặp vợ chồng này nhờ kinh Kính Mừng và chuỗi Lòng Thương Xót, họ cầu nguyện liên lỉ xin Chúa và Mẹ Maria cứu anh thoát khỏi bóng đen của tử thần.

Điều kỳ diệu đã xảy ra, lúc 16:30 chiều, anh mở máy di động và vợ anh đã khóc thảm thiết xin anh nghĩ đến gia đình mà trở về nhà với họ và anh đã xiêu lòng …. Anh trở về trong trạng thái tuyệt vọng. Gia đình anh quá đỗi vui mừng vì anh vẫn còn sống, nhưng phần anh thì ngơ ngác, chán chường. Sáng hôm sau là ngày 14/07/2007, Nguyễn Thế Hùng, người em cột chèo của anh, đã nói vào tai anh :

– ‘’Anh Quá, anh theo tôi, tôi sẽ chỉ cho một người có thể giúp anh trong lúc này’’.

– ‘’ Ừ, đi thì đi’’, anh Quá trả lời.

Hai anh em đến nhóm cầu nguyện Đức Mẹ Mễdu. Đến nơi, Hùng chỉ lên bàn thờ có tượng Đức Mẹ Mễ du, và nói :

– “Anh Quá, bây giờ chỉ có Bà đó mới giúp anh được. Anh hãy qùi xuống và cầu xin Bà ấy đi’’.

Vừa thấy tượng Đức Mẹ Mễdu, như có một sức mạnh vô hình thúc đẩy, anh qùi xuống thầm thì thưa chuyện với Mẹ. Anh say xưa thổ lộ tất cả những ưu tư phiền muộn của anh với Mẹ. Anh nói hết về gia đình anh, bạn bè anh, về thân xác khốn khổ của anh. Bao nhiêu nỗi đắng cay của cuộc đời anh tâm sự hết với Mẹ, anh khẩn thiết xin Mẹ giúp đỡ anh và gia đình anh vượt qua cơn khốn khó này.

Một điều kỳ lạ đã xảy ra : Anh qùi gối suốt hai tiếng đồng hồ bên Mẹ mà không mệt. Đầu gối chưa bao giờ qùi nhưng lại  chịu đựng được cơn đau suốt 120 phút ! Anh Hùng rất đỗi kinh ngạc, vì đã từng dặn rằng : “Nếu anh Quá qùi không được và cảm thấy khó chịu ở trước Nhà Chầu thì anh cứ ra ngoài chờ, khi nào em cầu nguyện xong thì hai anh em cùng về”. Nào ngờ, Quá không bỏ ra giữa chừng mà đắm chìm trong vòng tay yêu thương của Mẹ suốt 2 giờ cầu nguyện Đức Mẹ Mễdu. Anh Quá dường như đã trút được một gánh nặng đè trĩu trong lòng bao năm qua. Chưa bao giờ anh cảm thấy bình an và thanh thản như lúc này. Tâm hồn lâng lâng, tràn ngập một niềm vui khó tả.

Trở về nhà, anh bắt đầu thấy thấm mệt qua bao đêm mất ngủ, anh thèm được ngủ như chưa bao giờ được ngủ và anh thiếp đi trong ánh mắt bừng cháy niềm tin của những người thân yêu trong gia đình. Vừa chợp mắt được một chút thì anh mơ thấy Một Bà rất đẹp hiện đến và dẫn anh đến nhà thờ Huyện Sỹ (Saigon). Bà đưa anh đến núi Đức Mẹ, rồi biến mất. Anh choàng tỉnh giấc và bàng hoàng kinh ngạc về giấc mơ của mình. Anh quyết định đến Nhà Thờ lúc đó gần ba giờ chiều – giờ của lòng thương xót vĩ đại tuôn đổ xuống nhân loại. Anh nhận ra ý của Mẹ : Mẹ dẫn anh đến Lòng Thương Xót của Chúa.

Kể từ đó anh bắt đầu học cách cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi và lần Chuỗi Thương Xót mỗi ba giờ chiều. Kinh Kính Mừng ngày xưa anh ghét cay ghét đắng, nay anh lại dùng chính kinh Mân Côi này để tâm tình say xưa với Mẹ. Mỗi ngày qua đi là một niềm vui. Anh tham gia nhóm cầu nguyện Đức Mẹ Mễdu mỗi tối thứ tư hàng tuần tại nhà thờ Huyện Sỹ. Anh không còn làm cho tụ điểm ca nhạc 126 nữa, nhưng anh trở thành chuyên viên nhiệt thành về âm thanh ánh sáng cho cộng đoàn Mễdu. Anh vẫn là Phật tử nhưng anh đã lần đủ ba chuỗi Kinh Mân Côi, tham dự Thánh Lễ mỗi ngày mà chỉ rước lễ thiêng liêng, đọc Kinh Thánh hằng đêm để nghiền ngẫm và suy niệm Lời Chúa, ăn chay thứ tư và thứ sáu.

Anh ước ao, người vợ thân thương của anh cũng đón nhận đức tin như anh. Trong những lần cầu nguyện, anh dâng ý chỉ này cho Mẹ, cầu xin Mẹ giúp anh. Anh rất đỗi vui mừng vì căn bệnh xuất huyết hậu môn bác sỹ đã chê từ nhiều năm, nay tự nhiên biến mất, điều lạ lùng là anh không hề xin Chúa chữa lành. Người vợ cứng lòng đã nhiều lần thất hứa với Mẹ thì nay vui vẻ song hành với anh đi cầu nguyện và tham dự Thánh Lễ hàng ngày.

Một người đạo Phật đi cầu nguyện không dễ bao giờ, anh gặp rất nhiều trở ngại, có lần anh sắp sửa đi làm chứng cho Chúa thì bị vật té sấp mặt từ cầu thang xuống đất ! Anh bị bất tỉnh, mê man nhưng khi hồi tỉnh anh vẫn liên lỉ cầu nguyện và cuối cùng anh lại đến được với Chúa. Có điều kỳ lạ,̣ là trước mỗi Thánh Lễ anh hay bị sốt khiến anh không thể tham dự Thánh Lễ được. Không vì thế mà anh chùn bước, anh lần chuỗi nhiều hơn, tất cả nỗi đau thể xác anh dâng hết cho Mẹ và Mẹ đã cứu chữa anh. Đức tin của anh ngày một lớn mạnh hơn.

Anh càng hạnh phúc hơn nữa vì ngày 5/5/2007 vợ chồng anh chính thức được làm con Chúa và ngày 6/5/2007 sau khi chịu bí tích hôn phối anh chị đã tổ chức một đám cưới tuy khiêm tốn nhưng ấm cúng. Bạn bè vây quanh chúc cho họ hạnh phúc mãi mãi trong tình yêu Thiên Chúa. Anh chị nghẹn ngào trong niềm vui vô tận :

“Vợ chồng em phó thác hết cho Chúa, tất cả những gì chúng em có là của Chúa. Chúng em không giàu có về vật chất, nhưng đời sống tâm linh của chúng em rất thỏa mái và tròn đầy. Chúng em được đón rước Chúa vào tâm hồn mỗi ngày. Có Chúa là chúng em có tất cả. Chúa là tài sản qúi giá nhất của gia đình chúng em. Sau mấy chục năm chung sống, giờ đây gia đình em mới cảm nghiệm được thế nào là bình an, thế nào là hạnh phúc đích thực! ‘’.

Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cho gia đình anh chị để họ luôn mãi là ánh sao rực sáng dẫn đường cho nhiều con chiên lạc, đang bước đi trong bóng đêm tội lỗi của thế giới hôm nay. 

Một người con yêu mến Mẹ Mễdu,
Giuse Nguyễn Lê ghi ( .)

NGƯỜI ĐẠO PHẬT LẦN CHUỖI MÂN CÔI

Anh Phan Tiến Quá – một người Phật giáo, từng là chuyên viên phụ trách âm thanh ánh sáng tại  tụ điểm ca nhạc126 nổi tiếng và rất quen thuộc trong giới trẻ tại TP. HCM. Đất nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, nhiều tập đoàn lớn của nước ngoài vào làm ăn tại Việt Nam. Anh Quá có cơ hội đến làm việc cho một siêu thị lớn, cuộc đời anh vì thế mà thay đổi hòan toàn.

Khi còn lãnh đồng lương khiêm tốn, anh có đời sống khép kín, ít giao tiếp và rất yêu thương vợ con. Nhưng kinh tế khá lên, thì anh bắt đầu cởi mở hơn, giao lưu nhiều hơn với bạn bè. Muốn làm ăn thì phải là tay sành điệu, sành điệu với bạn bè và sành điệu trong ánh mắt các em ….gà móng đỏ ! Các quán bia ôm là địa chỉ anh thường xuyên lui tới. Vợ anh đau khổ vật vã vì người chồng phản bội nhưng chị không sao kéo anh về với gia đình được.

Bất ngờ anh mất việc, tiền bạc vì thế mà cạn kiệt dần, nợ nần chồng chất, không lối thoát. Anh trở nên gánh nặng cho người vợ mà anh từng nhẫn tâm phản bội. Mỗi ngày qua đi là một nỗi đau dày xé lương tâm anh. Qua bao đêm dày vò, thao thức, anh quyết định tự tử và xin hiến xác cho khoa học. Ít ra, anh nghĩ rằng, như thế là anh làm được một việc có ích cho đời sau khi chết ! Vợ con anh không còn phải chịu đựng người chồng khốn nạn này nữa! Và cái ngày định mệnh ấy đã đến ……..

Ngày 13/07/2006, anh bỏ nhà ra đi từ rất sớm để thực hiện ý định tự vẫn. Anh đi lang thang vô định, thẫn thờ không biết đi đâu, về đâu ! Gia đình cuống cuồng tìm kiếm nhưng vô ích ! Nhiều lần gọi điện thoại cho anh, chỉ nhận được những tiếng trả lời ò í e… anh đã tắt máy di động rồi ! Càng hoảng sợ, càng không biết làm gì, nhất là vợ con anh, họ chỉ biết ôm mặt mà khóc, kinh hoàng nghĩ đến giờ phút nhận xác của anh trở về !

Thật may mắn, anh có người em cột chèo có đạo, hiền lành và rất thật thà, cô em vợ tân tòng tốt bụng này hay giúp đỡ gia đình anh. Anh yêu mến họ mọi điều, duy chỉ có một điều anh không thích là họ đọc kinh Kính mừng hàng ngày. Anh rất ghét khi họ cầm Chuỗi Mân Côi, miệng thì nhai nhải câu “Kính mừng Maria” …. Anh có ngờ đâu, lúc này chỉ có cặp vợ chồng này nhờ kinh Kính Mừng và chuỗi Lòng Thương Xót, họ cầu nguyện liên lỉ xin Chúa và Mẹ Maria cứu anh thoát khỏi bóng đen của tử thần.

Điều kỳ diệu đã xảy ra, lúc 16:30 chiều, anh mở máy di động và vợ anh đã khóc thảm thiết xin anh nghĩ đến gia đình mà trở về nhà với họ và anh đã xiêu lòng …. Anh trở về trong trạng thái tuyệt vọng. Gia đình anh quá đỗi vui mừng vì anh vẫn còn sống, nhưng phần anh thì ngơ ngác, chán chường. Sáng hôm sau là ngày 14/07/2007, Nguyễn Thế Hùng, người em cột chèo của anh, đã nói vào tai anh :

– ‘’Anh Quá, anh theo tôi, tôi sẽ chỉ cho một người có thể giúp anh trong lúc này’’.

– ‘’ Ừ, đi thì đi’’, anh Quá trả lời.

Hai anh em đến nhóm cầu nguyện Đức Mẹ Mễdu. Đến nơi, Hùng chỉ lên bàn thờ có tượng Đức Mẹ Mễ du, và nói :

– “Anh Quá, bây giờ chỉ có Bà đó mới giúp anh được. Anh hãy qùi xuống và cầu xin Bà ấy đi’’.

Vừa thấy tượng Đức Mẹ Mễdu, như có một sức mạnh vô hình thúc đẩy, anh qùi xuống thầm thì thưa chuyện với Mẹ. Anh say xưa thổ lộ tất cả những ưu tư phiền muộn của anh với Mẹ. Anh nói hết về gia đình anh, bạn bè anh, về thân xác khốn khổ của anh. Bao nhiêu nỗi đắng cay của cuộc đời anh tâm sự hết với Mẹ, anh khẩn thiết xin Mẹ giúp đỡ anh và gia đình anh vượt qua cơn khốn khó này.

Một điều kỳ lạ đã xảy ra : Anh qùi gối suốt hai tiếng đồng hồ bên Mẹ mà không mệt. Đầu gối chưa bao giờ qùi nhưng lại  chịu đựng được cơn đau suốt 120 phút ! Anh Hùng rất đỗi kinh ngạc, vì đã từng dặn rằng : “Nếu anh Quá qùi không được và cảm thấy khó chịu ở trước Nhà Chầu thì anh cứ ra ngoài chờ, khi nào em cầu nguyện xong thì hai anh em cùng về”. Nào ngờ, Quá không bỏ ra giữa chừng mà đắm chìm trong vòng tay yêu thương của Mẹ suốt 2 giờ cầu nguyện Đức Mẹ Mễdu. Anh Quá dường như đã trút được một gánh nặng đè trĩu trong lòng bao năm qua. Chưa bao giờ anh cảm thấy bình an và thanh thản như lúc này. Tâm hồn lâng lâng, tràn ngập một niềm vui khó tả.

Trở về nhà, anh bắt đầu thấy thấm mệt qua bao đêm mất ngủ, anh thèm được ngủ như chưa bao giờ được ngủ và anh thiếp đi trong ánh mắt bừng cháy niềm tin của những người thân yêu trong gia đình. Vừa chợp mắt được một chút thì anh mơ thấy Một Bà rất đẹp hiện đến và dẫn anh đến nhà thờ Huyện Sỹ (Saigon). Bà đưa anh đến núi Đức Mẹ, rồi biến mất. Anh choàng tỉnh giấc và bàng hoàng kinh ngạc về giấc mơ của mình. Anh quyết định đến Nhà Thờ lúc đó gần ba giờ chiều – giờ của lòng thương xót vĩ đại tuôn đổ xuống nhân loại. Anh nhận ra ý của Mẹ : Mẹ dẫn anh đến Lòng Thương Xót của Chúa.

Kể từ đó anh bắt đầu học cách cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi và lần Chuỗi Thương Xót mỗi ba giờ chiều. Kinh Kính Mừng ngày xưa anh ghét cay ghét đắng, nay anh lại dùng chính kinh Mân Côi này để tâm tình say xưa với Mẹ. Mỗi ngày qua đi là một niềm vui. Anh tham gia nhóm cầu nguyện Đức Mẹ Mễdu mỗi tối thứ tư hàng tuần tại nhà thờ Huyện Sỹ. Anh không còn làm cho tụ điểm ca nhạc 126 nữa, nhưng anh trở thành chuyên viên nhiệt thành về âm thanh ánh sáng cho cộng đoàn Mễdu. Anh vẫn là Phật tử nhưng anh đã lần đủ ba chuỗi Kinh Mân Côi, tham dự Thánh Lễ mỗi ngày mà chỉ rước lễ thiêng liêng, đọc Kinh Thánh hằng đêm để nghiền ngẫm và suy niệm Lời Chúa, ăn chay thứ tư và thứ sáu.

Anh ước ao, người vợ thân thương của anh cũng đón nhận đức tin như anh. Trong những lần cầu nguyện, anh dâng ý chỉ này cho Mẹ, cầu xin Mẹ giúp anh. Anh rất đỗi vui mừng vì căn bệnh xuất huyết hậu môn bác sỹ đã chê từ nhiều năm, nay tự nhiên biến mất, điều lạ lùng là anh không hề xin Chúa chữa lành. Người vợ cứng lòng đã nhiều lần thất hứa với Mẹ thì nay vui vẻ song hành với anh đi cầu nguyện và tham dự Thánh Lễ hàng ngày.

Một người đạo Phật đi cầu nguyện không dễ bao giờ, anh gặp rất nhiều trở ngại, có lần anh sắp sửa đi làm chứng cho Chúa thì bị vật té sấp mặt từ cầu thang xuống đất ! Anh bị bất tỉnh, mê man nhưng khi hồi tỉnh anh vẫn liên lỉ cầu nguyện và cuối cùng anh lại đến được với Chúa. Có điều kỳ lạ,̣ là trước mỗi Thánh Lễ anh hay bị sốt khiến anh không thể tham dự Thánh Lễ được. Không vì thế mà anh chùn bước, anh lần chuỗi nhiều hơn, tất cả nỗi đau thể xác anh dâng hết cho Mẹ và Mẹ đã cứu chữa anh. Đức tin của anh ngày một lớn mạnh hơn.

Anh càng hạnh phúc hơn nữa vì ngày 5/5/2007 vợ chồng anh chính thức được làm con Chúa và ngày 6/5/2007 sau khi chịu bí tích hôn phối anh chị đã tổ chức một đám cưới tuy khiêm tốn nhưng ấm cúng. Bạn bè vây quanh chúc cho họ hạnh phúc mãi mãi trong tình yêu Thiên Chúa. Anh chị nghẹn ngào trong niềm vui vô tận :

“Vợ chồng em phó thác hết cho Chúa, tất cả những gì chúng em có là của Chúa. Chúng em không giàu có về vật chất, nhưng đời sống tâm linh của chúng em rất thỏa mái và tròn đầy. Chúng em được đón rước Chúa vào tâm hồn mỗi ngày. Có Chúa là chúng em có tất cả. Chúa là tài sản qúi giá nhất của gia đình chúng em. Sau mấy chục năm chung sống, giờ đây gia đình em mới cảm nghiệm được thế nào là bình an, thế nào là hạnh phúc đích thực! ‘’.

Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cho gia đình anh chị để họ luôn mãi là ánh sao rực sáng dẫn đường cho nhiều con chiên lạc, đang bước đi trong bóng đêm tội lỗi của thế giới hôm nay. 

 

Một người con yêu mến Mẹ Mễdu,
Giuse Nguyễn Lê ghi (
.)

Cảm nghiệm về Đại Hội Canh Tân Đặc Sủng tại California

Cảm nghiệm về Đại Hội Canh Tân Đặc Sủng tại California

Wed, 06/06/2012                                      nguồn: thanhlinh.net

 

                                                                    Tác giả: Thẩm Nguyễn

 Chúa đã làm những việc lạ lùng trước mắt chúng ta.

Câu chuyện cứ lần lượt xảy ra theo thời gian từ sự cảm thông về những đau khổ của một gia đình người bạn.

 Vợ chồng tôi có một người bạn rất thân từ hồi còn trong quân đội. Vợ chồng anh bạn này không phải là người Công Giáo. Cách đây khoảng tám tháng, chị khám phá ra mình bị ung thư não giai đoạn chót. Anh chị rất hoang mang, phần chemo chữa trị, phần chạy đến các đấng thần linh. Vợ chồng tôi và một số bạn trong nhóm ” Chúa Là Tình Yêu” đã đến an ủi anh chị và giới thiệu với anh chị về quyền năng của Thiên Chúa chúng ta . Nhóm chúng tôi đã lần chuỗi Lòng Thương Xót cầu nguyện cho chị. Sau nhiều tuần lễ chemo và cầu nguyện, khối u của chị đã nhỏ lại nhưng chưa hết hẳn . Anh chị rất tin tưởng vào việc chữa lành qua cầu nguyện.

Thế rồi, chúng tôi được một số bạn bè mời tham gia Chương Trình Đại Hội Canh Tân Đặc Sủng, với chủ đề Chúc Tụng Chúa Giêsu, 25 năm Hợp Nhất trong Chúa Thánh Linh được tổ chức tại Santa Clara Convention Center, Santa Clara, California từ chiều thứ sáu 5/25/2012 đến chiều Chúa Nhật 5/28/2012. Vì muốn vợ chồng anh chị bạn được ơn chữa lành và vì nể lời mời của bạn nên chúng tôi đã đến tham dự đại hội này.

 Đại hội được chuẩn bị rất chu đáo. Chương trình gồm có những buổi thờ lạy và ca ngợi Chúa, những buổi thảo luận học hỏi, những buổi ban bí tích hòa giải của các linh mục hiện diện, những Thánh Lễ đa ngôn ngữ và những phần cầu nguyện xin ơn chữa lành. Các sinh hoạt dành riêng cho các nhóm ngôn ngữ khác nhau : Nhóm nói tiếng Anh, tiếng Việt, tiếng Tây Ban Nha…

 Thánh lễ khai mạc được chủ tế bởi Đức Giám Mục Thomas A. Daly, Giáo Phận San Jose với sự đồng tế của quý Đức Ông, Linh Mục, Phó tế. Thánh lễ bế mạc, cũng là Thánh Lễ Chúa Nhật mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Đức Giám Mục Richard J. Garcia, Giáo Phận Monterey đã chủ tế cùng quý Đức Ông, Linh Mục, Thày Sáu và sự tham dự của khoảng 2000 giáo dân. Tôi nhắc đến điều này vì muốn xác định rằng Đại Hội Canh Tân Đặc Sủng 25 Năm Miền Bắc California(NCRC) được chấp nhận và khuyến khích của Giáo Quyền địa phương.

 Khi tham gia các buổi cầu nguyện Canh Tân Đặc Sủng, tôi có những cảm nghiệm, khi dạt dào, lúc xao xuyến.

 Những lời ca tiếng hát tôn vinh ngợi khen Thiên Chúa đã gây xúc động mạnh trong tâm hồn tôi . Bằng việc nâng tâm hồn lên với Chúa tôi cảm nghiệm được như Chúa đang vỗ về yêu thương tôi và tôi tìm được những giây phút bình an thực sự trong yêu thương kết hợp với Chúa.

 Khi đặt tay cầu nguyện, hình ảnh những anh chị té ngã làm tôi cảm thấy có cái gì đó không bình thường. Thánh thần có làm cho người ta ngã lăn ra như thế này không ? Trong đầu óc tôi lúc ấy vọng về những lời dèm phá, lên án của những người đã từng hay chưa từng tham dự Canh Tân Đặc Sủng. Bản thân tôi cũng không thích cái cảnh ngã lăn ra thế này, nhưng tôi không lên án, không coi thường mà cho đó là một hiện tượng lạ cần được tôn trọng khi tâm trí tôi chưa hiểu nổi. Tôi quan sát sự té ngã của quý anh chị với nỗi băn khoăn trong lòng. Có người cho rằng sự té ngã này là gỉa vờ, đóng kịch, nhưng đóng kịch để làm gì trong khi những con người này đến đây với tấm lòng khiêm cung để xin được chữa lành. Những người không té ngã có lãnh được ơn chữa lành không ? Tôi tin là có bởi chính bản thân tôi qua nhiều lần được đặt tay cầu nguyện, tôi chưa từng té ngã, nhưng tôi vẫn nhận được dấu chỉ của sự bình an. Tôi biết có nhiều người dị ứng với cảnh té ngã này , nhưng biết nói sao , ai có thể giải thích được. Có nhiều điều xảy ra mà trí khôn của tôi không hiểu nổi. Có thể do tôi không mở lòng, có thể do tôi còn kiêu ngạo chưa chịu đầu phục Chúa là Đấng tôi phải đầu phục. Tôi sẽ không dám giải thích hay luận bàn này nọ về việc làm của Chúa Thánh Thần.

 Đa số những anh chị trong ban tổ chức nói được tiếng lạ . Ơn nói tiếng lạ, ơn tiên tri, ơn hiểu biết, ơn đạo đức và nhiều ơn khác là những ơn trong bẩy ơn do Chúa Thánh Thần ban cho ai tùy ý Ngài. Tôi cố nghe những thứ tiếng lạ ấy, hình như là tiếng gọi cha Aba, tiếng chúc tụng Ho-sa-na, tiếng ngợi khen Allelua.. và những tiếng khác nữa. Những ai được Chúa ban cho ơn này thì hãy cảm tạ Chúa và dùng ơn này để đem lại lợi ích cho mọi người . Những ai không được ơn nói tiếng lạ, thì đừng ráng nói tiếng lạ…kỳ, như thế sẽ không đẹp ý Chúa và không đem lại lợi ích cho linh hồn mình . Có người đến hỏi tôi ” anh nói tiếng lạ được chưa?”, làm như đi canh tân đặc sủng là phải nói được tiếng lạ!. Có người dèm pha rằng sao mà ơn nói tiếng lạ nhiều thế và mỉa mai…vậy thì theo những người đó ai mới đủ tiêu chuẩn để nói tiếng lạ . Coi chừng chúng ta ngạo mạng không những khước từ hồng ân của Chúa mà còn muốn hướng dẫn Chúa làm theo sự chỉ đạo của mình.Về ơn nói tiếng lạ, tôi biết tôi là kẻ tội lỗi và tôi không xứng đáng với những gì mà anh chị em khác đã nhận được. Tôi xin vâng ý Chúa trong mọi sự và tôi xin sẵn sàng bước đi theo sự dẫn dắt của Chúa.

 Một chị đến tham dự đại hội do lời mời của một người bạn .Chị đến và tham gia cất tiếng ngợi khen Chúa. Chị không xin đặt tay cầu nguyện nhưng sau hai giờ chị cho biết là cánh tay trái của chị lúc sáng này cón rất đau, nhất là khi nhấc lên để mặc áo, nhưng bây giờ không hiểu sao chi đã hết đau và có thể vung tay như bình thường. Chị bận việc phải ra về sớm. Tôi ghi nhận việc lạ lùng này và âm thầm cảm tạ Chúa. Thế mà cũng có người lý luận rằng buổi sáng chị đau là do không cử động cả đêm đến chiêu thì do cử động nhiều nên hết đau, có gì lạ đâu. Thôi thì giải thích thế nào cũng được. Hình như khi còn sinh thời, dù Chúa đã làm nhiều phép lạ nhãn tiền mà người ta vẫn không tin !

 Anh bạn không phải là người Công Giáo của tôi là một người có cá tình mạnh mẽ, thế mà khi ngồi cùng chúng tôi ca ngợi Chúa, anh đã không chút do dự phát biểu ” Thưa quý anh chị, tôi không phải là người Công Giáo như quý anh chị, nhưng tôi cảm nhận được thần khí linh thiêng và tin vào Thiên Chúa, Đấng mà quý anh chị tôn thờ’. Cảm tạ Chúa vì những lời phát biểu đầy thiện ý .

 Vợ của anh, người bị ung thư, sau khi được đặt tay cầu nguyện của Đức Ông James Taratino để xin ơn chữa lành, chị đã xin được rửa tội vào đạo Công Giáo. Chúng tôi đã liên lạc với Giáo Xứ Saint Anthony, thuộc Giáo Phận Oakland để xin cho anh chị ghi tên học đạo và hy vọng sẽ được rửa tội vào Lễ Phục Sinh 2013.

 Và đây là một sự lạ xảy ra trước mắt tôi. Sau Thánh Lễ bế mạc chiều Thứ Bẩy, một giáo dân tên là Bob Canton, một thành viên trong phong trào Canh Tân Đặc Sủng. Ông được ơn cầu nguyện chữa lành bệnh nhân. Ông đã được đến viếng Đức Thánh Cha Benedicto XVI. (http://www.robertcantonministries.org/ ).Trước khoảng 2000 người trong hội trường . Ông cầm Mirco tiến lên bục, ông hăng say nói về quyền phép chữa lành của Chúa qua lời cầu nguyện của chúng ta. Thế rồi bất ngờ ông nhìn xuống và ông mời một cụ già 92 tuổi là người Việt Nam đang ngồi mệt mỏi trên chiếc xe lăn đứng lên. Ông cụ ngần ngừ một chút rồi đứng lên. Ông lại mời tiếp, xin cụ hãy bước đi. Ông cụ từ từ từng bước, bước đi, bước đi từ cánh trái của hội trường ra đến lối đi giữa, rồi cụ tiếp tục đi xuống phía cuối hội trường, cụ vẫy tay chào mọi người. Mọi người vỗ tay ca tụng Chúa. Có người nhẩy lên vui mừng, có người đứng chết trân, có người bật lên tiếng khóc vui mừng vì Chúa đã làm những việc lạ lùng trước mắt chúng ta. Sau khi cụ già đã đi một vòng, cụ trở lại chiếc xe lăn, thì ông Bob đi xuống và ngồi vào chiếc xe lăn ấy và yêu cầu ông cụ đẩy chiếc xe . Ông cụ tươi cười đẩy ông Bob đi một vòng, dù ông Bob là người có sức nặng khoảng gần 200 pounds. Riêng tôi thì tôi đã khóc vì vui mừng được chứng kiến một việc lạ Chúa làm vì thương dân Người . Tôi đã được nghe kể nhiều về việc chữa lành. Nhưng hôm nay là lần đầu tiên trong đời tôi được chứng kiến. Ngoài ra tôi cũng biết rõ về ông cụ này. Cụ là thân phụ của một anh chị cũng là bạn thân thiết với vợ chồng tôi. Ông cụ đã bị giải phẫu mười hai lần và hiện ông cụ mang nhiều bệnh tật, cụ bị liệt không đi được sáu năm nay và phải đi lọc máu bốn lần một tuần vì thận bị hư.

 Hôm sau ngày Chúa Nhật, ông cụ đã trở lại buổi cầu nguyện để làm chứng về những gì Chúa đã làm cho mình. Ông cụ từ xe bước xuống đã đi vào hội trường với đôi chân của mình. Được hỏi cụ có mang xe lăn theo không, ông cụ lắc đầu cười ” Tôi không cần xe nữa, tôi để nó ở nhà rôi “. Đặc biệt hôm nay, cùng đi với ông cụ, không những chỉ có một cặp vợ chồng anh chị bạn tôi, mà còn có rất đông các con trai, con gái , cháu chắt của cụ đã đến để cảm tạ hồng ân của Chúa. Riêng tôi thì việc cụ bước đi đã củng cố niềm tin của tôi vào Chúa rất nhiều. Tôi đã tin và nay lại đã xác tín Chúa luôn hiện diện và đồng hành với tôi trong cuộc lữ hành trần thế này. Một câu hỏi cứ vấn vương trong lòng tôi là không biết Chúa làm phép lạ để làm gì. Ông Lazaro được Chúa cho sống lại, nhưng rồi ông cũng đã chết. Phải chăng Chúa làm phép lạ để cho biết được quyền năng và sự hiện hữu của Ngài trong cõi đời này.Nếu chứng kiến một phép lạ, công nhận đó là một phép lạ mà phép lạ ấy không biến đổi cách sống của tôi thì có ơn ích gì cho tôi. Đọc phúc âm , đọc hạnh các thánh, tôi thấy những người thời Chúa Giêsu đã quá cứng lòng, phép lạ Chúa làm sờ sờ ra đó mà họ vẫn không tin. Ngẫm lại con người ngay nay, vẫn tâm trạng ấy, người ta vẩn không tin mà con nhạo báng, dèm pha những sự việc lạ lùng này. Xin Chúa hãy tha thứ những xúc phạm, những thờ ơ của chúng con đối với quyền năng của Chúa.

 Lạy Chúa, xin Chúa mở mắt mở lòng con để con biết đón nhận nhựng dấu chỉ yêu thương của Chúa và qua đó con được củng cố niềm tin, niềm cậy trông phó thác vào Chúa. Xin cho biết hăng say dấn thân vào việc tông đồ mở mang nước Chúa với một tâm tình khiêm nhường, lắng nghe và trông nhờ vào ơn Thánh Chúa . Amen.

 Giuse Thẩm Nguyễn

Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống 5-28-2012

Phép Lạ Vẫn Xảy Ra: Được Chữa Khỏi Bệnh

Phép Lạ Vẫn Xảy Ra: Được Chữa Khỏi Bệnh – Miracles Do Happen

                                                                 tác giả:  Trần Cao Tường, Lm

MiraclesDoHappen

 Đây là câu chuyện thật về một người đã từng bị chứng sưng khớp xương (rheumatoid arthritis) nặng đến nỗi phải ngồi xe lăn.

“Tôi phải dùng thuốc cortisone nhiều đến độ thuốc không còn hiệu nghiệm. Cơn đau dai dẳng. Như một hậu quả của thuốc cortisone, tôi mất trí nhớ. Tôi khóc vì đau, Bác sĩ nói không còn hy vọng gì nữa…”

“Tôi cảm thấy khô khan về phương diện tinh thần. Ngay cả tự hỏi rằng tôi có tin vào Chúa Giêsu không!”

Đó là trường hợp của nữ tu Briege McKenna thuộc dòng thánh Clara ở vùng Tampa, Florida.

Một hôm Sơ “đánh liều” tìm đến dự một buổi tĩnh tâm ở Orlando, Florida, nói về sức mạnh của cầu nguyện và sức mạnh của Thánh Linh. Sơ bắt đầu cảm thấy tin tưởng, ước mong có vị linh mục cầu nguyện cho mình để mong được ơn này nọ và mong đuợc đỡ đau phần nào. Nhưng tuyệt nhiên Sơ không nghĩ rằng mình có thể được chữa khỏi bệnh.

Sơ kể lại: “Thiên Chúa chừng như đọc đuợc ý nghĩ của tôi, nên Ngài đã nói với tôi: “Đừng nhìn vị linh mục, hãy nhìn Thầy.”

Lúc đó lời cầu nguyện duy nhất tôi là “Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con.”

Vào lúc đó, tôi cảm thấy có một bàn tay chạm đến đầu tôi, và tôi nghĩ đó là bàn tay của một vị linh mục đặt tay cầu nguyện cho tôi. Tôi mở mắt ra thì không thấy ai cả, nhưng có một sức mạnh luân chuyện trong người tôi. Thật khó mà diễn tả cái cảm giác ấy, nhưng tôi có thể nói như thế này: Tôi cảm thấy như một trái chuối bị lột vỏ.

Tôi nhìn vào thân thể mình, những ngón tay tôi vẫn còn cứng, nhưng không bị cong queo như chân tôi. Ở hia khuỷu tay tôi có những vết thương bây giờ đã biến mất và những ngón tay bắt đầu mềm mại, và tôi có thể nhìn thấy chân tôi, trong dép săng-đan, không còn cong queo nữa.

Tôi nhảy lên và la lớn: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang ở đây!”

Từ ngày đó tôi không còn bị sưng khớp xương và hoàn toàn không đau đớn nữa. Đó là một việc chữa lành kỳ lạ, nhưng sâu xa trong tâm hồn tôi có một sự thay đổi vĩ đại. Qua sự đổi mới linh thiêng, tôi cảm nghiệm được sự chữa lành của Thánh Linh. Tôi có một cái nhìn mới mẻ về giáo hội, như thể tôi nhìn Mình Thánh và bí tích giải tội qua một lăng kính mới.”

Thế là Sr. Briege McKenna đã được ơn Chúa chữa khỏi và sai đi chữa lành nhiều thứ bệnh, kể cả bệnh ung thư, đặc biệt qua niềm tin vào Thánh Thể Chúa. Sơ vẫn thường xuyên đi giảng nhiều nơi, nhất là những đại hội về Thánh Linh, và đã từng giảng cho ngay cả các giám mục và linh mục qua các buổi tĩnh tâm, mà tôi có dịp tham dự vào năm 1997 và 2008 tại New Orleans.

Đề tài chính vẫn là: Phép lạ qua mỗi thánh lễ. Tất cả những trường hợp được chữa khỏi cách lạ lùng này được Sơ ghi lại trong một cuốn “Phép Lạ Vẫn Xảy Ra”. (Miracles Do Happen). Đây là bốn trường hợp điển hình:

SrBriegeMcKenna

Sr. Briege McKenna, chụp năm 2008 tại New Orleans

CHUYỆN LẠ 1: Xảy ra ở Nam Mỹ

Vị linh mục dùng một cái bàn cũ kỹ để làm bàn thờ trong một thánh lễ ngoài trời với rất đông người nghèo tham dự. Một bé trai được khiêng tới, toàn thân bị phỏng nặng đau đớn. Bệnh quá nặng mà chẳng có bác sĩ hay thuốc men gì ở đây cả!

Đức tin của vị linh mục này rất mạnh, có sức truyền sang mọi người. Ngài bảo đặt em bé dưới bàn thờ và tiếp tục dâng lễ với tất cả lòng sốt sắng, từng cử chỉ tác động đều ý thức và có hồn. Lúc truyền phép Mình Thánh, mọi người đều quì trên đất để tôn thờ Chúa. Nét mặt của họ đều nói lên rằng họ thật sự thấy Chúa Giêsu đến và vỗ về họ: Hãy đến với Thầy, tất cả những ai nhọc nhằn. Thầy sẽ ban cho các con sự sống và đức tin.

Và Sơ McKenna ghi nhận: “Sâu xa trong tâm hồn, đây là lúc tôi nhận thức: “Lạy Chúa Giêsu, đây đúng là Chúa rồi. Dưới hình bánh và rượu, chỉ có Chúa mới nghĩ ra cách đó để gần gũi với dân của Ngài.”

Sau lễ, tôi đến xem em bé được đặt dưới bàn thờ thì không thấy nữa. Tôi hỏi người bồng nó tới: “Em đâu rồi?” Bà vừa nói vừa chỉ tay vào đám trẻ con đang chơi gần đó: Nó kia kìa.

Tôi nhìn và thấy em đã lành lặn, không còn một vết tích gì trên cơ thể. Tôi thảng thốt kêu lên: Chuyện gì đã xẩy ra cho em vậy? Bà nhìn tôi và nói: “Sơ muốn nói gì? Việc gì đã xẩy ra sao? Đức Chúa Giêsu không ngự đến sao?”

CHUYỆN LẠ 2: Tin chắc phép lạ xảy ra

Cùng ngày đó, vào đầu thánh lễ, tôi cũng thấy một em bé mặt bị méo mó một cách khủng khiếp. Sau lễ mẹ em bế em đến với tôi: “Sơ ơi, hãy nhìn con tôi này.” Mặt em đã lành lặn.

Quả thực đức tin của đám dân này mạnh quá. Họ tìm đến với Chúa như người đàn bà trong Phúc Âm bị bệnh lọan huyết lâu ngày mà không sao chữa khỏi. Bà ta cũng chen vào đám đông vì ai ai cũng muốn đến gần Chúa Giêsu để chạm đến Ngài. Nhưng điều khác biệt là người đàn bà này chỉ có một điều trong đầu: nếu chạm được đến Ngài, mình sẽ khỏi bệnh.

Bà ta đã chạm được vào Ngài. Chúa Giêsu thấy có một sức mạnh toát ra khỏi Ngài thì quay lại hỏi: “Ai đã chạm đến Thầy?”

Các tông đồ hỏi lại: “Thầy nói gì? Mọi người đều xô lấn đến Thầy!” Nhưng Chúa Giêsu biết có ai đó không chỉ chạm đến Ngài, nhưng với tâm tình chờ đợi, với một điều kiện mà tất cả phải có khi đến với Chúa Giêsu, đó là đức tin. Rồi Chúa Giêsu nhìn vào một người đàn bà đang đi ra khỏi đám đông mà nói: “Đức tin của con đã chữa con.”

Nhiều người khi đọc đoạn Tin Vui này cũng ao ước: “Giá tôi cũng được chạm đến Chúa Giêsu, gặp được Ngài thì tuyệt biết bao. Phải chi tôi được sống cùng thời với Ngài để có thể đến chạm được tới Ngài như người đàn bà kia.” Vậy ra Chúa Giêsu trong Thánh Thể không phải là Chúa Giêsu thật sao?!

Đám dân ở Nam Mỹ kia chỉ khác nhiều người là thấy Chúa Giêsu thực. Họ không đến với thánh lễ để chỉ để xem linh mục cử hành hay nhận xét những gì linh mục giảng có gì mới lạ hấp dẫn không. Họ đến để gặp gỡ Chúa Giêsu của họ, chính Chúa đang đến đó với mọi quyền năng, và đang nói với họ. Họ khao khát đến nghe Người nói, và họ đến để dự phần với chính Chúa Giêsu trong một nghi thức tiến dâng lên Cha của Người. Họ trở nên một phần của lễ vật này. Và Sơ McKenna đã phát biểu:

“Tôi rời vùng rừng núi đó với một sự hiểu biết hoàn toàn mới mẻ về thánh lễ. Đó không phải chỉ là việc đem người ta đến thánh lễ để tỏ lòng cung kính và nói với Chúa Giêsu rằng họ yêu Ngài. Điều đó rất tốt, nhưng thánh lễ là những gì Chúa Giêsu có thể và muốn làm cho tất cả chúng ta, cho toàn thế giới. Không phải là Chúa Giêsu cần chúng ta đến dự thánh lễ, nhưng chúng ta cần Ngài.”

CHUYỆN LẠ 3: Được chữa khỏi ung thư

Đây là chuyện lạ về một linh mục trẻ bị ung thư cổ họng đã hết đường chữa. Linh mục này điện thoại xin Sơ McKenna cầu nguyện thì Sơ trả lời: “Thưa Cha, con có thể cầu nguyện với cha ngay bây giờ trên điện thoại, và con sẽ làm như thế. Nhưng sáng nay, Cha không gặp Chúa Giêsu sao? Cha không gặp Ngài hằng ngày sao? Mỗi ngày khi cha dâng lễ, khi cha cầm Mình Thánh, khi Cha rước Chúa tức là Cha đã gặp gỡ Chúa. Người đàn bà trong Phúc Âm chỉ chạm đến vạt áo Chúa Giêsu, nhưng cha đã chạm đến chính Chúa Giêsu và đón Ngài vào trong thân thể mình. Cha có nhận thức rằng chính Chúa Giêsu thật sự đi qua cổ họng của cha không? Không ai tốt hơn để chạy tìm đến cho bằng Chúa Giêsu. Cha hãy khấn xin Ngài chữa lành cho cha.”

Tôi nghe ngài khóc qua điện thoại. Ngài luôn miệng nói với tôi: “Cám ơn sơ, cám ơn sơ.”

Ba tuần sau vị linh mục điện thoại cho sơ cho biết không phải đi giải phẩu nữa, các bác sĩ thấy rằng bệnh ung thư đã khỏi và bây giờ ngài có một thanh quản mới.

CHUYỆN LẠ 4: Ở Sydney bên Úc.

Một người đàn bà bị cái bướu ở bụng rất đau đớn và bị ung thư ruột đã đến lúc hết hy vọng, và bà rất sợ chết, nên tìm đến sơ McKenna. Sơ nói với bà ta:

“Hãy đến gặp Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Tôi không thể nói với bất cứ ai rằng họ sẽ được khỏi như họ mong muốn, nhưng Chúa Giêsu sẽ ban cho bà sức mạnh để đối phó với bất cứ gì xẩy ra trong đời. Nếu Ngài muốn đem bà qua cánh cửa sự chết, Ngài sẽ cho bà ơn sủng để đi qua cánh cửa đó mà không sợ hãi gì. Nếu Ngài muốn bà sống, Ngài sẽ ban ơn cho bà.”

Tối hôm đó khi sơ McKenna đang cầu nguyện thì bà chạy đến: “Sơ ơi, phép lạ đã xẩy ra. Phép lạ đã xẩy ra!”

Bà ta nói: “Hãy coi tôi đây. Tôi đi dự lễ như Sơ nói. Khi lên rước lễ, tôi tự nhủ: Chỉ vài phút nữa mình sẽ gặp được Chúa Giêsu, mình sẽ ôm Ngài trong tay và xin Ngài giúp đỡ.”

Khi rước lễ, bà nói thầm: “Con biết Chúa đang ngự ở đây. Hôm nay Chúa sẽ ngự trong lòng con, xin cho con khỏi sợ hãi. Xin chữa con nếu Chúa muốn, nhưng xin Chúa hãy làm một điều gì đó cho con.” Và bà ta nói tiếp: “Ngay khi tôi đưa Mình Thánh lên miệng và nuốt, tôi cảm thấy có một cái gì nóng ran trong cổ họng xuống tới bao tử. Tôi nhìn xuống bụng và cái bướu đã biến mất.”

TIN VUI TÔI ĐƯỢC CHỮA KHỎI MÙ

Người ta vẫn gọi Sơ McKenna là Bà Sơ Làm Phép Lạ. Thực ra Sơ McKenna không làm phép lạ như sơ vẫn thường nhắc đi nhắc lại, mà là chính Chúa làm. Sơ chỉ giúp người ta mở mắt thấy và gặp được Chúa tác động với tất cả quyền năng như Chúa đang có mặt tại Do Thái xưa. Chính đức tin thấy được như vậy là cốt lõi của phép lạ. Thấy chính Ngài đang loan báo Tin Vui, đang “nói với dân chúng về Nước Chúa và chữa lành những kẻ cần được cứu chữa,” và làm phép lạ nuôi sống cả năm ngàn người với năm đồng bánh và hai con cá trong mỗi thánh lễ.

Bí mật của phép lạ vẫn xảy ra là ở tại con mắt, khi vào nhà thờ tôi là một người mù chẳng thấy gì mà nay bỗng được mở ra nhìn thấy được Chúa đang hiện ra đó, như có lần Sơ McKenna đã nhảy lên và hô lớn: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang ở đây.”

“Đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các môn đệ mà nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy. Và Người cầm lấy chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ, và tất cả đều uống chén này. Người bảo họ: “Đây là Máu Thầy, máu giao ước, đổ ra vì muôn dân.” (Mc 14:22-24)

Trước khi được ơn cảm nhận Chúa, Sơ McKenna cũng đã từng cảm thấy khô khan, con mắt mù tối chẳng thấy được như vậy như Sơ tâm sự:

“Tôi không cảm thấy tin tưởng vào sức mạnh của Phúc Âm, tôi không tin rằng Chúa Giêsu sẽ chữa tôi lành bệnh. Tôi tin rằng nếu tôi đi Lộ Đức hay nơi nào khác thì sẽ được khỏi bệnh, nhưng tôi không tin rằng phép lạ có thể xẩy ra trong đời sống bình thường.”

” Hồn tôi khao khát Thiên Chúa hằng sống, nhưng tôi không thực sự biết Ngài. Chính sự khao khát muốn biết Chúa rõ hơn mà lần đầu tiên tôi đến với một nhóm cầu nguyện… Tôi bị thu hút vì thấy người ta cầu nguyện với Chúa Giêsu như thể Ngài đang hiện diện ở đó… Thiên Chúa đã dùng sự đói khát tinh thần để kéo tôi đến với Ngài. Tôi thường tự nhủ: “Phải có cái gì hơn nữa đối với người Công giáo chứ.”

” Tôi rất dễ “đọc kinh cầu nguyện” như một bổn phận. Nhưng tôi không thấy niềm vui khi nói chuyện với Chúa, hay hăng hái muốn làm chứng nhân cho sức mạnh của Chúa.”

PHÚT ĐÓN NHẬN PHÉP LẠ

Đúng thế, mỗi lần đi dự lễ là một chứng kiến phép lạ Chúa ra tay chữa lành. Chả lẽ tôi mù đến nỗi đi lễ mà chả thấy gì, hay chỉ thấy nhàm chán với những gò bó phải đi! Chúa vẫn có đó mà người thì thấy được người thì không. Trước kia Sơ McKenna cũng bị mù mà nay được thấy.

Bên Mỹ có một bài hát rất phổ thông và đã đánh động biết bao con tim là bài Amazing Grace (Hồng Ân Tuyệt Vời). Bài này do John Newton sáng tác từ thẳm sâu ân sủng sau thời gian nhầy nhụa trong nghề buôn nô lệ, ghi lại một cuộc đổi đời: Tôi đã mù mà nay nhìn thấy được (I was blind but now I see).

(Xin nghe nhạc và Slideshow bài Amazing Grace trong mục Dũng Lạc Slideshow)

Vậy muốn đón nhận được phép lạ chữa khỏi bệnh thì giờ đây con chỉ xin Chúa một điều thôi, như người mù ở Giêricô: “Lạy Chúa, xin cho con được trông thấy” đặc biệt trông thấy được Chúa trong Thánh Thể với trọn tình thương và quyền năng của Chúa.

Và con sẽ nhảy lên la lớn như Sr. McKenna: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang ở đây.”

Mời vào Tin Vui Thời Điểm, Mạng Lưới Dũng Lạc www.dunglac.org , góp tư liệu xây nhà văn hóa và niềm tin.  

Trần Cao Tường, Lm. 

CHÂN PHÚC GIOAN PHAOLÔ II, VỊ BẢO TRỢ CÁC GIA ĐÌNH!

CHÂN PHÚC GIOAN PHAOLÔ II, VỊ BẢO TRỢ CÁC GIA ĐÌNH!

                                                         nguồn: vietvatican.net
 

Xin trích 3 chứng từ tri ân viết từ Ý gởi đến Văn Phòng Án Phong Chân Phước và Hiển Thánh cho Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

… Thư thứ nhất đề ngày thứ tư 15-2-2012.
Con là Anna Rita Meloni, mẹ của Leonardo 22 tuổi, sinh viên ngành kỹ sư. Ngày 28-12-2011 con trai con bị tai nạn lưu thông trầm trọng. Chiếc xe hư tan tành nhưng con trai con không hề hấn gì, kể cả không bị một vết trầy! Con xác tín rằng chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã can thiệp cứu sống con trai con. Thật thế. Vài ngày trước tai nạn, đã xảy ra hiện tượng sau đây. Hôm ấy con ở nhà, có cả con trai con nữa. Bỗng con nghe một tiếng động lớn. Con quay lại thì thấy bức ảnh treo trên tường bị rớt xuống. Đó là bức ảnh Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II còn trẻ đang giơ tay ban Phép Lành Tòa Thánh cho cả gia đình con. Con rất buồn vì thấy bức ảnh rơi nằm dưới đất, nhưng ngạc nhiên biết bao khi cầm lên thì thấy bức ảnh không hề hấn gì! Con đưa bức ảnh cho Leonardo xem và nói: ”Sẽ xảy ra điều gì đó, nhưng chúng ta sẽ được cứu sống!”
Con xin thêm một chi tiết khác. Vào buổi chiều xảy ra tai nạn, bên trong chiếc xe có cuốn sách của Antonio Socci ”Caterina”. Con bỏ sách này trong xe để đọc mỗi khi ngừng lái xe. Con liền lấy cuốn sách và vài vật dụng khác trong xe rồi đem về nhà. Mấy ngày sau, khi mở sách ra đọc thì ngạc nhiên biết bao, con thấy bên trong sách có ngăn bức ảnh Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kèm theo lời nguyện đã được Tòa Giám Quản Roma chuẩn y. Nhìn thấy bức ảnh, con càng thêm xác tín rằng, vào ngày xảy ra tai nạn, chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã âu yếm bảo trợ và cứu sống Leonardo.
Con xin bày tỏ cùng Cha lòng tri ân chân thành của con, hỡi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II kính yêu, về ơn lành Cha đã cầu bầu cùng Chúa cho chúng con. Xin Cha tiếp tục hiện diện với tình yêu thương trong gia đình con. Con cũng đặc biệt cầu nguyện cho tất cả các bạn trẻ luôn nhiệt thành yêu mến Cha. Con yêu mến Cha biết bao, hỡi vị Giáo Hoàng thánh thiện của chúng con.

… Thư thứ hai đề ngày thứ sáu 17-2-2012.
Con là Lara Facchini. Lần thứ nhất Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ra tay cứu giúp con diễn ra vào thời điểm ngài từ trần. Vài tháng trước đó con phải chịu một bạo hành tính dục khiến con vô cùng khiếp sợ khi phải ở nhà một mình hoặc phải đi ra ngoài một mình. Con trở thành một người luôn bám sát vào người thân trong gia đình! Các chữa trị tâm sinh lý lẫn thuốc men không đưa đến hiệu quả nào đáng kể. Chúa Nhật 3-4-2005 – hôm sau ngày Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II từ trần – con tự cảm thấy có sức mạnh lớn lao, và con ra khỏi nhà một mình để mua vé đi từ Milano về Roma. Tại nhà ga xe lửa con gọi điện thoại cho hôn phu hỏi xem anh có thể đến với con được không. Anh hiểu ngay tức khắc là có chuyện gì đó lớn lao lắm đang xảy ra. Kể từ giây phút ấy, con nắm trở lại trong tay cuộc đời con. Con không bao giờ quên cái kinh hoàng ghê tởm con trải qua, nhưng con cất nó vào văn khố và con khởi sự cuộc sống như trước.

Lần thứ hai Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II can thiệp vào cuộc đời con xảy ra cách đây không lâu. Tháng 5 năm 2011 con mất đứa con đang ở tháng thứ hai. Đây là cuộc mang thai đầu tiên rất mong muốn và chờ đón. Đến tháng 10, người ta tặng con lời kinh Tuần Cửu Nhật đọc cùng Đức Gioan Phaolô II. Cùng với hiền phu, chúng con làm Tuần Cửu Nhật để xin Chúa cho con một món quà đẹp nhất vào dịp Lễ Giáng Sinh. Vào ngày vọng lễ Giáng Sinh, con đến nhà thương lấy kết quả cuộc phân tích trước đó. Và con ngạc nhiên biết bao khi biết mình đã mang thai với ngày chính xác là 8-12-2011!

Giờ đây bào thai đã được 12 tuần lễ và mọi sự tiến triển tốt đẹp. Hàng tháng, hiền phu con và con đều làm Tuần Cửu Nhật với Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Hàng ngày, chúng con cầu nguyện cùng Đức Bà Mân Côi Pompei. Chúng con xin Đức Mẹ MARIA cho mọi sự tốt đẹp hầu con có thể ôm chặt vào vòng tay đứa con bé bỏng thân yêu của chúng con. Đã không biết bao nhiêu lần con kêu cầu cùng Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và mỗi lần đều được ngài ra tay cứu giúp con. Quyền năng chuyển cầu của ngài thật lớn lao! Đối với con, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã là Vị THÁNH!

… Thư thứ ba đề ngày thứ tư 18-1-2012.
Con là Sandra Maconi 35 tuổi và có 4 đứa con. Tháng 5 năm 2011 kết quả cuộc khám nghiệm cho biết con bị ung thư vú. Con bắt đầu ngay các cuộc chữa trị bằng hóa chất. Và hôm nay, ngày 18-1-2012, các bác sĩ nơi nhà thương bách khoa Modena cho biết là con đã khỏi bệnh! Con là người luôn kính mến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và chúng con đã thành khẩn kêu cầu cùng ngài. Con tin chắc mình đã nhận được phép lạ khỏi bệnh nhờ lời chuyển cầu của Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II!

… KINH XIN ƠN NHỜ LỜI CHUYỂN CẦU CỦA ĐỨC CHÂN PHÚC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

Lạy Ba Ngôi Chí Thánh, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho Giáo Hội Đức Chân Phúc Gioan Phaolô II và biểu dương nơi người lòng ưu ái của tình phụ tử Chúa, vinh quang thánh giá Đức KITÔ và sự huy hoàng của Thánh Thần Tình Yêu. Nhờ sự phó thác vô điều kiện của người nơi lòng thương xót vô biên của Chúa và nơi sự chuyển cầu từ mẫu của Đức Mẹ MARIA, người đã cho chúng con một hình ảnh sống động của Đức GIÊSU Chăn Chiên Nhân Lành và đã chỉ cho chúng con đường nên thánh, chiều kích thanh cao của đời sống kitô thường ngày, là con đường duy nhất đạt tới niềm hiệp thông vĩnh cửu với Chúa. Nhờ lời chuyển cầu của người, xin Chúa ban cho chúng con, tùy theo thánh ý Chúa, ơn chúng con van nài, với niềm hy vọng mãnh liệt người sẽ được nâng lên hàng Các Thánh của Giáo Hội.

(”www.karol-wojtyla.org”, Ioannes Paulus P.P.II, Karol Józef Wojtyla, Beatificationis et Canonizationis Servi Dei, Totus Tuus ego sum, Maria, et omnia mea tua sunt! Testimonianze)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Lòng Thương Xót Chúa trong đời tôi…

Lòng Thương Xót Chúa trong đời tôi… 

  Tôi được sinh ra và lớn lên trong một gia đình Công giáo. Đã được rửa tội từ thuở nhỏ. Rước lễ lần đầu vào năm 7 tuổi. Chịu phép Thêm Sức vào năm 14. Rồi sau đó là Bao Đồng. Tất cả đều được chỉ dẫn và dìu dắt ở trong một môi trường Công giáo. Trường hợp của tôi thường được gọi là trường hợp của thành phần đạo gốc, nhưng không biết “gốc” gì đây? Tôi có được sự lựa chọn hay chăng?  Vì nếu không đi xem lễ ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc thì sẽ bị la rầy. Nên đi cho có hình thức bề ngoài. Nhưng trong lòng thì chưa tin vào Chúa cho lắm. Niềm tin của tôi lúc ấy rất yếu.

 Đến năm 17 tuổi, cái tuổi có thể bẻ gẫy xừng trâu ấy, chẳng biết sợ gì, tôi đã ra đi để tìm tự do cho bản thân mình, với ba nguyện vọng đơn sơ: 1- Con nuôi cá; 2- Con nuôi ba má; 3- Ba má nuôi con. Nhưng tự do thật sự ở đâu?

 Được sự che chở của “Lòng Thương Xót Chúa“ nên tôi đã được bình an dừng chân tại trại tỵ nạn Pula Bidong, thế nhưng rồi đệ tam quốc gia nào sẽ nghênh đón tôi đây? Chính những tháng ngày cô đơn ấy, buồn tủi nhất trong đời nên ngày nào tôi cũng cầu xin cùng Chúa và Mẹ Maria trên đồi Công giáo, chứ không phải đồi Canvê là nơi Chúa chết khi xưa.

 Với lòng nhiệt thành và lòng tin tưởng, tôi đã được định cư ở một nơi bấy giờ được gọi là thiên đường hạ giới, một nơi mà có thể nói cả thế giới này, nhất là thành phần tỵ nạn Việt Nam nghèo khổ, ai ai cũng mong mỏi được đặt chân đến…

 Sau 18 giờ bay, đúng 6 giờ 30 phút ngày 12 tháng 5 năm 1989, chuyến bay định mệnh đã hạ cánh tại phi trường Washington DC, nay là phi trường George  W Bush.

 Trước khi ra đi tôi chỉ có 3 nguyện vọng, nay lại được định cư ở một đệ tam quốc gia. Đây có phải là hồng ân của Ba Ngôi Thiên Chúa hay chăng? Chưa biết được…

 Khi giật mình tỉnh giấc giữa đêm khuya tôi mới phát hiện ra mình lại mắc thêm 3 chứng bệnh mà hầu như ai trong chúng ta khi mới qua Mỹ vào lúc bấy giờ không sao quên được, đó là:

1- Bị điếc vì không nghe được tiếng bản xứ;

2- Bị câm vì không nói gì được;

3- Bị què vì không có phương tiện để đi lại.

 Một mình đơn phương nơi xứ lạ quê người. Cơm áo gạo tiền đã gắn liền với cuộc sống. Nhưng “believe in gold and take care yourself” đó là những câu nói dường cột của chúng bạn. Cho nên “gần mực thì đen….”. Công danh và sự nghiệp đã lôi cuốn tôi vào cơn lốc xoáy, cơn lốc của cuộc đời. Từ đó, tôi dần dần xa Chúa và Mẹ Maria từ lúc nào tôi chẳng biết.

 Công danh và sự nghiệp là chi??? Đó là hai miếng mồi ngon và bổ nhất. Thử hỏi trong chúng ta ai mà chẳng vớ lấy cho bằng được. Thế là cuộc hành trình lại được bắt đầu từ đây.

 Để cố gắng khắc phục ba cái «bị» ở xứ lạ quê người khi mới sang Mỹ năm 1989 trên đây, tôi đã “cầy ngày không đủ phải tranh thủ làm đêm“. Chính vì cơm áo, gạo tiền cộng thêm hơn thua và ganh tỵ mà tôi đã lãng quên đi Chúa và Mẹ Maria từ lúc nào. Tiếng chuông nhà thờ vẫn vang vọng hằng đêm, nhưng tiếng lương tâm của lòng tôi đã chết lịm từ lúc nào rồi? Vì “lương tâm so ra không bằng lương tháng“.

 Để tạo cho mình một bước đi vững vàng, tôi đã lập gia đình. Người bạn đời của tôi không cùng tôn giáo với tôi, và đã được hai cháu. Vì lo công danh và sự nghiệp, nên tôi chẳng làm trọn bổn phận là một người cha Công giáo của chúng…. Tính ra đã hơn 20 năm tôi đã lầm đường lạc lối. Cuối cùng, Chúa đã thức tỉnh tôi với một cơn bệnh lạ đời, kéo dài trong vòng 3 năm trường không phải là ngắn.

 Đúng thế, nếu “Vinh danh Chúa cả trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm!” (Lk 2 :14) thì, đối với tôi, chính vì «tâm» không lành nên long thể bất an xẩy ra cho tôi vào mùa hè năm 2009. Chúa đã thức tỉnh tôi bằng một cơn bệnh ù-tai và chóng mặt. Lỗ tai lúc nào cũng có tiếng như ma kêu quỉ khóc. Còn chóng mặt thì chỉ còn nằm trên giường mà nhắm mắt, từ 16 đến 20 giờ đồng hồ mỗi ngày. Mở mắt ra thì trời đất quay cuồng, say xẩm. Chỉ có ói mửa cho tới mật xanh thôi. Nằm im đó để mà nhìn công danh cùng sự nghiệp tan tành như mây khói.        

                   Lúc thất thế con quì bên chân Chúa

                     Khi gặp thời con đạp đổ lư hương…

 Chính vì bệnh tật nên tôi phải xa rời tất cả chuyện làm ăn và vui chơi cùng bạn bè. Bởi không sao chịu được những tiếng ồn nơi công cộng. Trong ba năm, tôi đã trải qua 4 lần MRI và 3 lần chụp CT, các bác sĩ không tìm được bệnh gì. 

 Không biết cậy nhờ vào ai. Lúc này tôi lại gục đầu bên chân Chúa mà cầu nguyện, với bao đêm ngày cầu nguyện cùng Chúa. Suốt ba năm trường tại sao Chúa lại chẳng nhận lời ? Vì tất cả tôi chỉ muốn Chúa làm theo ý của riêng tôi, nên  tôi đã nhiều lần oán trách Chúa, mà Chúa vẫn chỉ im lìm theo dõi bước chân tôi.

 Thất vọng ê chề. Vì bệnh trạng của tôi vẫn không thể nào chữa được. Rồi từ đó tôi lại oán trách Chúa đủ điều… Tôi đã hoàn toàn tuyệt vọng với bao nỗi chán chường. Một hôm, giữa đêm khuya, khi cả gia đình đã ngủ say, tôi quì trước bàn thờ và khẽ nói: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa, con xin dâng linh hồn và thể xác con trong vòng tay từ ái của Chúa. Xin Chúa hãy chỉ dạy cho con“.

 Cuối cùng Ngôi Ba Thánh Thần đã soi sáng cho tôi và  tôi đã bay về Việt Nam để cầu may…    

 Nhìn những người bạn cùng chuyến bay ung dung bước ra khỏi phi trường để đoàn tụ cùng gia đình, tôi cảm thấy tủi thân! Vì bấy giờ tôi phải có người hộ tống, bởi tôi đi đứng không được, phải ngồi trong xe lăn.  

 Gặp lại con trong hoàn cảnh thê thảm như thế, người cha đạo hạnh của tôi, thương hại nhìn con, sau đó nhìn lên trời một hồi lâu và nhìn thẳng vào mặt tôi với giọng ồn tồn của người cha nhân hậu khẽ nói. Con ơi “vì lời lãi của thế gian này mà đánh mất đi linh hồn thì chẳng được ích gì”, hãy nghỉ vài ngày cho khoẻ, gia đình mình sẽ chung sức cầu nguyện cùng Chúa và Mẹ Maria xin các Ngài giúp cho con.

 Đúng vậy, nơi miền quê nghèo nhỏ bé, Chúa đã chữa khỏi bệnh chóng mặt cho tôi , chỉ cần qua một người y tá quèn ở vùng quê hẻo lành. Còn ở Mỹ, nơi những bệnh viện nổi tiếng, các bác sĩ có bằng cấp cao lại chẳng chữa nổi cho tôi . Tại sao vậy???

 Thế rồi, vào một buổi sáng kia, tôi tập thể dục và chạy ngang qua Nhà thờ Thánh Tâm. Một sức mạnh nào đó như cứ thôi thúc trong tận đáy lòng của tôi, đến độ tôi  phải ghé vào để than thở cùng Mẹ Maria.

 Một lần không chịu ghé. Lần hai cũng không ghé. Thôi thì nhất quá tam nhì ba bận nên cuối cùng tôi đành ghé lại. Đây là lần thứ nhất Mẹ Maria nhìn tôi. Mẹ nhìn tôi với đôi mắt buồn rầu, sầu thảm không sao tả được! Vài ngày sau, khi tôi đứng ngoài hàng rào nhà thờ cầu nguyện, Mẹ quay lại nhìn tôi cũng với ánh mắt như lần trước… Hơn một tuần, sau thánh lễ Chúa Nhật, giáo dân hợp nhau đọc kinh ở núi Đức Mẹ và Thánh Cả Giuse, sự lạ lại xẩy ra một lần nữa: Mẹ Maria lại âu yếm nhìn tôi ! tôi quay sang hỏi Cha Xứ cùng bà con xung quanh xem có ai thấy gì hay chăng? Tất cả đều lắc đầu không hiểu  tôi đang nói gì… “Mẹ ơi, thật sự Mẹ muốn gì ở nơi con? Xin Mẹ hãy chỉ dạy và soi sáng cho con!”

 Ba ngày sau đó, theo sự soi sáng của Ngôi Ba Thánh Thần, tôi cùng với gia đình và anh em đi hành hương viếng thăm Đức Mẹ ở các nơi khác nhau, như ở Trung Tâm Fatima Bình Triệu Sài Gòn, ở Tapao, và có ghé ngang qua một bức tượng Đức Mẹ trên đường đi Đà Lạt về, không nhớ rõ địa danh, chỉ biết rằng đài Đức Mẹ nằm ngay trên quốc lộ.

 Mỗi lần nói chuyện cùng Mẹ thì tôi lại nhận được sự bình an không sao tả được: “Mẹ ơi, con là đứa con tội lỗi, không đáng để được Mẹ tha thứ. Nhưng người bạn đời của con và hai đứa con thơ dại của con thì không biết gì về Mẹ và Chúa Giêsu hết. Xin Mẹ hãy soi sáng và chỉ dẫn cho vợ con và hai đức con thơ dại biết nhận ra Mẹ là ai và Chúa Giêsu xuống thế gian này để làm gì nghe Mẹ“.

 Về đến Mỹ, giấc ngủ của tôi bị trái giờ, hơn nữa, tôi lại nhớ ba má cùng anh em bà con ở Việt Nam, nên tôi không ngủ được bình thường như trước. Tuy nhiên, nhờ dịp này, theo sự sắp đặt của Mẹ Maria, con đã biết đến, qua lời giới thiệu của đứa em rể tên Minh Phong thuộc giáo xứ Trà-Long giáo phận Cần Thơ, qua trang web tinvui.info do Cha Giuse Trần Đình Long Dòng Thánh Thể phụ trách thuộc Giáo Xứ Chí Hòa, (chứ không phải là khám Chí Hòa đâu nhé). 

 Qua trang web này, tôi thật sự cảm nghiệm được « Lòng Thương Xót Chúa ». Nhờ ơn Chúa, cha đã có được những lời giảng khôi hài, mộc mạc, đơn sơ, thực tế nhưng có sức quyến rũ và mời gọi một cách lạ thường.

 Sau vai tuần nghe những bài giảng của cha ở trang web tinvui.info, tôi đã viết email để xin cha và cộng đoàn «Lòng Thương Xót Chúa » cầu nguyện giúp tôi . Bà xã của tôi, thấy tôi hầu như đêm nào cũng nghe giảng qua trang web này. Tuy nhiên, có lần tôi đột nhiên không nghe nữa thì nàng lại hỏi tôi tại sao? và đồng thời tỏ ý muốn nghe. Vài ngày sau, nàng đã khăn gói lên đường trở về nhà Cha, vì: “Ai xin sẽ được, ai gõ cửa sẽ được mở ra cho” (Mt 7:7).

 Nhờ nghe lời Chúa mà nàng và hai đứa con đã trở thành những người dự tòng Kitô hữu, và vào dịp Lễ Vọng Phục Sinh đêm ngày 7 tháng 4 năm 2012 chính thức trở thành con cái Chúa. Ôi, còn nỗi vui mừng nào hơn là được làm con cái Chúa : “Hồng ân Thiên Chúa bao la, muôn đời con sẽ ngợi ca danh Người” –

 Mặc dù tôi đã được ơn trở lại sau hơn 20 năm rời xa Chúa và Mẹ Maria, bao nỗi ưu tư và phiền muộn vẫn còn vương vấn trong tâm hồn tôi. Biết bao điều thắc mắc vẫn còn đó, không biết tìm ai để được giải tỏa những thắc mắc của riêng mình.

 “Hãy đến với Cha, hơi tất cả những ai mệt mỏi và nặng gánh, Cha sẽ bổ sức cho các con” (Mt 11:28). Đó là chủ đề cho cuộc Tĩnh Tâm của Cộng đoàn Công giáo Việt Nam tại Giáo Xứ Các Thánh Anh Hài thuộc Tổng Giáo Phận Philadelphia. Người phụ trách chia sẻ các bài nói theo chủ đề này đó là một người giáo dân từ miền Nam California tới: Hiệp Sĩ Trái Tim Mẹ – Tông Đồ Chúa Tình Thương Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh.

 Cuộc tĩnh tâm 3 ngày (24-26/2/2012) mở màn cho Mùa Chay này hoàn toàn về Lòng Thương Xót Chúa, bao gồm 9 bài nói, tất cả đều được trình bày và chia sẻ bởi người tín hữu giáo dân ấy, một nhân vật tôi chưa hề quen biết và nghe tiếng. Những bài nói của vị hướng dẫn tĩnh tâm này (Tối Thứ Sáu 1 bài, Ngày Thứ Bảy 5 bài, và Chúa Nhật 3 bài), thứ tự sau đây:  

                1.      Thời Điểm Cánh Chung của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về tình trạng Nửa Đêm Nghênh Đón);

                2.      Tội Lỗi – Vực Thẳm của Lòng Thương Xót Chúa;

                3.      Tội Nhân – Mồi Ngon của Lòng Thương Xót Chúa;

               4.      Thánh Giá – Chân Dung của Lòng Thương Xót Chúa;

               5.      Cơn Khát Núi Sọ của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về hai câu Chúa nói: “Cha khát” – “Xin cho Cha uống”);

               6.      Điểm Hẹn Thần Linh của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về Trái Tim Mẹ: Nơi Nương Náu – Đường Đến Chúa, tức Đến Chúa Qua Mẹ );

              7.      Bối Cảnh Lịch Sử của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về Bí Mật Fatima);

               8.      Sứ Điệp Cứu Độ của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về những gì Chúa muốn như Ảnh Thương Xót, Lễ Thương Xót, Kinh Thương Xót…);

             9.      Hồn Nhỏ Hy Tế của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về gương sống Lòng Thương Xót của 3 Thiếu Nhi Fatima và Chị Thánh Faustina).

Sau ba ngày tĩnh tâm đặc biệt trên đây, tất cả mọi thắc mắc cũng như ưu phiền của tôi đã được giải đáp qua lời giảng thuyết hùng hồn của người tín hữu giáo dân này.

 Tháng 2 hằng năm, vùng Đông Bắc Hoa Kỳ vẫn còn đang ở trong mùa đông. Ngoài trời thì lạnh, nhưng trong cõi lòng của mỗi một người Kitô hữu hiện diện ở đấy đã được sưởi ấm và nung nóng với bàn tiệc lời Chúa. Biết bao nhiêu anh em Kitô hữu đã bỏ cả công ăn việc làm, không ngại đường xá xa xôi đến để tham dự.

 Tôi nhớ rất rõ là vào ngày Thứ Bảy 25/2/2012, trong lúc ngoài trời gió rất mạnh, cộng thêm tuyết rơi, thế nhưng trong hội trường, anh chị em Kitô hữu cùng nhau lắng nghe lời Chúa. Mặc dù lời của Chúa thật xa xưa nhưng chính giây phút này đã trở thành những gì hiện thực nơi lời chia sẻ của vị giảng thuyết cũng như nơi cảm nghiệm thấm thía của thành phần tham dự viên. Lúc ấy, hơn bấy giờ hết, tôi cảm nghiệm thấy được sự hiện diện thần linh của Chúa ở giữa chúng tôi: “Vì ở đâu có hai hay ba người hợp lại vì danh Thày thì Thày ở giữa họ” (Mt 18:20).

 Âm vang của những giây phút tĩnh tâm về Lòng Thương Xót Chúa ấy vẫn còn âm ỉ nơi tôi, qua tâm tình và kinh nguyện của tôi với Chúa Giêsu và Mẹ Maria.

 Những chuỗi Mân Côi hằng ngày sẽ làm dịu đi nỗi đau của Trái Tim Mẹ. Hãy đến với Mẹ mỗi ngày để than thở và khóc lóc. Dâng lên Mẹ những nhọc nhắn khó khăn trong cuộc sống. Qua lời chuyển cầu của Mẹ thì tất cả mọi ước nguyện của chúng ta sẽ được nhận lời. Mẹ biết và hiểu được những gì ta đang cần.

 Lạy Chúa Giêsu, xin hãy giúp con biết mở lòng con ra mà đón nhận Chúa. Xin hãy ngự trị trong tâm hồn con và giúp con biết yêu mến Chúa từng giây, từng phút, để con luôn được bình an trong vòng tay của Chúa: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Ngài” với tất cả tâm hồn và thể xác của con đây.

 Xin Mẹ Maria luôn gìn giữ, bao bọc, che chở gia đình con và Giáo Hội trên toàn thế giới trong vòng tay quyền năng từ ái của Mẹ. Amen.

 Mùa Chay 2012

Inhaxio/Phêrô Randy Khâm Nguyễn

Giáo Xứ Các Thánh Anh Hài, Tổng Giáo Phận Philadelphia.

Cảm tưởng của một Tân tòng.

Cảm tưởng của một Tân tòng.

 Dạ con chào Bác,

 Bác có khỏe không? Mấy ngày nay do bận đi làm và một số công chuyện. Hôm nay con mới rãnh rỗi đễ trả lời thư của Bác. Mong Bác thứ lỗi cho sự chậm trễ của con.

1) Thiệt sự thì trước khi con vào Đạo con cũng đã đi nhà thờ trước đó cũng một năm trời rồi, cũng đi tất cả các lễ của người công giáo nhưng con không có lên rước lễ thôi. Lúc đó con vẫn còn là Phật tử và cũng chẳng tin gì về Chúa , con vào Đạo là lý do trước đây con có quen với người bạn gái bên công giáo và được người ấy dẫn dắt vào lớp học giáo lý, sau này vì có một số chuyện nên con và bạn ấy chia tay, lúc đó con cũng buồn và cũng tính không đi tiếp theo Đạo và lớp giáo lý nữa.

2) Cảm nghĩ sau khi vào Đạo con rất vui, thiệt sự không có gì diễn tả được cái cảm giác làm con của Chúa và được nhận mình máuThánh Chúa, cái đêm hôm rửa tội thật sự làm con rất hồi hộp và lo lắng, xen kẽ niềm vui,vì sao con lo lắng. Không biết sau này con có thể giữ Chúa luôn mãi trong cuộc đời của con không, nhưng con luôn cầu nguyện sáng và tối lúc nào con cũng chỉ mong rằng Chúa luôn luôn soi sáng con đường Chúa đã chọn cho con.

3) Những cái khó khăn khi vào Đạo là con là một Phật tử cũng đã từng có Pháp danh (và Pháp danh của con là Pháp Minh), con vừa là con một và cũng là cháu đích tôn trong đại gia đình gồm có khoảng trên 15 anh em họ. Ngày con vào Đạo thật sự cả gia đình đều quay mặt lại với con, không ai chấp nhận con là con và là cháu trong gia đình Đạo Phật và mang nặng tư tưởng phong kiến ở Việt Nam. Lúc đó con rất khó khăn vì khi nói ra những gì, không ai tôn trọng và lắng nghe mặc dù con đã giải thích và nói ra rất nhiều tất cả những suy nghĩ và tâm tình của con.

4) Nhưng khi con vào được Đạo, đó là cái ngày con nhận được ơn Chúa và hai tiếng “Xin Vâng”.Tất cả những gì trước đây con gặp khó khăn hay gia đình con gặp khó khăn, con đều cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ đều được hết, nhanh hay chậm thôi. Con xin kể ra một vài ví dụ cách đây một năm trời, Mẹ con đạ bị bệnh “U nang tử cung” và sức khỏe Mẹ con cũng không được tốt,với lại lúc đó nghe tin con theo Đạo thật sự là một cú sốc của Mẹ và bệnh Mẹ một lúc nặng hơn và Mẹ hay buồn khi nói chuyện với con, thậm chí có những lúc Mẹ giận dữ với con nữa, nhưng con đã cầu nguyện xin Chúa ban phước lành và giúp Mẹ con qua khỏi cơn bệnh này, thì sau ngày con được rửa tội, Mẹ đã khỏe mạnh lại và bây giờ thái độ của Mẹ đã vui hơn khi nói chuyện với con và không còn nhắc gì tới chuyện Đạo nữa. Bố con cùng thời gian đó cũng gặp rất nhiều khó khăn trong công việc kinh doanh, nhưng sau đó mọi việc đã trở lại suông sẻ và bình thường,và chính bản thân con thì con có thể thấy rõ nhất, lúc trước con đi làm từ thứ ba tới Chúa nhật, mỗi lần đi lễ và học lớp giáo lý xong là con phải chạy về đi làm,thật sự lúc đó con cảm thấy rất bực mình và khó chịu, con nghĩ tại sao Chúa tạo con người những ngày khác thì đi làm và Chúa nhật là ngày phải được nghỉ ngơi được phụng vụ lời Chúa như đi lễ hay phục vụ trong nhà thờ, con đã cầu nguyện, con xin với Chúa rằng, nếu là ý Chúa xin Chúa cho con một công việc mới làm trong tuần để Chúa nhật con có thể rãnh rỗi được ở cùng Chúa,và khi con mới vừa rửa tội xong là chỉ hai tuần sau con được nhận vào chỗ làm mới mà không phải đi làm ngày Chúa nhật, đó là lý do vì sao con muốn tham gia vào Ca Đoàn của nhà thờ mình và cũng có thể là Nhóm Hát Thánh Linh…Trên đây là một vài ví dụ lớn lao trong lúc con đi tìm và kiếm Chúa con thấy rõ nhất. Bác có thể đăng vào Website mới của Bác.
Thật sự theo Chúa đó là món quà lớn nhất cả cuộc đời con được nhận từ Chúa.

 Con,
Peter  Đức Nguyễn.

31 May 2012