THỜI ĐẠI MỚI

THỜI ĐẠI MỚI

(Mc 1, 14-20)

AM Trần Bình An

Nhà văn Phaolô Nguyễn Hoàng Đức, một chứng nhân sống động của Chúa, của Tôi Tớ Chúa, ĐHY FX Nguyễn Văn Thuận. Ông từng là trung uý an ninh, công tác tại cục “chống phản động” A16 thuộc Bộ Nội Vụ, phụ trách vấn đề tôn giáo. Năm 1987, ông có dịp gặp ĐHY FX Nguyễn Văn Thuận lúc đang bị giam cầm để học tiếng Pháp. Sau gần hai năm học cùng ngài, ông được khai sáng Đức Tin Thiên Chúa. Một thời gian sau khi ĐHY được trả tự do sau 13 năm giam giữ bất công, ông Đức cũng từ bỏ ngành công an và chính thức trở thành con cái Chúa vào dịp lễ phục sinh 2003.

“Con đường Đức tin vào Nước Chúa qua cây cầu Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận,”của nhà văn Nguyễn Hoàng Đức là một chứng từ trong hồ sơ phong Chân phước cho ĐHY FX. Nhà văn tự thuật: “Cuối năm 1988, sang đầu năm 1989 tôi bắt đầu nộp đơn xin chuyển ngành, lý do chính là, sau một loạt sự kiện hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô tan vỡ, đặc biệt “sự kiện Mùa xuân Bắc Kinh” xảy ra tại quảng trường Thiên An Môn ngày 4/6/1989, rồi quân đoàn 27 tràn vào trộn máu thịt sinh viên bằng xích xe tăng, lúc đó Việt Nam coi “Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp,” nhưng lại chiếu phim thời sự trong nội bộ để học tập cách đàn áp của Trung Quốc. Điều đó làm tôi không muốn ở cục “Chống phản động” nữa, vì qua ngót mười năm làm việc, đọc nhiều hồ sơ, tôi hiểu hầu hết người dân lành đó không phải là phản động. Đôi khi, vài anh em bạn bè trong cục tôi vẫn thường bảo với nhau: Tại sao chúng ta thừa nhận giáo hội là hợp pháp, trong khi đó lại coi việc hành lễ hay rước lễ của họ là bất hợp pháp? Tại sao một linh mục hợp pháp cả về tư cách công dân, cả về tư cách mục vụ đã được nhà nước chấp thuận theo luật, vậy mà ông linh mục đi từ nơi này đến nơi kia lại phải xin phép?

Ngay việc của Đức cha FX Nguyễn Văn Thuận thôi, nếu giáo hội mà ngài theo hợp pháp, thì việc giáo hội đó tổ chức ra một hội đoàn “Tu hội Hy Vọng” tại sao thành bất hợp pháp? Nếu bất hợp pháp sao không đưa người phạm pháp ra xử theo luật mà cứ tự tiện biệt giam?

Hồi đó, một cách tự nhiên, hàng tuần tôi thường đi dự thánh lễ tại nhà thờ Đức Bà, nghe linh mục Khảm giảng lễ, một lần thấy cha giảng hay quá, tôi còn đợi hết lễ và sang tận nhà xứ gặp cha… Lần đầu tiên dự thánh lễ, tôi rất cảm động và khâm phục về trình độ phản tỉnh cũng như mở lòng với tha nhân qua hai hình thức “Lỗi tại tôi! Lỗi tại tôi! Lỗi tại tôi mọi đàng!” Và việc “Anh chị em chúc bình an cho nhau,”cúi phía trước, cúi phía trái, cúi phía phải chào nhau…

Nhưng có một đêm tôi được một giấc mơ kéo vào thế giới của tâm linh, đại loại như có một cánh tay dẫn tôi đến một chân trời có tấm phông thả từ vòm trời xuống, và có giọng nói, nếu tôi vén màn sẽ nhìn thấy thế giới ánh sáng ở phía bên kia. Tôi giơ tay vén màn thì choàng tỉnh. Đêm thứ hai, sau đó vài ngày, thì giấc mơ kéo tôi đến thẳng nhà thờ, và có giọng nói “Hãy đi vào đường của tâm linh thiêng liêng”… Kể từ đó, sáng chủ nhật nào tôi cũng dậy từ 5h sáng đi lễ nhà thờ Phùng Khoang, tôi đã luôn tự nhận mình là con cái Chúa…

Tối 19/4/2003, tôi được rửa tội… Trước bàn thờ Chúa ở nhà thờ và bàn thờ Chúa ở nhà riêng, tôi đã hân hoan cảm tạ Chúa rằng: “Lạy Chúa! Hành trình đi đến đức tin của con có cả ơn soi-ơn gọi-và ơn chọn, khởi đầu từ hạt men đầu tiên nơi cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, giờ đã dậy lên cả đống men, trong tâm hồn con tràn ngập ân sủng đức tin của Chúa, trong Chúa và hướng về Chúa!”

Theo Kinh Thánh, thời gian được chia làm hai thời kỳ Cựu Ước và Tân Ước. Đức Giêsu loan báo thời kỳ Cựu Ước đã đến hồi kết thúc và thời đại Tân Ước, thời cuối cùng, thời cánh chung đã tới. Người kêu gọi hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Trong bối cảnh này, Người đã gọi các ông Anrê, Simon, Giacôbê và Gioan làm những môn đệ đầu tiên. Các ông đã mau mắn vâng lời, dứt khoát bỏ tất cả đi theo Người. Hôm nay, Nhà văn Nguyễn Hoàng Đức cũng đã dứt khoát từ bỏ vinh hoa phú quý, tương lai huy hoàng, xán lạn để tin vào Tin Mừng đầy cam go, gian lao và thách đố.

Nhìn lại và đổi mới

“Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1, 15) Sám là ăn năn lỗi trước, hối là chừa bỏ lỗi sau. Sám hối nghĩa là dứt trừ lỗi trước đã phạm, không cho lỗi lầm sau phát sinh. Nhưng con người hiện đại hình như hiếm hoi thì giờ để hồi tâm xét mình, nhìn lại những gì đã trải qua, đã làm, đã vấp phạm, đã xúc phạm đến Chúa và tha nhân.

Lúc nào cũng bận rộn, vừa dứt công việc thì lao ngay vào giải trí, thú vui, thư giãn. Âm thanh, hình ảnh, sự kiện luôn lấp đầy tâm trí, lòng dạ. Vì thế cuộc sống ồn ào, quay cuồng, xô bồ, ô nhiễm ngộ độc con người từng phút giây, từ sáng tinh mơ đến tận đêm khuya nghỉ ngơi. Do vậy, số người cô đơn, mất phương hướng, lý tưởng, tha hóa, tự tử ngày càng tăng trong những xã hội văn minh, hiện đại như Nhật Bản, Hàn Quốc và Âu Mỹ.

Không xét mình, chẳng nhìn lại đằng sau, thì cũng chẳng thể nào tiến triển, trưởng thành trên đường đạo hạnh, con người chỉ có thể chìm dần, sa vào vũng lầy tội lỗi, đen tối, u ám, bất hạnh. Cái chết là kết cục đương nhiên. Cho nên không sám hối thì sớm muộn chỉ tìm đến cái chết cả xác lẫn hồn.

Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16, 25-26)

”Nếu con chỉ “giữ đạo”con chưa canh tân. Ma quỷ muốn đuổi Chúa ra khỏi thế gian và lôi thế gian ra khỏi Chúa. Con phải đem Chúa đến thế gian và đưa thế giới về với Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 650)

Sống Tin Mừng

Sám hối mà thôi vẫn chưa đủ khả năng nhập gia tùy tục vào thời đại mới, thời đại Tin Mừng, thời đại Tân Ước, mà còn phải sống Tin Mừng. Cụ thể hóa Tin Mừng ngay trong đời thường hằng ngày qua bổn phận, trách nhiệm, yêu thương và phục vụ tha nhân, cùng vâng theo Thánh Ý Chúa mọi nơi, mọi lúc.

Bốn anh thuyền chài khỏe khoắn, vạm vỡ: Anrê, Simon, Giacôbê và Gioan đã mau mắn nghe tiếng Chúa gọi, quyết định từ bỏ tất cả, thân quyến, nghề nghiệp, của cải, ra đi làm môn đệ, làm anh em của Người. Sau này “Simon Phêrô lên tiếng thưa Ngài: “Này chúng tôi từ bỏ mọi sự mà đi theo Thầy”. Ðức Yêsu nói: “Quả thật Ta bảo các ngươi: không ai bỏ nhà cửa, hay anh em chị em, hay cha mẹ, hay con cái, hay ruộng nương vì Ta và vì Tin Mừng,  mà lại không lĩnh lấy gấp trăm bây giờ ở đời này về nhà cửa, anh em và chị em, mẹ và con cái cùng ruộng nương, làm một với cấm cách bắt bớ, và sự sống đời đời trong thời sẽ đến.” (Mc 10, 28-30)

“Hãy đi rao giảng Phúc Âm..” (Mc 16, 15) Chúa cần những người “cảm tử” để đảm nhận một sứ mạng cao cả như thế. Hai ngàn năm lịch sử Hội Thánh cho ta thấy, giai đoạn nào cũng không thiếu cảm tử, từ mọi tầng lớp giáo dân.” (Đường Hy Vọng, số  64)

Lạy Chúa Giêsu, xin chiếu giãi Lòng Chúa xót thương, mở lòng, mở trí chúng con ra, để chúng con biết khiêm tốn, cúi đầu đấm ngực, ăn năn, sám hối, canh tân, cùng thực thi Tin Mừng trong đời sống thường nhật chúng con.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giải thoát chúng con khỏi bùn lầy thế gian, mà sám hối trở về cùng Chúa Giêsu, cội nguồn ơn cứu rỗi, để được thứ tha và an ủi, hầu chúng con có thể noi gương Mẹ, sống kết hợp cùng Chúa luôn. Amen.

AM Trần Bình An

HY VỌNG VÀ ĐỨC TIN

HY VỌNG VÀ ĐỨC TIN

Ðốt sáng trần gian với ngọn lửa đức tin

Tôi Tớ Chúa ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận

Đức Tin là động lực của Hy Vọng.

Thánh Phanxicô Salêsiô cầu nguyện một mình sốt sắng trước Mình Thánh Chúa trong đêm tối đã nêu gương Đức Tin vào Chúa Giêsu Thánh Thể cho người ngoại giáo, cũng như Thánh Phêrô Veren đã lấy máu đào của mình viết lên hai chữ “Tôi Tin”. Riêng anh Shirley – một công nhân Công giáo – đã âm thầm sống đức tin trong hảng xưởng, khiến ông giám đốc cảm kích mà theo đạo Công giáo.

Còn Thánh Phaolồ Miki và các bạn tử đạo đã ươm trồng cây Đức Tín cho các tín hữu Nhật Bản trong 200 năm cấm đạo dữ dội, khiến họ kiên trì giúp nhau giữ đạo, mặc dù không có giáo sĩ hướng dẫn.

Riêng Giáo Hội Việt Nam, trong ba trăm năm, Tổ Tiên chúng ta đã anh dũng nêu gương Đức Tin bằng cái chết của trên 130.000 vị Tử Đạo. Các ngài gồm đủ mọi thành phần trong xã hội và chịu đủ mọi cực hình dã man.

Ban Biên Tập

Trong bóng tối giáo đường

(Thánh Phanxicô Salêsiô)

Vào những buổi chiều tà nhà thờ vắng vẻ, thánh Phanxicô Salêsiô thường đến trước Chúa Giêsu Thánh Thể sốt sắng cầu nguyện.

Một hôm đang lúc mãi mê cầu nguyện thì ngài nghe tiếng sột soạt trong bóng tối. Tưởng là kẻ trộm, ngài vụt đứng dậy cất tiếng hỏi: “Ai?” Một bóng lạ mặt tiến đến gần ngài và nói: “Thưa Đức Giám Mục, con không có đạo, con nghe Đức Giám mục giảng về Chúa Giêsu Thánh Thể, nhưng con không tin. Vì thế hôm nay, thừa lúc chiều tối, con lẻn vào nhà thờ, rình xem thử Đức Giám Mục viếng Mình Thánh Chúa như thế nào? Con thú thực: con đã thấy rõ đức tin của Đức Giám Mục. Giờ đây con vững vàng tin…”

Tuyên xưng bằng máu

Đức tin là con mắt thần, là sức mạnh vũ bão. Người có đức tin trông thấy điều mà những kẻ khác không thể trông thấy, làm được những cái kẻ khác không thể làm được.

Khi đứng trước lưỡi gươm trần của tên đao phủ đang đưa lên cao, Thánh Phêrô Veren vẫn hiên ngang tuyên bố: “Tôi tin”. Khi miệng bị chém không thể nói được nữa, ngài vẫn bình tĩnh lấy ngón tay thấm máu đang chảy ràn rụa trên ngực và viết lên mặt đất, nơi ngài sắp gục ngã làm của lễ, hai chữ: “Tôi Tin”.

Đúng như lời Thánh Kinh: “Sự chiến thắng của tôi chính là đức tin kiên vững”.

Đức tin của anh công nhân

Ông giám đốc của một xưởng kỹ nghệ chuyên sản xuất nông cụ, không tin có Thiên Chúa và cũng chẳng tin vào tinh thần trách nhiệm của các công nhân trong xưởng. Sáng hôm ấy, hơn 1000 công nhân trong xưởng nghe nói ông giám đốc đã lên đường đi công tác nơi xa, mà sớm lắm cũng một tháng sau mới trở về, nhưng đến tối ông âm thầm về lại xưởng.

Sáng ngày hôm sau, ông đứng trên văn phòng ở lầu hai quan sát các công nhân làm việc. Bộ mặt thực của mỗi người đều bị lộ: ai ai cũng lười biếng, nhác nhớn, duy chỉ một anh công nhân lúc nào cũng làm việc tận tụy, hăng say. Tên anh là Shirley, người Công giáo duy nhất của xưởng.

Hôm sau các công nhân nghe rằng, ông giám đốc đã hoãn chuyến đi vì trở ngại kỹ thuật! Riêng Shirley, chàng được gọi lên văn phòng:

Anh Shirley, tôi hết lòng khen ngợi anh, anh là một công nhân tốt. Tôi không thấy đức tin của anh, nhưng nhìn qua công việc lao động và thái độ sống của anh, tôi cũng hiểu được phần nào

Mấy tháng sau, các công nhân nghe tin ông giám đốc bắt đầu học giáo lý Công giáo.

Ba câu hỏi của giáo dân Nhật Bản

Giáo hội Nhật Bản rất anh dũng. Họ có nhiều vị Tử Đạo rất oanh liệt, chẳng hạn như Thánh Phaolô Miki và 25 bạn đồng đội đã bị bắt và bị treo trên những cây thập tự giá đối diện với bờ biển trên một chiếc tàu… Tuy phải gia hình đau đớn, Phaolô Miki và các bạn vẫn vui tươi và không ngừng giảng đạo cho những kẻ đến xem. Các Ngài kêu gọi họ ăn năn trở lại, tha thứ cho những ai sỉ nhục và kết án mình.

Thái độ đó khiến nhiều người đến xem điên tiết. Họ lấy giáo đâm chết tu sĩ Miki và các bạn. Hôm ấy là ngày 5.2.1597, ngay giữa một thời kỳ bắt bớ khá gắt gao, nhưng vẫn còn có tính cách địa phương.

Cuộc bắt bớ này, đến năm 1613 thì lan ra khắp mọi nơi và mọi chỗ. Năm đó chiếu chỉ của Daifusanna vừa được ban hành, Giáo Hội Nhật Bản liền rơi vào tình trạng nguy kịch. Dấu hiệu mở màn là cuộc xử tử công khai 50 Đấng Tử Đạo ở Nagasaki ngày 22.9.1622.

Cuộc bách hại trở nên dã man và ác liệt trên đất Kiu-shu vào những năm 1636-1638 sau khi quân sĩ của Shimbara, một viên tướng Công giáo đứng lên bảo vệ đức tin và sinh mạng, bị đánh tan hoàn toàn: gần 35.000 người Công giáo bị giết trong cuộc nổi dậy ấy.

Các vua Nhật tưởng đã diệt được đạo Công giáo tận gốc rể. Bên ngoài, các nước cũng nghĩ rằng đức tin của giáo dân Nhật còn quá non yếu, khó đương đầu nổi cơn bắt đạo gắt gao như vậy, nhất là với chính sách bế quan tỏa cảng của các vua Nhật, chính sách cấm các nhà truyền giáo đặt chân lên đất Phù Tang.

Thế nhưng thực tế lại khác. Vì các Kitô hữu không có linh mục, không Thánh lễ, không thánh đường, đã anh dũng ngoan cường sống đạo tới 200 năm sau, đến khoảng giữa thế kỷ XIX, thời Minh Trị Thiên Hoàng, khi các nhà truyền giáo lại được đặt chân lên đất Nhật.

Sau đây là một chứng tích hùng hồn cụ thể:

Một hôm, cha Petitjean đi đến giảng đạo tại Nagasaki trước mặt một số đông người Nhật. Nghĩ rằng họ toàn là lương dân nên sau bài giảng, ngài tươi cười hỏi: “Có ai thắc mắc gì không?” Một người đưa tay chất vấn:

Chúng tôi muốn được hỏi ông ba điều, yêu cầu ông trả lời cho chúng tôi có hay không?

Tốt lắm, xin quí vị cứ đặt câu hỏi.

Họ hỏi cha Petitjean: “Các ông có tin Đức Mẹ đồng trinh không? Các ông có vâng lời và thông hiệp với Đức Thánh Cha không? Là linh mục, các ông có giữ mình đồng trinh và sống độc thân không?”

Cha Petitjean đáp: “”.

Và họ nói: “Vậy thì mấy trăm người chúng tôi đây với ông là đồng đạo. Chúng tôi toàn là Công Giáo cả!”

Cha Petitjean hết sức bàng hoàng, ngạc nhiên, như từ cung trăng rơi xuống. Cha con âu yếm ôm nhau, không cầm được nước mắt vì quá sung sướng cảm động. Nhà truyền giáo hỏi:

Bấy lâu nay có ai giảng dạy cho anh chị em không?

Thưa cha, không có ai suốt hai thế kỷ rồi!

Vậy thì sao anh chị em còn sống đạo sốt sắng đến thế?

Thưa Cha, đó là nhờ ông bà Tổ Tiên chúng con truyền lại, sau là nhờ chúng con biết âm thầm cầu nguyện, dạy giáo lý cho con em, đoàn kết yêu thương đùm bọc nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Nhưng tại sao anh chị em lại đặt cho cha ba câu hỏi vừa rồi?

Thưa cha, vì ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ: sau này có ai đến giảng đạo, chúng con phải cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà đánh giá xem họ có phải là những nhà thừa sai chân chính không. Nay chúng con quá đỗi vui mừng vì các cha đích thực là những người được Hội Thánh sai đến. Chúng con sẽ nghe lời các cha và giữ vững Đức Tin Tổ Tiên chúng con truyền lại.

Đức Tin Tiên Tổ

Suốt ba thế kỷ liền, kể từ năm 1533, Phúc Âm của Chúa đến Việt Nam cùng với Thánh giá Chúa. Biết bao tín hữu Chúa bị lưu đày, bị chiếm đoạt tài sản, lẩn lút sống trong rừng sâu nước độc, cam chịu mọi đau khổ để trung thành với Đức Tin.

Cho đến cuối thế kỷ XIX, người ta có thể tính được trên 130.000 đấng thuộc mọi thành phần đã được diễm phúc Tử Đạo. Trong số đó có 117 vị đã được các Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, Piô X và Đức Piô XII phong lên bậc Chân Phước. Và ngày 19.6.1988 Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã tôn phong các ngài lên bậc Hiển Thánh.

Chúng ta có thể chia ra như sau: Đời Trịnh Doanh: 2 vị.  Đời Trịnh Sâm: 2 vị. Đời Cảnh Thịnh: 2 vị. Đời Minh Mạng: 57 vị. Đời Thiệu Trị: 3 vị. Đời Tự Đức: 51 vị.

Thành phần các Thánh ấy gồm có: 8 Giám mục. 50 Linh mục. 16 Thầy giảng. 1 Chủng sinh. 42 Giáo dân.

Gương sống đạo của Tổ Tiên chúng ta

Đây là chi tiết các khổ hình đã dành cho các ngài như sau: Có những giáo xứ (ở Quảng Trị) bị lính lùa vào nhà thờ rồi chất rơm chung quanh đốt cháy tất cả. Các nữ tu Nhà Dòng Mến Thánh Giá Phan Rang bị vứt xuống giếng và lấp đất chôn sống đi. Có những thiếu nữ Công giáo non yếu bị đưa về Huế phạt gia hiệu, phơi nắng ngày này sang ngày khác rồi chặt một ngón tay trước khi đánh đập và tha về.

Ngoài ra, gương 12 vị Chánh trương, trùm trưởng khắp nơi bị đưa về Huế, giam trên thành Lồi (bức thành người Chàm xưa đắp lên để đánh với người Việt Nam, xa thị xã độ 10 cây số). Các ông phải bứt cỏ nuôi voi cho nhà vua cho đến khi chết dần chết mòn tất cả; nay 12 ngôi mộ của các ông vẫn còn nguyên vẹn dưới chân thành ấy.

Duới đây, xin ghi lại vắn tắt gương sống của một vài vị để soi chiếu cho chúng ta:

– Những vị có chức vụ trong nhà nước hoặc quân đội như: Thánh Micae Hồ Đình Hy làm quan Thái bộc tới Hàm tam phẩm. Thánh Phaolô Tống Viết Bường làm chức Thị vệ. Thánh Phanxicó Trần Văn TrungThánh Giuse Lê Đăng Thị làm cai đội. Thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ là một lý trưởng gương mẫu liêm khiết.

Các vị này là những công dân tận tụy với chức vụ, trung thành với Tổ quốc và nhân dân, nhưng chỉ vì không bỏ đạo mà phải chịu án tử hình.

– Những giáo dân lãnh trách nhiệm tông đồ trong hội đồng giáo xứ như: Thánh Giuse Nguyễn Vân LưuThánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh, Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông, Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, Thánh Antôn Nguyễn ĐíchThánh Matthêu Nguyễn Văn Phượng.

– Một phụ nữ Công giáo Việt Nam đã anh dũng tuyên xưng đức tin là Thánh Anê Lê Thị Thành.

– Những anh hùng vô danh từ Nam chí Bắc. Đó là các cụ ông, cụ bà trước đây đã bị bắt bớ, giam cầm, tra tấn rồi bị người ta rạch mặt lấy mực tàu xâm lên trên má hai chữ “Tả đạo” để dù đi đến đâu, nhân dân ai cũng nhận ra đây là những người theo đạo tả; nhưng đối với giáo dân, đây là biểu tượng của Đức Tin kiên cường sáng chói.

“Chúng ta hãy ca tụng những bậc vĩ nhân, những bậc tiền bối của chúng ta”. (Giảng viên 44, 1).

NGUỒN: NHỮNG NGƯỜI LỮ HÀNH TRÊN ĐƯỜNG HY VỌNG (NGLHTĐHV): Trích dẫn: Chương 13 – ĐỨC TIN

ĐƯỢC BIẾN HÌNH ĐỔI DẠNG

ĐƯỢC BIẾN HÌNH ĐỔI DẠNG

Ðức Giêsu mê những ngọn núi vắng vẻ, đó là nơi Ngài gặp gỡ Cha, chìm đắm trong cầu nguyện.

Có nhiều ngọn núi trong cuộc đời Ðức Giêsu: núi của Bài Giảng về các mối phúc, núi Tabo nơi Ngài biến hình, núi Sọ và núi Ô-liu nơi Chúa thăng thiên.

Những ngọn núi trở thành cột mốc đánh dấu.

Những ngọn núi đan vào nhau làm nên cuộc hành trình.

Ba môn đệ thân tín được Ngài đưa lên núi Tabo, để củng cố niềm tin của họ, trước khi họ thấy Ngài như người bị Cha bỏ rơi và bị mọi người khai trừ ruồng rẫy trên núi Sọ.

Nhưng vinh quang của núi Tabo chỉ là một loé sáng bất ngờ và tạm thời, báo trước vinh quang viên mãn khi Ngài về Thiên Quốc.

Biến hình là một hành động của Thiên Chúa Cha.  Sau khi gặp Cha, Ðức Giêsu được Cha biến hình.  Sự biến đổi này ảnh hưởng đến thân xác và khuôn mặt, và đến cả y phục của Ngài.

Vinh quang của Con Thiên Chúa làm người vốn bị che khuất, nay được Cha hé mở cho các môn đệ.  Ông Môsê ngày xưa, sau khi lên núi gặp Ðức Chúa cũng đã phải che lại khuôn mặt chói lọi của mình.

Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình.  Ðời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ.  Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá.

Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình:  tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa.  Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục.  Nếu chúng ta chấp nhận đi vào đường hẹp của Thầy Giêsu chúng ta sẽ được biến hình đổi dạng và phản ánh ngời sáng hơn vinh quang Chúa (x. 2Cr 3, 18).  Chúng ta phải trở thành điều chúng ta đang là.

Ðời sống Kitô hữu là một cuộc lên núi và xuống núi với Chúa Kitô mỗi ngày.  Cần cảm nếm được sự dịu ngọt và hạnh phúc khi được chiêm ngắm Chúa Giêsu trên núi cao.  Nhưng cũng phải xuống núi với Chúa để đi đến nơi hiến mình, nơi phục vụ, đi cùng và đi sau Chúa Giêsu đến với Vườn Dầu và Núi Sọ.

Ước gì chúng ta dám đón nhận những gai góc đời thường và nhìn mọi khổ đau bằng cái nhìn mới mẻ. Người Kitô hữu lên núi gặp Chúa để rồi được sai xuống núi hành đạo.  Nhưng xuống núi rồi, lại có khi thấy cần lên núi.

**************************************

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.

Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.

Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.  Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.

Trích trong “Manna”

Phép Thánh Thể

5 Chiếc Bánh Và 2 Con Cá


4. Chiếc Bánh Thứ Tư

Sức mạnh độc nhất của tôi:

Phép Thánh Thể

Quanh bàn tiệc Thánh Thể được thực hiện và được tỏ bày sự hiệp nhất hài hòa của Hội Thánh, mầu nhiệm hiệp thông truyền giáo, trong đó mọi người nhận thấy mình là con Chúa và là anh chị em trong một đại gia đình. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 7)

Trong tù cha có dâng lễ được không?“, đó là câu hỏi mà bao nhiêu lần nhiều người đã hỏi tôi. Và thực sự họ có lý, vì Thánh Thể là kinh nguyện đẹp nhất, là đỉnh cao của cuộc đời Chúa Giêsu. Mỗi khi tôi trả lời “có”, thì tôi đã biết ngay câu hỏi tiếp sau: “Làm sao cha kiếm ra rượu lễ, bánh lễ?

Lúc tôi bị bắt, tôi phải đi ngay và đi tay không. Hôm sau tôi được phép viết về nhà để xin đồ cần dùng nhất như áo quần, kem đánh răng, v.v… Hàng đầu tiên, tôi viết: “Xin gửi cho tôi ít rượu thuốc trị bịnh đường ruột“. Bên ngoài, giáo dân hiểu ngay. Hôm sau, ông trưởng ban chấp pháp cầm đến một ve nhỏ bên ngoài có dán giấy đề chữ “thuốc trị bịnh đường ruột” và bánh lễ xé nhỏ bỏ trong một cái lọ chống ẩm, ông ta hỏi:

– Ông có bị bịnh đường ruột không?

– Có.

– Ðây là thuốc bên ngoài gửi vào cho ông!

Không bao giờ tôi vui bằng hôm đó: từ đấy mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay, tôi dâng thánh lễ.

Tuy nhiên cách dâng lễ mỗi nơi mỗi khác. Dưới hầm tàu thủy chở tôi ra miền Bắc, ban đêm tôi ngồi giữa mấy bạn tù, bàn thờ là túi cói đựng đồ, dâng lễ thánh Phanxicô quan thầy của tôi và cho các bạn chịu lễ. Lúc ở trại Vĩnh Quang tôi phải dâng lễ trong góc cửa ban sáng lúc người ta đi tắm sau giờ thể dục. Lúc đã quen với thời khóa biểu của trại, tôi dâng lễ ban đêm, vì chúng tôi được chia thành từng đội 50 người, ngủ chung trên một láng gỗ, mỗi người được 50 cm, đầu đụng nhau, chân quay ra ngoài. Chúng tôi đã tự thu xếp để năm anh em Công giáo nằm quanh tôi. Ðến 9 giờ rưỡi đêm, nghe tiếng kẻng là tắt đèn và mọi người phải nằm trong mùng muỗi cá nhân; tôi ngồi cúi sát xuống để dâng lễ thuộc lòng. Tôi đưa tay dưới mùng để chuyển Mình Thánh cho anh em chịu lễ. Chúng tôi nhặt giấy nylon bọc bao thuốc hút để làm những túi nhỏ đựng Mình Thánh. Như thế Chúa Giêsu luôn ở giữa chúng tôi. Chúng tôi tin một sức mạnh: Thánh Thể. Thịt Máu Chúa làm cho chúng tôi sống, “Ta đã đến là để chúng được có sự sống, và có một cách dồi dào” (Ga 10, 10). Như manna nuôi dân Do Thái đi đường về Ðất hứa, Thánh Thể sẽ nuôi con đi cùng đường Hy vọng (Ga 6, 53).

Mỗi tuần, sáng thứ Sáu có một buổi học tập, tất cả 250 anh em phải tham dự. Ðến lúc xả hơi, các bạn Công giáo thừa dịp đó mang các túi nylon đựng Mình Thánh đến chia cho bốn đội kia, mỗi người thay nhau mang trong túi áo một ngày.

Ai cũng biết có Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở giữa trại tù với họ. Chính Ngài an ủi, xoa dịu những khổ đau thể xác và tinh thần; chính Ngài thêm can đảm chịu đựng cho họ. Ban đêm, họ thay phiên nhau làm giờ thánh. Sự hiện diện thinh lặng của phép Thánh Thể biến đổi họ cách lạ lùng. Nhiều người Công giáo trở lại sống đạo đức hơn; nhiều anh em không Công giáo, Phật giáo tìm hiểu Phúc âm và lãnh phép Thánh tẩy trong trại cải tạo, hoặc sau lúc được tự do. Không có gì cưỡng lại được tình yêu Chúa Giêsu. Ðêm tối của ngục tù trở thành ánh sáng, hạt giống đã đâm chồi dưới đất đang lúc trời giông tố phong ba. Những ơn trọng này do Chúa Giêsu Thánh Thể chứ không phải do sức loài người.

Trong chín năm biệt giam, tôi dâng lễ một mình lúc 3 giờ chiều, giờ Chúa Giêsu hấp hối trên Thánh giá. Tôi ở một mình nên có thể hát tiếng Latinh, tiếng Việt, tiếng Pháp… Tôi luôn mang Mình Thánh trong mình “như Cha ở trong con và con ở trong Cha”.

Ðó là những thánh lễ đẹp nhất của đời tôi. Kinh Lauda Sion, Pange Lingua, Adoro Te, Te Deum và nhiều kinh Việt ngữ, mặc cho tiếng loa trước cửa từ 5 giờ sáng đến 11 giờ rưỡi đêm. Tôi cảm nghiệm cách đặc biệt một sự bình an, một niềm vui trong tâm hồn vì Chúa Giêsu, Ðức Mẹ và thánh Giuse ở với tôi. Tôi hát Salve Regina, Salve Mater, Regina Coeli, v.v… hiệp với toàn thể Hội thánh. Mặc cho Hội thánh bị vu cáo, chống đối, tôi hát “Này con là đá… Ta hãy nguyện xin cho Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô”…

Chúa Giêsu đã nuôi dưỡng dân chúng theo Người trên sa mạc; trong phép Thánh Thể Chúa Giêsu tiếp tục làm của ăn ban sự sống muôn đời.

Mỗi lúc dâng lễ, đọc lời truyền phép, với tất cả tâm hồn, tôi làm lại lời “giao ước mới, giao ước vĩnh cửu” với Chúa Giêsu. Không phải để sống an nhàn, nhưng để bắt đầu một cuộc cách mạng, đổi mới nhân loại, được máu Chúa cứu chuộc, sống xứng đáng phẩm giá con Thiên Chúa, trong văn hóa của tình thương và sự sống.

Trong Thánh Thể chúng tôi loan truyền sự chết của Chúa Giêsu và tuyên xưng sự sống lại của Ngài. Có lúc buồn nản vô cùng, tôi nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên Thánh giá: Ngài không giảng dạy, thăm viếng, chữa lành bệnh tật; Ngài hoàn toàn bất động. Ðối với con mắt loài người, cuộc đời Chúa Giêsu là vô ích, là thất bại. Nhưng đối với đôi mắt Thiên Chúa, chính giây phút ấy lại là giây phút quan trọng nhất của đời Ngài, vì trên Thánh giá Ngài đã đổ máu mình để cứu chuộc nhân loại.

Chúa Giêsu là mẫu gương của tình yêu tuyệt đối với Ðức Chúa Cha và các linh hồn. Ngài đã cho tất cả, yêu thương đến cùng (Ga 13, 1), cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng và nói lên tiếng “hoàn tất” (Ga 19, 30).

Khi nhìn thấy đoàn lũ theo Ngài, Ngài nói: “Tôi thương xót dân này” (Mt 15, 32). Ngài đã làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều để nuôi họ. Ðây là dấu hiệu loan báo phép Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập về sau.

Các bạn trẻ thân mến,

Mời các bạn nghe lời Ðức Thánh Cha: Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, trong phép Thánh lễ; giữa những sự bất trắc, những hoang mang trong cuộc đời mỗi ngày, các bạn hãy noi gương hai môn đệ trên đường về Emmau… Hãy cầu xin Chúa Giêsu, để dọc các nẻo đường về bao nhiêu xóm nhỏ Emmau của thời đại ta, Ngài ở lại với các bạn. Ngài phải là sức mạnh của các bạn, là trung tâm của các bạn, là hy vọng trường cửu của các bạn. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 7)

Biệt giam tại trại Phú Khánh, Nha Trang,

1-9-1976

Lễ các Thánh Tử Ðạo Việt Nam

CHÚA CHỮA LÀNH ĐỐT XƯƠNG SỐNG BỊ TRẬT VÌ TAI NẠN XE.

CHÚA CHỮA LÀNH ĐỐT XƯƠNG SỐNG BỊ TRẬT VÌ TAI NẠN XE.

MARIA Vũ Kỳ.

Vào tháng 10 năm 2014 , tôi đã tham dự tĩnh tâm Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo tại nhà thờ St. Christopher, Houston , Texas. Buổi tĩnh tâm này do Cha Đinh thanh Sơn từ Canada đến hướng dẫn và Cha Lê Thu, Quản Nhiệm giáo xứ bảo trợ.

Ngay từ đầu , tôi đã được ơn đặc biệt của Chúa. Nhìn thấy tấm băng rôn lớn treo ở hội trường , nơi tổ chức tĩnh tâm , với hàng chữ : “ Hãy tha thứ để được thứ tha” , thì lòng tôi chùng xuống , tôi tự nhủ lòng , sau tĩnh tâm mình sẽ gọi ” phôn” xin lỗi ông Anh, vì hai Anh Em giận nhau dễ đến hai năm không hề nói chuyện với nhau. Tôi sẽ dùng món quà này để xin Chúa đụng chạm và đổi mới tôi.

Quả đúng như lòng tôi mong ước , Chúa đã ghé mắt nhìn đến linh hồn tôi, khi đang hát ca ngợi Chúa thì tôi được ơn trọng là cảm thấy yêu mến Chúa và muốn từ bỏ các đam mê xấu làm cho mình xa cách Chúa , ngay lập tức một niềm bình an mênh mông bao phủ tôi, và tôi chợt phát nói một thứ tiếng lạ nào đó và tôi dùng tiếng nói mới này mà ca khen Chúa , Kinh Thánh qua Thánh Phao lô đã giải thích ơn “cầu nguyện bằng tiếng lạ” với Chúa nhờ vào sự linh ứng , của Chúa Thánh Thần. Cùng với cả cộng đoàn , chúng tôi ca ngợi Chúa một cách hăng say,  trong niềm vui phấn khích vì cảm được tình yêu của Chúa và sự hy sinh cao cả của Người. Chúng tôi , mỗi người thắp lên một ngọn nến và hứa nguyện sẽ để cho ánh sáng Lời Chúa hướng dẫn đời mình mãi mãi. Rồi khi hôn chân thánh giá , tôi cảm được sự hy sinh của Chúa, cảm biết là Ngài sẽ không từ một hy sinh nào nếu có thể cứu được các linh hồn đang hư mất. Tâm hồn tôi thật là bình an , nó như đang an nghỉ trong sự bảo bọc của Chúa . Tôi đã quên đi những băn khoăn lo lắng , dù cả gia đình tôi vừa dọn nhà từ California về Houston, dù hai vợ chồng đều chưa có việc làm , nhà cửa thì đang ở thuê apartment , rất bề bộn, thùng dọn nhà còn bừa bãi khắp nơi, cho dù hai cháu nhỏ của chúng tôi thì còn bé xíu,  đang ở  tuổi bú sữa… Chúng tôi dâng hết cho Chúa những khó khăn, ưu tư chồng chất của mình.

Như thông lệ , kỳ tĩnh tâm sẽ kéo dài ba ngày , từ chiều tối thứ sáu đến ngày Chúa Nhật, vào tối thứ Bảy tôi được ơn ca ngợi Chúa bằng tiếng lạ, hết buổi tĩnh tâm đã là 9 giờ đêm , chúng tôi đi về khu chung cư của gia đình mình, sau khi cho con ngủ , tôi lại tiếp tục cầu nguyện và ngỡ ngàng thay , tiếng lạ lại cất lên , không ngưng nghỉ ca khen Chúa trong suốt một tiếng đồng hồ cho đến khi chồng tôi ngại ngần nói tôi ngưng lại, kẻo các con thức giấc. Chồng của tôi,  là người mới biết Chúa nhưng qua ngày tháng, đức Tin của anh đã có cơ hội lớn lên và càng được củng cố qua các biến cố mà tôi xin làm chứng sau đây.

Sau kỳ tĩnh tâm , tôi chợt nhớ là ngoài việc xin làm hòa với ông Anh ra  thì mình phải gọi điện thoại cho gia đình, thăm hỏi Ba Mẹ tôi, vốn vẫn còn đang sinh sống ở Việt Nam .

Khi gọi cho Ba tôi, thì Mẹ đang đi chợ . Ba nằm một mình,  rất âu sầu Cha cho tôi biết hung tin, số là cách nay ba tuần trong lúc đang cỡi xe đạp đi công chuyện thì một kẻ đi honda , phóng chạy rất nhanh đã không thắng kịp và lao thẳng vào người Ba, Ông té lăn nhào xuống đất , bị bầm dập tím , rách chảy máu trên khắp người, nguy hiểm nhất là một đốt xương sống bung khớp, ra khỏi vị trí đứng của nó. Ông được đưa đi cấp cứu, các Bác sĩ đã cứu chữa  các vết thương khác nhưng riêng tình trạng của đốt sống thì hầu như bó tay, có thể là bị bán thân bất toại , tê liệt  nửa người trong suốt quảng đời còn lại. Ba tôi rất đau, và tuyệt vọng, mỗi một cử chỉ dù là nhẹ , ông cũng cảm thấy đau buốt , chết lịm .

Gia đình tôi vốn lại quá nghèo ở Việt Nam , rất khó có thể lo chữa trị cho Ba tôi,  khi mang Ba Tôi về nhà, Má tôi đặt cáng băng ca giữa căn nhà bé nhỏ , ngay tại chỗ , cho Ba ăn , ngay tại chỗ rửa ráy cho Ba tôi, cũng ngay tại chỗ Ba tôi nằm mê man,  tiểu tiện ra trên giường. Tình cảnh thê thảm và khổ sở khó tả cho hết…

Trên phôn, Ba rên rỉ , con cầu nguyện cho Ba , kỳ này Ba đã thành người tàn phế hết cuộc đời và còn làm khổ cho Mẹ con nhiều… Ba ngâm ngùi khóc , …. Không nản chí khi nghe Ba tôi kể tình cảnh, tôi nhẹ nhàng nói:

–          Xin Ba hết lòng phó thác , tin cậy nơi Chúa . Ba và Con cùng cầu nguyện với Chúa nhe, nếu có thể được xin Ba giơ tay lên để cùng với con xin ơn Chúa.

Cách xa nửa vòng trái đất , tôi ở bên này đường dây phôn, Ba tôi ở bên kia , qua đường kết nối chúng tôi như đang ở sát kề bên nhau và cùng tha thiết cầu nguyện.

Đang khi lòng tôi khẩn thiết dâng hoàn cảnh của Ba lên Chúa Giê Su thì miệng tôi bật lên lời cầu nguyện bằng tiếng lạ. Trong gần 10 phút đồng hồ , hồn tôi hết lòng trông cậy Chúa , hy vọng nơi danh thánh của Chúa có quyền năng trên hết mọi sự kể cả trên cái xương sống đang trật trìa trong thân hình quằn quại của Cha cũng phải tuân theo quyền năng đó. Tôi tán dương danh rất nhân ái, hay thương xót của Chúa rồi theo sự chỉ dậy của Cha Đinh Thanh Sơn trong kỳ tĩnh tâm vừa mới rồi, tôi nhân danh Tên Cực Thánh của Chúa Giê Su, tôi ra lệnh cho mọi  , gân cốt , mọi đốt xương dập trật , mọi tế bào trong cơ thể của Ba,  phải quay trỏ lại tình trạng tốt đẹp , hoạt động bình thường để làm ích cho con cái Đức Chúa Trời. Cầu nguyện xong , thì Ba tôi cho biết , khi tôi còn đang cầu nguyện tiếng lạ thì có một làn điện nóng chạy rần rật trong người Cha, ngay chỗ sống lưng, và rồi,  Ông biết là Chúa đang làm một cái gì đó cho mình. Ba tôi, thì thầm tôn vinh và cảm ơn Chúa khi các cơn đau chợt bỗng nhiên im bặt.

Khi đã cầu nguyện xong, tôi nói xin Ba thử cử động người vì trước đó ông không thể xê dịch người mà không có người nhà vực đỡ và chỉ một đụng chạm cũng làm cho Ông đau điếng người. Ba tôi đã không những cử động thử mà còn đòi tự mình ngồi lên, ông luôn miệng nói “ Chúa chữa cho Ba hết đau rồi”, “ Chúa chữa cho Ba lành rồi”. Rồi ông từ từ đi lại trong nhà. Ngay khi đó má tôi đi chợ về , bà la toáng lên : “ Trời ơi, sao ông dám cử động và ra khỏi chỗ, ông muốn bị tê liệt và té chết hả” . Ba ôn tồn giải thích cho Mẹ hiểu nguồn cơn sự tình, tôi cũng hùa vào công nhận đã có sự chữa lành xảy ra,  thế là Bà đổi ái ngại thành vui mừng, từ thảng thốt thành phấn khích và cũng đòi cùng với Ba và tôi tạ ơn Chúa rồi xin Chúa chữa lành cho cả Bà nữa. Đó là những giây phút đáng ghi nhớ khi chúng tôi cùng đồng lòng trong sự tạ ơn và ca khen Chúa.

Kỳ tích lớn nhất Chúa làm cho tôi là thay cho tôi một đời sống thiêng liêng hoàn toàn mới, tôi líu lo như chim sơn ca tíu tít ca ngợi Chúa và làm chứng về vị Chúa rất sống động và nhân từ , mỗi khi ca ngợi Chúa lòng tôi lâng lâng , nhẹ nhõm , cảm thấy hạnh phúc vì biết có Đấng rất yêu thương tôi , luôn che chở cho gia đình tôi. Nó chính là một chút xíu vị ngọt Thiên Đàng mà Chúa muốn hé mở cho tôi được cảm nghiệm dù là không thể so sánh với niềm vui vô cùng tận, trong bầu khí viên mãn trọn vẹn của Thiên Đàng khi mà thần thánh, cùng họp nhau ca khen Chúa trong một gia đình rất lớn. Ngày xưa , nếu có ai nói về niềm vui này thì có lẽ tôi đã cho rằng họ bị “cảm tính thiên lệch” rồi , nhưng nay thì tôi biết về một niềm vui rạng rỡ trong sự Ca Ngợi Chúa, tôi biết niềm vui Thiên Đàng này không phải là điều xa vời , mơ hồ. Khi nhớ lại bao nhiêu lần phản bội Chúa và giới luật của Chúa, tôi thì thầm:

–          Chúa Giê Su ơi! Ngài thật dịu dàng với con lắm, tội lỗi con có lớn đến mấy mà con chịu chấp nhận và chạy đến, thực lòng xin lỗi Chúa , thì Người sẵn lòng tha thứ hết dù là vào giây phút cuối của cuộc đời, tưởng như không thể vớt vát được . Con thờ lậy và ca ngợi Đáng rất thánh khiết của con. Đấng rất đáng kính , Đáng rất yêu thương của con…

Tôi may mắn, đã được hưởng một kỳ tĩnh tâm Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo rất tuyệt vời , nó đã làm mới đời sống tôi và cứu sống cuộc đời của Ba tôi. Từ dạo đó, mỗi tuần , vào sáng ngày Chúa Nhật chúng tôi dậy sớm đi lễ,  rồi mau mắn đến một nhóm Thánh Linh nọ, tại giáo xứ Đức Kito Ngôi Lời Nhập Thể, trên đường Kirkwood , Houston,  để ca tụng Chúa, tôn vinh Chúa và nghe Lời Chúa dậy dỗ cho cả gia đình gồm Hai vợ chồng và hai cháu nhỏ. Cuối buổi nhóm, thì rồi chúng tôi chia sẻ với nhau một miếng bánh mì , một nhúm xôi điểm tâm muộn màng … mọi người thật là thân ái như trong gia đình.

Tại Việt Nam đã hơn ba tháng qua,  Ba tôi lại ngày ngày , đạp xe đi đó đây và đến thăm viếng Chúa , dự lễ Misa mỗi ngày,  Chúa cho Cha thanh thản và an hòa quá !

Cám ơn Cha Sơn và các Bác đã tổ chức kỳ tĩnh tâm tại nhà thờ St Christopher , Houston.

Cám đội ơn vị Bác Sĩ rất tuyệt vời là Chúa Giê Su.

Tôi muốn kết thúc bài làm chứng này , bằng cách cùng với Mẹ Maria ca khen Chúa:

–          Hồn tôi tôn dương Chúa và thần khí tôi nhảy mừng Thiên Chúa,

Cứu Chúa của tôi.

(Luca 1: 46-47)

GIEO GIÓ, GẶT BÃO

GIEO GIÓ, GẶT BÃO

B/S Nguyễn Hy Vọng

1-  John Lennon, ca sĩ của ban nhạc The Beatles, Anh quốc. Trong lúc được tạp chí American Magazine phỏng vấn, John Lennon nói:
“Thiên Chúa Giáo sẽ không còn, sẽ biến mất. Tôi không có gì phải tranh cãi về điều đó. Tôi chăc chắn như thế.  Ông Giêsu thì được, nhưng những kẻ theo Ông thì quá ngay ngô (ý muốn nói là bị Ông Giêsu lừa gạt).  Ngày nay, chúng tôi, ban nhạc The Beatles nổi tiếng hơn Ông Giêsu.”  (1966)
Sau khi John Lennon tuyên bố lời trên đây, hắn bị bắn sáu lần. Không biết sau khi bị bắn sáu lần, John Lennon có ăn năn hay không? Nhưng mọi người đã biết ‘The Beatles’ đã chết.

2-  Tancredo Neves, người Ba tây (Brazil). Trong lúc vận động tranh cử tổng thống, hắn tuyên bố:
“Nếu tôi có được 500,000 người trong đảng bầu cho, thì ngay cả Thượng Đế cũng không thể đẩy tôi ra khỏi chưc vụ tổng thống.”
Tancredo Neves được số phiếu hắn muốn, nhưng một ngày trước ngày nhận chức tổng thống, hắn lăn ra chêt mà không ai biết lý do tại sao.

3-  Cazuza, viết nhạc, ca sĩ, nhà thơ. Trong một buổi trình diễn ở Canecio (Rio de Janeiro), lúc hút thuốc lá, hắn thổi khói thuốc vào không khí và nói:
“Thượng Đế, phần đó cho ngươi.”
Hắn bị bịnh liệt kháng (Aids), chêt ở tuổi 32, trong tình trạng cực kỳ đau đớn và rên siết mãi mới chết được.

4-  Một nhà báo hỏi người thiết lập chiêc tàu Titanic, về sự an toàn của chiêc tàu, thì kẻ thiêt lập chiêc tàu, nói:
“Ngay cả Thượng Đế cũng không thể đánh chìm được nó.”
Kết quả ra sao, mọi người đã biêt.

5-  Marilyn Monroe, diễn viên điện ảnh. Trong một xuất trình diễn, được Billy Graham đến thăm.  Bill Graham nói, Chúa Thánh Thần sai ông đến để nói với cô. Nghe xong, Marilyn Monroe, nói:
“Tôi không cần Giêsu của ông”.
Một tuần sau, người ta thấy xác Marilyn chết cô đơn trong một chung cư.

6-  Bon Scott, ca sĩ của ban nhạc  AC/DC.  Một bản nhạc hắn ca vào năm 1979, có câu:
“Đừng ngăn cản tôi. Tôi đang đi xuống tận cùng; xuống con đường cao tốc đến hỏa ngục.”
Ngày 19/2/1980, Bon Scott chết vì ngẹt thở, do cơn ói mửa của hắn.

7-  Năm 2005, thành phố Campinas, Ba tây (Brazil), có một nhóm bạn lái xe đến đón một cô bạn của họ… Người mẹ cùng đi với cô con gái đến chiếc xe.  Người mẹ lo lắng khi thấy bạn của con gái bà say rượu. Bà nắm tay đứa con gái, lúc đó đã ngồi vào xe:
“Con gái của mẹ. Con hãy xin Chúa cùng đi với con và xin Ngài che chở con.”
Đứa con gái trả lời:
“Ông Ta có đi thì vào cốp xe, trong xe không còn chỗ cho Ông ta.”

It giờ sau, tin tức cho biêt chiếc xe bị tai nạn, không người nào sống sót. Chiếc xe bị hư hại đến độ, không ai có thể nhận biêt đó là xe loại gì, nhưng có một điều làm cho những người cảnh sát hết sức ngạc nhiên, là cốp xe không bị hư hỏng; theo họ, điều đó không thể xảy ra trong một tai nạn khủng khiếp như thế; và có một điêù làm cho mọi người càng ngỡ ngàng hơn, là trong cốp xe có một hộp trứng, nhưng không một quả trứng nào bị vỡ.

8-  Christine Hewitt (người Jamaica ), là nhà báo và hoạt náo viên. Cô nói:
“Thánh Kinh là quyển sách tồi tệ nhât thế giới đã được viết.”
Tháng sáu năm 2006,  cô bị cháy rụi trong khi cô lái chiếc xe của cô.

9-  Năm 1954, sau khi chiếm Miền Bắc, một toán công an Cộng sản vào nhà dòng kín Bùi Chu lục soát. Khi đến Nhà Nguyện, lúc các nữ tu chầu Mình Thánh, một tên công an cộng sản lớn tiếng la lối:
“Chúa của các ngươi ở đâu?”
Nữ tu chỉ Nhà Tạm trên bàn thờ, tên công an này lấy súng mang trên người nhắm Nhà Tạm, bắn, làm chén thánh và Mình Thánh Chúa đổ ra vương vãi. Bắn xong, hắn vẫn đứng yên, chỉa súng vào Nhà Tạm như muốn bắn tiếp. Các nữ tu vô cùng đau lòng vì Mình Thánh Chúa bị xúc phạm, nên quỳ xuống, van xin anh đừng bắn nữa; nhưng khi chạm đến anh, mới biết linh hồn anh lià xác từ lúc nào rồi.

10-  Năm 1963, sau khi Tổng Thống Ngô Ðình Diệm bị một số tướng tá phản bội lật đổ, một số người bên lương tràn vào tòa Tỉnh trưởng Thừa Thiên, Huế, đập phá “tàn tích gia đình trị”. Khi thấy bức tượng Thánh Gioan Tẩy Giả, Quan Thầy của Tổng Thống Diệm, một thanh niên trèo lên vác búa đập vỡ mặt mũi bức tượng, nhưng hắn bị trật chân ngã xuống và chết ngay lập tức. Sự kiện này xẩy ra trước mắt nhiều người chứng kiến.

11-  Voltaire là kẻ chống Thiên Chúa và đánh phá Hội Thánh Công Giáo rất quyết liệt. Không một lời gian dối và vu oan nào mà ông tởm gớm.  Ông chiêu tập một nhóm lấy tên là “Beelzebub” ( tên của tướng quỷ ). Năm 1753 ông đã lên án Thiên Chúa: “20 năm nữa Thiên Chúa về hưu, vì không còn ai phục vụ Ngài.”
20 năm sau, năm 1773, Voltaire tắt thở trong cái chết thê thảm. Ông thấy những hình ảnh làm ông run sợ, ông hét lên: “Một bàn tay đang kéo tôi đến với Thiên Chúa…Qủy băt tôi…Tôi trông thấy hỏa ngục.”  Ông tru tréo như thú vật hung dữ. Ông lấy móng tay cấu xé thịt mình ra từng miếng. Một bà gìa thường giúp người hấp hối; sau khi chứng kiến cái chêt của Voltaire, đã nói:
“Khi ấy tôi ở gần giường của Voltaire đang hấp hối, tôi không muốn nhìn thấy một người vô đạo chêt nữa.”
Một người khác cũng chứng kiến cái chêt của Voltaire, nói:
“Nếu quỷ có thể chết được, cũng không chêt dữ như Voltaire.”

Kết
Nhân loại đã phạm tội và đáng bị phạt hoả ngục đời đời. Tội lỗi đời đời của nhân loại không ai có thể gánh vác, nhưng vì yêu thương, Thiên Chúa đã ban Người Con duy nhất của Ngài là Chúa Cứu Thế Giêsu, xuống trần để cứu chuộc nhân loại.
Những ai tin vào Chúa Cứu Thế Giêsu thì được cứu, những ai không tin sẽ bị án phạt.  Những kẻ chống lại Thiên Chúa và Giáo Hội Công Giáo, như:  đảng Cộng sản, nhóm Giao điểm, những kẻ tôn thờ Satan, quyền lực, tiền của, phủ thủy, đồng bóng, cầu cơ, bói toán, bùa ngãi.… đừng tưởng rằng Thiên Chúa chưa trừng phạt mà nghĩ rằng không có Thiên Chúa.  Thiên Chúa là Đấng hằng hữu. Thiên Chúa muốn trừng phạt ai vào lúc nào, ở đời này hoặc ở đời sau là quyền của Ngài.

Những kẻ chống lại Thiên Chúa và Hội Thánh Công Giáo, hãy trở về với Thiên Chúa trước khi quá muộn, vì mọi phàm nhân đều phải chết và không biết giờ chết. Nhưng khi lià đời, thì không phàm nhân nào thoát khỏi bị xét xử:

“Đừng để bị lừa dối, Đức Chúa Trời không chịu khinh thường mãi đâu, vì ai gieo điều gì sẽ gặt điều ấy.” (Galatians 6: 7)

Lạy Chúa Giêsu,
Con van xin Chúa thương xót con trong mọi nơi, mọi lúc và nhất là trong giờ con lâm chung. Amen.

B/S Nguyễn Hy Vọng

Anh chị Thụ Mai gởi

THỜI ĐẠI MỚI

THỜI ĐẠI MỚI

AM. TRẦN BÌNH AN

Trích EPHATA 638

Nhà văn Phaolô Nguyễn Hoàng Đức, một chứng nhân sống động của Chúa, của Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận. Ông từng là trung uý an ninh, công tác tại cục “chống phản động” A16 thuộc Bộ Nội Vụ, phụ trách vấn đề tôn giáo. Năm 1987, ông có dịp gặp Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận lúc đang bị giam cầm để học tiếng Pháp. Sau gần hai năm học cùng ngài, ông được khai sáng Đức Tin Thiên Chúa. Một thời gian sau khi Đức Hồng Y được trả tự do sau 13 năm giam giữ bất công, ông Đức cũng từ bỏ ngành Công An và chính thức trở thành con cái Chúa vào dịp Lễ Phục Sinh 2003.

“Con đường Đức Tin vào Nước Chúa qua cây cầu Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận”, của nhà văn Nguyễn Hoàng Đức là một chứng từ trong hồ sơ phong Chân Phước cho Đức Hồng Y FX. Nhà văn tự thuật: “Cuối năm 1988, sang đầu năm 1989 tôi bắt đầu nộp đơn xin chuyển ngành, lý do chính là, sau một loạt sự kiện hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô tan vỡ, đặc biệt “sự kiện Mùa xuân Bắc Kinh” xảy ra tại quảng trường Thiên An Môn ngày 4.6.1989, rồi quân đoàn 27 tràn vào trộn máu thịt sinh viên bằng xích xe tăng, lúc đó Việt Nam coi “Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp”, nhưng lại chiếu phim thời sự trong nội bộ để học tập cách đàn áp của Trung Quốc. Điều đó làm tôi không muốn ở cục “Chống phản động” nữa, vì qua ngót mười năm làm việc, đọc nhiều hồ sơ, tôi hiểu hầu hết người dân lành đó không phải là phản động. Đôi khi, vài anh em bạn bè trong cục tôi vẫn thường bảo với nhau: Tại sao chúng ta thừa nhận Giáo Hội là hợp pháp, trong khi đó lại coi việc hành lễ hay rước lễ của họ là bất hợp pháp ? Tại sao một Linh Mục hợp pháp cả về tư cách công dân, cả về tư cách mục vụ đã được nhà nước chấp thuận theo luật, vậy mà ông Linh Mục đi từ nơi này đến nơi kia lại phải xin phép ?

Ngay việc của Đức Cha FX. Nguyễn Văn Thuận thôi, nếu Giáo Hội mà ngài theo hợp pháp, thì việc Giáo Hội đó tổ chức ra một hội đoàn “Tu hội Hy Vọng” tại sao thành bất hợp pháp ? Nếu bất hợp pháp sao không đưa người phạm pháp ra xử theo luật mà cứ tự tiện biệt giam ?

Hồi đó, một cách tự nhiên, hàng tuần tôi thường đi dự Thánh Lễ tại Nhà Thờ Đức Bà Sàigòn, nghe Linh Mục Nguyễn Khảm giảng lễ, một lần thấy cha giảng hay quá, tôi còn đợi hết lễ và sang tận nhà xứ gặp cha… Lần đầu tiên dự Thánh Lễ, tôi rất cảm động và khâm phục về trình độ phản tỉnh cũng như mở lòng với tha nhân qua hai hình thức “Lỗi tại tôi ! Lỗi tại tôi ! Lỗi tại tôi mọi đàng !” và việc “Anh chị em chúc bình an cho nhau”, cúi phía trước, cúi phía trái, cúi phía phải chào nhau…

Nhưng có một đêm tôi được một giấc mơ kéo vào thế giới của tâm linh, đại loại như có một cánh tay dẫn tôi đến một chân trời có tấm phông thả từ vòm trời xuống, và có giọng nói, nếu tôi vén màn sẽ nhìn thấy thế giới ánh sáng ở phía bên kia. Tôi giơ tay vén màn thì choàng tỉnh. Đêm thứ hai, sau đó vài ngày, thì giấc mơ kéo tôi đến thẳng Nhà Thờ, và có giọng nói: “Hãy đi vào đường của tâm linh thiêng liêng”… Kể từ đó, sáng Chủ Nhật nào tôi cũng dậy từ 5 giờ sáng đi Lễ Nhà Thờ Phùng Khoang, tôi đã luôn tự nhận mình là con cái Chúa…

Tối 19.4.2003, tôi được rửa tội… Trước bàn thờ Chúa ở Nhà Thờ và bàn thờ Chúa ở nhà riêng, tôi đã hân hoan cảm tạ Chúa rằng: “Lạy Chúa ! Hành trình đi đến Đức Tin của con có cả ơn soi, ơn gọi, và ơn chọn, khởi đầu từ hạt men đầu tiên nơi cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, giờ đã dậy lên cả đống men, trong tâm hồn con tràn ngập ân sủng Đức Tin của Chúa, trong Chúa và hướng về Chúa !”

Theo Kinh Thánh, thời gian được chia làm hai thời kỳ Cựu Ước và Tân Ước. Đức Giêsu loan báo thời kỳ Cựu Ước đã đến hồi kết thúc và thời đại Tân Ước, thời cuối cùng, thời cánh chung đã tới. Người kêu gọi hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Trong bối cảnh này, Người đã gọi các ông Anrê, Simon, Giacôbê và Gioan làm những môn đệ đầu tiên. Các ông đã mau mắn vâng lời, dứt khoát bỏ tất cả đi theo Người. Hôm nay, mhà văn Nguyễn Hoàng Đức cũng đã dứt khoát từ bỏ vinh hoa phú quý, tương lai huy hoàng, xán lạn để tin vào Tin Mừng đầy cam go, gian lao và thách đố.

Nhìn lại và đổi mới

“Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” ( Mc 1, 15 ). Sám là ăn năn lỗi trước, hối là chừa bỏ lỗi sau. Sám hối nghĩa là dứt trừ lỗi trước đã phạm, không cho lỗi lầm sau phát sinh. Nhưng con người hiện đại hình như hiếm hoi thì giờ để hồi tâm xét mình, để nhìn lại những gì đã trải qua, đã làm, đã vấp phạm, đã xúc phạm đến Chúa và tha nhân.

Lúc nào cũng bận rộn, vừa dứt công việc thì lao ngay vào giải trí, thú vui, thư giãn. Âm thanh, hình ảnh, sự kiện luôn lấp đầy tâm trí, lòng dạ. Vì thế cuộc sống ồn ào, quay cuồng, xô bồ, ô nhiễm, ngộ độc con người từng phút giây, từ sáng tinh mơ đến tận đêm khuya nghỉ ngơi. Do vậy, số người cô đơn, mất phương hướng và lý tưởng, tha hóa, tự tử ngày càng tăng trong những xã hội văn minh, hiện đại như Nhật Bản, Hàn Quốc và Âu Mỹ.

Không xét mình, chẳng nhìn lại đằng sau, thì cũng chẳng thể nào tiến triển, trưởng thành trên đường đạo hạnh, con người chỉ có thể chìm dần, sa vào vũng lầy tội lỗi, đen tối, u ám, bất hạnh. Cái chết là kết cục đương nhiên. Cho nên không sám hối thì sớm muộn chỉ tìm đến cái chết cả xác lẫn hồn.

Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ?” ( Mt 16, 25-26 ).

“Nếu con chỉ “giữ đạo” con chưa canh tân. Ma quỷ muốn đuổi Chúa ra khỏi thế gian và lôi thế gian ra khỏi Chúa. Con phải đem Chúa đến thế gian và đưa thế giới về với Chúa.” ( Đường Hy Vọng, số 650 ).

Sống Tin Mừng

Sám hối mà thôi vẫn chưa đủ khả năng nhập gia tùy tục vào thời đại mới, thời đại Tin Mừng, thời đại Tân Ước, mà còn phải sống Tin Mừng. Cụ thể hóa Tin Mừng ngay trong đời thường hằng ngày qua bổn phận, trách nhiệm, yêu thương và phục vụ tha nhân, cùng vâng theo Thánh Ý Chúa mọi nơi, mọi lúc.

Bốn anh thuyền chài khỏe khoắn, vạm vỡ: Anrê, Simon, Giacôbê và Gioan đã mau mắn nghe tiếng Chúa gọi, quyết định từ bỏ tất cả, thân quyến, nghề nghiệp, của cải, ra đi làm môn đệ, làm anh em của Người. Sau này “Simon Phêrô lên tiếng thưa Ngài: “Này chúng tôi từ bỏ mọi sự mà đi theo Thầy”. Ðức Yêsu nói: “Quả thật Ta bảo các ngươi: không ai bỏ nhà cửa, hay anh em chị em, hay cha mẹ, hay con cái, hay ruộng nương vì Ta và vì Tin Mừng, mà lại không lĩnh lấy gấp trăm bây giờ ở đời này về nhà cửa, anh em và chị em, mẹ và con cái cùng ruộng nương, làm một với cấm cách bắt bớ, và sự sống đời đời trong thời sẽ đến” ( Mc 10, 28-30 ).

“Hãy đi rao giảng Phúc Âm…” ( Mc 16, 15 ). Chúa cần những người “cảm tử” để đảm nhận một sứ mạng cao cả như thế. Hai ngàn năm lịch sử Hội Thánh cho ta thấy, giai đoạn nào cũng không thiếu cảm tử, từ mọi tầng lớp Giáo Dân” ( Đường Hy Vọng, số 64 ).

Lạy Chúa Giêsu, xin chiếu giãi Lòng Chúa xót thương, mở lòng, mở trí chúng con ra, để chúng con biết khiêm tốn, cúi đầu đấm ngực, ăn năn, sám hối, canh tân, cùng thực thi Tin Mừng trong đời sống thường nhật chúng con.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giải thoát chúng con khỏi bùn lầy thế gian, mà sám hối trở về cùng Chúa Giêsu, cội nguồn ơn cứu rỗi, để được thứ tha và an ủi, hầu chúng con có thể noi gương Mẹ, sống kết hợp cùng Chúa luôn. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

Linh hồn nhẹ nhàng khi ‘thoát xác’

Linh hồn nhẹ nhàng khi ‘thoát xác’

Cuối tháng 4 / 1987, người ta chở bà Mary Houghton, 68 tuổi vào bệnh viện Boston vì chứng đau tim. Bệnh nhân ngưng thở lúc 6 giờ tối, mọi cứu chữa đều vô hiệu và bác sĩ tuyên bố bệnh nhân đã chết. Xác bà được tạm đặt trong một căn phòng riêng chờ thân nhân đến làm giấy tờ tẩm liệm. Khoảng 11 giờ đêm, bà Houghton tỉnh lại bấm chuông gọi y tá. Bác sĩ trực đến khám và xác nhận bà lão đã hồi sinh.

Trường hợp bệnh nhân tắt thở vài giờ sau lại sống dậy không có gì lạ lùng với y giới nhưng bà Houghton đã nhớ lại những diễn tiến sau khi chết và kể lại như sau:

“Tôi đang ngồi ở nhà đọc báo thì thấy choáng váng, xây xẩm mặt mày và tự nhiên hôn mê. Khi tỉnh dậy tôi cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát, chung quanh tôi là một lớp sương khói
dày đặc khiến tôi bỡ ngỡ không biết mình đang ở đâu. Tôi lên tiếng gọi nhưng vô hiệu.
Tôi mò mẫm đi trong lớp sương mù đó được một lúc thì nhận thức rằng có lẽ mình đã
chết. Tôi biết mình mắc chứng đau tim đã lâu, bác sĩ nói rằng tôi chẳng còn sống được bao
lâu nữa nên tôi không lấy thế làm buồn. Ðiều bất ngờ là khi vừa  chấp nhận điều này thì tôi thấy mình đang đứng ngay bên cạnh giường quan sát thân thể của tôi nằm bất động trên đó. Sau một lúc xúc động tôi cố gắng trấn tĩnh và tự chủ  rằng mình sống như thế cũng là đủ rồi.

Trong khi xúc động thì luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên đen tối, khó chịu, tôi có cảm giác như bị lôi kéo vào một vũng bùn nhầy nhụa, hôi hám. Tôi bèn lên tiếng cầu nguyện thì thấy trong mình dễ chịu lạ thường, lớp ánh sáng bao quanh dần dần trở nên quang đãng hơn.

Một lúc sau tôi thấy thân thể nhẹ hẫng như có thể bay bỗng lên được. Tôi bèn để cho
nó tự nhiên và thấy mình lơ lửng trên không nhìn xuống phía dưới. Lúc ở trên cao nhìn
xuống, tôi thấy có một chùm chìa khoá màu đỏ  của ai để trên nóc tủ thuốc. Tôi thầm nghĩ ai lại để chìa khoá ở đó làm chi ? Ðang suy nghĩ vẫn vơ thì tôi thấy mình đã đi xuyên qua trần nhà để lên lầu trên và thấy hai người y tá đang xem một trận đấu bóng rỗ trên ti-vi, trận đấu vừa kết thúc khi đội Los Angeles Lakers thắng Boston Celtics, và một người y tá đánh cuộc thua phải trả cho bạn đồng nghiệp 20 mỹ kim. Tôi thong thả đi dọc theo hành lang bệnh viện và gặp rất nhiều người như tôi cũng đang lướt đi, không ai nói với ai lời nào.Ða số có vẻ vội vã, có người hoảng hốt là đàng khác. Tôi thấy một thanh niên đang đứng cạnh xác mình một cách đau khổ, tôi lên tiếng an ủi nhưng có lẽ anh không nghe được lời khuyên bảo của tôi. Vì một lý do gì không rõ, tôi hiểu ngay sự bận tâm của anh ta vì đã không hoàn tất được một số việc. Anh ta cố sức chui lại vào cái xác đã lạnh cứng nhưng vô hiệu.  Anh đâm ra hoảng hốt khiến tôi cũng mất bình tĩnh theo nên tôi đành bỏ anh ta ở đó mà đi chỗ khác. Tôi nghĩ đến các con của tôi và lập tức thấy mình đang đứng trước mặt đứa con gái lớn. Con gái tôi đang khóc. Tôi muốn ôm lấy nó nhưng tiếng khóc của nó làm tôi thấy khó chịu.Mỗi khi trong người khó chịu thì lớp ánh sáng bao quanh tôi lại chuyển sang một màu đen tối, nhầy nhụa khiến tôi sợ hãi. Tôi cố gắng trấn tĩnh tâm hồn và nghĩ đến hai đứa con trai thì thấy mình đang đứng ngay bên cạnh chúng. Hai đứa đang bàn việc chôn cất cho tôi. Thằng Michael phàn này về việc tôi đã không chịu mua bảo hiểm nhân thọ.. Cả hai chỉ nghĩ đến số tiền mà chúng sẽ phải chi ra hơn là nhớ thương đến mẹ của chúng. Tôi không hiểu tại sao tôi lại có thể đọc rõ tư tưởng của các con tôi như vậy. Càng đứng đó tôi càng bực bội vì hai đứa cứ cãi nhau mãi về việc chôn cất và việc phân chia gia tài nên tôi lại bỏ đi.Tôi không biết sẽ đi đâu. Tôi chẳng có thân nhân hay bạn bè nào cả. Ðến lúc đó tôi mới bắt đầu nghĩ lại cuộc đời của mình.

Hình như tôi đã sống một cách ích kỹ, không giao thiệp với ai và cũng không có ai là bạn
thân thiết. Cả một quá khứ bỗng hiện ra trước mắt tôi như người đang xem phim chiếu
bóng. Tôi thấy rất rõ những quyết định của mình, những lỗi lầm mà tôi đã tạo ra. Những
việc mà tôi nghĩ là tầm thường, không đáng kể đều hiện ra rõ rệt và phản ảnh tâm
trạng của tôi khi đó; vì sao tôi đã hành động như vậy; tại sao tôi lại làm việc đó… Hơn
bao giờ hết tôi thấy mọi sự việc một cách khách quan vô tư chứ không chủ quan như trước.
Tôi không hiểu tại sao mình lại có thể bình tĩnh nhận xét như thế được.Tôi bắt đầu cầu nguyện và tự nhiên thấy lớp ánh sáng bao quanh bỗng sáng chói một cách lạ lùng. Tôi thầm nghĩ phải chăng tôi có thể hành động khác khi xưa khi biết rõ những nguyên nhân, hậu quả việc làm của mình. Tất cả có thể quy về một điều duy nhất: Tôi là một người quá tự hào về mình, quá hãnh diện về những giá trị viển vông, tạm bợ mà không hề biết rằng những điều đó hoàn toàn vô giá trị khi người ta từ bỏ cõi sống này. Chính vì tự hào mà tôi đã khoác lên mình những mặc cảm tự tôn, coi thường người khác, bất chấp dư luận và nghĩ rằng tôi luôn luôn có lý trong mọi công việc. Hậu quả là tôi có một đời sống khô khan, không bạn bè thân thiết, ai ai cũng muốn xa lánh tôi, ngay cả những đứa con của tôi nữa. Phải chăng tôi có thể chuộc lại những điều đã làm? Chưa bao giờ tôi lại có ý nghĩ lạ lùng như vậy. Lần đầu tiên tôi hối hận một cách chân thành và tự nhiên tôi lên tiếng cầu nguyện.

Tự nhiên tai tôi bỗng ù đi, luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên sáng chói một cách lạ
lùng, tôi thấy bình tĩnh như có một sự an ủi lớn lao nào đó vừa đến với tôi, và tôi
cương quyết rằng tôi sẽ chuộc lại những lỗi lầm khi xưa. Tôi chắp tay cầu nguyện Thượng
Ðế hãy cho tôi một cơ hội nữa và luồng ánh sáng chung quanh tôi tự nhiên sáng chói một cách mãnh liệt khiến tôi phải nhắm mắt lại và bất chợt tôi nghe được các âm thanh quen thuộc. Tôi thấy mình đang nằm trên giường bệnh viện… Tôi đã tỉnh lại”.

Lời khai của bà Houghton đã được bác sĩ Elizabeth Kubler Ross kiểm chứng rất kỹ. Hai
nhân viên trực trong bệnh viện xác nhận họ có đánh cuộc với nhau về trận bóng rỗ, kết quả
trận banh xảy ra đúng như lời bà Houghton đã thuật lại. Hai đứa con trai của bà Houghton cũng xác nhận họ đã cãi nhau về việc bảo hiểm và tiền chôn cất. Ðiều bất ngờ là một bác sĩ
trực đánh mất chùm chìa khoá xe hơi màu đỏ từ mấy tuần trước, nhờ lời khai của bà
Houghton mà ông nhớ rằng trong lúc vội vã, ông đã ném đại nó lên nóc tủ thuốc. Chiếc tủ
này rất cao, gần chạm đến trần nhà, một người đúng dưới đất không thể nhìn thấy nó
được nên mặc dù tìm kiếm mãi mà vẫn không ai thấy… trừ khi họ đứng trên trần nhà nhìn
xuống.

S.T.

HÃY THEO TÔI

HÃY THEO TÔI

Bốn anh thanh niên có gia đình, có nghề nghiệp lại được Đức Giêsu mời gọi theo Ngài, bỏ lại tất cả. Chắc chắn họ không phải là những người nhẹ dạ.  Họ đã từng quen biết Thầy Giêsu và kính nể Ngài. Đến lúc nào đó, khi được Ngài hoàn toàn chinh phục, họ đã sẵn sàng ra đi, nhẹ tênh.

Nhiều người nghĩ rằng đoạn Tin Mừng này nói về ơn gọi đi tu của các linh mục tu sĩ.  Thật ra đây là đoạn Tin Mừng nói về ơn gọi của từng Kitô hữu chúng ta.

Chúa Giêsu vẫn đi ngang qua đời ta mỗi ngày như xưa Ngài đã dọc theo biển hồ Ga-li-lê.  Ngài thấy ta như Ngài đã thấy bốn môn đệ.  Ngài thấy ta trước khi ta thấy Ngài.  Cái nhìn của Ngài không làm ta bị tê liệt vì Ngài chấp nhận trọn vẹn con người của ta.  Cả những yếu đuối và tội lỗi cũng được Ngài đón nhận.  Hạnh phúc cho ai được thấy Thiên Chúa.  Nhưng hơn nữa, hạnh phúc cho ai được Thiên Chúa thấy.

Lúc Ngài thấy ta thì ta vẫn không hay biết.  Ta vẫn mải mê quăng chài hay vá lưới.  Ta vẫn tất bật với những lo toan đời thường, hay đang miệt mài theo đuổi một ước mơ.  Chính lúc đó, chính lúc ta tưởng mình quá ư ổn định, và đời mình đã được định hướng quá rõ ràng, thì tiếng gọi của Ngài vang lên, mạnh mẽ, dứt khoát.

Hãy theo tôi!

Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi đi theo Chúa Giêsu.  Ngài không mời ta đi theo một lý tưởng, một ý thức hệ.  Ngài mời ta theo chính con người Ngài, gắn bó với Ngài, nhận Ngài là nền tảng và chóp đỉnh của cuộc sống.

Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới con người.

Con người là điều ta phải quan tâm, vì đó là mối quan tâm lớn nhất của Chúa Giêsu.

Theo Ngài là chia sẻ với Ngài cùng một sứ mạng, là thao thức và đồng cam cộng khổ với Ngài trong công việc cứu độ toàn thế giới.

Chúa Giêsu mời ta dấn thân vào cuộc đổi đời, mời ta định lại hướng đi theo những giá trị mới.  Như thế là chấp nhận đổ vỡ, đoạn tuyệt.

Bốn môn đệ đã bỏ lại biển cả và những người thân yêu.  Vợ con của Simon và cha của Giacôbê sẽ sống thế nào?  Mái nhà nay vắng bóng những người đàn ông cột trụ!

Hôm nay Chúa Giêsu vẫn cần bạn, vì bạn là Kitô hữu.  Ngài vẫn thấy bạn, và mời gọi bạn đáp lại mỗi ngày.

Cần trầm lắng mới nghe được tiếng thì thầm của Chúa.  Bạn có thể sống như một giáo dân bình thường, lo xây dựng gia đình, sự nghiệp, tương lai.  Nhưng bạn phải sẵn sàng từ bỏ khi cần, nghĩa là chọn Chúa, đặt Chúa lên trên mọi giá trị đó.

*************************************************

Lạy Chúa,

Chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.

Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.

Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.

Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.  Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.

Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.

Trích trong “Manna”

SỬA SOẠN LÌA ĐỜI

SỬA SOẠN LÌA ĐỜI

 

 

 

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Anh Trần Quang Minh gởi cho tôi bài “ Sửa soạn lìa đời” của Hiếu Thuận ghi lại lời nhắn nhủ của  Ni sư Tenzin Palmo như sau:

Ni sư Tenzin Palmo

Hướng về anh D, Ni sư Tenzin Palmo nói chậm rải từng tiếng một:

“ Ai rồi cũng phải chết cả! Có những đứa bé chết từ thuở sơ sanh. Có kẻ chết trẻ, người chết già vì đủ mọi lý do: tai nạn, bịnh tật, già yếu… Ai cũng biết về cái chết nhưng cứ tưởng là nó đến cho  người khác chớ chưa đến lượt mình… mãi cho đến lúc nó thình lình hiện ra trước mắt thì hoảng hốt, lo sợ, bấn loạn vì thiếu sự chuẩn bị. Chết vì bệnh tật là may mắn hơn vì có thời gian sửa soạn cho sự ra đi.

Để sửa soạn lìa bỏ cuộc đời:

1/ Điều trước tiên là buông bỏ mọi giận hờn, oán hận mà từ trước tới nay ta ôm ấp trong lòng. Mở lòng tha thứ hết mọi người. Buông xã hết.

2/ Hãy nói những lời yêu thương và biết ơn ta từng muốn nói mà chưa có dịp hay còn ngần ngại.

3/ Hãy di chúc về tài sản, ước muốn cuả mình. Cần phân minh và công bằng để thân nhân không tranh dành, cãi cọ trong thời gian ta mới lìa đời.

4/ Hướng tâm, nghĩ tưởng về Đức Chuá, Đức Mẹ nếu là tín đồ Công giáo, về Phật A Di Đà nếu là Phật giáo. Nếu không có tôn giáo thì nên hướng về Ánh Sáng.

5/ Thân nhân không nên than khóc và níu kéo: “Đừng đi, đừng bỏ em, đừng bỏ con…” vì sẽ gây quyến luyến, khó khăn thêm cho người sắp ra đi.

Điều nên làm là nhắc nhở kẻ hấp hối nhớ đến những điều thiện lành.

Dù người ấy có vẻ như đang hôn mê, không nói năng được nhưng thân nhân vẫn luôn nhắc nhở, cầu nguyện vì trong thâm sâu, họ vẫn còn biết.

6/ Nếu thân thể bị đau đớn thì cứ dùng thuốc giảm đau. Người tu tập cao có thể chịu đựng vì quán chiếu tánh không của cơn đau. Nhưng với người bình thường thì đau quá làm họ sân hận, bấn loạn. Hơn nữa, thuốc giảm đau không ảnh hưởng đến thần thức sau khi chết.

7/ Một điều cần nhắc nữa là:

“Khi ra đi, người chết thường thấy hình ảnh của ông bà, cha mẹ hay thân quyến quá cố hiện ra, vẫy gọi mình. Đừng đi theo họ mà chỉ hướng đến Chúa, Phật hay Ánh Sáng, là con đường hướng thượng.”

Ghi lại những lời khuyên hữu ích vì cảm niệm công đức của Ni Sư.

Xin chia sẻ cùng tất cả. Thực hành là chuyện của mỗi người.

Hiền Thuận

Tôi cũng đã chuẩn bị cho sư ra đi hơn 10 năm qua, đã viết sẳn bản báo tin khi lìa đời, viết  sẳn bài phân ưu cho Nhóm Thân hữu Cần Giuộc và Cần Đước, lời cám ơn  ở nhà thờ và lời dặn sau cùng khá đầy đủ cho một đám tang. Tôi cũng đã chuẩn bị cho cuộc ra đi, hy vọng sẽ yên tâm ra đi. Linh hồn tôi sẽ thanh thản ra đi và người ở lại cũng không có bối rối vì lúc đó không biết phải làm gì trước, làm gì sau?

Một linh hồn đã chuẩn bị trước cho sự ra đi cũng tốt hơn là không chuẩn bị.

Tôi rất tâm đắc bài kinh mà mỗi tối chúa nhật và mỗi sáng hằng ngày, giáo dân nhà thờ Ngôi Lời Nhập thể đều đọc như sau:

“ Lạy Chúa Con, con xin dâng các lễ Misa, các Thầy cả ở khắp tứ phương thiên hạ làm trong ngày hôm nay. Để Chúa Con thương đến các kẻ có tội đang mong sinh thì bây giờ và sẽ chết trong ngày hôm nay. Chớ gì máu châu báu Đức Chúa Giêsu là đấng chuộc tội làm cho Chúa Con thương đến các kẻ ấy.”

Tôi rất thích lời kinh này để nhắc nhở tôi rằng tôi có thể chết bất cứ lúc nào ngay ngày hôm nay. Cho nên nghĩ đến sự chết thường xuyên để giúp tôi sống như thế nào cho đúng trong từng ngày .Như vậy với sự chuẩn bị đó giúp cho tôi bớt sợ chết.

Ngoài ra mỗi sáng sớm tôi đều đi dự thánh lễ ở nhà thờ Ngôi Lời Nhập Thể để gần với Chúa hơn,  tâm sự với Chúa nhiều hơn. Tôi cũng đã nhìn thấy các người già cả, đi phải chống gậy mà vẫn thường xuyên đi lễ nhà thờ đều đặn mỗi sáng.

Chúa Giê –su đã dặn các môn đệ rằng:

“Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy, trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi vì Thầy đi để dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy để Thầy ở đâu thì anh em cũng ở đó.Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi.”

ÔngTô-ma nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy , chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?” Đức Giê-su đáp : “ Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14: 1-6)”

*Ai  tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống, ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết. (Gioan 11: câu 26)

* Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng chết cho Chúa. Vậy dù sống dù chết chúng ta vẫn thuộc về Chúa   (Roma 14: 7-8)

* Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống lại với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết cho tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh  em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay sống lại cho Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô Giê-su.  (Roma 6: 8-11)

* Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. Nhưng không phải thế! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai an giấc nghìn thu. ( 1 Cor 15: câu 19,20)

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tiểu sử: ni sư Tenzin_Palmo

Khoa học dẫn đến Thiên Chúa

Khoa học dẫn đến Thiên Chúa

http://baomai.blogspot.com/

Tiến sĩ Phan Như Ngọc, bị nhồi nhét tà thuyết vô thần từ lúc nhỏ và lớn lên trong lòng Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhân một chuyến công tác ở nước ngoài, ông đã xin tị nạn và gia nhập Đạo Chúa. Ông viết: “Sức mạnh nào khiến cho hàng tỷ người trên thế giới, trong đó có hầu hết các nhà khoa học vĩ đại mà tôi từng ngưỡng mộ, tin Kinh thánh?”

“Tính muôn màu muôn vẻ của thiên nhiên, tính di truyền kỳ diệu: hạt giống nào sinh cây trái đó, vẻ đẹp tuyệt vời của những nàng hoa, sự hài hòa và hoàn thiện của cơ thể con người, sự hùng vĩ của bầu trời sao; tất cả những cái đó, cộng với những ý kiến các vĩ nhân mà tôi hằng kính phục, chính là sự chứng minh tuyệt vời và làm cho tôi tin rằng phải có Đấng Sáng Tạo. Đó chính là Thượng Đế toàn năng, toàn tri, toàn trí và toàn tại.”

image

Bác học Pasteur: “Càng nghiên cứu khoa học, tôi càng tin vào Thượng Đế.” ;   “Mỉa mai cho lòng dạ con người, nếu chết là hết hoặc chết là trở về với hư vô.”

image

Bác học Becquerel: “Nhờ nghiên cứu khoa học đã dẫn tôi đến Thượng Đế và tôi có đức tin.”

image

Bác học Isaac Newton, vì nhìn thấy sự kỳ diệu và trật tự của bầu trời tôi đã thốt lên:  “Tôi thấy Thượng Đế qua viễn vọng kính” ;   “Kinh Thánh có nhiều biểu hiện chắc chắn về tính có thực hơn bất cứ một câu chuyện nào chống lại sách đó.”

image

Bác học Bourgeois:  “Không có gì cản trở tinh thần khoa học hòa hợp với tín ngưỡng đã được suy nghĩ sáng suốt. Trái lại, khoa học càng được đào sâu, thì tôn giáo lại càng được tăng thêm sức mạnh và bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa, lại càng được sáng tỏ hơn.”

image

Bác học Duclaux: “Nếu sự sống đầu tiên xuất hiện trên mặt đất do tình cờ, nơi mà (vũ trụ này) mọi sự đều có luật, thì sự xuất hiện kia nó kỳ dị như hòn đá tự bò lên sườn núi.”

image

Bác học Albert Einstein: “Khoa học không tôn giáo là mù lòa, tôn giáo thiếu khoa học là qùe quặt.”;   “Tôi chưa hề gặp điều gì trong Khoa học của tôi mà lại đi ngược với Tôn giáo.” . “Sự ác là do vắng  bóng Thượng Đế trong tâm hồn.”

http://baomai.blogspot.com/

Giáo sư Edwin Carlson, nhà Sinh vật học Trường Đại Học Princeton, Hoa Kỳ:  “Sự sống phát xuất từ sự tình cờ, thì cũng giống như một quyển từ điển, xuất hiện do kết quả của một vụ nổ xẩy ra ở một nhà máy in.”

image

Giáo sư James Simpson, người phát minh ra phương pháp gây mê trong phẩu thuật, khi được hỏi về những phát minh của ông, đã trả lời: “Phát minh quan trọng nhất của đời tôi là tìm được Chúa Cứu Thế Giêsu.”

image

Bác học Edison, đã ghi vào sổ vàng khi ông đến viếng thap Eiffel:  “Edison hết sức khâm phục và ca ngợi tất cả kỹ sư, trong đó gồm cả Thiên Chúa.”

image

Giáo sĩ Moreux, giám đốc đài thiên văn Bourges:  “Tôi liên lạc với các vị giám đốc thuộc hết mọi đài thiên văn trên thế giới, tất cả đều tin có Thiên Chúa.”

image

Charles Nicolle, người đoạt giải Nobel Y học, năm 1928: “May mắn thay trong tôn giáo có những bí nhiệm. Nếu không tôi sẽ hoài nghi nó, vì cho rằng tôn giáo là do trí loài người tạo ra. Bí nhiệm làm tôi vững tâm. Đó là dấu ấn của Thiên Chúa.”

image

Alexis Carrel, tiến sĩ y khoa, giáo sư đại học Lyon, đoạt giải Nobel 1912. Ông là một nhà vô thần, nhưng sau khi chứng kiến phép lạ nhãn tiền tại Lộ Đưc (Lourdes , France), Marie Ferrand, từ một cô gái sắp chết, trở nên lành mạnh tức khắc, ông nói:  “Thật là một chuyện không thể có nhưng có thực. Qủa là bất ngờ, một phép lạ mới xẩy ra.”  Không dám tin ở mình. Alexis Carrel mời hai bác sĩ bạn đến chứng kiến và cả hai đều xác nhận cô đã hoàn toàn bình phục. Alexis Carrel đã trở nên tín hữu Thiên Chúa giáo, trước khi về Nhà Cha trên trời.

image

Bác học Chevreul (1786-1889):  “Tôi không thấy Thiên Chúa vì Ngài thiêng liêng, nhưng tôi thấy công trình tạo dựng của Ngài”

image

Bác học Diderot:  “Chỉ cần con mắt và cái cánh của con bướm, cũng đủ diệt tan mọi lý lẽ của kẻ vô thần.”

image

Bác học John Eccles, người đoạt giải Nobel:  “Tôi chấp nhận tất cả những lý thuyết khoa học, nhưng những lý thuyết này không giải thích một chút nào về sự kiện, làm thế nào, tôi, một sinh vật biết suy nghĩ, đang hiện hữu và có thể làm nhiều điều… Sự sáng tạo linh hồn là một hành động thiêng liêng là điều khoa học không thể phủ nhận được, nó hoàn toàn nằm ngoài phạm vi của khoa học”

Ông nói thêm: “Niềm tin của những người chủ trương duy vật chất đang hao mòn; họ không dẫn chúng ta đến đâu cả. Thuyết ‘khoa học duy vật’ đưa con người đến tuyệt vọng, trống rỗng, vô giá trị. Giá trị thật là vấn đề tâm linh, tình yêu thương, can đảm, bác ái”.

image

D’Alembert:  “Cái tính hão huyền không muốn nghĩ tường như mọi người, là lý do tạo nên kẻ vô thần hơn là chứng lý sáng tỏ.”

http://baomai.blogspot.com/

Bác sĩ riêng của Lenine, lúc 83 tuổi, ông xuất bản hai cuốn sách: “Sự bí mật và sự khôn ngoan của thân xác (1958); và  “Mầu nhiệm của sự sống” (1960). Ông nói: “Môn sinh vật học và môn phân tích tâm lý, đã làm cho tôi trở nên một kẻ hữu thần.”

image

Wernher Von Braun (1917-1977) thám hiểm Mặt Trăng thành công năm 1967. Ông cùng 3 phi hành gia bạn cắm cờ Hoa kỳ và đặt ca vịnh trên cung trăng ngợi khen Đấng Tạo Hóa. Năm 1976 khi diễn thuyết tại Philadelphia , Bang Pennsylvania , Ông nói: “Sự bao la huy hoàng của vũ trụ đã làm cho đức tin vào Đấng Tạo Hóa của tôi tăng thêm. Khoa học và đạo không mâu thuẫn nhưng là chị em ruột. Khoa học tìm thấy sự huy hoàng của vạn vật, trong khi đạo thì tìm thấy Đấng Tạo Hóa đã dựng nên vạn vật tốt đẹp lạ lùng. Đạo không phải là di sản mà người đời sau hưởng thụ và bảo vệ. Nhưng đạo cũng như khoa học phải thăng tiến. Người tín hữu phải tìm hiểu đạo và nhà khoa học phải khổ công nghiên cứu mới thành bác học.”

image

Bác học T. Termier: “Cứ chung mà nói, mọi khoa học đều dọn trí khôn ta nhận biết Thiên Chúa hiện hữu. Hơn mọi người khác, nhà bác học dù chuyên về khoa nào, bao giờ cũng dễ dàng nhận thấy mọi vật đều biến chuyển, bị tạo, hỗn hạp, khuyết điểm, có cùng đích và rất phức tạp. Do đó, hơn những người dốt nát, nhà khoa học dễ có ý hướng về một Đấng bất di bất dịch, tự hữu, cần thiêt, hoàn toàn và là Đấng duy nhất an bài mọi sự. Chính vì thế mà người ta bảo: khoa học dẫn đến Thiên Chúa; và cũng chính vì thế mà người ta có thể nói, vũ trụ vật lý là bí tích của Thiên Chúa.”

image

A. Eynieu đã công bố bản thống kê: trong số 432 nhà bác học thuộc thế kỷ 19;  34 vị không biết lập trường tôn giáo, còn 398 phân chia như sau: 15 vị dửng dưng, 16 vị vô thần, 367 vị tin; như vậy là 92% các nhà bác học tin có Thiên Chúa.

Bác sĩ Dennert, người Đức cũng tuyên bố kết qủa tìm tòi của ông để biết quan niệm tôn giáo của 300 nhà bác học, tìm hiểu trong những số lỗi lạc nhất thuộc 4 thế kỷ qua. “38 vị tôi không rõ các ông quan niệm thế nào, còn 262 vị, thì 20 vị dửng dưng, 242 ông tin. Tức cũng 92% tin có Thiên Chúa.”

http://baomai.blogspot.com/

Nhà bác học người Mỹ, có ý mỉa mai và đánh giá những kẻ chủ trương vô thần như sau:

– Trong con người có một số nước đủ giặt một cái khăn bàn.

– Chứa chất săt, đủ làm 7 cái đinh đóng móng ngựa.

– Có một số chất vôi đủ quẹt một bức tường nhỏ.

– Đốt ra than, có thể làm được 65 cây viết chì.

– Chất phốt phát đủ làm được hộp diêm.

– Và chất muối độ hai muỗng nhỏ.

image

Bán những thứ đó được 95 xu, đó là giá trị của kẻ vô thần.

Nguyễn Hy Vọng

NHỚ CÁI CHẾT ĐỂ SỐNG ĐẠO TỐT HƠN

NHỚ CÁI CHẾT ĐỂ SỐNG ĐẠO TỐT HƠN

(LỄ AN TÁNG MỆ ANNA TRẦN THỊ CHƯNG 97 TUỔI)

Micae-Phaolô Trần Minh Huy, PSS

Hương Lâm, ngày 30/12/2014

Kính thưa Cộng đoàn Phụng Vụ,

Chúng ta cảm tạ Chúa và cám ơn Mệ Anna Trần thị Chưng, thân mẫu của nữ tu Anna Lê thị Nga và bà nội của cha Đaminh Lê Đình Du. Qua cái chết của Mệ, Chúa đã qui tụ chúng ta lại nơi đây trong sự sẻ chia tình thương liên đới, an ủi, nâng đỡ những người còn sống về nỗi buồn mất mát tang chế, và cùng nhau chung lời hiệp nguyện cử hành thánh lễ an táng tiển đưa thi hài Mệ Anna đến nơi an nghỉ, khỏi những vất vả nhọc nhằn trên vùng đất cát trắng cằn khô của một cuộc đời dài 97 năm, chờ ngày sống lại vinh phúc với Chúa, như lời hứa của Chúa Giêsu chúng ta vừa nghe: “Hỡi tất cả những ai vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.

ĐTC Phanxicô trong lời mở đầu Tông Thư Năm Đời Sống Thánh Hiến đã nói:“Các con không chỉ có một lịch sử huy hoàng để nhớ lại và tường thuật, mà còn có một lịch sử oai hùng cần viết nên! Hãy nhìn về tương lai, nơi mà Thánh Linh đã dự định thực hiện cùng với các con những điều trọng đại hơn nữa”. Tôi xin mượn lời này để nói đôi điều về hành trình cuộc sống và đức tin của Mệ Anna, như một tấm gương sáng khích lệ con cháu của Mệ, cũng như mỗi người chúng ta, đặc biệt giáo xứ Hương Lâm, nỗ lực tiếp tục viết nên một trang sử tương lai tốt đẹp hơn mà Chúa Thánh Thần đã thương khơi gợi lên. Mệ Anna đã có tất cả 9 người con, 7 gái 2 trai, mà hiện nay 7 người còn sống, với một con gái là nữ tu, một cháu nội là linh mục, hai cháu ngoại trai theo ơn gọi linh mục (đang là chủng sinh triết 3 và năm tu đức thuộc ĐCV. Xuân Lộc và ĐCV. Huế), cùng một cháu ngoại gái là ứng sinh Dòng MTG. Tình thương yêu, lòng đạo đức và đức tin mãnh liệt của Mệ Anna, nhất là từ khi Ông về với Chúa, đã ảnh hưởng đặc biệt lên đời sống và ơn gọi của Cha Du: chiến tranh tàn khốc đã cướp đi sinh mạng của người cha thân yêu khi cha Du mới được 6 tháng tuổi, rồi người mẹ yêu dấu tuổi đời còn quá trẻ nên cũng đành bước thêm một bước nữa, thì Mệ Anna đã làm mẹ thêm một lần nữa, chăm sóc nuôi dưỡng cháu nội thơ dại. Mệ và cháu như bóng với hình, luôn quấn quýt bên nhau, khi ăn khi ngủ, khi đi nhà thờ lúc đến trường, cả đến khi khôn lớn làm linh mục rồi lòng Mệ vẫn hằng theo cha bằng tình thương và lời cầu nguyện hôm sớm, và cha Du cũng năng thu xếp công việc mục vụ chạy về thăm Mệ. Giờ đây Mệ ra đi về với Chúa là một mất mát lớn lao cho cha Du, nhưng Mệ và cha cũng đều được mãn nguyện là cha lo được mọi sự cần thiết phần hồn phần xác cho tang lễ của mệ như hôm nay.

Hy vọng khi nhìn về quá khứ với lòng tri ân này sẽ giúp chúng ta, không những con cháu của Mệ Anna mà còn tất cả con dân Hương Lâm nữa, ở đời hay đi tu, sống thật tốt cuộc đời hiện tại và hướng về xây dựng tương lai một cách tốt đẹp hơn. Quả thế, cũng như bao nhiêu bậc tiền bối sống trên mảnh đất cát trắng nghèo khó cằn khô mà Đức Cha Urutia Thi gọi là “họ rú” này, Mệ Anna là cơ hội lời tạ ơn của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn”. Đúng vậy, các thế hệ trưởng thượng nơi đây không được học hành chữ nghĩa bao nhiêu, rất nhiều người còn không biết đọc biết viết, quanh năm làm lụng lam lũ vất vả, nhưng Chúa lại ban cho đức tin mạnh mẽ, đạo đức sốt sắng, hết lòng yêu mến Chúa, phụng sự Chúa và sẵn sàng hy sinh cho con cháu học hành, rồi lại hiến dâng con cháu cho Chúa trong đời sống ơn gọi. Hương Lâm là một giáo xứ thôn quê nghèo khó nhưng có rất nhiều người đi tu ở nhiều Dòng khác nhau, trong cũng như ngoài nước. Nếu mà được bền đỗ cho đến cùng thì đông lắm, song Chúa cũng thương cho được 11 linh mục, năm ba chục nam nữ tu sĩ phục vụ Chúa và Giáo Hội trên mọi cánh đồng truyền giáo, trong đó có 6 vị đã từng là hay đang là Bề trên Dòng, nhiều vị khác cũng nằm trong Ban lãnh đạo hoặc ban đào tạo nhân sự của Dòng.

Nhân lễ an táng Mệ Anna hôm nay, những người đi tu của giáo xứ Hương Lâm mà hầu như gia đình nào cũng có, thậm chí có những gia đình 3, 4, 5 người, chúng ta hãy cám ơn Chúa đã tạo dựng chúng ta từ hư vô thành hiện hữu, lại kêu gọi chúng ta theo Ngài; cám ơn tổ tiên ông bà cha mẹ và gia đình huyết tộc đã sinh thành dưỡng dục chúng ta nên người, rồi quảng đại hiến dâng cho Chúa; cám ơn Mẹ Hội Thánh, Mẹ Giáo phận và Mẹ Hội Dòng, qua các Bề trên hữu trách và các anh chị em, là gia đình thiêng liêng của chúng ta, đã đón nhận, chọn gọi và đào tạo chúng ta nên người của Chúa và người cho tha nhân; cám ơn tất cả mọi người đã, đang và sẽ tiếp tục thông cảm, thương yêu nâng đỡ chúng ta cho đến cuối cuộc đời trần thế.

Còn đối với các thành phần giáo dân, chúng ta hãy lắng nghe lời kêu gọi giáo dân và gia đình của ĐTC Phanxicô trong Tông Thư Năm Đời Sống Thánh Hiến, để sống tích cực hơn với Cha xứ và các chị xứ của mình: “Tôi mời gọi hết mọi người hãy kề vai sát cánh những người tận hiến, để chia vui với họ, để san sẻ những khó khăn của họ, để hợp tác với họ, trong tầm mức có thể được, trong việc thực thi tác vụ và công việc của họ mà cũng là của toàn thể Giáo hội. Hãy giúp họ cảm nhận được lòng ưu ái và thiện cảm của toàn thể dân Chúa… Vì Gia đình và đời sống thánh hiến là những ơn gọi mang lại sự phong phú và ân điển cho mọi người, những không gian kiến thiết các tương quan nhân bản, những nơi loan truyền Tin mừng. Gia đình và đời sống thánh hiến có thể giúp đỡ lẫn nhau… Đời sống thánh hiến là hồng ân cho Giáo hội, phát sinh trong Giáo hội, tăng trưởng trong Giáo hội, và hoàn toàn hướng về Giáo hội… Đời sống thánh hiến không phải là một thực thể lẻ loi, nhưng thuộc về bản chất của Giáo hội, nằm trong tâm điểm của Giáo hội như là yếu tố quyết định của sứ mạng Giáo hội”.

Kính thưa Cộng đoàn Phụng vụ,

Giờ đây, xin cho phép tôi nói với Mệ Anna đôi lời.

Kính thưa Mệ Anna, là một đứa cháu, một thành viên của giáo xứ Hương Lâm và là cha bảo trợ của cha Du, cháu nội của Mệ, con cám ơn Mệ về gương sáng của Mệ cho chúng con noi theo qua từng chặng đường trong đời sống đời thường: là con ngoan, dâu thảo, vợ hiền, mẹ đảm đang, rồi làm mẹ thêm lần nữa tận tình lo cho cháu mồ côi; nhất là trong đời sống tín hữu đạo hạnh, siêng năng kinh lễ, không bao giờ bỏ, dù đường xa tuổi già sức yếu và bệnh hoạn, khi nắng gắt khi mưa rét, luôn hiền hậu và khiêm nhường, để cầu nguyện cho con cháu bà con, cho giáo xứ, cho quê hương. Giờ Mệ đã ra đi, về an nghỉ với Chúa, cảm nhận được ách êm ái và gánh nhẹ nhàng của Chúa, sum họp với Ông, các con cháu và những người thân yêu đã khuất, xin Mệ tiếp tục cầu nguyện cho chúng con còn ở chốn đời nhiều gian khó, chiến đấu trăm bề, được bền vững đức tin và ơn gọi cho đến cùng. Chúng con cám ơn Mệ đã bằng cái chết của Mệ mà nhắc nhở chúng con nhớ đến một ngày nào đó chúng con cũng phải chết, để sống đạo tốt hơn, và an hòa hơn với mọi người. Chúng con xin tạm biệt Mệ nơi đây và hẹn ngày đoàn tụ ở trên nhà cha trên trời. Amen.

Micae-Phaolô Trần Minh Huy, PSS