CHÚA CHỮA LÀNH ĐỐT XƯƠNG SỐNG BỊ TRẬT VÌ TAI NẠN XE.

CHÚA CHỮA LÀNH ĐỐT XƯƠNG SỐNG BỊ TRẬT VÌ TAI NẠN XE.

MARIA Vũ Kỳ.

Vào tháng 10 năm 2014 , tôi đã tham dự tĩnh tâm Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo tại nhà thờ St. Christopher, Houston , Texas. Buổi tĩnh tâm này do Cha Đinh thanh Sơn từ Canada đến hướng dẫn và Cha Lê Thu, Quản Nhiệm giáo xứ bảo trợ.

Ngay từ đầu , tôi đã được ơn đặc biệt của Chúa. Nhìn thấy tấm băng rôn lớn treo ở hội trường , nơi tổ chức tĩnh tâm , với hàng chữ : “ Hãy tha thứ để được thứ tha” , thì lòng tôi chùng xuống , tôi tự nhủ lòng , sau tĩnh tâm mình sẽ gọi ” phôn” xin lỗi ông Anh, vì hai Anh Em giận nhau dễ đến hai năm không hề nói chuyện với nhau. Tôi sẽ dùng món quà này để xin Chúa đụng chạm và đổi mới tôi.

Quả đúng như lòng tôi mong ước , Chúa đã ghé mắt nhìn đến linh hồn tôi, khi đang hát ca ngợi Chúa thì tôi được ơn trọng là cảm thấy yêu mến Chúa và muốn từ bỏ các đam mê xấu làm cho mình xa cách Chúa , ngay lập tức một niềm bình an mênh mông bao phủ tôi, và tôi chợt phát nói một thứ tiếng lạ nào đó và tôi dùng tiếng nói mới này mà ca khen Chúa , Kinh Thánh qua Thánh Phao lô đã giải thích ơn “cầu nguyện bằng tiếng lạ” với Chúa nhờ vào sự linh ứng , của Chúa Thánh Thần. Cùng với cả cộng đoàn , chúng tôi ca ngợi Chúa một cách hăng say,  trong niềm vui phấn khích vì cảm được tình yêu của Chúa và sự hy sinh cao cả của Người. Chúng tôi , mỗi người thắp lên một ngọn nến và hứa nguyện sẽ để cho ánh sáng Lời Chúa hướng dẫn đời mình mãi mãi. Rồi khi hôn chân thánh giá , tôi cảm được sự hy sinh của Chúa, cảm biết là Ngài sẽ không từ một hy sinh nào nếu có thể cứu được các linh hồn đang hư mất. Tâm hồn tôi thật là bình an , nó như đang an nghỉ trong sự bảo bọc của Chúa . Tôi đã quên đi những băn khoăn lo lắng , dù cả gia đình tôi vừa dọn nhà từ California về Houston, dù hai vợ chồng đều chưa có việc làm , nhà cửa thì đang ở thuê apartment , rất bề bộn, thùng dọn nhà còn bừa bãi khắp nơi, cho dù hai cháu nhỏ của chúng tôi thì còn bé xíu,  đang ở  tuổi bú sữa… Chúng tôi dâng hết cho Chúa những khó khăn, ưu tư chồng chất của mình.

Như thông lệ , kỳ tĩnh tâm sẽ kéo dài ba ngày , từ chiều tối thứ sáu đến ngày Chúa Nhật, vào tối thứ Bảy tôi được ơn ca ngợi Chúa bằng tiếng lạ, hết buổi tĩnh tâm đã là 9 giờ đêm , chúng tôi đi về khu chung cư của gia đình mình, sau khi cho con ngủ , tôi lại tiếp tục cầu nguyện và ngỡ ngàng thay , tiếng lạ lại cất lên , không ngưng nghỉ ca khen Chúa trong suốt một tiếng đồng hồ cho đến khi chồng tôi ngại ngần nói tôi ngưng lại, kẻo các con thức giấc. Chồng của tôi,  là người mới biết Chúa nhưng qua ngày tháng, đức Tin của anh đã có cơ hội lớn lên và càng được củng cố qua các biến cố mà tôi xin làm chứng sau đây.

Sau kỳ tĩnh tâm , tôi chợt nhớ là ngoài việc xin làm hòa với ông Anh ra  thì mình phải gọi điện thoại cho gia đình, thăm hỏi Ba Mẹ tôi, vốn vẫn còn đang sinh sống ở Việt Nam .

Khi gọi cho Ba tôi, thì Mẹ đang đi chợ . Ba nằm một mình,  rất âu sầu Cha cho tôi biết hung tin, số là cách nay ba tuần trong lúc đang cỡi xe đạp đi công chuyện thì một kẻ đi honda , phóng chạy rất nhanh đã không thắng kịp và lao thẳng vào người Ba, Ông té lăn nhào xuống đất , bị bầm dập tím , rách chảy máu trên khắp người, nguy hiểm nhất là một đốt xương sống bung khớp, ra khỏi vị trí đứng của nó. Ông được đưa đi cấp cứu, các Bác sĩ đã cứu chữa  các vết thương khác nhưng riêng tình trạng của đốt sống thì hầu như bó tay, có thể là bị bán thân bất toại , tê liệt  nửa người trong suốt quảng đời còn lại. Ba tôi rất đau, và tuyệt vọng, mỗi một cử chỉ dù là nhẹ , ông cũng cảm thấy đau buốt , chết lịm .

Gia đình tôi vốn lại quá nghèo ở Việt Nam , rất khó có thể lo chữa trị cho Ba tôi,  khi mang Ba Tôi về nhà, Má tôi đặt cáng băng ca giữa căn nhà bé nhỏ , ngay tại chỗ , cho Ba ăn , ngay tại chỗ rửa ráy cho Ba tôi, cũng ngay tại chỗ Ba tôi nằm mê man,  tiểu tiện ra trên giường. Tình cảnh thê thảm và khổ sở khó tả cho hết…

Trên phôn, Ba rên rỉ , con cầu nguyện cho Ba , kỳ này Ba đã thành người tàn phế hết cuộc đời và còn làm khổ cho Mẹ con nhiều… Ba ngâm ngùi khóc , …. Không nản chí khi nghe Ba tôi kể tình cảnh, tôi nhẹ nhàng nói:

–          Xin Ba hết lòng phó thác , tin cậy nơi Chúa . Ba và Con cùng cầu nguyện với Chúa nhe, nếu có thể được xin Ba giơ tay lên để cùng với con xin ơn Chúa.

Cách xa nửa vòng trái đất , tôi ở bên này đường dây phôn, Ba tôi ở bên kia , qua đường kết nối chúng tôi như đang ở sát kề bên nhau và cùng tha thiết cầu nguyện.

Đang khi lòng tôi khẩn thiết dâng hoàn cảnh của Ba lên Chúa Giê Su thì miệng tôi bật lên lời cầu nguyện bằng tiếng lạ. Trong gần 10 phút đồng hồ , hồn tôi hết lòng trông cậy Chúa , hy vọng nơi danh thánh của Chúa có quyền năng trên hết mọi sự kể cả trên cái xương sống đang trật trìa trong thân hình quằn quại của Cha cũng phải tuân theo quyền năng đó. Tôi tán dương danh rất nhân ái, hay thương xót của Chúa rồi theo sự chỉ dậy của Cha Đinh Thanh Sơn trong kỳ tĩnh tâm vừa mới rồi, tôi nhân danh Tên Cực Thánh của Chúa Giê Su, tôi ra lệnh cho mọi  , gân cốt , mọi đốt xương dập trật , mọi tế bào trong cơ thể của Ba,  phải quay trỏ lại tình trạng tốt đẹp , hoạt động bình thường để làm ích cho con cái Đức Chúa Trời. Cầu nguyện xong , thì Ba tôi cho biết , khi tôi còn đang cầu nguyện tiếng lạ thì có một làn điện nóng chạy rần rật trong người Cha, ngay chỗ sống lưng, và rồi,  Ông biết là Chúa đang làm một cái gì đó cho mình. Ba tôi, thì thầm tôn vinh và cảm ơn Chúa khi các cơn đau chợt bỗng nhiên im bặt.

Khi đã cầu nguyện xong, tôi nói xin Ba thử cử động người vì trước đó ông không thể xê dịch người mà không có người nhà vực đỡ và chỉ một đụng chạm cũng làm cho Ông đau điếng người. Ba tôi đã không những cử động thử mà còn đòi tự mình ngồi lên, ông luôn miệng nói “ Chúa chữa cho Ba hết đau rồi”, “ Chúa chữa cho Ba lành rồi”. Rồi ông từ từ đi lại trong nhà. Ngay khi đó má tôi đi chợ về , bà la toáng lên : “ Trời ơi, sao ông dám cử động và ra khỏi chỗ, ông muốn bị tê liệt và té chết hả” . Ba ôn tồn giải thích cho Mẹ hiểu nguồn cơn sự tình, tôi cũng hùa vào công nhận đã có sự chữa lành xảy ra,  thế là Bà đổi ái ngại thành vui mừng, từ thảng thốt thành phấn khích và cũng đòi cùng với Ba và tôi tạ ơn Chúa rồi xin Chúa chữa lành cho cả Bà nữa. Đó là những giây phút đáng ghi nhớ khi chúng tôi cùng đồng lòng trong sự tạ ơn và ca khen Chúa.

Kỳ tích lớn nhất Chúa làm cho tôi là thay cho tôi một đời sống thiêng liêng hoàn toàn mới, tôi líu lo như chim sơn ca tíu tít ca ngợi Chúa và làm chứng về vị Chúa rất sống động và nhân từ , mỗi khi ca ngợi Chúa lòng tôi lâng lâng , nhẹ nhõm , cảm thấy hạnh phúc vì biết có Đấng rất yêu thương tôi , luôn che chở cho gia đình tôi. Nó chính là một chút xíu vị ngọt Thiên Đàng mà Chúa muốn hé mở cho tôi được cảm nghiệm dù là không thể so sánh với niềm vui vô cùng tận, trong bầu khí viên mãn trọn vẹn của Thiên Đàng khi mà thần thánh, cùng họp nhau ca khen Chúa trong một gia đình rất lớn. Ngày xưa , nếu có ai nói về niềm vui này thì có lẽ tôi đã cho rằng họ bị “cảm tính thiên lệch” rồi , nhưng nay thì tôi biết về một niềm vui rạng rỡ trong sự Ca Ngợi Chúa, tôi biết niềm vui Thiên Đàng này không phải là điều xa vời , mơ hồ. Khi nhớ lại bao nhiêu lần phản bội Chúa và giới luật của Chúa, tôi thì thầm:

–          Chúa Giê Su ơi! Ngài thật dịu dàng với con lắm, tội lỗi con có lớn đến mấy mà con chịu chấp nhận và chạy đến, thực lòng xin lỗi Chúa , thì Người sẵn lòng tha thứ hết dù là vào giây phút cuối của cuộc đời, tưởng như không thể vớt vát được . Con thờ lậy và ca ngợi Đáng rất thánh khiết của con. Đấng rất đáng kính , Đáng rất yêu thương của con…

Tôi may mắn, đã được hưởng một kỳ tĩnh tâm Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo rất tuyệt vời , nó đã làm mới đời sống tôi và cứu sống cuộc đời của Ba tôi. Từ dạo đó, mỗi tuần , vào sáng ngày Chúa Nhật chúng tôi dậy sớm đi lễ,  rồi mau mắn đến một nhóm Thánh Linh nọ, tại giáo xứ Đức Kito Ngôi Lời Nhập Thể, trên đường Kirkwood , Houston,  để ca tụng Chúa, tôn vinh Chúa và nghe Lời Chúa dậy dỗ cho cả gia đình gồm Hai vợ chồng và hai cháu nhỏ. Cuối buổi nhóm, thì rồi chúng tôi chia sẻ với nhau một miếng bánh mì , một nhúm xôi điểm tâm muộn màng … mọi người thật là thân ái như trong gia đình.

Tại Việt Nam đã hơn ba tháng qua,  Ba tôi lại ngày ngày , đạp xe đi đó đây và đến thăm viếng Chúa , dự lễ Misa mỗi ngày,  Chúa cho Cha thanh thản và an hòa quá !

Cám ơn Cha Sơn và các Bác đã tổ chức kỳ tĩnh tâm tại nhà thờ St Christopher , Houston.

Cám đội ơn vị Bác Sĩ rất tuyệt vời là Chúa Giê Su.

Tôi muốn kết thúc bài làm chứng này , bằng cách cùng với Mẹ Maria ca khen Chúa:

–          Hồn tôi tôn dương Chúa và thần khí tôi nhảy mừng Thiên Chúa,

Cứu Chúa của tôi.

(Luca 1: 46-47)

GIEO GIÓ, GẶT BÃO

GIEO GIÓ, GẶT BÃO

B/S Nguyễn Hy Vọng

1-  John Lennon, ca sĩ của ban nhạc The Beatles, Anh quốc. Trong lúc được tạp chí American Magazine phỏng vấn, John Lennon nói:
“Thiên Chúa Giáo sẽ không còn, sẽ biến mất. Tôi không có gì phải tranh cãi về điều đó. Tôi chăc chắn như thế.  Ông Giêsu thì được, nhưng những kẻ theo Ông thì quá ngay ngô (ý muốn nói là bị Ông Giêsu lừa gạt).  Ngày nay, chúng tôi, ban nhạc The Beatles nổi tiếng hơn Ông Giêsu.”  (1966)
Sau khi John Lennon tuyên bố lời trên đây, hắn bị bắn sáu lần. Không biết sau khi bị bắn sáu lần, John Lennon có ăn năn hay không? Nhưng mọi người đã biết ‘The Beatles’ đã chết.

2-  Tancredo Neves, người Ba tây (Brazil). Trong lúc vận động tranh cử tổng thống, hắn tuyên bố:
“Nếu tôi có được 500,000 người trong đảng bầu cho, thì ngay cả Thượng Đế cũng không thể đẩy tôi ra khỏi chưc vụ tổng thống.”
Tancredo Neves được số phiếu hắn muốn, nhưng một ngày trước ngày nhận chức tổng thống, hắn lăn ra chêt mà không ai biết lý do tại sao.

3-  Cazuza, viết nhạc, ca sĩ, nhà thơ. Trong một buổi trình diễn ở Canecio (Rio de Janeiro), lúc hút thuốc lá, hắn thổi khói thuốc vào không khí và nói:
“Thượng Đế, phần đó cho ngươi.”
Hắn bị bịnh liệt kháng (Aids), chêt ở tuổi 32, trong tình trạng cực kỳ đau đớn và rên siết mãi mới chết được.

4-  Một nhà báo hỏi người thiết lập chiêc tàu Titanic, về sự an toàn của chiêc tàu, thì kẻ thiêt lập chiêc tàu, nói:
“Ngay cả Thượng Đế cũng không thể đánh chìm được nó.”
Kết quả ra sao, mọi người đã biêt.

5-  Marilyn Monroe, diễn viên điện ảnh. Trong một xuất trình diễn, được Billy Graham đến thăm.  Bill Graham nói, Chúa Thánh Thần sai ông đến để nói với cô. Nghe xong, Marilyn Monroe, nói:
“Tôi không cần Giêsu của ông”.
Một tuần sau, người ta thấy xác Marilyn chết cô đơn trong một chung cư.

6-  Bon Scott, ca sĩ của ban nhạc  AC/DC.  Một bản nhạc hắn ca vào năm 1979, có câu:
“Đừng ngăn cản tôi. Tôi đang đi xuống tận cùng; xuống con đường cao tốc đến hỏa ngục.”
Ngày 19/2/1980, Bon Scott chết vì ngẹt thở, do cơn ói mửa của hắn.

7-  Năm 2005, thành phố Campinas, Ba tây (Brazil), có một nhóm bạn lái xe đến đón một cô bạn của họ… Người mẹ cùng đi với cô con gái đến chiếc xe.  Người mẹ lo lắng khi thấy bạn của con gái bà say rượu. Bà nắm tay đứa con gái, lúc đó đã ngồi vào xe:
“Con gái của mẹ. Con hãy xin Chúa cùng đi với con và xin Ngài che chở con.”
Đứa con gái trả lời:
“Ông Ta có đi thì vào cốp xe, trong xe không còn chỗ cho Ông ta.”

It giờ sau, tin tức cho biêt chiếc xe bị tai nạn, không người nào sống sót. Chiếc xe bị hư hại đến độ, không ai có thể nhận biêt đó là xe loại gì, nhưng có một điều làm cho những người cảnh sát hết sức ngạc nhiên, là cốp xe không bị hư hỏng; theo họ, điều đó không thể xảy ra trong một tai nạn khủng khiếp như thế; và có một điêù làm cho mọi người càng ngỡ ngàng hơn, là trong cốp xe có một hộp trứng, nhưng không một quả trứng nào bị vỡ.

8-  Christine Hewitt (người Jamaica ), là nhà báo và hoạt náo viên. Cô nói:
“Thánh Kinh là quyển sách tồi tệ nhât thế giới đã được viết.”
Tháng sáu năm 2006,  cô bị cháy rụi trong khi cô lái chiếc xe của cô.

9-  Năm 1954, sau khi chiếm Miền Bắc, một toán công an Cộng sản vào nhà dòng kín Bùi Chu lục soát. Khi đến Nhà Nguyện, lúc các nữ tu chầu Mình Thánh, một tên công an cộng sản lớn tiếng la lối:
“Chúa của các ngươi ở đâu?”
Nữ tu chỉ Nhà Tạm trên bàn thờ, tên công an này lấy súng mang trên người nhắm Nhà Tạm, bắn, làm chén thánh và Mình Thánh Chúa đổ ra vương vãi. Bắn xong, hắn vẫn đứng yên, chỉa súng vào Nhà Tạm như muốn bắn tiếp. Các nữ tu vô cùng đau lòng vì Mình Thánh Chúa bị xúc phạm, nên quỳ xuống, van xin anh đừng bắn nữa; nhưng khi chạm đến anh, mới biết linh hồn anh lià xác từ lúc nào rồi.

10-  Năm 1963, sau khi Tổng Thống Ngô Ðình Diệm bị một số tướng tá phản bội lật đổ, một số người bên lương tràn vào tòa Tỉnh trưởng Thừa Thiên, Huế, đập phá “tàn tích gia đình trị”. Khi thấy bức tượng Thánh Gioan Tẩy Giả, Quan Thầy của Tổng Thống Diệm, một thanh niên trèo lên vác búa đập vỡ mặt mũi bức tượng, nhưng hắn bị trật chân ngã xuống và chết ngay lập tức. Sự kiện này xẩy ra trước mắt nhiều người chứng kiến.

11-  Voltaire là kẻ chống Thiên Chúa và đánh phá Hội Thánh Công Giáo rất quyết liệt. Không một lời gian dối và vu oan nào mà ông tởm gớm.  Ông chiêu tập một nhóm lấy tên là “Beelzebub” ( tên của tướng quỷ ). Năm 1753 ông đã lên án Thiên Chúa: “20 năm nữa Thiên Chúa về hưu, vì không còn ai phục vụ Ngài.”
20 năm sau, năm 1773, Voltaire tắt thở trong cái chết thê thảm. Ông thấy những hình ảnh làm ông run sợ, ông hét lên: “Một bàn tay đang kéo tôi đến với Thiên Chúa…Qủy băt tôi…Tôi trông thấy hỏa ngục.”  Ông tru tréo như thú vật hung dữ. Ông lấy móng tay cấu xé thịt mình ra từng miếng. Một bà gìa thường giúp người hấp hối; sau khi chứng kiến cái chêt của Voltaire, đã nói:
“Khi ấy tôi ở gần giường của Voltaire đang hấp hối, tôi không muốn nhìn thấy một người vô đạo chêt nữa.”
Một người khác cũng chứng kiến cái chêt của Voltaire, nói:
“Nếu quỷ có thể chết được, cũng không chêt dữ như Voltaire.”

Kết
Nhân loại đã phạm tội và đáng bị phạt hoả ngục đời đời. Tội lỗi đời đời của nhân loại không ai có thể gánh vác, nhưng vì yêu thương, Thiên Chúa đã ban Người Con duy nhất của Ngài là Chúa Cứu Thế Giêsu, xuống trần để cứu chuộc nhân loại.
Những ai tin vào Chúa Cứu Thế Giêsu thì được cứu, những ai không tin sẽ bị án phạt.  Những kẻ chống lại Thiên Chúa và Giáo Hội Công Giáo, như:  đảng Cộng sản, nhóm Giao điểm, những kẻ tôn thờ Satan, quyền lực, tiền của, phủ thủy, đồng bóng, cầu cơ, bói toán, bùa ngãi.… đừng tưởng rằng Thiên Chúa chưa trừng phạt mà nghĩ rằng không có Thiên Chúa.  Thiên Chúa là Đấng hằng hữu. Thiên Chúa muốn trừng phạt ai vào lúc nào, ở đời này hoặc ở đời sau là quyền của Ngài.

Những kẻ chống lại Thiên Chúa và Hội Thánh Công Giáo, hãy trở về với Thiên Chúa trước khi quá muộn, vì mọi phàm nhân đều phải chết và không biết giờ chết. Nhưng khi lià đời, thì không phàm nhân nào thoát khỏi bị xét xử:

“Đừng để bị lừa dối, Đức Chúa Trời không chịu khinh thường mãi đâu, vì ai gieo điều gì sẽ gặt điều ấy.” (Galatians 6: 7)

Lạy Chúa Giêsu,
Con van xin Chúa thương xót con trong mọi nơi, mọi lúc và nhất là trong giờ con lâm chung. Amen.

B/S Nguyễn Hy Vọng

Anh chị Thụ Mai gởi

THỜI ĐẠI MỚI

THỜI ĐẠI MỚI

AM. TRẦN BÌNH AN

Trích EPHATA 638

Nhà văn Phaolô Nguyễn Hoàng Đức, một chứng nhân sống động của Chúa, của Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận. Ông từng là trung uý an ninh, công tác tại cục “chống phản động” A16 thuộc Bộ Nội Vụ, phụ trách vấn đề tôn giáo. Năm 1987, ông có dịp gặp Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận lúc đang bị giam cầm để học tiếng Pháp. Sau gần hai năm học cùng ngài, ông được khai sáng Đức Tin Thiên Chúa. Một thời gian sau khi Đức Hồng Y được trả tự do sau 13 năm giam giữ bất công, ông Đức cũng từ bỏ ngành Công An và chính thức trở thành con cái Chúa vào dịp Lễ Phục Sinh 2003.

“Con đường Đức Tin vào Nước Chúa qua cây cầu Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận”, của nhà văn Nguyễn Hoàng Đức là một chứng từ trong hồ sơ phong Chân Phước cho Đức Hồng Y FX. Nhà văn tự thuật: “Cuối năm 1988, sang đầu năm 1989 tôi bắt đầu nộp đơn xin chuyển ngành, lý do chính là, sau một loạt sự kiện hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô tan vỡ, đặc biệt “sự kiện Mùa xuân Bắc Kinh” xảy ra tại quảng trường Thiên An Môn ngày 4.6.1989, rồi quân đoàn 27 tràn vào trộn máu thịt sinh viên bằng xích xe tăng, lúc đó Việt Nam coi “Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp”, nhưng lại chiếu phim thời sự trong nội bộ để học tập cách đàn áp của Trung Quốc. Điều đó làm tôi không muốn ở cục “Chống phản động” nữa, vì qua ngót mười năm làm việc, đọc nhiều hồ sơ, tôi hiểu hầu hết người dân lành đó không phải là phản động. Đôi khi, vài anh em bạn bè trong cục tôi vẫn thường bảo với nhau: Tại sao chúng ta thừa nhận Giáo Hội là hợp pháp, trong khi đó lại coi việc hành lễ hay rước lễ của họ là bất hợp pháp ? Tại sao một Linh Mục hợp pháp cả về tư cách công dân, cả về tư cách mục vụ đã được nhà nước chấp thuận theo luật, vậy mà ông Linh Mục đi từ nơi này đến nơi kia lại phải xin phép ?

Ngay việc của Đức Cha FX. Nguyễn Văn Thuận thôi, nếu Giáo Hội mà ngài theo hợp pháp, thì việc Giáo Hội đó tổ chức ra một hội đoàn “Tu hội Hy Vọng” tại sao thành bất hợp pháp ? Nếu bất hợp pháp sao không đưa người phạm pháp ra xử theo luật mà cứ tự tiện biệt giam ?

Hồi đó, một cách tự nhiên, hàng tuần tôi thường đi dự Thánh Lễ tại Nhà Thờ Đức Bà Sàigòn, nghe Linh Mục Nguyễn Khảm giảng lễ, một lần thấy cha giảng hay quá, tôi còn đợi hết lễ và sang tận nhà xứ gặp cha… Lần đầu tiên dự Thánh Lễ, tôi rất cảm động và khâm phục về trình độ phản tỉnh cũng như mở lòng với tha nhân qua hai hình thức “Lỗi tại tôi ! Lỗi tại tôi ! Lỗi tại tôi mọi đàng !” và việc “Anh chị em chúc bình an cho nhau”, cúi phía trước, cúi phía trái, cúi phía phải chào nhau…

Nhưng có một đêm tôi được một giấc mơ kéo vào thế giới của tâm linh, đại loại như có một cánh tay dẫn tôi đến một chân trời có tấm phông thả từ vòm trời xuống, và có giọng nói, nếu tôi vén màn sẽ nhìn thấy thế giới ánh sáng ở phía bên kia. Tôi giơ tay vén màn thì choàng tỉnh. Đêm thứ hai, sau đó vài ngày, thì giấc mơ kéo tôi đến thẳng Nhà Thờ, và có giọng nói: “Hãy đi vào đường của tâm linh thiêng liêng”… Kể từ đó, sáng Chủ Nhật nào tôi cũng dậy từ 5 giờ sáng đi Lễ Nhà Thờ Phùng Khoang, tôi đã luôn tự nhận mình là con cái Chúa…

Tối 19.4.2003, tôi được rửa tội… Trước bàn thờ Chúa ở Nhà Thờ và bàn thờ Chúa ở nhà riêng, tôi đã hân hoan cảm tạ Chúa rằng: “Lạy Chúa ! Hành trình đi đến Đức Tin của con có cả ơn soi, ơn gọi, và ơn chọn, khởi đầu từ hạt men đầu tiên nơi cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, giờ đã dậy lên cả đống men, trong tâm hồn con tràn ngập ân sủng Đức Tin của Chúa, trong Chúa và hướng về Chúa !”

Theo Kinh Thánh, thời gian được chia làm hai thời kỳ Cựu Ước và Tân Ước. Đức Giêsu loan báo thời kỳ Cựu Ước đã đến hồi kết thúc và thời đại Tân Ước, thời cuối cùng, thời cánh chung đã tới. Người kêu gọi hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Trong bối cảnh này, Người đã gọi các ông Anrê, Simon, Giacôbê và Gioan làm những môn đệ đầu tiên. Các ông đã mau mắn vâng lời, dứt khoát bỏ tất cả đi theo Người. Hôm nay, mhà văn Nguyễn Hoàng Đức cũng đã dứt khoát từ bỏ vinh hoa phú quý, tương lai huy hoàng, xán lạn để tin vào Tin Mừng đầy cam go, gian lao và thách đố.

Nhìn lại và đổi mới

“Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” ( Mc 1, 15 ). Sám là ăn năn lỗi trước, hối là chừa bỏ lỗi sau. Sám hối nghĩa là dứt trừ lỗi trước đã phạm, không cho lỗi lầm sau phát sinh. Nhưng con người hiện đại hình như hiếm hoi thì giờ để hồi tâm xét mình, để nhìn lại những gì đã trải qua, đã làm, đã vấp phạm, đã xúc phạm đến Chúa và tha nhân.

Lúc nào cũng bận rộn, vừa dứt công việc thì lao ngay vào giải trí, thú vui, thư giãn. Âm thanh, hình ảnh, sự kiện luôn lấp đầy tâm trí, lòng dạ. Vì thế cuộc sống ồn ào, quay cuồng, xô bồ, ô nhiễm, ngộ độc con người từng phút giây, từ sáng tinh mơ đến tận đêm khuya nghỉ ngơi. Do vậy, số người cô đơn, mất phương hướng và lý tưởng, tha hóa, tự tử ngày càng tăng trong những xã hội văn minh, hiện đại như Nhật Bản, Hàn Quốc và Âu Mỹ.

Không xét mình, chẳng nhìn lại đằng sau, thì cũng chẳng thể nào tiến triển, trưởng thành trên đường đạo hạnh, con người chỉ có thể chìm dần, sa vào vũng lầy tội lỗi, đen tối, u ám, bất hạnh. Cái chết là kết cục đương nhiên. Cho nên không sám hối thì sớm muộn chỉ tìm đến cái chết cả xác lẫn hồn.

Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ?” ( Mt 16, 25-26 ).

“Nếu con chỉ “giữ đạo” con chưa canh tân. Ma quỷ muốn đuổi Chúa ra khỏi thế gian và lôi thế gian ra khỏi Chúa. Con phải đem Chúa đến thế gian và đưa thế giới về với Chúa.” ( Đường Hy Vọng, số 650 ).

Sống Tin Mừng

Sám hối mà thôi vẫn chưa đủ khả năng nhập gia tùy tục vào thời đại mới, thời đại Tin Mừng, thời đại Tân Ước, mà còn phải sống Tin Mừng. Cụ thể hóa Tin Mừng ngay trong đời thường hằng ngày qua bổn phận, trách nhiệm, yêu thương và phục vụ tha nhân, cùng vâng theo Thánh Ý Chúa mọi nơi, mọi lúc.

Bốn anh thuyền chài khỏe khoắn, vạm vỡ: Anrê, Simon, Giacôbê và Gioan đã mau mắn nghe tiếng Chúa gọi, quyết định từ bỏ tất cả, thân quyến, nghề nghiệp, của cải, ra đi làm môn đệ, làm anh em của Người. Sau này “Simon Phêrô lên tiếng thưa Ngài: “Này chúng tôi từ bỏ mọi sự mà đi theo Thầy”. Ðức Yêsu nói: “Quả thật Ta bảo các ngươi: không ai bỏ nhà cửa, hay anh em chị em, hay cha mẹ, hay con cái, hay ruộng nương vì Ta và vì Tin Mừng, mà lại không lĩnh lấy gấp trăm bây giờ ở đời này về nhà cửa, anh em và chị em, mẹ và con cái cùng ruộng nương, làm một với cấm cách bắt bớ, và sự sống đời đời trong thời sẽ đến” ( Mc 10, 28-30 ).

“Hãy đi rao giảng Phúc Âm…” ( Mc 16, 15 ). Chúa cần những người “cảm tử” để đảm nhận một sứ mạng cao cả như thế. Hai ngàn năm lịch sử Hội Thánh cho ta thấy, giai đoạn nào cũng không thiếu cảm tử, từ mọi tầng lớp Giáo Dân” ( Đường Hy Vọng, số 64 ).

Lạy Chúa Giêsu, xin chiếu giãi Lòng Chúa xót thương, mở lòng, mở trí chúng con ra, để chúng con biết khiêm tốn, cúi đầu đấm ngực, ăn năn, sám hối, canh tân, cùng thực thi Tin Mừng trong đời sống thường nhật chúng con.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giải thoát chúng con khỏi bùn lầy thế gian, mà sám hối trở về cùng Chúa Giêsu, cội nguồn ơn cứu rỗi, để được thứ tha và an ủi, hầu chúng con có thể noi gương Mẹ, sống kết hợp cùng Chúa luôn. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

Linh hồn nhẹ nhàng khi ‘thoát xác’

Linh hồn nhẹ nhàng khi ‘thoát xác’

Cuối tháng 4 / 1987, người ta chở bà Mary Houghton, 68 tuổi vào bệnh viện Boston vì chứng đau tim. Bệnh nhân ngưng thở lúc 6 giờ tối, mọi cứu chữa đều vô hiệu và bác sĩ tuyên bố bệnh nhân đã chết. Xác bà được tạm đặt trong một căn phòng riêng chờ thân nhân đến làm giấy tờ tẩm liệm. Khoảng 11 giờ đêm, bà Houghton tỉnh lại bấm chuông gọi y tá. Bác sĩ trực đến khám và xác nhận bà lão đã hồi sinh.

Trường hợp bệnh nhân tắt thở vài giờ sau lại sống dậy không có gì lạ lùng với y giới nhưng bà Houghton đã nhớ lại những diễn tiến sau khi chết và kể lại như sau:

“Tôi đang ngồi ở nhà đọc báo thì thấy choáng váng, xây xẩm mặt mày và tự nhiên hôn mê. Khi tỉnh dậy tôi cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát, chung quanh tôi là một lớp sương khói
dày đặc khiến tôi bỡ ngỡ không biết mình đang ở đâu. Tôi lên tiếng gọi nhưng vô hiệu.
Tôi mò mẫm đi trong lớp sương mù đó được một lúc thì nhận thức rằng có lẽ mình đã
chết. Tôi biết mình mắc chứng đau tim đã lâu, bác sĩ nói rằng tôi chẳng còn sống được bao
lâu nữa nên tôi không lấy thế làm buồn. Ðiều bất ngờ là khi vừa  chấp nhận điều này thì tôi thấy mình đang đứng ngay bên cạnh giường quan sát thân thể của tôi nằm bất động trên đó. Sau một lúc xúc động tôi cố gắng trấn tĩnh và tự chủ  rằng mình sống như thế cũng là đủ rồi.

Trong khi xúc động thì luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên đen tối, khó chịu, tôi có cảm giác như bị lôi kéo vào một vũng bùn nhầy nhụa, hôi hám. Tôi bèn lên tiếng cầu nguyện thì thấy trong mình dễ chịu lạ thường, lớp ánh sáng bao quanh dần dần trở nên quang đãng hơn.

Một lúc sau tôi thấy thân thể nhẹ hẫng như có thể bay bỗng lên được. Tôi bèn để cho
nó tự nhiên và thấy mình lơ lửng trên không nhìn xuống phía dưới. Lúc ở trên cao nhìn
xuống, tôi thấy có một chùm chìa khoá màu đỏ  của ai để trên nóc tủ thuốc. Tôi thầm nghĩ ai lại để chìa khoá ở đó làm chi ? Ðang suy nghĩ vẫn vơ thì tôi thấy mình đã đi xuyên qua trần nhà để lên lầu trên và thấy hai người y tá đang xem một trận đấu bóng rỗ trên ti-vi, trận đấu vừa kết thúc khi đội Los Angeles Lakers thắng Boston Celtics, và một người y tá đánh cuộc thua phải trả cho bạn đồng nghiệp 20 mỹ kim. Tôi thong thả đi dọc theo hành lang bệnh viện và gặp rất nhiều người như tôi cũng đang lướt đi, không ai nói với ai lời nào.Ða số có vẻ vội vã, có người hoảng hốt là đàng khác. Tôi thấy một thanh niên đang đứng cạnh xác mình một cách đau khổ, tôi lên tiếng an ủi nhưng có lẽ anh không nghe được lời khuyên bảo của tôi. Vì một lý do gì không rõ, tôi hiểu ngay sự bận tâm của anh ta vì đã không hoàn tất được một số việc. Anh ta cố sức chui lại vào cái xác đã lạnh cứng nhưng vô hiệu.  Anh đâm ra hoảng hốt khiến tôi cũng mất bình tĩnh theo nên tôi đành bỏ anh ta ở đó mà đi chỗ khác. Tôi nghĩ đến các con của tôi và lập tức thấy mình đang đứng trước mặt đứa con gái lớn. Con gái tôi đang khóc. Tôi muốn ôm lấy nó nhưng tiếng khóc của nó làm tôi thấy khó chịu.Mỗi khi trong người khó chịu thì lớp ánh sáng bao quanh tôi lại chuyển sang một màu đen tối, nhầy nhụa khiến tôi sợ hãi. Tôi cố gắng trấn tĩnh tâm hồn và nghĩ đến hai đứa con trai thì thấy mình đang đứng ngay bên cạnh chúng. Hai đứa đang bàn việc chôn cất cho tôi. Thằng Michael phàn này về việc tôi đã không chịu mua bảo hiểm nhân thọ.. Cả hai chỉ nghĩ đến số tiền mà chúng sẽ phải chi ra hơn là nhớ thương đến mẹ của chúng. Tôi không hiểu tại sao tôi lại có thể đọc rõ tư tưởng của các con tôi như vậy. Càng đứng đó tôi càng bực bội vì hai đứa cứ cãi nhau mãi về việc chôn cất và việc phân chia gia tài nên tôi lại bỏ đi.Tôi không biết sẽ đi đâu. Tôi chẳng có thân nhân hay bạn bè nào cả. Ðến lúc đó tôi mới bắt đầu nghĩ lại cuộc đời của mình.

Hình như tôi đã sống một cách ích kỹ, không giao thiệp với ai và cũng không có ai là bạn
thân thiết. Cả một quá khứ bỗng hiện ra trước mắt tôi như người đang xem phim chiếu
bóng. Tôi thấy rất rõ những quyết định của mình, những lỗi lầm mà tôi đã tạo ra. Những
việc mà tôi nghĩ là tầm thường, không đáng kể đều hiện ra rõ rệt và phản ảnh tâm
trạng của tôi khi đó; vì sao tôi đã hành động như vậy; tại sao tôi lại làm việc đó… Hơn
bao giờ hết tôi thấy mọi sự việc một cách khách quan vô tư chứ không chủ quan như trước.
Tôi không hiểu tại sao mình lại có thể bình tĩnh nhận xét như thế được.Tôi bắt đầu cầu nguyện và tự nhiên thấy lớp ánh sáng bao quanh bỗng sáng chói một cách lạ lùng. Tôi thầm nghĩ phải chăng tôi có thể hành động khác khi xưa khi biết rõ những nguyên nhân, hậu quả việc làm của mình. Tất cả có thể quy về một điều duy nhất: Tôi là một người quá tự hào về mình, quá hãnh diện về những giá trị viển vông, tạm bợ mà không hề biết rằng những điều đó hoàn toàn vô giá trị khi người ta từ bỏ cõi sống này. Chính vì tự hào mà tôi đã khoác lên mình những mặc cảm tự tôn, coi thường người khác, bất chấp dư luận và nghĩ rằng tôi luôn luôn có lý trong mọi công việc. Hậu quả là tôi có một đời sống khô khan, không bạn bè thân thiết, ai ai cũng muốn xa lánh tôi, ngay cả những đứa con của tôi nữa. Phải chăng tôi có thể chuộc lại những điều đã làm? Chưa bao giờ tôi lại có ý nghĩ lạ lùng như vậy. Lần đầu tiên tôi hối hận một cách chân thành và tự nhiên tôi lên tiếng cầu nguyện.

Tự nhiên tai tôi bỗng ù đi, luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên sáng chói một cách lạ
lùng, tôi thấy bình tĩnh như có một sự an ủi lớn lao nào đó vừa đến với tôi, và tôi
cương quyết rằng tôi sẽ chuộc lại những lỗi lầm khi xưa. Tôi chắp tay cầu nguyện Thượng
Ðế hãy cho tôi một cơ hội nữa và luồng ánh sáng chung quanh tôi tự nhiên sáng chói một cách mãnh liệt khiến tôi phải nhắm mắt lại và bất chợt tôi nghe được các âm thanh quen thuộc. Tôi thấy mình đang nằm trên giường bệnh viện… Tôi đã tỉnh lại”.

Lời khai của bà Houghton đã được bác sĩ Elizabeth Kubler Ross kiểm chứng rất kỹ. Hai
nhân viên trực trong bệnh viện xác nhận họ có đánh cuộc với nhau về trận bóng rỗ, kết quả
trận banh xảy ra đúng như lời bà Houghton đã thuật lại. Hai đứa con trai của bà Houghton cũng xác nhận họ đã cãi nhau về việc bảo hiểm và tiền chôn cất. Ðiều bất ngờ là một bác sĩ
trực đánh mất chùm chìa khoá xe hơi màu đỏ từ mấy tuần trước, nhờ lời khai của bà
Houghton mà ông nhớ rằng trong lúc vội vã, ông đã ném đại nó lên nóc tủ thuốc. Chiếc tủ
này rất cao, gần chạm đến trần nhà, một người đúng dưới đất không thể nhìn thấy nó
được nên mặc dù tìm kiếm mãi mà vẫn không ai thấy… trừ khi họ đứng trên trần nhà nhìn
xuống.

S.T.

HÃY THEO TÔI

HÃY THEO TÔI

Bốn anh thanh niên có gia đình, có nghề nghiệp lại được Đức Giêsu mời gọi theo Ngài, bỏ lại tất cả. Chắc chắn họ không phải là những người nhẹ dạ.  Họ đã từng quen biết Thầy Giêsu và kính nể Ngài. Đến lúc nào đó, khi được Ngài hoàn toàn chinh phục, họ đã sẵn sàng ra đi, nhẹ tênh.

Nhiều người nghĩ rằng đoạn Tin Mừng này nói về ơn gọi đi tu của các linh mục tu sĩ.  Thật ra đây là đoạn Tin Mừng nói về ơn gọi của từng Kitô hữu chúng ta.

Chúa Giêsu vẫn đi ngang qua đời ta mỗi ngày như xưa Ngài đã dọc theo biển hồ Ga-li-lê.  Ngài thấy ta như Ngài đã thấy bốn môn đệ.  Ngài thấy ta trước khi ta thấy Ngài.  Cái nhìn của Ngài không làm ta bị tê liệt vì Ngài chấp nhận trọn vẹn con người của ta.  Cả những yếu đuối và tội lỗi cũng được Ngài đón nhận.  Hạnh phúc cho ai được thấy Thiên Chúa.  Nhưng hơn nữa, hạnh phúc cho ai được Thiên Chúa thấy.

Lúc Ngài thấy ta thì ta vẫn không hay biết.  Ta vẫn mải mê quăng chài hay vá lưới.  Ta vẫn tất bật với những lo toan đời thường, hay đang miệt mài theo đuổi một ước mơ.  Chính lúc đó, chính lúc ta tưởng mình quá ư ổn định, và đời mình đã được định hướng quá rõ ràng, thì tiếng gọi của Ngài vang lên, mạnh mẽ, dứt khoát.

Hãy theo tôi!

Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi đi theo Chúa Giêsu.  Ngài không mời ta đi theo một lý tưởng, một ý thức hệ.  Ngài mời ta theo chính con người Ngài, gắn bó với Ngài, nhận Ngài là nền tảng và chóp đỉnh của cuộc sống.

Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới con người.

Con người là điều ta phải quan tâm, vì đó là mối quan tâm lớn nhất của Chúa Giêsu.

Theo Ngài là chia sẻ với Ngài cùng một sứ mạng, là thao thức và đồng cam cộng khổ với Ngài trong công việc cứu độ toàn thế giới.

Chúa Giêsu mời ta dấn thân vào cuộc đổi đời, mời ta định lại hướng đi theo những giá trị mới.  Như thế là chấp nhận đổ vỡ, đoạn tuyệt.

Bốn môn đệ đã bỏ lại biển cả và những người thân yêu.  Vợ con của Simon và cha của Giacôbê sẽ sống thế nào?  Mái nhà nay vắng bóng những người đàn ông cột trụ!

Hôm nay Chúa Giêsu vẫn cần bạn, vì bạn là Kitô hữu.  Ngài vẫn thấy bạn, và mời gọi bạn đáp lại mỗi ngày.

Cần trầm lắng mới nghe được tiếng thì thầm của Chúa.  Bạn có thể sống như một giáo dân bình thường, lo xây dựng gia đình, sự nghiệp, tương lai.  Nhưng bạn phải sẵn sàng từ bỏ khi cần, nghĩa là chọn Chúa, đặt Chúa lên trên mọi giá trị đó.

*************************************************

Lạy Chúa,

Chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.

Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.

Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.

Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.  Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.

Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.

Trích trong “Manna”

SỬA SOẠN LÌA ĐỜI

SỬA SOẠN LÌA ĐỜI

 

 

 

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Anh Trần Quang Minh gởi cho tôi bài “ Sửa soạn lìa đời” của Hiếu Thuận ghi lại lời nhắn nhủ của  Ni sư Tenzin Palmo như sau:

Ni sư Tenzin Palmo

Hướng về anh D, Ni sư Tenzin Palmo nói chậm rải từng tiếng một:

“ Ai rồi cũng phải chết cả! Có những đứa bé chết từ thuở sơ sanh. Có kẻ chết trẻ, người chết già vì đủ mọi lý do: tai nạn, bịnh tật, già yếu… Ai cũng biết về cái chết nhưng cứ tưởng là nó đến cho  người khác chớ chưa đến lượt mình… mãi cho đến lúc nó thình lình hiện ra trước mắt thì hoảng hốt, lo sợ, bấn loạn vì thiếu sự chuẩn bị. Chết vì bệnh tật là may mắn hơn vì có thời gian sửa soạn cho sự ra đi.

Để sửa soạn lìa bỏ cuộc đời:

1/ Điều trước tiên là buông bỏ mọi giận hờn, oán hận mà từ trước tới nay ta ôm ấp trong lòng. Mở lòng tha thứ hết mọi người. Buông xã hết.

2/ Hãy nói những lời yêu thương và biết ơn ta từng muốn nói mà chưa có dịp hay còn ngần ngại.

3/ Hãy di chúc về tài sản, ước muốn cuả mình. Cần phân minh và công bằng để thân nhân không tranh dành, cãi cọ trong thời gian ta mới lìa đời.

4/ Hướng tâm, nghĩ tưởng về Đức Chuá, Đức Mẹ nếu là tín đồ Công giáo, về Phật A Di Đà nếu là Phật giáo. Nếu không có tôn giáo thì nên hướng về Ánh Sáng.

5/ Thân nhân không nên than khóc và níu kéo: “Đừng đi, đừng bỏ em, đừng bỏ con…” vì sẽ gây quyến luyến, khó khăn thêm cho người sắp ra đi.

Điều nên làm là nhắc nhở kẻ hấp hối nhớ đến những điều thiện lành.

Dù người ấy có vẻ như đang hôn mê, không nói năng được nhưng thân nhân vẫn luôn nhắc nhở, cầu nguyện vì trong thâm sâu, họ vẫn còn biết.

6/ Nếu thân thể bị đau đớn thì cứ dùng thuốc giảm đau. Người tu tập cao có thể chịu đựng vì quán chiếu tánh không của cơn đau. Nhưng với người bình thường thì đau quá làm họ sân hận, bấn loạn. Hơn nữa, thuốc giảm đau không ảnh hưởng đến thần thức sau khi chết.

7/ Một điều cần nhắc nữa là:

“Khi ra đi, người chết thường thấy hình ảnh của ông bà, cha mẹ hay thân quyến quá cố hiện ra, vẫy gọi mình. Đừng đi theo họ mà chỉ hướng đến Chúa, Phật hay Ánh Sáng, là con đường hướng thượng.”

Ghi lại những lời khuyên hữu ích vì cảm niệm công đức của Ni Sư.

Xin chia sẻ cùng tất cả. Thực hành là chuyện của mỗi người.

Hiền Thuận

Tôi cũng đã chuẩn bị cho sư ra đi hơn 10 năm qua, đã viết sẳn bản báo tin khi lìa đời, viết  sẳn bài phân ưu cho Nhóm Thân hữu Cần Giuộc và Cần Đước, lời cám ơn  ở nhà thờ và lời dặn sau cùng khá đầy đủ cho một đám tang. Tôi cũng đã chuẩn bị cho cuộc ra đi, hy vọng sẽ yên tâm ra đi. Linh hồn tôi sẽ thanh thản ra đi và người ở lại cũng không có bối rối vì lúc đó không biết phải làm gì trước, làm gì sau?

Một linh hồn đã chuẩn bị trước cho sự ra đi cũng tốt hơn là không chuẩn bị.

Tôi rất tâm đắc bài kinh mà mỗi tối chúa nhật và mỗi sáng hằng ngày, giáo dân nhà thờ Ngôi Lời Nhập thể đều đọc như sau:

“ Lạy Chúa Con, con xin dâng các lễ Misa, các Thầy cả ở khắp tứ phương thiên hạ làm trong ngày hôm nay. Để Chúa Con thương đến các kẻ có tội đang mong sinh thì bây giờ và sẽ chết trong ngày hôm nay. Chớ gì máu châu báu Đức Chúa Giêsu là đấng chuộc tội làm cho Chúa Con thương đến các kẻ ấy.”

Tôi rất thích lời kinh này để nhắc nhở tôi rằng tôi có thể chết bất cứ lúc nào ngay ngày hôm nay. Cho nên nghĩ đến sự chết thường xuyên để giúp tôi sống như thế nào cho đúng trong từng ngày .Như vậy với sự chuẩn bị đó giúp cho tôi bớt sợ chết.

Ngoài ra mỗi sáng sớm tôi đều đi dự thánh lễ ở nhà thờ Ngôi Lời Nhập Thể để gần với Chúa hơn,  tâm sự với Chúa nhiều hơn. Tôi cũng đã nhìn thấy các người già cả, đi phải chống gậy mà vẫn thường xuyên đi lễ nhà thờ đều đặn mỗi sáng.

Chúa Giê –su đã dặn các môn đệ rằng:

“Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy, trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi vì Thầy đi để dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy để Thầy ở đâu thì anh em cũng ở đó.Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi.”

ÔngTô-ma nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy , chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?” Đức Giê-su đáp : “ Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14: 1-6)”

*Ai  tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống, ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết. (Gioan 11: câu 26)

* Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng chết cho Chúa. Vậy dù sống dù chết chúng ta vẫn thuộc về Chúa   (Roma 14: 7-8)

* Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống lại với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết cho tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh  em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay sống lại cho Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô Giê-su.  (Roma 6: 8-11)

* Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. Nhưng không phải thế! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai an giấc nghìn thu. ( 1 Cor 15: câu 19,20)

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tiểu sử: ni sư Tenzin_Palmo

Khoa học dẫn đến Thiên Chúa

Khoa học dẫn đến Thiên Chúa

http://baomai.blogspot.com/

Tiến sĩ Phan Như Ngọc, bị nhồi nhét tà thuyết vô thần từ lúc nhỏ và lớn lên trong lòng Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhân một chuyến công tác ở nước ngoài, ông đã xin tị nạn và gia nhập Đạo Chúa. Ông viết: “Sức mạnh nào khiến cho hàng tỷ người trên thế giới, trong đó có hầu hết các nhà khoa học vĩ đại mà tôi từng ngưỡng mộ, tin Kinh thánh?”

“Tính muôn màu muôn vẻ của thiên nhiên, tính di truyền kỳ diệu: hạt giống nào sinh cây trái đó, vẻ đẹp tuyệt vời của những nàng hoa, sự hài hòa và hoàn thiện của cơ thể con người, sự hùng vĩ của bầu trời sao; tất cả những cái đó, cộng với những ý kiến các vĩ nhân mà tôi hằng kính phục, chính là sự chứng minh tuyệt vời và làm cho tôi tin rằng phải có Đấng Sáng Tạo. Đó chính là Thượng Đế toàn năng, toàn tri, toàn trí và toàn tại.”

image

Bác học Pasteur: “Càng nghiên cứu khoa học, tôi càng tin vào Thượng Đế.” ;   “Mỉa mai cho lòng dạ con người, nếu chết là hết hoặc chết là trở về với hư vô.”

image

Bác học Becquerel: “Nhờ nghiên cứu khoa học đã dẫn tôi đến Thượng Đế và tôi có đức tin.”

image

Bác học Isaac Newton, vì nhìn thấy sự kỳ diệu và trật tự của bầu trời tôi đã thốt lên:  “Tôi thấy Thượng Đế qua viễn vọng kính” ;   “Kinh Thánh có nhiều biểu hiện chắc chắn về tính có thực hơn bất cứ một câu chuyện nào chống lại sách đó.”

image

Bác học Bourgeois:  “Không có gì cản trở tinh thần khoa học hòa hợp với tín ngưỡng đã được suy nghĩ sáng suốt. Trái lại, khoa học càng được đào sâu, thì tôn giáo lại càng được tăng thêm sức mạnh và bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa, lại càng được sáng tỏ hơn.”

image

Bác học Duclaux: “Nếu sự sống đầu tiên xuất hiện trên mặt đất do tình cờ, nơi mà (vũ trụ này) mọi sự đều có luật, thì sự xuất hiện kia nó kỳ dị như hòn đá tự bò lên sườn núi.”

image

Bác học Albert Einstein: “Khoa học không tôn giáo là mù lòa, tôn giáo thiếu khoa học là qùe quặt.”;   “Tôi chưa hề gặp điều gì trong Khoa học của tôi mà lại đi ngược với Tôn giáo.” . “Sự ác là do vắng  bóng Thượng Đế trong tâm hồn.”

http://baomai.blogspot.com/

Giáo sư Edwin Carlson, nhà Sinh vật học Trường Đại Học Princeton, Hoa Kỳ:  “Sự sống phát xuất từ sự tình cờ, thì cũng giống như một quyển từ điển, xuất hiện do kết quả của một vụ nổ xẩy ra ở một nhà máy in.”

image

Giáo sư James Simpson, người phát minh ra phương pháp gây mê trong phẩu thuật, khi được hỏi về những phát minh của ông, đã trả lời: “Phát minh quan trọng nhất của đời tôi là tìm được Chúa Cứu Thế Giêsu.”

image

Bác học Edison, đã ghi vào sổ vàng khi ông đến viếng thap Eiffel:  “Edison hết sức khâm phục và ca ngợi tất cả kỹ sư, trong đó gồm cả Thiên Chúa.”

image

Giáo sĩ Moreux, giám đốc đài thiên văn Bourges:  “Tôi liên lạc với các vị giám đốc thuộc hết mọi đài thiên văn trên thế giới, tất cả đều tin có Thiên Chúa.”

image

Charles Nicolle, người đoạt giải Nobel Y học, năm 1928: “May mắn thay trong tôn giáo có những bí nhiệm. Nếu không tôi sẽ hoài nghi nó, vì cho rằng tôn giáo là do trí loài người tạo ra. Bí nhiệm làm tôi vững tâm. Đó là dấu ấn của Thiên Chúa.”

image

Alexis Carrel, tiến sĩ y khoa, giáo sư đại học Lyon, đoạt giải Nobel 1912. Ông là một nhà vô thần, nhưng sau khi chứng kiến phép lạ nhãn tiền tại Lộ Đưc (Lourdes , France), Marie Ferrand, từ một cô gái sắp chết, trở nên lành mạnh tức khắc, ông nói:  “Thật là một chuyện không thể có nhưng có thực. Qủa là bất ngờ, một phép lạ mới xẩy ra.”  Không dám tin ở mình. Alexis Carrel mời hai bác sĩ bạn đến chứng kiến và cả hai đều xác nhận cô đã hoàn toàn bình phục. Alexis Carrel đã trở nên tín hữu Thiên Chúa giáo, trước khi về Nhà Cha trên trời.

image

Bác học Chevreul (1786-1889):  “Tôi không thấy Thiên Chúa vì Ngài thiêng liêng, nhưng tôi thấy công trình tạo dựng của Ngài”

image

Bác học Diderot:  “Chỉ cần con mắt và cái cánh của con bướm, cũng đủ diệt tan mọi lý lẽ của kẻ vô thần.”

image

Bác học John Eccles, người đoạt giải Nobel:  “Tôi chấp nhận tất cả những lý thuyết khoa học, nhưng những lý thuyết này không giải thích một chút nào về sự kiện, làm thế nào, tôi, một sinh vật biết suy nghĩ, đang hiện hữu và có thể làm nhiều điều… Sự sáng tạo linh hồn là một hành động thiêng liêng là điều khoa học không thể phủ nhận được, nó hoàn toàn nằm ngoài phạm vi của khoa học”

Ông nói thêm: “Niềm tin của những người chủ trương duy vật chất đang hao mòn; họ không dẫn chúng ta đến đâu cả. Thuyết ‘khoa học duy vật’ đưa con người đến tuyệt vọng, trống rỗng, vô giá trị. Giá trị thật là vấn đề tâm linh, tình yêu thương, can đảm, bác ái”.

image

D’Alembert:  “Cái tính hão huyền không muốn nghĩ tường như mọi người, là lý do tạo nên kẻ vô thần hơn là chứng lý sáng tỏ.”

http://baomai.blogspot.com/

Bác sĩ riêng của Lenine, lúc 83 tuổi, ông xuất bản hai cuốn sách: “Sự bí mật và sự khôn ngoan của thân xác (1958); và  “Mầu nhiệm của sự sống” (1960). Ông nói: “Môn sinh vật học và môn phân tích tâm lý, đã làm cho tôi trở nên một kẻ hữu thần.”

image

Wernher Von Braun (1917-1977) thám hiểm Mặt Trăng thành công năm 1967. Ông cùng 3 phi hành gia bạn cắm cờ Hoa kỳ và đặt ca vịnh trên cung trăng ngợi khen Đấng Tạo Hóa. Năm 1976 khi diễn thuyết tại Philadelphia , Bang Pennsylvania , Ông nói: “Sự bao la huy hoàng của vũ trụ đã làm cho đức tin vào Đấng Tạo Hóa của tôi tăng thêm. Khoa học và đạo không mâu thuẫn nhưng là chị em ruột. Khoa học tìm thấy sự huy hoàng của vạn vật, trong khi đạo thì tìm thấy Đấng Tạo Hóa đã dựng nên vạn vật tốt đẹp lạ lùng. Đạo không phải là di sản mà người đời sau hưởng thụ và bảo vệ. Nhưng đạo cũng như khoa học phải thăng tiến. Người tín hữu phải tìm hiểu đạo và nhà khoa học phải khổ công nghiên cứu mới thành bác học.”

image

Bác học T. Termier: “Cứ chung mà nói, mọi khoa học đều dọn trí khôn ta nhận biết Thiên Chúa hiện hữu. Hơn mọi người khác, nhà bác học dù chuyên về khoa nào, bao giờ cũng dễ dàng nhận thấy mọi vật đều biến chuyển, bị tạo, hỗn hạp, khuyết điểm, có cùng đích và rất phức tạp. Do đó, hơn những người dốt nát, nhà khoa học dễ có ý hướng về một Đấng bất di bất dịch, tự hữu, cần thiêt, hoàn toàn và là Đấng duy nhất an bài mọi sự. Chính vì thế mà người ta bảo: khoa học dẫn đến Thiên Chúa; và cũng chính vì thế mà người ta có thể nói, vũ trụ vật lý là bí tích của Thiên Chúa.”

image

A. Eynieu đã công bố bản thống kê: trong số 432 nhà bác học thuộc thế kỷ 19;  34 vị không biết lập trường tôn giáo, còn 398 phân chia như sau: 15 vị dửng dưng, 16 vị vô thần, 367 vị tin; như vậy là 92% các nhà bác học tin có Thiên Chúa.

Bác sĩ Dennert, người Đức cũng tuyên bố kết qủa tìm tòi của ông để biết quan niệm tôn giáo của 300 nhà bác học, tìm hiểu trong những số lỗi lạc nhất thuộc 4 thế kỷ qua. “38 vị tôi không rõ các ông quan niệm thế nào, còn 262 vị, thì 20 vị dửng dưng, 242 ông tin. Tức cũng 92% tin có Thiên Chúa.”

http://baomai.blogspot.com/

Nhà bác học người Mỹ, có ý mỉa mai và đánh giá những kẻ chủ trương vô thần như sau:

– Trong con người có một số nước đủ giặt một cái khăn bàn.

– Chứa chất săt, đủ làm 7 cái đinh đóng móng ngựa.

– Có một số chất vôi đủ quẹt một bức tường nhỏ.

– Đốt ra than, có thể làm được 65 cây viết chì.

– Chất phốt phát đủ làm được hộp diêm.

– Và chất muối độ hai muỗng nhỏ.

image

Bán những thứ đó được 95 xu, đó là giá trị của kẻ vô thần.

Nguyễn Hy Vọng

NHỚ CÁI CHẾT ĐỂ SỐNG ĐẠO TỐT HƠN

NHỚ CÁI CHẾT ĐỂ SỐNG ĐẠO TỐT HƠN

(LỄ AN TÁNG MỆ ANNA TRẦN THỊ CHƯNG 97 TUỔI)

Micae-Phaolô Trần Minh Huy, PSS

Hương Lâm, ngày 30/12/2014

Kính thưa Cộng đoàn Phụng Vụ,

Chúng ta cảm tạ Chúa và cám ơn Mệ Anna Trần thị Chưng, thân mẫu của nữ tu Anna Lê thị Nga và bà nội của cha Đaminh Lê Đình Du. Qua cái chết của Mệ, Chúa đã qui tụ chúng ta lại nơi đây trong sự sẻ chia tình thương liên đới, an ủi, nâng đỡ những người còn sống về nỗi buồn mất mát tang chế, và cùng nhau chung lời hiệp nguyện cử hành thánh lễ an táng tiển đưa thi hài Mệ Anna đến nơi an nghỉ, khỏi những vất vả nhọc nhằn trên vùng đất cát trắng cằn khô của một cuộc đời dài 97 năm, chờ ngày sống lại vinh phúc với Chúa, như lời hứa của Chúa Giêsu chúng ta vừa nghe: “Hỡi tất cả những ai vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.

ĐTC Phanxicô trong lời mở đầu Tông Thư Năm Đời Sống Thánh Hiến đã nói:“Các con không chỉ có một lịch sử huy hoàng để nhớ lại và tường thuật, mà còn có một lịch sử oai hùng cần viết nên! Hãy nhìn về tương lai, nơi mà Thánh Linh đã dự định thực hiện cùng với các con những điều trọng đại hơn nữa”. Tôi xin mượn lời này để nói đôi điều về hành trình cuộc sống và đức tin của Mệ Anna, như một tấm gương sáng khích lệ con cháu của Mệ, cũng như mỗi người chúng ta, đặc biệt giáo xứ Hương Lâm, nỗ lực tiếp tục viết nên một trang sử tương lai tốt đẹp hơn mà Chúa Thánh Thần đã thương khơi gợi lên. Mệ Anna đã có tất cả 9 người con, 7 gái 2 trai, mà hiện nay 7 người còn sống, với một con gái là nữ tu, một cháu nội là linh mục, hai cháu ngoại trai theo ơn gọi linh mục (đang là chủng sinh triết 3 và năm tu đức thuộc ĐCV. Xuân Lộc và ĐCV. Huế), cùng một cháu ngoại gái là ứng sinh Dòng MTG. Tình thương yêu, lòng đạo đức và đức tin mãnh liệt của Mệ Anna, nhất là từ khi Ông về với Chúa, đã ảnh hưởng đặc biệt lên đời sống và ơn gọi của Cha Du: chiến tranh tàn khốc đã cướp đi sinh mạng của người cha thân yêu khi cha Du mới được 6 tháng tuổi, rồi người mẹ yêu dấu tuổi đời còn quá trẻ nên cũng đành bước thêm một bước nữa, thì Mệ Anna đã làm mẹ thêm một lần nữa, chăm sóc nuôi dưỡng cháu nội thơ dại. Mệ và cháu như bóng với hình, luôn quấn quýt bên nhau, khi ăn khi ngủ, khi đi nhà thờ lúc đến trường, cả đến khi khôn lớn làm linh mục rồi lòng Mệ vẫn hằng theo cha bằng tình thương và lời cầu nguyện hôm sớm, và cha Du cũng năng thu xếp công việc mục vụ chạy về thăm Mệ. Giờ đây Mệ ra đi về với Chúa là một mất mát lớn lao cho cha Du, nhưng Mệ và cha cũng đều được mãn nguyện là cha lo được mọi sự cần thiết phần hồn phần xác cho tang lễ của mệ như hôm nay.

Hy vọng khi nhìn về quá khứ với lòng tri ân này sẽ giúp chúng ta, không những con cháu của Mệ Anna mà còn tất cả con dân Hương Lâm nữa, ở đời hay đi tu, sống thật tốt cuộc đời hiện tại và hướng về xây dựng tương lai một cách tốt đẹp hơn. Quả thế, cũng như bao nhiêu bậc tiền bối sống trên mảnh đất cát trắng nghèo khó cằn khô mà Đức Cha Urutia Thi gọi là “họ rú” này, Mệ Anna là cơ hội lời tạ ơn của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn”. Đúng vậy, các thế hệ trưởng thượng nơi đây không được học hành chữ nghĩa bao nhiêu, rất nhiều người còn không biết đọc biết viết, quanh năm làm lụng lam lũ vất vả, nhưng Chúa lại ban cho đức tin mạnh mẽ, đạo đức sốt sắng, hết lòng yêu mến Chúa, phụng sự Chúa và sẵn sàng hy sinh cho con cháu học hành, rồi lại hiến dâng con cháu cho Chúa trong đời sống ơn gọi. Hương Lâm là một giáo xứ thôn quê nghèo khó nhưng có rất nhiều người đi tu ở nhiều Dòng khác nhau, trong cũng như ngoài nước. Nếu mà được bền đỗ cho đến cùng thì đông lắm, song Chúa cũng thương cho được 11 linh mục, năm ba chục nam nữ tu sĩ phục vụ Chúa và Giáo Hội trên mọi cánh đồng truyền giáo, trong đó có 6 vị đã từng là hay đang là Bề trên Dòng, nhiều vị khác cũng nằm trong Ban lãnh đạo hoặc ban đào tạo nhân sự của Dòng.

Nhân lễ an táng Mệ Anna hôm nay, những người đi tu của giáo xứ Hương Lâm mà hầu như gia đình nào cũng có, thậm chí có những gia đình 3, 4, 5 người, chúng ta hãy cám ơn Chúa đã tạo dựng chúng ta từ hư vô thành hiện hữu, lại kêu gọi chúng ta theo Ngài; cám ơn tổ tiên ông bà cha mẹ và gia đình huyết tộc đã sinh thành dưỡng dục chúng ta nên người, rồi quảng đại hiến dâng cho Chúa; cám ơn Mẹ Hội Thánh, Mẹ Giáo phận và Mẹ Hội Dòng, qua các Bề trên hữu trách và các anh chị em, là gia đình thiêng liêng của chúng ta, đã đón nhận, chọn gọi và đào tạo chúng ta nên người của Chúa và người cho tha nhân; cám ơn tất cả mọi người đã, đang và sẽ tiếp tục thông cảm, thương yêu nâng đỡ chúng ta cho đến cuối cuộc đời trần thế.

Còn đối với các thành phần giáo dân, chúng ta hãy lắng nghe lời kêu gọi giáo dân và gia đình của ĐTC Phanxicô trong Tông Thư Năm Đời Sống Thánh Hiến, để sống tích cực hơn với Cha xứ và các chị xứ của mình: “Tôi mời gọi hết mọi người hãy kề vai sát cánh những người tận hiến, để chia vui với họ, để san sẻ những khó khăn của họ, để hợp tác với họ, trong tầm mức có thể được, trong việc thực thi tác vụ và công việc của họ mà cũng là của toàn thể Giáo hội. Hãy giúp họ cảm nhận được lòng ưu ái và thiện cảm của toàn thể dân Chúa… Vì Gia đình và đời sống thánh hiến là những ơn gọi mang lại sự phong phú và ân điển cho mọi người, những không gian kiến thiết các tương quan nhân bản, những nơi loan truyền Tin mừng. Gia đình và đời sống thánh hiến có thể giúp đỡ lẫn nhau… Đời sống thánh hiến là hồng ân cho Giáo hội, phát sinh trong Giáo hội, tăng trưởng trong Giáo hội, và hoàn toàn hướng về Giáo hội… Đời sống thánh hiến không phải là một thực thể lẻ loi, nhưng thuộc về bản chất của Giáo hội, nằm trong tâm điểm của Giáo hội như là yếu tố quyết định của sứ mạng Giáo hội”.

Kính thưa Cộng đoàn Phụng vụ,

Giờ đây, xin cho phép tôi nói với Mệ Anna đôi lời.

Kính thưa Mệ Anna, là một đứa cháu, một thành viên của giáo xứ Hương Lâm và là cha bảo trợ của cha Du, cháu nội của Mệ, con cám ơn Mệ về gương sáng của Mệ cho chúng con noi theo qua từng chặng đường trong đời sống đời thường: là con ngoan, dâu thảo, vợ hiền, mẹ đảm đang, rồi làm mẹ thêm lần nữa tận tình lo cho cháu mồ côi; nhất là trong đời sống tín hữu đạo hạnh, siêng năng kinh lễ, không bao giờ bỏ, dù đường xa tuổi già sức yếu và bệnh hoạn, khi nắng gắt khi mưa rét, luôn hiền hậu và khiêm nhường, để cầu nguyện cho con cháu bà con, cho giáo xứ, cho quê hương. Giờ Mệ đã ra đi, về an nghỉ với Chúa, cảm nhận được ách êm ái và gánh nhẹ nhàng của Chúa, sum họp với Ông, các con cháu và những người thân yêu đã khuất, xin Mệ tiếp tục cầu nguyện cho chúng con còn ở chốn đời nhiều gian khó, chiến đấu trăm bề, được bền vững đức tin và ơn gọi cho đến cùng. Chúng con cám ơn Mệ đã bằng cái chết của Mệ mà nhắc nhở chúng con nhớ đến một ngày nào đó chúng con cũng phải chết, để sống đạo tốt hơn, và an hòa hơn với mọi người. Chúng con xin tạm biệt Mệ nơi đây và hẹn ngày đoàn tụ ở trên nhà cha trên trời. Amen.

Micae-Phaolô Trần Minh Huy, PSS

ƠN CHỮA LÀNH DO MẸ MARIA CHUYỂN CẦU

ƠN CHỮA LÀNH DO MẸ MARIA CHUYỂN CẦU

Trích EPHATA 634

Con là Anna Kiều Thị Phước Hậu, chồng con là Giuse Nguyễn Văn Tiến, xin được kể về ân phúc Mẹ Maria đã cứu sống con gái của chúng con là bé Maria Goretti Nguyễn Kiều Tú Anh.

Bé Tú Anh sinh ngày 6.7.2007. Khi bé vừa tròn 13 tháng, qua siêu âm tại nhiều bệnh viện lớn của Sàigòn, các bác sĩ cho vợ chồng chúng con biết bé bị ung thư thận. Tháng 8 năm 2008, bé phải vào Bệnh Viện Nhi Đồng 2. Ban đầu bác sĩ chẩn đoán sẽ mổ bóc khối u nằm trên thận, nhưng đến khi mổ thì, vì không thể bóc được, bác sĩ phẫu thuật đành phải cắt bỏ luôn quả thận bên trái. Vợ chồng con rất xót xa đau khổ thay cho con mình, chỉ còn biết đến với Chúa cầu nguyện trong phó thác.

Thế rồi thật bất ngờ, chúng con biết được trong khuôn viên Bệnh Viện Nhi Đồng 2, trước đây là Bệnh Viện Grall của quân đội Pháp, sau được đổi tên là Bệnh Viện Đồn Đất, vẫn còn giữ được một tượng đài kính Đức Mẹ ngay bên cạnh ngôi Nhà Nguyện mấy chục năm nay sau biến cố 1975, đã bị chính quyền bắt đóng cửa, không còn có Linh Mục đến dâng Thánh Lễ cho các bệnh nhân và người chăm sóc như trước đây. Vậy là vợ chồng chúng con đã tìm đến với Mẹ Maria để cầu khẩn van nài cho cháu bé Tú Anh được ơn Thiên Chúa cứu chữa nguy tử.

Sau hai tuần nằm hồi sức hậu phẫu, bé Tú Anh được chuyển sang Bệnh Viện Ung Bướu để được hóa trị vì khối u của bé được xác định là u ác. Các bác sĩ ung bướu hội chẩn và báo cho biết bưới thận đang phát triển ở giai đoạn I, sẽ phải điều trị trong khoảng 6 tháng. Hết thời hạn hóa trị, các bác sĩ tái khám và khẳng định trên 90% là Tú Anh đã dứt bỏ được căn bệnh ung thư quái ác. Chúng con vui mừng và tạ ơn Chúa và Mẹ đã thương chữa lành cho bé.

Tuy nhiên, đến giữa tháng 3 năm 2009, khi chưa được tròn 2 tuổi, bé Tú Anh được làm các xét nghiệm sau thời gian hóa trị để chuẩn bị khép hồ sơ, cho bé xuất viện, thì không ngờ, các bác sĩ lại phát hiện có một khối u mới mọc ở quả thận bên phải, ngay chỗ vừa mổ, khối u lớn và dạng nước. Thế là bé lại phải chuyển về Bệnh Viện Nhi Đồng 2 để làm phẫu thuật một lần nữa.

Các bác sĩ Nhi Đồng cho biết ca mổ lần này, khối u cần được bóc tách hết sức thận trọng, nếu sơ ý để vỡ thì nguy hiểm vô cùng. Đến lúc này cả đôi bên nội ngoại đều suy sụp tinh thần, không ai nghĩ bé có thể qua khỏi. Riêng vợ chồng chúng con thì khủng hoảng, xót xa thẫn thờ, chẳng còn biết làm gì ngoài việc ngồi khóc lóc bên tượng Mẹ.

Có lúc nhìn thấy bé Tú Anh đau đớn quá, con là mẹ của bé đã xin khấn với Mẹ Maria, nếu được hãy đổi mạng sống của chính con cho bé, cứu thoát bé khỏi nỗi khốn khổ đang phải chịu từng giờ từng phút. Còn cha của bé, hằng ngày anh đi làm, đến chiều lại vào ngay bệnh viện, cứ hai ba ngày lại mua hoa mang đến tượng đài Mẹ rồi đọc kinh cầu nguyện miên man.

Khoảng thời gian bé Tú Anh lên bàn mổ, chúng con lại càng kêu khấn tha thiết. Đến khi bé được chuyển sang phòng Hồi Sức, chúng con được bác sĩ cho biết khi mổ, khối u bị vỡ, bé lại bị thiếu máu trầm trọng, may sao bé đã vượt qua được cơn nguy tử một cách lạ lùng.

Đến ngày 1.6.2009, do khối u lại tái phát, bé Tú Anh được chuyển qua Bệnh Viện Ung Bướu một lần nữa để xạ trị và hóa trị liên tục. Vợ chồng chúng con lại hết lòng phó thác khẩn nguyện xin Mẹ Maria phù hộ, cầu bầu cùng Chúa ơn chữa lành cho đứa con bé bỏng tội nghiệp, chưa tròn hai tuổi mà đã phải trải qua các cuộc đại phẫu và những cơn đau đớn vượt cả sức chịu đựng của người lớn.

Thời gian thử thách cho bé, và cho cả gia đình chúng con kéo dài thêm gần 2 năm nữa cho đến khi hoàn tất phác đồ điều trị 18 tháng. Bé Tú Anh luôn bị thiếu tiểu cầu nghiêm trọng, rụng hết tóc trên đầu, thường xuyên phải chuyển từ bên điều trị sang khoa Cấp Cứu của Bệnh Viện Ung Bướu.

Cuối cùng, ngày 26.4.2011, bé Tú Anh được xuất viện trong thể trạng và tinh thần hoàn toàn bình phục, gây ngỡ ngàng cho bên bệnh viện về sức chịu đựng và khả năng hồi sinh của bé, chỉ riêng gia đình chúng con hiểu được vậy là chính Mẹ Maria, ngang qua sự tận tâm tận lực của các y bác sĩ, đã cứu được đứa con yêu dấu của chúng con khỏi căn bệnh nan y và tử thần quái ác.

Đến hôm nay, khi con viết kể lại những dòng chữ này, bé Maria Goretti Nguyễn Kiều Tú Anh đã được 7 tuổi, đang học lớp Một, khỏe mạnh, thông minh, ngoan ngoãn, ở Nhà Thờ đặc biệt giỏi Giáo Lý, và ở nhà đã biết cách cầu nguyện đơn sơ với Chúa và Đức Mẹ.

Gia đình chúng con xin cúi đầu hết lòng tạ ơn Thiên Chúa, biết ơn Mẹ Maria đã thương chuyển cầu ơn chữa lành cho con của chúng con, cũng là thay đổi hẳn cuộc đời tin và sống đạo của mỗi người trong gia đình chúng con. Amen.

Anna KIỀU THỊ PHƯỚC HẬU, ghi lại, Bình Dương 4.2014
Lm. Giuse LÊ QUANG UY, DCCT, biên tập, Sàigòn 11.2014

HỒNG ÂN SỰ SỐNG

HỒNG ÂN SỰ SỐNG

Trích EPHATA số 634

Vợ chồng con học khóa Giáo Lý Hôn Nhân Agape 25 với cha Quang Uy tại DCCT Sàigòn từ giữa tháng 10 năm 2011. Hôm nay con xin kể lại câu chuyện về ơn lành của Thánh Giêrađô và Mẹ Maria Hằng Cứu Giúp đã ban cho bé Phương Vy, con gái đầu lòng của chúng con. Trước đó, mấy năm liền hiếm muộn, vợ chồng con đã từng đến DCCT Sàigòn, cầu xin Mẹ Maria và Thánh Giêrađô cho con sớm có em bé, và không lâu sau đó, con được nhậm lời và đã có thai bé Cecilia Cao Nguyễn Phương Vy…

Đến ngày 7.8.2014, tính ra bé đã sinh được 1 tháng 2 ngày. Sáng hôm đó bé sốt cao 38 độ, con ẵm bé đi bác sĩ tư cho uống thuốc nhưng không bớt mà sốt càng cao hơn. Bé rên rỉ mệt mỏi, nên đến khuya, vợ chồng con nóng ruột quá vội đưa bé đi Bệnh Viện Nhi Đồng 2, nhập viện 1g30 khuya. Y tá đo nhiệt 39 độ, đưa viên thuốc nhét hậu môn cho hạ sốt, rồi kêu vợ chồng con ẵm ra ngoài lau nước ấm toàn thân bé. Sau một hồi lâu, bé vẫn không bớt sốt mà lại càng sốt cao thêm, lên đến 39 – 40 độ. Bác sĩ cứ bảo lau nước ấm mà không cho thêm thuốc hạ sốt gì hết.

Đến lúc bé sốt 40 độ thì khắp người nổi bông tím hết, vợ chồng con hoảng quá, chồng con không kềm được nữa, mới la toáng lên với bác sĩ: “Nếu con tôi sốt vậy mà ở nhà lau nước ấm cho hạ sốt thì tôi để ở nhà lau cũng được, chứ ẵm vô đây làm chi cho khổ ?” Lúc đó bác sĩ mới chịu khám bé lại và cho thêm viên thuốc nhét hậu môn. Thế nhưng bé chỉ hạ sốt được nửa tiếng rồi sốt lại ngay. Bác sĩ bảo phải đi xét nghiệm máu, và bé cứ sốt cao như vậy cho đến sáng mà bác sĩ vẫn không can thiệp gì, cũng chẳng đưa ra giải pháp nào hết.

Sáng lại thì có hai bác sĩ khác vào khám cho bé và nói tình trạng của bé nguy hiểm, nên đưa bé vào cấp cứu, đo điện tim và cách ly không cho cha mẹ vào. Nằm cách ly đến trưa thì y tá nói mẹ vào mặc đồ lại cho bé và chuyển qua khoa khác, nhưng vẫn phải nằm cấp cứu, dù lúc này bé giảm sốt còn 38 độ mấy thôi. Bác sĩ kêu con ra nói chuyện: bé sốt cao lắm nên nghi ngờ bé bị viêm màng não và nhiễm trùng máu, cần phải cho bé đi lấy tủy và bắt đầu chích kháng sinh… Đến hết ngày hôm đó bé vẫn chưa hạ sốt.

Sáng hôm sau, bác sĩ khám lại, nói bé không phải bị viêm màng não mà là bị viêm phổi và nghi ngờ bé bị sốt gì đó, con không nhớ rõ tên mà ở Việt Nam chưa có ai bị, chỉ có ở nước ngoài mới bị thôi. Nghe xong, tay chân con bủn rủn, con hoảng quá vội điện thoại cho em gái của con tới ngay Nhà Thờ DCCT Kỳ Đồng đọc kinh cầu nguyện với Mẹ Maria Hằng Cứu Giúp và Thánh Giêrađô.

Và thật không ngờ, đến trưa thì bé đỡ sốt, sáng hôm sau thì hết hẳn. Bác sĩ đọc kết quả xét nghiệm cũng thông báo bé không bị sốt giống như bệnh sốt bên nước ngoài. Ở bệnh viện một tuần, ngày nào bé cũng phải chích kháng sinh 3 lần, bé lại bị lây thêm bệnh ho hen khò khè của một bệnh nhi khác trong phòng cấp cứu. Tổng cộng bé đã phải nằm tới mười mấy ngày sau đó, bác sĩ mới cho xuất viện. Chính các bác sĩ và y tá cũng không hiểu do đâu mà bé hết sốt và phục hồi, chỉ có vợ chồng chúng con là xác tín tất cả nhờ ơn Chúa, Mẹ Maria Hằng Cứu Giúp, Thánh Giêrađô đã cứu cháu khỏi cái chết cận kề.

Mẹ của bé PHƯƠNG VY, 9.2014

Bài giảng của Lm. Giuse Nguyễn Văn Toản.DCCT

Kính chào ông bà và anh chị em, cách riêng, kính chào ông bà và anh chị em không phải là người Công Giáo đang tham dự Thánh Lễ cầu nguyện cho Công Lý và Hòa Bình hôm nay.

Đoạn Tin Mừng theo Thánh Máccô chúng ta vừa nghe đọc trong Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng hôm nay, có tới 5 cụm từ “phải tỉnh thức”, “phải canh thức” được lặp đi lặp lại trong lời giáo huấn của Chúa Giêsu. Và đó cũng là cụm từ chìa khóa cho bài Tin Mừng hôm nay. Đó là sứ điệp chính mà Chúa Giêsu gửi tới, không chỉ cho các môn đệ của Ngài, không chỉ cho mỗi người chúng ta, nhưng còn cho mọi người, như chính lời Chúa Giêsu nói: “Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là ‘phải canh thức’.”

Phải canh thức! Vâng, kính thưa ông bà và anh chị em. Đức Giêsu nhắc nhở mọi người phải canh thức, bởi vì: Anh em không biết giờ Con Người đến. Anh em phải canh thức, vì anh em không biết thời tận cùng của thế giới thụ tạo này. Anh em phải canh thức, phải tỉnh thức vì anh em không biết thời tận cùng của đời anh em – ngày anh em sẽ trút hơi thở cuối cùng, bỏ lại mọi thứ để ra đi với hai bàn tay trắng. Do đó, anh em phải canh thức! Anh em phải tỉnh thức!

Linh mục Giuse Nguyễn Văn Toản, Dòng Chúa Cứu Thế

Đức Giêsu đang nhắc nhở mọi người về thực tại của thế giới thụ tạo này, trong đó, thân phận con người cũng như thế giới này thật hữu hạn. Thế giới này, trong đó có con người chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định. Chỉ có Thiên Chúa – Đấng Tạo Hóa, Ngài mới là vĩnh cửu và chỉ có Ngài mới là chủ của vạn vật lịch sử. Con người chỉ là phàm nhân trước mặt Thiên Chúa, như lời tác giả sách Thánh Vịnh thưa lên:

“Nào phàm nhân sống mãi được sao?

Mà chẳng phải đến ngày tận số?

Kìa họ lấy tên mình mà đặt cho miền này xứ nọ,

Nhưng ba tấc đất mới thật là nhà,

Nơi họ ở muôn đời muôn kiếp” (Tv 49).
Vâng, kính thưa ông bà và anh chị em, những lời ấy cho ta cảm tưởng, tác giả sách Thánh Vịnh đang quá bi quan về thân phận con người. Nhưng không! Hôm nay, Đức Giêsu Ngài đã nhắc nhở và cho ta biết về thân phận thật của thụ tạo, của mỗi người chúng ta: Con người, như người đầy tớ chờ đợi ông chủ trở về. Ông chủ ấy chính là Thiên Chúa. Thiên Chúa, Ngài sẽ đến gặp chúng ta trong ngày tận cùng của thế giới này, trong ngày tận cùng của đời ta. Con người, bất kể họ là ai, họ sẽ phải đối diện với cái chết. Khi ấy là lúc mà ông chủ là Thiên Chúa trở về – lúc ấy, ngày ấy thật bất ngờ, không ai biết trước được. Do đó, chúng ta được mời gọi: Hãy canh thức! Hãy tỉnh thức!

Canh thức, tỉnh thức thế nào đây. Có nghĩa là đừng có ngủ, đừng có ngủ mê! Nhưng chắc chắn Đức Giêsu không nói tới cái thức, cái ngủ về thể lý. Vậy, Đức Giêsu nhắc nhở phải canh thức điều gì, phải tỉnh thức ra sao? Thưa ông bà và anh chị em!

Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe đọc hôm nay, nằm trong trình thuật Đức Giêsu đang ở thành Giêrusalem và Ngài nói về ngày sụp đổ của thành, cũng như Ngài nói về ngày tận thế – ngày tận cùng của thế giới này.

Khi nhắc mọi người phải canh thức, phải tỉnh thức, trước đó, Đức Giêsu đã nhắc: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị người ta lừa gạt. Sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính Ta đây! và họ sẽ lừa gạt được nhiều người.” Sau đó, Ngài cảnh báo: “Trước khi ngày tận cùng đến, người ta sẽ nộp anh em cho các hội đồng; tại các hội đường, anh em sẽ bị đánh đòn, anh em sẽ phải ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ được biết”. Ngài nói tiếp: “Anh em đừng sợ, đừng lo phải nói gì”. Cũng trong trình thuật này, Tin Mừng thánh Luca còn viết thêm: khi điều đó xảy đến, “Anh em hãy ngẩng đầu và đứng vững”.

Vâng, kính thưa cộng đoàn, thái độ canh thức, tỉnh thức trước tiên mà Chúa Giêsu mời gọi mọi người là: “hãy coi chừng, kẻo bị người ta lừa gạt”. Chúa Giêsu cho biết: Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Ngài nói với tổng trấn Philatô, Ngài đến để làm chứng cho sự thật: “Chính vì lẽ này mà tôi đã sinh ra, và chính vì lẽ này mà tôi đã đến trong thế gian: ấy là để làm chứng cho sự thật. Phàm ai thuộc về sự thật, thì nghe được tiếng tôi”. Do đó, phủ nhận sự thật, bóp méo sự thật để đi trong sự giả trá, để lừa gạt là chống lại Thiên Chúa, chống lại Đấng Tạo Hóa.

Trong môi trường chúng ta đang sống, trong xã hội của chúng ta đã và sẽ có những người, những nhóm người nhân danh Tin Mừng để lừa gạt người khác. Đã và đang có nhóm người dùng mọi chiêu bài để bóp méo lịch sử, lừa gạt người dân, lừa gạt nhiều thế hệ, kéo cả một dân tộc đi vào con đường sai lầm.

Chúng ta đang sống trong một xã hội lấy chủ thuyết cộng sản – chủ thuyết đặt trên nền tảng của gian dối, lừa gạt:

Sau một thời gian đã biết thế nào là xã hội chủ nghĩa, thế nào là cộng sản: Mikhail Gorbachyov, nguyên Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Bang Sô Viết nói: “Tôi đã bỏ một lửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Hôm nay tôi đau buồn mà nói rằng, đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”.

Đã có kinh nghiệm sống trong xã hội cộng sản Đông Đức, Thủ tướng Đức đương thời, bà Angela Merkel nói: “Cộng Sản đã làm cho người dân trở thành gian dối”.

Tổng Thống Nga đương nhiệm, ông Putin nói: “Ai tin Cộng Sản, là không có cái đầu. Ai làm theo lời của Cộng Sản, là không có trái tim.”

Kính thưa ông bà và anh chị em, những con người sống trong xã hội được coi là khai sinh ra chủ nghĩa cộng sản, họ đã phải tuyên bố về nó như thế. Dân tộc của họ đã từ bỏ chủ nghĩa Cộng Sản, cho nó vào quá khứ để đi con đường văn minh, chân thật hơn.

VIỆT NAM

Tại Việt Nam, chủ nghĩa cộng sản đã thống trị hơn một nửa thế kỷ tại Miền Bắc và gần 40 năm tại Miền Nam này. Người dân đã và vẫn đang bị lừa gạt, bao thế hệ đã và đang sống trong sự dối trá.

Vâng, nếu tôi và bao bao bạn trẻ, tôi tin rằng, có nhiều nhiều bạn đang ngồi trong ngôi nhà thờ này không được tiếp xúc với sự thật lịch sử từ các trang mạng internet; nếu thế hệ trẻ không được đọc những tác phẩm như: Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên, Nhật Kỳ một Thằng Hèn của nhạc sĩ Tô Hải; Bên Thắng Cuộc của nhà báo Huy Đức, Đèn Cù của Trần Đĩnh; Và nếu thế hệ trẻ ngày nay không được các thế hệ cha ông mình kể lại, không lắng nghe những người trong cuộc nói cho biết, thì bản thân tôi, bao người trẻ đã và vẫn còn bị lừa gạt nhiều điều.

Chúng tôi bị lừa gạt về cái gọi là thắng lợi 30-4-1975. Nếu không biết đâu là sự thật thì người ta vẫn tin rằng: Đồng bào Miền Nam đói khổ, bị chính quyền bù nhìn câu kết với Đế Quốc Mỹ đàn áp, bóc lột người dân tới tận xương tủy. Đồng bào Miền Bắc hãy làm cuộc giải phóng cho đồng bào Miền Nam…

Nếu người dân không được tiếp xúc với những nguồn tin lề trái, mà chỉ đọc, chỉ nghe, chỉ nhìn những gì đảng cho đọc, đảng cho nghe, đảng cho thấy thì cứ tưởng rằng, Hoàng Sa, Trường Sa vẫn nguyên vẹn thuộc quyền sử dụng của Việt Nam. Sự thật là người ta đã để cho Trung Cộng chiếm gần hết. Người ta cứ tin rằng, Đất nước ta từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau. Sự thật là Ải Nam Quan nay không còn. Hàng km đất biên giới phía Bắc đã cho Trung Cộng thuê với thời hạn cả 50 năm trở lên.

Và nếu ta không chịu tìm hiểu, không phóng tầm mắt ra các nước xung quanh, các nước Phương Tây, nhiều người vẫn còn bị lừa gạt rằng: Chủ nghĩa Tư Bản đang giãy chết. Chủ nghĩa Tư bản độc ác. Các ông chủ Tư bản bóc lột người lao động như vắt chanh bỏ vỏ; còn chủ nghĩa xã hội là đỉnh cao trí tuệ của loài người… Chủ nghĩa xã hội là khoa học, là tiến bộ…

Kính thưa ông bà và anh chị em,

Có thể tôi và nhiều anh chị em chúng ta ngồi đây, đã biết, đã không bị lừa gạt bởi những gì chủ nghĩa cộng sản tuyên truyền. Có thể tôi và anh chị em không là nạn nhân, nhưng rất, rất có thể chúng ta lại trở thành người đã để cho sự giả dối, lừa gạt đi vào trong suy nghĩ, hành động của mình. Sống trong một xã hội lấy chủ nghĩa giả dối, lừa gạt làm nền tảng thì có thể chúng ta đã bị ảnh hưởng bởi điều đó. Chúng ta thấy tình trạng học giả lấy bằng thật, làm giả lấy công thật, làm hàng giả, bán hàng giả… trong lãnh vực nào cũng có cái giả.

Một xã hội đặt trên nền tảng của sự lừa lọc, giả dối để rồi cả xã hội ấy người người làm giả, nói dối. Nói như nhạc sĩ Tô Hải viết trong cuốn Nhật Ký Thằng Hèn của ông: “tao, mày, nó, chúng tôi, các anh, chúng nó… đều làm dối, nói dối, khen nhau dối, và từ trên xuống dưới đều dối nhau là “Đừng có nói… đó là… nói dối!” Hay như đại tá, nhà văn Nguyễn Khải thú nhận trong tùy bút “Đi tìm cái tôi đã mất”: “Người Cộng Sản nói dối lem lém, nói dối lì lợm. Nói dối không hề biết xấu hổ, không hề run sợ. Người dân vì muốn sống còn cũng phải nói dối theo.”

Kính thưa ông bà và anh chị em,

Chúa Giêsu Ngài là sự thật, Ngài đến làm chứng cho sự thật và phàm ai thuộc về sự thật, thì nghe được tiếng Ngài”. Hôm nay, Chúa Giêsu cảnh báo mọi người: “Anh em hãy coi chừng, kẻo bị người ta lừa gạt.”

Đừng để cho người ta lừa gạt để rồi phải sống trong sự giả dối. Đừng để sự giả dối đi vào trong suy nghĩ, hành động của mình mà trở thành kẻ lừa gạt người khác. Đó là thái độ sống tỉnh thức trước tiên Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hôm nay.

Thái độ sống tỉnh thức kế tiếp Chúa Giêsu mời gọi ta, đó là: “Đừng sợ!”

Đức Giêsu cảnh báo: “Phần anh em, anh em hãy coi chừng! Người ta sẽ nộp anh em cho các hội đồng; tại các hội đường, anh em sẽ bị đánh đòn; anh em sẽ phải ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ được biết”. Nhưng “anh em đừng sợ đừng lo phải nói gì”.

Có nhiều nỗi sợ hãi trong cuộc đời ta, nhưng có nỗi sợ đến từ sự đe dọa, bắt bở, đàn áp, bỏ tù của những kẻ mạnh, của những người có chức có quyền, có vũ lực trong tay.

Một trong cách thức mà chế độ Cộng Sản ở đâu cũng áp dụng, đó là làm cho người dân luôn sống trong nỗi sợ hãi. Nhà cầm quyền đã dùng người dân để theo dõi nhau, người này theo dõi người kia, nhà này theo dõi nhà nọ. Dẫn đến mất niềm tin, nghi ngờ nhau, mang đến nỗi sợ hãi để rồi chỉ còn làm cách lén lút, dù điều đó là điều tốt.

Chính quyền dùng bạo lực, dùng nhà tù để tạo nên nỗi sợ hãi cho người dân. Để rồi người dân chỉ còn biết nghe theo, làm theo; dù lương tâm cho biết, đó là điều trái với đạo lý, trái đức tin của mình.

Điều này không chỉ xảy ra trong xã hội chúng ta trước đây, mà ngày nay, hiện tại vẫn đang xảy ra: Nhà cầm quyền dùng người dân theo dõi người dân. Dùng những người ăn không ngồi rồi, theo dõi người bất đồng chính kiến… Dùng nhiều cách thức khác nhau để mang đến nỗi sợ hãi: triệt hạ kinh tế, sách nhiễu gia đình, khủng bố tinh thần, thể xác; giả dạng côn đồ đánh đập, bắt bớ bỏ tù… Tạo ra nỗi sợ hãi cho những người bất đồng chính kiến, những người bằng đường lối ôn hòa, muốn dấn thân thúc đẩy tự do, dân chủ, công bằng, đa nguyên đa đảng cho Việt Nam.

Nhà cầm quyền làm cho người dân sợ hãi đến nỗi có người không dám nói tới hai từ “chính trị”, không dám bàn tới chính trị. Những cụm từ: dân chủ, quyền con người, đa nguyên đa đảng… trở thành những cụm từ kỵ. Kỵ không phải vì điều gì khác mà kỵ vì quá sợ, vì sợ hãi.

Sợ hãi trước sự thật đang xảy ra cho dân tộc, sợ hãi không còn dám liên đới, lên tiếng cho những con người nghèo khổ đang bị gạt ra bên lề xã hội, đang chịu bao cảnh nỗi oan khiên. Điển hình là những vụ việc xảy ra được nêu lên trước thánh lễ mà Cha Thoại đã nêu lên: vụ việc của nhà báo Trương Minh Đức, giảng viên Phạm Minh Hoàng, người ta hành hung, đe dọa; đến cả ông Tổng lãnh sự Pháp người ta còn kẹp cổ ông… nhằm đe dọa ông.

Vụ án nhiều mờ ám của anh Hồ Duy Hải, và phiên tòa sắp tới ngày 12.12 xử bà Bùi Minh Hằng, hay việc lên tiếng cho tình trạng bị tù oan sai của anh Đặng Xuân Diệu, Hồ Đức Hòa, của luật sư Lê Quốc Quân, chị Tạ Phong Tần, ông Trần Huỳnh Duy Thức… và nhiều vụ việc khác nữa.

Vâng, nhiều người dân biết đó, biết họ chỉ lên tiếng những vấn đề của đất nước, lên tiếng cách ôn hòa nhằm thúc đẩy tự do, dân chủ, nhân quyền, thúc đẩy những điều tốt đẹp cho Việt Nam nhưng đã bị nhà cầm quyền xử cả chục năm tù giam. Biết đó, nhưng sợ! Sợ nhà cầm quyền. Nhà cầm quyền làm cho người dân sợ hãi đến nỗi không dám lên tiếng, không dám nói tiếng nói của lương tâm,  của lương tri, không dám lên tiếng, không dám liên đới với anh chị em của mình.

Kính thưa ông bà và anh chị em,

Trong ngày Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng hôm nay, Chúa Giêsu trấn an ta: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.” Và Ngài cũng nói với chúng ta, nói cho những ai thành tâm thiện chí: “Phúc cho những ai chịu bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”.

Chúng ta cám ơn Chúa, vì đã và đang ngày càng có nhiều người vượt qua nỗi sợ hãi để có thể bày tỏ chính kiến, quan điểm của mình cách công khai về các vấn đề trong xã hội Việt Nam. Họ đã và sẵn sàng chịu sự sách nhiễu, hành hung, trấn áp, ngồi tù bởi nhà cầm quyền, để có thể nói điều lương tâm, lương tri mách bảo.

Cám ơn Chúa, vì đã có bao thế hệ cha ông chúng ta là các thánh tử đạo Việt Nam đã trung kiên với đức tin mình lãnh nhận, dù các ngài có gặp gian nan khốn khó; dù các ngài có bị bắt bở, chịu bỏ tù, dù có phải hy sinh mạng sống mình, các ngài đã vượt lên nỗi sợ hãi để sống đức tin, làm chứng cho đức tin – đức tin chân thật mà các ngài đã lãnh nhận.

Kính thưa ông bà và anh chị em,

Hôm nay là ngày cuối cùng trong tháng mà Hội thánh mời gọi con cái mình nhớ tới các bậc tiền nhân đã qua đời, để cầu nguyện cho các ngài. Lúc này đây, tôi nhớ tới hình ảnh của cha Giuse Vũ Ngọc Bích và thầy Marcel Nguyễn Tấn Văn trong Nhà Dòng chúng tôi. Năm 1954, khi người dân Miền Bắc ồ ạt chạy vào Nam để trốn chế độ cộng sản, thì cha Giuse Vũ Ngọc Bích và Thầy Marcel Văn đã can đảm tình nguyện từ Nam trở ra Bắc.

Cha Giuse Vũ Ngọc Bích đã âm thầm, chịu bao đau khổ để giữ đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, cơ sở của DCCT, nhờ vậy mà DCCT còn có cơ sở tại Hà Nội như ngày hôm nay.

Đối với thầy Marcel Nguyễn Tấn Văn. Sau khi vừa ra Hà Nội, trong một lần ra ngoài phố, tình cờ thầy nghe vài người đang nói những điều sai sự thật về xã hội Miền Nam. Thầy Văn đã tiến lại nói với họ: Điều các ông vừa nói không đúng sự thật. Tôi sống trong đó, mới từ trong đó ra nên tôi biết rõ Miền Nam. Thầy Marcel Văn không phải không biết sự nguy hiểm khi nói những điều ấy, nhưng thầy đã vượt qua nỗi sợ hãi để làm chứng cho sự thật. Thầy Macen Văn đã bị bắt đem đi và chết trong nhà lao Yên Bình thuộc tỉnh Yên Bái vào năm 1959.

Kính thưa ông bà và anh chị em,

Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng hôm nay, ngày chúng ta cầu nguyện cho Công Lý Hòa Bình trên quê hương đất nước chúng ta, Lời Chúa nhắc nhở mọi người: Phải canh thức, phải tỉnh thức! Phải canh thức, tỉnh thức bởi sự hữu hạn của thế giới thụ tạo; bởi mỗi người chúng ta sẽ có ngày gặp lại ông chủ của mình là Thiên Chúa.

Và thái độ canh thức, tỉnh thức mà hôm nay Chúa Giêsu mời gọi đó chính là hãy cẩn thận, đừng để bị lừa gạt: đừng để rơi vào tình trạng biến cái xấu thành tốt, cái giả thành thật, cái sai thành đúng! Thiên Chúa, Ngài là Đấng chân thật và Ngài mời gọi ta đi trong đường lối chân thật.

Ta được mời gọi “đừng sợ”. Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn ta. Hãy đứng vững và ngẩng đầu lên, bởi sự sống, sự chết của chúng ta nằm trong tay Thiên Chúa. Thiên Chúa mới là người xét xử ta. Hãy can đảm sống Đức Tin, sống những giá trị của Tin Mừng. Đừng để cho nỗi sợ biến chúng ta thành những người thờ ơ trước nỗi đau khổ của anh chị em mình, trước vận mạng của dân tộc. Đừng để nỗi sợ hãi biến chúng ta thành những người đánh mất lương tri mà Thiên Chúa – Đấng Tạo Hóa đã ban cho chúng ta.

Nguyện xin Chúa Giêsu, Đấng đã nhắc nhở ta phải canh thức, phải tỉnh thức; xin Ngài ban cho ta ơn khôn ngoan, lòng can đảm, vượt qua nỗi sợ hãi để ta có thể sống trong sự thật và biết làm chứng cho sự thật giữa xã hội mà ta đang sống hôm nay. Amen!

Lm. Giuse Nguyễn Văn Toản.DCCT

Xem Thánh Lễ Công Lý & Hòa Bình DCCT Sài Gòn – 30.11.2014

httpv://www.youtube.com/watch?v=VkerMhD0gqs


Chuyện Cha Trương Bửu Diệp

Chuyện Cha Trương Bửu Diệp

Đoàn Dự

Thưa quý bạn, Bạc Liêu là một tỉnh nhỏ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nhưng có nhiều chuyện nổi tiếng, như về lúa gạo, về muối, về nhãn, về… Công tử Bạc Liêu (1900-1973) trong thời Pháp thuộc, về vụ án Đồng Nọc Nạn của những năm 1928-1930, và về ngôi nhà thờ họ Tắc Sậy với sự linh ứng của Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, mà gần đây cả trong nước lẫn ngoài nước ai cũng biết.

Tôi không phải là người Công giáo, hơn nữa lại là một giáo viên (ngày trước gọi là giáo sư trung học) có đầu óc khoa học và ưa chuộng thực tế hơn là những sự tin tưởng mang tính siêu hình. Tôi đã từng dạy học tại Bạc Liêu suốt 6 năm trời (1965-1971) và học trò của tôi tại các huyện Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Phước Long, Giá Rai v.v… đông lắm, chúng tôi thường xuống dưới đó chơi. Tôi rất quen thuộc với cái huyện (ngày trước gọi là quận) Giá Rai có ngôi nhà thờ nhỏ tí Tắc Sậy lợp tôn, nằm bên cạnh lộ sau khi đi qua ngôi chợ cũng nhỏ như vậy của thị trấn Hộ Phòng – thị trấn củahuyện Giá Rai – khoảng một cây số.

Bây giờ, trong thời buổi CS này, nhà thờ Tắc Sậy tự nhiên nổi tiếng do sự linh thiêng “ai đến khấn nguyện điều gì đều được” của Cha Diệp. Có điều tôi muốn thưa với quý bạn rằng Nhà thờ Tắc Sậy huyện Giá Rai thuộc tình Bạc Liêu chứ không phải thuộc tỉnh Cà Mau. Tất cả các tài liệu đều ghi Bạc Liêu nhưng dân chúng thường nói Ca Mau bởi vì sau năm 1975, khi Cha Trương Bửu Diệp bắt đầu nổi tiếng thì Bạc Liêu thuộc về Cà Mau, kết hợp với tỉnh Cà Mau thành tỉnh Minh Hải, người ta quen gọi là Cà Mau chứ ít khi gọi là Minh Hải. Ngoài ra, Nhà thờ Tắc Sậy nằm trên đường Bạc Liêu đi Cà Mau, cách Bạc Liêu 37 cây số trong khi chỉ cách Cà Mau có 20 cây số nên mọi người dễ bị lầm.

Quý bạn hỏi vậy thì đối với những chuyện đồn đại, bản thân Đoàn Dự tin hay không tin? Tôi xin trả lời rằng tôi không dám nói tin hay không tin, nhưng theo tôi nghĩ, Nhà thờ Tắc Sậy là một ngôi nhà thờ rất nhỏ – nhỏ không thể nào nhỏ hơn được nữa – lại nằm trong một thị trấn cũng nhỏ, đồng không mông quạnh, ở phần gần như cuối cùng đất nước, cách Sài Gòn tới hơn 300 cây số, vậy mà nay được xây dựng thành một cơ ngơi to lớn, hiện đại, nguyên tiền xây cất đã hơn 59 tỉ đồng, tức gần 3 triệu đô-la, ấy là chưa kể các pho tượng 12 vị thánh tông đồ lớn gấp 2 hay 3 lần người thật, toàn bằng gõ đỏ tức loại gỗ quý hiện nay không còn có ở Việt Nam (nhưng còn có ở Campuchia và Lào) mà theo tôi biết, giá mỗi pho tới vài trăm triệu đồng, vậy thì tiền “nội thất” cũng tới hàng triệu đô-la. Toàn là do khách thập phương, lương cũng như giáo, nhất là Việt Kiều tại các nước gửi tới t ơncả. Phải có cái gì đó thiêng liêng và đầy tin tưởng người ta mới dâng hiến lên Cha như thế! Mặt khác tôi cũng nghĩ, khi bị bắt cùng với 70 người vừa chức sắc vừa giáo dân trong họ đạo, Linh mục Phanxicô Trương Bửu Diệp đã hy sinh tính mạng của mình để cứu họ. Sau khi qua đời, ngài hiển linh ban ơn cho người này người kia, “ai xin thì cũng đều được”. Rồi bây giờ mọi người dâng lễ tạ ơn ngài, biến ngôi nhà thờ nhỏ xíu của ngài thành nơi khang trang, hiện đại. Tất cả những việc đó đều là tình người. Đối với tôi, bất cứ cái gì thuộc về tình người đều đáng ca ngợi.

Quý bạn cũng hỏi những chuyện về Cha Diệp thì ai cũng biết, tại sao tôi còn thuật lại? Xin thưa, tính tôi vẫn thế, không kể thì thôi, đã kể là rất chi tiết. Tôi sợ quý bạn tuy biết nhưng biết từng mảng, không thành hệ thống. Bây giờ tôi xin tường thuật từ đầu đến cuối thật rõ để quý bạn hiểu, xin mời quý bạn xem xét…

* * *

Tiểu sử Linh mục Trương Bửu Diệp

Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp sinh ngày 01-01-1897, một tháng sau được Cha Giuse Sớm rửa tội ngày 02-02-1897 tại họ đạo Cồn Phước, nay thuộc ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

Cha ngài là Micae Trương Văn Đặng. Mẹ ngài là Lucia Lê Thị Thanh. Gia đình sinh sống tại họ đạo Cồn Phước tỉnh An Giang.

Năm 1904, lúc ngài 7 tuổi thì mẹ mất. Cha ngài dời gia đình lên Battambang bên Campuchia, sinh sống bằng nghề thợ mộc. Tại đây, thân phụ ngài tục huyền với bà Maria Nguyễn thị Phước, sinh năm 1890, quê gốc tại Mỹ Luông, Chợ Mới, An Giang. Kế mẫu đã sinh cho ngài người em gái tên là Trương thị Thìn (1913), hiện còn sống tại họ đạo Bến Dinh, xã Tân Hòa, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp.

Năm 1909, cha Phêrô Lê Huỳnh Tiền gửi ngài vào Tiểu chủng viện Cù lao Giêng, xã Tấn Mỹ, Chợ Mới tỉnh An Giang. Học xong tại Tiểu chủng viện, ngài lên Đại chủng viện Nam Vang, Campuchia, (lúc đó các họ đạo An Giang, Châu Đốc, Hà Tiên trực thuộc giáo phận Pnom Penh, Campuchia).

Năm 1924, sau thời gian tu học, ngài được thụ phong linh mục tại Nam Vang dưới thời Đức Cha Chabalier người Pháp. Lễ vinh quy và mở tay được tổ chức tại nhà người cô ruột là bà Sáu Nhiều, tại họ đạo Cồn Phước.

Từ năm 1924-1927, ngài được bề trên bổ nhiệm làm Cha phó họ đạo Hố Trư, một họ đạo của người Việt sinh sống tại tỉnh Kandal, Campuchia. Từ năm 1927-1929, ngài về làm giáo sư tại Tiểu chủng viện Cù lao Giêng tỉnh An Giang.

Tháng 03 năm 1930, ngài về trông nom họ đạo Tắc Sậy, quận Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Trong những năm làm cha sở, ngài quan hệ, giúp đỡ, thành lập nhiều họ đạo khác tại các vùng phụ cận như: Bà Đốc, Cam Bô, An Hải, Đầu Sấu, Chủ Chí, Khúc Tréo, Đồng Gò, Rạch Rắn.

Hoàn cảnh xã hội nhiễu nhương những năm 1945-1946, chiến tranh loạn lạc, bà con nhân dân di tản, Cha Bề Trên địa phận Bạc Liêu là Phêrô Trần Minh Ký và cả các cha người Pháp cũng khuyên ngài lên Bạc Liêu lánh mặt, khi nào tình hình yên ổn thì sẽ trở lại họ đạo Tắc Sậy, nhưng ngài trả lời: “Tôi sống giữa đàn chiên và nếu có chết cũng chết giữa đàn chiên, không đi đâu cả”.

Ngày 12-03-1946, ngài bị bắt cùng với trên 70 chức sắc và giáo dân tại họ đạo Tắc Sậy, bị lùa đi và nhốt tại lẫm lúa nhà ông giáo Sự ở Cây Dừa. Người ta định giết tất cả nhưng ngài nói chính ngài là chủ chăn các con chiên đó, vậy xin chết thay cho các con chiên của ngài. Họ chấp nhận. Mọi người được thả còn ngài thì bị đem đi thủ tiêu.

Những người trong họ đạo kể rằng đêm hôm ấy ngài về báo mộng cho các vị chức sắc trong họ đạo biết chỗ họ ném xác ngài, trong cái ao nhà ông giáo Sự. Các vị đến nơi được báo mộng thì vớt được xác ngài đã b cht đầu với một vết chém ngang cổ chỗ gần mang tai, có ba vết chém khác trên mình. Thân xác ngài không hiểu sao bị lột hết quần áo, trần trụi như Chúa Giêsu trên thập giá, nhưng hai tay vẫn chắp trước ngực như đang cầu nguyện và nét mặt ngài vẫn bình thản, không có vẻ gì sợ hãi.

Các vị chức sắc lén đưa xác ngài về chôn bí mật trong phòng thánh nhà thờ Khúc Tréo (nhà ông giáo Sự thuộc họ đạo Khúc Tréo, làm thế kín đáo hơn đưa về Tắc Sậy). Như vậy ngài đã tử vì đạo vào ngày 12 tháng 03 năm 1946, nhằm ngày mồng 09 tháng 02 năm Bính Tuất.

Hăm ba năm sau, tức năm 1969, hài cốt ngài được cải táng, di dời về Nhà thờ Tắc Sậy, nơi ngài đã làm chủ chăn trong 16 năm và là cha sở thứ nhì của họ đạo Tắc Sậy.

Hai mươi năm sau nữa, tức năm 1989, ngôi mộ của ngài được trùng tu thành một ngôi nhà mộ nho nhỏ lợp tôn ở phía sau Nhà thờ Tắc Sậy cũng nhỏ như vậy và khánh thành vào ngày 04-06-1989.

Đầu năm nay, 2010, một ngôi nhà mộ cực kỳ khang trang và hiện đại đã xây dựng xong, hài cốt ngài được di chuyển vào đó với lễ cải táng rất long trọng do đức Giám Mục địa phận Cần Thơ chứng kiến. Ngày nào cũng có các tín hữu ở khắp mọi nơi trong nước cũng như ngoài nước, bên lương cũng như bên giáo, tới thăm viếng, khấn nguyện và tin tưởng vào sự linh ứng của ngài.

Chuyện một số phép lạ của Cha Bửu Diệp

Hiện nay, tuy Giáo hội Công giáo chưa xét phong Thánh cho Cha Bửu Diệp, nhưng trong lòng nhiều tín hữu Công giáo, kể cả một số người thuộc các tôn giáo khác, đã coi Cha như một vị Thánh, vì rất nhiều người khấn xin với ngài và được ngài ban cho như ý. Tại các nhà thờ Công giáo trong nước, rất nhiều giáo dân xin lễ tạ ơn ngài. Đặc biệt, nhiều người không phải tín đồ Thiên Chúa giáo cũng rất kính mến, tin tưởng ở ngài. Những tấm bảng tạ ơn Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp được gắn trên tường trong căn phòng nguyện tại Nhà thờ Tắc Sậy nhiều không biết bao nhiêu mà kể.

Theo chúng tôi được biết, ở bên Mỹ, cụ Joan Baotixita Võ Hữu Hạnh, một nhà văn lớn tuổi, đã sáng lập “Hội những người con của Cha Trương Bửu Diệp”. Theo cụ, Cha Trương Bửu Diệp đã ban phép lạ cho nhiều người, cả lương cũng như giáo. Sau đây là một số chuyện về các phép lạ đó, bởi vậy tiếng tăm về ngài ngày càng lừng lẫy.

Chuyện gia đình ông Lâm ở Lâm Đồng, Đà Lạt:

Ông bà Lâm không phải tín đồ Thiên chúa giáo và chuyện này đã diễn ra năm 1977, do chính ông Lâm kể cho ông Ngọc Quang nghe, ông Ngọc Quang ghi lại trên tập san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, do cụ Võ Hữu Hạnh chủ trương.

“Bà Lâm bị bệnh viêm ruột và đau dạ dày từ lâu, bệnh đã trở thành vô phương cứu chữa. Bác sĩ tại các bệnh viện ở Sài Gòn đều bó tay. Ông Lâm đành đưa vợ từ Sài Gòn về Lâm Đồng để bà sống những ngày cuối cùng của mình.

Giữa lúc gia đình vừa đưa bà Lâm về tới nhà thì có một vị khách đi đường xa, xe bị hư, trong khi chờ tài xế sửa, ghé vào thăm. Khách là một người cao lớn, khỏe mạnh, gương mặt chữ điền, hàm râu cánh én, vẻ người phúc hậu với bộ áo dài đen của linh mục.

Ông Lâm vốn tính tình hiền lành, thường rất tôn trọng các vị tu hành, dù lương hay giáo. Mặc dầu nhà đang bận rộn vì vợ bệnh nặng nhưng ông cũng lịch sự tiếp đón khách. Vị linh mục tinh ý hỏi tại sao nét mặt gia chủ có vẻ buồn rầu. Ông Lâm nói thật là vợ bệnh nặng, mới đưa từ Sài Gòn về nhà chờ chết. Vị linh mục nói rằng lúc trước mình cũng bị bệnh nặng như vậy, nhờ một ông bác sĩ tên Hữu cho uống loại thuốc này khỏi bệnh, bây giờ còn dư lại mấy viên. Cha lấy trong túi áo ra ba viên thuốc trao cho ông Lâm và dặn chiều cho bà uống một viên, tối lúc 10 giờ một viên và sáng hôm sau một viên nữa, thế nào cũng khỏi. Ông Lâm tuy không tin lắm nhưng trong lúc tuyệt vọng, ai bảo sao cũng đành nghe vậy. Giữa lúc ấy người tài xế vào thưa xe đã sửa xong, vị linh mục bèn từ giã chủ nhà ra đi. Chủ nhà cảm ơn Cha và hỏi cho biết Cha ở đâu, vị linh mục nói mình trông coi xứ đo Tắc Sy? tỉnh Bc Liêu.

Sau khi uống viên thuốc thứ nhất vài giờ, bà Lâm cảm thấy bớt đau, trong mình dễ chịu, biết đói và thèm ăn, ngủ ngon. Buổi tối, khoảng chừng 10 giờ, tự nhiên bà thức giấc và nhớ lời Cha dặn, bèn uống thêm viên thuốc thứ hai. Sáng hôm sau thức dậy, bà thấy trong người khỏe khoắn, không còn mệt mỏi và đau đớn như trước. Bà sung sướng báo tin cho chồng hay. Ông Lâm mừng quá bèn đem viên thuốc còn lại đến các tiệm để làm mẫu, mua thêm cho chắc ăn. Nhưng ông đi khắp nơi, kể cả các tiệm thuốc Tây lẫn thuốc Bắc, song chẳng ai biết đó là thuốc gì. Ông đành trở về, cho bà uống nốt viên còn lại và định có dịp sẽ xuống Minh Hải (năm 1977, hai tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau bị sáp nhập lại với nhau thành tỉnh Minh Hải) thăm Cha và nhờ Cha nói với ông “bác sĩ Hữu” bán thêm giúp.

Muốn đi từ Lâm Đồng xuống Cà Mau thì phải về Sài Gòn, xuống Cần Thơ, qua Sóc Trăng rồi mới tới Bạc Liêu, và Hộ Phòng là thị trấn của huyện Giá Rai tỉnh Bạc Liêu, cách thị xã Bạc Liêu 37 cây số, nơi có Nhà thờ Tắc Sậy. Việc giao thông lúc ấy rất khó khăn, phải xếp hàng từ khuya ở Bến Xe Miền Tây để mua vé xe, có khi xếp hàng cũng không mua được vé, đường đi lại lồi lõm, hết sức cực khổ. Bà Lâm mới khỏi bệnh, khó chịu đựng nổi với những chiếc xe cà rịch cà tàng, cổ lỗ đó. Đang lúc ông Lâm lo âu thì có người cháu làm trong cơ quan nhà nước đến chơi, cho biết anh ta sắp đi công tác tại Minh Hải để giao dịch mua lương thực cho tỉnh. Ông Lâm mừng quá, bèn nói với cháu cho đi nhờ xe xuống Tắc Sậy, tiền xăng ông chịu. Người cháu nhận lời vì Nhà thờ Tắc Sậy nằm ngay trên đường Bạc Liêu đi Cà Mau và cách thị xã Cà Mau khoảng 20 cây số, anh ta chở chú thím tới Tắc Sậy rồi xuống Cà Mau không có gì khó.

Khi qua Bạc Liêu, xuống tới thị trấn Hộ Phòng, Nhà thờ Tắc Sậy nằm cách chợ Hộ Phòng khoảng một cây số, ở phía bên trái. Ông bà Lâm không thể ngờ được nơi ở của vị cha sứ ân nhân lại nhỏ như vậy. Đó là ngôi nhà thờ mái lợp tôn, vách ván, xiêu vẹo trông rất tiêu điều. Đất nhà thờ rộng mênh mông nhưng chung quanh toàn đồng ruộng, dân cư thưa thớt.

Chiếc sân đất của nhà thờ không có cổng. Vợ chồng ông Lâm xuống xe, đi vô. Một ông lão bộc (thường gọi là ông Từ) đang quét trên sân. Trông thấy khách lạ, ông Từ có vẻ ngạc nhiên vì ít khi có khách phương xa đến thăm ngôi nhà thờ này. Ông Lâm nói muốn gặp cha sở, ông Từ mời vào bên trong rồi vào mời cha.

Một lát sau, vị linh mục ra, ngài cho biết ngài là Linh mục Phêrô Nguyễn Ngọc Tỏ, cha sở họ đạo Tắc Sậy. Ông bà Lâm rất ngạc nhiên, vị linh mục này trông không giống vị linh mục đã cho thuốc một chút nào hết mà sao hai vị đều tự nhận mình là cha sở họ đạo Tắc Sậy? Ông Lâm bày tỏ sự tình và kể mình đã gặp một vị linh mục cao lớn, tóc ngắn, gương mặt chữ điền, hàm râu cá chốt. Cha Tỏ mỉm cười, không lấy gì làm lạ, bèn dẫn vợ chồng ông Lâm qua phía bên hông nhà thờ, tới ngôi mộ của Cha Diệp. Vừa nhìn thấy tấm hình trên bia mộ, tự nhiên ông Lâm quỳ phục xuống và quả quyết đây chính là vị ân nhân đã cho thuốc, cứu bà Lâm khỏi bệnh. Bà Lâm cũng quỳ xuống tạ ơn ngài. Ông bà là người bên lương, không biết làm dấu Thánh giá.

Lúc ra về, ông bà Lâm gửi Cha sở một số tiền nho nhỏ để giúp nhà thờ vì lúc ấy ai cũng nghèo, ông bà không có nhiều. Có lẽ ông bà Lâm là những người đầu tiên đã giúp nhà thờ từ năm 1977”.

Chuyện bức ảnh đẫm máu:

Sau đây là nguyên văn bức thư của GS Trần Anh Linh gởi cho cụ Võ Hữu Hạnh, nói về bức ảnh đẫm máu. Xin ghi chú thêm rằng chuyện này xảy ra cách đây khoảng chừng 2 năm (2008) và hiện nay Linh mục Gioan Minh vẫn còn ở tại Nhà thờ Hiển Linh đường Ngô Tất Tố (Dương Công Trừng cũ) thuộc giáo phận Thị Nghè. Ngài nổi tiếng về việc khấn nguyện Đức Mẹ giùm những người bệnh tật kết quả rất tốt. Hằng ngày mọi người ở khắp các nơi đến nhờ ngài khấn rất đông nhưng chính quyền địa phương đã ra lệnh cấm vì không muốn có sự tụ tập đông đúc.

Sau đây là bức thư của GS Trần Anh Linh:

“Anh Hạnh thân mến,

Tôi xin gửi tặng anh món quà quí giá mà Cha Diệp đã ban cho tôi qua Cha Gioan Minh: Cha Diệp đã thực hiện một phép lạ nhãn tiền là dùng chính tấm ảnh mà chúng ta đã cho họa sĩ Đại Hàn ở khu Phúc Lộc Thọ vẽ rồi in ra nhiều ấn bản, vừa làm thành sách, vừa in thành ảnh gởi tặng và bán khắp nơi.

Tấm ảnh đó đã đổ máu đào lênh láng từ vết chém bằng đao kiếm đứt cổ, máu Cha đã đổ ra thấm ướt làm mờ hàng chữ Trương Bửu Diệp bên dưới.

Câu chuyện xảy ra như sau:

Cha Gioan Minh (cựu Tuyên Úy), sau 12 năm học tập cải tạo, đã được cho về và sống ở nhà thờ Chúa Hiển Linh tại Thị Nghè nơi xưa kia Cha Dụ đã thành lập. Cha Minh ở lại Việt Nam, không xin ra nước ngoài theo diện HO dù cha có tới 12 năm ở tù.

Một hôm cha vào Nhà sách Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở đường Kỳ Đồng và chọn mua một tấm ảnh của Cha Diệp mà cha đã nghe có nhiều phép lạ. Cô bán hàng dùng giấy báo gói bức ảnh có đóng khung sẵn trao cho cha Minh. Cha Minh về đến nhà, tính mở ra để treo lên tường thì một ơn lạ đã xảy ra, là máu tươi từ cổ bức ảnh tuôn trào ra thấm ướt cả tờ báo gói bức tranh.

Cha Minh kinh ngạc bèn cho đó là một dấu chỉ quan trọng, nên đã gói lại cẩn thận và lặng lẽ đem lên Tòa Tổng Giám Mục Saigon trình với Đức Cha Phạm Minh Mẫn. Theo cha Minh cho biết thì tấm ảnh thấm máu này đã được gởi qua để Tòa Thánh xét nghiệm, hy vọng rằng đã đến lúc Tòa Thánh cho lập Ban Điều Tra, tìm hiểu về các ơn lành Cha Diệp đã làm mà việc lạ lùng làm cho máu đào từ vết cổ đổ ra sẽ là một trong những chứng cớ để Tòa Thánh có thể tôn phong Chân Phước cho Cha.

Tôi là bạn thân của cha Minh, nên cha đã tặng tôi một tấm. Tôi sao lại và gởi tặng anh, đây là tài liệu mới nhất về Cha Diệp, anh nên ghi chú vào tập sách Các Ơn Lành của Cha”.

Trần Anh Linh.

Chuyện ông chủ thầu vật liệu xây dựng:

Từ những năm thuộc thập niên 1980 trở về sau, hằng năm cứ vào các ngày 11-12 tháng 03 dương lịch, dòng người lương, giáo từ các nơi lại đổ về Tắc Sậy. Trên những chiếc xe đò chở khách, người ta có thể thấy hình một vị linh mục mặt vuông chữ điền rất dễ mến. Họ xuống để dự lễ giỗ của Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp.

Ông Phước, người trông coi phần mộ của Cha Diệp tại Nhà thờ Tắc Sậy, kể lại câu chuyện sau đây vào một buổi trưa tháng 04-2010 như sau:

“Vào khoảng những năm đầu thập niên 1980, bờ kinh cạnh khu nhà thờ này còn là một bãi đất trống, làm nơi ghe và xe cộ dừng lại đổ hàng. Nửa đêm, có một ông chủ ghe chở đầy vật liệu xây dựng như gạch, cát, xi-măng… đậu bên bờ kinh. Ông bỗng trông thấy một vị khách mặc áo dài đen theo kiểu nhà dòng từ trên bờ bước xuống. Vị khách tự xưng mình là cha xứ Nhà thờ Tắc Sậy, muốn mua hết các vật liệu trên ghe để xây lại nhà thờ. Giá cả xong xuôi, chủ ghe đồng ý bán và hẹn hôm sau sẽ cho công nhân đem hàng lên xong ông sẽ nhận tiền.

Sáng hôm sau, trước khi giao hàng, chủ ghe lên nhà thờ, định gặp cha xứ để biết chỗ cho công nhân xếp hàng. Đến khi gặp linh mục Phêrô Nguyễn Ngọc Tỏ, ông rất ngạc nhiên, từ giọng nói cho tới gương mặt, thân hình, vị linh mục này trông không giống với vị khách có ria mép hôm trước một chút nào cả. Cha Tỏ nói: “Tôi hiểu, đó chính là linh hồn cha sở Phanxicô Trương Bửu Diệp đấy. Ý ngài muốn xây lại nhà thờ nên hiện ra như vậy”. Cha kể cho ông chủ thầu nghe các chuyện linh ứng của Cha Bửu Diệp rồi nói: “Ý tôi cũng muốn xây lại ngôi nhà thờ cho đàng hoàng nhưng họ đạo nghèo, chưa đủ tiền. Thôi thì đành cáo lỗi với ông và hẹn khi khác”. Ông chủ thầu nói: “Cha Diệp đã linh ứng như vậy thì con không dám lấy tiền. Mặc dầu con là người bên lương nhưng con xin hiến tất cả các vật liệu trên ghe để nhà thờ xây sửa lại, không nhận một đồng nào cả”. Ông chủ thầu lập tức cho người khuân gạch, cát, xi-măng từ dưới ghe lên rồi đi, ngay cả tiền công bốc xếp của các công nhân ông cũng tự trả, không để nhà thờ phải trả.

Không ngờ từ đấy ông chủ ghe buôn bán ngày càng phát đạt. Ông cho rằng mình được Cha Diệp phò hộ nên mỗi lần đi qua Hộ Phòng ông thường quay lại Nhà thờ Tắc Sậy để tạ ơn Cha.

Cũng theo ông Phước, những chuyện linh ứng của Cha Diệp ngày một lan rộng. Từ đó về sau, khách thập phương kéo về nườm nượp để cầu xin Cha ban ơn lành. Nhất là các nghệ sĩ cải lương nổi tiếng, rất nhiều người xuống, họ cầu xin Cha chuyện này chuyện khác, và ai cũng được toại nguyện. Lời nguyện đắc thành, họ đến đền ơn Cha, người thì ghế đá, người thì vật dụng dùng cho nhà thờ, người thì tiền bạc…, nhiều không sao kể xiết. Cứ thế, vào những này cuối tuần hoặc trong dịp lễ giỗ Cha (12 tháng 03 dương lịch), khách thập phương kể cả trong nước lẫn ngoài nước về kính viếng Cha đông như trẩy hội. Có nhiều người đem theo cả những chai nước La Vie đến để bên cạnh mộ, cầu nguyện trước khi mang về cho người trong gia đình. Nhưng cũng có những người tin tưởng đến độ cầu nguyện trong nhà thờ, trước mộ của Cha chưa đủ, họ còn hỏi thăm, tìm đến chiếc ao nhỏ của gia đình ông giáo Sự ngày xưa để chiêm ngưỡng nơi Cha đã bị sát hại.

Điều lạ lùng hơn nữa là theo như lời của vị cha xứ hiện nay là Linh mục Phaolô Nguyễn Thanh Bình, thì có tới 70% khách thập phương xuống Giá Rai kính ngưỡng Cha Diệp là người ngoại đạo hoặc Việt Kiều từ nước ngoài về. Có những người chưa về nhưng đã “nghe nói” tới sự linh ứng của Cha nên đã gửi tiền về giúp nhà thờ xây dựng được một cơ ngơi lớn lao như ngày nay, khả dĩ có thể đón tiếp bất cứ các nhóm hành hương nào dù đông bao nhiêu, họ đều có chỗ nghỉ ngơi đàng hoàng mà không cần phải đóng góp gì cả.

Để kết luận bài này, tôi xin thưa với quý vị độc giả thân mến rằng tôi không phải là người Công giáo, nhưng tôi biết trong Thánh kinh Công giáo có câu nói của Đức chúa Giêsu: “Phúc cho ai không thấy mà tin”. Vậy nay tôi xin dùng câu nói này để cầu Chúa và Cha Diệp ban ơn cho quý vị. Amen.

Cha Trương Bửu Diệp – Thánh đường Tắc Sậy.

httpv://www.youtube.com/watch?v=5DufAXdqKdU