MỪNG LINH MỤC FX. ĐINH TRỌNG TỰ

MỪNG LINH MỤC FX. ĐINH TRỌNG TỰ

NHÂN DỊP 45 NĂM LINH MỤC

14/5/1968 – 14/5-2013

 

 

 

 

Đi khắp thế gian không ai có thể kiếm được ngôi nhà xứ nào cũ kỹ chật hẹp
nhỏ bé như phòng của cha. Một căn phòng bằng gỗ đơn sơ mục nát, chẳng có
gì ngoài chiếc giường bé nhỏ, chuỗi môi khôi và cuốn sách kinh trên bàn.

Trọng kính cha sở kính mến của chúng con.

Trước hết, anh chị em chúng con xin hân hoan chúc mừng  45 năm Linh mục của cha!

Kính thưa cha,

Mỗi độ tiết trời sắp vào hạ, trăm hoa đua nở, cũng là thời gian Chúa thương ban cho mọi người chúng con quy tụ hành hương về bên Mẹ, mừng kính Mẹ, bởi Mẹ là cánh hoa tuyệt mỹ nhất trong vườn hoa ngát hương muôn sắc của Thiên Chúa.

Kính thưa cha,

Trong bầu khí linh thiêng của của đêm hành hương 13/5 hôm nay, cũng lại là dịp kỷ niệm 45 năm hồng ân linh mục của cha, một người cha kính yêu và rất mực từ nhân của chúng con, chúng con xin hết lòng cảm tạ ơn Chúa và xin chúc mừng cha.

Kính thưa cha,

Chúa đã gọi Cha đi tu 1 cách nhiệm mầu. Cụ cố thân mẫu của cha đã mất đi khi cha chỉ vừa tròn 4 tháng. Rồi cụ cố thân sinh của cha cũng mất khi cha được 8 tháng. Cậu bé Phanxico không biết mặt cha mẹ, được người bà con bồng ẵm, đi xin bú nhờ hàng xóm để sống qua ngày. Khi được 10 tuổi, cậu Phanxico đang mò cua bắt ốc ngoài ruộng, được Chúa đoái thương nhìn đến. Cha sở cho gọi về bảo đi vô nhà dòng, Cậu vui vẻ đáp lời, rồi từ bỏ giỏ cua, giỏ ốc, mặc 1 bộ quần áo chùng trắng và con đường đi tu đã bắt đầu từ đó.

(Từ đó, vâng từ đó, Chúa đã gọi con…)

Ngày 14-5 – 1968 thầy Phanxico Xavier Đinh Trọng Tự được Chúa thương ban cho hồng ân linh mục, rồi về làm giáo sư chủng viện vài năm. Sau đó làm hiệu trưởng trường trung học Đồng Tiến Cần thơ và làm Giám Đốc Trung Tâm Mục Vụ của giáo phận cho đến năm 1975.

Sau đó cuộc đời của cha đã đi trong18 năm những tháng ngày đen tối nhất. Cha sống cuộc đời vất vả và thiếu thốn, sức khỏe ngày càng yếu dần, thời gian này cha đã phải cắt đi 2/3 dạ dày.

Đến năm 1994 được phép trở về và coi sóc họ đạo chúng con. Một họ đạo truyền giáo hoang sơ nghèo khổ. Và cũng từ đó, chỉ bằng lời cầu nguyện và những cái bong bóng , cha đã làm cho nhiều người biết Chúa và họ đạo của chúng con bắt đầu thay da đổi thịt . Cũng từ đó số giáo dân ngày càng tăng.

Đến nay là đúng gần 20 năm, một chặng đường dài gần ¼ thế kỷ, Cha đã ở với chúng con gần như cả cuộc đời cha. Cha sống với chúng con, cầu nguyện cho chúng con,  hướng dẫn và dạy dỗ chúng con. Nhờ bàn tay của cha mà hồng ân Thiên Chúa đã tuôn đổ xuống cho họ đạo chúng con muôn vàn ơn lành .

Cha đã xây dựng 2 giáo điểm truyền giáo thành 2 giáo xứ có nhà thờ, có tháp chuông, có đài Đức Mẹ, và cả nhà xứ cho 1 họ đạo, nhà các nữ tu cũng rất khang trang. Hiện nay cha đang chuẩn bị có 1 giáo điểm tại Cả Lan xa xôi nữa.

Cha đã xây nhà cho Chúa, cha đã mua đất cho Chúa, cha đã trao tặng tình thương cho con cái Chúa, giúp vô điện, vào nước, làm đường đi, xây nhà tình thương, làm cầu bắc qua sông, làm nhà vệ sinh, cho học bổng, tạo điều kiện cho chúng con học hành, Cha muốn cho mọi người được biết Chúa, được sung túc, được hạnh phúc, được đầy đủ… Cha đã mở phòng phát thuốc khám bệnh miễn phí, cho chúng con đi tham quan nhiều nơi, đặc biệt cha luôn thao thức khắc khoải muốn cho chúng con sống tốt hơn, yêu Chúa và yêu nhau nhiều hơn. Vì thế cha luôn cầu nguyện cho chúng con đêm ngày….

Dù tuổi cao sức yếu, nhưng cha vẫn không ngại vất vả sớm khuya, ăn tranh thủ, ngủ khẩn trương, làm việc ngoài đường và đi karaoke(*) xin nhờ người về giúp đỡ cho chúng con. Sáng sớm cha đi, ngủ ngồi trên xe, đêm tối cha về, ăn vội trái chuối, rồi chợp mắt, để rồi sáng mai có ai cần giúp đỡ là cha lại đi ngay. Vì thế người ta mới gọi cha là siêu, không phải là siêu nhân người sắt, nhưng là siêu mỏng. Nhưng đối với chúng con, cha là siêu tận tụy, siêu phục vụ, siêu khiêm nhường, siêu đạo đức, siêu thánh thiện và siêu hiền lành bác ái. Nhờ vào phước đức và sự tận tình hy sinh giúp đỡ của cha, chúng con mới có được cuộc sống như ngày hôm nay, và con em chúng con có rất nhiều người đã được học hành thành tài, nhờ vào sự giúp đỡ của cha. Thật hạnh phúc biết bao khi chúng con luôn được ở trong trái tim cha.

Với cha, tất cả là cho Chúa và cho chúng con, còn riêng đời sống cha, cha suốt ngày chỉ mặc duy nhất một bộ đồ pijama cũ kỹ, ai cho gì cũng không lấy, không muốn mặc đồ mới. Ăn cơm chỉ 1 chén duy nhất, vì bao tử còn đâu nữa mà ăn. Không cao lương mỹ vị, không mâm cao cỗ đầy, chỉ chén cơm trắng và chút thức ăn của ngày hôm qua hâm nóng lại. Sáng nào cha cũng thức dậy thật sớm, thắp nhang các tượng Đài Đức Mẹ, Thánh Giuse, Cha Diệp, rồi vào nhà thờ quỳ gối giang tay đọc kinh cầu nguyện thật sốt sắng cho các linh hồn và cho chúng con. Cha nói cha thích làm ôsin cho Đức Mẹ mỗi ngày. Hạnh phúc biết bao được làm con của cha và sống trong lời cầu nguyện của cha đêm ngày.

Riêng nhà cửa của cha, dù cha xây cho chúng con biết bao ngôi nhà, nhưng giờ đây nhà xứ của cha là nhỏ bé nhất họ đạo. Đi khắp thế gian không ai có thể kiếm được ngôi nhà xứ nào cũ kỹ chật hẹp nhỏ bé như phòng của cha. Một căn phòng bằng gỗ đơn sơ mục nát, chẳng có gì ngoài chiếc giường bé nhỏ, chuỗi môi khôi và cuốn sách kinh trên bàn. Phòng không máy lạnh, không tủ lạnh, không quạt máy, không máy giặt, không toillet, không tiện nghi, không chăn êm nệm ấm, phòng nhỏ bé bằng tôn cũ kỹ, nóng bức… Cuộc sống của cha là như vậy đó. Làm sao chúng con có thể lại không đau lòng với hoàn cảnh sống của cha.

Tất cả thời gian, tất cả tiền bạc, tất cả sức lực… cha dành hết cho Chúa và cho chúng con. Có đồng nào cha cũng không dám ăn, không dám mặc, cha tiết kiệm từng đồng xu để dành cho chúng con. Cha hao mòn đi mỗi ngày vì chúng con. Chúng con  thật xúc động và ghi ơn công đức của cha.

Ai đến xưng tội cha cũng sẵn sàng ngồi tòa bất cứ lúc nào, dù là lúc đang lu bu hay nghỉ trưa, cha mặc áo dòng vào, ra nhà thờ ngồi tòa giải tội. Cha tôn trọng họ đến thế là cùng.  Ai có oan trái bất đồng đến cha hòa giải, nói chuyện với cha một lúc sẽ cảm thấy lòng mình nhẹ nhàng thanh thoát, bao ân oán thù ghét ghen nặng nề như tan biến hết. Vì thế cho nên có biết bao người gần xa thích về bên cha để nghe cha dạy dỗ khuyên răn và chỉ dẫn. Thật bình an thư thái khi được ngồi nói chuyện với cha.

Kính thưa cha,

Cha hết lòng mong ước chúng con yêu mến Chúa và đi nhà thờ. Vì là xứ truyền giáo và là những người bổn đạo mới, niềm tin của chúng con còn yếu kém. Chúng con hay ươn lời, làm biếng, giận dỗi nhau mà bỏ nhà thờ, bỏ Chúa. Cha đã hết sức đau khổ và nhiều lần nói rằng: “Các  con hãy tin yêu mến Chúa nhiều hơn, đừng bỏ CHúa, đừng giận dỗi, đừng sống bất hòa với nhau. Nếu các con muốn, cha sẽ quỳ xuống xin lỗi các con thay cho anh chị em. Miễn các con đừng bỏ Chúa”. Ôi những lời nói xuất phát tự tận đáy lòng cha, tận trong trái tim cha. Làm sao phận làm con mà nghe những lời ấy cho đành lòng.

Riêng với bề trên, cha hết lòng vâng phục và kính trọng. Đối với anh em linh mục, cha luôn xây dựng đoàn kết và hòa giải. Khi có ai yếu đuối lỗi lầm cha hết lòng cảm thông thương yêu nâng đỡ. Lời cầu nguyện của cha thật hữu hiệu cho những người đang gặp khó khăn. Không bao giờ và không ai có thể nghe được cha nói xấu về bất cứ ai một điều nào. Cái gì cũng tốt, tốt, rất tốt, tốt hết. Cha thật tốt lành.

Kính thưa cha, trong dịp lễ 45 năm mừng Hồng Ân Thánh Chức Linh mục của cha, chắc chắn rằng cha có nhiều lý do để cảm tạ Thiên Chúa, xin cho chúng con được hiệp ý tạ ơn với Cha. Và chúng con cũng có lý do để cảm tạ Thiên Chúa nữa:

– Cảm tạ Thiên Chúa đã thương ban cho chúng con một linh mục thật thánh thiện, đạo đức.

–  Cảm tạ Thiên Chúa đã thương ban cho chúng con một linh mục giầu lòng thương xót tất cả  mọi người, nhất là những ai neo đơn nghèo khổ.

– Cảm tạ Thiên Chúa đã thương ban cho chúng con một linh mục sống khắc khổ, hy sinh sống nghèo nàn đến quên mình vì mọi người.

Cũng ngày này vào năm qua, tại nơi thánh đường này, Đức Giám Mục giáo phận Stephano Tri Bửu Thiên chủ sự thánh lễ đồng tế và trong bài giảng, ngài đã ca tụng Cha là Đức Gioan Phaolô III(*). Và tước hiệu của Vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô III này là “Totus Tuus” Tất cả những gì của con đều là của mẹ. Cha đã nói là cha xin chọn Mẹ là Mẹ của cha. Cha đi đâu cũng đến trước tòa Mẹ và nói thưa Mẹ con đi, khi về cha cũng nói: chào Mẹ con mới về.

Kính thưa cha, dù có nói hoài, nói mãi cũng không hết được những hy sinh và nhân đức tốt lành của cha, Nhưng chúng con biết cha rất ghét những lời ca tụng cha, cha không muốn ai nói đến thành tích của Cha. Cha thường nói: tôi chỉ là ông già hai lúa siêu mỏng, chẳng làm được thành tích gì, mà có làm được gì cũng chính là Chúa và Mẹ Maria, thánh Cả Giuse làm trong tôi.

Hôm nay mừng lễ cha, là một cơ hội để chúng con nhìn lại. Thời gian đã 20 năm trôi qua chúng con được sống gần Cha, được cha chở che và yêu thương hướng dẫn dạy dỗ đi lên. Cha tốt lành là như thế đó, còn chúng con đã biết bao lần quên công ơn của cha, đã biết bao lần chúng con vô ơn bạc nghĩa với cha; chúng con đã lười biếng, thờ ơ lãnh đạm, chúng con sống bất hòa, sống hận thù, sống chia rẽ, chúng con kiêu căng, muốn làm nổi, muốn cái tôi của mình to lên, muốn thống trị người khác, chúng con đã không làm đúng những gì cha  chỉ dạy. Chắc hẳn làm cha rất xót xa và đau lòng. Thì hôm nay đây, đứng trước cha, chúng con cúi đầu xin cha rộng lượng tha thứ và đừng bỏ rơi chúng con. Bởi vì ngoài cha, chúng con không biết trông cậy vào ai.

Từ đây, chúng con xin hứa, sẽ sống tốt hơn, sẽ nghe lời cha dạy, bằng cách tin kính mến Chúa nhiều hơn và yêu thương đoàn kết với nhau hơn, để cha bớt buồn, bớt khổ, để cha an tâm vui vẻ mà ăn thêm miếng cơm lấy sức và cho con đỡ nghẹn lòng.

Cuối cùng, chúng con xin kính chúc cha nhiều ơn Chúa, ơn Mẹ. Cha luôn mạnh khỏe, tràn đầy ân sủng và bình an,  để tiếp tục dấn thân trên con đường truyền giáo phục vụ Chúa và ở mãi với chúng con.

Toàn thể họ đạo chúng con xin cúi đầu cảm tạ và tri ân cha.

Chúng con xin kính dâng lên cha chút quà nhỏ thể hiện tấm lòng của chúng con. Xin cha vui nhận cho chúng con.

Ánh Minh Đăng

– Giáo xứ cha đang phụ trách là xứ truyền giáo Rạch Súc, giáo phận Cần Thơ
– (*) đi “karaoke” tức là đi ca thán, đi than vãn, đi hát ỉ ê cho người ta thương mà giúp đỡ giáo xứ truyền giáo nghèo.

– (*) Đức Gioan Phaolô III là danh hiệu Đức Giám Mục giáo phận Stephano Tri Bửu Thiên dành tặng ngài.

– Ngài là tuyên úy trước 1975, sau phải đi học tập 12 năm, và quản chế 18 năm… Ngài nổi tiếng về đạo đức, từ nhân, khiêm tốn, hy sinh quên mình và truyền giáo.

Người phụ nữ trẻ Africa bò 2.5 dặm trên đường đi dự lễ Chúa Nhật.

Người phụ nữ trẻ Africa bò 2.5 dặm trên đường đi dự lễ Chúa Nhật.

Hội các chị em hèn mọn của những người già bị bỏ rơi tại Chissano, nước Mô-Dăm-Bích đã đón về nhà của họ một phụ nữ 25 tuổi tên là Olivia. Chị tuy chưa được rửa tội vào lúc đó và không có đôi chân để đi, nhưng đã bò 2.5 dặm mỗi ngày Chúa Nhật để tới dự thánh lễ.

Theo cơ quan truyền thông ở Phi Châu, các nữ tu nói rằng, một ngày kia, họ nhìn thấy từ phương xa có cái gì di động ở trên mặt đất, và họ đã tới gần để nhìn xem. Trước sự vô cùng ngạc nhiên của họ, đó là một phụ nữ trẻ tuổi tàn tật đang bò trên đường đi dự lễ.

Các nữ tu nói: Chúng tôi có thể nói chuyện với chị Olivia nhờ một người phụ nữ đi đường, và thông dịch qua  ngôn ngữ Bồ Đào Nha, người phụ nữ này nói với chúng tôi trong tiếng thổ âm địa phương. Mặc dù cát trên đường nóng cháy lòng bàn tay của chị vào thời gian nóng nhất trong năm (ở nước Châu Phi khi hậu sa mạc rất nóng), nhưng người phụ nữ này đã bò lết trên đường tới tham dự thánh lễ, chứng minh lòng trung thành và đức tin sắt son của chị.

(Chị Olivia bò đi lễ. Hình của cơ quan truyền thông Avân)

Người phụ nữ trẻ này đã nhận phép rửa tội nhờ một người dạy giáo lý thường xuyên tới viếng nhà của chị. Sau khi chị được rửa tội, một người ân nnhân của các nữ tu hèn mọn đã dâng tặng một chiếc xe lăn cho chị Olivia.

Lời  bàn:

Chúng ta đang sống trong năm đức tin, khi mà nền văn minh thời đại a-còng @ với các tiện nghi của xe hơi, điện tử, điện thoại thông minh, máy IPAD v.v… đã dần lối kéo con người rời xa Thiên Chúa. Thật cảm phục vẫn còn có những người như chị Olivia với niềm tin tuyệt đối vào cho Chúa và nhất là niềm tin vào Thánh Lễ. Chị không có đôi chân, nhưng trái tim đức tin của chị thật lớn lao dành cho Chúa Giêsu Thánh Thể. Xin Chúa chúc lành cho chị.

Thu Linh (dịch)

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Lời chứng của Nick Vujicic

Lời chứng của Nick Vujicic

Đăng bởi lúc 3:57 Sáng 7/04/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (07.04.2013) – Facebook – Tôi tên là Nick Vujicic và tôi xin ca tụng Chúa vì Người đã dùng chứng tá của tôi để đánh động hàng ngàn con tim trên khắp thế giới !

Tôi được sinh ra không tay không chân, và về mặt y học các bác sĩ không thể giải thích “khuyết tật” bẩm sinh này. Như các bạn có thể hình dung, tôi đã phải đương đầu với rất nhiều khó khăn và thách thức.

“Anh em thân mến, anh em hãy tuyệt đối hân hoan khi phải chịu thử thách tứ bề.” Xem nỗi khổ đau và sự tranh đấu của mình là niềm hân hoan tuyệt đối ư ? Vì cha mẹ tôi là người Kitô giáo, và cha tôi còn là mục sư trong hội thánh chúng tôi, nên cha mẹ tôi biết rất rõ câu trên.

Dù sao, vào ngày 4 tháng 12 năm 1982 tại Melbourne (Úc Châu), cha mẹ tôi không thể nào nghĩ đến ba từ “Ngợi khen Chúa !” được. Đứa con đầu lòng của hai vị được sinh ra không tay chân ! Hai vị không có thời gian và cũng không được báo trước để chuẩn bị đón nhận điều này.

Các bác sĩ cũng ngỡ ngàng và không thể nào giải thích nổi ! Cho đến bây giờ cũng chẳng có lý do nào về mặt y học để giải thích tại sao điều này lại xảy ra và bây giờ thì tôi lại có một em trai và một em gái được sinh ra bình thường như bao nhiêu trẻ em khác.

Cả hội thánh khóc thương cho số phận của tôi và cha mẹ tôi thì bị mất tinh thần hoàn toàn. Mọi người đều đặt câu hỏi: “Nếu Chúa thật sự là Thiên Chúa Tình Yêu, vậy tại sao Người lại có thể để cho một sự dữ như thế xảy ra, Người không nhằm vào bất cứ ai khác, mà lại là đúng vào người Kitô giáo nữa chứ ?”

Cha tôi nghĩ là tôi sẽ sống không được bao lâu, nhưng các kết quả xét nghiệm cho thấy tôi là một bé trai khỏe mạnh, chỉ có hơi thiếu tay chân mà thôi.

“Và chúng ta biết rằng trong mọi sự Thiên Chúa sẽ làm điều tốt nhất cho những người yêu mến Người.” Câu này đi sâu vào lòng tôi và làm tôi xác tín rằng nếu những “sự dữ” như thế này xảy đến trong đời chúng ta thì

không bao giờ là do may rủi, tình cờ hay trùng hợp ngẫu nhiên mà ra.

Tôi hoàn toàn bình an khi biết là Chúa không bao giờ để xảy ra điều gì trong cuộc đời mình mà lại không có mục đích tốt cho nó. Tôi hoàn toàn phó mình cho Chúa ở tuổi 15 sau khi đọc phúc âm thánh Gioan đoạn 9. Đức

Giêsu nói lý do ngưòi đàn ông sinh ra bị mù từ lúc lọt lòng mẹ “là để vinh quang của Chúa được thể hiện qua ông ấy.“ Tôi thật sự tin là Chúa chữa lành cho tôi để tôi có thể trở thành một nhân chứng đắc lực cho Quyền năng tuyệt diệu của Người.

Sau đó, tôi được ban cho ơn khôn ngoan để hiểu rằng, khi chúng ta cầu xin một điều gì, nếu đó là ý Chúa, thì nó sẽ xảy ra vào thời điểm Ngài muốn. Nếu Chúa không muốn để điều đó xảy ra, thì tôi tin là Người có một dự định khác tốt đẹp hơn cho tôi.

Bây giờ tôi hiểu là vinh quang Người được thể hiện khi tôi như thế nào thì Người dùng tôi như thế ấy và theo những đường lối mà Người không thể dùng được nơi những người khác.

Năm 23 tuổi (2005) tôi tốt nghiệp bằng cử nhân Thương Mại, với chuyên môn là Kế hoạch Tài Chính và Kế Toán. Tôi cũng là một diễn giả nhiệt thành và tôi rất thích đi ra ngoài để chia sẻ câu chuyện và chứng tá của tôi

khi có dịp. Tôi đã đi nói chuyện nhiều để làm bạn với các sinh viên học sinh và động viên tinh thần họ qua những đề tài đang làm cho các thanh thiếu niên ngày nay ưu tư. Tôi cũng là diễn giả hay đến nói chuyện với các hội đoàn. Tôi có đam mê đến với giới trẻ và Iuôn sẵn sàng làm bất kỳ những gì Chúa muốn tôi làm, và Người đưa tôi đi đâu thì tôi cũng xin theo.

Tôi có nhiều ước mơ và cũng đề ra nhiều mục tiêu mà tôi phải đạt được trong cuộc đời. Tôi muốn trở nên người làm chứng tốt nhất theo khả năng mình cho Tình Yêu Chúa và lòng Trông Cậy.

Tôi muốn trở nên một diễn giả quốc tế có khả năng khích lệ mọi người và làm ích lợi cho cả người trong Kitô giáo lẫn người ngoài Kitô giáo. Tôi muốn được độc lập về tài chính vào năm 25 tuổi, nhờ vào đầu tư địa ốc. Tôi muốn chế biến một chiếc xe để tôi có thể tự lái được, và được phỏng vấn cũng như được chia sẻ câu chuyện của tôi trên chương trình “Oprah Winfrey Show”!

Một trong những ước mơ nữa của tôi là viết nhiều sách ăn khách nhất và tôi hy vọng viết xong quyển sách đầu tiên của tôi trước cuối năm nay. Sách sẽ có tựa đề là: “Không tay, không chân, không lo âu !”.

Tôi tin rằng nếu các bạn mong muốn và có đam mê làm một điều gì, và nếu đó là ý Chúa, thì các bạn sẽ thực hiện được điều này vào lúc thích hợp. Với bản chất con người, không vì lý do nào cả, chúng ta luôn đặt giới hạn cho mình. Tệ hơn nữa là chúng ta đặt giới hạn cả cho Chúa là Đấng có thể làm được mọi sự. Chúng ta để Chúa vào một cái “hộp” rồi.

Xin Chúa ban phúc lành cho các bạn, Hiệp thông trong Chúa Kitô.

Nick Vujicic

Một kỷ niệm về niềm tin từ câu Tin Mừng Ga 13:13

Một kỷ niệm về niềm tin từ câu Tin Mừng Ga 13:13

Tác giả: Hoàng Ngọc Tấn

nguồn:thanhlinh.net

Tôi còn nhớ năm 1979, lúc đó tôi đi học chuyên ngành để ra đi làm. Trong chương trình học có một môn học mà bài học mở đầu nó mang một tựa đề rất dài, mãi cho đến giờ tôi vẫn còn nhớ từng chữ từng lời: “ Không phải Thượng đế tạo nên con người nhưng chính con người đã dựng nên Thượng đế: Thượng đế chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng của con người.” Để truyền đạt bài học này, người ta đã mời một người thầy của một trường lớn ở xa về. Bằng một kiến thức rộng, nhất là về khoa học, người thầy đó đã thuyết phục các học viên rằng không có thượng đế hiện hữu và thượng đế chỉ là sản phẩm trí tưởng tượng của con người.

Không biết bây giờ người ta đã thay đổi chương trình học hay chưa, nhưng những năm sau năm 1975 thì những ai từng học đại học và trung học nghề đều phải trải qua cái bài học này. Những người trẻ chuẩn bị đi vào đời đã được trang bị những kiến thức như vậy.  Lúc đó bản thân tôi cũng chưa có gì gọi là niềm tin; chỉ có một lòng tự ái nổi lên vì mình cũng là dân Công giáo, là Catholic vậy mà người ta bảo rằng không có Thượng đế, không có Thiên chúa trong cái vũ trụ này; thế thì những truyền thống Công giáo mà mình đang thực thi đây là vô nghĩa sao? Và lúc đó thầm trách mình sao chưa đủ kiến thức để thấu đạt mọi vấn đề.

Đó là chuyện đã qua của ngày xưa.

Lúc đó sống ở môi trường tập thể. Sinh hoạt văn hóa những năm đó thật nghèo nàn, muốn tìm cái gì đó đáng đọc thì cũng chẳng có gì để mà đọc. Gia tài tình cờ may mắn có được quyển Tân Ước nho nhỏ mà truớc năm 1975 người Tin Lành thường hay phát không trong các bệnh viện. Thế rồi những lúc rảnh rỗi cũng cầm lên đọc, và đọc cũng chỉ để mà đọc. Đọc dần thuộc rất nhiều, nhận ra sự giống nhau và khác nhau giữa các quyển tin mừng, nhất là sự khác biệt của tin mừng thánh Gioan. Sau này mới được biết trong giáo hội đã có tư tưởng ví tin mừng thánh Gioan như cánh phượng hoàng bay vút trên cao. Có lẽ vì là người môn đệ được Chúa thương yêu nhiều nhất nên điều này đã góp phần để thánh nhân cảm nhận được cái sâu thẳm, cao vời mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa nhập thể làm người và toát lên trong quyển tin mừng thứ tư tuyệt vời này. Và một ngày nọ trong lúc đọc đến tin mừng thánh Gioan đoạn 13:13 mà nguyên văn được dịch là: ” Các con gọi ta bằng Thầy bằng Chúa, các con nói phải vì ta chính thật là như vậy.”. Có thể đoạn tin mừng ấy đã đọc qua nhiều lần nhưng chỉ lần đó một cảm giác kỳ lạ tràn ngập tâm hồn mình, một sự giật mình để thốt lên trong lòng rằng: Vậy là Chúa có thật sao?; và cũng tự mình trả lời:”Phải rồi Chúa là có thật rồi.” Nếu ai từng đọc tin mừng của thánh Gioan; đọc một mạch từ đầu chương 13 đến cuối chương 17, tức là từ đầu đến cuối bữa tiệc ly sẽ luôn cảm nhận nơi những đoạn tin mừng này toát lên cái man mác của tâm tình biệt ly, cái vời vợi của bao nhiêu nổi niềm mà Chúa Giêsu muốn chia sẻ cùng các môn đệ của Ngài-những người đã đi theo Chúa với một tấm lòng mà có thể chưa hiểu nhiều về sứ mạng của Ngài. Một chí sĩ đã có câu rằng: “Con chim sắp chết hót tiếng bi thương. Con người sắp mất nói lời tâm huyết.” Một lát nữa đây Chúa Giêu Ngài sẽ một thân một mình bước vào cuộc thương khó, còn các môn đệ thì tan tác. Rồi đây các ông sẽ không còn được nhìn thấy Chúa thường ngày nữa. Thầy trò sẽ không còn cùng nhau rong ruổi trên những nẻo đường của đất Palestina để truyền giảng tin mừng nữa rồi. Bữa tiệc này là bữa tiệc sau cùng, bữa tiệc của biệt ly. Chính trong bối cảnh đó Chúa Giêsu đã khẳng định lại một điều quan trọng mà ơn của Chúa vào thời điểm đọc đoạn tin mừng đó đã tuôn đổ, khai sáng, đánh động để lòng mình cảm nhận ra một cách trọn vẹn rằng Chúa là có thật và để những năm tháng sau này khi đọc hoặc nghe đoạn tin mừng trên lòng lại bồi hồi, rưng rưng nhớ lại là từng có một thuở Chúa đã dùng đoạn tin mừng trên để cho mình sự nhận biết về Ngài.

Và những dòng này đã được viết ra:

“ Con muốn khóc vì tràn đầy vui sướng

Con muốn ca lên vang dậy cả núi đồi

Con thổn thức vì tin, yêu, hy vọng

Con xao xuyến tâm hồn vì Chúa đã thương con.”

Trong đời sống tập thể những năm tháng ấy, tôi cũng chứng kiến có người từng hung hăng trong vô tín, thành khẩn, lâm râm với nén nhang trên tay trước một chuyến xe đi xa mà có lần đã suýt chết. À thì ra trước cái may rủi mong manh của đời người, trước cái chết người ta cũng run sợ; cũng cảm nhận ra cái gì đó linh thiêng vượt trên giới hạn của con người.

Niềm tin là một hồng ân của Thiên Chúa, là món quà cho không của Ngài dành cho con người. Niềm tin cũng là cả một tiến trình trải nghiệm, cảm nghiệm qua những biến cố, những sự kiện xẩy ra trong cuộc đời của mỗi người, rồi soi rọi nó dưới ánh sáng của tin mừng, của lời Chúa. Niềm tin cũng sẽ chỉ đến đối với những ai trải lòng mình ra một cách đơn sơ, chân thành để đón nhận.

Vậy thì trước những luận thuyết phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa cho rằng Ngài không tồn tại trong cái vũ trụ này bạn và tôi ta cùng cứ trải lòng mình ra để đón nhận, để tìm hiểu về cuộc đời của một con người mang tên là Giêsu cùng với những tư tưởng, giáo huấn của Ngài. Ngài là một nhân vật có thật trong lịch sử, sinh ra ở miền đất Palestina vào đầu công nguyên. Nhưng có một điều rất quan trọng, vô cùng quan trọng. Đó là Ngài không đơn thuần chỉ là con người. Ngài là con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Ngài đã chịu nhiều nhục nhằn bất công mà đáng ra Ngài chẳng cần phải chịu. Chỉ vì tình thương đối với con người, những con người mà Ngài đã nhào nặn nên từ bụi đất đó, Ngài đã cam chịu chết để bạn và tôi cùng được cứu, cùng được có diễm phúc được làm con, làm bạn hữu với Ngài. Rồi từ trong cõi chết Ngài đã sống lại để những ai tin vào Ngài cũng có được niềm hy vọng sẽ sống lại trong quê hương của chính Ngài. Rồi trong suốt hai ngàn năm qua, Giáo hội mà Ngài đã gầy dựng nên ấy, Giáo hội đó có sự thánh thiện và cũng có khiếm khuyết, những khiếm khuyết mà những tư tưởng muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi thế giới này đã dùng nó để làm lung lạc niềm tin ngay cả đối với những người đã tin vào Ngài. Cũng trong suốt hai ngàn năm qua, đã có biết bao con người dành trọn cuôc đời mình dấn bước ra đi vun đắp niềm tin về Ngài nơi những người anh em đồng loại của mình.

Với sự trải lòng mình ra để đón nhận Đức Giêsu Ki-tô và tìm hiểu về cuộc đời của Ngài như vậy; qua thời gian, qua tiến trình được vun đắp, một niềm tin sẽ dần lớn lên trong tâm hồn của bạn và tôi. Rồi một ngày nào đó trong tương lai chúng ta lại nghe nói đâu đó trong cái thế giới này có ai đó đưa ra luận thuyết này, luận thuyết nọ bảo rằng không có Thượng đế, không có Thiên chúa trong cái thế giới này đâu. Có thể khi đó bạn và tôi ta sẽ chỉ mỉm cười mà trong lòng mình tràn ngập bình an, mạnh mẻ tự nhủ rằng: “Điều mà người ta nói đó chẳng có nghĩa gì với tôi đâu, chẳng làm bận lòng, chẳng làm lung lạc được tôi đâu; bởi vì chính tôi đã gặp được Ngài rồi. Tôi đã gặp được Ngài trong những giây phút nguyện cầu; đã gặp được Ngài và nhận ra Ngài qua những biến cố, những sự kiện trong cuộc đời của chính bản thân tôi; rồi mai này tôi cũng mang một niềm tin, một niềm hy vọng sẽ gặp lại được Ngài ở buổi họp mặt sau cùng đầy vinh hiển và vĩnh cửu trong quê hương của chính Ngài.”

Khi Stephen Hawking nhà vật lý học nổi tiếng trình bày trong cuốn “ Sự thiết kế Vĩ đại” rằng vũ trụ này đã được hình thành dựa trên những quy luật, những định luật vật lý mà không cần có bàn tay của Thiên Chúa; người ta lại nhao nhao lên rằng: Đấy bác học Stephen Hawking lỗi lạc đã bảo là không có Thiên Chúa trong vũ trụ này đâu!

Có một em bé mà vào dịp lễ Giáng sinh, đứng bên cạnh hang đá Bêlem nhìn vào trong đó; nơi có máng cỏ, có Chúa Hài Đồng. Dưới cái nhìn của em bé đó thì Thiên Chúa Ngài cũng đơn sơ, thân thương, gần gủi qua hình hài trẻ thơ bé nhỏ như vậy. Rồi đứa bé đó thầm thì bên tai Chúa Hài đồng những ao ước của mình, những ao ước có lẽ cũng đơn sơ như chính tâm hồn của nó hiện giờ.

Và cũng có một cụ già; cụ chẳng biết gì về khoa học, chẳng biết gì về những triết thuyết phức tạp của con người. Từ mấy mươi năm nay cụ đã được truyền đạt và tiếp nhận rằng có một Chúa cứu thế Giêsu người Nazarét đã chết cho cụ và cho mọi người. Cũng từ mấy mươi năm nay cụ vẫn hằng liên lỉ nguyện cầu với đấng Cứu thế ấy. Giờ đây ở buổi xế chiều của thân phận con người, cụ vẫn mong, vẫn tin sẽ gặp được Đấng mà cụ vẫn tôn thờ.

Dưới ánh nhìn của Thiên Chúa, một Stephen Hawking lỗi lạc được ngưỡng mộ kia có thể lại không bằng cụ già hay em bé đây đã có cái nhìn đơn sơ về Thiên chúa nhưng tin cậy nơi Ngài. Niềm tin vào Thiên Chúa luôn gặp nhiều thách thức từ bên ngoài nhưng cũng chính điều này càng làm cho niềm tin ấy trở nên có giá trị và được chúc phúc.

Một niềm tin mà chính vì nó chúng ta đã hiện diện trong cái thế giới này, có mặt trong cuộc đời này như lời của Đức Thánh Cha Gioan XXIII cũng là Chân phước Giáo hoàng Gioan XXIII đã viết trong “Nhật ký tâm hồn” của ngài: “Sống ở đời chỉ là để nhận biết, để yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa mà thôi.” Và lời này cũng có thể trở nên là một trong nhiều câu trả lời mà Kytô giáo có thể dành cho khoa học, dành cho triết học về cái trăn trở ngàn đời của con người: Chúng ta là ai? -Chúng ta từ đâu tới?- Chúng ta sống để làm gì? -Chúng ta đi về đâu?.

Hoàng Ngọc Tấn

Lời Chứng Tôi Đã Trở Về Giáo Hội Công Giáo Như Thế Nào

Lời Chứng Tôi Đã Trở Về Giáo Hội Công Giáo Như Thế Nào

27/03/2013

nguồn:thanhlinh.net

Hai Giấc Mơ Kỳ Lạ Của Gió Lang Thang.

Trước khi kể về hai giấc mơ kỳ lạ, tôi (Gió Lang Thang) xin nói về mình một chút, đó là, tôi sinh ra trong một gia đình truyền thống Công Giáo, lớn lên khi học đại học tôi có theo một số giáo phái Tin Lành trong khoảng thời gian 6 năm, sau những biến cố cuộc đời, với những trăn trở, suy tư và cầu nguyện… tôi đã thực sự quy đạo và trở về với giáo hội Công Giáo Rô-ma. Có nhiều lý do khiến tôi trở về giáo hội Công Giáo, trong đó có cả những giấc mơ, tuy không phải là lý do chính nhưng cũng ảnh hưởng tới tôi, và tôi xin kể ra sau đây:

1-Giấc Mơ Thứ Nhất

Tôi nằm mơ thấy một người cầm gươm đâm xuyên qua bụng tôi, tôi thấy mình rỉ máu và thực sự cảm thấy đau đớn về thể xác (mặc dù trong mơ). Khi đó, tôi thấy bố tôi đang ở trên một chiếc thuyền vác một cây thánh giá rất nặng nề tiến đến kẻ dùng gươm đâm vào bụng tôi, tên này thấy thế sợ hãi liền bỏ chạy. Và ngay lập tức tôi thấy có một luồng ánh  sáng chiếu vào bố tôi, tôi thấy kỳ lạ chạy đến thì vết thương nơi bụng tôi được chữa lành.

Lời bàn: Bố tôi là một tín hữu Công Giáo tin kính Chúa và rất sùng đạo, ông đã cầu nguyện cho tôi rất nhiều khi tôi đi xa khỏi giáo hội Công Giáo.

2-Giấc Mơ Thứ Hai

Tôi nằm mơ thấy mình đi đến một ngôi nhà thờ nọ, bên ngoài nhà thờ có rất nhiều linh hồn bơ vơ và có một đám đông ma quỷ với hình thù kỳ lạ xấu xí bao quanh.
Tôi tự nhiên đọc kinh Kính Mừng (Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ / Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.). Khi tôi đọc đến đâu ma quỷ hoảng sợ bỏ chạy tán loạn đến đó… và tôi thấy rất nhiều linh hồn đến nắm tay và đi theo tôi. Tình cờ tôi gặp một người thanh niên vẻ mặt buồn thảm, tôi hỏi, “Sao anh không đọc kinh Kính Mừng”- Anh ta trả lời, “Tôi không đoc được!”. Và tiếp theo tôi đi dọc hành lang nhà thờ, tôi thấy một người thanh niên nọ chặn đường và nói với tôi, “Anh phải đến Quảng Trị”. Vừa nghe câu nói này tôi giật mình thức dậy.
Lời Bàn: Ngày hôm xảy ra giấc mơ thứ hai này, tôi có viết một bài viết xin lỗi Đức Mẹ Maria vì tôi thấy áy náy do trước đây khi tôi theo đạo Tin Lành có viết một bài đại ý là, “Chúng ta chỉ nên cầu nguyện với Chúa Jesus, không nên cầu nguyện với Đức Mẹ Maria và các thánh”, sau đó tôi thấy ân hận vì cảm thấy mình đã phát ngôn liều lĩnh, không đúng đắn,… nên tôi đã công khai xin lỗi Đức Mẹ và các thánh. Và đêm hôm đó xảy ra giấc mơ thứ hai như tôi kể trên.

Có một điều lạ là tôi không hiểu trong giấc mơ thứ hai, người thanh niên nói với tôi, “Anh phải đến Quảng Trị” là có ý gì? Tôi kể với mẹ tôi, mẹ tôi liền bảo, “Quảng Trị là nơi có linh địa đền thánh Đức Mẹ La-vang, Đức Mẹ đã hiện ra ở đây vào năm 1798” Tôi suy nghĩ có lẽ mình sẽ phải đến đây hành hương xin lỗi tạ tội chăng…

Trên đây là những điều tự thuật của tôi về hai giấc mơ kỳ lạ không thừa một từ, không thiếu một từ. Tôi đã suy nghĩ rất nhiều, nhưng xin phép không giải thích gì thêm, phần cảm nhận xin dành cho anh chị em và các bạn. Trong tình yêu thương của Chúa Giê-su Ki-tô và Mẹ Maria. Thân ái.

Gió Lang Thang (Vũ Thắng)

Facebook:   http://www.facebook.com/giolangthang123

Giáo Phận Orange có thêm 1,000 tân tòng dịp Phục Sinh

Giáo Phận Orange có thêm 1,000 tân tòng dịp Phục Sinh
March 27, 2013

nguồn:nguoi-viet.com

ORANGE, California (NV) – Đức Giám Mục Kevin Vann, giám mục Giáo Phận Orange, sẽ rửa tội cho 972 người Công Giáo tân tòng tại Nhà Thờ Chánh Toà, 566 South Glassell St., Orange, CA 92866, trong buổi tối lễ vọng Phục Sinh, 30 Tháng Ba, tới đây, thông cáo báo chí của giáo phận cho biết.

Đức Giám Mục Kevin Vann sẽ lãm lễ rửa tội cho gần 1,000 giáo dân Công Giáo tân tòng. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Đây là số người được rửa tội tại lễ Phục Sinh đông nhất trong 36 năm lịch sử giáo phận.

“Giáo phận chúng ta vinh dự rửa tội được cho nhiều người vào thời điểm quan trọng này. Đây là dịp quan trọng nhất trong năm của giáo phận chúng ta,” thông báo trích lời Đức Giám Mục Kevin Vann nói.
Niềm tin của giáo dân tại Orange County, tương đương 40% dân số của quận hạt, là lý do có nhiều người xin rửa tội vào dịp Tuần Thánh, một tuần quan trọng nhất trong năm của Giáo Hội Công Giáo toàn cầu.

Lễ Vọng Phục Sinh bao gồm bốn phần theo quy định, với những nghi thức rất nghiêm trang.

Giáo Phận Orange do cố Giáo Hoàng Paul VI thành lập năm 1976, rộng 782 dặm vuông, dài 42 dặm dọc bờ biển miền Nam California. Giáo phận hiện có 57 giáo xứ và 247 linh mục, phục vụ 1.2 triệu giáo dân.

Chương trình Tuần Thánh tại Nhà Thờ Chánh Toà

1-Thứ Năm, 28 Tháng Ba
Thánh Lễ: 8:15 AM (Đức Giám Mục Kevin Vann chủ tế); 6 PM (song ngữ)

2-Thứ Sáu, 29 Tháng Ba
Thánh Lễ: 1:15 PM

3-Thứ Bảy, 30 Tháng Ba
Vọng Phục Sinh: 8 PM

4-Chủ Nhật, 31 Tháng Ba
Lễ Phục Sinh: 8 AM; 11 AM; 1 PM (tiếng Tây Ban Nha)

Trước khi chết Tổng Thống Chavez làm hoà với Giáo Hội và trở về với Chúa

Trước khi chết Tổng Thống Chavez làm hoà với Giáo Hội và trở về với Chúa
Nguyễn Long Thao

3/7/2013                                                  nguồn:Vietcatholic.net
Caracas, Venezuela, Thông tấn xã CNA của Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ trích dẫn một nguồn tin đáng tin cậy ở Venezuela cho biết Tổng thống Hugo Chavez trước khi chết vì bệnh ung thư đã sám hối trở về với Giáo Hội Công Giáo và đã được chịu các phép bí tích sau cùng.

Khi thông báo cho quốc dân biết về cái chết của Tổng Thống Chavez vào ngày 5 tháng 3, Phó Tổng thống Nicolas Maduro nói Tổng Thống đã trở về với Chúa và ông đã dùng cụm từ “bám lấy Chúa Kitô (Clinging to Christ) để chỉ hành động của Tổng Thống Chavez trong những tuần lễ cuối đời. Vào lúc lâm chung Tổng Thống đã yêu cầu được phó linh hồn và xin nhận bí tích xức dầu.

Kể từ khi ông lên nắm quyền vào năm 1999, Tổng thống Chavez là một người hung hăng chống đối Giáo Hội Công Giáo. Ông chống lại chính sách công bằng xã hội của Kitô Giáo và muốn thiết lập một chính sách xã hội chủ nghĩa theo ý mình. Năm 2002, Tổng thống Chavez đã gọi các Giám Mục Venezuela là “khối ung nhọt” phá hoại các mục tiêu cách mạng của mình. Đồng thời ông nêu đích danh Tòa Thánh Vatican đừng can thiệp vào công việc nội bộ đất nước của ông.

Trong những năm gần đây, Tổng thống Chavez đôi khi tham dự nghi thức tôn giáo tại các nhà thờ của giáo phái khác. Rồi vào tháng Tư năm 2012, giới truyền thông rất ngạc nhiên khi ông xuất hiện tại một nhà thờ Công giáo ở quê hương minh là vùng Barinas để tham dự nghi thức Tuần Thánh. Ông đeo tràng hạt quanh cổ của mình và cầu nguyện xin cho được lành bệnh. Các ống kính truyền hình ngoại quốc thường chiếu hình ông Chavez cầm thánh giá hôn trước mặt các ký giả. Tháng Bảy năm ngoái, Tổng thống Chavez đã yêu cầu được gặp Hội Đồng Giám Mục Venezuela

Sau cái chết của Tổng thống Chavez, Đức Hồng Y Jorge Urosa của tổng giáo phận Caracas đang ở tại Rome tham dự bầu Giáo hoàng đã gửi lời chia buồn tới chính quyền Venezuela và yêu chính quyền áp dụng các điều khoản trong Hiến pháp để duy trì trật tự công cộng, hòa bình và đoàn kết nhân dân.

Nguyễn Long Thao

Bài học về sự thành công và hạnh phúc

Bài học về sự thành công và hạnh phúc

Quỳnh  Chi, phóng viên RFA

2013-02-15

Đối với nhiều người, câu chuyện của một bác sĩ trẻ người Singapore – Richard Teo Keng Siang không chỉ là một câu chuyện đầy cảm động và ý nghĩa mà nó ở một khía cạnh nào đó có thể làm thay đổi cuộc sống của họ.

Tải xuống – download

Bác sĩ Richard Teo (1972-2012)

Bác sĩ Richard Teo (1972-2012)

Danh vọng, tiền bạc không là tất cả

Nếu gõ từ Dr. Richard Teo trên công cụ tìm kiếm Google, sẽ thấy hơn 7 triệu kết quả trong vòng 0,28 giây. Trước khi mất vào tháng 10 năm ngoái, mặc dù là một bác sĩ có tiếng tại Singapore, ông Richard cũng không được nhiều người biết đến như vậy.

Những người biết đến ông đặc biệt là giới sinh viên Y khoa Singapore và những người có đức tin khi ông chia sẻ cuộc hành trình của chính cuộc đời mình trong những ngày tháng cuối đời chống chọi với căn bệnh ung thư phổi hiểm nghèo. Người ta biết đến ông, nhớ về ông không phải vì ông đã thành công trong việc tạo ra một câu chuyện cảm động từ chính cuộc đời mình mà là bài học ông rút ra từ bi kịch mà ông trải qua.

Nói chuyện tại một buổi lễ ở một nhà thờ Tin lành vào cuối tháng 11 năm 2011, giọng ông Richard đã bắt đầu trầm thấp và khàn đục. Nhưng chỉ hai tháng sau đó, nói chuyện tại một lớp nha khoa ở Singapore, giọng nói ông lại càng khó nghe ông như một mớ âm thanh ồn ào, sột soạt bởi lúc đó ông đang vật vã với đợt hóa trị lần 5.

Người đàn ông ốm yếu, không còn sinh khí, ăn mặc đơn giản nhưng lại cầm micro phone bày tỏ một cách tự tin trước bao  sinh viên nha khoa khiến nhiều người phải tò mò đặt câu hỏi “Bác sĩ Richard TeoKeng Sieng là ai?

“Tôi là một sản phẩm đặc trưng của xã hội. Tôi là sản phẩm đặc trưng mà giới truyền thông vẽ ra. Từ lúc còn trẻ, tôi bị ảnh hưởng và có ấn tượng rằng thành công là hạnh phúc. Và để thành công thì tôi phải giàu có”.

Tất cả đều diễn ra rất tốt đẹp. Thời vinh quang của tôi đã đến. Tôi ở tột đỉnh của sự nghiệp. Tôi có mọi thứ trong cuộc sống…Thế nhưng tôi đã lầm. Tôi không thể chế ngự mọi chuyện

Dr.Richard Teo

Thời còn ngồi ở giảng đường đại học, ông Richard là một trong những học sinh giỏi của trường đại học quốc gia  Singapore (NUS). Cũng như những thanh niên đầy hoài bão và tự hào về chính bản thân mình, ông Richard là mẫu người luôn ganh đua để đạt được những gì mình muốn: bạn gái, thể thao, học hành… Richard trở thành sinh viên trường y của
khoa giải phẩu mắt – một trong những chuyên khoa khó nhất – với học bổng nghiên
cứu của NUS.

Trong thời gian nghiên cứu, ông đạt được hai bằng phát minh về dụng cụ y khoa và tia lasers. Tuy nhiên, đây không   phải là những gì Richard hướng tới vì nó không mang đến cho ông sự giàu có.

“Sự thật thì những người có thu nhập trung bình không được gọi là anh hùng. Người ta tạo ra anh hùng từ những người nổi tiếng giàu có, từ những chính trị gia, từ người giàu có và nổi tiếng. Và tôi muốn trở thành một trong số họ”.

Chiếc Ferrari f70 Enzo 2012 (ảnh minh hoạ) The Motor Report

Chiếc Ferrari f70 Enzo 2012 (ảnh minh hoạ) The Motor Report

Richard dừng công việc của một bác sĩ chữa bệnh và trở thành một bậc thầy về sắc đẹp. Theo ông, đây chính là ngành hái ra tiền nhiều và nhanh. Một người có thể bỏ ra 30 đô la cho một lần đi bác sĩ nhưng vẫn than phiền. Tuy nhiên, họ lại sẵn sàng bỏ ra cả 10 ngàn đô là để hút mỡ mà lại vui vẻ.

Với khả năng thiên phú của mình, Richard đã chuyển sang ngành phẫu thuật thẩm mỹ không quá khó khăn cũng như không quá khó khăn để ông mở một phòng mạch cho công việc này. Rồi chẳng mấy chốc Richarad trở thành triệu phú khi phòng mạch có thêm 1, 2, 3 rồi 4 bác sĩ. Lịch chờ đợi để được phẫu thuật từ 1 tuần kéo dài đến 3 tháng và Richard có
thêm cơ hội thu hút nhiều khách ở nước láng giềng Indonesia.

“Tất cả đều diễn ra rất tốt đẹp. Thời vinh quang của tôi đã đến. Tôi ở tột đỉnh của sự nghiệp. Tôi có mọi thứ trong cuộc sống”

Richard chia sẻ một cách thật thà, hơi phóng khoáng cộng một chút chua chát tại các buổi nói chuyện với các sinh viên, các anh chị em trong Chúa những lúc cuối đời. Chỉ trước đó vài tháng, ông  chưa nghi ngờ về thời mà ông gọi là vinh quang đó.

Tiền bạc dư dả, Richard đã sắm chiếc xe đắt giá Ferrari. Cuối tuần ông tiêu khiển tại các câu lạc bộ đua xe hơi. Richard xây dựng nhà cửa, có khu nghỉ mát và hòa nhập với những người giàu có và nổi tiếng. Ông từng giao du với những người thành công nhất trên thế giới,
những hoa hậu được nhiều người biết đến và thưởng thức những món ăn của các đầu
bếp nổi tiếng tầm thế giới.

Richard chia sẻ ông đã từng nghĩ mình chế ngự được mọi việc và có thể tạo nên mọi thứ với đôi tay của

Bác sĩ Richard Teo năm 40 tuổi (năm ông mất)

Bác sĩ Richard Teo năm 40 tuổi (nămông mất) Source Facebook

mình. Chính vì thế, trước khi mắc bệnh, ông chưa từng nghĩ mình cần bất cứ ai, kể cả Chúa.

“Thế nhưng tôi đã lầm. Tôi không thểchế ngự mọi chuyện.”

Tháng 3 năm 2011, Richard bắt đầu bị  đau lưng và kết quả xét nghiệm cho thấy ông bị ung thư phổi giai đoạn 4b – giai đoạn cuối. Ung thư đã lan tới não, cột sống và nội tuyến. Theo chuẩn đoán, ông  chỉ còn sống được 3-4 tháng. Dĩ nhiên với sự tự tin pha lẫn chút ngoan cố và hiếu thắng, Richard không tin những gì diễn ra trước mắt mình là thật. Ông chưa
qua tuổi 40, không uống rượu, chỉ hút thuốc khi xã giao, và ông tập thể dục 6
ngày một tuần. Và điều quan trọng hơn hết là ông giàu có. Ông từng nghĩ rằng
chỉ có người nghèo mới chịu khổ ải.

“Các em có biết, có lúc tôi hoàn toàn nghĩ mình đã chế ngự được cuộc sống, đã đạt đến tột đỉnh cuộc sống nhưng tiếp đó tôi mất tất cả”.

Richard rơi vào trạng thái chán nản  và tuyệt vọng. Ông luôn đặt câu hỏi “Vì sao phải là tôi?” Khi mắc bệnh, ông bất ngờ nhận ra rằng những thứ ông cất công theo đuổi như xe hơi đắt tiền, nhà lầu,  khu nghỉ mát lại không mang đến niềm vui cho ông khi ông xuống tinh thần. Nói
với sinh viên nha khoa vào tháng 1 năm 2012, ông chia sẻ:

“Vậy mà tôi đã tưởng những thứ này
là hạnh phúc. Không phải vậy. Tôi khoe khoang để lấp đầy sự kiêu hãnh và cái
tôi của mình. Chúng cũng chẳng mang lại niềm vui cho bạn bè, người thân như tôi
tưởng. Điều thật sự mang lại niềm vui trong 10 tháng cuối cùng là tiếp xúc với
người thân, bạn bè, những người cười và khóc cùng tôi”.

Sắp chết mới biết nên sống như thế nào

Lúc chia sẻ những lời cuối cùng này vào tháng 1 năm ngoái, Richard đã trải qua lần hóa trị thứ 5 – đau đớn và dằn vặt. Một trong những sự dằn vặt lớn nhất của bệnh ung thư là sự dằn vặt về tinh thần bởi họ sống mất hết hy vọng vì biết rằng chỉ một thời gian ngắn nữa họ sẽ
vĩnh viễn nằm yên dưới lòng đất. Là một bác sĩ, hơn ai hết Richard biết điều đó
và tuyệt vọng. Đến lúc này trở thành một bệnh nhân, ông mới thấu được nỗi đau
của các bệnh nhân ông từng tiếp xúc với sự vô cảm trước đó. Richard từng sống
và cho rằng chữa bệnh chỉ là một công việc và không cho bệnh nhân chút thông
cảm nào.

“Đừng nghĩ rằng người nghèo mới phải khổ. Điều này không đúng. Những người nghèo khó vốn không có gì. Họ dễ dàng chấp nhận. Do đó, họ hạnh phúc hơn các em và tôi.”

Richard nhận ra rằng càng tích tụ,
ông càng trở nên ham muốn và càng có động lực để đạt được. Thành công, giàu có
không có gì sai trái nhưng sự lệ thuộc và không thể kìm hãm lòng ham muốn mới
chính là vấn đề. Richard chia sẻ điều này sau nhiều năm ông miệt mài kiếm tiền
và hả hê với những món của cải mình đạt được.

“Mọi người đều biết rằng một ngày
nào đó mình sẽ chết, ai cũng biết thế. Nhưng sự thật không ai tin. Thật trái
ngược rằng, chỉ khi sắp chết thì mình mới biết nên sống như thế nào. Tôi biết
điều này khi bệnh hoạn nhưng đó là sự thật và tôi đang trải qua”.

Đoạn video clip ghi lại buổi nói
chuyện của Richard trước các sinh viên mặc dù không thật rõ nét nhưng cũng đủ
để người ta thấy được sự xúc động nơi người bác sĩ trẻ. Ông Richard nói rằng
ông đã trả một giá đắt cho bài học phải sống thế nào.

Thật trái ngược rằng, chỉ khi sắp
chết thì mình mới biết nên sống như thế nào. Tôi biết điều này khi bệnh hoạn
nhưng đó là sự thật và tôi đang trải qua.

Bác
sĩ Richard Teo Keng Sieng

“Đừng quên khi thành danh, các em
đưa tay đến những người cần giúp đỡ. Bất cứ việc gì các em làm đều có thể mang
đến sự khác biệt cho họ. Bây giờ ở vị trí người tiếp nhận, tôi hiểu rõ. Đừng để
xã hội bảo ban các em cách sống. Điều này đã xảy ra với tôi. Tôi ngỡ như vậy là
hạnh phúc. Hạnh phúc thật sự không có được khi chỉ sống cho mình”.

Thời sinh viên, Richard được rửa tội
theo đạo Tin lành nhưng ông không đến nhà thờ và cho rằng tiền bạc sẽ mang lại
hạnh phúc. Ông từng sống và nghĩ rằng mình không cần Chúa vì bản thân ông có
thể tự tạo ra được những gì mình muốn. Sự ngoan cố và cao ngạo đã khiến ông
nghĩ rằng những điều kì diệu xảy ra đối với ông là do trùng hợp. Sự sống của
ông kéo dài nhiều tháng trước khi mất trước sự ngạc nhiên của nhiều bác sĩ được
ông giải thích là do trùng hợp. Tuy nhiên, đã có quá nhiều sự trùng hợp xảy ra
trong những tháng cuối đời khiến ông bị thuyết phục. Ông chưa bao giờ đọc Kinh
thánh nhưng trong một giấc mơ chập choạng lại thấy dòng chữ Hebrews 12: 7-8.
Tỉnh dậy, ông tìm trong Tân ước và thấy lời Chúa nói rằng:

“Ví bằng anh em chịu sửa phạt ấy là
Đức Chúa Trời đãi anh em như con, vì có người nào làm con mà cha không xử
phạt?Tôi nghĩ niềm vui sướng thật sự là khi biết Thượng Đế. Đây là điều quan
trọng nhất mà tôi học hỏi được”,
Richard
chia sẻ.

Câu chuyện của ông Richard không chỉ
gây xúc động trong những người tin Chúa:

“Mình tên Hải Đường. Cách đây 2
tháng mình có đọc câu chuyện này. Mình nghĩ nó mang ý nghĩa thực hơn là cảm
động. Nó phản ánh chân thực giáo lý Vô thường & Nhân quả trong nhà
Phật,  nhắc nhở con người sống trọn vẹn với cái tâm trong sạch và lành
thiện trong từng khoảnh khắc để tạo an lạc cho mọi người và cho chính mình”,
một bạn theo đạo Phật tên Hải Đường cho biết.

Còn bạn Ngọc Nguyên (Tp.HCM) chia
sẻ: “Mình tên Ngọc Nguyên, mình đọc được câu chuyện này vào đầu năm. Mình rất
xúc động. Mình nghĩ trong cuộc sống chúng ta nên quý trọng những gì mình có.
Quan trọng hơn hết là phải kính trọng đấng Thiêng liêng bởi dù có giỏi đến đâu
thì mình cũng chỉ là một nhân tố rất nhỏ trong vũ trụ mà thôi”.

Bác sĩ Richard Teo Keng Sieng mất
vào ngày 18 tháng 10 năm ngoái, hưởng thọ 40 tuổi. Câu chuyện của ông được lan
truyền trên mạng như một điển hình cho sự thành công và hạnh phúc. Đó cũng là
một câu chuyện điển hình của sự phụ thuộc vào vật chất, chuyện của những bác sĩ
đặt y đức sau đồng tiền và là một câu chuyện cảm động về lòng kính phục, khiêm
nhường trước đấng siêu nhiên.

Có lẽ không quá thiếu lý khi cho
rằng người ta thường biết cái giá của mọi thứ nhưng lại hiếm khi biết được giá
trị của nó. Steve Jobs – người sáng lập thương hiệu máy tính Apple từng viết
rằng “Tôi và khi 23 tuổi, tôi đáng giá 1 triệu đô la. Khi 24 tuổi tôi đáng giá
10 triệu đô la. Khi tôi 25, tôi đáng giá 100 triệu đô la. Nhưng điều đó không
quan trọng lắm vì tôi không làm vì tiền”. Có lẽ không phải ai cũng nghĩ như
Steve Jobs. Và chắc chắn rằng không phải ai cũng tin rằng mình sẽ ra đi mãi mãi
một ngày nào đó để sống xứng đáng cho cuộc đời.

Liên lạc với tác giả tại: [email protected].

 

Thằng Khùng – Phùng Quán

Thằng Khùng -Phùng Quán
(Cha chính Nguyễn văn Vinh – Giáo-phận  Hà nội ]
Thằng Khùng (viết lại theo lời kể của nhà thơ Nguyễn Tuân)
“… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình
không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính
trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ
cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng
anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều,
do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào
hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể
ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ,
như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng,
tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.
Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh
ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười.
Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo
lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ
ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt
chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình
với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính.
Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều
thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta
viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.
Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn
tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi
“thằng khùng” (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với
bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh
ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người
chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người
mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.
Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai
nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người
chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của
người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp
sơ sài.
Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho
người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm
gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên
trán người tù chết, và bật khóc.
Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác
người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người
tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:
– Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?
Anh ta chấp tay khúm núm thưa:
– Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc
tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm
hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây
là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.
Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu
thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng
úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta
run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc…
Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả.
Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, “đầu
chày, đít thớt, mặt bù loong” cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau
đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ
ngợi rất nhiều
về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối
từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…
Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho
dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như
than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải
một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác
ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình
phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng
bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước,
hỏi mà đầu không quay lại:
– Anh Tuân này – không rõ anh ta biết tên mình lúc nào – sống ở đây
anh thèm cái gì nhất?
– Thèm được đọc sách – mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ
anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết
viết cũng nên.
– Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? – anh ta hỏi.
– Voltaire! – một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với
anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang
ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn
như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu
mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất
chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn
trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và Trừng
phạt”.
Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
– Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?
Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một
người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên
tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt
nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.
Mình trả lời anh ta:
– Tôi thích nhất là Candide.
– Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?
Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:
– Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.
Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm
chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình
trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép
lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta
đang đọc thiên truyện Candide
nguyên bản được chép lên mặt sông…
Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ
lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống:
“Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!”.
– Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! – anh nói.
Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:
– Anh là ai vậy?
Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả
lời:
– Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa .
Rồi anh ta tiếp:
– Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…
Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn – ngu ngơ, đần
độn như thường ngày.
Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau
mình mới biết.
Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn
được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn…
– những người tù nói, giọng buồn.
Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.
Giám thị hỏi:
– Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?
Mình nói:
– Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.
Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong
gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai
hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…
Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt,
chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười.
Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè
luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:
– Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…
Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ
rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn
như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên
than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN .
Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.
Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa
ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.
Giám thị hỏi:
– Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo,
tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.
Mình nói:
– Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu
một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.
Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…
Phùng Quán
________
Ghi Chú:
(*) THẰNG KHÙNG trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan
NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội.  Bài viết của Phùng
Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài.
Xin mời đọc thêm (bài kèm theo dưới đây) tiểu sử của Cha Vinh để chúng ta biết
thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Ngài; và cũng để hiểu thêm gương phụng sự Chúa
của Ngài…. Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH, Cha chính Hà Nội, (1912 – 1971).
Tấm gương can trường.
Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH*
Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc
Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Cậu Vinh, một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh
về âm nhạc, ca hát. Cậu biết kính trên, nhường dưới, trong xứ đạo, ai cũng quý
yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là Cố Hương, một cha người Pháp tên là Dépaulis
giới thiệu cậu lên học tại trường Puginier Hà Nội. Năm 1928, cậu học Tiểu Chủng
viện Hoàng Nguyên, Phú Xuyên, Hà Tây.
Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại
Chủng viện St Sulpice, Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở
Limoges .
Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp và tiếp tục học tập.
Ngài học Văn Khoa – Triết tại Đại Học Sorbone, học sáng tác và hòa âm tại Nhạc
viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của ngài
đã làm cho nhiều người Pháp tưởng lầm ngài là phụ nữ nên cứ chào: “Bonjour
Madame!”
Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ bé đó là một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng
là tính cương trực, dưới nụ cười là ý chí sắt son.
Sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập dòng khổ tu Biển
Đức tại Đan Viện Sainte Marie.
Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng Giáo Hội
Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize –
Thịnh, Bề trên Giáo phận đã bổ nhiệm ngài làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài
xin Bề trên lập dòng Biển Đức ở Việt Nam, nhưng không thành.
Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc lập, không nệ
Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn Hà Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai
tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đòi đặt ghế
của ông trên cung thánh và bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam
xuống dưới lòng nhà thờ. Vì lòng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh
cương quyết không chịu.
Tướng De Lattre rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập bàn quát tháo, đe
dọa. Cha Vinh cũng đập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ
Tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha
Khuê đã chuyển cha Vinh làm giáo sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh
văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; ngài khiêm tốn vâng lời. Ngài cũng giảng dạy
Văn Triết ở trường Chu Văn An.
Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa chủng sinh
đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo phận Hà Nội, dù biết hoàn
cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính, kiêm
Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.
Ngài tổ chức lớp học giáo lý cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh,
đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân
Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức thành nhóm nhỏ tại phòng khách Tòa Giám
Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nhà préau,
và ngồi ra cả ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn, những tín hữu khô khan trở
thành đạo đức nhiệt
thành, ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều
người gia nhập đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.
Khi cha Vinh đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra chỉ thị phải treo ảnh
lãnh tụ thay vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng
không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng cửa.
Thời bấy giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo sư, nên đã đề nghị Đức Cha Khuê
cử cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài. Một hôm, Chu
Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng
thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp tùng:
“Đến giờ này mà còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?” Ít lâu sau trường
Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.
Biết tài năng và kiến thức âm nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội
tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ xem lại những bản nhạc, bài ca họ mới
viết.
Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, và là một
nhạc sĩ toàn tài. Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm thật tuyệt, chính ngài là người
Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở Hà Nội.
Ngài có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học tập chu đáo nên
đã sáng tác và để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh
trình bày bản hợp tấu “ Ở Dưới Vực Sâu ” nhân cuộc đón tiếp phái đoàn Việt Nam
do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.
Ngài cộng tác với Hùng Lân sáng tác “Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít.” Sáng tác nhiều
nhạc phẩm lớn: “Mở Đường Phúc Thật,” “Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi,” “Ôi GiaVi,”
“Lạy Mừng Thánh Tử Đạo.” Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh
23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh
Tâm Giêsu. Ngài còn viết những bài
ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài “Bước Tới Đèo Ngang” của Bà
Huyện Thanh Quan.
Hằng tuần ngài đến dạy nhạc, xướng âm và tập hát bên chủng viện Gioan.
Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn. Ngài tổ chức và chỉ
huy dàn đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh
Thể từ Hàm Long về Nhà Thờ Lớn Hà Nội.
Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và thế giới thấy là ở Việt
Nam đạo Công giáo vẫn được tự do hành đạo và tổ chức được những lễ nghi long
trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, chính quyền tự động cho người đến chăng dây, kết
đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đòi nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số
tiền chi phí lớn về vật liệu và tiền công.
Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người
của Nhà nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự động bắc thang, chăng
dây treo bóng điện màu trang trí ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn. Cha
xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn bảo vệ chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên cơ
sở tôn giáo, không đồng ý, nhưng họ cứ làm. Để phản đối, cha Căn liền cho kéo
chuông nhà thờ cấp báo, giáo dân kéo đến quảng trường nhà thờ rất đông ủng hộ
cha xứ, hai bên to tiếng.
Cha Căn gọi Cha Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh luận không kết
quả, cha Vinh kéo những người của Nhà nước đang leo thang chăng đèn xuống, rồi
chính ngài leo lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai bàn tay nắm lại, hai
cườm tay đặt lên nhau, làm dấu hiệu còng tay số 8, và nói lớn:
“Tự do thế này à!”
Vụ giằng co lộn xộn kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc trang trí không thành.
Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét
xử. Tòa án Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu
trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo.
Cha Chính Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ tập
hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ,
gây chia rẽ trong nhân dân” (!).
Sau phiên tòa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị chuyển đi
nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là trại “Cổng Trời”, nơi
dành riêng cho các tù nhân tử tội.
Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, ngài còn được ở chung với các tù nhân khác,
nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, vì thế
ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà lim tối. Mấy
tháng sau được ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi:
“Tại sao bị cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?”
Ngài đáp:
“Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi phải
làm bổn phận mình!”
Ở tù đói rét là đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một
bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già nấu muối, khi chia cơm phải cân đong
từng chút một… Một lần cha Vinh nhận được gói bưu kiện do cha Cương, quản lý
Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có ít thức ăn, lương khô và vài đồ dùng cá
nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn
chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân thương gọi ngài là “Bố.”
Ngay trong nhà tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ
trưởng đánh đập tù nhân, ngài lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng này
xông đến giang tay đánh, ngài đưa tay gạt, anh ta ngã khụy. Từ đó trong trại có
tiếng đồn cha Vinh giỏi võ, mọi người phải nể vì.
Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ
muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế
Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội
ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông
Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.
Vì không khuất phục được ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không qua
một thủ tục pháp lý án lệnh nào, đã biến thành 12 năm tù kiên giam, xà lim,
biệt giam và án tử.
Năm 1971, khi ngài từ trần không ai được biết, một năm sau, chính
quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản lý Nhà Chung: “Ông Vinh đã
chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!”
Suốt đời mình, trong mọi tình huống cha Chính Vinh làm tròn trách vụ của mình. Ngài
đã mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện cũng như
khó khăn. Vượt mọi thử thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền,
luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo
Hội.
Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh
mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.
TGP Hà Nội – 2013
BBT (Theo HĐGMVN)
From: Đỗ Tân Hưng

 

Nguyễn Kim Bằng gởi

 

 

TIN VÀ LÀM CHỨNG CHO CHÚA

TIN VÀ LÀM CHỨNG CHO CHÚA

LM ĐAN VINH

1. BÁC TÀI XẾ TẮC-XI LÀM CHỨNG CHO CHÚA:

Một vị linh mục sau chuyến du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một
cách truyền giáo của một bác tài xế xe tắc-xi tại đây như sau:

“Ngày nọ, tôi đón tắc-xi từ khách sạn đi sang trung tâm thành phố Đài
Bắc mua quà lưu niệm. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một
tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: “Bạn có thể thấy một vài quyển
sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể
đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà
không phải trả tiền mua sách”. Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một
chục cuốn sách mỏng bằng tranh, nội dung về cuộc đời Đức Giê-su in
trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện tranh các thánh và các
danh nhân tôn giáo, một ít cuốn là những mẩu chuyện sống đức tin giữa
đời thường… Ngoài ra, phía trên kính chiếu hậu trước mặt tài xế
cũng có treo một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi bác
tài xế:

– Này bác tài, xin vui lòng cho biết: Hành khách đi xe của bác có ai
quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?

– Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người còm cầm theo
mang về nhà nữa.

Tôi hỏi tiếp:

– Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách đạo do bác giới
thiệu?

– Tôi cảm thấy rất vui anh à! Anh biết không: tôi là người tín hữu công
giáo nhưng không có nhiều giờ để đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy
xe kiếm sống. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi
rất mừng vì đã có thể làm được hai việc một lúc: Vừa lái xe nuôi gia
đình lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không bị mất thêm thời giờ. Tôi nghĩ
rằng tôi đang làm một việc thật tuyệt vời!

2. ANH EM SẼ LÀ CHỨNG NHÂN CỦA
NHỮNG ĐIỀU NÀY:

Tin mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy Chúa
Giê-su Phục Sinh đã hiện đến với các Tông Đồ đang bị giao động. Sau khi trấn an
các ông, Người đã chứng minh cho các ông thấy Người không phải chỉ là bóng ma,
nhưng là con người bằng xương bằng thịt thực sự, qua việc ăn uống trước mặt các
ông. Cuối cùng sau khi các ông đã tin Người đã từ cõi chết sống lại, Đức Giê-su
chỉ thị cho các ông và cho mọi tín hữu sau này: “Chính anh em sẽ là chứng
nhân của những điều này”(Lc 24,48).

3. PHẢI LÀM CHỨNG NHƯ THẾ NÀO ? :

Ngày nay các tín hữu chúng ta dù không thấy Chúa, nhưng vẫn có thể thi hành sứ
mệnh làm chứng cho Người bằng các phương thế như sau:

+ Làm chứng bằng việc thuật lại cho người khác về cuộc đời và lời
rao giảng của Đức Giê-su như bà Maria Mác-đa-la đã làm (Ga 20,18). Việc truyền
đạt này mọi tín hữu đều có thể làm, nhưng khó thuyết phục được người nghe tin
theo (x. Lc 24,11).

+ Làm chứng bằng cách để Chúa ngỏ lời với người khác qua miệng chúng
ta: Đức Giê-su đang sống và hiện diện nơi ta, và ta có bổn phận chia sẻ
sự xác tín, niềm vui và bình an hạnh phúc mình đang cảm nghiệm được
cho tha nhân. Cách làm chứng này đã được Nhóm Mười Một Tông đồ áp
dụng. Sau khi đón nhận ơn Thánh Thần, Tông đồ Phê-rô đã rao giảng và làm chứng
về Đức Giê-su như sau: “Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại. .
Về điều này tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền
nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống. Đó là điều
anh em đang thấy đang nghe…” (Cv 2,32-33). Cách làm chứng hùng hồn đầy xác tín
này của Tông Đồ Phê-rô đã thuyết phục được tới ba ngàn người xin tòng giáo
(x. Cv 2,41).

+ Làm chứng bằng lối sống hy sinh quên mình, vị tha bác ái noi gương cộng đòan
tín hữu thời Hội Thánh sơ khai như sách Công vụ thuật lại: “Các tín hữu chuyên
cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau và cầu nguyện
không ngừng. Mọi người đều kính sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ.
Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất
đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất
trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa
với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và
Chúa cho cộng đòan mỗi ngày thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42-47).

+ Cuối cùng, làm chứng cho Đức Giê-su bằng việc sẵn sàng chịu bách hại
vì đức tin, quyết không hèn nhát bước qua thập giá để khỏi chết, noi
gương các anh hùng tử đạo. Nhờ đó, các thánh Tử đạo đã được gọi là các
“Chứng nhân đức tin”. Đây là phương cách truyền giáo rất hữu hiệu như lời
Téc-tuy-li-a-nô khẳng định: “Máu các vị Tử đạo là hạt giống phát sinh
các Ki-tô hữu”.

4. LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH.

Mỗi lần hiện ra với các môn đệ,
Chúa đều dùng Kinh Thánh để giúp các ông tìm ra thánh ý Thiên Chúa và
giải thích cho các ông về con đường “Qua đau khổ vào vinh quang”, đồng
thời chứng minh Chúa đã thực sự sống lại từ cõi chết, đúng như lời
Thánh kinh. Xin giúp chúng con ý thức giá trị của Lời Chúa trong việc sống
đạo và truyền đạo, hầu khi gặp bất cứ biến cố vui buồn sướng khổ nào trong
cuộc sống, chúng con cũng biết tìm kiếm thánh ý Chúa. Xin cho chúng con biết
năng hội hiệp nhau học sống Lời Chúa hằng tuần, biết lắng nghe Lời Chúa
khi dự lễ, để nhờ lời Chúa hướng dẫn, đức tin của chúng con sẽ ngày càng
lớn lên và nhờ ơn Thánh Thần tác động, chúng con sẽ chu tòan được sứ mệnh Chúa
trao cho Hội Thánh: “Chính anh em là chứng nhân của những điều này” (Lc
24,48). -AMEN.

LM
ĐAN VINH

From: hnkimnga &

Anh chi Thu & Mai goi

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Đời sống tu trì (21)

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Đời sống tu trì (21)

Đăng bởi lúc 2:15 Sáng 27

nguồn: Chuacuuthe.com

VRNs (27.01.2013) – Sàigòn

Đời sống tu trì

Ngày 21 tháng này, Giáo hội sẽ mừng lễ Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh: Giáo hội tưởng niệm và nêu cao gương mẫu cuộc đời tận hiến của Trinh nữ Maria cho Thiên Chúa. Từ giây phút đầu tiên cho đến hơi thở cuối cùng của đời Người, Đức Mẹ luôn luôn thuộc trọn về Chúa, sống cho Thiên Chúa và việc làm của Người đều hướng về Chúa. Người đón nhận tất cả nỗi thống khổ, thử thách, để sáng danh Chúa trên trời. Người đã hiến dâng dạ trinh khiết trong con đường khó nghèo và vâng phục để phụng sự Thiên Chúa và nhân loại. Lòng tin, lòng cậy và lòng mến chiếu rạng trong cả
cuộc đời Người.

Mẹ Maria đã để lại tấm gương tận hiến cho tất cả những ai dâng mình cho Chúa trong đời sống tu trì. Vì thế, nhân dịp lễ Mẹ về, chúng tôi muốn dành Nguyệt san tháng này, để nêu lên một vài khía cạnh của đời sống tu trì, ngõ hầu gây một mối thông cảm giữa anh chị em sống ngoài đời và những người sống trong tu viện.

Nói đến vấn đề tu trì,con người thế kỷ 20 chúng ta vẫn còn nhiều quan niệm lỗi thời. Có kẻ giàu trí tưởng tượng cho rằng tu viện là nơi nương nấu của những tâm hồn tan vỡ: Đi tu là tìm cái u tịch của chốn thánh để thoa dịu các vết thương lòng khi ai có ý
muốn đi tu, họ liền nghĩ đến một khối tình nào đã đổ vỡ.

Có người cho rằng đi tu chỉ vì số phận hẩm hiu, hết tương lai, bị đời từ chối. Họ tưởng rằng đau khổ thất bại là một yếu tố cần thiết của một ơn kêu gọi tu Dòng và chỉ cần đời đóng cửa là tu viện sẽ mở cửa.

Vẫn biết đôi khi nhờ thất bại con người sẽ mở mắt nhìn thấy những giá trị siêu nhiên và Thiên Chúa đại lượng sẽ lãnh nhận tất cả những gì người ta dâng với lòng thành, kể cả một cuộc đời tàn phế, nhưng nếu đi tu chỉ vì tàn phế, chắc rằng họ sẽ không ở lâu
trong tu viện.

Cũng không thiếu người nghĩ rằng đi tu là một lối thoát nợ đời, cũng êm đẹp: Ở đời, nhiều lo âu về tinh thần cũng như vật chất. Đã có gia đình, phải lo cho gia đình, phải thức khuya dậy sớm, phải đổ mồ hôi trán để nuôi vợ con. Còn người đi tu, chỉ một
thân một mình cơm áo mặc đã có nhà dòng lo, thoát khỏi mọi bận rộn, sống một
cuộc đời nhàn hạ, tâm hồn được bình an thoải mái.

Tất cả những quan niệm trên đều sai lạc: Đi tu không phải vì tâm hồn đã quá đau khổ, quá chán đời không thiết gì với cuộc sống, muốn chôn mình vào nơi thanh vắng để dễ than vắn thở dài. Đi tu cũng không phải vì số phận quá hẩm hiu, bị đời từ chối, không
làm ăn nên nỗi, phải nhờ chốn tu viện an thân lúc về già. Đi tu cũng không vì
hèn nhát, chỉ vì thoát nợ đời, khỏi bận rộn âu lo, khỏi phải chiến đấu.

Vậy thế nào là tu? Tu tức là sống cuộc đời tận hiến cho Chúa, bằng ba lời khấn khó nghèo, trinh khiết và vâng lời, để hoàn toàn tin yêu và phụng sự Chúa. Trên phương diện ba lời khấn khó nghèo, tinh khiết và vâng lời sẽ phân biệt đời sống tu trì với đời
sống ngoài đời. Trên phương diện nội tâm, đời sống tu trì cốt ở chỗ tận hiến
cho Chúa. Thiên Chúa là một bản vị mời gọi người ta đi đến chỗ sống thân mật
với một tình yêu độc nhất vô nhị là Người. trước tiếng gọi tha thiết, thầm kín,
huyền diệu của Thiên Chúa, con người đại độ trút bỏ lòng ham muốn của cải,
khoái lạc và tự do để bước vào con đường tu của ba lời khấn. Tiếng mời gọi ấy,
trong hết mọi chặng đường tu hành về sau, lại còn vang lên mãi, thúc giục từ bỏ
mỗi ngày một thêm, biến đời sống mình làm một của lễ cho Chúa.

Nhưng người tu sĩ chưa phải là thánh. Họ cũng còn là người với những tính xấu của họ, với những yếu đuối, những trượt ngã trên con đường tu thân. Bao lâu họ còn là người bấy lâu họ còn bị tiền tài danh vọng, khoái lạc, tự do tấn công họ. Và trong cuộc chiến đấu gay go ấy, người tu sĩ có lúc thắng có lúc bại. nhưng với ơn Chúa, họ chiến đấu mãi và mong một ngày kia cởi bỏ hẳn con người cũ, con người tội lỗi để luôn mặc
lấy con người mới là chính Chúa Giêsu. Lúc ấy con người và Thiên Chúa sẽ hợp
nhất hoàn toàn trong tình yêu bất diệt, cùng đích của đời sống tu trì.

Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp

Số 174-11/1963

Chúa Yêu Thương Tôi

Chúa Yêu Thương Tôi
Giuse Thẩm Nguyễn
1/14/2013
Tôi bất chợt bị những cơn đau hành hạ vì chứng không tiêu và xình bụng. Bác sĩ
và y tá đẩy tôi vào phòng Emergency và thế là tôi đã phải nằm trong bệnh viện
mất bốn ngày. Nhờ Chúa thương tôi lại ra viện và trở về nhà để kịp đón Lễ Giáng
Sinh.
Trong những đau đớn, Chúa đã cho tôi nhận diện có Ngài bên cạnh tôi. Tôi cảm
thấy rất an tâm và sẵn sàng chấp nhận nỗi đau vì tôi phó thác số phận tôi trong
tay Chúa. Rồi những đêm nằm trong bệnh viện, với sợi dây nylon thọc từ mũi
xuống bao tử để hút những chất còn lại trong bao tử ra ngoài, những sợi dây
lằng nhằng để truyền nước biển, truyền thuốc nối liền với những cây kim đâm vào
da thịt…rồi dây đo huyết áp, cứ vài phút cánh tay mình lại bị đo áp huyết một
lần. Tiếng sè sè phát ra từ máy sưởi cứ đều đều vang lên trong đêm thâu tĩnh
mịch. Trong hoàn cảnh như thế làm sao tôi có thể ngủ được. Nằm yên ở một thế
nằm nhất định trong nhiều giờ, người nó mệt mỏi làm sao… Ước gì được tháo tất
cả những sợi dây vướng víu ấy để tự do lăn phải, lăn trái hay nằm co quắt mà
ngủ thì sướng biết mấy. Một ước mơ đơn giản thế mà đêm nay mơ ước ấy tôi cũng
không thực hiện được !
Bây giờ là một giờ sáng, vợ và các con tôi đã về nhà cả rồi, chỉ còn mình tôi
trong bệnh viện. À thì ra, những người thân của tôi dù có yêu tôi đến thế nào
đi nữa, cũng có lúc họ cũng phải rời bỏ tôi. Và tôi, cũng có lúc tôi cũng phải
từ giã họ, phải từ giã tất cả, của cải, danh vọng, toan tính….để một mình đi
về với cát bụi… Chỉ có Chúa là Đấng luôn ở bên cạnh tôi và đêm nay Người đang
chăm sóc cho tôi. Tôi bắt đầu đọc kinh Mân Côi và kinh Lòng Thương Xót Chúa.
Đọc xong cả ngần ấy kinh mà vẫn chưa tới hai giờ sáng. Thời gian đêm nay thật
dài khi mình không ngủ được. Tôi cố nhằm mắt lại và bắt đầu tâm sự với Chúa.
Chúa cho tôi cảm nghiệm là Chúa đang bên cạnh thôi. Chúa âu yếm nhìn tôi và ôm
tôi vào lòng dù tôi là kẻ tội lỗi. Chúa chẳng chấp gì tội của tôi dù đôi khi
chính tôi đã đẩy Chúa ra khỏi tâm hồn tôi bằng cách liều mình phạm tội . Những
nỗi đau của tôi không đáng gì với việc Chúa chịu nạn chịu chết trên cây Thánh
Giá, nhưng Chúa lại rất quan tâm đến nỗi đau nhỏ nhoi ấy của tôi. Chúa xót xa
khi tôi quặn đau và chính Chúa đã an ủi tôi như người mẹ hiền dỗ dành đứa con
thơ quấy khóc trong đêm khuya. Không ai biết tôi đau ra sao dù vợ tôi , dù con
tôi đã cố gắng để chia sớt bằng cách cầm tay tôi , vỗ về tôi. Sự quan tâm của
những người thân yêu đã an ủi tôi rất nhiều, nhưng chính Chúa mới là người biết
tôi đau đớn ra sao. Ngài luôn ở bên tôi, không những chia sẻ với tôi mà còn
quan tâm và nâng đỡ những người thân yêu của gia đình tôi trong giờ phút hoang
mang lo lắng này.
Tôi cảm nghiệm được tình yêu cao vời Chúa đã dành cho tôi. Chúa cúi xuống rất
gần đến nỗi tôi có thể nghe được nhịp đập từ con tim của Chúa. Tôi nghe được
tiếng thổn thức từ trái tim Ngài, nỗi đau của người Cha bị chính những đứa con
mình sinh ra phản bội. Chúa xót xa cho bao gia đình tan vỡ, cho những đứa con
đi hoang quên đường về, cho bao kẻ đang đắm chìm vào tội lỗi trong dịp kỷ niệm
Chúa Giáng Sinh. Chúa buồn lắm khi loài người đang từng bước loại Chúa ra khỏi
cuộc đời mình, ra khỏi nhà mình, ra khỏi học đường và ra khỏi xã hội của mình.
Chúa cô đơn lắm khi bao Thánh Đường vắng bóng giáo dân, bao nhà chầu trên thế
giới chỉ vỏn vẹn với ngọn đèn leo lét lạnh lùng. Chúa đau đớn lắm vì những chủ
chiên phản bội và Chúa rơi lệ vì loài người đang xô nhau vào con đường lầm lạc:
phá thai, trợ tử, đồng tính, dâm loạn, hận thù, chiến tranh….
Tôi biết chính Chúa đã dựng lên tôi giống hình ảnh của Chúa. Thân xác tôi là
một cỗ máy vô cùng tinh vi được Chúa luôn ghé mắt nhìn đến. Tất cả các cơ phận
đều hoạt động nhịp nhàng và ăn khớp chặt chẽ với nhau và chỉ cần một chút sai
lệch là tôi thành phế nhân ngay.
Hôm nay tôi phải nằm trong bệnh viện vì phần ruột dưới bao tử đã vô cớ không
làm việc theo đúng chu trình tiêu hóa. Sau khi thức ăn được nhai kỹ qua miệng
vào bao tử, thì bao tử sẽ tiết ra chất kích tố nào đó để tiêu hóa thức ăn. Do
sự chuyển động của từng khúc ruột, thức ăn được chuyển qua ruột để nuôi cơ thể,
chất cặn bã thì được đưa ra ngoài. Nhưng những khúc ruột của tôi hôm nay không
thèm chuyển động nữa, chúng cứ nằm ỳ ra như muốn đình công. Thế là thức ăn
trong bao tử xình lên, nó không đi xuống ruột được thì nó đòi đi ngược lên và
tìm cách ra ngoài theo đường miệng. Lúc đó tôi rất khó chịu, ợ chua, ói mửa và
bụng thì xình lên, óc ách đau đớn. Nhìn lại thân phận mình, tôi biết thân xác
tôi là cái bình sành tạm bợ, được bọc trong cái vỏ trứng, nó rất mong manh dễ
vỡ thế mà đôi khi tôi đã hành động như thể thân tôi là đá để mang trong lòng
mình tính kiêu ngạo của nguyên tổ Adam. Tôi tưởng là mình có thể làm được mọi
sự và tôi đã sống như thể là tôi sẽ sống mãi. Đêm nay thì tôi nhận ra thời gian
của tôi có ngần có hạn, tuổi trẻ của tôi đang hết và tuổi già đang quấn quít
với bệnh tật. Tôi biết rằng sự sống hay chết của tôi nằm trong tay Chúa, cho
nên tôi chẳng lo gì. Điều tôi quan tâm là yêu mến Chúa, sống như Chúa dạy và
đem tình yêu của Chúa đến cho mọi người. Tôi chỉ cần làm đẹp lòng Chúa thôi,
thế là đủ, vì Ngài là tất cả, là cùng đích của đời tôi.
Qua sự chăm sóc và lo lắng của vợ tôi, của các con tôi, tôi cảm nghiệm được
tình yêu mà gia đình đã dành cho tôi. Chính trong lúc này, tôi mới thấy tôi cần
gia đình nhiều hơn. Tôi nhận ra sự quan phòng của Chúa. Ngài đã cho tôi sinh ra
và rồi lại đặt để tôi trong một mái gia đình hạnh phúc như thế này, tôi đã sống
hoàn toàn hạnh phúc. Sự ngọt ngào yêu thương trong gia đình phản ánh tình yêu
bao la mà Cha Giêsu luôn dành sẵn cho tôi. Tôi trân quý sự hy sinh của vợ tôi,
tôi vui mừng vì những lo lắng mà các con tôi đã dành cho tôi… Tôi cũng nhận
ra Chúa luôn đồng hành với tôi qua việc quý cha, quý tu sĩ nam nữ, quý anh chị
trong các hội đoàn, bạn bè thân hữu đến thăm hỏi, gọi điện thoại an ủi và nhất
là hiệp lời cầu nguyện cho tôi. Tôi thấy mình hạnh phúc vô cùng, niềm hạnh phúc
không mua được bằng tiền tài, quyền lực mà được xây dựng bằng quan hệ yêu
thương. Tôi nguyện với Chúa rằng tôi sẽ dùng thời gian còn lại của đời mình để
đáp lại tình yêu thương ấy bằng cách quan tâm, chăm sóc yêu thương mọi người
như Chúa đã yêu thương và chăm sóc cho tôi. Tình yêu ấy phải trổi vượt hơn là
sự đáp trả mà là tình yêu vô vị lợi, một tình yêu cho đi không tính toán, một
tình yêu tự hiến theo gương yêu thương của Thày Giêsu .
Thế rồi qua mấy ngày nằm trong bệnh viện, tôi đã được chữa lành và ra về. Tôi
tin rằng việc tôi phải nằm bệnh viện là một dấu chỉ Chúa rất yêu tôi, là một
món quà đặc biệt Chúa dành cho tôi. Nhân cơ hội này, tôi được nếm thử tình yêu
thương ngọt ngào của Chúa qua tình yêu gia đình, của người thân, của bạn bè.
Con cảm tạ Chúa vì Chúa luôn dành cho con sự tốt đẹp nhất vượt qua sự mơ ước
tầm thường của loài thụ tạo như con.
Lạy Chúa, con yêu mến Chúa.
Giuse Thẩm Nguyễn