Đức cha JEAN CASSAIGNE (1895 – 1973)

Chân dung linh mục Việt Nam: Đức cha Jean Cassaigne

Đức cha JEAN CASSAIGNE (1895 – 1973)

Vị tông đồ truyền giáo cho anh chị em dân tộc Kơho

và sáng lập Trại phong Di Linh

Ông tổ của công cuộc truyền giáo cho người dân tộc

Trong bản tường trình năm 1920, Đức cha Victor Quinton Giám mục Giáo phận Sài Gòn đã nói đến ý định truyền giáo cho người dân tộc trên cao nguyên Djiring – Langbiang. Nhưng công cuộc truyền giáo này chỉ thực sự bắt đầu khi Đức cha Dumortier đặt cha Jean Cassaigne, một linh mục thuộc Hội Thừa sai Paris đến Di Linh năm 1927. Đức cha Dumortier viết trong bản tường trình năm 1927 như sau:

“Chúa Quan Phòng đã sắp đặt cho tôi một vị tông đồ như ý để khởi sự công cuộc truyền giáo cho người dân tộc. Tôi thấy cha Cassaigne được chuẩn bị tốt để chịu được gian khổ thiếu thốn. Vừa khi biết chương trình truyền giáo của tôi, cha Cassaigne đã tình nguyện và bày tỏ niềm vui khôn tả khi nghe tôi công bố việc bổ nhiệm ngài vào công cuộc này”.

Thứ tư ngày 20-10-1926, cha Cassaigne lên đường đến thí điểm truyền giáo Di Linh. Ngài đi từ Sài Gòn đến Phan Thiết, rồi từ Ma Lâm lên cao nguyên Di Linh. Nhưng gặp mưa bão càn quét vùng cao nguyên làm con đường từ Ma Lâm lên Di Linh hư hại nặng cho nên ngài phải trở về Sài Gòn.

Cho đến ngày 24-1-1927, cha Cassaigne mới có thể từ Đà Lạt chính thức đến nhận thí điểm truyền giáo Di Linh. Toà Giám mục Sài Gòn đã chuẩn bị cho ngài một căn nhà mua lại của ông Ngô Châu Liên để làm cơ sở lập thí điểm truyền giáo.

Ngay trong buổi chiều đầu tiên đến vùng đất Di Linh, cha Cassaigne đã nhìn thấy những người dân tộc lặng lẽ nghi ngại đi ngang qua nhà ngài. Ngài đã nhìn thấy những anh chị em dân tộc được trao phó cho ngài, cả một cánh đồng truyền giáo rộng lớn đang chờ đợi ngài. Để có thể gặp gỡ những người dân tộc rụt rè nhút nhát trước những người xa lạ, cha Cassaigne khởi sự bằng cách học nói tiếng của họ, một ngôn ngữ quá mới mẻ và không có chữ viết. Cha Cassaigne đã phải mày mò ký tự từng chữ trong ngôn ngữ của họ. Công việc này đã cuốn hút vị thừa sai trẻ đầy nhiệt huyết. Vì thế, vào tháng 12-1929 cha Cassaigne đã xuất bản Từ điển Pháp – Kơho – Việt, đây là cuốn từ điển đầu tiên hình thành chữ viết cho ngôn ngữ Kơho, một công trình rất đáng trân trọng vì góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc và phát triển cho người dân tộc Kơho.

Tháng 12-1937 cha Cassaigne xuất bản cuốn: Phong tục tập quán người dân tộc Kơho, đây cũng là một công trình đầu tiên nghiên cứu về người Kơho, một công trình giúp cho cha Cassaigne có thể hiểu và gặp gỡ được với những người dân tộc và từ đó nói về Chúa cho họ. Năm 1938 cha cho xuất bản tập Giáo lý cho người Kơho.

Chính nhờ việc hiểu được ngôn ngữ và phong tục tập quán Kơho, cha Cassaigne đã thực sự trở thành người khai phá, trở thành Ông tổ của công cuộc truyền giáo cho người dân tộc, và cha đã thành công trong việc đem Ơn Cứu Độ đến cho rất nhiều người dân tộc thuộc các buôn làng trong miền Cao nguyên Di Linh – Langbiang.

Hoa trái của công cuộc truyền giáo là vào chiều ngày áp lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, 7-12-1927, cha Cassaigne đã rửa tội cho bà Ka Trut, một bệnh nhân phong cùi thường xuyên nhận sự giúp đỡ của cha. Bà Maria Ka Trut qua đời ngày 20-12-1927 và được an táng ngày 22-12-1927 tại nghĩa trang của người dân tộc Di Linh.

Tin Mừng của Chúa đã được người dân tộc đón nhận vì họ cảm nghiệm được tình yêu Chúa qua những hành vi bác ái yêu thương của cha Cassaigne. Họ đã thực sự nhận ra cha Cassaigne yêu thương họ qua việc ngài yêu thương đón nhận và nuôi dưỡng những anh chị em phong cùi của họ, những con người bất hạnh vì gia đình và buôn làng sợ hãi bị lây nhiễm đã xua đuổi họ vào trong những khu rừng vắng để họ chết dần chết mòn trong nỗi đau thể xác và tinh thần.

Ngày 17-2-1929, cha Cassaigne đã quy tụ những người bệnh nhân phong cùi và thành lập Trại Phong Di Linh. Ngài đã xây dựng Trại Phong thành một gia đình ấm cúng che chở những bệnh nhân phong cùi bất hạnh để cho cuộc đời của họ được yên ủi sớm tối có nhau.

Giám mục phong cùi của người phong cùi

Nhưng cuộc sống của cha Cassaigne sắp thay đổi một cách bất ngờ. Ngày 20-2-1941, ngài nhận được một bức điện tín khiến ngài buồn bã. Thật là bất thường khi nhìn thấy ngài trong trạng thái này, đến nỗi người ta phải dò hỏi ngài! “Họ đã tấn công dồn dập bắt tôi làm giám mục”, ngài càu nhàu trả lời. Quả thật, Đức Giám mục Sài Gòn vừa qua đời năm vừa rồi và Tòa Thánh trong thời kỳ khó khăn này, tìm một người để kế vị và đã chọn vị linh mục của người phong cùi. Vị thừa sai phải rời bỏ Di Linh. Sự chia ly rất đau lòng cho cả hai phía: anh em Thượng và nhất là những bệnh nhân phong cùi mất người cha của họ; vị linh mục phải xa con cái ngài. Dù vậy vị thừa sai không do dự vâng lời Tòa Thánh với đức tin và lòng can trường. “Tôi là kẻ từng mơ thành một thừa sai tầm thường. Tôi, kẻ đã coi sự nghèo khó của mình là niềm hãnh diện và niềm vui, lại trở thành một hoàng tử của Giáo Hội. Nhưng, dù người ta sẽ thay y phục và chỗ ở của tôi, song chẳng ai thay được con người chất phác nơi tôi”. Khẩu hiệu “Bác Ái và Yêu Thương” do ngài chọn đã nói lên điều đó rất nhiều.

Ngày 24-6-1941, ngay từ 7 giờ sáng, chuông các nhà thờ Sài Gòn đồng loạt đổ vang, báo tin lễ tấn phong Đức cha Cassaigne. Nghi lễ diễn ra ở Nhà Thờ Chính Tòa. Đám đông ken dày: có những bạn bè đến từ khắp nơi… và những anh em Thượng đi thành đoàn đại diện. Các anh em Thượng bận y phục ngày lễ; họ làm khách tham dự thấy vui thích, mặc dù nhiều người An Nam tỏ ra khó chịu trước cảnh tượng ấy. Nghi lễ phụng vụ dài, quá dài đối với anh em Thượng. Họ liền rời chỗ để đi tham quan tháp chuông. Khi ra khỏi Nhà Thờ Chính Tòa và bị đám đông xô lấn khiến họ hoảng sợ, họ liền trèo lên cây cao để nhìn đám rước. Đức cha Cassaigne mỉm cười khi nhìn thấy họ.

Tân Giám mục bắt tay vào công việc. Đó là một con người đơn sơ. Lối vào Tòa Giám mục rộng mở tự do và bất cứ ai cũng có thể gõ cửa văn phòng của ngài. Các nhân chứng ngày nay vẫn còn nhớ lại đã thấy ngài đi xe đạp hoặc xe Vespa thăm các khu nghèo ở Sài Gòn. Ngài rong ruổi khắp địa phận rộng lớn của ngài.

Ngày 19-12-1954, vào dịp kỷ niệm thụ phong linh mục của ngài, Đức cha Cassaigne dâng Thánh Lễ Tạ Ơn. Nhưng trong khi cử hành Thánh Lễ, ngài thấy trên mặt da mình, chỗ phía trên cổ tay một chút, có một vết đỏ hồng màu rượu. Khi Thánh Lễ kết thúc, ngài lấy một cái kim châm vào chỗ ấy: hoàn toàn không cảm thấy đau! Ngài hiểu đó là bệnh phong cùi. “Linh mục dâng hiến tế Thánh Thể, cũng phải trở thành hy vật”, sau này ngài sẽ viết như thế. Công việc vất vả sáu tháng vừa qua đã làm cho các bộ phận cơ thể ngài vốn mệt mỏi, lại bị suy yếu, đến nỗi bệnh phong cùi nằm phục từ lâu, nay phát tác.

Đức cha Cassaigne giữ bí mật tin này, chỉ cho các bề trên của ngài biết. Thuốc điều trị do các bác sĩ cho, đã làm ngài suy kiệt. Sẽ phải mau chấm dứt thôi! Vết hồng lan rộng gấp đôi. Ngày 5-3-1955, ngài viết cho cha bề trên Hội Thừa sai Paris: “Tôi xin cha cho phép tôi nộp đơn từ chức sang Tòa Thánh và rút lui về Trại Phong Di Linh, bên cạnh những con cái mà tôi yêu thương nhất và Chúa quyền uy, với lòng nhân ái vô biên, đã cho tôi được nên giống như họ”.

Lời cầu xin của ngài được chấp thuận và Tòa Thánh bổ nhiệm một giám mục kế vị ngài, Đức cha Simon-Hòa Nguyễn Văn Hiền, được tấn phong trong Nhà Thờ Chính Tòa của ngài, ngày 30-11-1955. Ngày 2-12-1955, Đức cha Cassaigne trở về Di Linh.

Từ đây, Đức cha dành trọn cuộc đời còn lại để sống giữa những người con cái để âm thầm yêu thương và phục vụ Trại Phong Di Linh. Tháng 2-1973 Đức cha bị ngã gẫy xương bên đùi phải, và chính vì vết thương này mà ngài phải trải qua gần 8 tháng liệt giường. Bên giường bệnh, Đức cha nói với người nữ tu chăm sóc ngài và một số bệnh nhân thay phiên trực: “Suốt 47 năm dài (1926–1973), cha đã sống giữa các con, đã sống tại Việt Nam này và đã dâng hiến tất cả cho các con. Giờ đây cha không còn tiếc gì về sự dâng hiến toàn diện ấy. Việt Nam chính là quê hương thứ hai của cha, bởi vì Chúa muốn như vậy. Khi về với Chúa, cha vẫn ở với các con, các con đừng lo…”

Thứ bảy ngày 20-10-1973, Đức cha bắt đầu trở bệnh nặng với những cơn đau khiến phải phải thốt lên: “Tôi đau đớn lắm, tôi đau đớn quá”. Mười ngày trôi qua, vào lúc 10g00 đêm ngày 30-10-1973, Đức cha lãnh nhận bí tích Xức dầu lần cuối do cha sở họ Di Linh và rạng sáng hôm sau Đức cha đã được Chúa gọi về hồi 1g25. Đức cha được an táng bên nhà nguyện Trại Phong ngày 5-11-1973.

Chứng từ

Cha Phanxicô Darricau, một linh mục MEP, đã viết về sự kiện Đức cha Cassaigne trở lại Trại Phong Di Linh như sau: “Ngài đã về và đã được đón tiếp trọng hậu, tôn kính. Nhưng nhà chưa xây ngay được nên ngài đã đến ở chung với tôi tại Ka-la, cách Trại Phong hai cây số. Nhà xứ của tôi nhỏ, không cung cấp nổi cho ngài một căn phòng riêng. Ngài cũng không muốn lấy phòng của một đồng nghiệp. Chúng tôi lấy tấm màn ngăn phòng ăn làm đôi, một bên là giường nhỏ của ngài, một bên là cái bàn ăn. … Suốt trong sáu tháng, chúng tôi có niềm vui được sống chung với nhau. Sau đó ngài tới sống tại căn nhà dành riêng cho ngài ở Trại Phong. Nhưng trưa nào ngài cũng về Ka-la dùng bữa với tôi, khẩu phần có khá hơn trong trại. … Bao nhiêu sức lực còn lại ngài dành để phục vụ Trại Phong. Sức ngài giảm nhiều so với trước kia, do những đau đớn của căn bệnh…”

Cha Christian Grison, người quản nhiệm cuối cùng của Trung tâm Thượng Di Linh (từ 1965 đến 1975), người đã gần gũi với Đức cha Cassaigne trong mười năm cuối cùng của ngài tại Trại Phong Di Linh, đã viết về Vị Tông đồ người phong cùi như sau: “Tôi được phúc sống mười năm gần Đức cha Cassaigne, vì thời gian đó tôi phụ trách xứ đạo Thượng tại Di Linh. Tôi đã chứng kiến tình cảm ưu ái mà ngài khơi dậy khi ngài trở nên nhỏ bé với những kẻ nhỏ bé, trở nên phong cùi với những người phong cùi. Sự mến phục người ta dành cho ngài đó, không bao giờ ngài sử dụng vì lợi ích riêng của mình; tất cả được hướng về sự cứu trợ cho người phong cùi. Mối quan tâm duy nhất của ngài, tôi có thể nói là nỗi ám ảnh đối với ngài cho đến khi ngài chết, đó là tìm nguồn tài trợ cho Trại Phong…”

Ngày 26-7-2007, bà Maria Nguyễn Thị Lệ, sinh năm 1938 tại Bắc Ninh đã đến viếng mộ Đức cha và để lại chứng từ: “Tôi sinh sống tại khu phố III (ấp Tân Xuân) thị trấn Di Linh từ năm 1975 đến 1983. Tôi bị bệnh thấp khớp và đặc biệt là bị đau buốt dây thần kinh tọa. Một bác sĩ cho biết bệnh tôi rất khó chữa, nhưng tôi cũng kiên trì chịu đựng và chỉ uống một số thuốc đau nhức thông thường nên chỉ giảm đau chốc lát, vì nghèo không có tiền đi bệnh viện. Năm 1983 tôi bị những cơn đau dữ dội, lết đi không nổi, đau đớn đến độ chán nản thất vọng vì bệnh tật, đau khổ vì hoàn cảnh nghèo khổ cơ cực, bữa no bữa đói… Dầu vậy, tôi không bỏ Chúa, cố gắng bước đi chậm chạp, đau buốt với một bàn chân bị sưng tấy nặng nề. Khoảng tháng 6 năm 1983, sau giờ chầu Thánh Thể ban chiều, tôi đến trước tượng Đức cha Cassaigne ở cuối nhà thờ vừa khóc vừa than vì sự đau đớn, nghèo nàn của mình và tôi thưa với Đức cha: Cha ơi, thương con, kẻo con chết vì con đau đớn quá, con nghèo khổ chẳng có tiền chữa bệnh, con chỉ muốn chết cho yên, con xin Đức cha cầu xin Chúa và Đức Mẹ cất bệnh đau đớn cho con, nếu đẹp lòng Chúa và Đức Mẹ; còn nếu không, thì xin Đức cha thêm sức cho con để con chịu đựng cơn bệnh này cho nên. Từ từ, ngày qua ngày, con cảm thấy sự đau buốt giảm dần, và sau một thời gian con khỏi bệnh hẳn, đi đứng bình thường. Cuối năm 1983 con bỏ Di Linh về Đắc Nông với gia đình người con để làm ăn, cho đến nay là được 24 năm con lành bệnh. Con xin tạ ơn Chúa, tạ ơn Đức cha Cassaigne. Con, Maria Nguyễn Thị Lệ”.

Một chứng từ khác do bác sĩ K’Đỉu chia sẻ bên phần mộ Đức cha Cassaigne trong đêm canh thức dịp lễ Giỗ năm 2007: “Dân gian thường nói: Không có mợ, chợ cũng đông! Nhưng với Trại Phong chúng con nói chung và bản thân con nói riêng, trải qua kinh nghiệm của cuộc sống, con đã nhận ra rằng: nếu không có sự hiện diện của Đức cha Jean Cassaigne thì có lẽ không có Trại Phong Di Linh và chắc chắn cũng không có con trên cuộc đời này. Nhưng nhờ tình yêu thương của Đức cha, ba mẹ con đã can đảm sống với căn bệnh đáng sợ mà còn được hạnh phúc vì được làm con Chúa.

Khi Đức cha ra đi về với Chúa, thì con mới được 5 tuổi, với thời gian đó và tuổi thơ, con chưa biết Đức cha được bao nhiêu. Nhưng càng ngày qua các biến cố của cuộc đời, con đã nhận ra từng bước bàn tay yêu thương quan phòng của Chúa dìu dắt chúng con, như lời Đức cha đã hứa: Trên thiên đàng, cha sẽ biết được nhiều, biết rõ hơn về nhu cầu của chúng con; cha sẽ cầu nguyện đắc lực và nhiều hơn gấp bội cho chúng con.

Với ngọn đèn rực sáng đức tin và tình bác ái mà Đức cha đã thắp sáng bằng sự dâng hiến tất cả cho Chúa và cho chúng con, và với lời cầu bầu của Đức cha bên cạnh Chúa mà con đã nhận được biết bao hồng ân trong cuộc sống: được dạy dỗ nuôi nấng, được yêu thương chăm sóc, và được học hành như bao người khác, có thể nói còn hơn nhiều người khác nữa. Nhờ tình thương và hồng ân của Đức cha, nhờ những người đã tiếp nối vòng tay yêu thương của Đức cha và nhờ những ân nhân xa gần mà ngày hôm nay, có thể nói được, là con đã thành đạt trong cuộc sống, có chỗ đứng trong xã hội: con đã là bác sĩ chuyên khoa ngoại, điều vượt ra ngoài mơ ước của con.

Đây là cảm nghiệm của riêng con, xin được chia sẻ như một chứng từ về tình yêu thương mà Đức cha cố dành cho chúng con”.

GP Đà Lạt

xem thêm: VỊ GIÁM MỤC CỦA NGƯỜI PHONG CÙI

ĐỨC CHA JEAN CASSAIGNE : “ÔNG CỐ” GIÁM MỤC CÙI

Một phép lạ đã xảy ra!

Một phép lạ đã xảy ra!

Một phép lạ đã xảy ra, Ngôi nhà nguyện bên bờ biển Anibong, Leyte thuộc Thành Phố Tacloban, Philippines vẫn đứng vững sau trận bão kinh hoàng tại Haiyan đi qua, mặc dù nơi đây được xem là trung tâm của cơn bão đã chết hàng nghìn người…
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=232125323623627&set=a.198566083646218.1073741828.198547950314698&type=1&relevant_count=1

-Theo: http://instagram.com/p/gif8mOlWF8
-Page: Con Tin Chúa Ơi sưu tầm.

Tại thị trấn ven biển của Tanawan, một bức tượng Chúa Giêsu rất lớn được dựng trên đồi Calvary vẫn còn nguyên vẹn giữa những tàn tích còn lưu lại bởi sự tàn phá của cơn bão Haiyan.Philippines.

Photo: Tại thị trấn ven biển của Tanawan, một bức tượng Chúa Giêsu rất lớn được dựng trên đồi Calvary vẫn còn nguyên vẹn giữa những tàn tích còn lưu lại bởi sự tàn phá của cơn bão Haiyan.Philippines.  - Ảnh: APhttp://thisny.com/this-jesus-statue-survived-typhoon-haiyan-unscathed/ - Page: Con Tin Chúa Ơi Sưu Tầm.

 

Photo: Philippines: Đức Thánh Cha Phanxico gửi viện trợ cho các nạn nhân của cơn bão Haiyan  (Vatican City, 11.11.2013 ) - Đức Thánh Cha đã gửi $ 150,000 thông qua Hội đồng Giáo Hoàng Cor Unum để giúp đỡ nạn nhân của cơn bão Haiyan đổ bộ vào Philippines cuối tuần trước. Cơn bão đã giết chết ít nhất 10.000 người, có nhiều nạn nhân chết đuối, chết do sạt lở đất và do sự sụp đổ của các tòa nhà, đặc biệt là ở các đảo Leyte và Samar. Ở Tacloban, một thành phố trên đảo Leyte, cơn bão đã để lại một cảnh hủy diệt, sau khi quét qua thành phố với vận tốc gió lên đến 315km/h và gây ra con sóng cao tới 6 feet. Khoản tiền ĐTC gửi sẽ được phân phối bởi các Giáo hội địa phương trong khu vực chịu ảnh hưởng nhiều nhất của cơn bão, để hỗ trợ trong công tác hỗ trợ di dời và hỗ trợ những người bị ảnh hưởng bởi lũ lụt. Với cử chỉ này, ĐTC Phanxico trực tiếp thể hiện sự gần gũi về tinh thần của người cha, và khuyến khích người dân và các vùng lãnh thổ bị tàn phá bởi lũ lụt  Nguồn:http://pt.radiovaticana.va/news/2013/11/11/filipinas:_papa_francisco_envia_ajuda_para_as_vítimas_do_tufão_haiyan/bra-745652

From: ThiênKim & Chị Nguyễn Kim Bằng

CHỨNG TÁ

CHỨNG TÁ

Ông kể với tôi:

<Tôi đau rất nặng, người ta đưa tôi vào bệnh viện, không ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và tận tình giúp đỡ tôi.  Chị là mẫu người làm việc hết lòng, không vụ lợi.

Tôi thấy chị rất kiên nhẫn và dịu dàng với bệnh nhân, ngay cả bệnh nhân khó tính nhất vẫn nhận được nụ cười của chị.  Chị không biết pha trò làm cho bệnh nhân vui nhưng chị lại rất ngọt ngào khiến bệnh nhân được an ủi và cảm thấy cái đau được thoa dịu…

Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng tôi và nhìn ra cửa sổ.

Tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”.

Chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông, xin Chúa chữa lành thể xác cũng như tinh thần cho ông.”

Chỉ một câu ngắn đó thôi đủ làm cho tôi, là người bấy lâu không biết Chúa, bây giờ được biết Chúa.  Tôi thấy Chúa nơi người chị y tá ấy.  Giữa những đau khổ thể xác và cô đơn tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa.

Và đó là lý do và động lực thúc đẩy tôi theo đạo Công-giáo.>

Gương sáng và tình yêu thương là bằng chứng cho người ta nhận ra Thiên Chúa.

Có nhiều người không bao giờ thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, vì họ có đạo đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng ta biểu lộ tình thương với họ hay với những người chung quanh mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu.  Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo Chúa, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những người bạn tốt của nhau và là con cái Thiên Chúa.

Mẹ Têrêxa Calcutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo như sau: “Đó là một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ.  Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêxa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu, truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương.

Giáo dân đóng một vai trò rất quan trọng trong việc truyền giáo.

Vai trò làm men, làm muối, làm ánh sáng, làm chứng nhân giữa đời.  Bởi vì giáo sĩ không sống chân bùn tay lấm nơi đồng ruộng với những nông dân; giáo sĩ không gồng gánh theo những người buôn bán đi vào đầu đường xó chợ; giáo sĩ không đầu tắt mặt tối làm việc trong những cơ xưởng, nhà máy, công trường…  Nhưng chính những giáo dân nhà nông, những giáo dân buôn bán, những giáo dân công nhân… có nhiệm vụ đem Chúa đến cho anh em mình nơi đồng ruộng, chợ búa, xí nghiệp, nhà máy… nghĩa là những nơi mà giáo sĩ không có mặt và không thể đi đến, thì giáo dân sẽ đóng vai trò chủ chốt và chủ động.  Bởi đó, không những giáo dân đóng vai trò yểm trợ cho giáo sĩ mà còn đóng vai trò chính yếu, thay thế cho giáo sĩ trong những nơi hay những hoàn cảnh đó.

Như vậy cách truyền giáo tốt nhất và có hiệu quả nhất vẫn là đời sống gương mẫu, đời sống Công giáo đích thực, đời sống thể hiện tình yêu thương của chúng ta.   Vì vậy, chúng ta hãy nắm lấy những cơ hội đi lại đây đó, khi thi hành công tác, khi làm ăn sản xuất, khi xê dịch thăm viếng… để nói hay làm chứng về Chúa qua lời nói, thái độ và cách đối xử đầy tình yêu thương của chúng ta.

From: Thiên Kim & Nguyễn Kim Bằng

CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN VI

CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN VI

Phan Sinh Trần.

Một trong những cách ca ngợi Chúa mà nhiều người biết đến, đó là Đọc chuỗi kinh “Lòng thương xót Chúa”. Đây cũng có thể là cách ca ngợi Chuá mà bạn yêu thích phải không ? Cảm được sự hy sinh vô bờ bến của Chúa qua kinh “ Lòng Thương xót” là cách ta dùng để bày tỏ lòng cảm ơn , tôn vinh và thần phục Ngài.

Thú thật với bạn là phải trải qua một thời gian thì tôi mới được Chúa cho cảm thấy say mê, thích thú khi đọc kinh này mỗi ngày lúc ba giờ chiều. Lúc đầu tôi chỉ đọc một cách khá miễn cưỡng , tôi ép mình đọc kinh Lòng thương xót vì đó là ước muốn của Chúa khi Ngài nói với Thánh nữ Faustina: “Vào lúc 3 giờ chiều, con hãy khẩn nài Lòng Thương Xót của Cha, đặc biệt cho các tội nhân; chớ gì con hãy dùng một giây lát ngắn ngủi để dìm mình trong cuộc Thương Khó, nhất là với nỗi đớn đau chịu ruồng rẫy trong cơn hấp hối của Cha.”

Tôi vốn không quen đọc kinh lập đi lập lại, nhưng mà qua ngày tháng, khi đọc Lòng thương xót Chúa, thì sự dậy dỗ của Chúa lại khác, trong mỗi câu kinh Chúa mở mắt cho tôi 3 điều :

  1. 1. Chúa đau đớn như thế nào .

Trong mối câu kinh “ Vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giê su” , Chúa cho thấy từng sự đau đớn khác nhau của Chúa, nào là, sự thờ ơ của tôi trước tình yêu tha thiết của Chúa đã là một bẽ bàng, rồi đến cảnh tội nhân sống trong đam mê, và sầm sập , ào ào lao vào đường chết làm cho Đức Chúa Giê Su đau đớn vô cùng khi mà những hy sinh trên thập giá của Chúa đang thành ra vô ích cho vô số người, nào là phá thai tràn lan làm Chúa đau đớn cùng với hàng trăm triệu nạn nhân thai nhi , Tội ấu dâm tran lan làm Chúa đau đớn tột độ, … Từ sự cảm thông với hy sinh của Chúa ta sẽ biết ơn và yêu mến Ngài them nhiều biết bao nhiêu !

  1. 2. Ta hoàn toàn có thể cậy dựa vào lòng Ngài.

Trong mỗi câu kinh “ Xin Cha thương xót …” thì lòng ta bừng lên một niềm trông cậy mãnh liệt vì như Chúa Giê Su hứa, khi ta cậy vào máu khổ nạn Chúa, thì máu này có đủ sức để rửa xóa bất kỳ tội lỗi nào trên thế gian này, dù tội đó lớn đến mức nào, dù tội đó di hại tới bao nhiêu đời. Khi ta dâng cuộc hy sinh khổ nạn của Chúa Giê Su lên Chúa Cha và nài xin tha thứ thì Cha đã sắn lòng mà tha thứ hết. Không tin thác và phấn khởi sao được phải không bạn ?

  1. 3. Cảm thông và cầu nguyện cho mình và anh em khác.

Chúa thay cho mình một tấm lòng biết chạnh thương và muốn cùng chia xẻ với các Anh Em thân thuộc đang phải trải qua các gian nan, bệnh tât , khổ sở vì bị áp chế , bị nghèo đói, bị vu khống, bị bỏ tù oan … Với các tội nhân thì lòng ta ăn năn thay cho họ , lòng ta xót xa cầu thay cho Anh Em.

Kết quả là khi đọc “Lòng thương xót “ với hết linh hồn, trong tín thác và yêu kính Chúa Giê Su, Chúa Cha, thì đã có quá nhiều sự tha thứ và chứa lành xảy ra mà nhiều bạn cũng đã biết, mục kích , đã có kinh nghiệm. Về phần nhóm của chúng tôi thì mới đây đã được Chúa ban một ơn đặc biệt này,

Khi đó là vào một ngày thứ bẩy, gia đình Anh X đi câu cá tại Quintana gần FreePort Texas. Cửa biển Quitana là một vấn nạn cho dân câu cá nghiệp dư, nước rất cạn chỉ tới ngang hông , nhưng xoáy thành các hố sâu rất nguy hiểm, lâu lâu có một dòng nước ngầm, nằm dưới các đợt sóng đánh từ bên hông, nó kéo rút mọi thứ ra biển . Mặt nước rất cạn là một bẫy ngầm quá nguy hiểm cho bất kỳ người nào mới đến Quintana. Chỉ mới vào dịp lễ Memorial, cách đây năm tháng, đã có một gia đình năm người khi đang câu cá đã bị nước cuốn trôi tới giờ vẫn không tìm ra xác.

Anh X bị nạn tại bãi này, một giòng triều ngầm đã cuốn Anh X ra biển khi anh đang cố gắng cứu một người khác và có khả năng không tìm thấy xác Anh X. Anh Em trẻ trong nhóm Thánh linh đã kéo tới an ủi Chị X và muốn đi tìm xác anh X ngoài biển. Điều tốt là, trước đó mấy tuần, Chúa đã sắp xếp cho một Anh nọ tạm gọi là anh Y vào tham gia trong Nhóm Thánh Linh Giáo Xứ , anh Y có tàu đi chơi, tàu lớn, máy 500 mã lực, có thể cưỡi trên sóng biển, anh Y đã tận tình dùng tàu cùng với gia đình và bạn bè đi tìm anh X. Chúng tôi đã tìm trên bờ ngày hôm trước , hôm sau thì Anh X lái tàu đi lùng hết các bãi, các cửa biển, từ sáng cho đến ba giờ, chúng tôi đã không tìm thấy một dấu hiệu, dấu vết nào. Trước đó, Coast Guard, lực lượng phòng duyên đã cho máy bay đi tìm trong một chu vi 27 dặm, kéo dài 48 tiếng đồng hồ mà không có kết quả.

Đến ba giờ chiều thì tất cả Anh Em trên tàu quì xuống và cùng đọc kinh Lòng thương xót Chúa, Tối cũng biết rằng, không phải chỉ có chúng tôi, từ xa trên bờ và tận các vùng xa hơn nữa như Florida, Victoria Texas, có các Cha Tri, Cha Phi, Các Sơ và Anh Chị Em Cầu Nguyện online cùng hiệp thông và cầu xin Lòng thương xót Chúa ..

Khi chúng tôi đọc kinh xong, thì quẹo tàu lên bờ và tiếp tục bàn kế hoạch tìm kiếm, còn đang nói với nhau thì đã có một tàu khác đến báo xác Anh X đã nổi lên, cách chỗ chúng tôi đang đứng độ vài trăm mét. Đó là sự hiêu nghiệm của việc kêu cầu “ Lòng thương xót Chúa”. Sự chu đáo của Chúa không chỉ ở đó, trong suốt 15 năm trường, Chúa đã biến đổi anh X từ một người thò ơ với Chúa , trở thành một người thật là tuyệt vời về đạo hạnh và tin yêu để Anh X có thể sẵn sàng cho ngày về nhà Cha. Suốt 15 năm trường , Anh chỉ có một ước ao là làm chứng cho Chúa về ơn đổi mới mà Chúa Thánh Linh có thể ban cho bất kỳ ai tin vào Ngài, nhất là trong mấy tháng cuối , anh có dịp cầu nguyện mỗi ngày hai tiếng đồng hồ, cho từng thành viên trong Nhóm Thánh linh chúng tôi, Anh dặn dò , nhắn nhủ từng Anh Em ở xa Nhóm, hơn nữa Anh là một người chồng, người Cha lý tưởng không thể nào tốt hơn, hết lòng lo từng chút, chu đáo cho vợ, cho con.. Cho đến giây phút cuối đời, anh vẫn đang hy sinh cứu người.

Cảm tạ Chúa kính yêu, trong biến cố của Anh X làm cho chúng tôi thấy sức mạnh của “ Lòng thương xót Chúa”.

Xin 1 đan cử những ơn khác từ “ Lòng thương xót Chúa”. Cháu tôi làm nghề nail , nó lại bị bịnh viêm xoang mũi từ năm cháu 17 tuổi , xương mặt ở gần mũi vị nhiễm trùng chảy mũ, và đã mổ một lần để nạo xương ở các vụng bị viêm nhiễm, tuy nhiên, tình trạng chỉ đỡ được hơn một năm , rồi cháu lại bị như cũ, càng tiếp xúc với hóa chất trong tiệm nail và hít thở khí độc thì vùng mắt , mũi cháu càng sung đỏ phù lên và rất là khổ sở vì nước mắt, nước mũi chảy đêm ngày. Bệnh làm nhức đầu đến mức không ngủ nghỉ và không thở được. Tình trạng ngày một tê hơn và không có giải pháp y khoa nào có thể làm cho dứt bênh, đến giờ là 23 năm trường cháu bị bệnh hành hạ. Thấy cảnh đó tôi không thể nào cầm lòng và cầu nguyện kinh “ Lòng thương xót “ cho cháu. Cầu cho cháu được một tháng thì tôi thấy lòng bình an và chuyển sang cầu nguyện cho người khác. Tháng 3 năm nay , trong một dịp tang lễ , tôi có dịp gặp lại Cháu ở Canada , khi tôi hỏi về bệnh tình thì cháu mới sực nhớ và nhận ra là Chúa đã chữa cho cháu khỏi hẳn từ mấy tháng trời nay rồi mà không để ý . Lòng thương xót tuyệt vời của Chúa đã chữa lành cho cháu! Còn hơn thế nữa , theo như lời của chau làm chứng thì Chúa còn chữa lành các mối liên hệ và các bệnh về tâm linh cho Cháu này nữa.

Tới đây sẽ có Bạn dặt câu hỏi là Làm sao để đọc kinh Lòng thương xót hoài mà không nhàm chán và máy móc ?

Sự khác biệt là chúng ta đã không chỉ đọc với sự mệt mỏi, u buồn nhưng với lòng tràn đầy trông cậy và biết ơn Chúa.

Sự khác biệt là chúng ta đọc trong lòng líu lo thưa với Chúa Cha , Cha ơi một hy sinh thân mình của con Cha là đủ cho Cha tha hết và thương đến người Anh Em mà con đang cầu nguyện.

Sự khác biệt là chúng ta đọc trong tinh thần sốt sắng hứng khởi của Chúa Thánh Linh .

Bạn ơi , chiến thuật của mỗi Nhóm, mối Tĩnh Tâm Thánh Linh khi phải đối phó với ma quỉ , bệnh tật, tội lỗi là , ta hãy Ca Ngợi Chúa qua kinh “ Lòng Thương Xót Chúa” lúc 3 giờ chiều mỗi ngày. Bạn đang cầu nguyện đặc biệt cho ai , thì có ngày tôi biết cách chắc rằng bạn sẽ có dịp viết ra đây lời làm chứng vể ơn phước qua Lòng thương xót của Người.

Mình sẽ không thể bỏ qua một ngày mà khong đọc kinh Lòng thương xót của Chúa vì lời hứa sau đây của Chúa Giê Su kính yêu:

… Cha nhắc cho con nhớ rằng mỗi khi nghe đồng hồ điểm 3 giờ chiều, con hãy dìm mình hoàn toàn trong Lòng Thương Xót Cha, thờ lạy và tôn vinh; con hãy kêu nài sự toàn năng của Lòng Thương Xót Cha cho toàn thế giới, và nhất là cho các tội nhân đáng thương; vì vào giờ phút ấy, lượng Lòng Thương Xót được mở toang ra cho mọi linh hồn. Trong giờ này, con xin được mọi sự cho chính con và những linh hồn mà con cầu nguyện cho; đó là giờ của ân sủng cho toàn thế giới” ( Nhật ký Thánh Faustina, bài 1572)

Chúa chẳng của riêng ai!

Chúa chẳng của riêng ai!

Chúa có phải là của riêng tôi hay riêng một ai đó chăng?

Trưa nay trong lúc tôi với má tôi ngồi trò chuyện, tôi có nói với má tôi rằng: “tối nay con phải tới đường Nguyễn Thị Nhỏ để tập trung lên xe đi hành hương, nhưng con không biết đường đó ở đâu, vì chưa bao giờ con đi đường đó”. Má tôi liền nói rằng: “mày xin Chúa của mày chỉ đường đi, vì có Chúa tụi bây chỉ đường thì không bị lạc mà trễ giờ “. Tôi là một tân tòng, trong gia đình chỉ có mình tôi là người theo đạo, , còn các thành viên khác thì chưa nhận biết Chúa.

Chỉ một câu nói thật nhẹ nhàng và đơn giản như vậy, đã làm cho tôi hơi bất ngờ và chợt nhớ ra đã nhiều lần tôi cũng nhờ Chúa và Mẹ dẫn đường đến nơi một cách an toàn và đúng thời gian.

Cách đây khoảng 4 năm, trong nhóm Kinh Thánh Cầu Nguyện mà tôi sinh hoạt. Cô trưởng nhóm nói tôi đến dự một buổi sinh hoạt khá đặc biệt ở Giáo Xứ Mai Khôi ở đường Trần Bình Trọng. Nhận lời xong thì tôi mới nhớ là mình chưa biết giáo xứ đó nằm ở đâu, hỏi thì cô trưởng nhóm có hướng dẫn nhưng lại nói thêm là nằm trong cùng của một con hẻm. Lúc nghe thì thấy đơn giản, nhưng khi đi thì mới biết là xa quá so với nhà của tôi. Chạy xe tới đường Trần Bình Trọng thì có nhiều con hẻm, thế là tôi vội vàng nói với Chúa và Mẹ là xin dẫn con đi đúng hướng kẻo con bị trễ giờ thì tiếc lắm. Quả thật, sau khi tôi thỏ thẻ với Chúa và Mẹ như thế thì tôi đã quẹo đúng con hẻm dẫn đến ngay cổng nhà thờ.

Sau lần đó,  mỗi khi tôi đi đường thấy có vẻ bị lạc thì tôi vội vàng xin Chúa và Mẹ dẫn đi.

Cách đây hơn một năm, gia đình tôi có giúp những đứa cháu họ của má tôi. Trong đó có một con bé vào để luyện thi đại học. Mặc dù cô bé cũng cố gắng và dồn nhiều công sức để ôn luyện. Gần đến ngày đi thi đại học thì cô bé ấy xin tôi cho được đi lễ cùng, vì là người ngoại đạo, cô bé ấy cũng chỉ biết nói với Chúa trong Thánh Lễ là: “Chúa ơi, đi thi với con vì con sợ”.

Rồi cũng đến ngày thi đại học, cô bé ấy hỏi tôi là làm sao biết Chúa sẽ đi thi cùng. Lúc đó tôi hướng dẫn thêm cho cô bé làm dấu Thánh, đó là dấu chỉ cho Chúa biết là mình làm gì và ở đâu đều có Chúa ở cùng.  Và cô bé ấy đã vào phòng thi với thái độ rất tự tin.

Khi đón cô bé trước cổng trường sau buổi thi, tôi nghe cô bé ấy kể lại rằng: “đề thi năm nay quá khả năng của em, em nhìn đề không thấy có chút gì trong những đề em đã học. Sợ quá lúc đó em chỉ biết làm dấu Thánh và xin Chúa giúp em và em chỉ biết làm bài một cách máy móc, nhưng em thấy vui vui và không thấy sợ gì cả”.


Cho đến ngày có kết quả thi, thì cô bé ấy đã đậu vào một trường cao đẳng. Đó là một kết quả mà cô bé ấy cũng như gia đình không nghĩ tới, vì thật sự thì cô bé ấy đã bị mất căn bản từ những năm cấp ba ở trường tỉnh. Điều rất đặc biệt là cô bé này là  con trong một gia đình không biết Chúa và là một gia đình thờ đạo ông bà sinh sống ở Phan Thiết.

Người thứ hai là một đứa em gái họ nhà bên Nội của tôi, cô này đã gần 35 tuổi mà vẫn chưa hiểu gì cho lắm về tình yêu hôn nhân và chưa tìm được người yêu. Vì gia đình cô ở quê miền tây – Bạc Liêu nên chuyện hôn nhân của cô ấy khá quan trọng đối với gia đình cô ấy. Ba má cô ấy luôn lo lắng cho chuyện hôn nhân của cô con gái út và theo như tôi được biết thì hai bác của tôi cũng hay cúng hay cầu xin nhiều nơi. Nhưng tất cả gần như vô vọng, có lần tôi nghe bác trai tôi nói  buồn rằng: “số nó chắc ở vậy, không lấy được chồng” .

Một hôm nhân dịp Thanh Minh, gia đình đứa em trai tôi và ba tôi phải về quê ở Bạc Liêu để viếng mộ ông bà nội tôi. Tôi cũng tham gia đi cùng, nhưng ngoài việc tôi đi viếng Thanh Minh, tôi còn mục đích khác là viếng Giáo Xứ Tắc Sậy ở Hộ Phòng có mộ cha Phanxico Trương Bửu Diệp.

Mấy đứa em tôi tuy không biết Chúa nhưng chúng đã chứng kiến nhiều ơn lành và phép lạ mà qua cha Diệp. Nên khi nghe tôi nói đi cha Diệp thì tụi nó hưởng ứng và đi cùng. Trong chuyến đi cũng có nhỏ em con bác ruột của tôi, nó thì đi cho vui chứ không biết cầu xin gì.

Tới nơi thì tôi nói nó xin khấn những mơ ước của nó, nó nói là nó không biết vì truyền thống gia đình nó chỉ biết cúng vái ông bà và trời Phật. Lúc đó tôi chợt nhớ đến nhưng ưu tư của hai bác tôi, tôi nói nó cùng xin khấn với tôi, xin cha Diệp cầu với Chúa ban cho nó hiểu về tình yêu hôn nhân là gì. Thế là chúng tôi thành tâm xin khấn với những lời khấn đơn sơ và phó thác hoàn toàn.

Bẳng đi khoảng hơn một tháng sau khi xin khấn, thì nhỏ em tôi báo cho tôi một tin vui là đã tìm được người yêu và chúng nó cũng đang tính chuyện cưới xin. Tháng 11 tới đây sẽ là ngày cưới của chúng nó, tôi thấy rất vui và chỉ biết tạ ơn Chúa và cám ơn cha Diệp đã cầu thay chúng tôi.

Trong bài chia sẻ này, tôi đưa ra một vài chứng nhân gần gũi với tôi và tôi hiểu rõ. Họ đều là những người không biết Chúa và đều thuộc những gia đình thờ ông bà, thờ thần thánh và Phật.

Đọc đến đây thì chắc quý vị cũng đã rỏ câu trả lời cho câu hỏi ở đầu bài viết, Chúa thật sự là của ai rồi. Tôi xin khẳng định Chúa chẳng của riêng ai, chẳng thuộc lứa tuổi nào, lại càng không phân biệt lớn nhỏ, không phân biệt màu da, chủng tộc. Chúa là của mọi người, của toàn nhân loại chúng ta. Ngài chỉ cần ta thành tâm, đơn sơ và biết tin tưởng hoàn toàn khi cầu xin thì sẽ được Ngài chúc phúc và đồng hành.

Nguyện xin Tình yêu của Chúa, Mẹ Maria và các Thánh luôn chúc phúc và cầu thay cho chúng con trong suốt cuộc đời của chúng con, để chúng con luôn được sống trong ơn nghĩa con cái của Ngài, hầu danh Cha chúng con luôn được tôn vinh và cả sáng.


Sai gòn, ngày 10 tháng 10 năm 2013

Maria Túc Lynh

Một giáo xứ được khai sinh trong vùng trắng tôn giáo huyện Iagrai, tỉnh Gia Lai

Một giáo xứ được khai sinh trong vùng trắng tôn giáo huyện Iagrai, tỉnh Gia Lai

Đăng bởi lúc 1:58 Sáng 6/10/13

chuacuuthe.com

VRNs (06.10.2013) – Gia Lai – Lúc 11 giờ, ngày 04.10.2013, Đức cha Micae Hoàng Đức Oanh, Giám mục Giáo phận Kontum đã chính thức thành lập giáo xứ IaTô, trong địa bàn huyện Iagrai, tỉnh Gia Lai và trao trách nhiệm chăm sóc giáo xứ cho Dòng Anh Em Hèn Mọn (Dòng Phanxicô). Hôm nay cũng là lễ kính nhớ Thánh Tổ Phanxicô Assisi, Đấng sáng lập Dòng Phanxicô.

Giáo xứ IaTô Huyện Jagrai nằm cách Tp Pleiku khoảng 30 km về hướng Tây Nam, giáp biên giới Campuchia. Trước năm 1975 là vùng căn cứ cách mạng, nên các tôn giáo gần như trắng. Sau năm 1975, vào thập niên 80, một số giáo dân đi kinh tế mới đến vùng đất này, trong đó có khoảng 15 hộ với gần 80 nhân khẩu là giáo dân. Tại thời điển đó, ngay các giáo xứ lớn ở thành phố Pleiku, việc sinh hoạt tôn giáo cũng cam go, nên tại IaTô người Kitô hữu không được tham gia một chút gì hoạt động tôn giáo chính thức của Giáo hội. Họ chỉ biết cầu nguyện tại tư gia và cũng không dám cho mọi người biết mình là người Công giáo.

Nhờ sự hoạt động của Chúa, sức mạnh đức tin mỗi tín hữu tăng lên dần, những người tin Chúa bắt đầu tìm cách liên lạc và sinh hoạt với nhau. Khoảng thời gian 1984 – 1994, anh em kết hợp lại và cử người về trình lên cha Quy và cha Thượng ở giáo xứ Thăng Thiên tại TP Pleiku để được hình thành một xóm giáo. Trong thời gian 10 năm đó, các cha gần như không đến được với giáo dân IaTô. Mỗi khi có việc, anh em phải âm thầm về giáo xứ Thăng Thiên sinh hoạt, tham dự những ngày lễ trọng.

Năm 1995 mọi sinh hoạt đạo của IaTô chuyển sang cho giáo xứ Thánh Tâm coi sóc. Lúc đó Đức giám mục đương kim của giáo phận Kontum đang là là linh mục quản xứ giáo xứ Thánh Tâm.

Ngày 26.04.1995, cha Micae đã về dâng thánh lễ chui đầu tiên cho IaTô tại gia đình ông Vịnh. Tiếp sau đó, cha Micae về rửa tội chui cho các em nhỏ tại nhà ông Bảy Chiêng. Cha Micae đặt ông Bảy chiêng làm xóm trưởng xóm giáo 2 và ông Vịnh làm xóm trưởng xóm giáo IaChâm.

Năm 1996 hai xóm giáo lại chuyển sang sinh hoạt với giáo xứ Đức An do cha Phêrô Nguyễn Vân Đông đảm nhiệm. Cho đến năm 1996, tại IaTô chưa có một người anh em dân tộc Jarai nào biết về đạo Công giáo.

Năm 1998, một số anh chị em như ama Krenh, ama Ương, ami Béo, ơi Hằng, ơi Đer, ama Hương, ama Thùy, ơi Tăm … đến gặp cha Antôn Vương Đình Tài, CSsR, ở Pleichoét và xin cha đón nhận họ. Cha Tài đã quy tụ số anh em này về Pleichoét để học hỏi Tin Mừng một thời gian, rồi giao lại cho cha Đông kiêm nhiệm vùng Jarai.

Vào  Phục Sinh năm 2002, ngày 30.03.2002, có 12 anh chị em Jarai đầu tiên được rửa tội. Sau đó, ngày 23.06.2002 rất nhiều anh chị em Jarai đã về giáo xứ Thánh Tâm chịu phép Thanh Tẩy. Trong số này có nhiều anh chị em đã trở thành Akố  Khul trong làng của họ và từ các anh chị em này, việc rao giảng Tin Mừng được tỏa đi các buôn làng.

Khi người Jarai bắt đầu loan báo Tin Mừng cho người Jarai thì cũng là lúc các anh chị em bị chính quyền truy bắt, nên họ đã gặp muôn vàn khốn khổ. Cuộc sống gian khổ đã không làm cho anh chị em Jarai chùng bước, mà họ tiếp tục ra đi để đưa các anh chị em mới theo đạo về chịu bí tích Thanh tẩy, lúc thì nhà thờ Đức An khi thì trung tâm truyền giáo Pleichoét, lúc khác lại tại nhà thờ Thánh Tâm. Bất cứ chỗ nào thuận tiện là các cha đều đón nhận anh chị em.

Năm 2004, cha Giuse Trần Văn Bảy về quản nhiệm giáo xứ Đức An, cha quy tụ anh chị em nhiệt tình vùng IaTô về gíao xứ Đức An để học hỏi giáo lý và cách dạy giáo lý lại cho xóm giáo mình. Cha đã mượn nhà anh Tuấn làm nơi sinh hoạt chung để hình thành một xóm giáo.

Ngày 19.04.2005 Dòng Anh Em Hèn Mọm (OFM) đã được Đức giám mục Giáo phận Kontum giao phụ trách truyền giáo huyện Ia Grai. Nhận sứ mệnh đi đến một huyện mà nhà cầm quyền xem tôn giáo là một cái gai, nên khó khăn càng chồng chất. Có những lúc các cha  gần như muốn bỏ cuộc bởi áp lực của chính quyền quá lớn. Nhưng khi nhìn vào sự khao khát, sự khó nghèo, sự đói rách của anh chị em bệnh phong cùi, các cha đã chấp nhận sự bắt bớ, trục xuất để rồi âm thầm chịu đựng, lén đến với anh em dân tộc và bệnh nhân cùi.

Cha Nicôla V&utilde; Ngọc Hải, Bề trên dòng tại miền truyền giáo Gia Lai, &dstrok;ứng giữa anh chị em Jarai

Cha Nicôla Vũ Ngọc Hải, Bề trên Dòng Phanxicô tại miền truyền giáo Gia Lai, đứng giữa anh chị em Jarai

Cha Nicôla Vũ Ngọc Hải, Bề trên Dòng Phanxicô tại miền truyền giáo Gia Lai đã đến dâng lễ đẩu tiên vào ngày 18.08.2006 cùng với cha Giám tỉnh Dòng Phanxicô Vương Đình Khởi, cha Bảy và hai thầy phó tế Trung và Long, để ban bi tích thêm sức cho 52 người.

Ngày 28.12.2006, Đức giám mục Kontum đã bổ nhiệm cha Giuse Trần Văn Long về làm quản nhiệm IaTô và các giáo điểm huyện Iagrai. Đến năm 2010, Đức giám mục thấy sự lớn mạnh của các xóm giáo ở IaTô, số giáo dân trên 2000 người, nên ngài cho nâng lên hàng giáo xứ. Tòa Giám Mục đã có thông báo cho chinh quyền nhưng mọi việc gần như bị lãng quên. Năm 2011, Tòa Giám Mục đặt lại vấn đề thì hai năm sau, đến ngày 08.08.2013 chính quyền tỉnh Gia Lai mới có quyết định công nhận.

Đầu thánh lễ, cha quản nhiệm Giuse Trần Văn Long đọc quyết định của chính quyền công nhận giáo xứ. Đức giám mục Giáo phận đã nói không thành lời khi dòng nước mắt tuôn trào, hòa chung các đôi mắt đầy lệ của các cha đồng tế với tiếng khóc của cộng đoàn.

Lời nói của Đức cha Micae đi đôi dòng nước mắt: “Trên 20 năm, trải qua bao gian lao khốn cùng mà anh chị em gánh chịu cho Đức Tin của mình. Đâu phải tới ngày hôm nay giáo xứ IaTô mới hình thành. Huyện Jagrai phải có nhiều giáo xứ như Ia Kha, Ia Chăm, Ia Jok, Ia O… Các nơi này, anh chị em kitô hữu của chúng ta có rất nhiều. Chúng ta đến với Thiên Chúa bởi Đức Tin nhưng Đức Tin của chúng ta không được chính quyền đón nhận bởi cơ chế xin cho trong mọi sinh hoạt. IaGrai là một vùng trắng về tôn giáo bởi trước đây là vùng căn cứ. Nhưng anh chị em đã quy tụ lại sống Đức Tin của mình. Nhất là với các anh chị em người dân tộc ở IaTô, từ một nơi không biết Thiên Chúa là ai mà năm 2010 đã có 1289 anh chị em đã đón nhận Tin Mừng. Anh chị em người Kinh thập niên 80 có 80 người bây giờ trên 800. Vì đâu có sự kiện này ? Đó là vì chúng ta biết giữ vững Đức tin biết đi rao giảng biết loan báo cho mọi người biết chúng ta là con một Cha, anh em một nhà.

(Từ trái sang) Cha Tổng &dstrok;ại diện, &Dstrok;ức giám mục giáo phận, và Cha bề trên Dòng Phanxicô tại Tây Nguyên

(Từ trái sang) Cha Tổng đại diện, Đức giám mục giáo phận, và Cha bề trên Dòng Phanxicô tại Tây Nguyên

Đức Giám mục nói tiếp: “Nhân ngày lể Thánh Phanxicô Assisi, tôi muốn nói tâm gương của ngài với anh chị em. Thánh Phanxicô đến với thầy Yêsu và tìm thấy nơi thầy Yêsu của mình là một tấm gương đức độ. Ngài đã rũ bỏ mọi vinh hoa phú quý, bởi ngài xuất thân từ một gia đình giàu sang sung túc. Ngài thấy nơi thầy Yêsu là hiên thân của nhân đức, ngài từ bỏ mọi phú quý để đến với anh chị em tầng lớp khốn cùng bị xã hội khinh chê ruồng bỏ, ngài gắn liền cuộc sống của mình với bao anh chị em phong cùi bệnh hoạn mà ai cũng ghê tởm. Ngài đã chia sẽ ủi an và đưa những kẻ khốn cùng ấy đến với thầy Yêsu của mình. Tấm gương của ngài đến ngày hôm nay, Giáo hội vẫn còn học hỏi và tiếp bước noi theo.

Cuối cùng Đức cha Micae nói: “Tôi xin các ơn các Cha dòng Phanxicô đã đảm nhiệm cho việc truyền giáo tại vùng Iagrai. Cám ơn anh chị em Kinh cũng như Thượng đã và đang thực hiện sứ vụ truyền giáo của mình”.

PV. VRNs tại Pleiku

CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN. V

CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN. V
Phan Sinh Trần
09.2013
  1. 1. Ca ngợi Chúa có mang lại kết quả thực hay không ? Bạn cũng đã từng có thắc mắc này vì đã thấy có nhiều người ca ngợi Chúa hăng hái rồi khi họ “ tr về mái nhà xưa” thì lại vẫn theo nếp cũ, tính tình đâu hoàn đấy như không có chuyện gì xảy ra. Vâng, quả đúng là như vậy! Khi ta không đầu phục Chúa hoàn toàn thì dù trước đó đã dành tâm hồn cho việc Ca ngợi Chúa đi nữa kết quả sẽ là gần như không có gì, vì điều làm nên sức mạnh của sự Ca Ngợi và mang lại quyền năng của Chúa khi ta ca hát, đó lòng thành khởi đi từ sự quyết tâm từ bỏ mình, từ bỏ các đam mê. Nếu không có yếu tố “quyết tâm từ bỏ “ này thì dù đã thực hiện cách ca ngợi dài lâu đến mấy năm, hay mấy chục năm, vẫn không thấy kết quả hiệu nghiệm.
  1. 2. Cách đây khoảng 10 năm, có một thanh niên giang hồ tên D, cũng đến dự Tĩnh Tâm Canh Tân Đặc Sủng và ăn năn, từ bỏ con đường bạo lực, nhưng khi về nhà, bị bạn bè rủ rê thì anh gia nhập băng nhóm trở lại, Anh lại tiếp tục đi ăn, đi cặp bồ và đi chơi ở các vũ trường, rồi có khi vì gái , Anh đã đánh lộn với các băng nhóm khác. Khi đó, Anh cũng có được Nhóm Thánh Linh ở Houston khích lệ, vận động khuyên nhủ lần thứ hai về sự từ bỏ và đến với Chúa, anh bỏ các sinh hoạt băng Nhóm trong vòng dăm bảy tuần nhưng mà kết quả chưa được bền lâu, các Bạn cũ của Anh lại đến lôi kéo. Nghe chúng nói, Anh ngần ngừ, do dự một hồi rồi cuối cùng Anh đã chọn Bạn và Cuộc chơi thay vì Chúa… Nhóm Thánh Linh tiếp tục vận động trong các lần chọn lựa thứ ba, thứ tư của Anh D,… cuối cùng thì Anh lại tránh gặp mặt Nhóm và sau đó dứt khoát bỏ không đi Nhóm, không ca ngợi Chúa nữa.
Sự thể bùng nhùng như vậy đến gần năm, thể rồi một chuyện rất không ngờ đã xảy ra , trong một lần xích mích từ quán karaoke, anh đã bị gài độ và bị bắn chết . Anh đã mất hết mọi cợ hội gặp gỡ và làm lại cuộc đời, dù đã có nhiều phen tham gia Ca Ngợi và thực sự đã từng được Chúa đụng chạm. Như vậy, lòng chân thành trong Ca Ngợi khi ta đến với Chúa bằng quyết tâm từ bỏ mình là cần thiết biết bao, đó chính là chìa khóa để mở ra một thế giới mới của an bình , vui mừng và thay đổi. Trường hợp của Anh Thanh Niên này , thay vì được ơn đổi mới như trường hợp của thầy X mà tôi xin trình bày sau đây, thì Anh Thanh Niên này đã bị rơi rụng.
  1. 3. Trường hợp của một anh thanh niên khác, anh tên là X vốn là một thợ tiện chuyên nghiệp từ Việt Nam sang Cali và sau đó đến Houston, vào giai đoạn thập niện 80-90 anh đã hái ra tiền với bàn tay khéo léo trên dàn máy tiện, dũa, khoan của mình rồi, có khá tiền sớm trong giai đoạn chân ướt chân ráo, như thông lệ của thanh niên độc thân , Anh lao vào ăn chơi, cá độ bóng football , nhậu nhẹt và vướng vào các vụ đụng chạm thanh toán , Anh trở thành nổi tiếng “ chì “ một thời, điều may mắn là trong một dịp Tĩnh tâm Thánh Linh mà Anh miễn cưỡng tham dự để chiều lòng người thân , anh được Chúa đụng chạm và kêu gọi. Anh Th đã thay đổi và tham gia Ca Ngợi Chúa mỗi tuần liên tiếp trong sáu tháng . Như Bạn từng biết đó, càng Ca Ngợi Chúa hết lòng thì ta càng yêu Chúa hơn. Anh X cũng không ra ngoài ngoại lệ này, Cùng với Nhóm Ca Ngợi Chúa anh chợt nhận ra rằng, đời sống của Anh có thể thiếu mọi thứ trên thế gian này nhưng không thể thiếu Chúa, cùng với số lần Ca Ngợi Chúa , tình yêu Chúa lớn lên trong tim, anh quyết định dâng trọn cuộc đời cho Chúa để không còn thấy trống vắng nữa, nhưng tìm thấy ý nghĩa của một đời sống chan chứa ý nghĩa. Vào một ngày nọ, Anh quyết định đi tu , vào sống trong chủng viện. Khổ một nỗi ,như anh nói: “ làm cho cục sắt thành một món đồ cơ khí thì anh làm được còn học hành thì một câu tiếng Anh cho ra hồn Anh X cũng mù tịt !”, làm sao mà học cho hết 4 năm triết học , 4 năm thần học dài đăng đẳng đây, đó là chưa kể phải bắt đầu từ lớp tiểu trung học trước để lấy bằng trung học.
Bao nhiêu lần bị điểm zero, anh buồn và thao thức cả đêm không ngủ được. Anh tâm sự :
lý trí thì bảo tôi điều này không thể nào làm được nhưng tôi biết lòng mình sẽ không thể nào không làm những việc mà Chúa muốn.
Thật là một công việc quá sức của Anh và quá sức tưởng tượng của nhiều người, làm sao một người gần như thất học lại có thể trau dồi việc học cho thành tài và trỏ thành một linh mục của Chúa. Ở lại lớp nhiều kỳ, trải qua các trường khác nhau tại các Giáo Phận khác , đã bao lần Anh được khuyên hãy bỏ cuộc, nhưng khi Anh thối lui, thì những kỷ niệm trong mối tình đầu, những ngày Ca Ngợi Chúa khi xưa và nếm trải an ủi khi sống trong tình đầu, ngày đầu yêu Chúa và hát dâng lên những bài thân thiết nhất, và có những sự an ủi sâu thẳm nhất Chúa ban cho, chúng lại sống dậy trong lòng và làm cho Anh phải chỗi dậy, lê lết đi tiếp. Thắm thoát đã trên 15 năm , từ chỗ không viết được một câu đúng chính tả , nay Anh có thể viết những bài luận văn dài vài ba chục trang giấy về các đề tài tâm lý, luận lý và nhất là về tình yêu của Chúa. Môn Anh X thích nhất lại là Triết, Phân Tâm học. Còn giảng luận vể Chúa của Anh thì ra sao? Khi cả Nhóm nghe Anh nói về Chúa và kinh nghiệm theo Chúa của mình một cách vô cùng khiêm nhường và dạn dĩ, thì mọi người nghe đều được nóng cháy lên trong lòng, được gia tăng đức Tin mạnh , đc Ái sâu xa hơn . Thực là chả có ơn gì mà Chúa không thể ban cho các con yêu của Ngài ! …Tháng 10 này Anh X sẽ được Đức Giám Mục của Giáo Phận phong chức phó tế và nếu mọi sự tốt đẹp theo ý Chúa kính yêu, thì khoảng giờ này sang năm Anh sẽ chuẩn bị cho Thánh Lễ mở tay. Tất cả bắt đầu bằng tình yêu và sự đụng chạm của Chúa trong Ca Ngợi, Thờ Phượng.
Ca Ngợi thờ phượng Chúa thật là tuyệt vời, nó cho năng lượng yêu để phấn đấu trên 15 năm dài đằng đẳng và thành môn đệ của Tin Mừng.
Thực ra thì tình yêu mà Chúa Thánh Thần đổ tràn ngập trong lòng ta khi Ca Ngợi là điều mà rất nhiều người từng trải. Cha L cũng là môt người trong số đó, Ngài là một sinh viên luật, bỏ người bạn gái yêu, bỏ trường Luật, bỏ sự nghiệp, bỏ tất cả để đi theo Chúa. Trong số người nhờ Ca Ngợi mà yêu mến Chúa quá đỗi, rất có thể có cả Bạn nữa phải không .
Hãy tôn dương Yavê làm một với tôi,
cùng nhau, ta hãy tán tụng Danh Người!
Tôi sẽ tìm kiếm Yavê, và Người đáp lại lời tôi!
khỏi mọi nỗi khiếp sợ, Người đã giải thoát tôi.
Họ đã nhìn đến Người và được chiếu soi,
mặt họ sẽ không hề tủi hổ.
Hãy nếm và xem Yavê tốt lành nhường bao!
Phúc cho ai ẩn náu bên Người!
Thánh Vịnh 34: 4-6, 9

thánh thần xin hãy đến

NHÀ THƯƠNG HAY NHÀ THỜ

NHÀ THƯƠNG HAY NHÀ THỜ

Maria Túc Lynh

Vậy là con đã được làm công chúa hơn một năm – Cha làm vua thì con gái nhất định phải là một công chúa. Nói như thế không phải là con có ý “dụ dỗ” những ai nhất quyết không nhìn nhận Chúa, mà mất nhiều ơn ích. Và con càng không có ý khoe khoang là mình là con cưng, là công chúa thì muốn gì được đó, vì nhiều lúc con cũng không được Chúa nhận lời khi việc đó Chúa biết là không tốt. Tuy nhiên sự thật là khi biết mình có một Người Cha trên cả tuyệt vời, thì quả nhiên con được hạnh phúc.

Hôm nay con xin phép được chia sẻ với quý vị về quyền năng của Bí Tích Thánh Thể, về vai trò cầu thay của Mẹ Maria quan trọng tới mức nào.

Con đã từng có những bài chia sẻ, tâm sự về Bí Tích Thánh Thể và vai trò của Mẹ Maria. Nhưng lần này con xin nêu lên một mặt khác nữa của hai điều huyền nhiệm này.

Xưa giờ ai cũng nói Bí Tích Thánh Thể là một lương thực, không thể thiếu trong cuộc đời của người Công Giáo. Bí Tích Thánh Thể sẽ làm cho con người ta biết cách sống hơn, làm cho người ta hoán cải. Giải thoát bao nhiêu vất vả khó khăn trong vấn đề tâm linh, ngay cả trừ tà. Điều quan trọng hơn nữa là Bí Tích Thánh Thể, còn có thể giúp cho mọi người có thể nhận được nhiều ơn nhờ lời một người xa lạ cầu nguyện, còn gọi là được thông công.

Bí Tích Thánh Thể là tuyệt vời vậy đó, vì thế con tiếc cho những ai đã biết mà cố tình chối bỏ, những ai cứ vì một điều gì trong đời sống thế gian tạm bợ này mà khước từ đón nhận.

Vào ngày 13 tháng 12 năm 2011, tự nhiên con bị đau bụng một cách kỳ lạ. Lúc đầu thì đau râm rang, nhưng tới khoảng trưa thì bắt đầu đau từng cơn. Khi thì đau nhẹ, lúc thì đau dữ dội. Đau tới mức con không thể ngồi hay nằm, tất nhiên là con không ăn được gì cả. Tới gần 3 giờ chiều thì cơn đau bắt đầu lan rộng khắp vùng bụng, và đau rất mạnh. Khi đó thú thật là con quên mất tiêu việc cầu nguyện xin chữa lành, mà lúc đó chợt nhớ lời của một đàn anh rằng. Cứ dâng những cơn đau đó để cầu nguyện cho các linh hồn. Mà con nghĩ cũng ngộ, càng dâng thì càng đau. Cuối cùng thì không chịu nổi nữa nên con cầu cứu một chị bạn là bác sỹ. Chị ấy cho một vài tên thuốc để uống. Để yên tâm uống thuốc mà không sợ bị đau dạ dày, nên con ăn lót dạ một trái chuối sứ. Sau khi ăn và uống thuốc xong thì cũng không hết, và lúc đó cũng là gần tới giờ Thánh Lễ. Nhưng vì trong lòng con nghĩ, đây chắc là ma quỷ phá không muốn cho con đi lễ nên nó cản đường. Tính con vốn lỳ nên bất chấp, quyết định phải đi lễ để được gần gũi và rước Chúa. Nhưng cuối cùng thì con không đạt được ý định, vì đau quá và dạ dạy lại muốn nôn. Con đành bỏ lễ chiều trong tiếc nuối, mà đi tìm một phòng khám đa khoa để khám bệnh. Chạy loanh quanh mà vẫn không tìm ra, thì con chợt nhớ tới phòng khám đa khoa Việt Mỹ, nằm trên đường Hoàng Hoa Thám quận Bình Thạnh.

Vào tới nơi thì con cũng thấy mệt mỏi lắm rồi vì con cũng vừa nôn ra hết vừa thuốc vừa chuối. Những cô điều đưỡng ở đó cho con khám và làm một số xét nghiệm, siêu âm. Kết quả cuối cùng thì theo như một vị bác sỹ nam là con cần phải nhập viện vì bạch cầu tăng cao. Người bác sỹ đó bảo rằng đây có thể là viêm ruột thừa, nếu không nhập viện và nằm chờ điều trị thì có khi chết mất tiêu. Người bác sỹ tốt bụng đó nghĩ là con sợ nằm viện phẫu thuật nên hết lòng an ủi và khuyên con nên nhập viện.

Tạ ơn Chúa là ngay lúc đó thì bỗng nhiên con nhớ đế Người Cha yêu quý của con, và con cũng nhớ là hôm nay có một Thánh Lễ ở Giáo Xứ Đa Minh – Ba Chuông được tổ chức hàng tháng vào ngày 13 để Kính Đức Mẹ. Thế là con liền nói chuyện với Chúa rằng: Chúa ơi! Con muốn đi nhà thờ chứ không muốn đi nhà thương đâu. Ở nhà thờ con còn được cầu nguyện và thấy Chúa và rước Chúa, chứ vô nhà thương nằm thì buồn chết”. Sau đó thì con cũng nói với Mẹ Maria rằng: “Mẹ ơi, Mẹ cầu nguyện cho con đi. Một tháng mới có một Thánh Lễ Kính Mẹ mà Mẹ để con chui vô nhà thương nằm một mình sao?”.

Sau khi năn nỉ Chúa và Mẹ xong thì cái cảm giác đau ở vùng bụng của con mất mất đi hơn 80%, và con quyết định là phải đi lễ. Tuy nhiên vì cả ngày không ăn uống gì được nên con thấy đói và tìm ăn một chút rồi quyết định đi lễ. Tạ ơn Chúa là con vẫn còn kịp giờ dự Tiệc Thánh mà Mẹ và Chúa đã dọn sẳn cho con (Con cảm giác rằng bữa tiệc hôm đó chỉ dành riêng cho con).

Tuyệt vời lắm, khi vào Lễ thì con gần như không thấy đau nữa. Tới khi rước Lễ, con xin phép Chúa cho con được rước Chúa. Và sau khi rước Chúa xong thì con thấy trong cơ thể gần như bình thường và tươi tỉnh hẳn lên. Và con đã hoàn toàn hết đau một cách tuyệt vời, ngay sáng ngày hôm sau thì hết đau hơn 95%. Đến chiều tối thì coi như chấm dứt hết mọi cơn đau. Lẽ ra là sau đó con nên chia sẻ với quý vị ngay, nhưng vì con bận nhiều việc nên giờ con mới chia sẻ.

Ở đây, con muốn nhấn mạnh về tầm quan trọng của Thánh Lễ, nơi đó giống như là một phòng chữa bệnh, mà không hề kén bất cứ một loại bệnh tật nào vì nơi đó có một Vị Bác Sỹ thật tài ba. Nơi đó còn có một Vị Y Tá rất dịu dàng, vị Y Tá này sẳn sàng đón nhận tất cả các bệnh nhân bất kể sang hèn mà không cần người bệnh phải làm bất cứ một xét nghiệm hay kiểm tra gì. Chỉ cần người bệnh nhân đó nhận thức được rằng mình là con, chỉ cần có một tâm tình phó thác, với tấm lòng đơn sơ vì tin rằng mình sẽ được chữa lành. Và nhất là người bệnh nhân không mất một bất cứ chi phí nào.

Trong bài viết này con rất muốn được đón nhận bởi những quý vị chưa Công Giáo, hãy xem xét lại những định kiến không tốt về Thánh Lễ, về Bí Tích Thánh Thể. Đó những huyền nhiệm mà nếu chúng ta không chịu mở lòng hay trân trọng khi chưa hiếu hết thì quý vị mãi mãi sẽ bị thiệt thòi.

Mỗi khi nghe ai đó nói là có một loại thuốc nào đó có giá trị vài ngàn đôla hay vài triệu đồng tiền VN thật quý giá có thể làm cho con người được sức khỏe hay được trẻ mãi không già và tin vào nó một cách tuyệt đối. Thì con lại nghĩ rằng, nhân loại đang hiện có một loại thuốc bổ, thuốc chữa bệnh, thực phẩm vô cùng quý giá, mà con người lại đang chối từ khi một Đại Thiên Y luôn sẳn sàng ban phát qua một Vị Y tá nhân từ hiền hậu.

Nhân đây con cầu xin Danh Vị Đại Thiên Y của nhân loại là Chúa Yêsu càng tỏa sáng, qua việc chữa lành cho tất cả những bệnh nhân, đang trông chờ vào quyền năng của Đức Giêsu Phục Sinh, qua lời cầu bầu của Vị Y tá hiền từ và đức độ là Mẹ Maria.

Con xin cám ơn quý vị đã đón nhận tâm tình chia sẻ của con.

Sàigòn, ngày 03 tháng 03 năm 2012
Con
Maria Túc Lynh

Làm chứng cho Lòng Xót Thương của Chúa và Mẹ Maria

Làm chứng cho Lòng Xót Thương của Chúa và Mẹ Maria

Maria Vân Anh

Thu, 24/11/2011

10 giờ sáng thứ Sáu, ngày 21 tháng giêng năm nay, một biến cố vô cùng đau buồn đã xảy ra cho gia đình tôi và nhất là cho riêng tôi..Chồng tôi đã bị stroke, tai biến mạch máu não đang khi làm việc . Hung tin này tôi nhận được  sau khi dự thánh lễ ban sáng về. Vừa bước vào nhà, tiếng phone reo, tôi nhận ra số phone từ trong hãng nhà tôi đang làm việc. Tôi linh cảm một sự gì rất nghiêm trọng đang đến với gia đình tôi. Vợ chồng cháu trai lớn nghe tin, không chần chờ một phút, lên xe ngay, hai cháu vừa đi vừa liên lạc với sở làm của bố để hỏi người ta đã đưa nhà tôi đến cấp cứu ở bệnh viện nào?. Tôi chỉ kịp mặc thêm chiếc áo lạnh, mang theo cây thánh giá nhỏ có tượng Chúa Giêsu đóng đinh mà tôi có được trong dịp hành hương Đất Thánh, chuỗi Mân Côi thì lúc nào cũng sẵn bên mình, cuốn sách “Niềm Vui Phó Thác”  rồi cùng con gái nhỏ đến nhà thương Sharp.

Đến nơi, tôi và cháu gái chưa được gặp nhà tôi ngay mà vẫn phải ngồi chờ tại phòng đợi . Trong lúc đó, tôi nhớ đến nhóm thân hữu Gioan ( hai vợ chồng tôi được cả nhóm bảo trợ dự Khóa Cursillo Ba Ngày vào năm 2003. Từ đó chúng tôi đều đặn sinh hoạt trong nhóm và thân thiết như gia đình thứ hai của mình). Lúc này gia đình tôi cần nhất lời cầu nguyện, chúng tôi cần Ơn Chúa biết bao. Gọi cho chị trưởng nhóm xin chị thông báo với quý anh chị trong Nhóm để hiệp ý cầu nguyện cho anh và cả gia đình tôi trong lúc này. Chị bình tĩnh nói “Mình hiểu là Vân đang lo lắng và quá đau khổ, tuy nhiên chắc chắn Chúa đang ở bên Vân và các cháu. Mình tin tình thương và quyền năng Chúa đang được thể hiện trong biến cố này”

Hình ảnh đầu tiên, tôi vẫn nhớ như in khi bước vào phòng cấp cứu, người bác sĩ trực  nói   “Chồng tôi bị tai biến mạch máu não. Vì đứt mạch máu chính tại trung tâm não nên anh  không cần đến giải phẫu nữa”. Trên đường đến bệnh viện, cháu trai lớn đã gọi xin Cha Đoàn đến ngay để ban những bí tích cấp thiết sau cùng cho nhà tôi. Thật kỳ diệu chỉ sau 10 phút cha Đoàn đã có mặt vì cha đang ở rất gần bệnh viện. Tạ ơn Chúa.  Sự hiện diện của vị mục tử vào lúc nguy nan này là một niềm an ủi rất lớn lao cho gia đình chúng tôi. Sau đó, trong vòng 40 phút có tới 3 bác sĩ đến thăm bệnh cho chồng tôi đều tỏ ra vô cùng ái ngại cho tôi. Bác sĩ cho tôi biết tình trạng sức khỏe của nhà tôi rất nguy hiểm trong 48 tiếng sắp tới. Sau đó, những người y tá làm thủ tục chuyển chồng tôi lên phòng hồi sinh.

Nỗi đau lớn lao, đến nhanh chóng quá đã làm cho tôi và các cháu dường như tê dại. Giờ đọc kinh tối chung trong gia đình thường ngày, hôm ấy ở ngay tại giường bệnh của bố trong phòng hồi sinh..Chỉ có 10 Kinh Kính Mừng mấy mẹ con chúng tôi cùng cầu nguyện với nhau mà nước mắt chan hòa trên mắt cháu lớn và thành tiếng khóc nức nở từ đứa con gái nhỏ. Đêm đã khuya lắm rồi nên tôi nói các cháu ra về và cố gắng thật bình tĩnh để các cháu an lòng..Hai cháu nhỏ xin ở lại nơi phòng chờ đợi dành cho thân nhân. Anh chị trong nhóm Gioan, nhóm Đức Mẹ Lavang đến đây từ chiều, giờ này cũng phải ra về cùng lúc với chị gái và gia đình các em trai của tôi.

Đêm đầu tiên tôi ở lại bệnh viện. Suốt đêm hôm ấy, một mình ngồi nhìn anh bất động trong phòng hồi sinh với  những máy móc, dây nhợ chằng chịt trên người. Lâu lâu nếu có những gì bất thường chuông lại reo lên báo động ..cứ mỗi 2 tiếng lại có 2 người y tá đến trở mình cho anh. Tôi ngồi đây cảm thấy mình như hoàn toàn tách biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Nhìn anh nằm bất động, bộ quần áo bệnh viện khoác trên thân mình gầy yếu, hơi thở còn phải trông nhờ vào máy móc đó là một sự thật mà tôi chưa bao giờ dám nghĩ tới. Khó biết bao cho tôi khi phải chấp nhận sự thật bất ngờ này. Tôi nhớ lại mới sáng nay, chúng tôi còn đọc kinh  với nhau. Thứ Sáu nên chúng tôi lần chuỗi Mân Côi kính Đức Mẹ suy gẫm 5 mầu nhiệm thương khó của Chúa ..

Trong lúc dùng điểm tâm chúng tôi còn nói chuyện về buổi họp nhóm tân niên sắp tới tại nhà một anh chị trong nhóm..Bước lên xe anh còn dặn tôi chiều nay sau giờ làm việc anh sẽ ghé Home Depote mua một vài vật dụng để che hồ cá trước đài Đức Mẹ giữ an toàn không sợ cháu bé rơi xuống hồ .??? Tôi tự nhủ hay đây chỉ  là 1 cơn ác mộng ??? Thế nhưng còn người nằm kia là ai, không nói một lời. Có những lúc trái tim tôi nhói đau, thắt lại, như bị nắm chặt trong một bàn tay vô hình nào đó. Tôi muốn gào lên thật  to, thét lớn hoặc khóc lóc thảm thiết “Chúa ở đâu giờ này, Chúa có nghe tiếng con kêu xin? Chúa có nhớ mỗi sáng con đều thành tâm dâng lên Chúa lời cầu xin cho được ơn bình an trong gia đình?..Con đâu dám ước ao những gì lớn lao trọng đại, giàu sang phú quý, . Con chỉ xin cho con và những người thuộc về con được sống đẹp lòng Chúa.. mà sao giờ đây Chúa để con phải chịu cảnh thương tâm đến như thế này”. Tôi tự hỏi, vì sao bỗng nhiên một sớm một chiều tôi phải đối diện với nỗi đau đớn, với cái bất định, bất ổn của cuộc sống như thế? Tôi nhìn quanh phòng hồi sinh, mọi sự im lặng một cách đáng sợ. Đặt Thánh Giá có tượng chịu nạn lên trên chiếc gối trắng, bên cạnh đầu của anh. Tôi hồi tưởng lại sáng nay sau khi rước Thánh Thể tôi đã cầu nguyện với Chúa thật sốt sắng thế nào..Tôi luôn cảm tạ Chúa vì đã cảm nghiệm được Chúa ban cho tôi và gia đình đầy những Ơn Thánh và biết bao phúc lành. Tôi còn ước ao điều gì với Chúa hơn nữa.Tôi và gia đình tôi đã được Chúa bảo bọc, yêu thương cho đến ngày hôm nay với quá nhiều hồng ân không sao kể xiết. Có những lỗi phạm, có những vết thương, có những mất mát, lạc lối tưởng chừng như không còn chút hy vọng thế mà với thời gian lại được Chúa thanh tẩy, chữa lành, dẫn dắt và ban cho còn tốt lành hơn trước. Tôi chỉ còn biết thưa với Chúa. Lạy Chúa xin cho con và những người thuộc về con mỗi ngày nên giống Chúa hơn, xin cho chúng con có trái tim giống Chúa, riêng con xin ban cho con biết sống tin yêu và phó thác theo dấu chân của Mẹ Người. Xin Chúa cho Thánh Ý Chúa luôn thực hiện tốt đẹp trên cuộc đời mỗi người chúng con. Kéo chiếc ghế lại gần đầu giường của anh, tôi vẫn hy vọng anh đang cùng tôi cầu nguyện như sáng hôm nay. Như thường lệ, cầm xâu chuỗi Mân Côi trên tay, một lần nữa tôi lại suy gẫm Mùa Thương, 5 mầu nhiệm đau khổ  của Chúa Giêsu, chặng đường thương khó Chúa Giêsu đi cùng có Mẹ Người. .Lời kinh dần dần thấm nhập vào linh hồn tôi. “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con (vâng, chúng con, con không cầu nguyện một mình) là kẻ có tội, khi nay (lạy Chúa, ngay ở đây, giờ phút này) và trong giờ lâm tử Amen. Trong lời khấn xin chân thành từ đáy tim tôi, Chúa đã cho tôi đã nhận ra “. Chúng tôi là “kẻ có tội”. và vì có tội nên tôi biết thân phận mình, dù có khỏe mạnh cách mấy, chắc chắn có ngày chính tôi cũng phải chết.

Đêm càng sâu, tâm hồn tôi càng lắng đọng..Chúa dẫn tôi vào mầu nhiệm khổ đau của Người. Chúa cho  tôi dần dần hiểu được nguyên nhân của những đau khổ đang xẩy ra cho chồng tôi, cho tôi và những người thân yêu của tôi. Đó là những tội, những thiếu sót trong đời sống chung và riêng, những thói quen làm hại đến mình. Thông thường những tội này dẫn đến đau khổ mà ngôn ngữ nhà đạo thường gọi là thập giá. Đương nhiên tôi cũng hiểu rằng có nhiều nỗi đau khổ trong đời thật khó mà tìm được nguyên do. Vì thế đau khổ vẫn là một huyền nhiệm. Tôi hiểu rõ hơn, Chúa Giêsu đã không đến để cất hết đi nỗi khổ đau nhưng Người đã tự nguyện mang tất cả đau khổ của nhân loại vào chính bản thân mình để thể hiện tình yêu tuyệt đối của Người. Đó là mầu nhiệm thập giá.

Từ suy niệm này,  tôi đã tìm được sự an ủi, tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa. Tôi cũng cảm nhận sâu xa ý nghĩa và giá trị của sự đau khổ giờ đây tôi đang gánh chịu. Tôi cảm thấy dường như hoàn cảnh hiện tại của tôi tương tự như Chúa Giêsu trong Vườn Cây Dầu. Thoạt đầu Đức Giêsu cũng xin Cha cất chén đắng, ‘Người  bồi hồi xao xuyến và mồ hôi đã đổ ra như những giọt máu (Lc 22,39-46). Người cũng không muốn chịu đau khổ. Tôi cũng vậy, tôi cũng muốn van xin Chúa Cha tha cho tôi đến nỗi có lúc tôi muốn cầu xin Ngài làm phép lạ để mọi chuyện vẫn cứ bình thường như ngày hôm qua.  Nhưng sau đó, Đức Giêsu đã xin vâng theo Ý Chúa Cha. Nhìn lại đời sống Chúa Giêsu tôi nhận thấy đầy gian lao đau khổ từ khi vào đời, làm con người. Cuối cùng Chúa đã đổ đến giọt máu cuối cùng để cứu chuộc tôi. Dưới chân thập giá khi người lính đâm lưỡi đòng vào cạnh sườn thâu đến trái tim Chúa Giêsu, thì cũng là lúc mũi gươm ấy thâu qua trái tim khổ đau của  Mẹ. Từ giờ phút đó, Người Mẹ mà Chúa Giêsu yêu thương vô cùng đã được ban cho tôi và tất cả nhân loại.Tôi cảm nhận rõ ràng Chúa Giêsu đã chịu đau khổ để đền tội cho tôi thì Chúa cũng sẽ thánh hóa sự đau khổ. Kỳ diệu thay, sự nhẫn nại vâng phục trong đau khổ lại trở nên dấu chỉ là môn đệ của Người.  “Ai muốn theo Ta, thì hãy từ bỏ mình, vác thập giá của mình mà theo Ta (Mt 16,24). Tôi xin được trở nên đồng hình đồng dạng với Người mà tôi không muốn nhận thập giá của mình giờ này sao?

Cảm tạ Chúa, sự đau khổ và sự chết của Chúa Giêsu không ngừng lại ở đó mà chỉ sau 3 ngày Người đã phục sinh vinh hiển.. Chính nhờ Chúa đã dẫn tôi vào mầu nhiệm khổ nạn, sự chết và sự sống lại của Người mà tôi cảm nhận được giờ phút tôi chịu đau khổ  là thời điểm Chúa Giêsu và Mẹ Người đang đồng hành với tôi, ở với tôi. Lòng trí tôi bừng sáng, tôi không còn chỉ chịu đựng đau khổ mà tôi chấp nhận đau khổ. Với sức mạnh từ Chúa và đỡ nâng từ ái của mẫu tâm Mẹ Maria, tôi can đảm đứng lên đón nhận những khổ đau trong những ngày sắp tới. Suốt thời gian ngồi bên giường bệnh của anh, trong niềm tin tôi hồi tưởng lại những gì anh đã sống, đã chia sẻ, đã tạ ơn tình Chúa thương yêu bảo bọc cuộc đời anh như thế nào trước ngày anh ngã bệnh không xa, tôi nhận ra không những Chúa đã chuẩn bị  cho anh, cho tôi và cả cho các cháu nữa.

Thời gian người bạn đời của tôi nằm trong bệnh viện là những ngày tôi cảm nhận Chúa đã thực sự tỏ hiện tình thương sống động vô cùng của Người qua những tấm lòng quảng đại của quý anh chị trong gia đình, Phong Trào, Cộng đồng, Cộng đoàn, và ngay cả hàng xóm nữa..  Tôi không đơn độc một mình. Tôi được đồng hành và nâng đỡ bởi nhiều niềm tin vững mạnh như một câu châm ngôn tôi thuộc nằm lòng trong Khóa Ba Ngày “Một tay nắm lấy Chúa, một tay nắm lấy anh em”. Trong khi nhà tôi nằm bất động trên giường bệnh, tôi và các cháu thay phiên nhau túc trực ngày cũng như đêm với nỗi đau khổ khôn cùng thì đồng thời chúng tôi được hồng phúc trông thấy bao khuôn mặt thân thương của gia đình, bạn hữu. Không chỉ là những lời thăm hỏi, cầu nguyện cho và với gia đình tôi mà còn những điều rất thiết thực như những hộp cơm, lát cá kho gói ghém bao ân tình dành cho tôi và cho ngay  cả ông bà ngoại già yếu  ở nhà. Mỗi anh chị đến thăm đứng bên tôi cùng cầu nguyện đã trao cho tôi những ánh mắt cảm thông chia sẻ, một lời khích lệ làm ấm lòng tôi. Ngày họp nhóm tân niên quý anh chị trong nhóm thay vì họp tại nhà một anh chị đã đến tận giường nhà tôi để chung phần đau khổ và cùng cầu nguyện với tôi. Tôi nhận được không biết bao nhiêu là ân huệ và phúc lành. Tạ ơn Chúa qua biến cố này tôi học biết được giá trị của sự đón nhận đau khổ trong Thánh Ý của Chúa và xác tín rằng trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống Chúa Giêsu và Mẹ Người luôn nâng đỡ và che chở tôi và người thân yêu của tôi.

Sau một tháng mặc dù đã được các bác sĩ dùng hết mọi phương tiện hiện đại để cứu chữa, cuối cùng vào lúc 3 giờ 5 phút sáng thứ Hai ngày 21 tháng 2 năm 2011, người bạn đời của tôi đã được Chúa gọi về bên Người. Theo thường tình sự mất mát nào cũng đau đớn và đầy nước mắt tiếc thương, nhưng đối với gia đình tôi lại một lần nữa trở thành một thời điểm thi ân hồng phúc của Chúa. Đây là nước mắt của niềm tri ân vô bờ mà  tôi được dịp gửi lời chân thành cảm tạ đến tất cả mọi người , những vị bác sĩ, y tá trong bệnh viện Sharp, Kaiser đã chăm sóc, hỏi han, cầu nguyện, thăm viếng, dự Thánh Lễ an táng và đưa tiễn người bạn đời của tôi đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Từ lúc nhà tôi nằm xuống, quý anh chị trong nhóm Gioan đã hết lòng giúp đỡ gia đình chúng tôi để mọi sự được tốt đẹp. Còn gì cảm động hơn, ngay tối thứ Ba có sinh hoạt Trường Lãnh Đạo, tất cả quý anh chị thay vì đến TLĐ, đã đến tận tư gia hiệp thông với gia đình chúng tôi cầu nguyện cho anh, linh hồn Antôn. Một nghĩa cử vô cùng cao đẹp của tình bác ái được thể hiện bằng xương thịt “Lời Chúa đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta Jn 1, 14)”. Lòng Xót thương của Chúa trên gia đình tôi còn được thể hiện qua Thánh lễ an táng. Sáng hôm ấy trời mưa tầm tã, gió lạnh đến thấu xương. Người trong gia đình còn thấy ngại ngần thế mà Thánh Lễ được thật nhiều người đến tham dự cầu nguyện cho người bạn đời của tôi..Trên cung thánh gia đình chúng tôi chỉ nghĩ có cha quản nhiệm làm chủ tế,  nhưng diệu kỳ thay có thêm 4 vị linh mục với tấm lòng người mục tử nhân hậu đã hoàn toàn vì tình thương  chẳng quản ngại đường xá xa xôi đã đến dâng lễ cầu nguyện cho anh. Tôi chỉ biết cúi đầu Tạ Ơn Chúa và ngẫm nghĩ “ Không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được (Lc 1,37)” .

Thiên Chúa không chỉ tỏ tình thương của Người trong lúc người bạn đời của tôi ngã bệnh, lúc anh nằm xuống mà cho đến ngày hôm nay Người vẫn quảng đại ban phát trên gia đình chúng tôi bao nhiêu ơn lành hồn xác. Nhất là sự bình an nội tâm. Những ước mong trước kia khi còn sống anh chưa thực hiện được, thì ngày hôm nay dần dần Chúa đã cho hoàn tất.Từ ngày bố mất, các cháu lại trở nên gần gũi với ông bà và mẹ hơn. Quý nhất là cháu trai nhỏ vì thương tôi và có lẽ ý thức được một phần trách nhiệm của mình nên đã phụ giúp tôi chăm sóc ông bà..và sáng nào cũng dậy sớm trước vài phút để lần chuỗi Lòng Thương Xót cầu nguyện cho bố.

Giờ đây, sau biến cố đau thương này, đã 9 tháng 3 ngày trôi qua, càng ngày tôi càng xác tín sâu xa  Thiên Chúa Toàn Năng và muôn đời yêu thương là  ĐẤNG EMMANUEL ĐÃ, ĐANG VÀ MÃI MÃI Ở CÙNG CHÚNG TA

Xin  tiếp tục cầu nguyện cho Linh Hồn Antôn. Gia đình chúng tôi hết lòng Chân Thành Cảm Tạ.

Maria Vân Anh

CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN IV

CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN phần IV
Phan Sinh Trần
09/2013.
Từ phần III của loạt bài này, tôi cho rằng Bạn vẫn còn đang thắc mắc, không biết những sự “chạm vào lòng con” trong khi Ca Ngợi Chúa đó, có thực mang lại một sự ích lợi gì hay ý nghĩa nào không ?
Vâng , đã có nhiều thay đổi, như trong trường hợp của Chị N, sau những lần được Chúa tỏ mình ra cho và biết rằng không có gì ở trên đời quí giá bằng một đời sống làm con của Thiên Chúa , đời sống Chị đã hoàn toàn thay đổi, Chị khao khát tìm kiếm Chúa, đi khắp nơi, không biết mệt, để làm chứng cho Chúa, chị đã về Việt Nam đôi ba bận, làm chứng cho Chúa tại những vùng xa xôi hẻo lánh nhất, vùng mà dân chúng nghèo khổ nhất như Cà Mau, Tây Ngu­yên, Miền Trung. Chị cũng đã bỏ cả “job” để đi làm chứng cho Chúa. Tại Cà Mau, có lần chị bị du kích xã triệu về văn phòng, gặp Chủ Tịch xã, không chút ngại ngần, Chị đã nói về Chúa cho Chủ Tịch Xã , thay vì bị no đòn vì tội giỡn mặt chính quyền, như đã từng xảy ra với các nhà truyền đạo khác, hay bị tù đầy, Chị lại được phép tiếp tục qui tụ mọi người lại nhà người quen để tiếp tục ca ngợi Chúa, tình yêu của Chị, sức mạnh của Chúa Thánh Linh qua ơn đổi mới và chữa lành đã đem về cho Chúa nhiều anh chị em Tân Tòng. Ngay cả tại Texas, USA, đã hơn 4 năm qua, Chị dùng nhà của mình làm nơi ca ngợi Chúa, kính Mẹ Maria, mỗi tuần hai đến ba lần, mỗi lần từ 2 đến 3 giờ trở lên. Người tham dự hầu hết là Tân Tòng, nhờ được ơn mà đi theo Chúa. Sự đụng chạm của Chúa Thánh Thể đã làm nên kỳ tích trong đời sống chị N, ơn Chúa ban cho rất nhiều, cần cả mấy bài mới nói hết.
Còn tôi thì sao khi được Chúa đụng chạm? Như Bạn đoán đó, phần tôi thì ít ỏi hơn Chị N nhiều , vì chỉ là hưởng phần sót lại thôi mà, nhưng ơn đụng chạm của Chúa cũng đủ cho tôi thao thức ngày đêm và viết lên lời làm chứng để gởi tới Bạn trong giờ này. Ơn đụng chạm của Chúa làm cho tôi nay ước ao được nói về Chúa, điều mà tôi rất ngại ngần và luôn cảm phục lòng can đảm nói về Chúa của Anh Chị Em Tin Lành. Nay thì tôi hiểu được, nếu khám phá ra Chúa thực sự là một kho tàng vô giá, môt kho tàng vô tận, thì ai mà không ước ao nói về Chúa, ai mà không thấy nhu cầu khẩn thiết phải thông báo cho Bà Con mình về kho tàng này để cùng hưởng dùng đến muôn thuở, khôn cùng. Không thế mà thánh Phao lô đã phải thốt lên: “Khốn cho tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng!” (1Corinto 9:16)
Hãy bắt đầu bằng những buổi Ca ngợi, thờ phượng Chúa hết lòng rồi chúng ta sẽ cảm biết Chúa kính yêu cùng với ơn Cứu Độ của Ngài tuyệt vời và vô giới hạn như thế nào.
2. Ca ngợi Chúa để chiến thắng vực thẳm u tối của nền văn minh sự chết, hơn lúc nào hết ta cần cầu nguyện vì sự sụp đổ của gia đình ở mọi quốc gia, vì sự lên ngôi của bạo lực khi mà bắn giết, cướp đoạt xảy ra khắp nơi, vì tôn giáo mất sức hấp dẫn và suy thoái, vì muôn vàn vấn nạn của thời đại… Tuy nhiên, Bạn đừng lo buồn , thất vọng vì khi có càng nhiều u tối thử thách thì ơn Chúa lại ban xuống càng nhiều, chưa bao giờ hồng ân Chúa ban lại đầy dẫy như thời này, khi mà Cộng Đoàn nào hết lòng thờ phượng Chúa cũng có thể trải nghiệm vinh quang và quyền năng của Chúa Thánh Thần giống như thời Hội Thánh Sơ khai. Qua sự Ca Ngợi, thờ phượng Chúa , Ngài đã ban cho rất nhiều ơn diệu kỳ như lời Chúa hứa về ơn phước dành cho con cái vào thời mạt vận thế gian:
Sẽ xảy ra trong những ngày sau hết, Thiên Chúa phán:
Ta sẽ đổ Thần khí Ta trên mọi xác phàm.
…………
Ta sẽ tung ra điềm thiêng tại trời trên cao,
cùng những dấu lạ trên đất phía dưới, máu cùng lửa và khói hơi nghi ngút.
Mặt trời biến thành tối tăm,và mặt trăng sẽ thành máu,
trước khi đến Ngày vĩ đại huy hoàng của Chúa… (Công vụ Tông đồ 2:17-20)
Vậy Tôi và Bạn chúng ta đừng sợ hãi nhưng hãy cùng nhau ca ngợi, thờ phượng Chúa để có thể thắng được các khủng hoảng điên loạn bủa vây giới trẻ, bao vây các gia đình, thắng các làn sóng vật chất đang cuốn đi mọi thế hệ vào vực thẳm tối tăm, … trong hoảng loạn , tôi chỉ có thể tìm thấy bằng an vượt thắng cám dỗ nhờ Ca Ngợi Chúa. Sau đây là kinh nghiệm của hai Bác H và N về cầu nguyện cho con.
Chuyện xảy ra khoảng năm 2005 , ngày đó cả hai Bác H và N đều có vấn nạn về gia đình . Trường hợp của Bác H thì nhẹ hơn, cô con gái lớn của Bác chỉ muốn lấy một Anh bên lương, ngặt một nỗi anh này không muốn đi Đạo , chỉ muốn kết hôn theo nghi thức đời và sống chung thôi. Điều này hoàn toàn cấm kỵ đối với Bác H, một người luôn muốn con cái mình được hạnh phúc vì bắt đầu bằng một gia đình yêu mến Chúa. Bác cầu nguyện, khóc lóc, khuyên răn nhưng không có hiệu quả vì con gái Bác đã quá yêu anh chàng sau một thời gian mấy năm hẹn hò. Cô nói sẽ lấy Anh ta bằng bất cứ giá nào !. Bác H đến Nhóm Ca ngợi Chúa , dâng con mình lên cho Chúa và cùng nhóm cầu nguyện cho Cháu thêm ơn khôn ngoan để quyết định. Rồi vài tháng sau, vào một buổi cuối tuần đẹp trời, Cô gái lớn của Bác đã ở nhà không đi hẹn hò với Anh Chàng nữa và nói với mẹ một cách nhẹ nhàng, “Con tính hoãn lại ít lâu để xem có hợp nhau không ?”. Nhóm và Bác càng gia tăng ca ngợi Chúa , và cầu nguyện thêm nhiều, rồi đến vài tuần sau thì cô gái quyết định “không tiến đến hôn nhân” vì không hơp. Bác thử hỏi cô, “chịu nổi chia tay không ? tình đầu đó hỉ”. Cô nói, chịu được . .. Đúng là như vậy, có Chúa giúp thì chịu được chứ! bẳng đi đã 7 năm trời , nay Cô gái này đã thành hôn với người khác và có một gia đình yêu mến Chúa rất hạnh phúc , Chồng rất tốt đạo và bày con ngoan. Chúng tôi nói đùa với Bác H rằng “ Ca ngợi Chúa có thể thay đổi cả người tình đầu “.
Trường hợp của Bác N thì khó khăn, nặng nề hơn, Con gái Bác đã thương một người đã ly dị vợ, anh này vốn ăn nói duyên dáng và đẹp trai , làm cho nhiều cô mê mẩn, Anh là một người dày dạn kinh nghiệm trong tình trường. Con Gái Bác N cũng không ra ngoài lệ, Cô yêu chết mê, chết mệt, Cô tuyên bố nếu Mẹ không chịu thì dọn ra sống chung với Anh chàng, Cô “không thể sống nổi nếu không có Chàng”. Thoạt đầu , Bác N lo lắng tưởng phát điên lên được, nhưng rồi bình tâm lại, Bác lo làm tuần cửu nhật cầu nguyện Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp liên tiếp, hết đợt này đến đợt khác , kéo dài trong sáu tháng và đến Nhóm xin cầu nguyện, Bác bền bỉ cảm tạ Chúa vì tin vào điều Chúa sẽ làm cho con gái, cho nó nhận ra tình yêu thật ở đâu, Bác Ca Ngợi Chúa vì Chúa yêu con gái bác còn hơn chính Bác nhiều, Bác hoàn toàn phó thác “nó” cho Chúa mỗi khi lo lắng làm cho tinh thần Bác gần như phát điên.
Đến một ngày, cô con gái bỗng khám phá ra vẻ đẹp của Chàng chỉ có ở bên ngoài và không thực ở bên trong, tê hơn nữa, cô khám phá ra là Anh chàng còn có cả tá bạn gái đang ngày đêm hẹn hò và Chat , Email tới tấp vì bận bịu như vậy nên Anh không có nhiều giờ làm việc và nhiều giờ cho Cô. Lòng Cô như khô cứng lại và không còn thấy vẻ hấp dẫn, thu hút đó của Anh chàng là quan trọng, cô thấy cần đến một cái gì bên trong. Một ngày nọ, Cô chạy đến xin lỗi Mẹ và nói “con thôi không gặp Anh và nói Anh ta đừng đến gặp con nữa”. .. Ngày nay, thì cô đã lập gia đình với một con cái Chúa, rất hạnh phúc bên người chồng Tiến Sĩ của mình cùng mấy đứa con vừa xinh như Mẹ, vừa giỏi như Bố. Ca ngợi Chúa đã mang đến chiến thắng cho Bác N bên bờ vực sụp đổ. Ca ngợi Chúa đã chữa lành cho lo lắng của Mẹ và tránh đi yêu lầm của Con.
Thực ra , thì Chúa chăm sóc cho mọi gia đình, Gia đình chị N có con trong băng đảng, gia đình tôi có con ở tuổi chứng, quậy cãi om xòm… Cũng vậy, các người con đó đều được ơn đổi mới và muôn ơn lành khác nhờ Bố Mẹ chạy đến Chúa trong Ca Ngợi và dâng con mình, vấn nạn của mình cho Chúa. Bạn hãy thử Ca ngợi Chúa hết lòng đi, cho biết Chúa ngọt ngào dường bao khi Ngài chăm lo cho Bạn, cho con cái Bạn, cho người thân của Bạn !!!
3 Hãy hát mừng Người một bài ca mới,
hãy tấu nhạc du dương trong tiếng hò reo.
….
9 Hãy nếm và xem Yavê tốt lành nhường bao!
Phúc cho ai ẩn náu bên Người!
(Thánh vịnh 33-34)
Phan Sinh Trần

CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN III

CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN III
Phan Sinh Trần
09.2013
Bạn có bao giờ cảm thấy lòng lâng lâng tin yêu Chúa khi hát những bài thánh ca lúc Nhập Lễ, lúc Rước Lễ không ? Vâng, tôi biết Bạn cảm thấy điều đó nhiều lần, tôi cho rằng đó là một khởi đầu tốt trong sự Ca Ngợi Chúa. Đã có “Sự Đổi Mới” cùng với muôn vàn ơn phước trong đời sống các Thánh khi họ ca ngợi, thờ phượng Chúa hết lòng, hết sức vì Kinh Thánh đã hứa: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Gioan I: 15). Một khi ta được ở trong Chúa, thì đương nhiên sẽ có đầy tràn ơn sủng vì Chúa vốn là nguồn của mọi sự thay đổi tốt đẹp, mọi ơn chữa lành, mọi ơn lành khác.

  1. 1. Chúa có quà tặng khi ta ca ngợi Ngài , tôi xin chia sẻ về một chuyện vui vui về ca ngợi, số là Mùa lễ Tạ Ơn năm 2009, Gia đình tôi đã muốn mời Nhóm Sinh hoạt trong Giáo Xứ đến nhà để họp mặt nhân dịp Lễ Tạ Ơn. Vợ Chồng chúng tôi chuẩn bị thức ăn đãi khách, vì là ngày lễ tạ ơn, chúng tôi đã làm món gà tây đút lò như thông lệ ở mọi nơi trên nước Mỹ. Vào ngày lễ Tạ Ơn, nhà nhà làm món gà Tây, văn phòng, hãng xưởng cũng đãi nhân viên bằng món truyền thống gà Tây, giầu nghèo gì cũng độc một món gà Tây đút lò, gà Tây chiên. Theo khẩu vị người Việt thì đây là một món khô khan và mau ngán.
Khi đó hai vợ chồng chúng tôi, đã vừa làm vừa hát Ca Ngợi Chúa rất là tâm đắc và ăn khớp với nhau. Chúng tôi hát những bài ưa thích, “Lời Ngài là sức sống đời con”, “ I love you Lord and I lift my voice to worship you” … Mọi sự chuẩn bị về đồ ăn, thức uống đã diễn ra khá là suôn sẻ, đến khi các Anh Chị Em trong Nhóm đến và thưởng thức món ăn, ai cũng trầm trồ là “chưa bao giờ ăn món gà tây đút lò mà lại ngon như vậy”. Thật là ngộ ! vì, đây là món lặp lại ở mọi nơi, ăn nhiều rôi nên không có gì hấp dẫn, nhưng mà … gà Tây cộng với sự ca ngợi Chúa vào hôm đó , đã là một món ăn rất đắt hàng, Chúa biến nó thành một món ăn ngon độc đáo như lời thực khách nhận xét “chưa bao giờ ăn gà tây đút lò nào mà ngon như thế ! ”. Có lẽ lời khen này là một sự thực vì kể từ đó đến nay, chưa bao giờ cả nhà tôi và các Anh Chị Em khác đã có dịp thưởng thức gà Tây với cùng chất lượng như lần đó mặc dù cách làm và công thức vốn đều giống như nhau. Thực là một sự chăm sóc, tỉ mỉ của Chúa, Ngài ban cho một món quà nhỏ, vui tươi cho cả Nhóm , gồm Chủ và Khách khi chúng tôi vừa làm món ăn vừa Ca Ngợi Chúa. Cũng có cách giải thích khác là khi ta ăn trong tâm tình yêu mến và cảm thông thì món ăn sẽ ngon hơn. Dù là cách giải thích nào đi nữa thì đó cũng là một bầu khí tốt lành, và một sự suôn sẻ đặc biệt mà Chúa ban cho bắt đầu bằng sự Ca Ngợi phải không Bạn ?
  1. 2. Ca Ngợi đích thực thì có sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa: Lời hứa của Chúa Giê Su là… đâu có hai, ba người họp lại nhân danh Ta, thì có Ta ở đó, giữa họ”. Chỉ cần hai ba người cầu nguyện thôi là đã có Chúa rồi huống chi ta có cả Nhóm hết lòng ca ngợi thì Chúa sẽ ngự đến, Ngài hiện diện với đầy oai quyền trong khi chúng ta cùng ca ngợi Chúa. Dịp mùa Chay năm 2008 , Nhóm chúng tôi cùng với các Nhóm khác dự tĩnh tâm và chầu Chúa Thánh Thể tại tu hội Tận Hiến , Texas. Chúng tôi ca ngợi Chúa Thánh Thể trong giờ chầu rất hăng say và sốt sắng, đến cuối buổi chầu, Cha Duy An Nguyễn manh Hùng đã rước Chúa Thánh Thể đi từng hàng ghế để chúc lành cho mỗi người tham dự. Khi Chúa đi đến hàng ghế của gia đình Chị N, thì mọi người trong hàng ghế này gồm chồng, em và người nhà đều té nhào, đổ rụp xuống giống, họ như cây chuối đổ xuống trong cơn gió bão lớn . Chị N hét lến “ Chúa ơi , con thờ lạy Chúa, con tôn vinh Chúa, con biết Chúa rồi, con biết rồi …” còn anh T chồng của chị N thì vừa té vừa rên rỉ “Lạy Chúa , Lạy Chúa”. Khi đó tôi đang quì ở hàng ghế sát phía sau, Tôi cũng té nhào, chúi nhủi còn bao tử tôi thì nó nâng lên hạ xuống đến mấy lần một cách vi veo. Chưa bao giờ trong đời tôi ở trong tình trạng bao tử lên xuống với biên độ lớn như vậy, cho dù là đi máy bay vào ngày trời giông tố . Tôi thắc mắc, Chúa Thánh Thể đã ban ơn gì cho Chị N . Tới khi Chị N, vốn là tín hữu mới tin Chúa được 1 năm lên chia xẻ và làm chứng cho mọi người về ơn Chúa , chúng tôi mới vỡ lẽ: vì là người bên lương khi trước, nên theo thói quen, chị đã cầu nguyện theo lối dân gian như vầy:
Lậy Chúa , nếu Chúa đang hiện diện nơi đây thì xin Chúa hãy đụng chạm vào lòng con và lòng Anh Chị Em chung quanh .
Và Chúa đã nhận lời Chị, Chúa tỏ uy quyền của Ngài cho Chị và những người chung quanh trong một buổi cầu nguyện Ca Ngợi lòng thương xót Chúa rất sốt sắng.
  1. 3. Ca Ngợi Chúa có thể làm cho mình tha thứ, làm cho mình thay đổi đến mức độ hoàn toàn. Vì trong khi ca ngợi Chúa, nếu mình còn oán giận ai, thì mình sẽ không được Chúa nhận lời, lời ca ngợi của mình trở nên khô khan và vô nghĩa giống như nó đi vào hư vô và hoàn toàn không có sự hiện diện của Chúa trong lúc minh ca ngợi nữa, điều này sẽ thôi thúc lương tâm ta mau chóng làm hòa với người mà mình giận hờn để lại được có sự hiện diện của Chúa trong đời sống ca ngợi của mình, trường hợp này, thật là giống đúng như Lời Chúa căn dặn trong Kinh Thánh: “… hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,24).
Có một chị luật sư nọ, đã chia sẻ trong Nhóm của chúng tôi, khi chị bị một người bạn thân nói xấu và làm thiệt hại về uy tín và tình cảm, Chị buồn bã và tức giận vô cùng, không thể nào chấp nhận được một người thân của mình đã có hành xử coi thường và bêu xấu đời tư, thực là một diều kị cho uy tín của một người hành nghề liên quan đến công lý như Chị, đó là chưa kể tâm lý của nghề “ Thày cãi “ đòi hỏi phải làm cho ra ngô, ra khoai cái việc nói xấu vô lý này. Chị đã không thể ngưng lại lòng căm ghét và nghĩ xấu cho bạn, Chị liền vào phòng riêng ca ngợi Chúa trong khoảng 45 phút , càng hát nhứng bài hát tâm tình về lòng bao dung và độ lượng của Chúa kính yêu thì Chị càng thấy lòng nhẹ nhàng, thư thái. Đến khi ca ngợi Chúa xong, thì Chị đã có thể hoàn toàn quên đi lỗi lầm của người Bạn. Ca ngợi Chúa thật là có sức biến đổi lòng người , từ oán giận thành tha thứ , từ ghét bỏ thành chấp nhận và thông cảm.
Tôi cũng đã thử cách này của Chị, tôi là một người khi nóng giận với vợ thì lỗ mãng và nói nhiều câu làm cho vợ đau khổ cả nhiều năm trời, tôi lại còn có cái tự tôn và kiêu ngạo ngầm. Có những lần, bất đồng ý kiến, tôi cãi nhau với vợ tới mức muốn bùng nổ căn nhà. Áp dụng cách của Chị luật sư , khi cãi nhau đến mức nặng tệ , tôi bỏ đi, lái xe đến sân nhà thờ, ngồi trong xe, tôi xin lỗi Chúa và ca ngợi Chúa, khi đó thường thì Chúa sẽ làm cho mình nhìn thấy cái lỗi lớn là sự nóng nảy, hiếu thắng của mình, rồi tiếp tục trong tinh thần nhẹ nhàng, thanh thản của Ca ngợi tôi sẽ không còn coi phần ai thắng, thua , ai phải, ai sai là quan trọng nữa, và cho đến cuối buổi ca ngợi thì tôi đã có thể cầu nguyện cho người mà mình vừa cãi vã. Khi đó , việc quay về nhà để xin lỗi vợ, ôm hôn vợ sẽ trở nên là việc đương nhiên và dễ dàng , mặc dù chỉ vài giờ trước mình còn coi vợ như kẻ không thể nào ở chung. Tôi nhận ra rằng, chỉ có Chúa qua sự ca ngợi mới có thể thay đổi lòng tôi cách chóng vánh như vậy mà thôi. Cũng có lần giận một thày Phó tế nọ về cách điều hành lớp Giáo lý , tôi đã mất Chúa cả mấy tháng trời vì Chúa đã nói rồi hãy để của lễ lại đó …, đi làm hòa với người anh em ấy đã nếu như tôi không làm được thì Chúa không thèm nhìn đến những lời ca ngợi vô nghĩa , của tôi. Rồi trong một dịp ca ngợi Chúa trong Thánh lễ, được ơn Chúa thúc đẩy, tôi đã chay ra bắt tay và làm hòa với Thầy.
Như vậy, từ thái độ quên đi cái “TÔI” lớn bự đến chỗ có một tâm tình hết sức đơn sơ như trẻ em và tùy thuộc vào ý Chúa, khao khát làm theo ý Chúa . Tất cả, tôi đã chỉ có thể có được khi ca ngợi và kết hợp với Chúa.
Ơn đổi mới được ban cho người Ca Ngợi Chúa về mọi mặt nhất là về tinh thần, tính hạnh và tình yêu thương. Thực ra, “Sự Đổi Mới” trong đời sống mình khi ca ngợi sẽ là mấu chốt của mọi ơn khác, ơn lành phải bắt đầu từ nơi chính người ca ngợi Chúa trước rồi lan sang cho người mà mình muốn cầu nguyện cho.
Bạn ơi, chúng ta hãy cùng bước vào trong sự hiện diện của Chúa bằng cách ca ngợi Chúa với hết linh hồn, hết tâm tình như Vua Đa vít xưa, để chính hôm nay, Bạn được cảm biết cụ thể rằng Chúa Giê Su ngọt ngào, thương xót, thánh khiết và đẹp đẽ dường nào qua muôn vàn ơn phước mà Chúa ban cho.
Hãy hoan hô Yavê, toàn thể cõi đất,
hãy phụng thờ Người trong niềm hoan vui,
hãy đến trước nhan Người trong tiếng hò reo! (Thánh Vịnh 100: 1-2)
Phan Sinh Trần

Què quặt 26 năm, nhờ đọc kinh Mân côi, Mẹ Maria đã cho khỏi

Què quặt 26 năm, nhờ đọc kinh Mân côi, Mẹ Maria đã cho khỏi

Ông Phêrô Sửu, thuộc giáo xứ Thanh Hóa, Bảo Lộc, giáo phận Đà-lạt, đã kể lại việc mình được ơn lạ đặc biệt của Đức Mẹ như sau:

“Năm ấy tôi lên 14 tuổi, cha mẹ cho tôi đi học. Một hôm bỗng thấy hai đầu gối tê tê, buồn buồn, có phần đau nhức… đang đi có lúc phải ngồi bệt xuống, một lúc lâu mới đứng dậy được. Về mách với mẹ, mẹ lại mắng:

– “Cứ vật nhau mãi với trẻ con, đau gì mà đau!”

Chừng một năm tôi không còn đi được nữa, bấy giờ cha mẹ mới lo tìm thầy chạy thuốc, nhưng quá rồi, vô ích, tiền mất tật mang, nhà nghèo hết tiền uống thuốc. Cha tôi bảo:

– “Thôi, nó chịu tật vì bệnh gia truyền rồi, ông nội nó cũng vậy, chịu què đến chết, không tài nào chữa được.”

Tôi nay què thật. Sau đó hết đau nhưng đã thành tật: Chỉ ngồi, muốn xê dịch phải nhảy chồm như con cóc, hai bàn tay thành chín dạn, ai thấy cũng cười, trẻ con chế nhạo! Nhưng Chúa thương, cho tôi làm việc như người lành lặn. Tôi chuyên môn làm nghề đơm tôm cá. Người ta lội xuống nước đến đầu gối; tôi lội xuống thì nước đến cổ, đến cằm, thế mà tôi vẫn kiếm được nhiều cá, tôm hơn người và mẹ tôi đi bán cũng đắt hàng hơn người khác, khiến có người ghen: có tật có tài. Phần tôi, tôi tin chắc Đức Mẹ thương vì gia đình tôi nghèo, cha tôi yếu bệnh, đến khi tôi được 30 tuổi thì cha tôi không làm gì được nữa, chỉ còn mẹ, tôi và một em gái. Cha tôi bây giờ chỉ lo đi giúp đỡ kẻ liệt, đọc sách, mời cha xức dầu hoặc đưa của ăn đàng .v.v…

Một hôm cha tôi giúp một kẻ liệt nhà giàu, ông có nhiều ảnh thánh, hôm ấy ông mua được bức ảnh Đức Mẹ mới tinh, về treo trên bàn thờ, còn bức ảnh cũ ông bảo treo nhà dưới. Đó là ảnh Đức Mẹ hồn xác lên trời, cha tôi xin, ông liền cho ngay; cha tôi mang về bảo tôi sửa bàn thờ và treo lên rồi bắt tôi mỗi ngày ba buổi: sáng, trưa, tối đến trước ảnh đó ngắm và đọc 50 kinh mân côi, cầu xin với Đức Mẹ cho đứng lên được mà đi nhà thờ cho người ta khỏi chia trí. Tôi mừng lắm, tuân theo lời cha dạy, mỗi lần đến trước ảnh Đức Mẹ, tôi lần chuỗi sốt sắng và tha thiết cầu xin với Mẹ, cho tôi đi đứng như thường, kẻo mỗi lần lên rước lễ mà nhảy như cóc thì cả nhà thờ chia trí lắm.

Thi hành như lời cha dạy được bốn tháng, một hôm, tự nhiên tôi muốn đi xưng tội mà nhà tôi ở xa nhà xứ độ ba cây số, đường đất bị mưa lầy lội, nếu tôi cứ chồm nhảy sẽ lấm bẩn hết quần áo. Vì thế mẹ tôi phải cõng đi. Nhưng vì già yếu, cõng được một quãng thì mệt, liền đặt tôi xuống, tôi cởi áo quần dài, mặc quần cụt nhảy mà đi để mẹ tôi khỏi phải cõng. Đến nhà xứ, vào nhà quen trọ, thôi thì người lớn trẻ con bu nhau lại xem tôi và cười nhạo. Tôi xấu hổ quá, nhưng cắn răng chịu đựng. Tối đến tôi nhảy đi xưng tội. Sáng mai, tôi nhảy đi lễ, ngồi tựa cột dưới cuối nhà thờ. Lúc lên rước lễ, tôi nhảy lên làm cho mọi người chia trí. Sáng ngày thứ hai, tôi nhảy ra nhà thờ thật sớm, lên ngồi với trẻ con cho gần cung thánh để dễ nhảy lên rước lễ. Nhưng lúc đọc Phúc Âm, mọi người đứng lên cả, tôi cứ ngồi, liền bị ông quản vụt cho một roi và mắng:

– “Thằng lười, Phúc Âm mà không đứng! Đi lễ làm gì!”. Tôi đành nín thinh chịu trận.

Sáng sau hết, tôi đi lễ không dám ngồi với trẻ con nữa, tìm cột cuối mà dựa. Lễ xong, mọi người ra về cả, một mình tôi ở lại, tôi nài xin với Mẹ cho tôi được đứng lên dễ dàng, để đi lễ, rước Chúa .v.v… Tôi nài xin rất tha thiết, sốt sắng, thỉnh thoảng ngó xuống chân mà khóc… thầm thĩ giờ lâu, bỗng có tiếng lương tâm xúi giục “bám vào cột mà đứng”. Tôi liền bám hai tay vào cột, rướn mình lên, thấy nhẹ nhàng và đứng thẳng lên được. Tôi cứ đứng yên như người mê hoảng, chẳng biết gì, một lúc định thần lại, tưởng mình mơ, mà quả thật mình đã đứng được. Tôi bỏ hai tay ra, cám ơn Chúa và Đức Mẹ, ra cửa nhà thờ, nhưng sợ người ta thấy mà bỡ ngỡ, liền bỏ hai tay xuống mà nhảy như trước để về nhà trọ. Đến nhà, tôi đứng lên, kêu người nhà ra xem…cả nhà bỡ ngỡ vui mừng. Tôi từ giã nhà trọ trở về nhà mình. Cả nhà vui mừng quá, quì xuống tạ ơn Chúa và Đức Mẹ. Tin này vang ra nhanh chóng, nên làng nước tuốn đến hỏi thăm và xem sự lạ chật ních nhà. Bấy giờ tôi đã được 40 tuổi, bị què 26 năm. Từ lúc tôi đứng lên được, đi được, thì chân tôi nở nang lớn dần đều đặn như chân thường chứ không gầy còm khô đét như lúc có tật.

Đức Mẹ đã thương cho tôi khỏi què, tôi định sẽ “đi ở” giúp việc cho các cha, đêm ngày làm tôi Chúa, sau khi lo liệu gia đình cho em gái, nhưng thánh ý Chúa lại khác. Sau một năm lành bệnh, cha tôi tỏ cho tôi biết: năm trước đi giúp kẻ liệt, có một ông nhà giàu ốm nặng, trối lại: hễ ông chết, giao phó đứa con gái duy nhất của ông cho cha tôi, để cho con ông và con cha tôi thành gia thất, vì cô ta là con út mà mẹ đã mất. Cha tôi hỏi ý tôi, tôi xưng thú với cha, mình đã 42 tuổi, xấu xí, ai chịu ưng. Nhưng việc phải đến đã đến, cha Giuse Maria Uy, chánh xứ Phúc Lang, Thanh Hóa đã làm phép cưới cho chúng tôi. Chúa đã ban cho chúng tôi được tám đứa con, bốn trai bốn gái. Chúa cất về trời hai trai, hai gái lúc sơ sinh. Năm nay tôi đã 64 tuổi, tôi và bạn tôi định đăng lên báo chi ơn đặc biệt Đức Mẹ đã ban, để cám ơn và cao rao lòng nhân thành hay thương xót của Đức Mẹ, để tôi được thỏa mãn lòng đền ơn Đức Mẹ trước khi nhắm mắt.