CHÚA CHỮA LÀNH KHỐI U TRONG TỤY TẠNG

CHÚA CHỮA LÀNH KHỐI U TRONG TỤY TẠNG

Tác giả:   Dominico Minh

Vào năm 2010 tôi bị căn bịnh ăn không tiêu, lúc đầu thì tôi cho rằng vì cơ thể mình suy nhược mà ra, sau thì bệnh tình nặng lên thấy rõ hơn, tôi không thể ăn bất cứ một loại thức ăn nào có dầu mỡ, nếu ăn vào tôi sẽ bị trướng bụng lên ngay, chóng mặt buồn nôn và đi tiêu ra mỡ. Bệnh tình càng ngày càng nặng nề hơn, tôi không thể tiêu thụ thức ăn, không muốn ăn, sợ ăn vì bị hành hạ ngay sau khi ăn, người tôi gầy xọm và da xám vàng trông không còn sinh khí nữa. Sau cùng, Tôi đã bị các cơn đau ở vùng bụng hành hạ ngày đêm, đau đến gập người.

Cuối cùng thì bác sĩ ở Bệnh Viện cho biết tôi có một khỗi u trong tụy tạng. Sau một thời gian điều trị, tình trạng có vẻ bi quan nhiều, họ cho biết tôi còn sống dược khoảng 3-4 tháng nữa, tỉ lệ sống sót của bệnh này chỉ có 5% mà thôi; Tôi nghĩ, khi Bác sĩ nói tỉ lệ sống sót là 5% thì coi như thật ra tình trạng của tôi có thể là đã hết hy vọng rôi.

Theo tài liệu của Bác sĩ Trần lý Lê, trang tvvn.org thì Tụy tạng (pancreas) là một bộ phận trong hệ thống tiêu hóa (digestive system); tụy tạng*có hai*nhiệm vụ*chính:

Ngoại tiết (exocrine): tụy tạng tiết ra những chất lỏng (pancreatic juice) chứa phân hóa tố (enzyme) trong việc tiêu hóa
Nội tiết (endocrine): tụy tạng tiết ra nhiều kích thích tố quan trọng: insulin, glucagon, somatostatin, gastrin, và Vasoactive Intestinal Peptide (VIP).

Tụy tạng nằm trong khoang bụng,*sau dạ dày và cạnh ruột non. Tụy tạng*dài khoảng 15-25 centi mét, chia ra ba phần: đầu, thân và đuôi; phần đầu của tụy tạng nằm cạnh duodenum (phần đầu của ruột non) và đuôi tụy tạng nằm cạnh lá lách (spleen). Những chất lỏng tiết ra bởi tụy tạng theo ống dẫn, pancreatic duct, nằm dọc theo chiều dài của tụy tạng, vào duodenum, miệng ống dẫn có tên riêng là ampulla of Vater.

Tuyến tụy sản xuất các men tiêu hóa có khả năng tiêu hóa gần như tất cả các thành phần thức ăn. Cái bướu của tôi khá lớn, bướu phình to như một trái chanh lớn đường kính hơn 2 inches, ( 5cm ) trong tụy tạng.

Là mồt người có rễ ăn sâu trong Đức Tin vào Chúa Giê Su và Mẹ Maria, khi mà, tôi tuy không có một kế hoạch hoàn hảo cho giờ chết của mình nhưng tôi cứ tiếp tục với các sinh hoạt thường nhật, hăng hái tham gia họp hành, trong các đoàn thể công giáo tiến hành như Legio Marie, Liên minh Thánh Tâm, Tông đồ Fatima và các việc tông đồ khác . Đến lúc chót khi hoàn toàn suy kiệt về thể lý tôi đã tìm đến các Cha, các đoàn thể xin cầu nguyện. Trong giáo xứ của tôi có nhóm Thánh Linh, Canh tân đặc sủng, khi biết chuyện của tôi, các Anh Chị đã đến và họ đặt tay cùng cầu nguyện với tôi và cho tôi, những lời cầu nguyện chân thành và thống thiết:

– Lạy Chúa Giê Su kính yêu, người anh em của chúng con đang trong tình trạng suy kiệt mà chỉ có Chúa mới có thể chữa lành cho. Chúa đầy tình yêu thương của chúng con, chúng con xin dâng tình trạng của Anh Dominico cho Chúa vì Chúa có giải pháp tốt đẹp nhất cho Anh mà chúng con không biết hết dược xin Chúa làm cho danh Cha, vinh quang của Cha được cả sáng qua đời sống của Anh, qua bệnh tình của Anh.

– Lậy Chúa, giáo xứ chúng con vẫn rất cần những con chiên sống động và nhiệt thành, xin Chúa cho Anh Dominico tiếp tục có điều kiện hiện diện trong Giáo xứ với các công việc anh đang nhiệt thánh cộng tác trong các đoàn thể. Xin sự an ủi của Chúa, tình yêu của Chúa luôn tràn trề trong dời sống của Anh và gia đình Anh. Xin nhìn đến sự vất vả của Chị và các Cháu khi trông nom chăm sóc cho Anh.

Có những anh chị em Thánh Linh đã hăng hái kiêng ăn và cầu nguyện cho tôi. Tôi còn thấy họ rầm rì cầu nguyện bằng tiếng lạ nữa.

Sau một thời gian thì khối u đã biến mất một cách bí mật, diệu kỳ và chóng vánh, sức khỏe hồi phục lại bình thường, lòng đầy sự biết ơn Chúa Mẹ, tôi đã âm thầm giúp cho các đoàn thể, tôi đi nấu ăn cho các kỳ tĩnh tâm dọn mình chuẩn bị làm con Chúa của các Anh Chị Em học viên lớp Tân Tòng hàng năm ở Khu Tĩnh Tâm Palacios, Texas. Đến nay, tôi đã được khỏi bệnh 4 năm rồi và vẫn còn đang hăng hái sinh hoạt trong các đoàn thể của Giáo Xứ.

Ngày hôm qua, sau thánh lễ vọng Phục Sinh, có một Anh trong Nhóm Thánh Linh đã đến hỏi thăm về tình trạng sức khỏe của tôi, khi biết khối u đã biến mất một cách diệu kỳ, thì Anh đã thốt lên rằng đó chính là do bàn tay chữa lành đại tài của Chúa Giê Su kính yêu, tôi sực nhận ra điều này và hoàn toàn đồng ý với Anh về sự chữa lành nhiệm mầu của Chúa.

Tôi cũng đã được anh mời, cùng tham gia với Nhóm Thánh Linh trong chiến dịch cầu nguyện cho một em bé sáu tháng, bị bệnh lạ “ suy năng lượng trong tế bào của cơ thể ”, em đã được Chúa cứu khỏi tình trạng thập tử nhất sinh, rời phòng cấp cứu, rời bệnh viện trở về nhà nhưng đây là bịnh cần đến sự can thiệp trực tiếp của Chúa vì Y khoa chưa biết rõ về bệnh này và chưa có liệu pháp chữa trị thích đáng. Y khoa đang bó tay, các Bác sĩ không biết cách nào để chữa cho em lành bệnh.

Tôi đã nhớ lại câu chuyện thú vị xa xưa:

Có một người bị đau nặng, tên là Ladarô, quê ở Bêtania, làng của hai chị em cô Macta và Maria. Cô Maria là người sau này sẽ xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Anh Ladarô, người bị đau nặng, là em của cô. Hai cô cho người đến nói với Ðức Giêsu: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang đau nặng.” Nghe vậy, Ðức Giêsu bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.” (Gioan 11, 1-4)

–  Con xin Chúa Giê Su rất đáng kính yêu tôn thờ cho em này, cùng với gia đình của Em, lớn lên trong tình yêu và phúc lành của Cha Trời. Nếu là tốt đẹp cho Em, xin cậy nhờ danh tên cực Thánh của Chúa chữa em khỏi mọi bệnh tật hiểm nghèo

Xin các bạn tham gia hiệp cùng với Cha Vũ Thành và Anh Chị Em Thánh Linh, Houston cầu nguyện cho em bé này. Xin Chúa kính yêu xin làm sáng danh Chúa trong dời sống của Em và trong gia đình Em.

TÔI ĐÃ ĐƯỢC LOAN BÁO TIN MỪNG

TÔI ĐÃ ĐƯỢC LOAN BÁO TIN MỪNG

(TÂM TƯ CỦA MỘT TÂN TÒNG)

Tôi sinh ra trong một gia đình đông con không Công giáo.  Hơn 30 năm trước, mỗi buổi chiều, tôi thường vừa nhảy lò cò vừa hát: “Đức Chúa Cha mua 3 múi mít, Đức Chúa Mẹ chê ít không ăn…”

Lớn lên chút nữa, tôi tò mò theo đám bạn học Công giáo vào nhà thờ hôn chân Chúa.  Hôn vào lỗ đinh, tôi sợ rợn người, nhưng trong lòng trộm hỏi: sao người ta yêu Chúa thế!  Sao Chúa Giêsu tội nghiệp lại để cho người ta đánh tả tơi!…

Nhà tôi gần xóm núi, mùa đông sương phủ trắng con đường dốc.  Thế mà từ 5 giờ sáng, tôi đã thấy các cụ già lọm khọm đi nhà thờ.  Không sót buổi nào!  Dẫu có mưa phùn hay gió thổi lạnh buốt.  Quá nể phục!  Tôi bắt đầu suy tư… Hẳn phải có một sức hút tâm linh rất mạnh mẽ nơi cái nhà thờ ấy…

Quê tôi rất nghèo.  Những năm 80 đói xác xơ!  Nhà tranh vách lá xiêu vẹo.  Một gia đình Công giáo vừa mới chuyển về mua lại căn nhà rách nát cạnh nhà tôi.  Nhưng điều lạ lùng là chỉ một tuần lễ sau, có một nhóm thanh thiếu niên độ mười mấy hai chục người kéo đến, kẻ vác cột, người kéo tranh…, chỉ trong một ngày là ngôi nhà đã được sửa chữa tươm tất!  Hỏi ra tôi mới biết cha nhà thờ cho người đến giúp.  À thì ra thế!  Hèn gì xóm đạo phía khu B nhà nào cũng vững chải khang trang, đâu có nhếch nhác như xóm kinh tế mới của tôi!  Hay thật!  Tôi ngưỡng mộ thèm muốn…

Nhưng chạnh lòng nhất là vào những dịp lễ, tết, Trung Thu hay vào cuối năm học, thiếu nhi nhà thờ luôn được tặng quà thêm, nhìn bọn nó xúng xính quà cáp trên tay, gương mặt rạng rỡ, đôi lúc còn được tổ chức cho vui chơi, bọn trẻ không Công giáo chúng tôi đứa nào cũng thèm thuồng và buồn thiu buồn thỉu… Có đạo sướng quá, vui quá, và được thương nhiều quá!

Năm nào cũng vậy, gần đến Giáng sinh thì trời càng trở lạnh.  Người ta kháo nhau: Đêm noel lạnh lắm!  Lạnh nhất đấy!  Mà đúng là đêm Noel trời lạnh thật!  Có cái gì đó nhiệm màu, thánh thiêng được thắp lên trong lòng tôi…

Tôi lên mười sáu.  Một anh thanh niên hay ghé nhà tôi chơi.  Anh thao thao nói cho tôi nghe về Chúa. Tôi ngưỡng mộ sự hiểu biết của anh lắm! (Sau này tôi mới biết là lúc ấy anh đang học giáo lý dự tòng, hôm trước nghe cha dạy gì thì hôm sau đem truyền đạt lại cho tôi thôi!)  Có lần tôi nài nỉ anh hôm nào rảnh thì dắt tôi đi nhà thờ với, anh trả lời tôi rằng: “Ừ, để khi nào tiện anh dắt đi.  Cha nói nếu như được ơn Chúa gọi mời thì trước sau gì cũng theo Chúa thôi!”… Từ ngày ấy, tôi ước mơ “được Chúa gọi mời”…

Thời gian trôi qua… anh đi đâu mà chẳng hề giã biệt tôi.  Lời hứa bỏ lơ lửng đó.  Tôi vùi đầu vào sách vở.  Hai năm sau tôi lên thành phố vào đại học.  Tất bật với cuộc sống, mơ ước của tôi cũng dần lãng quên… Bất ngờ tôi gặp lại anh ấy!  Rất tình cờ nhưng tôi xác tín rằng đó là định mệnh Chúa dành cho tôi.  Anh dắt tôi đi nhà thờ thật!  Ước mơ ngày ấy lại trỗi dậy trong tôi.  Tôi còn nhớ như in lần đầu anh dắt tôi đến nhà thờ Chúa Hiển Linh ở Phú Lâm, tôi đã rụt rè cầu nguyện chỉ có môt câu: “Chúa ơi!  Con chẳng biết gì về Ngài, nếu quả thật Ngài là Đấng quyền năng thì xin cho con biết Ngài và yêu Ngài với…!”

Rồi cứ thế, anh ấy đèo tôi trên xe đạp chiều chiều đi lễ… Rất nghèo nhưng rất vui…  Anh đưa tôi đi học giáo lý dự tòng rồi sau đó cùng nhau học giáo lý hôn nhân.  Tôi rửa tội tại nhà thờ Tân Thái Sơn. Cha mẹ tôi tôn trọng quyết định của tôi.  Ngày rửa tội, tôi không muốn khóc nhưng nước mắt cứ rơi ra!  Tôi đã mong đợi ngày ấy lâu biết bao nhiêu – cái ngày mà tôi được đón nhận mình Thánh Chúa!  Tôi cảm nhận một niềm thương chan chứa trong tâm hồn… Chúa thương tôi nhiều quá!  Lúc ấy và cho đến tận bây giờ, mỗi khi nghe một bài thánh ca xúc động vang lên, lòng tôi lại thổn thức… Chúa ơi!  “Chúa ghi vào hồn con dấu ấn của ngài…”

Tốt nghiệp đại học, chúng tôi cưới nhau.  Tôi mang trong mình một tham vọng lớn lắm!  Tôi sẽ dùng hết tài ăn nói khéo léo của mình để thuyết phục cha mẹ và anh em nhập đạo!  Hết lần này đến lần khác, tôi cố gắng kiên trì.  Cuối cùng thì tôi đón nhận được một ánh mắt nghiêm nghị của Ba tôi: “Từ nay con đừng bao giờ đem chuyện tôn giáo ra nói với Ba nữa, Ba không muốn nghe đâu!”  Anh em tôi thì chế nhạo “mở miệng ra là nghe sặc mùi Chúa!”

Tôi buồn.  Lòng nghe tái tê… Tôi thương cha mẹ anh em nhiều lắm!  Tôi tin mình tìm thấy Chúa là tìm thấy bến bờ yêu thương.  Dẫu trong khó nghèo, chúng tôi vẫn có một niềm bình an sâu lắng.  Bởi chúng tôi tin vào sự quan phòng của Chúa.  Lời Ngài đã dạy chúng tôi sống nhường nhịn, tha thứ, yêu thương.  Nhìn mẹ cha anh em sống tất bật trong cơm áo gạo tiền và bao nỗi lo toan cho xác thịt, không có một phút lo liệu cho phần hồn, tôi ái ngại cho đời sau!  Thương quá!  Nhưng không biết làm sao!..

Chúa đã dạy tôi qua miệng lưỡi một ai đó: đừng nói gì, hãy cầu nguyện đi!  Không có gì là Chúa không làm được!  Thế là từ đó tôi cầu nguyện.  Lúc sốt ruột, lúc ỉ ôi, lúc than thở…  Cha ơi!  Sao lại để con đến với Cha quá muộn màng!  Và sao Cha ôm con vào lòng mà còn để mẹ cha anh em con tăm tối!…  Năm năm, rồi sáu năm trôi qua, vẫn không có gì thay đổi.  Lòng tôi vẫn da diết nặng trĩu.  Có một lần tôi chợt nhận ra, nếu Chúa không để tôi đợi chờ mong mỏi, chắc lòng tôi chẳng có nỗi khát khao!  Biết đâu nếu gia đình tôi đạo gốc, tôi chẳng còn có nỗi niềm để thưa gởi, gắn bó với Chúa nữa thì sao?  Thật đáng sợ nếu một ngày nào đó lòng tôi lạnh nhạt, không có gì để nói với Cha, không còn ríu rít “Cha ơi!  Con đây, con dâng ngày của con trong tay Cha!”  Nhận ra điều này, tôi cảm tạ Cha…

Rồi đến năm thứ bảy.  Một lần về thăm quê, ba gọi tôi lại bảo: “Ba muốn theo đạo, con đi găp cha nhà thờ đi!”  Tôi nghe lùng bùng trong tai, không tin được.  Cảm tạ Chúa!..

Thế là ba, mẹ và bà nội tôi được rửa tội (Ông tôi đã mất).  Bảy anh chị em của tôi không theo đạo nhưng cũng đến nhà thờ dự lễ.  Tôi lại khóc thút thít trong nhà thờ.

Một năm sau, em trai kế và chị gái kế của tôi cùng con cái cũng lần lượt được rửa tội tại nhà thờ Tân Thái Sơn luôn.  (Đây là hai người trước đây hay chế giễu tôi nhất!..)

Còn đến 5 gia đình anh chị em của con nữa Cha ơi! Con xin đặt trong trái tim nhân hậu vô biên của Cha!

Con đường tôi đến với Chúa như thế đó!
Có bước chân lọm khọm của cụ già.
Có sự hăng hái vô tư của anh chị thanh niên.
Có sự tận tuỵ của vị chủ chăn và sự chăm lo của ban hành giáo.
Có tình yêu nâng đỡ của chồng tôi.

Và trên tất cả, là Cha yêu thương trên trời, là Giêsu chết treo trên thập giá, là Chúa Thánh Thần luôn ở giữa đời tôi.

Tôi tin Chúa ban tặng mỗi người một con đường riêng.  Con đường ấy mỗi ngày thêm một điều mới lạ, thêm một cụm cỏ, nhánh hoa từ lòng mến của nhau.  Tôi cảm tạ tất cả những người đã đi trên con đường cuộc đời tôi- tuy không dành cho tôi, nhưng đã để lại ấn tượng trong lòng tôi rất đẹp.  Những điều rất đời thường, tưởng chừng như sẽ rơi hút vào không gian.  Nhưng không, trong ơn Thiêng, nó sẽ được trau chuốt và đọng lại, rồi một ngày, đúng thời đúng lúc sẽ nở hoa…

Mẫu Bút Chì

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

 

Chứng cớ phục sinh

Chứng cớ phục sinh

TRẦM THIÊN THU

Chuacuuthe.com

VRNs (19.04.2014) – Sài Gòn – Ngôi mộ thực sự trống trơn. Chúa Giêsu phục sinh hay thi thể Ngài bị đánh cắp? Chắc chắn có điều bất thường đã xảy ra, vì những người theo Chúa Giêsu không còn khóc thương Ngài, che giấu Ngài, và bắt đầu can đảm rao giảng: CHÚA GIÊSU ĐÃ PHỤC SINH.

14041901

Các nhân chứng đều nói rằng Chúa Giêsu bất ngờ hiện ra với họ trong thân xác như trước khi Ngài chết, trước tiên Ngài hiện ra với các phụ nữ. Trong thế kỷ đầu, các phụ nữ không có quyền gì, số phận lép vế lắm. Thế mà chính Chúa Giêsu lại ưu tiên hiện ra với họ trước, nghĩa là phụ nữ là những người đầu tiên thấy Chúa Giêsu phục sinh. Thật là độc đáo vô cùng. Phụ nữ cũng là những người đầu tiên phát hiện ngôi mộ trống, được nói chuyện với Ngài và đi làm chứng về Ngài.

Sau đó, các tông đồ mới được thấy Chúa Giêsu, và thấy hơn 10 lần. Ngài cho họ xem tay chân và cạnh sườn và bảo sờ thử xem sao. Ngài còn ăn uống với họ, và có lần Ngài hiện ra với hơn 500 người đi theo Ngài.

Học giả John Warwick Montgomery cho biết: “Năm 56 sau công nguyên, tông đồ Phaolô cho biết rằng có hơn 500 người đã được thấy Chúa Giêsu phục sinh và nhiều người trong số đó vẫn còn sống (1 Cr 15:6-8). Điều đó không có nghĩa là các Kitô hữu thời sơ khai có thể dựng chuyện như vậy rồi rao truyền cho những người nhẹ dạ cả tin bằng cách làm ra thân thể Chúa Giêsu” (1).

Các học giả Kinh Thánh Geisler và Turek nói: “Nếu sự phục sinh không xảy ra, tại sao tông đồ Phaolô lại dám đưa ra con số nhiều các chứng nhân như vậy? Nếu không đúng, tông đồ Phaolô sẽ mất uy tín với các tín hữu Côrintô vì ông nói dối trắng trợn” (2).

Tông đồ Phêrô nói với đám đông ở Xê-da-rê về lý do ông và các tông đồ khác đã tin Chúa Giêsu sống lại: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giê-ru-sa-lem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại” (Cv 10:39-41).

Học giả Kinh Thánh Michael Green (người Anh) nói: “Những lần Chúa Giêsu hiện ra chính xác như bất cứ thứ gì cổ xưa… Không thể nói rằng những điều đó đã không xảy ra” (3).

Sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô là một sự kiện lịch sử đã thực sự xảy ra, không là huyền thoại như nhiều người vô thần đã nói. Các cuộc nghiên cứu khảo cổ vẫn tiếp tục phát hiện sự chính xác mang tính lịch sử của Kinh Thánh. Ngoài các sách Phúc Âm và sách Công Vụ, còn có những chứng cớ về sự hiện hữu của Chúa Giêsu phục sinh trong các tác phẩm của Flavius Josephus, Cornelius Tacitus, Lucian Samosata, và Tòa án Tối cao Do-thái (Jewish Sanhedrin).

Đây là 7 chứng cớ về sự phục sinh cho thấy Đức Giêsu Kitô đã thực sự trỗi dậy từ cõi chết:

1. Ngôi mộ trống

Ngôi mộ trống có thể là bằng chứng hùng hồn nhất về sự phục sinh của Chúa Giêsu. Có 2 lý do chính được những người không tin đưa ra: Ai đó đã lấy trộm xác Chúa Giêsu, hoặc các phụ nữ và các tông đồ đến không đúng mộ. Người Do-thái và người Rôma không có động cơ để cướp xác, còn các tông đồ quá nhát đảm và phải trốn quân lính Rôma. Các phụ nữ thấy mộ trống và không còn thấy xác Chúa Giêsu, họ biết chắc đó là mộ an táng Chúa Giêsu. Giả sử họ đến không đúng mộ, Tòa án Tối cao Do-thái có thể lấy xác ở đúng mộ để ngăn cản chuyện phục sinh. Vải liệm Chúa Giêsu được xếp gọn gàng trong mộ, kẻ trộm nào cũng vội vàng, không ai lại cẩn thận như vậy. Chính các thiên thần nói rằng Chúa Giêsu đã sống lại.

2. Các nữ chứng nhân đạo đức

Các nữ chứng nhân là bằng chứng rằng Phúc Âm là tài liệu lịch sử chính xác. Nếu được bịa đặt, không tác giả cổ nào lại dùng phụ nữ làm nhân chứng cho sự phục sinh của Đức Kitô. Phụ nữ là giai cấp công dân thứ yếu trong thời đó, chứng cớ của họ không được xem xét ở tòa án. Nhưng Kinh Thánh nói rằng Đức Kitô phục sinh hiện ra trước tiên với bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na và mấy phụ nữ đạo đức khác. Ngay cả các tông đồ cũng không tin bà Ma-ri-a khi bà nói về ngôi mộ trống. Chúa Giêsu luôn tôn trọng các phụ nữ này, Ngài đề cao họ bằng cách cho họ trở thành nhân chứng đầu tiên về sự phục sinh của Ngài. Các Thánh sử đã kể lại hành động lúng túng này, vì đó là cách nó xảy ra.

3. Các tông đồ can đảm

Sau khi Chúa Giêsu bị đóng đinh, các tông đồ đã trốn biệt trong các phòng khóa chặt cửa, sợ sẽ đến lượt mình bị lôi đi xử tử. Nhưng có sự thay đổi khác thường: Họ đang là những người nhát đảm trở thành những người rao giảng can trường. Bất kỳ ai biết bản chất con người thì đều hiểu rằng con người không thể thay đổi mau chóng như vậy nếu không có sự tác động lớn. Sự ảnh hưởng đó là được thấy Thầy sống lại từ cõi chết. Chúa Giêsu đã hiện ra với họ trong căn phòng còn khóa kín cửa, trên bờ biển Ga-li-lê, và trên núi Ô-liu. Sau khi thấy Thầy phục sinh, tông đồ Phêrô và các tông đồ khác đã ra khỏi phòng và đi rao giảng về Đức Kitô phục sinh, bất chấp mọi nguy hiểm có thể xảy ra với mình. Họ không còn trốn tránh vì họ đã biết sự thật. Cuối cùng, họ hiểu rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người và cứu mọi người thoát khỏi tội lỗi.

4. Biến đổi Giacôbê và những người khác

Cuộc sống biến đổi là một bằng chứng khác về Chúa Giêsu phục sinh. Tông đồ Gia-cô-bê, anh em họ với Chúa Giêsu, đã từng nghi ngờ không biết Chúa Giêsu có là Đấng Mê-si-a hay không. Nhưng sau đó, ông đã trở thành người lãnh đạo can đảm của giáo đoàn Giê-ru-sa-lem, thậm chí còn bị ném đá chết vì đức tin. Tại sao? Kinh Thánh nói rằng vì Đức Kitô phục sinh đã hiện ra với ông. Thật là cú sốc cho người anh em của ông còn sống, sau khi nghe tin này. Tông đồ Gia-cô-bê và các tông đồ khác cũng đều trở thành các nhà truyền giáo hăng say vì họ đã được thấy và chạm vào Đức Kitô phục sinh. Với các chứng nhân như vậy, Giáo hội sơ khai đã phát triển mau chóng, lan rộng từ Giê-ru-sa-lem tới Tây phương, tới Rôma và xa hơn nữa. Gần 2.000 năm qua, những người gặp được Đức Giêsu phục sinh đều thay đổi cách sống.

5. Đám đông

Đám đông hơn 500 người đã cùng nhau tận mắt thấy Chúa Giêsu phục sinh (1 Cr 15:6-8). Thánh Phaolô nói rằng đa số họ còn sống khi ông viết lá thư đó, khoảng năm 55 sau công nguyên. Chắc chắn họ nói với người khác về “sự lạ” này. Ngày nay, các tâm lý gia nói rằng không thể có số đông người như vậy mà chỉ là ảo giác cộng đồng. Các nhóm nhỏ cũng thấy Chúa Giêsu phục sinh, chẳng hạn như các tông đồ, ông Clê-ô-pa và người bạn đồng hành. Họ cùng thấy một sự việc, còn trường hợp các tông đồ, họ còn sờ vào Chúa Giêsu và xem rõ các vết thương của Chúa Giêsu, rồi tận mắt thấy Ngài ăn uống nữa. Không thể nào là ảo giác, vì sau khi Chúa Giêsu lên trời, họ mới không còn gặp lại Ngài.

6. Phaolô trở lại

Cuộc trở lại của Thánh Phaolô là bằng chứng mạnh mẽ về việc biến đổi cuộc đời mau chóng. Là Sao-lê cùa thành Tác-sô, ông là người bắt đạo dữ dội. Khi Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với ông trên đường Đa-mát, ông trở thành nhà truyền giáo của Kitô giáo. Ông chịu 5 lần đánh bằng roi, 3 lần đánh đập, 3 lần đắm tàu, 1 lần bị nén đá, chịu nghèo nàn và bị chế nhạo. Cuối cùng, hoàng đế Nê-rô của Rôma đã chặt đầu Phaolô vì tội không chịu bỏ niềm tin vào Đức Kitô phục sinh. Điều gì khiến Phaolô chịu cực hình như vậy? Các Kitô hữu tin rằng cuộc trở lại của Phaolô là nhờ ông đã gặp được Đức Kitô phục sinh.

7. Người ta dám chết vì Chúa Giêsu

Vô số người đã dám thí mạng vì Chúa Giêsu, chắc chắn sự phục sinh của Chúa Giêsu là một sự kiện có thật trong lịch sử. Truyền thống nói rằng có 10 tông đồ trong Nhóm Mười Hai đã tử đạo vì Đức Kitô phục sinh. Hàng trăm, hàng ngàn Kitô hữu thời sơ khai đã chịu chết tại đấu trường Rôma và tại các nhà lao tù vì họ vững tin vào Đức Kitô phục sinh. Ngày nay, người ta cũng vẫn bị bách hại vì tin vào Đức Kitô phục sinh. Rất nhiều vị tử đạo đã chết ở nhiều nơi suốt gần 2.000 năm qua, vì họ vững tin rằng Chúa Giêsu sẽ ban cho họ sự sống đời đời.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Y-Jesus.com và Christianity.about.com)

______________________________

(1) John W. Montgomery, Lịch sử và Kitô giáo (Downers Grove, ILL: InterVarsity Press, 1971), 78.

(2) Norman L. Geisler và Frank Turek, Tôi Không Đủ Tin Để Là Người Vô Thần (Wheaton, IL: Crossway, 2004), 243.

(3) Michael Green, Thập Giá Trống Trơn Của Chúa Giêsu (Downers Grove, IL: InterVarsity, 1984), 97, trích dẫn trong John Ankerberg và John Weldon, Biết Sự Thật Về Sự Phục Sinh (Eugene, OR: Harvest House), 22.

Linh đạo của người tù Giám mục Phanxico Xavie Nguyễn văn Thuận.

Linh đạo của người tù Giám mục Phanxico Xavie Nguyễn văn Thuận.

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long

3/1/2014

Trong căn phòng lưu giữ những kỷ vật của Tôi Tớ Chúa cố Hồng Y Phanxico Nguyễn văn Thuận có cuốn sách mỏng cũ kỹ bản in lần thứ nhất: Năm chiếc bánh và hai con cá. Tập sách mỏng này do người tù Phanxico Xavie Nguyễn văn Thuận trong suy tư cầu nguyện đã được Chúa soi sáng viết ra thành chữ nghĩa trong nhà tù ở Cây Vông, Phú Khánh, ngày 08.12 1975. Nội dung những suy niệm của người tù trong hoàn cảnh khốn khó tuyệt vọng là linh đạo cho đời sống trong nhà tù của mình. Linh đạo đó của người tù Phanxico Xavie Nguyễn văn Thuận bây giờ đọc lại người ta khám phá ra đó là bản hùng ca trong tương quan chiều dọc thẳng đứng hướng lên trời cao, chiều ngang đường chân trời vươn ra tới lòng xã hội con người nơi sinh sống, và con đường chiều hướng về nội tâm bản thân lòng mình. Linh đạo đó người tù Giám mục Phanxico Xavie Thuận có lẽ đã lấy cảm hứng từ sách Khải huyền của Thánh Gioan diễn tả thị kiến trên trời nói về 24 vị Kỳ Mục: „ Khi Con Chiên đã lãnh cuốn sách, thì bốn Con Vật hai mươi bốn Vị Kỳ Mục phủ phục xuống trước mặt Con Chiên, mỗi vị tay cầm đàn, tay năng chén vàng đầy hương thơm, tức là những lời cầu nguyện của các Thánh.“ (Khải huyền 5, 8). Dựa theo con số 24 trong Kinh Thánh người tù Giám mục Phanxico Xavie đã hòa lẫn trong suy tư cầu nguyện sáng tác thành 24 lời cầu nguyện như 24 ngôi sao con đường linh đạo trong bài suy niệm thứ bảy về con cá thứ hai:

Hai mươi bốn ngôi sao

1* Con muốn thực hiện một cuộc cách mạng: canh tân thế giới. Hoài bảo lớn lao đó, sứ mệnh cao đẹp đó, Chúa trao cho con; con thi hành với “quyền lực Chúa Thánh Thần”. Mỗi ngày con chuẩn bị lễ Hiện Xuống mới quanh con.

2* Con xúc tiến một chiến dịch: làm cho mọi người hạnh phúc. Con hy sinh mình từng giây phút với Chúa Giêsu, để đem an bình trong tâm hồn, phát triển thịnh vượng cho các dân tộc. Ðường lối tu đức thầm kín và thiết thực!

3* Con nắm vững một đường lối tông đồ: “Thí mạng vì anh em”, vì không có tình yêu nào lớn lao hơn (x. Ga 15, 13). Con hao mòn từng giây phút và sẵn sàng tiêu hao để chinh phục anh em về với Chúa.

4* Con hô một khẩu hiệu: “Tất cả hiệp nhất”, hiệp nhất giữa các người Công Giáo, hiệp nhất giữa các Kitô hữu, hiệp nhất giữa các dân tộc. Như Chúa Cha và Chúa con là một (x. Ga 17, 22-23).

5* Con tin một sức mạnh: Thánh Thể. Thịt máu Chúa sẽ làm cho con sống, “Ta đã đến, là để chúng được có sự sống và có một cách dồi dào” (Ga 10, 10). Như manna nuôi dân Do Thái đi đường về Ðất hứa, Thánh Thể sẽ nuôi con đi cùng đường Hy vọng (x. Ga 6, 53).

6* Con mang một đồng phục, nói một ngôn ngữ: Bác ái. Bác ái là chứng tích để biết con là môn đệ Chúa (x. Ga 13, 35), là dấu hiệu rẻ mà khó kiếm nhất. Bác ái là sinh ngữ số một mà thánh Phaolô cho là cao trọng hơn tiếng nói của loài người và các thiên thần, là ngôn ngữ độc nhất sẽ tồn tại trên thiên đàng (x. 1 Cor 13, 1).

7* Con nắm một bí quyết: Cầu nguyện. Không ai mạnh bằng người cầu nguyện, vì Chúa đã hứa ban tất cả. Khi các con hiệp nhau cầu nguyện có Chúa ở giữa các con (x. Mt 18, 20). Cha tha thiết khuyên con ngoài giờ kinh, hãy cầu nguyện mỗi ngày tối thiểu một giờ, nếu được hai giờ càng tốt. Không phải là mất mát vô ích đâu! Trên quãng đường cha đi, cha đã thấy lời thánh Têrêxa Avila ứng nghiệm: “Ai không cầu nguyện, không cần ma quỉ lôi kéo, sẽ tự mình sa xuống hỏa ngục”.

8* Con giữ một nội qui: Phúc âm. Ðó là hiến pháp trên tất cả mọi hiến pháp, là hiến pháp Chúa Giêsu đã để lại cho các tông đồ (x. Mt 4, 23). Hiến pháp ấy không khó khăn, phức tạp, gò bó như các hiến pháp khác; ngược lại, linh động, nhân hậu, làm phấn khởi tâm hồn con. Một vị thánh ngoài Phúc âm là “thánh giả”.

9* Con trung thành theo một vị lãnh đạo là Chúa Kitô và đại diện của Ngài: Ðức Giáo Hoàng, các Giám mục, kế vị các thánh tông đồ (x. Ga 20, 22-23). Hãy sống và chết vì Hội thánh như Chúa Kitô. Ðừng nghĩ chết vì Hội thánh mới hy sinh. Sống vì Hội thánh cũng đòi hỏi nhiều hy sinh.

10* Con có một tình yêu: Mẹ Maria. Thánh Gioan Maria Vianney đã nói: “Mối tình đầu của tôi là Mẹ Maria”. Nghe Mẹ sẽ không lầm lạc, hoạt động vì Mẹ sẽ không thất bại, làm vinh quang Mẹ sẽ được sống đời đời.

11* Con có một sự khôn ngoan: Khoa học Thánh giá (x. 1 Cor 2, 2). Nhìn Chúa Giêsu trên thánh giá, con giải quyết ngay được vấn đề đang khiến con xao xuyến. Thánh giá là tiêu chuẩn để chọn lựa và quyết định, tâm hồn con sẽ bình an.

12* Con có một lý tưởng: Hướng về Chúa Cha, một người Cha đầy yêu thương. Cả cuộc đời Chúa Giêsu, mọi tư tưởng, hành động đều nhắm một hướng: “Ðể cho thế gian biết là Ta yêu mến Cha, và như Cha truyền dạy Ta sao, Ta làm như vậy” (Ga 14, 31), “Ta hằng làm những sự đẹp lòng Người” (Ga 8, 29).

13* Con chỉ có một mối lo sợ: Tội lỗi. Triều đình hoàng đế Hy Lạp đã nhóm họp để bàn cách trả thù thánh Gioan Kim Khẩu bởi ngài đã khẳng thắn khiển trách bà hoàng hậu.

Kế hoạch I: Bỏ tù. Nhưng ông ấy sẽ được dịp cầu nguyện, chịu khó vì Chúa như ông hằng mong muốn.

Kế hoạch I: Lưu đày. Nhưng đối với ông ấy, đâu cũng là đất Chúa.

Kế hoach III: Tử hình. Ông sẽ được tử đạo, chúng ta sẽ thỏa mãn nguyện vọng của ông: được về với Chúa.

Tất cả kế hoạch I, II, III, không làm cho ông khổ đau, ngược lại ông sẽ vui sướng chấp nhận.

Kế hoạch IV: Chỉ có một điều ông khiếp sợ nhất, gớm ghét nhất là tội lỗi, nhưng bắt ông phạm không được.

Nếu con chỉ sợ tội, thì không ai mạnh hơn con.

14* Con ôm ấp một ước nguyện: “Nước Cha trị đến, ý Cha được thành sự, dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6, 10). Dưới đất lương dân biết Chúa như trên trời. Dưới đất mọi người khởi sự yêu nhau như trên trời. Dưới đất đã bắt đầu hạnh phúc như trên trời. Con sẽ nỗ lực thực hiện nguyện vọng ấy. Khởi sự đem hạnh phúc thiên đàng cho mọi người ngay từ trần thế.

15* Con chỉ thiếu một điều: “Có gì đem bán mà cho kẻ khó, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo Ta!” (Mt 10, 21), nghĩa là con phải dứt khoát. Chúa cần hạng tình nguyện thoát ly!

16* Con dùng một phương pháp tông đồ hữu hiệu: tiếp xúc để hòa mình, nhập thể với mọi người để hiểu, để nghe, để yêu mọi người. Tiếp xúc hữu hiệu hơn giảng, hơn viết sách. Tiếp xúc giữa người với người, lòng bên lòng, bí quyết bền đỗ, bí quyết thành công.

17* Con chỉ có một việc quan trọng nhất, Maria đã chọn phần tốt nhất: “Ngồi bên Chúa” (x. Lc 10, 41-42). Nếu con không sống nội tâm, nếu Chúa Giêsu không phải là linh hồn các hoạt động của con thì … Con thấy nhiều, hiểu nhiều rồi, cha miễn nói.

18* Con chỉ có một của ăn: “Thánh ý Chúa Cha” (x. Ga 4, 34), nghĩa là con sống, con lớn lên bằng ý Chúa, con hành động do ý Chúa. Ý Chúa như thức ăn làm con sống mạnh, vui; ngoài ý Chúa con chết.

19* Con chỉ có một giây phút đẹp nhất: Giây phút hiện tại (x. Mt 6, 34; Gc 4, 13-15). Sống tron tình yêu Chúa cách trọn vẹn, đời con sẽ tuyệt đẹp nếu kết tinh bằng từng triệu giây phút đẹp nhất. Con thấy đơn sơ, không phải khó!

20* Con chỉ có một tuyên ngôn: “Phúc thật tám mối”. Trên núi, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Bát phúc” (x. Mt 5, 3-12). Hãy sống như vậy, con sẽ nếm được hạnh phúc rồi rao truyền cho mọi người con gặp.

21* Con chỉ có một công việc quan trọng: Bổn phận, không kể lớn hay nhỏ, vì lúc ấy “con làm việc của Cha con” trên trời. Ngài chỉ định cho con thực hiện chương trình của Ngài trong lịch sử (x. Lc 2, 49; Ga 17, 4). Làm bổn phận là đường lối tu đức chắc chắn nhất. Nhiều người bày vẽ một lối tu đức rắc rối, rồi phàn nàn là khó!

22* Con chỉ có một cách nên thánh: Ơn Chúa và ý chí con (x. 1 Cor 15, 10). Chúa không bao giờ thiếu ơn; con có đủ ý chí không?

23* Con chỉ có một phần thưởng: Thiên Chúa (x. Mt 25, 21, 23; 2 Tim 4, 7-8; Kh 2, 26-28; 3, 21-22). Khi Chúa hỏi Tôma Aquinô: “Con viết rất đúng về Ta, con muốn phần thưởng nào? – “Con chỉ muốn Chúa!”

24* Con có một Tổ Quốc.

Một nước Việt Nam,

Một dân tộc Việt Nam,

Một tâm hồn Việt Nam,

Một văn hóa Việt Nam,

Một truyền thống Việt Nam.

Là người Công Giáo Việt Nam

Con phải yêu Tổ quốc gấp bội.

Chúa dạy con, Hội thánh bảo con,

Cha mong giòng máu ái quốc,

Sôi trào trong huyết quản con.“

Xin mời cùng đến thăm viếng Căn Phòng, và học hỏi linh đạo của người tù Giám mục Phanxico Xavie Nguyễn văn Thuận.

Địa chỉ liên lạc tới thăm Căn phòng

Stiftung der Celittinen zur hl. Maria

Graseggerstrasse 105

50737 Koeln- Longerich

Tel. 0049 (0) 221-974514-51

Herr Diakon W. Allhorn: 0221- 97451420

Email: info@cellitinnen.de

Tháng kính Thánh cả Giuse 03.2014

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long

Xin và tin thì được: Đức Mẹ ban ơn qua thánh Tượng ở một nhà thương tại Sài gòn

Xin và tin thì được: Đức Mẹ ban ơn qua thánh Tượng ở một nhà thương tại Sài gòn

PayPal - The safer, easier way to pay online!

(UCA): Anh Nguyễn Duy Khoa, một bệnh nhân 22 tuổi,không Công Giáo.  Anh hiện đang được điều trị trong nhà thương của quận 5 Sài gòn.

Tại sân nhà thương, có một Thánh Tượng Đức Mẹ cao 2 mét (hình bên), và anh thường đến để cầu nguyện với Đức Mẹ.  Anh nói với thông tấn xã UCA rằng, anh đã rời phòng bệnh để “tới và thưa chuyện với Đức Mẹ về những lo âu của tôi”.

Anh Khoa, một chuyên viên máy vi tính, được điều trị bệnh viêm gan loại B, là một trong số người tuyên bố Đức Mẹ đã nhận lời cầu xin, khi họ đến đây để cầu nguyện.

Anh Khoa khẳng định: “Sau khi thưa chuyện với Đức Mẹ, tôi cảm thấy yên hàn hơn”.  Anh nói, anh biết về Đức Mẹ Maria, vì anh thường đi dự Thánh Lễ với một vài người bạn Công Giáo.

Ông Giuse Nguyễn Luân, 53 tuổi, người làm việc tại bệnh viện này từ năm 1984 và là người chăm sóc Thánh Tượng, ông nói, nhiều người tin tưởng vào Đức Mẹ, vì Người “nâng đỡ họ về mặt tinh thần, cũng như ban cho họ nghị lực để lướt thắng bệnh tật”.

Ông nói, các người Công Giáo đem hoa, nhang và nến tới dâng kính Đức Mẹ, trong khi những người của các tôn giáo khác dâng trái cây, thức ăn và hương nhang cho Đức Mẹ.  Một vài bệnh nhân đã dâng tặng những chiếc ghế bằng xi măng, để tỏ lòng biết ơn Đức Mẹ, vì Người đã nhận lời chữa lành bệnh cho họ.

Ông Luân nói rằng, những người không phải là bệnh nhân của nhà thương cũng đến với Thánh Tượng để cầu nguyện.  Ông nêu ra thí dụ về một cặp vợ chồng đã cưới nhau 21 năm.  Sau một vài lần chữa trị về thai sản không thành công tại nhiều trung tâm Y tế, họ đến cầu nguyện trước Thánh Tượng Đức Mẹ.  Cuối cùng , cặp vợ chồng này đã có con.  Giờ đây, họ tới kính viếng Đức Mẹ hàng năm.

Căn cứ theo lời của ông Luân, Thánh Tượng Đức Mẹ đã được một số nhân viên Công Giáo làm việc trong nhà thương dựng lên, và được Linh Mục Phaolô Hồ Văn Lành làm phép ngày 15.8.1974, dịp lễ Đức Mẹ Lên Trời.  Chín tháng sau đó, cộng sản miền Bắc cưỡng chiến miền Nam, thống nhất Nam Bắc.

Có một câu ghi trên bệ Đức Mẹ như sau: “Xin Mẹ Maria chúc lành cho những người chăm sóc bệnh nhân.  Ôi lạy Mẹ, xin hãy an ủi và thánh hóa các bệnh nhân”.

Người công nhân làm việc lâu năm tại nhà thương nói, các Tu sĩ Việt Nam và người Đại Hàn đã dựng lên nhà thương này năm 1973 để cung cấp các dịch vụ chăm sóc cho người cùi.  Sau 1975, chính quyền cộng sản tịch thu nhà thương.

Khi ông đang nói, thì có một phụ nữ dắt cháu gái tới bên đài Đức Mẹ.  Người phụ nữ 39 tuổi này nói, họ muốn tạ ơn Đức Mẹ vì Người đã chữa lành bệnh cho con gái bà.  Bà nói: bà và chồng bà đã tới đây liên tiếp ba tuần lễ đề cầu nguyện cho con gái họ.  Bà nói thêm: “Bất cứ khi nào chúng tôi cảm thấy buồn khổ nhất, chúng tôi chạy đến với Đức Mẹ, và Người luôn cứu giúp chúng tôi.”.

Một người khác, bà Maria Phạm Thị Yến, cùng đi với mẹ già 92 tuổi và con gái 27 tuổi tới tạ ơn Đức Mẹ cho sự bình phục mau chóng của con gái bà.

Những người khác mà thông tấn xã UCA phỏng vấn, đã nói rằng, họ đến để cầu nguyện, vì “đây là tượng Đức Mẹ duy nhất trong thành phố được đặt tại nhà thương, do nhà nước điều hành”.

Để tỏ lòng biết ơn và tôn kính, người ta đã đem hoa, nến, nhang, trái cây tới đặt dưới chân Đức Mẹ.  Một phụ nữ mang trái cây, hoa và nhang tới dâng kính Đức Mẹ, đã nói với thông tấn xã UCA rằng, bà là một Phật tử. Bà nói:

“Là người Công Giáo hay không, điều đó không quan trọng.  Điều quan trọng là bạn phải đặt tin tưởng nơi Đức Mẹ Maria”.  Trường hợp của bà, bà nói:

“Tôi đã cầu nguyện với Đức Mẹ Maria cho sự bình phục của con trai tôi, và Đức Mẹ Maria đã chữa khỏi cho con tôi”.

 

Mẫu gương sống đạo: Vô địch trượt băng quốc tế Kim Yuna làm dấu Thánh Giá mỗi khi tranh tài.

Mẫu gương sống đạo: Vô địch trượt băng quốc tế Kim Yuna làm dấu Thánh Giá mỗi khi tranh tài.

Trần Mạnh Trác

2/17/2014

Cô làm dấu Thánh Giá không phải vì thói quen hoặc để cầu may, cô đã đoạt nhiều giải vô địch trước khi gia nhập đạo Công Giáo và trước khi biết đến dấu Thánh Giá là gì.

Kim Yuna, 24 tuổi, đã từng là một cái tên ưa chuộng trong mọi gia đình Hàn Quốc vào năm 2007 khi cô bị gẫy xuơng đầu gối sau một tai nạn tranh tài. Vị bác sĩ điều trị cho cô là một người Công Giáo và chính ông này đã giới thiệu cô với các Sơ đang phục vụ tại đó.

Cô đã trở lại đạo, cô lấy tên Thánh bằng chữ Latin là “Stella Maris” có nghĩa là Đức Mẹ Sao Biển.

Sau khi theo đạo, cô luôn luôn đeo ảnh Đức Mẹ Ban Ơn trên trang phục, đeo vòng nhẫn Tràng Hạt Mân Côi trên ngón tay (mà nhiều người hâm mộ đã lầm tưởng đó là chiếc nhẫn đính hôn,) và cô luôn làm dấu Thánh Giá trước và sau mọi cuộc biểu diễn.

Những dấu hiệu tôn giáo như vậy thường tạo ra ác cảm và không đem lại lợi lộc gì trong nền văn hoá thế tục hiện nay. Trong cuộc thi Olympic đang diễn ra ở Sochi, người ta đã ra luật không cho phép đeo bất kỳ thứ gì có tính cách quảng bá. Nhiều người nghĩ rằng qui luật mới này nhắm vào chính cô.

Những qui luật chống đạo như vậy không phải là hiếm, ngay chính ở Hoa Kỳ đã từng có một qui luật nhắm vào ngôi siêu sao Foot Ball Tim Tebow không cho anh viết bất kỳ số ký hiệu Thánh Kinh nào trên quầng mắt, và ngày nay Tim Tebow đã không còn được chơi cho đội banh nào nữa.

Riêng cô Kim Yuna, cô vẫn thắng giải. Cô đã giành được huy chương vàng Olympic 2010 tại Canada, trở thành lực sĩ Hàn Quốc đầu tiên chiếm giải trượt băng nghệ thuật Thế vận hội. Cô lập nhiều kỷ lục Olympic mới. Cô hiện là quán quân giải trượt băng Thế Giới.

Cô đang hy vọng sẽ chiếm một huy chương vàng Olympic thứ hai nữa trước khi vê hưu và trở thành một quan chức cho Olympic muà Đông năm 2018, sẽ tổ chức ở Hàn Quốc.

Nhắc lại Hàn Quốc đã nhận được vinh dự làm chủ nhà cho Olympic năm 2018 một phần là nhở ở sự vận động và tên tuổi cuả cô.

Với Á Châu, Kim Yuna là hiện thân cuả nghệ thuật trượt băng. Trước muà Thế Vận Hội, vào ngày 17 tháng 6 năm 2012 cô Kim đã trình diễn cho chương trình Artistry On Ice ở Trung Quốc và bà Li Sheng, chủ tịch ban tổ chức, cho biết đã phải bỏ ra hai năm trời để thuyết phục cô Kim tham dự. Bà nói thêm: “Sự tham dự cuả cô tạo ra một bước đột phá cho Artistry On Ice, và cho lịch sử trượt băng nghệ thuật của Trung Quốc, mặc dù cô chỉ tham gia một phần rất nhỏ ở Thượng Hải mà thôi.”

Sự danh tiếng và tiền bạc không làm cho cô Kim quên đi những người nghéo khổ, tính đến năm 2009 thì cô đã đóng góp hơn 2.0 tỷ won ($1.7 triệu Mỷ Kim) cho các công việc từ thiện.

Riêng năm 2012 cô đã tặng một số tiền là 70 triệu won (59,300 mỹ kim) cho một tổ chức từ thiện Công Giáo để xây dựng 100 trường ở Nam Sudan.

Cách sống đức tin công khai cuả cô cũng đã là nguồn cảm hứng cho nhiều người. Môt chủng sinh cuả Tổng Giáo Phận Detroit là Phạm Evan đã viết cho CNA/EWTN News rằng ‘Thầy’ đã rất ấn tượng bởi hành động cầu nguyện cuả cô.

Gương sống chứng nhân một cách công khai này, Thầy Phạm nói , gợi cảm hứng cho Thầy cởi mở hơn với việc chia sẻ niềm tin với người khác.

Thấy giải thích thêm rằng khi lớn lên, Thầy đã “rất lo lắng về đức tin của mình ” Đặc biệt là cầu nguyện ở nơi công cộng . ” Tôi không muốn ‘người ta nghĩ rằng tôi là một người kỳ lạ,’ ” Thầy nói thêm rằng việc công khai bày tỏ niềm tin thường ” tạo ra một mục tiêu để nhắm bắn ngay trên trán của bạn” cho những ý kiến tiêu cực, cười nhạo và đàn áp.

Khi nhìn thấy cô Kim cầu nguyện trên băng, sự sợ hãi cuả Thầy đã bị thách thức.

“Đó là một hành động thường xuyên cuả cô ấy “, Thầy nói. ” Wow . Thật đúng là một cách của một chứng nhân, ” hành động đó khiến Thầy tự hỏi mình :” Nếu cô ấy làm được điều này , tại sao tôi không thể làm được như vậy ? ”

“Yuna Kim đã dạy tôi về ‘các cơ hội thể hiện đức tin Công Giáo một cách công khai,'” Thầy Phạm nói.

Bốn Mươi Năm, Một Dòng Lệ

Bốn Mươi Năm, Một Dòng Lệ

Lê Tín Hương

LTS: Bà Lê Tín Hương hiện ở California, là một nhạc sĩ, cũng là một nhà văn, qua cha cố Trọng đang nghỉ hưu tại Orange County, California, gởi cho chúng tôi câu chuyện về Ơn Lạ của Mẹ Lavang ban cho gia đình bà cách đây 40 năm. Xin mời bạn đọc theo dõi. “Về bên Mẹ Lavang” chân thành cám ơn tác giả.

Tôi rời nhà lúc sáu giờ sáng Chủ Nhật. Lái xe trong cơn mưa tầm tã, trên con đường dài vẫn còn mù mờ tối của một buổi sáng mùa đông lạnh, đối với tôi là một việc làm gần như rất hiếm hoi. Ngày cuối tuần, nhất là những sáng trời mưa, tôi vẫn có cái thú rúc trong chăn và nằm nướng. Cây đàn Tây Ban Cầm được gác sẵn bên góc đường để tôi có thể với tay kéo lên bất cứ lúc nào, và ngồi dậy tựa lưng vào thành giường nhã hứng… Những dòng nhạc về mưa, về thân phận lúc đó lại có cơ hội tiếng thăng tiếng trầm đến với cuộc đời…

Riêng sáng hôm nay, lòng tôi nao nao mong đợi. Tôi thức dậy sớm. Sau một chút trang điểm nhẹ nhàng, tôi chọn cho tôi chiếc áo màu trắng, khoác ngoài chiếc áo ấm màu đen và sẵn sàng chờ giờ ra xe. Trời chưa thấy sáng và giờ đi hãy còn sớm. Tôi bâng khuâng ngồi nhìn ra khung cửa, mưa vẫn còn nặng hạt, dấu chỉ báo hiệu cho một cơn mưa có thể kéo dài đến chiều…

Liên tưởng đến buổi Thánh Lễ Ðại Trào mà tôi sẽ tham dự sáng nay, khai mạc năm Toàn Xá 200 năm Ðức Mẹ Lavang và kỷ niệm 10 năm phong thánh, 117 vị anh hùng Tử Ðạo Việt Nam. Tôi bỗng thấy lòng lâng lâng xúc động. Ngoài sự cảm phục về tấm gương sáng ngời tình yêu và tuyên xưng đức tin của các Thánh Tử Ðạo, thì mỗi khi nhắc đến Mẹ Lavang, là gợi lại trong tôi hồi tưởng về một khung trời thơ ấu xa xưa với biến cố trọng đại đã đến với gia đình tôi cách đây 40 năm về trước, vào một ngày mưa gió như hôm nay…

Năm 1958, ba tôi làm việc tại bệnh viện Trung Ương thánh phố Huế. Mỗi tháng ông vẫn cùng các bác sĩ đi thanh tra các bệnh viện nhỏ ở các vùng lân cận. Hôm ấy, ông sửa soạn đi thăm bệnh viện Quảng Trị, cách thành phố Huế khoảng 65 cây số về phía Tây Bắc.

Tôi còn nhớ rõ sáng hôm ấy trời mưa lạnh. Những cơn mưa mà những ai đã từng ở Huế chắc chắn không thể nào quên được. Mưa tầm tã, rả rích kéo dài từ ngày này sang ngày khác tưởng chừng như vô tận. Ba tôi chuẩn bị lên đường. Chiếc xe chở ông cùng ba vị bác sĩ và một nhân viên bệnh viện đã đón ông ở ngoài cổng. Ba tôi mặc vào người chiếc áo jacket bằng da và dặn dò mẹ tôi một vài điều gì đó rồi vội vàng ra xe.

Bước xuống mấy bậc thềm ông gặp ngay cha Luận đang bước vào. Cha Cao Văn Luận cùng quê quán với cha tôi, Ngài rất gần gũi và thương yêu gia đình tôi. Một trong những mong mỏi của Ngài là được thấy gia đình tôi theo Ðạo.

Tuy rất kính và quý mến cha nhưng điều đó với ba mẹ tôi là một trở ngại lớn, không thể nào thực hiện được. Cả hai bên nội ngoại tôi không ai có Ðạo. Mẹ tôi đồng thời lại là một Phật Tử. Bà đã quy y, pháp danh Nguyên Khai. Bà cũng đã từng xây chùa cho làng ngoại tôi tại Huế. Mẹ tôi là một người đàn bà có học. Như đa số những bà mẹ Việt Nam khác rất hiền lành và nhẫn nhục. Cả cuộc đời hy sinh cho hạnh phúc của chồng con, nhưng trong vấn đề tín ngưỡng thì lại rất cương quyết, chẳng thể nào lay chuyển được. Ba tôi biết thế nên ông rất tôn trọng mẹ tôi mặc dầu ông rất kính mến cha Luận.

Cha Luận gặp ba tôi, Ngài bắt tay rất vui vẻ, Ngài đưa cho ba tôi một tấm ảnh và bảo: “Tôi mới đi kiệu ngoài Lavang về. Tôi kính cho ông một tượng ảnh của Mẹ Lavang. Ðức Mẹ đã làm nhiều phép lạ và rất linh thiêng. Ông hãy giữ lấy mà cầu nguyện.”

Ba tôi cười cười, nói cám ơn cha, rồi thuận tay ông nhét tấm ảnh vào túi trong của chiếc áo da.

“Con phải đi ngay cha à, mọi người đang đợi con ở ngoài kia.” Vừa nói ba tôi vừa chào từ giã cha rồi ra xe.

Tôi nhìn theo chiếc xe chở ba tôi khuất dần, khuất dần sau màn mưa dày đặc…

Buổi chiều trong khi người nhà chuẩn bị bữa cơm, chúng tôi ngồi nghe mẹ kể chuyện. Mẹ đang kể một đoạn trong câu chuyện “những kẻ khốn cùng” (les misérables) của văn hào Victor Hugo thì chúng tôi nhận được hung tin. Chiếc xe chở ba tôi và bốn người nữa đã bị lật tại cầu Giồng Quảng Trị và chìm xuống sông. Tất cả đều tử nạn. Bệnh viện báo tin và yêu cầu gia đình ra ngay hiện trường để nhận xác đồng thời để tẩm liệm tại chỗ cho thân nhân…

trước biến cố bất ngờ đó, mẹ tôi như người bị sét đánh. Bà run rẩy rững sờ ôm lấy tôi. Làm sao tôi có thể diễn tả hết nỗi đau đớn trong lòng mẹ lúc ấy… (giờ đây sau biết bao lần chứng kiến những chia ly, tử biệt, tôi mới ngậm ngùi thấm thía được niềm đau đớn của những nỗi đợi chờ tuyệt vọng), chỉ biết là đã nhìn thấy mẹ đầm đìa nước mắt và cả chúng tôi nữa…

Ngoài kia dòng lệ của đất trời vẫn hững hờ rơi…

Mẹ tôi và chị em tôi theo chiếc xe của bệnh viện ra Quảng Trị nhận xác cha. Ðến nơi, tại một trạm gác nhỏ nằm cuối chân cầu, xác của ba vị bác sĩ và nhân viên bệnh viện đã được vớt lên. Còn thi hài của ba tôi thì chưa tìm thấy. Người ta chưa vớt được ba tôi nhưng mọi người xác định là ông cũng cùng một số phận với những người đã tử nạn; nhất là ông đã chìm sâu dưới lòng nước quá lâu. Mẹ tôi mặt mày bạc nhược tái xanh, mắt đỏ hoe vì khóc, đứng ở một góc phòng chờ đợi…

Thân nhân của các nạn nhân đều đã tới, tiếng kêu gào khóc kể nghe rất não lòng. Tôi vừa buồn vừa sợ, mơ hồ cảm thấy một khúc quành nào đó thật ngặt nghèo đang chờ đợi gia đình tôi.

Em tôi vì còn nhỏ, có lẽ chưa hiểu lắm, nép trong lòng mẹ ngơ ngác nhìn quanh: “Ba đâu, ba đâu mẹ!” Mẹ tôi chưa kịp dỗ dành em thì bỗng có tiếng người la lớn:

“Ðây rồi, vớt được xác sau cùng rồi!”

Là ba đó, mẹ tôi chạy nhào tới.

Phải rồi, người ta đang khiêng ba tôi vào, đặt ba tôi nằm trên chiếc băng ca.

Lại có tiếng người la lên: “Trời ơi! Ông ta hình như chưa chết. Còn thở. Hơi thở yếu lắm. Làm hô hấp nhân tạo ngay đi!”

Và ba tôi quả còn sống thật! Mẹ tôi quỳ xuống lạy trời lạy đất. Cám ơn Trời Phật đã cứu sống ba tôi. Nước mắt một lần nữa tuôn dầm dề trên má mẹ, nhưng lần này là những giòng nước mắt hạnh phúc không ngờ…

Chúng tôi quỳ chung quanh chiếc băng ca nơi ba tôi đang nằm.

Ba tôi tỉnh lại hẳn. Ông nói bằng một giọng nói thật yếu ớt, câu nói đầu tiên mà tôi không bao giờ quên được: “Hãy xin cha rửa tội, rửa tội cho cả nhà, Ðức Mẹ Lavang đã cứu ba.”

Nói xong ông đưa tay vào trong túi áo da lục lọi kiếm tìm, và sau đó ông rút ra tấm ảnh Ðức Mẹ Lavang. Tấm tượng ảnh mà cha Luận đã cho ông trước chuyến đi định mệnh. Tấm ảnh đã ướt sũng và đậm màu vì thấm nước, nhưng hình Ðức Mẹ với chiếc áo choàng xanh vẫn còn in rõ nét.

Ba tôi nói tiếp: “Ðây chính Bà này đã cứu ba, Bà đã lôi ba, lúc ấy đang mắc kẹt trong xe, ra khỏi cửa xe. Bà đẩy ba nổi lên mặt nước và nói Ta là Ðức Mẹ Lavang, Ta đến cứu con.”

Tôi chợt nghĩ lại, nếu ngày hôm đó ba tôi không vội vàng ra đi, và có thời giờ để tiếp chuyện với cha Luận. Có lẽ bức tượng ảnh Ðức Mẹ Lavang đã bị quên trong một ngăn kéo nào đó cùng với sự hững hờ của ba mẹ tôi.

Sau biến cố đó, gia đình tôi gồm ba mẹ và 7 anh chị em đã rửa tội trong sự tự nguyện rất hoan hỷ của mẹ tôi. Ba vị linh mục thân thiết của gia đình tôi, cha Cao Văn Luận, cha Ngô Văn Trọng lúc bấy giờ là cha Chánh Xứ họ đạo Phanxicô, hay còn gọi là Nhà Thờ nhà nước, nơi mà gia đình tôi cư ngụ, và cha Vũ Minh Nghiễm, Dòng Chúa Cứu Thế, người đã dày công dạy giáo lý cho chúng tôi. Cả ba vị linh mục này đã dâng thánh lễ và ban phép rửa tội cho chúng tôi.

Theo lời xin của ba tôi, để cảm tạ ơn thánh của Ðức Mẹ, lễ rửa tội được tổ chức tại Thánh Ðường Ðức Mẹ Lavang Quảng Trị. Mẹ tôi vô cùng vui mừng hân hoan, và tin tưởng lần chuỗi mân côi cảm tạ ơn Ðức Mẹ mỗi ngày. Cho đến ngày nhắm mắt bà là một tín đồ sốt sắng, sùng kính Ðức Mẹ tuyệt đối. Ðây là những hình ảnh cuối đời của mẹ tôi.

Tôi còn nhớ rõ sau thời gian gia đình chịu phép rửa tội. Mẹ tôi đã chịu đựng nhiều lời ra tiếng vào của họ hàng và những người quen biết. Họ cho rằng gia đình tôi theo đạo là để mưu cầu cho một quyền lợi nào đó. Về phần chúng tôi khi đến trường cũng nghe những lời đàm tiếu của bạn bè. Mỗi lần than vãn với mẹ thì mẹ lại khuyên răn chúng tôi: “Ba là cột trụ và là nguồn sống của gia đình chúng ta. Vì thế dầu có chịu bao nhiêu thử thách, khó khăn cũng phải chấp nhận để cảm tạ ân sủng đó. Tình yêu luôn luôn có cái giá phải trả, và cái giá đó có nghĩa gì đâu với ân huệ mà Ðức Mẹ đã ban cho gia đình chúng ta.”

Mẹ tôi nói đúng, ơn lạ mà Mẹ Lavang đã ban là một biến cố lớn trong đời sống tâm linh của gia đình, cũng là một biến cố trong lịch sử gia tộc. Ba tôi năm nay đã gần 90. Ông vẫn còn kính tấm tượng ảnh năm xưa đã cứu ông trên bàn thờ. Tấm ảnh Ðức Mẹ ngày nay đã mờ nhạt theo thời gian, nhưng mỗi ngày ông đều đọc kinh lần hạt cảm tạ Ðức Mẹ.

Câu chuyện mầu nhiệm này đã được chúng tôi thường xuyên kể lại cho con cháu nghe, như là một câu chuyện thần thoại nhưng có thật. Xẩy đến từ một trong những phép lạ của Ðức Mẹ Lavang đối với gia đình tôi nói riêng và nhiều gia đình khác nói chung.

Ngày đại lễ hôm nay trời cũng mưa. Tôi lái xe trong cơn mưa như trút nước, Lòng hạnh phúc vô cùng vì tôi được có Chúa. Có ánh sáng niềm Tin của Ngài chiếu rọi tâm hồn tôi. Có Tình Yêu bao la rộng mở của Ðức Mẹ đã đến với gia đình tôi từ thuở tôi mới lên mười…

Tôi lắng nghe những lời huấn từ của Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận. Bằng giọng nói rõ ràng trầm ấm, Ngài nhắc lại lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam từ những ngày đầu tiên. Qua biết bao nhiêu thăng trầm gian khổ có máu, có nước mắt và ngày nay đã được thăng hoa với 117 Vị Thánh Tử Ðạo. Gia đình ngài cũng đã theo Chúa cách đây 300 năm, với những thử thách cùng với nhiều ân sủng của Chúa, của Ðức Mẹ, đặc biệt là Mẹ Lavang. Ngài cũng kể lại những phép lạ mà Ðức Mẹ đã ban, trong đó có phép lạ chữa lành bệnh cho cha cố trọng, cha Linh Hướng của gia đình tôi.

Tôi tự cảm thấy gia đình mình may mắn, đã được hưởng một ân sủng quá đặc biệt đến từ Tình Yêu bao la không bờ bến của Ðức Mẹ.

Trong cái lạnh của mùa Ðông, lòng tôi bỗng nhiên ấm cúng. Tôi thấy tâm hồn như nở hoa. Ðóa hoa Yêu Thương trong vườn hoa rực rỡ của niềm Tin. Tôi hy vọng sẽ mãi mãi là đóa hoa đầy hương sắc, không bao giờ héo rũ úa tàn. Tôi thầm cám ơn Chúa, cám ơn Mẹ, cúi đầu để che dấu dòng lệ cảm xúc đang âm thầm rơi. Dòng lệ của hơn bốn mươi năm trước kể từ khi gia đình tôi được ơn lạ của Ðức Mẹ Lavang, trải qua biết bao sóng gió bể dâu… Có lúc đã ngưng đọng, có lúc tưởng chừng bị lãng quên, hôm nay lại từng giọt chảy dài… Những giọt lệ vui mừng. Những giọt lệ bồi hồi nhắc nhở tôi niềm hạnh phúc được nương náu trong Tình Yêu và Ân Sủng của Chúa, của Mẹ Maria.

California, Chúa Nhật ngày 22 tháng 2 năm 1998
Lê Tín Hương

CHÚA CỦA TÔI, CHÚA CỦA ANH.

CHÚA CỦA TÔI, CHÚA CỦA ANH.

Maria Thúy Vũ.

Tôi đã có những ngày tháng rất xa cách Chúa trong hơn 30 năm, tôi lấy một người Chồng ngoại Đạo, anh là một Phật Tử tin vào Đức Phật, còn tôi là một con chiên khô khan nguội lạnh, tôi lo bươn chải làm ăn, vui chơi và chả có thì giờ để nhớ đến Chúa, năm thì mười họa tôi đi lễ cho có, trong thánh lễ tâm trí tôi còn để ở các công việc toan tính khác. Các con tôi lớn lên, chúng thờ ơ với Đạo và đi theo băng đảng quậy phá, bắn nhau, đâm chém nhau. Thật là một mối rối Đạo, rối Đời to đùng, không biết làm sao mà gỡ rối cho được, cãi vã, loạn đả , đau khổ chồng chất trong mấy chục năm trời cho đến một ngày, tôi đi tĩnh tâm Thánh Linh tại nhà thờ St Christopher, Houston. Tôi dâng hết đau khổ lên cho Chúa, nhất là xin lỗi Chúa vì các tội lỗi có tính ngỗ nghịch của tôi và gia đình tôi.  Tôi đã không dám tin vào sự tha thứ của Chúa vì tội của tôi gây ra, trực tiếp qua hành vi lấy chồng không cùng niềm tin, không kính sợ Chúa, rồi tội cãi vã, tranh chấp, rồi tội vui chơi quá đà,  … gián tiếp qua đàn con ngỗ nghịch, làm ngược lại Lời Chúa và gây bao đau khổ từ băng Đảng mà người con cả của tôi cầm đầu…

Nhưng Chúa thì lại có cách đối xử không như tôi nghĩ, Chúa chỉ cần sự ăn năn và chạy đến xin chữa lành là đủ. Phần còn lại Chúa giải quyết cho tôi, cho dù đó là bất cứ nan đề nào Chúa cũng có cách lo và lo cho bằng hết.

Chúa chỉ đòi một hy sinh nhỏ của tôi thôi, đó là tôi phải đóng của tiệm nail vào ngày Chúa Nhật để đi Nhóm Thánh Linh tại  Giáo Xứ NL trong ngày nghỉ của Chúa, điều này quả là một hy sinh lớn vì tiệm của tôi mới mở, còn rất ít khách, nhưng mà tôi phó thác cho Chúa và làm theo ý Ngài.  Tôi đi Nhóm rất siêng năng, ở đó  tôi mở hết volume, giọng ca  vụng về  của tôi để ca ngợi Chúa, rồi lắng nghe sự chia sẻ Lời Chúa của mọi người, qua một năm thì Chúa cho tôi ơn yêu mến Ngài, tôi có thể  nói chuyện với Chúa, đọc kinh Lòng Thương Xót của Chúa Giê Su đã truyền cho Chị thánh nữ tu,  Faustina, lần hạt kính Mẹ  trong vài giờ mà không biết mệt dù đó là vào ban đêm hay ban ngày.

Ca ngợi Chúa trong vòng khoảng một năm, thì Chúa ban thêm ơn mới cho tôi, đó là mỗi khi rước Chúa vào lòng thì tôi không cầm được nước mắt vì vui mừng và nhất là cảm kích sự hy sinh và tha thứ lớn lao, vĩ đại  đến lạ kỳ của Chúa. Nhiều khi, trong nhà Thờ, giữa mọi người đang tham dự phàn hiệp lễ, nước mắt tôi chan hòa, khuôn mặt nhòe nhoẹt, tôi ngượng, xấu hổ và phải xin Chúa cho tôi bớt chảy nước mắt làm chia trí người khác. Tôi say sưa ca ngợi Chúa Thánh Thể, cầu nguyện, thưa chuyện với Ngài đến quên cả thời giờ. Có khi tôi ở với Chúa Thánh Thể cả đêm, trong các dịp tĩnh tâm Thánh Thể tại các nhà Dòng, thật là một kinh nghiệm tuyệt vời khi được Ca Ngợi Chúa cực thánh !

Ơn Chúa cứ tăng tiến mãi, mặc dù vậy, tôi vẫn có mặc cảm “mình tội lỗi quá không biết Chúa có nghe mình cầu nguyện không? “. Chúa có cách để trả lời cho thắc mắc này, đó là vào ngày hội mừng lễ Thánh Thể Chúa năm 2012,  tại Đan Viện Thiên Tâm Biển Đức gần Dallas , Texas.  Lúc 12 giờ 15 đêm, tôi đang ở trước mình Thánh Chúa trong lều Thánh Thể thì một chị nọ đến xin cầu nguyện, Chị rất thất vọng vì đã lái xe dăm tiếng đồng hồ để đến đây với hy vọng được Cha Nguyến Thiện Lãm và các Anh Chị trong Nhóm cầu nguyện cho mình được ơn Chúa chữa lành, vì Chị bị đau lưng rất nặng, di chuyển khó khăn và khó cúi xuống làm cho bị đau đớn và rất trở ngại cho kế sinh nhai. Tôi an ủi Chị rằng Chúa đã biết lòng Chị và dâng Chị lên cho Chúa. Sau một lúc, thì chị khẩn khoản xin mọi người có mặt ở đó cầu nguyện cho. Mọi người quây chung quanh Chị , tôi bị họ thúc dục hãy nắm tay chị và cầu nguyện, họ nói mãi, thức mãi  làm cho tôi đánh liều “ vừa cầu nguyện vừa run”,  dù tôi biết và cũng có chút kinh nghiệm về vị Chúa nhân từ, rất giàu lòng quảng đại của mình, tôi thưa với Chúa:

–          Con ca ngợi tình yêu sâu thẳm của Chúa Thánh Thể. Con cầu nguyện nhân danh tên cực Thánh của Chúa Giê Su và dâng Chị cùng với căn bệnh đau lưng và mọi sự hoạn nạn của Chị lên cho Chúa. Con xin Chúa an ủi và nâng đỡ chi. Nếu đẹp ý Chúa và có lợi cho Chị thì xin Chúa chữa lành cho Chị. Con ngợi ca và tôn vinh Chúa chiên nhân lành muôn đời Amen.

Đang khi tôi đặt tay cầu nguyện, thì có một sức nóng từ tay tôi lan sang lưng của Chị, về sau Chị cho biết là có luồng hơi nóng rực chạy dọc theo sống lưng.

Khi tôi cầu nguyện xong thì Chị thấy hết đau và có thể cúi gập mình được, chị thử xoay người bốn phía và cảm thấy hoàn toàn bình phục, không còn đau đớn làm cho thốn và sợ phải cử động chạm đến cơ lưng, xương lưng.

Qua sự kiện chữa lành ngay lập tức của Chúa, thì tôi biết là Ngài luôn sẵn lòng nhận lời của một người con tội lỗi từng rối rắm như tôi, khi mình biết lỗi và quay về, Chúa chỉ có một sự duy nhất dành cho con chiên lạc đường đó là lòng yêu thương và ưu ái vô cùng của người Cha Trời . Chính Chúa Giê Su của tôi đã từng nói là cả Thiên Đàng vui mừng vì một con Chiên trở lại mà.

Trước đó , Chúa ban cho tôi một ơn rất trọng đại và tuyệt vời , đó là làm cho người con Cả 26 tuổi , trùm một  băng đảng khu vực, theo ngày tháng thì Cháu có sự thay đổi, cuối cùng muốn vui lòng tôi vì tôi đã năn nỉ Cháu ngày đêm, nó đã chịu tham dự Tĩnh tâm Thánh Linh tại Dickinson, Texas, Cháu được Chúa đánh động trong ngày thứ hai của buổi tĩnh tâm,  bằng cách chiếu lại trong tâm trí các đau khổ của các nạn nhân mà nó làm hại. Cháu ăn năn, khóc và hồi tâm theo Chúa. Nay Cháu trở thành một Con Chúa gương mẫu, ngày đêm học hỏi Lời Chúa, đọc Kinh Thánh cách say mê. Sự gương mẫu của cháu lớn là đầu tầu kéo theo hầu như cả băng nhóm của nó trở lại với Chúa, Các Em trong nhà cũng đều được ơn Chúa một phần cũng nhờ vào cái đầu tầu này, Cám ơn Chúa vô cùng. Lòng yêu mến Chúa trong gia đình được Chúa làm cho lan ra tới hàng xóm, tới họ hàng. Họ cũng cảm kích và sốt sắng quay về với Chúa là Cha Nhân Từ và hào phóng.

Chúa giầu có, Ngài ban cho nhiều đến mức tôi cảm động quá có khi phải thốt lên những lời vô nghĩa, có lẽ làm cho Chúa phì cười, tôi nói: Chúa ơi, sao Chúa cho con nhiều quá, không thể tưởng tượng ra nổi, con nào xứng đáng gì, con tội lội quá sức, chả lẽ con xin Chúa lấy bớt lại vì con không đáng để được như vậy. Con biết ơn Chúa lắm.

Chúa thay cho tôi một trái tim mới, ân cần với mọi người và luôn vui mừng trong Chúa. Tôi tìm cách phục vụ Anh Em mình, tôi dậy sớm mỗi Chúa Nhật, lo nấu nướng phần điểm tâm cho cả Nhóm cầu nguyện và Lớp tìm hiểu về Chúa của các Anh Chị Em Tân Tòng. Lòng luôn có niềm vui phấn khởi vì được làm một cái gì dù rất nhỏ bé dâng cho Chúa, càng cố gắng tôi càng vượt qua mệt nhọc và sự lưởi biếng của mình.

Trong gia đình tôi , nay còn lại một thử thách cuối cùng, đó là Chồng tôi, Anh không cùng một niềm tin và một lý tưởng với cả nhà, Anh về Việt Nam mấy chuyến nói là đi làm ăn. Tôi thì miễn cưỡng chấp nhận cho Anh đi tuy biết rằng đó không phải là những chuyến đi đơn thuần chỉ có làm ăn. Một ngày nọ, khi Anh còn đang ở Việt Nam, anh bị té từ lầu thượng xuống đất, anh được mang vào trung tâm chấn thương chỉnh hình, thương tích trầm trọng khắp người không thể cử động được lưng và đầu. Tôi lo lắng lắm, nhưng tôi  xin Chúa cứu chữa cho Anh vì linh hồn Anh vốn chưa thuộc về Chúa , tôi xin Chúa cho Anh còn có cơ hội làm con Chúa. Chúa đã ra tay và bác sĩ ngỡ ngàng , vì Anh té rất nặng nhưng không bị gãy cổ, gãy  xương sống, không bị chấn thương hộp sọ, không bị các vết thương trí mạng. Sau vài tuần chữa trị thì từ chỗ hoàn toàn tê liệt, anh có thể hồi phục và quay về Mỹ. Biến cố đó có thể làm cho anh bừng tỉnh về cái đúng, cái sai. Tuy rằng Anh cho là được Trời Phật độ trì cho tai qua nạn khỏi.

Chúa sẽ đi tiếp bước thứ hai như thế nào đây?

Cách đây hai tuần Chúa lại ra tay một lần nữa, số là từ bốn, năm  tuần qua Anh loay hoay mà không sửa được hệ thống điện trong cái xe hơi của mình mặc dù là một người rành rẽ về máy móc, đã phải hơn một lần tháo nguyên cả dashboard ra để kiểm. Xe không đề máy được nữa. Quá thất vọng Anh tính tới chuyện đổi xe khác nhưng ai, sẽ có dealer nào  chịu đổi chiếc xe mất điện như thế này ? Thấy Anh quá vất vả, hì hục, tội nghiệp tôi khuyên Anh cầu nguyện với Chúa, nhưng mà Anh không tin nơi phép lạ Chúa làm. Tôi tìm cách đặt tay và cầu nguyện, nhân danh tên cực Thánh của Chúa Giê Su, tôi ra lệnh cho máy phải nổ, mọi cơ phận phải trở lại bình thường làm ích cho con cái Đức Chúa Trời.  Nhưng mà! … máy vẫn không thể nổ, tôi muốn tìm cho ra nguyên nhân, tôi mở các hộc trong xe thì thấy có 2 tượng Đức Phật nhỏ. Tôi liền lấy và cất tượng riêng ra một chỗ bên ngoài và vào nhà kiếm Anh tôi nói:

–          Em biết Anh chưa tin quyền năng và lòng thương xót của Chúa nhờ lời cầu nguyện. Anh chưa tin Chúa có thể giúp mình sau khi ta đã tận dụng sức của mình và cố gắng hết mức có thể, sau khi đã vận dụng hết trí khôn thì Chúa sẽ giúp khi ta cầu nguyện?  Đây là dịp cho anh thấy Chúa của em như thế nào?

Trong lòng đầy sự an ủi và tin tưởng mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa đang hiện diện, nói rồi, tôi đi ra đặt tay lên bình ác qui, tôi cầu nguyện theo cách đã được Cha Đinh Thanh Sơn dậy dỗ :

–          Con ca ngợi tình yêu và quyền phép của Chúa Giê Su. Nhân danh tên cực thánh của Chúa, ta ra lệnh cho hệ thống điện này phải chậy lại bình thường làm sáng danh Chúa và đem lại lợi ích cho con cái Chúa. Đang khi tôi cầu nguyện thì có luồng nóng từ bàn tay tôi truyền vào bình điện, tôi biết là Chúa lại tỏ vinh quang và quyền năng của Ngài một lần nữa rồi, khi Ngài sửa chiếc xe cho chồng tôi. Tôi chạy lại tay lái, xoay chìa khóa đề một phát là máy nổ ngay lập tức…

Chứng kiến cảnh đó, Anh xanh lè mặt, sợ hãi khi nhận ra quyền phép Chúa.

Tôi mang trả hai tượng Đức Phật lại cho Anh để tùy Anh suy luận và quyết định ai sẽ là Đấng Bảo vệ cho Anh trên đường trường sau tay lái, hay trong lúc nguy khốn. Là vợ, tôi  tôn trọng chọn lựa của chồng , là một Ki tô hữu tôi muốn anh Tin Đức Chúa Trời bằng sự nhận biết từ lý trí và con tim mà không có sự áp đặt. Kết quả là từ ngày đó, tôi không thấy Anh để tượng Đức Phật trong xe nữa.

Tôi cám ơn Thiên Chúa và thưa với Ngài:

–          Chúa có hứa rằng: “ Ai xin thì sẽ được” con xin và con hết lòng cảm tạ, ngợi khen Ngài.

–          Con không còn bi quan nữa, Chúa cực thánh ơi, con biết rằng một ngày nào đó Chúa sẽ cứu linh hồn Chồng con, vì Chúa còn một con Chiên lạc nữa trong gia đình con. Lòng con vô cùng biết ơn Chúa quyền năng, uy quyền và đầy lòng xót thương của con.

–          Xin mẹ Maria, Mẹ Hằng Cứu Giúp tiếp tục chuyển cầu cho con cái Mẹ Amen.

Tôi cũng còn một ước nguyện cuối cùng , đó là Chúa sẽ dùng cả gia đình tôi để làm một thí dụ , minh chứng cho Tình Thương tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho mọi người cho dù họ có bị rối nùi và bết bát đến đâu đi nữa.

Chúa sẽ còn làm sáng danh Chúa thêm nữa. Con ngợi khen Chúa.

Maria Thúy Vũ.

Hãy tin tưởng Mẹ Maria

Hãy tin tưởng Mẹ Maria

THANH ANH NHÀN

Tôi vốn là một người ngoại giáo, đã trở về với Chúa được hơn 8 năm nay là nhờ hồng ân của Đức Mẹ Maria. Ngày ấy, thằng con trai duy nhất của tôi bị ung thư máu và xuất huyết não nặng, nằm bệnh viện hơn một tháng mà bệnh không thuyên giảm, tình hình ngày một xấu đi. Và cuối cùng các bác sĩ đành bó tay cho về. Lòng tôi quặn đau, ruột gan tơi bời, tôi chết lặng mang con ra xe mà không cầm được nước mắt. Chồng tôi phờ phạc cả người, thẫn thờ như người mất trí…
Ngồi trên xe tôi bỗng để ý trước mặt tôi; một tấm ảnh Đức Mẹ của người Công Giáo, dán trên cửa kính xe với dòng chữ bên dưới tấm ảnh đập vào mắt tôi thật rõ: “Hãy tin tưởng vào Mẹ Maria, bạn sẽ thấy phép lạ là gì.” Sau này tôi được biết, đó là tấm ảnh Đức Mẹ Phù Hộ các Giáo Hữu, Đức Mẹ bế trên tay Chúa Giêsu, đầu Chúa và Mẹ đều đội triều thiên rất đẹp; và lời nói trên là của Thánh Don Bosco, một vị Thánh sống rất đẹp lòng Đức Mẹ.

Như người chết đuối vớ được phao, tôi mừng rỡ nhìn thật sâu thật lâu vào tấm ảnh với một lòng cậy trông, đặt hết tin tưởng vào Mẹ, qua lời người đã viết bên dưới bức ảnh. Tôi thưa với Đức Mẹ: “Thưa Bà, con là người ngoại đạo, con xin bà cứu chữa con của con. Con chỉ có một đứa con trai duy nhất, con con bị bệnh nặng, các bác sĩ đã chê và cho về, con biết chỉ có Bà mới cứu được con con khỏi tay tử thần. Bà ơi, con đặt hết lòng tin tưởng vào Bà, con van xin Bà cứu chữa con của con.”
Lòng tôi thì hết sức van vái, trong khi miệng tôi lẩm nhẩm kêu nài, vừa cầu xin tôi vừa nhìn lên bức ảnh với những dòng nước mắt chảy dài. Con tôi nằm trên tay, thằng bé chưa đầy mười tuổi đầu, mặt xanh nhợt, người mềm như sợi bún, nằm im như một xác chết vô hồn. Nhìn con rồi nhìn người đàn bà bế đứa trẻ trong bức ảnh, tôi nhủ thầm: “Bà ơi! Bà đã từng làm Mẹ, Bà cũng có con, Bà thấu rõ nỗi đau khổ của người mẹ đang cay đắng khổ sở thế nào khi mất đứa con! Xin Bà lấy lòng từ bi thân mẫu cứu sống con tôi. Tôi xin hứa với Bà nếu con tôi sống, gia đình tôi sẽ xin theo Đạo. Và dù chỉ có một đứa con trai duy nhất, tôi cũng xin dâng nó cho các Ngài, để suốt đời nó được phụng sự các Ngài…”
Xe chạy đường dài, mệt mỏi với những đêm thức nuôi con bệnh, tôi mệt mỏi thiếp đi khi lòng trí vẫn mơ màng cầu xin ơn cứu tử… Đang thiu-thiu ngủ mê ngủ mệt, tôi nghe tiếng động trở mình của con tôi, mở mắt ra, tôi thấy tay chân cháu quờ quạng như muốn nói điều gì, mắt nó mở to nhìn tôi thật lâu, rồi tự dưng nó nhoẻn miệng cười. Trời ơi! Thế này là thế nào? Tôi muốn hét lên: Con tôi tỉnh rồi! Ôi tôi mừng quá! Tôi sung sướng quá…
Tôi lặng người líu lưỡi gọi ba nó ngồi trên băng trước. Vội vàng, anh lao người xuống quì cạnh con, gục đầu trên thằng bé, cảm động đến tràn trề nước mắt… Thì ra anh cũng nhìn thấy tấm ảnh và cũng đã có những lời cầu xin tha thiết với Đức Mẹ như tôi. Nhìn con nằm im, gương mặt thoải mái dễ chịu, không tỏ vẻ đau đớn như những ngày trước, tuy cháu còn mệt và chúng tôi hỏi gì cháu cũng chỉ mỉm cười mà không nói. Bác tài xế nghe sự tình cũng xúc động rơi nước mắt đến nỗi bác phải ngừng xe lại, và thầm thĩ cầu nguyện để cảm ơn Bà đã cứu sống con tôi…
Rồi xe chạy một lát về tới nhà. Cháu tỏ ý muốn được ngồi dậy, xuống xe một cách yếu ớt đi vào nhà. Tôi và ba cháu chẳng hiểu sự việc làm sao, nhưng lòng đầy tin tưởng rằng chính Bà trong ảnh đã cứu con mình… Dìu cháu từng bước đi vào nhà mà tôi cứ như người trong mơ…
Về đến nhà, qua một tuần lễ ăn uống nghỉ ngơi lấy sức, cháu đã trở lại bình thường như không có bệnh gì. Tôi không cho cháu uống thêm thuốc bệnh, nhưng có cắt thêm thuốc bổ để cháu mau lại sức.
Sau đó một thời gian, tôi đưa cháu đi kiểm tra lại sức khỏe, qua siêu âm thử máu và làm các xét nghiệm, thì các bác sĩ vô cùng ngạc nhiên, vì không còn phát hiện ra mầm mống một chút gì của căn bệnh nan y này nữa. Họ bảo gia đình tôi: “Đây là một trường hợp hiếm có mà khoa học không thể giải thích được.”
Có một bác sĩ Công Giáo sau khi nghe tôi kể, đã bảo tôi nên đi xin lễ tạ ơn ở một Nhà Thờ nào đó. Và tôi đến đã xin các Cha ở DCCT dâng lễ tạ ơn vì con tôi được khỏi bệnh.
Qua sự việc này, gia đình tôi biết chắc chắn có bàn tay của Đức Mẹ đã thực hiện quyền phép của người, để cứu giúp những ai đặt hết lòng cậy trông, tin tưởng nơi Ngài khi gặp nguy khốn. Bằng chứng là Ngài đã chữa lành con tôi.
Để tỏ lòng cảm tạ ân nhân, tôi xin chủ xe tấm ảnh để hằng ngày được nhìn thấy và cầu nguyện với Ngài. Ông lái xe thật là người tốt, sẵn sàng biếu ngay. Ngoài vợ chồng tôi, ông là người được chứng kiến phép lạ đầu tiên, rồi cũng chính ông sau này đã lo liệu mọi sự, giúp đỡ chúng tôi trở thành người Công Giáo.
Thưa các bạn, suốt từ ngày tôi trở lại đạo Công Giáo đến giờ, tôi thấy mình luôn vui, sống có hy vọng, sống có ích, biết quan tâm giúp đỡ những người chung quanh, thay vì sống thờ-ơ chỉ biết có mình… Tôi cũng cùng sinh hoạt với các bà các chị trong hội đoàn của Giáo Xứ. Ở lối xóm lại biết chia sẻ cho nhau niềm vui nỗi buồn, mỗi tuần cùng đến nhà nhau đọc kinh liên gia. Tôi thấy cuộc sống gia đình chúng tôi rất ý nghĩa, không còn nhàm chán như trước…
Trong gia đình vợ chồng con cái biết yêu thương kính trọng nhau, nhờ được học hỏi để biết cầu nguyện và suy gẫm Lời Chúa. Con trai tôi cũng biết vâng lời cha mẹ, chăm chỉ ngoan ngoãn học hành, lại thường xuyên sinh hoạt Giáo Lý trong Nhà Dòng của các cha Don Bosco. Và được sự đồng ý như lời hứa của tôi với Đức Mẹ, cháu rất ước ao mong mỏi được dâng mình vào Nhà Chúa để lo việc phụng thờ Ngài…
Vâng! Lạy Chúa, cuộc đời còn lại của con xin được là một bài ca cảm tạ hồng ân vì những ơn lành của Chúa và Mẹ đã ban cho gia đình con, và sẽ là suối nguồn hạnh phúc mà Ngài tiếp tục ban cho chúng con mãi-mãi muôn đời. Amen. Amen… Tạ ơn Chúa…

THANH ANH NHÀN

Dòng Tên VN kỷ niệm 400 năm loan báo tin mừng trên đất Việt

Dòng Tên VN kỷ niệm 400 năm loan báo tin mừng trên đất Việt

Chỉnh Trần, S.J.

01/11/2014

Dòng Tên Việt Nam cử hành Năm Thánh kỷ niệm 400 năm loan báo Tin Mừng trên Đất Việt

Cách đây gần 400 năm, vào ngày 18.01.1615, ba nhà truyền giáo Dòng Chúa Giêsu (Dòng Tên) là linh mục Francesco Buzomi – người Ý, linh mục Diogo Carvalho – người Bồ Đào Nha và tu huynh António Dias – người Bồ Đào Nha đã đặt chân đến Đất Việt tại vùng biển Cửa Hàn – Đà Nẵng. Ý định ban đầu của họ là chăm sóc thiêng liêng cho một cộng đoàn Công Giáo người Nhật, những người đã chạy trốn khỏi các cuộc bách hại và đến sống ở Hoài Phố – Hội An.

Nhờ bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, các nhà truyền giáo Dòng Tên đã khám phá ra một cánh đồng truyền giáo bao la và phì nhiêu nơi vùng đất Con Rồng Cháu Tiên. Khởi đi từ biến cố này Tin Mừng của Chúa Kitô đã dần dần được loan báo rộng rãi tại cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài và đã đâm hoa kết trái phong phú tại quê hương Việt Nam. Trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa và tri ân các bậc tiền nhân, với phép của Tòa Thánh, Tỉnh Dòng Tên Việt Nam sẽ cử hành Năm Thánh mừng kỷ niệm 400 năm Loan Báo Tin Mừng tại quê hương Việt Nam từ ngày 18.01.2014 đến ngày 18.01.2015.

Trong một cuộc phỏng vấn do truyền thông Dòng Tên thực hiện, cha Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J., Giám tỉnh Dòng Tên Việt Nam, cho biết mục đích của Năm Thánh là để “Canh tân thiêng liêng cho anh em Dòng Tên Việt Nam; canh tân thiêng liêng cho (một số) tín hữu Công Giáo; khơi động tinh thần truyền giáo nơi (một số) giáo dân Công Giáo Việt Nam; giúp (một số) người Công Giáo Việt Nam biết về lịch sử truyền giáo tại quê hương; giúp (một số) người Việt Nam, ngay cả người không Công Giáo, biết về sự đóng góp của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam cho văn hóa dân tộc nhà (chữ quốc ngữ); cổ vũ ơn gọi Dòng Tên.”

Đức Thánh Cha Phanxicô, qua sắc lệnh của Tòa Ân Giải Tối Cao đã cho phép Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, Tổng Giám Mục phó Tổng Giáo Phận Thành phố Hồ Chí Minh và Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, quyền ban phép lành Tòa Thánh cùng với ơn Toàn xá khi long trọng cử hành Thánh Lễ khai mạc Năm Thánh vào lúc 8 giờ 30 sáng thứ bảy ngày 18 tháng 01 năm 2014 tại Nhà thờ Chính tòa Đức Bà Sài Gòn. Tòa Ân Giải Tối Cao cũng xác định các nhà thờ và nhà nguyện do Dòng Tên phụ trách được nhận ơn Toàn Xá gồm:

– Nhà thờ Hiển Linh (Thủ Đức),

– Nhà thờ Thiên Thần (Quận 2),

– Nhà nguyện cộng đoàn Đắc Lộ (171 Lý Chính Thắng, Quận 3, Tp. HCM),

– Nhà thờ Tạo Tác (Đà Lạt), nhà thờ Hoa Lư (Pleiku),

– Nhà thờ giáo họ Ngọc Mạch (Hà Nội)

– Nhà nguyện thánh Phanxicô Xaviê (Viêng Chăn, Lào).

Cũng theo cha Giuse Phạm Thanh Liêm, Dòng Tên sẽ tổ chức tĩnh tâm hằng tháng một ngày hoặc nửa buổi trước Thánh Lễ hằng tháng để lãnh nhận ơn Toàn xá; Thánh Lễ hàng tháng với chủ đề và bài giảng được chuẩn bị chu đáo, nhằm canh tân đời sống thiêng liêng của giáo dân và tu sĩ Dòng Tên; những khóa Linh Thao cho các thành phần dân Chúa ở những nơi và thời điểm khác nhau. Bên cạnh đó, Dòng Tên sẽ tổ chức các cuộc hội thảo, nhằm học biết và cổ võ cách thức loan báo Tin Mừng thích hợp với thế giới và con người ngày nay, qua việc nhìn lại lịch sử Loan Báo Tin Mừng tại quê hương Việt Nam.

“Chúng tôi hy vọng có được tinh thần và nhiệt huyết truyền giáo của các bậc cha anh khi nhìn ngắm các ngài trên cánh đồng truyền giáo. Qua những hội thảo chuyên đề về chữ quốc ngữ, chúng tôi cũng hy vọng giúp giáo dân Việt Nam, và cả những người không Công Giáo, nhận ra những đóng góp của người Công Giáo vào nền văn hóa dân tộc Việt,” cha Giám tỉnh Dòng Tên nói.

Ngoài ra, nhà Dòng cũng tổ chức các cuộc hành hương Phú Yên (nơi sinh của Chân phước) và Phước Kiều (nơi chân phước Anrê Phú Yên tử đạo), với ao ước giúp những người tham dự, được ơn hoán cải, ơn canh tân đời sống, và ơn trở nên những tông đồ nhiệt thành như chân phước Anrê Phú Yên.

Để chuyển tải những thông tin liên quan đến Năm Thánh và đặc biệt để hưởng ứng lời kêu gọi của Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô cũng như Đức đương kim Giáo Hoàng Phanxicô về việc sử dụng các phương tiện truyền thông trong sứ mạng loan báo Tin Mừng, truyền thông Dòng Tên Việt Nam đã thiết lập trang web Loan báo Tin Mừng tại địa chỉ: www.loanbaotinmung.net Trang web này sẽ là nơi cung cấp những bài viết về thời đầu Dòng Tên đến Việt Nam, những bài viết về việc Loan Báo Tin Mừng và về chữ quốc ngữ, những hình ảnh cùng những slideshows về Năm Thánh, Hội Thảo, và Hành Hương…

Tưởng cũng nên nhắc lại, đặc sủng của Dòng Tên là bước theo Chúa Giêsu vác thánh giá, trung thành với Giáo Hội và sẵn sàng để được vị đại diện của Người là Đức Giáo Hoàng sai đi đến bất cứ nơi nào, làm bất cứ việc gì theo các giá trị Tin Mừng nhằm Tôn Vinh Thiên Chúa Hơn và giúp ích cho con người hôm nay hơn, theo tinh thần chiêm niệm trong hoạt động.

Đặc sủng này được thể hiện qua sứ mạng phục vụ đức tin nối kết với thăng tiến công bình của Nước Thiên Chúa trong đối thoại với các nền văn hoá và các tôn giáo khác. Trong bối cảnh của một thế giới đang bị ảnh hưởng bởi trào lưu toàn cầu hóa, dẫn tới gia tăng những mâu thuẫn và xung đột, sứ mạng này được thực hiện ngang qua nhiều sứ vụ như giảng Linh Thao, giáo dục, tông đồ xã hội, mục vụ giới trẻ, suy tư và giảng dạy triết học và thần học, truyền thông… nhằm thiết lập những nhịp cầu hòa giải giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với nhau và với môi trường thiên nhiên.

Về ơn gọi, cho đến năm 2013, tổng số tu sĩ Dòng Tên trên toàn thế giới là 17,287 tu sĩ, trong đó có 12,298 linh mục, 1,400 tu huynh, 2,878 học viên (ứng viên linh mục) và 711 tập sinh và đang phục vụ tại hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, riêng tại Việt Nam, số tu sĩ còn rất nhỏ bé. Vào thời điểm 01/06/2013, số tu sĩ Dòng Tên (kể cả tập sinh) là 197 (gồm 01 giám mục, 46 linh mục, 99 học viên, 18 tu huynh, 33 tập sinh). Vì thế hoạt động của Dòng Tên tại Việt Nam còn rất giới hạn. Ngoài công tác huấn luyện, công việc chính yếu của tỉnh Dòng là giúp Linh Thao cho mọi tầng lớp Dân Chúa, giúp linh hướng trong hai đại chủng viện, dạy thần học và linh đạo trong một vài học viện của các dòng, làm việc trong cánh đồng truyền giáo, làm tông đồ xã hội giúp người nghèo, đồng hành với các nhóm như sinh viên và công nhân, mục vụ giáo xứ…

Dòng Tên Việt Nam hân hoan chào đón các bạn trẻ có lòng ao ước phụng sự Chúa, phục vụ con người trong Giáo Hội theo linh đạo Dòng Tên. Các bạn có thể liên lạc với linh mục Antôn Nguyễn Cao Thắng, S.J., Giám đốc nhà Ứng sinh qua địa chỉ email: ongoidongten@gmail.com

Chỉnh Trần, S.J.