Nghệ sĩ Hoài Linh đã trở lại đạo Công Giáo sau bao năm tháng anh xa Chúa.

GIÁO XỨ ĐA MINH – BA CHUÔNG

Thật vui Trong đêm Chương Trình Xuân Yêu Thương, ngày 12.1.2023, tại giáo xứ Đa Minh Ba chuông, đã mời Nghệ sĩ Hoài Linh lên chia sẻ cuộc đời sống đạo trước đây của mình, và bây giờ Nghệ sĩ Hoài Linh đã trở lại đạo Công Giáo sau bao năm tháng anh xa Chúa.Hoài Linh, lúc bé đã từng là cậu bé giúp lễ tại giáo xứ Dầu Giây, giáo phận Xuân Lộc. Hoài Linh theo bà Nội đi lễ từ lúc 4 giờ sáng mỗi ngày.

Video gốc của nhà thờ ba chuông với phần trình diễn và tâm sự của Hoài Linh:

Trực tiếp đêm nhạc Xuân Yêu Thương lần 9 – 12.01.2023

From: Phan Sinh Trần

CÔ TIẾP VIÊN HÀNG KHÔNG

Kẻ Đi Tìm

Hôm đó, trên chuyến bay từ Ý về Mỹ, mang theo một số Giám Mục mới đi dự Công đồng Vaticanô II về, trên máy bay có một nữ tiếp viên hàng không rất xinh đẹp tên là Louise Bannet.

Suốt chuyến bay, cô rất bực mình vì một đôi mắt cứ nhìn chòng chọc vào cô, và đôi mắt đó không phải của ai khác hơn là Đức Cha Fulton Sheen, vị tông đồ lừng danh nước Mỹ.

Khi phi cơ hạ cánh, và đợi cho hành khách xuống hết, vị Giám mục mới tiến đến trước mặt cô, nói nửa nghiêm trang nửa bông đùa:

– Cô đẹp lắm! Cô hãy cám ơn Chúa vì đã cho cô đẹp.

Câu chuyện tưởng như vậy là xong.

Có ai dè đâu là mấy hôm sau, có tiếng gõ cửa văn phòng làm việc của Đức Cha Fulton Sheen.

Cô tiếp viên hàng không hôm nọ xuất hiện một cách đầy tự tin. Cô vào thẳng đề tài:

– Câu nói của Đức Cha mấy bữa trước làm cho con suy nghĩ mãi. Con phải cám ơn Chúa thế nào đây?

– Cô biết trại phong cùi Di linh ở Việt Nam chứ?

– Vâng, con đọc báo có nghe nói đến!

– Chúa đã lấy hết sắc đẹp của những người ở đó mà ban cho cô. Cô hãy qua bên đó an ủi họ.

Vâng! Chỉ từng ấy! Cô ctiếp viên hàng không trút bỏ cả tương lai huy hoàng, đã tự nguyện khoác lấy chiếc áo nữ tu trong Hội Dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn Việt Nam, tình nguyện phục vụ những người cùi ở Di Linh tại Việt Nam, để cảm ơn Chúa đã ban cho mình sắc đẹp.

Chị Louise Bannet đã tình nguyện ở lại trại phong Di Linh suốt đời. Nhưng biến cố của năm 1975 gây ra nhiều biến động, khiến Chị không thể tiếp tục ý nguyện của mình. Sau mười năm phục vụ người phong, Chị đã phải lên đường về nước. Một thời gian sau, Chị lại xin Nhà Dòng cho đi phục vụ bệnh nhân phong cùi ở Tahiti.

Năm 1982, sau nhiều ngày bị căn bệnh ung thư quái ác hoành hành, Chị Louise Bannet đã qua đời giữa sự tiếc thương vô cùng của cộng đoàn anh chị em phong cùi tại Tahiti.

Sơ Cecilia trút hơi thở cuối cùng (43 tuổi) với nụ cười rạng rỡ trên môi.

Tu Le

Mình đã chứng kiến rất nhiều cái chết, đủ kiểu, vì nhiều nguyên nhân, trong nhiều tình huống khác nhau.

Nhưng đây là hình ảnh vô cùng hiếm hoi:

Sau thời gian chống chọi với căn bệnh ung thư phổi, sơ Cecilia (Tu viện Thánh Têrêsa ở Santa Fe – Argentina) trút hơi thở cuối cùng (43 tuổi) với nụ cười rạng rỡ trên môi.

Sau này, khi biết đến khái niệm “cận tử nghiệp” của Đạo Phật, thì 10 phần hiểu đến 7, 8 phần, cái khoảnh khắc ấy thể hiện toàn bộ “nghiệp” lúc sinh thời (trừ trường hợp chết bất ngờ, đột tử)

Tâm lý của tuyệt đại đa số đều sợ chết, điều ấy là tất nhiên. đặc biệt với những người khi còn sống tham lam, ích kỷ thì càng sợ chết, thậm chí không bao giờ dám “đả động” đến khoảnh khắc ấy (sợ xui!).

Ngược lại, những người có đức tin, hầu như không sợ điều đó.

Tất nhiên, đức tin của mỗi tôn giáo là khác nhau, nhưng đều có chung một điểm: “Chết không phải là hết !”

Ở đây không làm cái việc so sánh giữa các đức tin (điều ấy không phù hợp) chỉ nói trong phạm vi biết và hiểu rất hẹp của mình.

Ngày còn sống, ông Thản kể lần ổng chết lâm sàng (rất giống và khớp với những trường hợp khác mà mình biết) Chỉ trong khoảnh khắc, ổng thấy lại gần như toàn bộ cuộc đời từ lúc còn nhỏ, những kỷ niệm sâu sắc nhất lần lượt xuất hiện rất nhanh như cuộn phim đang “tour” lại, rồi bị hút vào một không gian sáng trắng, không có gì, cho đến lúc ông nghe thấy các y tá, bác sĩ đang gọi ông.

Khoảnh khắc sắp lìa đời trong đạo Phật gọi là “cận tử nghiệp” và được Phật tử rất chú trọng (đặc biệt trong Kim Cang thừa)

Một đời người luôn luôn ở trong ba trạng thái : thiện, ác và không thiện không ác. Khoảnh khắc sắp chấm dứt hiện đời quyết định con đường (luân hồi) kế tiếp, dựa trên ba trạng thái đó, vì vậy mà ta có thể thấy hiện tượng : có người ra đi rất thanh thản, có người đau đớn vật vã và cũng có người ra đi trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh.

(Để biết sâu hơn, bạn hãy tìm nghe các bài giảng của các thượng toa, hòa thượng nói về cận tử nghiệp)

Dĩ nhiên, sống một đời tham tàn, đến lúc đó mới hối hận là quá muộn, thậm chí không cần là một người quá tham lam, độc ác mà chỉ là người luôn khó chịu với người xung quanh, luôn coi thường người khác hoặc chỉ bo bo vì mình, khoảnh khắc cuối cùng luôn tạo ra sự ăn năn, hối hận muộn màng.

Nữ tu Cecilia (Argentina) ra đi với nụ cười vì chẳng những cô sống một đời phạm hạnh mà cả cuộc đời cô mang lại niềm vui và hạnh phúc cho người khác, cô không có gì để hối tiếc khi ra đi,

Tất cả những ai (không phải người tu hành) khi sống một đời tương tự sẽ ra đi thanh thản tương tự.

Ý thức đã ngưng, nhưng nghiệp thức vẫn còn để đi tiếp …

Bài này viết cũng đã lâu (2017), nhưng vì vừa cày vừa nhớ lại câu chuyện hôm qua …

Karen hỏi mình về “democracy … here and there …!” Mình bảo “… do nothing …!”

“Do nothing” nghĩa đen là “chẳng làm gì cả” … nhưng nghĩa bóng (không giải thích cho Karen – vì câu chuyện xoay quanh sự khác nhau trong tranh mình vẽ cho mình và cho khách) là: không tạo ra “nhân” dù lớn, dù nhỏ, ít hay nhiều cho bất cứ “quả” độc nào!

Le Van Quy Share từ FB anh Nguyen Thanh Binh

MỘT CON NGƯỜI, MỘT BÁC SĨ, MỘT TÍN HỮU: Trần Hữu Ngoạn

MỘT CON NGƯỜI, MỘT BÁC SĨ, MỘT TÍN HỮU: Trần Hữu Ngoạn

Trần Thị Quỳnh Giao – FMM.

Một cuộc đời dày đặc yêu thương, nghiêm khắc với chính mình và biết cười… tươi, hoàn toàn thoải mái với những câu nghịch ngợm khôi hài của người khác, đặc biệt khi bị chọc quê. Một cuộc đời cho đi mà không tính toán, không tìm lợi danh… Hình như đó là cuộc sống mà Thầy Chí Thánh ước muốn cho môn đệ mình.

MỘT CON NGƯỜI, MỘT BÁC SĨ, MỘT TÍN HỮU

Viết về Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn đối với tôi là một cuộc trở về, trở về với quá khứ của một con người cũng như trở về với chính mình. Với một con người trước đây là một đảng viên cấp cao, đầy quyền lực trong một xã hội quyền thế vốn nhiều bóng tối. Với chính mình vì phải làm một cuộc ngoảnh mặt với những biến cố ít nhiều đã gây nhức nhối một thời… để tìm về một cái gì sâu thẳm hơn còn dấu kín trong lòng người, để có thể vươn cao hơn cái tầm thường của bản tính nhân loại và qua đó khám phá được Chân Lý tiềm ẩn nơi họ. Chân Lý đó chính là sự hiện diện của Thiên Chúa trong sâu thẳm của lòng người vì “con người là đường đi của Giáo Hội”, mời gọi ta tôn trọng và yêu thương.

Cần nói thêm là những gì tôi viết ra đây phần rất lớn là do những lần tâm sự của hai Ông Bà. Có thể có những điều báo chí đã biết và viết về Bác Sĩ, nhưng những chia sẻ sau đây hoàn toàn là những chia sẻ thâm tình mà Bác Sĩ và Chị Yến đã gởi gắm vào tôi “ước mong một ngày kia Soeur Quỳnh Giao có dịp viết về mình với những tâm tư thầm kín sâu thẳm nhất của tôi dành cho Soeur…”. Giờ đây, tôi lại có dịp viết về Bác Sĩ và Chị Yến.

  1. CON NGƯỜI.

Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn người gốc làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm. Sinh ra trong một gia đình nghèo khó ở ngọai thành Hà Nội. Cha mẹ không có cơ may học hành, không thể hướng nghiệp gì cho chàng trai trẻ. Học hết phổ thông, anh Ngoạn nộp đơn xin vào Đại Học Y Hà nội. Năm đó là năm 1955. Ngày nộp đơn, bạn bè cũng như cha vợ tương lai ngăn cản và nài xin con gái “cố gắng khuyên Ngoạn nên đổi nghề khác chứ làm nghề ấy khổ lắm!”. Nhưng sau lần đi khuyên ấy, người bị thuyết phục lại là con gái cụ, bởi “em yêu anh nên muốn điều anh muốn”. Nhắc lại chuyên xưa, Chị Yến cười nói : “Em nói …nhưng anh ấy có nghe đâu, lại còn bảo: “Em ủng hộ anh nhé !”. Nói sao đây, thôi đành kệ anh !”.

Tháng 2 năm 1962, tốt nghiệp y khoa, với lời thề Hippocrate, Bác Sĩ Ngoạn nắm tấm bằng trong tay và… mới cưới vợ chưa đầy 1 tháng, sống với vợ vỏn vẹn chừng 10 ngày… để biền biệt đi mãi… – chàng Bác Sĩ trẻ 27 tuổi Trần Hữu Ngoạn lại làm cho ông Cha vợ một phen “sốc” lần nữa khi xung phong vào làm Bác sĩ ở Khu điều trị phong Qùynh Lập. Chị Yến tâm sự : “Lúc đó em được 18 tuổi. Để em khỏi bịn rịn khóc lóc, anh ấy chờ em đi dạy, viết lại mấy chữ đặt ở bàn nước rồi khoác balô lên đường. Em không hề được hưởng hạnh phúc lâu dài với anh…. Đến giờ Soeur biết không… gần hơn 35 năm chung sống, anh chỉ ở với em tổng cộng nhiều lắm hơn 18 tháng !… ” (bây giờ bệnh hoạn, chị Yến một tay nuôi chồng…).

Một điều thú vị mà có lẽ nhiều người không biết, Bác Sĩ Ngoạn là một người Hà Nội ham mê âm nhạc từ nhỏ. Có dịp đi Mỹ dự một Hội Nghị Phong quốc tế năm Bính Thìn, Bác Sĩ rạng rỡ vui mừng khoe một trong những “thắng lợi”của chuyến đi nầy: “Một Bác Sĩ Mỹ tặng tòan bộ tác phẩm của Beethoven trong cuốn băng có chất lượng thu thanh tuyệt hảo : về hưu sẽ thưởng thức cái thú nghe những băng nhạc ấy trên căn gác nhỏ thanh tịnh chứ !…”. Có lần, để tưởng nhớ 200 năm ngày sinh của Beethoven, Bác Sĩ đã vượt qua bom đạn trở về Hà Nội …chỉ để mời bạn bè yêu thích nhạc đến nhà làm một cuộc kỷ niệm nho nhỏ về nhạc sĩ vĩ đại nầy. Tại Qui Hòa, Bác Sĩ có cho làm một khu du lịch với hình một chiếc đàn, được hỏi vì sao lấy chiếc đàn nầy, Bác Sĩ cho biết:” Vì còn trẻ tôi đã chơi đàn nầy …và Nhạc Sư của tôi là Thầy Đỗ Tình”. Khi trốn vợ đi phục vụ người phong Bác Sĩ đã để lại cây đàn violon và niềm vui tinh thần lẫn vật chất để đến với người phong.

CON NGƯỜI Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn được mang nhiều tên khác nhau làm nên CON NGƯỜI được nhiều người qúy trọng và thương yêu : Người Bác Sĩ “điên khùng” và mặc cảm. Người Bác Sĩ thích dây dưa với…hủi. Một người khùng đáng yêu. Người của người bất hạnh. Người của lòng nhân ái. Người “xúc cảm với bệnh nhân phong”. Người ta chỉ “xúc cảm” với cái đẹp, với nghệ thuật, với người đẹp !… Một Nhà Khoa Học với tâm lòng nhân hậu… Vì sự nghiệp, Bác Sĩ là một trong số ít nhân viên không có gia đình ở gần. Hầu hết các Bác Sĩ trong trại là những nhân viên địa phương, có nhà trong thành phố ; hết giờ làm việc thì về với gia đình. Cuộc đời Bác Sĩ, hơn 31 năm vào nghề cũng bằng từng ấy năm sống xa vợ con. Nhiều bạn bè khoa học có tầm cỡ cũng khuyên Bác Sĩ nên xin về với vợ con để họ bớt bị thiệt thòi, nhưng Bác Sĩ không nỡ bỏ bệnh nhân. Bác Sĩ kể : “Một lần mình được Bộ Trưởng Y tế mời đến họp. Đã lâu không gặp ông Bộ Trưởng, nên khi gặp Ông ta, ông liền nói : “Ah! Anh Ngoạn ơi ! Người ta thường khi gặp ông lớn thì ngưới ta xin 3 điều: một cho tăng lương, hai cho tăng chức, ba cho về ở gần gia đình. Anh nên xin một điều gì cho anh.” Bác Sĩ trả lời : “Lương đối với tôi tương đối đủ sống !… Chức thì anh biết rồi đó, đối với tôi chỉ là một trò cướp giựt dơ bẩn. Còn về ở gần gia đình, thì người thầy thuốc ưu tiên là người của bệnh nhân …”. Và Bác Sĩ đã không xin gì cả.

Một sự kiện lớn khác minh họa cho con người không tham quyền hành mà chỉ chú tâm phục vụ người xấu số. Tháng 8 năm 1995, Liên Hịêp Bệnh Viện Phong Quốc Tế (International Leprosy Union) của Ấn Độ bầu chọn Bác Sĩ Trần Hũu Ngoạn lãnh giải thưởng quốc tế Gandhi. Bộ Trưởng Y Tế liền lệnh cho Bác sĩ và các cơ quan nhanh chóng làm hồ sơ để kịp đi. Bác sĩ Ngoạn trả lời trong một bức thơ đề ngày 9 tháng 10 năm1995: “…Tôi công tác phục vụ bệnh nhân phong đã lâu, thấy người bệnh đang còn bao nỗi khổ mà bản thân mình vì nhiều lý do cũng chưa phục vụ họ được nhiều lắm. Từ nay đến cuối đời, tôi sẽ để tâm trí phục vụ họ nhiều hơn nữa. Khi nào thấy mình xứng đáng với giải thưởng lấy tên là Gandhi, lúc đó được Bộ cho phép làm hồ sơ nhận giải thưởng thì tôi vô cùng sung sướng và thanh thản …”. Sau đó qua các cơ quan Y tế và Vụ Hợp Tác Quốc Tế, Bác Sĩ Bộ Trưởng gởi kèm ít chữ sau đây cho Bác Sĩ Ngoạn : “Rất thông cảm với sự khiêm tốn của Anh Ngoạn. Đề nghị Anh Ngoạn làm hồ sơ để nhận vì vinh dự của đất nước, của ngành và cá nhân. Sau nầy Anh Ngoạn dùng số tiền đó cho cá nhân hoặc cho sự nghiệp đều có lợi cả. Nên làm sớm cho kịp.” Với bức thư nầy, Bác Sĩ đã rất ưu tư, tìm đến gặp tôi mong được soi sáng. Tôi chân thành góp ý nên đi, để nhiều bệnh nhân được nhờ. Bác sĩ bèn nổi nóng, cho tôi biết :” Quỳnh Giao có biết Bộ trưởng nói gì với tôi không ?Anh nhận đi, 1 phần dành cho anh và phần còn lại cho Bộ (giải thưởng là 30.000 USD)”. Tôi buộc phải trả lời : “Người đáng nhận giải thưởng này nhất, là các Nữ Tu Phan Sinh và các bệnh nhân của họ”. Và Bác Sĩ đã không làm hồ sơ nhận giải thưởng trên. Nhiều nhà báo sau đó đến phỏng vấn Bác Sĩ và muốn biết vì lý do gì mà Bác Sĩ không nhận. Bác Sĩ trả lòi : “Nhiều năm sống và làm việc bên cạnh những người tu hành của dòng tu nầy mới biết họ có một lẽ sống đặc biệt. Họ chấp nhận cuộc sống khổ hạnh, tự nguyện làm những việc thiện một cách âm thầm để phục vụ những người bất hạnh. Họ không muốn những lời ca tụng, vì họ quan niệm chấp nhận sự ca tụng cũng có nghĩa là chấp nhận một tội ác”. Cuộc sống của họ tuân theo một nguyên tắc thật đơn giản : “bàn tay trái không được biết việc làm của bàn tay phải và ngược lại. Nhiều tấm gương của dòng tu nầy đã được nhiều bệnh nhân truyền tụng. Họ kể về một bà sơ Charles Antoine, nguyên là Giám Đốc trại, có lần đến thăm nơi ăn ở của bệnh nhân, thấy một hố xí bị tắc mà không ai dám dọn, Bà liền thọc tay xuống và moi từ dưới lên những mảnh giẻ mà họ đã vô ý vứt xuống.”

  1. SỰ NGHIỆP…. :

1/ Quỳnh Lập :

Quỳnh Lập là trại phong lớn nhất miền Bắc. Khoảng 2600 bệnh nhân đã sống trong những mái nhà tranh tre lụp xụp, nghèo nàn. Thời còn sinh viên, thực tập tại Quỳnh Lập, Bác Sĩ chia sẻ : “Có lẽ khởi nguồn tôi đến với các bệnh nhân phong là từ nỗi đau đớn tinh thần của họ, sự mặc cảm sâu sắc của họ trước sự kỳ thị ghê gớm của xã hội, và cả tấm lòng qúy người cách kỳ lạ của họ nữa… đã khiến tôi phải suy tư rất nhiều. ”

Bác Sĩ tiếp : “Ngày còn là sinh viên thực tập, tôi đã chứng kiến cảnh người đi khám bệnh, biết mình bị hủi là về nhà tự tử. Ngay cả ngành Y cũng đã làm cho người ta sợ vì những quy định kỳ cục : thư từ của bệnh nhân gởi ra ngoài phải được đóng dấu : “đã hấp chín”; có nơi ngưòi bệnh chỉ được nói chuyện với người thân qua một lớp kính chắn. Nơi tôi làm việc -Quỳnh Lập- nhân viên y tế làm ở khu vực riêng cách bệnh nhân mấy cây số !. Khắc phục một tâm lý sai lầm còn gay go hơn tìm ra cách chữa một căn bệnh. Việc làm đầu tiên của tôi để chống lại tâm lý ấy là tự động vào sống chung với bệnh nhân. Sau khi nhận trách nhiệm Giám Đốc tôi quyết định đưa khu làm việc vào sát khu bệnh; lấy một số bệnh nhân đã được khỏi, làm nhân viên”.

Trở lại Quỳnh Lập với chức Giám Đốc –lần nầy không còn có thể trốn vợ như truớc bởi đã 40 tuổi và là cha của ba người con – hai trai một gái. Sợ vợ ngăn cản, ông mặc cả rằng: “Cho anh đi 10 năm nữa, năm em 40 tuổi thì anh về Hà Nội”. Trở lại chỗ cũ, tất cả chỉ còn một đống tan hoang vì bom đạn đã tàn phá ngôi làng. Hơn 200 bệnh nhân chết, chỉ còn lại vài người trong những túp lều tranh lụp xụp. Không nhà cửa, nhiều người tìm về các hang núi sống như người rừng. Tất cả phải làm lại. Vừa xây nhà, ông vừa phải đi đến từng hang núi tìm và đem bệnh nhân về.

Qua tiếp xúc với họ Bác Sĩ Ngoạn hiểu thêm rằng người phong sống một cuộc đời đau đớn về thể xác và tinh thần, bị người đời và cả gia đình xa lánh. Những bệnh nhân khỏi bệnh nhưng không được xã hội đón nhận, Bác Sĩ bố trí việc làm cho họ và đấu tranh cho sự bình đẳng của họ.

2/Quy Hòa :

Có thể nói giờ đây không ai mà không biết đến tên tuổi của Bệnh Viện Hansen Qui Hòa–Qui Nhơn thuộc Hội Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ, được thành lập từ năm 1929, Qui Hòa càng ngày phát triển và nhiều bệnh nhân từ xa xin đến được chữa trị. Bệnh Viện cũng đã đón tiếp những nhà thơ, những ca sĩ, tu sĩ, được chọn làm nơi quay những chuyện phim với những cảnh núi đồi biển cả hùng vĩ, thơ mộng.

Chấp nhận làm Giám Đốc bệnh viện mặc dù việc quản lý Bệnh viện gặp vô vàn khó khăn, Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn chấp nhận khoảng cách tình cảm giữa vợ chồng con cái, gia đình kéo dài thêm hằng ngàn cây số ! Bác Sĩ Ngoạn không có “mộng ước làm quan”, một đời chỉ mong sao góp phần giảm bớt nỗi đau, đem lại hạnh phúc cho người bệnh và nghiên cứu thực hiện những công trình khoa học cùng với Viện dịch tể Hà Nội nghiên cứu vi trùng qua kính hiển vi điện tử và hợp tác với các nhà khoa học Pháp, Hà Lan, Bỉ cùng nghiên cứu về bệnh phong.

Ngày nay với tiến bộ y học, người ta có thể chữa trị bệnh phong theo phương pháp đa hóa trị liệu, chứ không đơn thuần dùng DDS như trước đây. Ngay trong Quy Hoà, Bác Sĩ dành riêng một khu vực điều trị cho những người mắc bệnh mới vào, chữa cho khỏi rồi cho họ ra về với cộng đồng. Bác Sĩ thường đi Tây Nguyên giúp người bệnh có những kiến thức cần thiềt để có khả năng phát hiện bệnh sớm.

Nhân làm Giám Đốc Qui Hòa từ năm 1985 đến 2001, Bác Sĩ muốn biến khu bờ biển tuyệt đẹp này thành khu du lịch. Ông nghĩ điều nầy sẽ giúp quan niệm của ông là xoá bỏ dần sự ngăn cách giữa người bệnh và xã hội, đồng thời nâng cao thu nhập cho nhân viên. Vì vậy phải làm lại con đường vào Qui Hòa lâu năm bị mưa lũ xói lở. Con đường dài 2.600m. Khi Bộ đồng ý đầu tư cho trại làm lại con đường đèo, nhiều chủ đầu tư đã đến xin ông cho họ làm theo hình thức khoán gọn công trình, trong đó ông được 12% giá trị công trình. 12% của con đường trị giá vài tỉ là món tiền không nhỏ. Cơ quan giao thông dự trù 700 triệu. Bác Sĩ Ngoạn nhờ người thiết kế và cho những người dân làng phong còn sức khoẻ thi công, vừa tạo vịêc làm, có thu nhập và quan trọng hơn, giúp người bệnh xóa bỏ mặc cảm. Cuối cùng chi phí chỉ lên 140 triệu ! Không được ăn thì đạp đổ: đơn kiện ông bay đi khắp nơi, vu cáo là ông không trong sáng trong vấn đề tiền bạc, ăn chặn tiền từ thiện, tha hoá về tư tưởng… Và một ngày kia … cũng chẵn 10 năm làm Giám Đốc, một lần nữa ông nhận quyết định thôi làm giám đốc vì “không đủ khả năng làm quản lý” …và nhận nhiệm vụ mới: chuyên viên của Vụ Điều Trị kiêm…tạp vụ.

Bác Sĩ đã nếm đủ vinh quang và cay đắng của cuộc đời, của một thể chế bất công, dành giựt quyền hành mà không sợ chà đạp trên danh tánh và lương tri của một con người. Hai lần làm Giám Đốc, hai lần bị cách chức không có lý do! Giữa hai làn bom đạn, Bác Sĩ Ngoạn được gọi về Hà Nội làm ở khoa Da Liễu Bệnh Viện Bạch Mai, và vẫn là Bác Sĩ điều trị phong.

3/ Biến cố 23 tháng 10.1984 tại Phú Khánh :

Đó là biến cố của lòng nhân ái, liên đới với bệnh nhân mà mình phục vụ đồng thời cũng là một biến cố khoa học dũng cảm của một con người yêu thương bệnh nhân thật sự. Vào ngày ấy Bác Sĩ Ngoạn có dịp ghé thăm bệnh Viện Da Liễu Nha Trang. Trong đó có vài giường chứa bệnh phong. Nhân viên y tế có thái độ kiêng kỵ, tách biệt rõ rệt với bệnh nhân, Bác Sĩ giải thích nhưng nhân viên không tin. Ông bèn nói : “Các cô cậu có muốn tớ tiêm trực tiếp trực khuẩn Hansen vào mình tớ không ?” – “Đuợc vậy thì thuyết phục chúng em ngàn lần hơn các tài liệu y khoa”. Cuộc thí nghiệm đựơc bắt đầu với sự chứng kiến của các giới chức khoa học, Giám Đốc Viện Pasteur Nha trang, Tiến Sĩ vi trùng học Nguyễn Thị Thế Trâm và nhiều Bác Sĩ chuyên khoa của Bệnh Viện. Lúc đó có hai bệnh nhân phong, thể ác tính, 25 và 12 tuổi. Bác Sĩ Ngoạn đã lấy 200 milligramme u phong ở dái tai của người bệnh, được sự kiểm tra phân chất của các nhà khoa học chuyên môn có mặt. Mầm bệnh được lấy từ những vết lở loét trên cơ thể bệnh nhân. Bệnh phẩm, sau khi được nghiền nát, hòa với nước muối sinh lý, lọc lấy phần “tinh túy” và kiểm tra có đủ trực khuẩn có thể gây bệnh. Như vậy Bác Sĩ Ngoạn đã đưa vào cơ thể mình hàng tỷ trực khuẩn bằng nhiều đường : nhỏ vào mũi, uống và tiêm vào hai khuỷu tay và hai dái tai là những nơi trực khuẩn nầy dễ phát triển. Dám làm điều đó chỉ vì tin vào mình, tin vào kiến thức của nhân loại và đồng thời cũng chứng minh là bệnh phong không lây nhiễm và qua đó đánh tan mặc cảm cho bệnh nhân và xích xã hội lại gần hơn với họ.

Với biến cố nầy Bác Sĩ Ngoạn đã chiếm lòng mọi người, đặc biệt các bệnh nhân phong.

4/Vụ Điều Trị của Bộ :

Về đây Bác Sĩ vẫn tiếp tục nghiên cứu và giúp đỡ bệnh nhân qua những lần đi đây đó trên quê hương tìm thăm bệnh nhân và xem cách điều trị hữu hiệu hơn nữa.

III….. VỚI NHỮNG GIÁ TRỊ PHÚC ÂM :

1/ Một lòng yêu thương người phong hủi :

Những điều đã nói trên chắc chắn đã cho thấy lòng tận tụy yêu thương bệnh nhân phong hiếm có nơi CON NGƯỜI nầy. Nhưng tôi cũng không thể bỏ qua một sự việc khác, mà đối với chúng ta là những người Kitô hữu và Tu sĩ, không biết chúng ta đã làm được chưa ?

Trong cuộc đời bình thường, BS là một con người giản dị, lạc quan, rất biết cười và cười thoải mái, đặc biệt khi tôi chọc “quê”. Chị nhà cứ nói : “Không hiểu sao anh Ngoạn khi nào mà có Soeur Quỳnh Giao chọc ghẹo thì anh cười thoải mái và cười “hết mình”…!”. Một cô gái Hà Nội duyên dáng, dễ mến, là giáo viên cấp II, lấy một anh chàng Hà Thành như Bác Sĩ Ngoạn, mê nhạc, khôi hài, lạc quan, phúc hậu, là mẫu người mà vợ anh xưa kia hằng ao ước, mà bây giờ vẫn còn là thần tượng của chị… lại chấp nhận, vì người bệnh phong… để sống xa vợ con suốt một quãng đời dài !… Cuộc sống vợ chồng, được ở bên nhau là điều hết sức tự nhiên mà cũng khước từ để cống hiến cho tha nhân. Bác Sĩ sẵn sàng đến với thế giới phong hủi để chữa bệnh cho những người hằng tuyệt vọng…

2/Một tấm lòng thẳng thắn tìm về chân lý :

Vì tâm hồn trong sáng, nên khi gặp các Nữ Tu, Bác Sĩ qúy trọng và tín nhiệm “bởi họ sống trong sạch hết mình, không bon chen, lừa lọc…Tư tưởng vô thần và hữu thần ở đây không có nghĩa gì cả, cao nhất trong đạo lý làm người là yêu thương tận tụy đối với nhau …” Bác Sĩ trả lời khi bị vu khống là thiên về tôn giáo! …

Trong xã hội hiện thời, khi cuộc sống không còn chuẩn mực thước đo, khi nghĩa cử tốt đẹp còn hiếm, khi tiền là tất cả và giả dối lan tràn khắp phố phường, nghành nghề, ở mọi cấp bậc, khi người ta bịa đặt xấu xa để vu cáo nhau, lại dễ làm người ta tin hơn là nói thật những điều tốt đẹp… thì tìm được một viên ngọc qúy thật là vất vả. Và Bác Sĩ Ngoạn là mẫu người của lòng trong sáng, thẳn thắng, không ham danh lợi. Một tấm lòng như thế chỉ có thể hướng về chân lý, chuẩn bị đón nhận hồng ân của Sự Thật, của Chân lý, là chính Thiên Chúa.

3/ Một con người liêm chính, khiêm tốn và khắc khổ :

Mấy năm cuối cùng làm việc ở Vụ Điều Trị, ông sống lặng lẽ, hoàn thành công việc của một công chức liêm chính. Thời gian còn lại, ông cố gắng tập họp tư liệu để viết quyển sách : “Bệnh phong, lý thuyết và thực hành – Tóm Tắt” dày 600 trang được in tại nhà Xuất Bản Y Học.

Lần kia, trong một cuộc gặp mặt cuối năm giữa Bộ Trưởng Đỗ Nguyên Phương với anh em cơ quan Bộ, sau khi nhận bó hoa do công đoàn cơ quan tặng, Bộ Trưởng nói rằng, chính Bác Sĩ Ngoạn là người xứng đáng nhận bó hoa nầy. Lúc nầy nhiều người mới biết hai người cùng là bạn học ở Đại Học Y Hà Nội ! Đó cũng là lần duy nhất ông được “vua biết mặt, chúa biết tên !” Vì nguyện vọng của ông sau khi nghỉ hưu là làm tình nguyện viên y tế để giúp đồng bào dân tộc ít người ở các vùng nghèo nàn lạc hậu còn nhiều khó khăn về y tế, nên Bộ Trưởng Bộ Y tế đã viết ngày 28 tháng 9 năm 1998 : “…Tôi thật sự rất cảm kích và hoan nghênh tinh thần xung phong tình nguyện của anh. Cá nhân tôi cũng như tập thể lãnh đạo Bộ Y Tế luôn đánh giá cao công lao đóng góp của anh liên tục trong nhiều năm qua cũng như hiện nay đối với sự nghiệp chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân nói chung… đối với công tác phòng chống và thanh toán bệnh phong nói riêng… là một nghĩa cử cao đẹp, là tấm gương rất đáng học tập…”. Suốt một cuộc đời, Bác Sĩ Ngoạn không hề nhận về cho mình một thành tích nào mà chỉ lẳng lặng đi tìm phục vụ người xấu số.

“Vị ẩn sĩ” liêm chính, khiêm tốn nầy cũng sống rất khắc khổ và ít nói. Ngồi trong xe đi công tác đây đó, đôi khi mở miệng chỉ để nói : “ai cần mở cửa sổ thì cứ mở, tôi chịu lạnh quen rồi”. Hành lý đi đường của ông lẹp xẹp dù mới đi Mỹ đi Pháp về. Đôi dép thì mòn gót, te tua. Ăn mặc đơn giản: có lẽ gia tài của ông không quá ba bộ áo quần. Được hỏi qua Mỹ hay Pháp có mua sắm gì cho mình không, Bác Sĩ trả lời : “Không, không sắm gì, chỉ xin đươc một lô quần áo cho khu điều trị. Mua cho vợ con vài món… Của ăn đường dài chỉ một ổ bánh mì khô, hoặc vài bánh biscuit !… Bác Sĩ nói : “Mình đã chuẩn bị sống thích nghi với hoàn cảnh khó khăn nhất. Mình có thể ăn thật ít, thật khổ, có khi nhịn cả ngày cũng được. Nếu bị bệnh thông thường mình không hề uống thuốc mà để bệnh tự hết. Mình không có nhu cầu gì lớn cho bản thân. Nếu không tập một sức đề kháng như vậy, không sống với bệnh nhân và đồng bào dân tộc được đâu”.

Không hút thuốc, không rượu chè café. Bia chỉ uống một lon khi cần. Do nếp sống khắc khổ bản thân của ông, đã gặp nhiều điều không mấy dễ chịu trong công việc. Có những người không thích cách sống khổ hạnh, liêm khiết của ông; không thích ông có vẻ như tán dương tinh thần làm việc tận tụy của các bà sơ “vì suốt đời cống hiến cho người bệnh, tới lúc chết vẫn không cho phép ai nhắc đến việc làm của mình”.

Đó là tác phong và y đức của một người thầy thuốc, quả là hiếm có trong thời buổi nầy.

  1. CHẶNG DỪNG CHÂN :

Tâm hồn màu mỡ ấy đã sẵn sàng để đón nhận hồng ân Thiên Chúa ban. Sau đây tôi chỉ xin kể lại sự kiện Bác Sĩ Ngoạn chọn Chúa làm lẽ sống.

Tuy rất có nhiều cảm tình với các chị em Phan Sinh phuc vụ tại Qui Hòa, nhưng Bác Sĩ chưa hề một lần nói lên ý nguyện “theo” Chúa của mình. Nghỉ hưu, Bác Sĩ vẫn tiếp tục đi đây đó giúp bệnh nhân phong và về lại sống với gia đình một nếp sống bình thường. Ba cháu, hai trai là Bác Sĩ với hai con dâu cũng Bác Sĩ và một gái, Kế Toán. Thời gian gần đây, bị bệnh, Bác Sĩ thường xuyên ở nhà hơn. Được vợ chăm sóc chu đáo và tận tụy hết mình…

Nhờ có dịp ra công tác tại Hà Nội, tôi lui tới thăm viếng Bác Sĩ, mang nặng trong tâm hồn một ước vọng dày vò, là làm sao cho Bác Sĩ Ngoạn nói lên lời ưng thuận “Theo Chúa”, rõ ràng, dứt khoát. Truớc đó tôi đã có vài giờ giáo lý cho Bác Sĩ và có dịp biếu tặng ông video về Đức Mẹ Lộ Đức và Thánh Phanxicô Assisi. Bác Sĩ đã bị ấn tượng nhiều, suy tư nhiều và càng trầm lặng hơn… Sau đó vài tháng, ra Hà Nội đến thăm Bác Sĩ, tôi vui mừng nhận thấy ở vách tường đối diện với cửa đi vào nhà, một bức tranh vừa quen thuộc vừa lạ kỳ. Quen thuộc vì vị thánh trong bức tranh ví tựa như Chúa Giêsu quỳ gối trong Vườn Cây Dầu. Kỳ lạ vì hình tượng vẽ lại là hình tượng của Thánh Phanxicô. Sau đó được biết là chính Thánh Phanxicô, một bức tranh mà Bác Sĩ rât thích được ai đó tặng và nói là Thánh Phanxicô Nghèo Khó”. Mình khổ nhiều vì bức tranh nầy, chị Quỳnh Giao có biết không? Các anh cán bộ vào nhà cứ hỏi hình nầy là ai ?… Sao không treo hình Bác Hồ nơi chính của căn nhà ?..

Một tháng trước khi đi Anh, tôi tự vạch cho chính mình một kế hoạch là khi đi công tác Hà Nội tôi sẽ dành một tuần và liên tiếp đến dạy giáo lý mỗi ngày cho Bác Sĩ. Từ thứ hai đến thứ năm hay thứ sáu, tôi muốn Bác Sĩ sẽ nói lên lời ưng thuận công khai đó với tôi. Tôi cầu nguyện nhiều. Tôi vẫn hiểu một người tự trong thâm tâm muốn theo Chúa đã là người “công giáo”, là người “có đạo” rồi. Nhưng sao tôi vẫn mơ uớc thấy Bác Sĩ đón nhận Bí Tích Thanh Tẩy và mang tên Phanxicô.

Mỗi lần bắt đầu giờ giáo lý, tôi thường hỏi han sức khoẻ và ngày sống của hai ông bà, sau đó là một giờ giáo lý. Bác Sĩ lắng nghe chăm chú, thỉnh thỏang hỏi đôi câu. Đến ngày thứ năm vẫn không thấy gì, thứ bảy tôi phải bay về HCM. Sáng thứ sáu đó, tôi đến, lòng thổn thức âm thầm… Lần nầy, ngồi xuống, Bác Sĩ không để cho tôi nói truớc, ông làm một mạch không ngừng –người vốn ít nói- : “Tôi muốn được nhận lãnh bí tích thanh tẩy. Một ngày lễ của Đức Mẹ… Sớm nhất…v. v…”. Tôi hỏi : “Vậy Chị có đồng ý không ?” –“Không chịu tôi cũng làm ! Nhưng nhà tôi từ trước vẫn để tôi tự do trong việc nầy. Bà thì theo Phật rồi đó. Chúng tôi không vô thần đâu!” Sau khi kê ra danh sách các ngày lễ của Đức Mẹ, và được giải thích, Bác Sĩ và tôi ưng thuận chọn ngày 8.12.2003. Sau đó vì Bác Sĩ có chút vấn đề sức khoẻ nên chúng tôi dời lại vào ngày 1 tháng Giêng 2004, lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Bác Sĩ muốn làm nghi thức tại Qui Hòa để “thanh tẩy những vết nhơ ô uế mà một số người đã gây ra trên đất thánh nầy… và hôm đó tôi sẽ đứng ra công khai tuyên xưng đức tin của mình truớc các thành phần của cơ quan và bệnh viện”. Đức TGM Hà Nội được biết tin, đề nghị để Ngài chủ sự trao ban bí tích và chủ tọa Thánh Lễ. Năm đó là năm Truyền Giáo. Bác Sĩ vui mừng ra mặt vì Ngài đã đến viếng thăm Bác Sĩ hai lần, dịp Noel và Phục Sinh, rồi còn chụp hình với Bác Sĩ, điều này làm Bác Sĩ hãnh diện và khoe với mọi người.

Biến cố vĩ đại nầy mà tôi đang sống và chứng kiến lúc bấy giờ có quá nhiều điều vui đến từ quá nhiều điểm mà lòng tôi uớc mơ ôm ấp từ những tháng qua. Lẽ nào niềm vui lớn lao nầy mà Thiên Chúa trao ban, lại được hưởng dễ dàng như vậy mà không một chút hy sinh, không chút phó thác vào quyền năng của Ngài sao ? Ngài mời gọi ai đây phải dâng hiến, dâng hiến trong tin tưởng, trong âm thầm khiêm tốn như chính cuộc đời đã được sống và Ngài xin một không gian thóang, rộng, để thể hiện Ý của Ngài theo cách thức riêng của mình? Cả hai, chúng tôi chờ ngày vui lớn của Đại Gia Đình Giáo Hội….

Một ngày nọ, chị Madeleine Nguyễn Thị Triệu, cựu Giám Tỉnh của chúng tôi gọi tôi và thông báo cho biết là tôi phải ra Hà Nội ngay “Vì chỉ có em mới ngăn đươc Bác Sĩ. Bác Sĩ không chịu nghe ai cả, chị Yến qùy lạy xin em đó !…”. Thì ra có biến cố đã xảy ra vì “ước muốn nầy”.

Không hiểu làm sao “người khác” lại biết rõ chuyện nầy, để khi người con gái sau thời gian nghỉ phép vì sanh nở đi làm lại, thì Bác Sĩ Giám Đốc “đề nghị cho nghỉ tiếp, cứ nghỉ dài dài…”. Sau nhiều lần trao đổi, cô ta đươc hỏi “Có phải bố sắp theo đạo phải không ?”. Người con cả là Bác Sĩ, trước đây được du học tại Mỹ chăm lo học hành nên lần nầy được đi tiếp để trình luận án cũng gặp khó khăn rằng : “Gia đình cháu có Bác Sĩ nhiều mà chưa ai đóng góp gì cho đất nước. Cháu nên vào Đảng để có cơ hội đóng góp nhiều hơn”… và nhiều chuyện khác nữa…

Phần Bác Sĩ Ngoạn vẫn một mực giữ ý định không thay đổi. Bạn bè, các Linh mục, các Soeurs góp ý nên nhường bước để vợ con không bị ảnh hưởng gì. ĐTGM/Hà Nội cũng khuyên lơn, nhưng Bác Sĩ nghĩ “tôi không có gì để mất… Tôi chỉ được thêm thôi !…”. Chị Yến thì lạy lục xin tôi góp ý với Bác Sĩ, – dù tôi cũng đã phải buộc lòng đi ngược lại với ước nguyện ban đầu của mình – Bác Sĩ trầm ngâm một hồi và nói : “Soeur đề nghị làm tại CĐ của Soeur tại Nam Định …. như thế có vẻ lén lút. Mà đây không có gì phải lén lút cả !”. Chị Yến lại nài nỉ thảm thương với tôi : “Một đời em đã làm theo ý anh. Em và con đã không sợ gì cả để cho anh đi con đường đúng đắn của anh. Nhưng giờ đây đụng đến tương lai con cái, em xin chị nói với anh… Mai nầy êm xuôi, anh sẽ thể hiện ý nguyện của anh và lòng em vẫn hòan toàn toại nguyện”… Bác Sĩ đã miễn cưỡng chấp nhận lùi lại ngày trọng đại đó.

Và tôi đã từ giã Bác Sĩ và gia đình, tạm vắng trong một thời gian xa quê hương. Từ xa, tôi nhận được tin, ngày kia, Bác Sĩ Trần Hũu Ngoạn đã nhận lãnh bí tích thanh tẩy từ một người âm thầm trao ban hồng ân lớn lao và được làm Con Thiên Chúa và Giáo Hội Ngài. Buồn hay vui lúc đó? Tôi chỉ biết là mình cảm thấy rất tiếc vì lời tuyên xưng ngôn sứ bị chặn đứng bởi sự hời hợt vội vã của một hình thức bên ngoài mà ta thường quá lưu tâm, thay vì đi sâu vào chiều kích ngôn sứ và có tính Giáo hội của một Bí Tích như Bí Tích Thanh Tẩy: tuyên xưng đức tin của một người vào một Con Người, nói lên cho mọi người biết mình chọn Con Người ấy vì mình tin tưởng phó thác đời mình cho Người đó. Và việc làm nầy được Giáo Hội chứng giám, phê chuẩn và chấp nhận. Còn niềm vui nào hơn niềm vui được làm Con Thiên Chúa và được Giáo Hội nuôi dưỡng, đón nhận. Và vì vậy, sự kiện nầy đáng ra phải được công khai và công nhận…

Giờ đây, với cuộc sống bệnh tật, có thời gian gẫm suy và lặng tĩnh bên cạnh người vợ tuyệt vời, kiên nhẫn và yêu thương chăm sóc, Bác Sĩ Ngoạn cảm thấy tâm hồn thanh thản nhiều lắm, vẫn còn cười đùa mỗi khi tôi đến, nhưng “vẫn tiếc nuối cái gì đó …làm lòng chưa hoàn toàn được toại nguyện”. “Cái gì đó”  phải chăng là vai trò Ngôn Sứ mà mỗi người tín hữu có nhiệm vụ thể hiện ?

Khi còn trò chuyện đuợc, tôi có lần hỏi Bác Sĩ, nếu muốn truyền đạt điều gì đó thiết yếu mà Bác Sĩ tâm niệm nhất, thì Hà Nội sẽ nói điều gì ? Bác Sĩ trả lời : “Hãy đến với những người không ai đến, hãy cho những người không ai cho. Hình như đó là một câu trong Kinh Thánh. ”

Một cuộc đời dày đặc yêu thương, nghiêm khắc với chính mình và biết cười… tươi, hoàn toàn thoải mái với những câu nghịch ngợm khôi hài của người khác, đặc biệt khi bị chọc quê. Một cuộc đời cho đi mà không tính toán, không tìm lợi danh… Hình như đó là cuộc sống mà Thầy Chí Thánh ước muốn cho môn đệ mình.

Trần Thị Quỳnh Giao – FMM.

TẠ PHONG TẦN: THIÊN CHÚA ĐÃ ĐẾN VỚI TÔI NHƯ THẾ NÀO?

TẠ PHONG TẦN: THIÊN CHÚA ĐÃ ĐẾN VỚI TÔI NHƯ THẾ NÀO?

Posted on 10/01/2016

Tạ Phong Tần 

Năm tôi học lớp 9, tình cờ có lần tôi mượn được một quyển sách dịch từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt ở thư viện tỉnh Bạc Liêu và đọc nó với tất cả sự tò mò của tuổi trẻ.  Sách dày khoảng 300 trang, bìa mỏng màu xanh biển, ruột giấy rơm vàng khè, chữ đen mờ mờ (giống như tất cả những sách in thời đó), tên sách là gì thì tôi đã quên bẵng từ lâu, nhưng nội dung thì tôi nhớ, “ấn tượng” là đàng khác. Trong đó, tác giả (xin cứ cho là vậy, bởi lẽ sách dịch, nên nội dung tiếng Việt là của chính tác giả viết ra hay của người dịch thì còn phải xem lại) mô tả cuộc đời Chúa Yêsu bằng cách trích dẫn từng đoạn, từng đoạn Thánh Kinh (sau nầy tôi mới biết đó là Tin Mừng) rồi diễn giải theo kiểu Yêsu là một kẻ lười biếng, khôn vặt, láu cá, hèn nhát, có chút khả năng về tâm lý quần chúng, dùng lời nói lừa bịp quần chúng để kiếm cơm, kiếm tiền. Tất nhiên, lúc đó tôi không biết gì về một người tên là Yêsu “tự xưng con Thiên Chúa” và một đứa nhỏ như tôi càng không đủ trình độ lý luận lẫn kiến thức để nhận biết sách viết đúng hay sai. Và tôi đã tin những điều trong sách này.

Cuối năm lớp 9, chương trình môn Văn, học sinh được học tác phẩm Bão Biển của Chu Văn. Tác phẩm lại dựng lên hình ảnh các linh mục, tu sĩ là những người có tâm hồn dị dạng, lạnh lùng và thâm độc, còn giáo dân là những người nhà quê ii1t học rất dễ sai khiến “bảo sao nghe vậy”, mở miệng ra là cứ kêu lên câu “Giê-su-ma.”Những người Công giáo ở quê tôi sống biệt lập, các sinh hoạt tôn giáo tách khỏi đời sống dân cư. Người không Công giáo khinh thường người Công giáo là không khoa học, mê tín, quái đản; còn người Công giáo khinh khỉnh với người không Công giáo là một lũ vô thần, không có linh hồn đáng tởm.

Có câu chuyện được kể truyền miệng như vầy: Đứa trẻ Công giáo nói: “Chúa ở khắp mọi nơi”. Đứa không Công giáo hỏi vặn lại: “Chúa ở khắp mọi nơi. Vậy Chúa của mầy có ở dưới gầm giường không?”. Vậy là nhảy xổ vào đánh nhau chí chóe. Lũ trẻ con cứ vậy mà hầm hè nhau suốt.

“Vật chất là nguồn gốc của ý thức”, đứa trẻ nào đi học cũng được nhà trường nhồi nhét như thế cả. Suốt một thời gian dài, tôi đã cho rằng khoa học mới là thứ đáng tôn thờ.

Khỏang năm 1998-1999, đơn vị tôi nhận điều tra vụ án “Truyền đạo trái phép” do nhóm các đệ tử của bà Thanh Hải Vô Thượng Sư thực hiện. Lúc này, tôi đang công tác tại Cơ Quan An Ninh Điều Tra Công An tỉnh Bạc Liêu. Có khoảng 7 người bị bắt giam, và chúng tôi có nhiệm vụ phải hỏi cung, ghi lời khai, lập hồ sơ đề nghị truy tố những người ấy ra Tòa. Trong thâm tâm tôi vẫn nghĩ rằng họ là những kẻ kém văn hóa, cuồng tín và bị người khác dụ dỗ trục lợi. Nhưng khi tiếp xúc, làm việc với họ, tôi bỗng nhận ra một điều: Trong khi các cán bộ điều tra bực tức,nóng nảy gọi họ là “những kẻ cuồng tín ngoan cố” thì các bị can lại bình thản, an nhiên, vui vẻ vì có thể…hy sinh thân mình làm sáng danh đạo của họ.

Thời đó, “án tại hồ sơ” được coi là chuyện bình thường. Về mặt quản lý nhà nước, có thể coi như chúng tôi là người có quyền quyết định số phận của họ, chúng tôi đứng trên họ, án tù của họ bị tuyên dài hay ngắn phụ thuộc vào hồ sơ điều tra của chúng tôi. Tuy nhiên, họ không khúm núm, van xin chúng tôi như những kẻ trộm cắp, cướp giật hay buôn bán phụ nữ…mà tôi đã từng làm việc. Tôi bỗng nhận ra một điều, tôi là kẻ chiến bại chứ không phải các bị can đang ngồi trước mặt tôi. Tôi cảm thấy mình thất bại thê thảm vì tôi không thể đem cái kiến thức khoa học lẫn pháp luật (mà tôi vốn vẫn tự hào hơn hẳn người đồng sự) thuyết phục họ chấp nhận rằng họ mê tín vớ vẩn. Tôi thua họ vì họ thản nhiên, tự hào, vui vẻ chấp nhận “cái gông” chúng tôi tròng vào cổ họ. Bởi đâu mà họ có được sức mạnh đó? Phải chăng là niềm tin mãnh liệt vào cái tôn giáo của họ?

Thời gian trôi đi, tôi chuyển ngành làm công tác quản lý du lịch thì chuyện vụ án Thanh Hải Vô Thượng Sư kia tôi cũng quên lãng. Nhưng cũng chính thời gian làm quản lý du lịch, phải tự học những tài liệu khoa học về di tích lịch sử, các cơ sở thờ tự đền chùa, miếu mạo, nhà thờ, văn hóa tín ngưỡng…để làm hướng dẫn viên chuyên dẫn các đoàn khách báo chí, cán bộ nơi khác đến tham quan thì tôi lại có dịp quay về tìm hiểu sâu hơn về thế giới tâm linh của con người.

Không biết từ bao giờ, các cơ quan nhà nước tỉnh tôi có tâm lý ngán ngại cảnh báo chí, và các đoàn cán bộ ở trên xuống, nói chuyện với báo chí sợ họ “bắt giò” đưa lên báo. Sếp bự nhất cơ quan tôi (xin nói rõ ông nầy là một người tốt) nói rằng tôi có trình độ pháp luật lẫn chính trị, đi với cánh báo chí đỡ “nói hớ” nên không phải lo “cơ quan ta” bị “vạch áo trên báo”. Âu cũng là một chữ “duyên”.

Mấy năm sau, sự kiện giáo dân Hà Nội cầu nguyện suốt 9 tháng trời ở khu đất Tòa Khâm sứ làm cho những ai thờ ơ nhất cũng phải đặt câu hỏi: Những người cầu nguyện đó là ai? Cầu nguyện như thế nào? Cầu nguyện thì được cái gì và thiệt hại cái gì? Tại sao họ lại làm như vậy?…

Tự mình đặt câu hỏi, và tìm hiểu, tôi mới biết những giáo dân ấy không phải là các mụ nhà quê mê tín, dễ bảo như được mô tả trong “Bão Biển”, có rất nhiều người tham gia là thành phần trung lưu, trí thức. Họ im lặng và đọc kinh, hát thánh ca ở khu đất mà trước đây chính là “nhà của Chúa”. Tham gia cầu nguyện, họ bị mất thời gian, mất việc làm, mất thu nhập, đau ốm khi thời tiết bất lợi, và bị đánh đập dã man…chớ không hề được… lãnh lương. Cả một đám đông chấp nhận thiệt hại vật chất chỉ để bảo vệ điều mà họ cho là đúng, là bảo vệ công lý, bảo vệ tài sản hợp pháp của Giáo Hội. Chỉ có niềm tin, tình yêu thương trong sáng không vụ lợi mới đủ sức giữ chân từng ấy con người kiên nhẫn đem thân thể phàm tục của mình thi gan cùng mưa nắng.

Một người bạn của tôi ở nước ngoài nói: “Trong chữ nghĩa thánh hiền “đạo” tức là “đường” bất kể là Thiên Chúa giáo hay Phật giáo, Hồi giáo. Con người ai cũng phải đi theo một con đường nào đó, người không có đạo cũng như không đi theo con đường, tất đâm quàng vào bụi rậm”. Chân lý thực đơn giản, vậy mà phải mất mấy chục năm mới có người nói cho tôi nghe.

May mắn thay, sau đó Văn Phòng Luật Sư (VPLS) nơi tôi làm việc nhận bào chữa cho 8 giáo dân Thái Hà bị nhà cầm quyền Hà Nội truy tố về tội “Gây rối trật tự công cộng” và “Hủy hoại tài sản”. Cáo trạng buộc rằng các bị cáo đã “hành lễ trái phép”. Các bị cáo phản bác rằng họ chỉ “cầu nguyện” chớ không “hành lễ”. Lục tìm trong toàn bộ các văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành tôi không tìm thấy văn bản nào có khái niệm “cầu nguyện” và “hành lễ”, hình như chính những người thảo ra văn bản pháp luật cũng không phân biệt được hai khái niệm này. Tất nhiên muốn bác bỏ khái niệm của cáo trạng, tôi phải tìm hiểu sự khác biệt nhau giữa “cầu nguyện” và “hành lễ”, ai có quyền “cầu nguyện” và ai có quyền “hành Lễ”.

Trong đời tôi đã vài lần đến nhà thờ với tư cách bàng quan, dạo chơi theo đuôi người khác, khi cần thiết tôi lại không nhớ ra địa chỉ của nhà thờ ấy ở chỗ nào. Để làm sáng tỏ vấn đề, nơi tôi nghĩ đến trước nhất là nhà thờ Kỳ Đồng, vì có lần tôi thấy thông tin trên mạng nhà thờ nầy tổ chức hiệp thông cầu nguyện với giáo xứ Thái Hà. Một buổi sáng, lên mạng tìm địa chỉ xong, tôi dắt xe máy ra, từ Gò Vấp chạy đi một mach mờ ớ, không biết đường Kỳ Đồng nằm ở hướng nào, cứ thế đi đại tới thôi. Thấy người ta đi thì tôi đi, thấy người ta đứng thì tôi đứng, thấy người ta quẹo thì tôi quẹo, trong bụng nghĩ: “Chạy lộn thì chạy lại, lo gì, ngồi xe chớ có phải đi bộ đâu mà sợ mệt”. Không ngờ chạy bon bon một hồi, tôi bỗng thấy lù lù trước mặt mình cái bảng hiệu tên đường Kỳ Đồng và tấm bảng to tướng Giáo Xứ Mẹ Hằng Cứu Giúp đập ngay vào mặt mình. Mừng quá, tôi bèn lùi ngay vào.

Sau vài lần tiếp xúc với các linh mục và được giảng giải tận tình, tôi thầm tiếc tại sao đến bây giờ tôi mới được biết những người này. Các linh mục, tu sĩ không có khả năng ban cho ai quyền lực, danh vọng, địa vị, tiền bạc… nhưng có thể rộng rãi ban phát cho những con người bất hạnh đang bị xã hội vô tình chà đạp những thứ mà có quyền lực, danh vọng, địa vị, tiền bạc cũng không thể mua được. Đó là tình thương và sư tôn trọng phẩm giá con người. Trong lúc cao hứng, tôi đã trình bày với quý Cha tôi muốn học giáo lý để theo Chúa Yêsu.

Ngày đầu tiên đi học giáo lý, sắp đến giờ học thì bỗng đổ trận mưa tối trời tối đất, làm tôi hết muốn đi học. Bệnh làm biếng nổi lên, nhưng đã lỡ nói là đi học rồi, mình là người lớn (chẳng những lớn mà còn hơi già nữa) nói không giữ lời thì kỳ lắm, ai còn coi mình ra gì, phải có “lý do chính đáng” để trốn học chớ. Tôi ra đứng ngoài sân ngước nhìn lên bầu trời u ám đang đổ nước xuống xối xả, chống nạnh hai quai nói to với lên: “Mưa gì mà vô duyên, bộ không biết bữa nay bản tại hạ đi học giáo lý sao? Đúng 4 giờ kém 10 mà không nắng thì nghỉ học”, rồi vô nhà ngồi xem ti-vi tiếp. Không ngờ, đúng 4 giờ kém 10 thì trời quang mây tạnh, nắng chói chang. “Ý trời! Hồi nãy nói chơi vậy, bộ “ở trên” nghe được hay sao dị? Sợ quá!” Bèn lếch thếch dắt xe ra đi học.

Có học rồi, tôi mới biết Tân Ước. Hóa ra ngoài phần Tin Mừng có có phần Công Vụ Tông Đồ và những cuốn khác, mà theo ý tôi thì các phần sau quan trọng chẳng kém gì phần trước, thậm chí nhờ phần sau mà đánh bại được cái kiểu suy diễn bậy bạ, vớ vẩn như kiểu quyển sách dịch tôi đọc hồi nhỏ. Một người có hơn 20 năm bị nhồi nhét vào đầu tư tưởng “chủ nghĩa duy vật biện chứng” tôn sung vật chất, quen với lập luận “Yêsu là kẻ lừa đảo” đâu dễ gì một sớm một chiều gột rửa cái tư tưởng ấy. Ngay cả Chúa Yêsu mà có xuất hiện trước mặt, có thể tôi cũng giống như ông Tôma, ccoi người như một kiểu David Copperfield (“ông vua” ảo thuật) mà thôi. Thánh Phaolô chứ không phải ai khác, là người làm thay đổi và rung động tâm hồn những kẻ cứng lòng không tin Chúa. Tôi “tâm phục khẩu phục” tin rằng Chúa Yêsu thật sáng suốt khi Người chọn ông Saolô (tức Phaolô) làm người truyền giáo cho mình.

Trong nhà sách Đức Mẹ (nhà thờ Kỳ Đồng), tôi thấy có bức tượng Thánh Phao lô cao chừng 1 mét. Tôi rất thich bức tượng này. Tượng khắc họa hình ảnh một người đàn ông nước ngoài đứng tuổi, dáng người ốm, gò má hơi cao, tóc đen quăn thả dài xuống vai, nét mặt khắc khổ, mình mặc y phục kiểu cổ La Mã thường thấy trong phim. Điểm nổi bật ở bức tượng này (và khác hoàn toàn với tất cả những bức tượng Thánh khác) là tay trái Thánh Phaolô cầm một thanh gươm tuốt trần, mũi gươm chúc xuống chân; tay phải nâng cao ngang ngực quyển Kinh Thánh đang mở ra. Tượng các Thánh tay cầm quyển Kinh Thánh là bình thường, chỉ duy nhất mỗi một mình tượng Thánh Phaolô là có kèm gươm thôi. Thanh gươm trong tay ông Pharisêu trẻ Saolô đã một thời, mỗi khi vung lên là con chiên của Chúa phải đầu rơi máu chảy, giờ đây nó đã chúc mũi xuống đất khi ông Saolô trở thành ông Phaolô dâng hiến cả cuộc đời cho mục đích vinh danh Thiên Chúa. Nhưng ông Phaolô vẫn giữ thanh gươm bên mình tượng trưng cho tinh thần mạnh mẽ, quyết liệt đấu tranh và hy sinh cho sự nghiệp rao giảng Tin Mừng.

Cảm ơn hồng ân Chúa Yêsu, bằng những phép lạ gần như tình cờ, và thông qua hình ảnh Thánh Phaolô, đã đến và dẫn dắt tôi đến bên Người.

Tạ Phong Tần

(Trích sách “Hành Trình Đức Tin”, trang. 39-45 do Nguyễn Đức Tuyên thực hiện, phát hành 2014

Phép Rửa Tội Cho Chuẩn Tướng Phan Long, 100 tuổi

Nguyễn Văn Tịch 

Phép Rửa Tội Cho Chuẩn Tướng Phan Long, 100 tuổi

Món Quà Chúa Ban Tại San Jose

Một năm qua kết nối với chuẩn tướng Pham Long, một lương dân rất tốt, năm nay ông đã 100 tuổi, tay chân yếu, tai hơi lãng, mắt đã mờ nhưng lý trí còn sáng suốt. Bố tôi cũng là một người lính của VNCH nên tôi càng quý mến ông.

Tôi cùng chị Vu Anh kể những câu chuyện về Chúa Giê-su cho ông, ông lắng nghe và dần dần làm quen với Đức Giê-su. Ông sống rất tốt, chân thực, ông đã thuộc về Chúa trong cuộc sống. Nhưng một khúc mắc quá lớn do một người Công Giáo gây ra khiến ông chưa gia nhập đạo dù đã giới thiệu các cha bên này cho ông, ông vẫn không xuôi.

Sang Mỹ kỳ này, tôi xin thăm ông và nói chuyện với ông. Quả thật tôi chỉ biết cầu nguyện cho ông được theo Chúa, mà chưa biết nói với ông làm sao để ông theo Chúa trọn vẹn. Ông đồng ý, tôi tiếp tục cầu nguyện và cầu nguyện để tặng Chúa món quà này.

Thánh thần làm việc, một ngày trước, trước khi đến thăm, ông bị té, sau đó chính ông nói xin rửa tội và xin tôi rửa tội giúp ông. Thật đúng là Chúa làm tất cả, cầu nguyện và thiện chí, phần còn lại chính Chúa làm.

Dành thời gian ngắn ngủi ở San Jose, thứ hai ngày 25/7, nhờ bạn đưa đến thăm ông. Ông thức dậy sớm, mặc quần áo chỉnh tề ngồi đợi tôi suốt 4 tiếng. Ông cụ ngồi xe lăn xin tôi Rửa tội cho ông để ông làm con cái Chúa. Điều ước muốn mạnh mẽ của một chuẩn tướng 100 tuổi, cuối đời làm tôi và mọi người vui mừng khôn tả và tôi đã Rửa Tội cho ông. Ông đã thành tâm tuyên xưng đức tin và lãnh nhận bí tích Rửa Tội, Thêm Sức rất sốt sáng dù đó là một khung cảnh đơn sơ. Mắt ông như sáng ra, ông bình an lạ lùng và sẵn sàng đi với Chúa bất kỳ lúc nào. Chuẩn tướng đã trở thành con cái Chúa trọn vẹn. Tôi đã thưa chuyện với các cha bên này để các Ngài đưa ông vào danh sách cộng đoàn và tiếp tục chăm sóc cho ông.

Món quà quá lớn Chúa dành cho tôi trong chuyến đi San Jose kỳ này, không phải tôi dành cho Chúa mà chính Ngài ban cho tôi. Bên Việt Nam tôi đang chăm sóc cho những người cuối đời và tôi đã rửa tội cho được hết trong họ. Giờ đây Chúa lại dành món quà này cho tôi tại đất Mỹ, dù tôi chỉ là một linh mục nhỏ bé nhất phải ngửa tay xin tình thương mọi người nơi đây.

Xin cám ơn chị Vu Anh và tất cả mọi đã chăm sóc ông với trọn tấm lòng. Xin tạ ơn Chúa đã nhận lời cầu xin và trao tặng chúng con món quà này. Xin Chúa đón nhận lòng thành chúng con, ban phước lành cho chúng con và là hạnh phúc đời đời cho chuẩn tướng.

Lm G. Nguyễn Văn Tịch, TB. BVSS GP. Xuân Lộc.

NGÔI SAO ĐIỆN ẢNH TỪNG ĐÓNG CẶP VỚI ELVIS PRESLEY TRỞ THÀNH NỮ TU DÒNG KÍN

NGÔI SAO ĐIỆN ẢNH TỪNG ĐÓNG CẶP VỚI ELVIS PRESLEY TRỞ THÀNH NỮ TU DÒNG KÍN

Dolores Hart đã chọn sống một cuộc sống ẩn dật trong tu viện Benedictine sau một cuộc sống dưới ánh đèn sân khấu của Hollywood.

Sinh năm 1938 tại Chicago, bà từng đóng vai chính trong các bộ phim với các ngôi sao lớn của Mỹ như Marlon Brando và Elvis Presley, và làm việc cho các nhà sản xuất nổi tiếng, trong đó có Alfred Hitchcock.

Chính trong một buổi quay phim, cô đã có cơ hội nói chuyện với Đức Giáo hoàng Gioan XXIII, một cuộc gặp gỡ khiến cô khao khát bước vào đời sống tu trì.

Hart lớn lên trong một gia đình Công giáo. Đời sống cầu nguyện của cô không bao giờ suy giảm mặc dù cô có nhiều hoạt động ở Hollywood: trước khi quay phim, cô thường đi lễ 6 giờ sáng.

Trong thời gian này, cô cũng tìm thấy một nơi thanh thản để cầu nguyện giữa các buổi chụp hình và bầu khí thánh thiêng sau ánh đèn sân khấu đó là đến viếng thăm tu viện của các nữ tu Benedictine ở Connecticut.

Nữ diễn viên ngôi sao cho rằng thành công của cô là do ơn Chúa ban. Là bạn diễn của Elvis Presley trong các bộ phim Loving You và King Creole , cô cũng xuất hiện cùng với Marlon Brando và những diễn viên nổi tiếng khác. Cô đã tham gia không dưới 10 bộ phim trong vòng 5 năm.

Thánh Nữ Clare ở Assisi, một vai trò quan trọng

Năm 1961, trong quá trình quay bộ phim Francis thành Assisi , Hart đã gặp Đức Giáo hoàng John XXIII. Khi cô giới thiệu mình là nữ diễn viên đóng vai Thánh Nữ Clare thành Assisi, Đức giáo hoàng trả lời: “Không, con sẽ là một Clare khác.” Buổi giao lưu này ghi dấu ấn sâu đậm khi nữ diễn viên coi đây là dấu hiệu để thay đổi cuộc đời và đến gần hơn với lý tưởng đời tu của mình. Nhưng rồi cô đã trở lại cuộc sống của mình như một ngôi sao điện ảnh.

Vào thời điểm đó, Hart đang dự định tiến đến hôn nhân. Nhưng hai năm sau, vào năm 1963, cô đột ngột cắt đứt hôn ước vài tháng trước ngày cưới. Cùng năm đó, ở tuổi 24 và trước sự ngạc nhiên của mọi người, cô vào tu viện Benedictine ở Connecticut, nơi cô đã từng đến thăm rất nhiều lần trước đó.

Sau 43 năm sống tu trì, vào tháng 2 năm 2012, Sơ Dolores (nay là Mẹ Bề trên của Tu viện Regina Laudis) trở lại Los Angeles để dự lễ trao giải Oscar cho bộ phim God Is the Bigger Elvis , một bộ phim tài liệu về cuộc đời của bà được đề cử trong giải thể loại phim ngắn.

Rõ ràng, Dolores Hart vẫn còn ảnh hưởng trong thế giới điện ảnh, nhưng trong suốt quãng đời còn lại, điều quan trọng hơn là Sơ làm chứng cho niềm tin của mình và truyền cảm hứng cho những ai tìm kiếm vẻ đẹp đích thực.

Vũ Hoàng

Hành trình 45 năm đi tìm Đức Tin

Hành trình 45 năm đi tìm Đức Tin

 Trần Anh

TGPSG — “Lạy Chúa, này con đây!”
Cuối cùng, tôi đã tìm thấy linh hồn mình đang phủ phục trước nhan Thiên Chúa mà thổn thức…

THỜI THƠ ẤU, MÔI TRƯỜNG VÀ NỀN GIÁO DỤC

Tôi sinh năm 1972 tại thành phố Hải Phòng – một thành phố chưa bao giờ hết sôi sục trong mọi tính cách của con người và ngóc ngách của cuộc sống.

Trong những năm tháng khó khăn của miền Bắc, tôi lớn lên trong tình yêu và sự chăm sóc nghiêm khắc vô bờ bến của cha mẹ, cùng với nền giáo dục vô thần tuyệt đối, chỉ có biện chứng duy vật và các giá trị đạo đức phổ quát là hệ quy chiếu cho mọi bước đi của tôi. Gia đình tôi không có ban thờ, chỉ có ngày giỗ lễ là tôi được về nhà ông bà nội ngoại, nơi có ban thờ tổ tiên, theo truyền thống.

Bên cạnh đó, gia đình tôi có một tủ sách từ thời Pháp để lại với các tác phẩm vĩ đại nhất của văn học nhân loại. Vì ở nhà chẳng có trò gì chơi nên ngoài những giờ trốn ra ngoài lêu lổng với đám trẻ con cùng xóm thì – dù chỉ mới học cấp 1, cấp 2 – tôi đã ngốn những cuốn sách dày cộm của Jean Jacques Rousseau, Romain Roland, Lev Tolstoi, Victor Hugo… Mặc dù trí não non nớt lúc đó chẳng hiểu gì, nhưng tôi mê mẩn với những áng văn chương mô tả tư tưởng phong phú của loài người, và trong tôi nảy sinh tình cảm tốt đẹp với các tác phẩm của nhà thờ Công giáo, từ hội họa, kiến trúc, âm nhạc đến tinh thần lạ lùng khác thường của các vị tu sĩ.

Ấn tượng nhất với tôi là cuốn “Tây dương Gia Tô bí lục”, tác phẩm bài Kitô của các linh mục bỏ đạo viết, cho tôi thêm một khía cạnh về Chúa Giêsu, trong đó Ngài chỉ là một vĩ nhân chinh phục cả thế giới bằng lý thuyết và cái chết của Ngài. Nhưng tôi vẫn yêu mến và bị hấp dẫn bởi vẻ đẹp huyền bí của thế giới Công giáo. Thậm chí tôi đã từng lân la tới nhà thờ, ngắm những sự cổ kính của nó và mua một chiếc nhẫn có mặt Thánh giá của bà bán hàng rong trước cổng rồi đeo nó vào ngón áp út; chiếc nhẫn sau thất lạc đâu tôi cũng không nhớ nữa.

HĂM HỞ, NGHIÊN CỨU, THẤT VỌNG VÀ CHÁN GHÉT

Năm 2000, tôi một mình di chuyển vào Sài Gòn theo nhu cầu công việc. Tại Sài Gòn tôi vừa làm việc tại Tổng công ty Tân Cảng, vừa tranh thủ học thêm lớp văn bằng 2 vào buổi tối. Học được nửa năm thì tôi thích một cô bạn theo đạo Công giáo có nét mặt nghiêm nghị và tôi nghĩ làm vợ thì tốt cho gia đình, vì vậy tôi ngỏ lời và được chấp nhận. Tôi vui lắm và hăm hở theo học giáo lý Dự tòng, vì tôi từ lâu đã biết rằng con người có một đức tin thì sẽ tốt đẹp.

Tôi được phân công học giáo lý một mình một thầy tại nhà của bác Giuse Toản, thuộc giáo xứ Hiển Linh, Thủ Đức. Vừa học, tôi vừa lao vào nghiên cứu Thánh Kinh và mang các thắc mắc đến hỏi. Nhưng đáng buồn là các lời giải thích theo tôi, đều không thuyết phục. Cha sở giáo xứ Hiển Linh khi đó cũng thuyết giáo cho tôi nhiều, nhưng tôi đều phản biện bằng lý lẽ biện chứng của mình: tôi cho rằng các lời giải thích đưa ra đều là ngụy biện. Thánh kinh Cựu Ước giống như chuyện thần thoại, còn Tân ước cũng chỉ từ một vĩ nhân và đầy tính hoang đường, lợi dụng nhu cầu gốc của loài người là thờ cúng. Cái tôi cần là Đức Tin, chứ không phải thờ cúng và tung hô ca tụng một cá nhân nào đó.

Tôi hết sức thất vọng, và bắt đầu chán ghét những buổi Thánh lễ, trong đó người ta tung hô Thiên Chúa – Đấng mà tôi thấy là giết người và tru diệt nếu không nghe lời ông ta, mang thiên đường đến để quyến rũ và đưa hỏa ngục ra mà dọa dẫm. Có lẽ theo đạo Phật lại hay, vì sự từ bi và không sát sinh.

Nhưng dù sao tôi cũng hoàn thành khóa giáo lý Dự tòng và chịu lễ Rửa Tội vào mùa Hè năm 2002, rồi tiếp tục học khóa giáo lý hôn nhân, cùng nàng hôn thê của tôi, vì tôi không thích làm phép chuẩn mà thích cử hành bí tích Hôn Phối đàng hoàng tại nhà thờ, vì nó… đẹp, và vừa lòng vợ tôi. Tôi trở nên thờ ơ và không còn nghiên cứu, tìm hiểu và thắc mắc nữa. Phép cưới diễn ra và tôi thực hiện các hướng dẫn như người ta chỉ bảo. Sau lễ cưới, tôi không còn tham dự Thánh lễ nữa, trừ những lễ Hôn phối, lễ Tang tôi bắt buộc phải đi với tâm tình tẻ nhạt chán ngắt.

TIẾNG SÉT ÁI TÌNH, NƯỚC MẮT VÀ ĐỨC TIN

Năm tháng dần trôi, tôi bị cuốn vào guồng máy làm ăn, kiếm tiền, những vất vả của công việc, hưởng thụ các thành quả của nó và niềm vui của các cuộc chơi. Tuy nhiên những lúc rảnh rỗi, tôi vẫn còn giữ thói quen suy tư về cuộc sống hoàn thiện. Tôi ngả cảm tình về Phật giáo và triết học phương Đông.

Vào khoảng những năm 2009-2014, do chị vợ tôi là nữ tu Emmanuen của đan viện Cát Minh Sài Gòn, tôi thường hay phải đến nơi này để sửa chữa và cài đặt phần mềm, cũng như hướng dẫn cơ bản về máy vi tính cho các nữ tu.  Khi làm việc muộn, các nữ tu hay cho tôi ăn ngon và đối xử dịu dàng lắm. Tôi có cảm tình với các chị nữ tu trong này, đặc biệt Mẹ bề trên rất đôn hậu, ân cần với tôi. Biết tôi không tin Chúa, các chị nói sẽ cầu nguyện cho tôi. Tôi cười và nói: “Em thách các sơ đó! Chúa có hiện ra thì em cũng chỉ cho đó là ảo giác và chẳng tin đâu. Đừng lấy hỏa ngục ra mà dọa hay đưa thiên đường ra mà dụ em. Chết là hết vì em đã bị gây mê phẫu thuật 2 lần rồi. Cái chết là như vậy và chả có linh hồn nào hết.”

Tôi tiếp tục suy tư về vạn vật, về khoa học, về tâm lý con người và đôi khi cũng thấy hơi tủi phận vì mình muốn tin vào một tôn giáo để tâm lý ổn định mà chẳng tin được.

Đầu năm 2017, vợ con tôi không hiểu sao bắt đầu lần chuỗi Mân Côi hằng đêm tại nhà. Tôi tôn trọng nhưng cho rằng mất thời gian và chẳng giải quyết vấn đề gì ngoài tâm lý của mấy người Công giáo.

Một đêm tháng 5 năm 2017, sau một cuộc nhậu say khướt tới 2g sáng, tôi chạy xe về nhà. Đường vắng và tôi chạy chậm theo thói quen mỗi khi uống nhiều. Trên đường, tôi lại suy tư về thân phận con người trên thế gian và bắt đầu cảm thấy cô đơn trong tư duy. Lúc đó, vừa đi qua cầu Bình Triệu và không biết do một sức mạnh nào thôi thúc, tôi chạy đến nhà thờ Fatima ngay gần đó để gặp Đức Mẹ. Dù tôi có ghét Chúa thì tôi vẫn quý Đức Mẹ vì theo những tài liệu tôi đọc, Đức Mẹ hoàn toàn hiền; chưa bao giờ Mẹ giận ai hay làm gì để người dữ cũng như người lành phải đau.

Tôi đến thì nhà thờ đóng cửa nên tôi đứng bên ngoài chắp tay hướng về tượng Mẹ cầu xin cho con có một Đức Tin. Lúc đó không biết sao nước mắt tôi cứ chảy ra, và tủi thân vì mình bao năm nay đi tìm mà chẳng có, muốn tin mà không được. Tôi cứ đứng đó chắp tay nhìn Mẹ mà khóc, cho tới khi có một đôi nam nữ tới và họ cũng chắp tay cầu nguyện gì đó. Tôi thấy mình hơi kỳ nên lên xe đi về nhà ngủ. Sáng hôm sau tỉnh dậy, tôi nhớ lại chuyện và thấy mắc cười cho cái thằng tôi bị say rượu đi cầu xin nhảm nhí, rồi quên béng chuyện đêm hôm say rượu đó.

Tháng 7 năm 2017, có một người em quen biết theo Tin Lành đến thăm và thuyết giáo. Vợ tôi không đồng quan điểm, nhưng tôi thì thích thú vì sự tự do và đơn giản, nhất là việc để dành tiền bạc giúp đỡ anh em là chính chứ không xây những nhà thờ nguy nga và lễ lạt tốn kém trong khi dân còn nghèo không đủ ăn. Tuy nhiên, tôi cũng chỉ ủng hộ cho Tin Lành của anh ta thôi chứ chẳng tin có Chúa thật. Trước khi chia tay, tôi có hơi suy nghĩ khi anh ta nói: “Anh phải biết rằng Chúa yêu anh, Chúa rất yêu anh.”

Cuối tháng 7 năm 2017, gần tới sinh nhật tôi tròn 45 tuổi, vào một buổi sáng bình thường như bao buổi sáng, tôi đi làm bằng xe máy, bình yên và chẳng có gì đặc biệt. Lúc đó tôi làm xuất nhập khẩu và quản lý nguyên vật liệu cho một nhà máy chế biến gỗ tại Tân Uyên-Bình Dương cách nhà 25km nên đoạn đường đi hơi dài. Trên đường đi, tôi suy nghĩ về câu nói của người anh em Tin Lành, và lúc đó không hiểu sao, bài hát Kinh Vinh Danh bỗng ngân nga trong tâm trí tôi – bài ca mà tôi rất ghét vì sự sùng bái cá nhân mỗi khi phải nghe trong nhà thờ. Bài hát ngân nga du dương mãi mà tôi không thể chuyển hướng suy nghĩ sang vấn đề khác được. Rồi nước mắt tôi bỗng giàn giụa chảy mãi vì cảm động khi nghe bài ca. Và tôi lập tức tin Chúa yêu tôi, nghĩa là có Chúa thật. Tôi không hiểu chuyện gì xảy ra với tâm lý của tôi nữa, nhưng tôi cảm thấy ngọt ngào và ngất ngây. Rồi nước mắt cũng ngừng rơi khi tới chỗ làm. Hết cả ngày hôm đó, mọi việc diễn ra bình thường và tôi nghĩ buổi sáng chắc do mình hơi yếu thần kinh nên dễ xúc động, và tôi cười thầm.

Sáng hôm sau, tôi kinh ngạc khi thấy những tâm tình như thế lại lặp lại. Tôi cố chống cảm xúc này, nhưng không thể. Trong tôi, bài ca cứ du dương, ngân nga, của một đoàn người nào đó, không rõ tiếng ai với ai, và câu từ cũng không rõ, do tôi không thuộc bài hát này. Nhưng họ hát tuyệt hay. Tôi nghĩ do ký ức khơi dậy từ ca đoàn của một nhà thờ nào đó. Nước mắt tôi cứ chảy ra mãi suốt quãng đường, đồng thời tôi cảm nhận mãnh liệt Chúa yêu tôi, một cách tha thiết hơn bất cứ gì trong vũ trụ này. Tâm hồn tôi cứ muốn mãi tuôn ra những lời ca tụng, bất chấp mọi nỗ lực ám thị hay chống cưỡng tâm lý nào mà tôi cố tình làm một cách bảo thủ. Cuối cùng, tôi buông thả tâm hồn mình cho mọi sự diễn ra cách tự nhiên.

Sự việc liên tục xảy ra trong một tuần. Tôi đắm đuối trong tình yêu chân thật và huy hoàng của Thiên Chúa, mà tôi có thể nói một cách thô thiển rằng đó là tình yêu tuyệt đối, trên hết mọi tình yêu trần gian. Quãng thời gian đó tôi chỉ muốn tìm một xó xỉnh yên tĩnh cô tịch nào đó mà kết hiệp với tình yêu kỳ diệu này suốt cả ngày, chẳng thiết gì mọi sự xung quanh nữa.

Sau đó là liên tục các diễn biến phức tạp trong nội tâm của tôi và những tương tác lạ lùng khiến tôi đi hết từ sững sờ này tới ngạc nhiên khác, cho tôi biết về thế giới siêu nhiên hiện hữu và sinh động như thế nào. Đắm chìm trong thế giới đó, tôi đã tìm thấy linh hồn mình phủ phục dưới chân Thiên Chúa mà thổn thức: “Lạy Chúa, này con đây!” Chúa đã dạy tôi biết cầu nguyện.

Vậy là sau 45 năm hoang hoải trong tâm hồn, tôi đã được Chúa đoái thương, nhờ Đức Mẹ chuyển cầu. Và chắc chắn còn có cả sức mạnh vô hình từ những lời cầu nguyện của những người thương mến tôi, một con chiên lạc đã được Chúa tìm về.

Tôi hơi thắc mắc: sao Chúa lại đến với tôi muộn màng vậy? Chúa chỉ cười. Điều đó khiến tôi lại đắm say, chẳng muốn thắc mắc gì nữa mà chỉ muốn cất lên những ngợi khen ca tụng, không phải bằng ngôn ngữ của trần gian, mà của Nước Trời…

Trần Anh (TGPSG)