Mời nghe Kinh Thánh 100 tuần
Cộng sản và tôi
VRNs (15.04.2015) – Thanh Hóa – Tôi là một trong số hàng chục triệu nạn nhân của chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam. Câu chuyện mà tôi sắp kể ra đây chưa thể nào vạch trần hết tội ác của chủ nghĩa rừng rú này; nhưng cũng sẽ góp một phần nhỏ để những ai còn ngây thơ mù quáng đi theo nó sớm nhận ra và từ bỏ còn đường tăm tối được thêu dệt nên bằng những dối trá và tội ác.
Tôi sinh năm 1971, năm nay bước vào tuổi 44. Tuy chỉ mới độ tuổi này nhưng tôi đã từng nghe bố tôi kể lại và cũng đã phải trực tiếp chứng kiến cảnh gia đình tôi suốt 4 đời là nạn nhân của chủ nghĩa Cộng Sản.
Bắt đầu là bà nội của tôi: Bà tôi sinh năm 1890. (Không biết ông nội tôi mất từ bao giờ). Một tay bà phải vất vả nuôi một đàn con. Trong nạn đói năm 1945 các con của bà tôi nhiều người đã phải chết vì đói. Đến năm 1949 người con trai lớn của bà đã hăng hái gia nhập vào quân đội và tử trận tại Điện Biên Phủ năm 1954. Sau nhiều năm không nhận được tin tức gì của bác tôi nên bà tôi buồn đau héo hon khổ sở. Mãi tới khoảng năm 1973 gia mới nhận được một mãnh giấy thông báo rằng bác tôi đã hy sinh.

Trong khoảng thời từ năm 1954-1975, giai đoạn xảy ra cuộc nội chiến tại Việt Nam, dưới sự tuyên truyền của Cộng Sản những người thân của tôi lại tiếp tục như con thiêu thân lao vào cuộc chiến “xâm lược miền Nam” và làm công cụ cho việc bành trướng chủ nghĩa hung tàn cộng sản một cách vô điều kiện. Năm 1967, khi mà máy bay Mỹ ném bom miền Bắc. Quê tôi nằm ngay cạnh một nhà máy xay là nơi tập trung một lượng thóc gạo khá lớn để cung ứng cho chiến trường miền Nam, nơi đây có một cây cầu là nút giao thông quan trọng; vậy nên đã phải hứng chịu không biết bao nhiêu là bom đạn. Lúc đó tôi chưa được sinh ra, nhưng khi lớn lên chỉ nhìn những dãy hố bom chi chít và những hầm pháo còn lại trên đồng làng; tôi cũng nhận ra được một phần nào những đau thương trong quá khứ.
Theo bố tôi kể lại thì vào giai đoạn đó ở nông thôn miền Bắc mọi sinh hoạt của đời sống đều nằm dưới sự điều hành của hợp tác xã (HTX). Vào năm 1967 người vợ đầu của bố tôi bị HTX điều vào khu vực máy bay Mỹ thường ném bom, để vừa lao động sản xuất vừa phụ giúp bộ đội đắp hầm pháo và tiếp đạn. Rồi một mảnh bom đã cắt ngang cuộc đời bà ở độ tuổi 35, để lại sau lưng 2 đứa con thơ cho chồng. Bố tôi cui cút một tay nuôi 2 con nhỏ một bà mẹ già. Vừa đau buồn bởi cảnh chia ly bất ngờ vừa lam lũ với cảnh “đùm cơm vạt áo, đùm cháo lá khoai”. Bố tôi lâm bệnh hen suyễn từ đó. Rồi tình cờ ông gặp mẹ tôi.
Mẹ tôi là một người phụ nữ cũng gặp nhiều đắng cay trong cuộc sống, bà đã 3 lần tiễn đưa người thân vào quân ngũ mà không còn gặp lại. Hai người em trai của bà và một người chồng mới cưới. Cả 3 đều ngã xuống trong mặt trận phía Nam. Mười năm trông ngóng tin chồng trong vô vọng. Ai cũng tin rằng chồng bà đã chết tại chiến trường; nhưng mãi vẫn không có giấy báo tử. Họ hàng bên chồng bà khuyên bà nên đi bước nữa. Bà nấn ná mãi rồi mới quyết định khăn gói về sống chung với bố tôi. Cảnh “rổ rá cạp lại”, tưởng rằng sẽ san sẻ gánh nặng cho nhau, nào ngờ giông bão cuộc đời lại ập xuống những mãnh đời rách nát như họ.
Bố tôi kể lại: Ngay sau khi mẹ tôi khăn gói về sống cùng ông vào năm 1970, đêm nào cũng vậy, cứ 8 giờ tối là dân quân xã lại khua trống tập trung lực lượng kéo tới túp lều tranh nho nhỏ mà bà và bố mẹ cùng các anh chị tôi đang sống. Dân quân trói mẹ tôi đưa ra điếm làng xét tội vì lý do “không chung thủy với chồng là bộ đội”. Có hôm thì họ lại trói bố tôi thay vì mẹ tôi. Họ đưa ông ra điếm làng xét xử tội “cướp vợ bộ đội”. Cảnh tượng kinh hoàng đó đập vào mắt bà nội và các anh chị tôi làm họ vô cùng sợ hãi. Không phải chỉ một hai lần mà kéo dài hàng tháng. Nhưng không thế lực nào chia cắt được tình cảm của hai người. Cũng có lúc mẹ tôi phải tạm lánh về quê ngoại. Rồi tin vui đã tới với cả gia đình. Mẹ tôi có mang tôi sau nhiều thử thách. Lúc này mẹ tôi tiếp tục về sống chung với bố tôi. Biết bà đang mang thai nên bọn người man rợ kia cũng đỡ bớt phần nào những hành động côn đồ ác thú. Nhưng nhà cầmquyền Cộng Sản không cấp khẩu cho mẹ tôi và không cho gia đình tôi vào HTX. Nhà 5 miệng ăn, không nguồn thu nhập, Mẹ tôi phải băng rừng vượt núi kiếm miếng ăn. Cuộc sống vất vả là vậy.
Những tưởng rằng Cộng Sản sẽ buông tha, nào ngờ năm 1974 khi anh trai tôi mới 17 tuổi, cộng sản lại bắt anh tôi làm đơn “tình nguyện” đi bộ đội và rồi anh tôi đi mãi chẳng trở về. Khi gia đình tôi nhận được tin báo tử anh tôi; một lần nữa nước mắt bố mẹ tôi lại lăn dài trên gò má, những giọt nước mắt khổ đau chảy trên đầu tôi thấm sâu vào trong trái tim bé bỏng của tôi, khi tôi mới lên 4 tuổi.
Vào thời gian đó bên nhà chồng cũ của mẹ tôi cũng nhận được tờ giấy báo tử muộn màng về người chồng của mẹ tôi đã tử trận từ năm 1968. Bao năm chắt chiu vất vả dành dụm bố mẹ tôi mua được một con bê nhỏ, lúc này nhà nước quyết định nhập khẩu cho mẹ tôi và cho gia đình tôi vào HTX với điều kiện phải công hữu con bê cho họ.
Trải qua nhiều sóng gió, cuộc sống tuy không đầy đủ nhưng cũng đã tạm yên thân, bố mẹ tôi sinh thêm cho tôi một cô em gái. Những tưởng rồi cuộc sống sẽ êm trôi theo năm tháng, với những gì người Cộng Sản đã tuyên truyền, nào ngờ sự thật không hề như vậy. Với một hoàn cảnh xuất thân nhiều bất hạnh nên cuộc đời tôi dường như không lối thoát bởi những gánh nặng nợ nần. Tôi còn nhớ vào khoảng những năm từ 1980 tới 1988, vì bố tôi bệnh tật không thể lao động được, gánh nặng gia đình chất chồng hết trên vai mẹ tôi. Mẹ vừa lo thuốc men cho chồng vừa nuôi hai anh em chúng tôi ăn học (lúc này chị gái tôi đã lấy chồng). Những sào ruộng nhận khoán của HTX không thể đủ ăn, Mẹ phải chạy vạy buôn bán bằng quang gánh, đi bộ tới các cửa hàng mua dầu hỏa và muối (do các nhân viên cửa hàng bán lậu), rồi gánh bộ hàng trăm km lên các vùng cao để bán hoặc đổi lấy sắn về nuôi chúng tôi. Cũng nhiều lần mẹ bị đại diện nhà nước thu trắng gánh hàng vì lý do buôn lậu. Đã khó lại càng khó thêm. Hàng vụ thu hoạch lượng thóc không đủ để trả nợ lại (vì lúc đó muốn vay được 10 kg thóc thì tới mùa phải trả gấp đôi, thậm chí gấp ba). Vì thế gia đình tôi không đủ thóc giao nạp cho HTX. Vụ này sang vụ khác, HTX tính lãi mẹ đẻ lãi con với lãi xuất 50% /vụ; không những thế mỗi năm lại còn phải nuôi lợn nộp nghĩa vụ 50 kg lợn hơi. Người còn không có để ăn thì lấy gì nuôi được 50 kg lợn?! Vậy nên gia đình tôi lại còn phải mắc nợ thêm khoản kg lợn hơi quy thành thóc. Cứ 1 kg lợn hơi quy thành 10 kg thóc. Như vậy hàng năm gia đình tôi phải mắc nợ 500 kg thóc. Có lần đoàn thu sản vào xiết nợ. Họ thấy trong nhà không có gì đáng giá, phát hiện trong chuồng có một con lợn khoảng 8 kg họ nhảy vào bắt bỏ bì và xách đi. Cả gia đình tôi chỉ biết nhìn theo trong nước mắt.
Tôi vẫn cứ thế lớn lên theo quy luật của Đấng tạo hóa. Tháng 9 năm 1990 tôi nhập ngũ hết 2 năm 6 tháng nghĩa vụ quân sự. Tháng 3 năm 1993 tôi trở về địa phương và kết hôn khi tuổi mới 22. Khi lập gia đình, đương nhiên tôi phải kế thừa một món nợ khổng lồ là 10 tấn thóc. Một số lượng mà khiến tôi không khả năng thanh toán. Sau khi đã chuyển đổi mô hình quản lý ruộng đất từ HTX sang cho Ủy Ban Nhân Dân, và giao ruộng xuống từng hộ gia đình tính theo đầu người tại thời điểm, gia đình tôi có 4 khẩu lẽ ra phải được giao 4 suất ruộng, nhưng vì còn mắc nợ cũ nên chỉ được nhận 1/2 diện tích theo tiêu chuẩn. 1/2 diện tích còn lại phải làm dưới dạng thuê đất với đóng góp cao hơn. Vì thấy quá thiệt thòi nên gia đình cố gắng vay mượn khắp nơi với lãi xuất 5%/tháng trả nợ 10 tấn thóc với giá 3000 đ/10 kg để được nhận ruộng bình thường.
Kể từ đó gia đình tôi không còn mắc nợ nhà nước, nhưng nợ tư nhân lại quá nhiều. Chúng tôi dốc hết sức để kéo cày trả nợ. Vào độ tuổi 35 tôi đã mắc nhiều bệnh tật do lao động quá sức. Tôi không làm lụng được như trước, nợ nần vẫn chồng chất, nên sinh ra rượu chè. Tôi mở một lớp học nho nhỏ phụ đạo cho mấy cháu học sinh lớp 9 trong làng để lấy tiền uống rượu.
Rồi một hôm như là định mệnh, tôi gặp một tín hữu của đạo Tin Lành; người đó tặng tôi vài cuốn sách nhỏ trong lúc tôi vẫn còn say. Tôi cầm sách trên tay mà chẳng biết sách gì. Khi tỉnh rượu tôi mang ra đọc và thấy những gì viết trong sách như đang nhảy múa mời gọi tôi theo Chúa Jesus. Tôi tìm tới gặp người đã tặng sách cho tôi. Từ đó tôi trở thành một tín hữu Tin Lành. Tôi từ bỏ rượu và sốt sắng ra đi nói về Chúa cho những người xung quanh. Nhờ vậy qua tôi cả gia đình tôi và nhiều người trong vùng đã tự nguyện đi theo Thiên Chúa.
Thình lình vào năm 2003 lực lượng nhà nước thông qua Mặt trận tổ quốc và công an ra tay đàn áp những người theo đạo Tin Lành ở quê tôi. Họ ép buộc người dân phải viết cam kết không theo đạo, nếu ai đã theo thì nhà nước bắt viết giấy bỏ đạo, chỉ còn lại gia đình tôi quyết giữ đức tin tới cùng. Thế là cứ mỗi ngày Chủ nhật các đầy tớ của dân lại tới canh cổng nhà tôi không cho ai ra vào, quyết ngăn không cho tôi đi thờ phượng Chúa. Nhiều lần họ bắt tôi ra hội trường thôn để tập trung đấu tố. Họ xuyên tạc vu cáo tôi là phản động. Những người “bạn của dân” không cho tôi quyền giải thích. Mỗi khi tôi đứng lên xin ý kiến phản biện thì liền có những bàn tay “nhân ái” tặng cho tôi một cái vả rồi nhấn đầu tôi xuống. Cả bố mẹ và vợ con tôi cũng không ngoại lệ. Họ liên tục bị nhà cầm quyền sách nhiễu đánh đập. Nhà nước tẩy chay hàng hóa mà vợ tôi buôn bán, cấm đoán không cho người mua bán quan hệ với gia đình tôi.
Vào đêm 30/4 năm 2004 khi mà dân làng tập trung tham gia buổi lễ ăn mừng 29 năm cướp trọn miền Nam, lúc mọi người đang ngất ngây trong chiến thắng, cán bộ cấp xã và công an huyện bỗng dưng đưa đề tài gia đình tôi theo đạo Tin Lành tức là theo Mỹ làm phản động ra để kích động quần chúng. Vậy là thình lình gia đình tôi bị cắt điện và nhận hàng loạt những gạch đá ném vào, rồi sau đó là một đoàn quân ô hợp hàng 100 người kéo vào. Họ đánh đập mọi thành viên trong gia đình, đập phá tài sản, bẻ gãy thánh giá, tháo gỡ bảng 10 điều răn rồi đập nát, đổ phân lợn xuông giếng nước, lấy hết thiết bị điện trong nhà. Sau khi họ bỏ đi để lại cho gia đình tôi một cảnh tan hoang với những con người đầy thương tích. Đêm đó vợ tôi phải đưa tôi đi lánh nạn. Ngày hôm sau ở nhà: Mặt trận tổ quốc lại lập đoàn tới “hỏi thăm” rồi yêu cầu bố tôi làm cam kết bỏ đạo thì họ sẽ cho người tới mắc lại điện và thôi không tấn công gia đình tôi nữa. Bố tôi không đồng ý nên họ uy hiếp rằng tôi sẽ bị đánh chết bất cứ khi nào và ở đâu, còn bố mẹ tôi sẽ chết mà không có chỗ chôn, các con tôi sẽ thất học…
Mặc những lời hăm dọa của những con người thất đức. Bố tôi vẫn không chấp nhận hợp tác. Trong thời gian lánh nạn tạm thời, tôi đã viết một lá đơn gửi tới các cấp cầm quyền từ địa phương, tới trung ương. Sau một tuần tôi mới trở về, đêm hôm đó là đêm 7/5/2004. Vẫn như lần trước đoàn quân vô đạo lại kéo tới đánh đập tôi tơi tả, máu me đầm đìa. Tôi lại phải tạm thời lánh nạn. Mấy ngày sau, Công an tỉnh Thanh hóa thông qua công an xã Quảng Yên, triệu tập tôi tới hội trường UBND xã để “làm việc”. Một mình tôi ngồi giữa hàng trăm công an các cấp và nhiều ban ngành trong xã, bên ngoài cổng UB có khoảng 20 tên đầu gấu cởi trần tay cầm gậy lăm lăm uy hiếp. Tại đây họ bắt tôi phải ký vào một biên bản thừa nhận rằng sự việc xảy ra tại gia đình tôi chỉ là do mâu thuẫn cá nhân không liên quan tới nhà nước. Ngay lập tức tôi phản ứng lại, tay công an làm việc với tôi chỉ tay ra phía cổng nói: Ký hay không tùy anh thôi, nhưng chúng tôi không dám bảo đảm an toàn cho anh khi ra khỏi đây! (Thú thật rằng tôi cũng thấy sợ hãi nên tặc lưỡi ký đại cho xong). Sau khi tôi đã ký vào biên bản đó thì buổi làm việc kết thúc với một lời đe dọa của trưởng công an xã rằng: Nếu mày không bỏ đạo thì con mày đi học chỉ cần tắm trong nước miếng của con thiên hạ cũng đủ chết. Tôi trả lời rằng: Tùy các anh thôi, cuộc sống gia đình tôi nằm trong tay Chúa, Ngài sẽ bảo vệ chúng tôi theo cách của Ngài.
Đúng như lời của trưởng công an xã Nguyễn Viết Đồng đã nói. Kể từ hôm đó đứa con trai lớn của tôi mới 10 tuổi đang học lớp 5, tới trường học liên tục bị bạn bè chế nhiễu, đánh đập và nhổ nước miếng vào người, vào mặt mà giáo viên vẫn làm ngơ.
Tuy vậy cháu vẫn cố gắng chịu đựng để vượt qua, vì cháu đã có chút nhận thức về hoàn cảnh thực tại của gia đình nên chấp nhận lặng yên. Đứa con gái nhỏ của tôi mới 6 tuổi còn đang học lớp 1 cùng phải chịu cùng hoàn cảnh như anh nó.
Nó tới trường học mà khi nào về cũng khóc vì bị các bạn véo, đánh, không ai thèm chơi với nó. Vậy là nó cứ thui thủi một mình một xó.
Và cũng vì vậy mà nó trở nên một đứa trẻ tự kỷ. Cũng từ năm đó con bé không lớn thêm được chút nào. Thương các con nhưng chẳng biết phải làm sao. Gia đình tôi cắn răng chịu đựng và phó mặc cho Thiên Chúa. Cũng có vài lần đưa con bé đi khám bệnh nhưng do không có tiền đi tuyến trên, gia đình tôi chỉ đưa bé tới bệnh viện huyện khám qua loa và nhận được câu trả lời là cháu vẫn bình thường.
(Nào ngờ mãi tới năm 2014 thấy con đã 16 tuổi mà vẫn chỉ như đưa trẻ lên 5, tôi quyết định đưa cháu ra Hà Nội khám lần nữa; thì than ôi tôi choáng váng khi bác sĩ cho biết rằng con bé bị liệt tuyến yên đã 10 năm nên không còn khả năng chữa trị). Mặc dù sống giữa chông gai và gông xiềng Cộng sản nhưng tôi luôn vững tin vào Thiên Chúa. Tôi tiếp tục bước đi giữa những gian nan và thử thách. Tôi tiếp tục đi nhiều nơi để chia sẻ niềm tin về Thiên Chúa. Không ít lần tôi bị đón đường và bị công an Cộng Sản bắt bớ đánh đập. Rồi tôi được Chúa thương nên cho tôi cơ hội được tham gia vào các khóa học thần học.
Tôi trở thành mục sư của một hội thánh nhỏ ở quê hương Thanh Hóa. Chỉ đơn thuần vì lý do tín ngưỡng mà tôi liên tiếp bị những người “bạn của dân” tìm mọi cách đàn áp. Rồi ngày 15/1/2011 tôi bị bắt và bị kết án 2 năm tù giam và 2 năm quản chế theo điều 88 quái gở. (Khi kết án tôi, tay chủ tọa phiên tòa còn lớn tiếng nói rằng: Những thân nhân của tôi đã ngã xuống vì chế độ nay sẽ rất xấu hổ vì tôi). Tuy nhiên tôi tin rằng những người thân của tôi đã đổ máu xương cho chế độ này nếu thực sự có linh thiêng thì họ sẽ rất tự hào về tôi.
Bởi tôi đã tiếp tục bước đi trên con đường tranh đấu cho một nền tụ do dân chủ thật sự.
Tôi tin chắc một điều, vong linh của những người đã ngã xuống sẽ vô cùng đau đớn khi mà những kẻ ngồi trên những chiếc ngai được xây bằng máu xương đồng bào lại tráo trở đảo lộn trắng đen.
Tôi bỏ lại phía sau lưng mình ba đứa con thơ, cùng bố mẹ già và hội thánh thân thương cho người vợ hiền gánh vác.
Hết 2 năm tù oan nghiệt, tôi trở lại gia đình cùng với vợ con bước tiếp chặng đường đầy những chông gai nhưng tràn đầy hy vọng. Tôi vừa phải chia tay người chị gái thân kính và người cha già mẫu mực. Họ đã vĩnh viễn ra đi về nước Chúa. Trước lúc xuôi tay bố tôi còn gắng dặn dò tôi thêm lần nữa: Con hãy cố lên đừng bao giờ bỏ cuộc, ngày cáo chung của Cộng sản đã gần rồi.
Mục sư Nguyễn Trung Tôn
ĐT: 01628387716
Email: nguyentrungtonth@gmail.com
Chứng cớ phục sinh
VRNs (05.04.2015) – Sài Gòn – Ngôi mộ thực sự trống trơn. Chúa Giêsu phục sinh hay thi thể Ngài bị đánh cắp? Chắc chắn có điều bất thường đã xảy ra, vì những người theo Chúa Giêsu không còn khóc thương Ngài, che giấu Ngài, và bắt đầu can đảm rao giảng với lý do minh nhiên: CHÚA GIÊSU ĐÃ PHỤC SINH.
Các nhân chứng đều nói rằng Chúa Giêsu bất ngờ hiện ra với họ trong thân xác như trước khi Ngài chết, trước tiên Ngài hiện ra với các phụ nữ. Trong thế kỷ đầu, các phụ nữ không có quyền gì, số phận lép vế lắm. Thế mà chính Chúa Giêsu lại ưu tiên hiện ra với họ trước, nghĩa là phụ nữ là những người đầu tiên thấy Chúa Giêsu phục sinh. Thật là độc đáo vô cùng. Phụ nữ cũng là những người đầu tiên phát hiện ngôi mộ trống, được nói chuyện với Ngài và đi làm chứng về Ngài.
Sau đó, các tông đồ mới được thấy Chúa Giêsu, và thấy hơn 10 lần. Ngài cho họ xem tay chân và cạnh sườn và bảo sờ thử xem sao. Ngài còn ăn uống với họ, và có lần Ngài hiện ra với hơn 500 người đi theo Ngài.
Học giả John Warwick Montgomery cho biết: “Năm 56 sau công nguyên, tông đồ Phaolô cho biết rằng có hơn 500 người đã được thấy Chúa Giêsu phục sinh và nhiều người trong số đó vẫn còn sống (1 Cr 15:6-8). Điều đó không có nghĩa là các Kitô hữu thời sơ khai có thể dựng chuyện như vậy rồi rao truyền cho những người nhẹ dạ cả tin bằng cách làm ra thân thể Chúa Giêsu” (1).
Các học giả Kinh Thánh Geisler và Turek nói: “Nếu sự phục sinh không xảy ra, tại sao tông đồ Phaolô lại dám đưa ra con số nhiều các chứng nhân như vậy? Nếu không đúng, tông đồ Phaolô sẽ mất uy tín với các tín hữu Côrintô vì ông nói dối trắng trợn” (2).
Tông đồ Phêrô nói với đám đông ở Xê-da-rê về lý do ông và các tông đồ khác đã tin Chúa Giêsu sống lại: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại” (Cv 10:39-41).
Học giả Kinh Thánh Michael Green (người Anh) nói: “Những lần Chúa Giêsu hiện ra chính xác như bất cứ thứ gì cổ xưa… Không thể nói rằng những điều đó đã không xảy ra” (3).

Sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô là một sự kiện lịch sử đã thực sự xảy ra, không là huyền thoại như nhiều người vô thần đã nói. Các cuộc nghiên cứu khảo cổ vẫn tiếp tục phát hiện sự chính xác mang tính lịch sử của Kinh Thánh. Ngoài các sách Phúc Âm và sách Công Vụ, còn có những chứng cớ về sự hiện hữu của Chúa Giêsu phục sinh trong các tác phẩm của Flavius Josephus, Cornelius Tacitus, Lucian Samosata, và Tòa án Tối cao Do-thái (Jewish Sanhedrin).
Đây là 7 chứng cớ về sự phục sinh cho thấy Đức Giêsu Kitô đã thực sự trỗi dậy từ cõi chết:
- Ngôi mộ trống
Ngôi mộ trống có thể là bằng chứng hùng hồn nhất về sự phục sinh của Chúa Giêsu. Có 2 lý do chính được những người không tin đưa ra: Ai đó đã lấy trộm xác Chúa Giêsu, hoặc các phụ nữ và các tông đồ đến không đúng mộ. Người Do Thái và người Rôma không có động cơ để cướp xác, còn các tông đồ quá nhát đảm và phải trốn quân lính Rôma. Các phụ nữ thấy mộ trống và không còn thấy xác Chúa Giêsu, họ biết chắc đó là mộ an táng Chúa Giêsu. Giả sử họ đến không đúng mộ, Tòa án Tối cao Do Thái có thể lấy xác ở đúng mộ để ngăn cản chuyện phục sinh. Vải liệm Chúa Giêsu được xếp gọn gàng trong mộ, kẻ trộm nào cũng vội vàng, không ai lại cẩn thận như vậy. Chính các thiên thần nói rằng Chúa Giêsu đã sống lại.
- Các nữ chứng nhân đạo đức
Các nữ chứng nhân là bằng chứng rằng Phúc Âm là tài liệu lịch sử chính xác. Nếu được bịa đặt, không tác giả cổ nào lại dùng phụ nữ làm nhân chứng cho sự phục sinh của Đức Kitô. Phụ nữ là giai cấp công dân thứ yếu trong thời đó, chứng cớ của họ không được xem xét ở tòa án. Nhưng Kinh Thánh nói rằng Đức Kitô phục sinh hiện ra trước tiên với bà Maria Mácđala và mấy phụ nữ đạo đức khác. Ngay cả các tông đồ cũng không tin bà Maria khi bà nói về ngôi mộ trống. Chúa Giêsu luôn tôn trọng các phụ nữ này, Ngài đề cao họ bằng cách cho họ trở thành nhân chứng đầu tiên về sự phục sinh của Ngài. Các Thánh sử đã kể lại hành động lúng túng này, vì đó là cách nó xảy ra.
- Các tông đồ can đảm
Sau khi Chúa Giêsu bị đóng đinh, các tông đồ đã trốn biệt trong các phòng khóa chặt cửa, sợ sẽ đến lượt mình bị lôi đi xử tử. Nhưng có sự thay đổi khác thường: Họ đang là những người nhát đảm trở thành những người rao giảng can trường. Bất kỳ ai biết bản chất con người thì đều hiểu rằng con người không thể thay đổi mau chóng như vậy nếu không có sự tác động lớn. Sự ảnh hưởng đó là được thấy Thầy sống lại từ cõi chết. Chúa Giêsu đã hiện ra với họ trong căn phòng còn khóa kín cửa, trên bờ biển Galilê, và trên núi Ô-liu. Sau khi thấy Thầy phục sinh, tông đồ Phêrô và các tông đồ khác đã ra khỏi phòng và đi rao giảng về Đức Kitô phục sinh, bất chấp mọi nguy hiểm có thể xảy ra với mình. Họ không còn trốn tránh vì họ đã biết sự thật. Cuối cùng, họ hiểu rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người và cứu mọi người thoát khỏi tội lỗi.
- Biến đổi Giacôbê và những người khác
Cuộc sống biến đổi là một bằng chứng khác về Chúa Giêsu phục sinh. Tông đồ Giacôbê, anh em họ với Chúa Giêsu, đã từng nghi ngờ không biết Chúa Giêsu có là Đấng Mêsia hay không. Nhưng sau đó, ông đã trở thành người lãnh đạo can đảm của giáo đoàn Giêrusalem, thậm chí còn bị ném đá chết vì đức tin. Tại sao? Kinh Thánh nói rằng vì Đức Kitô phục sinh đã hiện ra với ông. Thật là cú sốc cho người anh em của ông còn sống, sau khi nghe tin này. Tông đồ Giacôbê và các tông đồ khác cũng đều trở thành các nhà truyền giáo hăng say vì họ đã được thấy và chạm vào Đức Kitô phục sinh. Với các chứng nhân như vậy, Giáo hội sơ khai đã phát triển mau chóng, lan rộng từ Giêrusalem tới Tây phương, tới Rôma và xa hơn nữa. Cả hai ngàn năm qua, những người gặp được Đức Giêsu phục sinh đều thay đổi cách sống.
- Đám đông
Đám đông hơn 500 người đã cùng nhau tận mắt thấy Chúa Giêsu phục sinh (1 Cr 15:6-8). Thánh Phaolô nói rằng đa số họ còn sống khi ông viết lá thư đó, khoảng năm 55 sau công nguyên. Chắc chắn họ nói với người khác về “sự lạ” này. Ngày nay, các tâm lý gia nói rằng không thể có số đông người như vậy mà chỉ là ảo giác cộng đồng. Các nhóm nhỏ cũng thấy Chúa Giêsu phục sinh, chẳng hạn như các tông đồ, ông Clê-ô-pa và người bạn đồng hành. Họ cùng thấy một sự việc, còn trường hợp các tông đồ, họ còn sờ vào Chúa Giêsu và xem rõ các vết thương của Chúa Giêsu, rồi tận mắt thấy Ngài ăn uống nữa. Không thể nào là ảo giác, vì sau khi Chúa Giêsu lên trời, họ mới không còn gặp lại Ngài.
- Phaolô trở lại
Cuộc trở lại của Thánh Phaolô là bằng chứng mạnh mẽ về việc biến đổi cuộc đời mau chóng. Là Saolê cùa thành Tác-sô, ông là người bắt đạo dữ dội. Khi Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với ông trên đường Đa-mát, ông trở thành nhà truyền giáo của Kitô giáo. Ông chịu 5 lần đánh bằng roi, 3 lần đánh đập, 3 lần đắm tàu, 1 lần bị nén đá, chịu nghèo nàn và bị chế nhạo. Cuối cùng, hoàng đế Nê-rô của Rôma đã chặt đầu Phaolô vì tội không chịu bỏ niềm tin vào Đức Kitô phục sinh. Điều gì khiến Phaolô chịu cực hình như vậy? Các Kitô hữu tin rằng cuộc trở lại của Phaolô là nhờ ông đã gặp được Đức Kitô phục sinh.
- Người ta dám chết vì Chúa Giêsu
Vô số người đã dám thí mạng vì Chúa Giêsu, chắc chắn sự phục sinh của Chúa Giêsu là một sự kiện có thật trong lịch sử. Truyền thống nói rằng có 10 tông đồ trong Nhóm Mười Hai đã tử đạo vì Đức Kitô phục sinh. Hàng trăm, hàng ngàn Kitô hữu thời sơ khai đã chịu chết tại đấu trường Rôma và tại các nhà lao tù vì họ vững tin vào Đức Kitô phục sinh. Ngày nay, người ta cũng vẫn bị bách hại vì tin vào Đức Kitô phục sinh. Rất nhiều vị tử đạo đã chết ở nhiều nơi suốt hai ngàn năm qua, vì họ vững tin rằng Chúa Giêsu sẽ ban cho họ sự sống đời đời.
TRẦM THIÊN THU
(Viết theo từ Y-Jesus.com và Christianity.about.com)
______________________________
(1) John W. Montgomery, Lịch sử và Kitô giáo (Downers Grove, ILL: InterVarsity Press, 1971), 78.
(2) Norman L. Geisler và Frank Turek, Tôi Không Đủ Tin Để Là Người Vô Thần (Wheaton, IL: Crossway, 2004), 243.
(3) Michael Green, Thập Giá Trống Trơn Của Chúa Giêsu (Downers Grove, IL: InterVarsity, 1984), 97, trích dẫn trong John Ankerberg và John Weldon, Biết Sự Thật Về Sự Phục Sinh (Eugene, OR: Harvest House), 22.
Kẻ Báo Thù Sẽ Chuốc Lấy Báo Thù Của Thiên Chúa!
Kẻ Báo Thù Sẽ Chuốc Lấy Báo Thù Của Thiên Chúa!
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Năm 1998 tôi mất đứa con gái cưng Marie-Lou, đang mơn-mởn trong lứa tuổi dậy thì. Marie-Lou đột ngột qua đời trong một tai nạn lưu thông do một tên tài xế bất cẩn say rượu gây ra.
Làm sao giải thích cho được và diễn tả cho cùng tâm tình ngổn-ngang rách-nát ruột gan của một người cha trong một hoàn cảnh tương tự??? Đứa con gái cưng duy nhất của bạn – một phần của chính bạn – bỗng dưng bị cướp mất sự sống chỉ vì một tên say rượu không kiểm soát được lay lái của hắn??? Cơn giận của tôi đùng-đùng nổi lên. Một niềm uất-hận vô bờ giáng xuống trên cái tên tài xế say rượu đã cướp trọn gia sản tinh thần quý báu nhất đời tôi! Tôi nghĩ rằng cuộc sống chấm dứt đối với tôi. Không còn gì trên cõi đời này là quan trọng đối với tôi! Tất Cả thực sự đã chấm dứt theo sau cái chết của đứa con gái cưng duy nhất.
Suốt thời gian chờ đợi cuộc xét xử tên tài xế sát nhân, tôi như người sống trong cơn mê. Tôi mong sao mau đến cái ngày quan tòa kết án tên sát nhân hầu tôi có thể hả giận và trút bỏ được cơn hận thù chồng chất trong lòng! Thế nhưng tôi đã lầm. Sự thật không phải như vậy. Quan tòa kết tội nhưng cơn giận trong lòng tôi vẫn không dứt. Tôi vẫn lê-thê tiến bước với cái giận dữ nung-nấu trong tâm hồn. Cho đến một ngày, 3 năm sau cái chết của đứa con gái cưng, một cuộc gặp gỡ đã làm đảo lộn tất cả.
Năm ấy tôi thường xuyên viếng thăm một người bạn bị bệnh nặng đang nằm điều trị nơi nhà thương. Bỗng một ngày – trong một lần viếng thăm bạn – tôi chạm mặt một phụ nữ trẻ tuổi khoảng đôi mươi. Nàng ngồi xe lăn nhưng toàn thân nàng lại toát ra một niềm vui sống dạt dào. Rồi một ngày nơi phòng đợi nàng bỗng vui vẻ kể cho tôi nghe lý do tại sao nàng phải ngồi xe lăn. Nàng đang đi môtô thì bị một tài xế lái ẩu chạy băng đèn đỏ đụng vào! Nghe nàng kể đến đây lòng tôi lại đùng đùng nổi giận, nhớ đến câu chuyện đau thương của chính mình! Người phụ nữ vui tươi kể tiếp. Trong vòng 18 tháng, kể từ khi tai nạn xảy ra, nàng không hề nuôi mối hận thù nào đối với người tài xế bất cẩn đã gieo tai họa cho nàng. Trái lại, nàng cảm thấy tri ân THIÊN CHÚA vì đã cho nàng niềm hạnh phúc vẫn còn sống bên cạnh Mẹ Cha và những người thân yêu. Rất có thể, nếu nàng bi-quan thù hận đời thì càng gây thêm nỗi đau đớn cho Cha Mẹ. Điều này không mang ích lợi nào cho ai hết: cho chính nàng cũng như cho các người thân yêu của nàng.
Lẳng lặng lắng nghe người phụ nữ trẻ tuổi – ngồi xe lăn – bày tỏ tâm tình, tôi bỗng như người vừa thoát ra khỏi cơn mê. Cho đến lúc đó, tuyệt đối tôi không thể nào tha thứ cho tên tài xế đã giết chết đứa con gái của tôi. Giờ đây, Caroline – tên người phụ nữ trẻ tuổi – dạy tôi bài học:
– THA THỨ là lãnh nhận niềm an bình nội tâm.
Ở đây – trong trường hợp của tôi – THA THỨ không phải là giải hòa với tên tài xế sát nhân mà là GIẢI HÒA với chính tôi. Khi tha thứ tôi được giải thoát khỏi hận thù và kể từ đó tôi có thể cùng với hiền thê nhắc lại bao kỷ niệm thân thương về đứa con gái dấu yêu đã sớm từ bỏ chúng tôi. THA THỨ trao ban cuộc sống mới cho tình yêu phu thê của hai vợ chồng chúng tôi.
Quả thật, từ hận thù đến THA THỨ chỉ có một bước nhỏ, vậy mà tôi đã phải mất đến 3 năm mới bước được, nhờ cuộc gặp gỡ đổi đời với một phụ nữ trẻ tuổi tàn tật.
(Chứng từ của ông Jean-Michel người Pháp).
… “Oán hờn và giận dữ là những điều ghê tởm, về chuyện đó kẻ tội lỗi có biệt tài. Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của THIÊN CHÚA, tội lỗi nó, Người xem xét từng ly. Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được thứ tha. Người với người cứ nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin THIÊN CHÚA chữa lành! Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình! Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận, thì ai sẽ xin tha tội cho nó? Hãy nhớ đến ngày tận số mà chấm dứt hận thù, nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết mà trung thành giữ các điều răn. Hãy nhớ đến các điều răn mà đừng oán hờn kẻ khác, nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao mà không chấp nhất điều lầm lỗi” (Sách Huấn Ca 27,1/28,1-7).
(“Annales d’Issoudun”, Janvier/2008, trang 9)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt, 2/3/2015
Cầu Nguyện
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
đón nhận những người khác
là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
con không thể nào kính trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì mau da, vì cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
có những ngày
mà yêu mến người khác
làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau
và những giới hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa
và đừng để con quên Lời Chúa nói:
“Ðiều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
là làm cho chính Ta.”
(Trích trong PRIER)
Gx. Thiên Thần

TRẢI NGHIỆM KHI CẬN KỀ CÁI CHẾT CỦA CHA JOSE MANIYANGAT
TRẢI NGHIỆM KHI CẬN KỀ CÁI CHẾT CỦA CHA JOSE MANIYANGAT
Cha Jose Maniyangat hiện làm quản xứ Giáo xứ Công giáo Đức Mẹ Lòng Xót Thương ở Macclenny, Florida .
Đây là lời chứng của Ngài:
Tôi sinh ngày 16.07.1949 ở Kerala, Ấn Độ. Cha Mẹ tôi là ông bà Joseph và Theresa Manuyangat. Tôi là con cả trong 7 anh em : Jose, Maria, Theresa,Lissama, Zacharia, Valsa và Tom.
Khi lên 14, tôi gia nhập tiểu chủng viện Đức Maria ở Thiruvalla để bắt đầu đi tu làm linh mục. Bốn năm sau, tôi vào Giáo Hoàng Chủng Viện Thánh Giuse ở Alwaye,Kerala, để tiếp tục đào tạo làm linh mục.
Sau khi hoàn tất bảy năm triết học và thần học, tôi được truyền chức linh mục ngày 01.01.1975 và làm một thừa sai trong giáo phận Thiruvalla.
Chúa Nhật 14.04.1985, Lễ Lòng Chúa Xót Thương, tôi đi dâng Thánh Lễ tại một nhà thờ thuộc điểm truyền giáo ở phía Bắc Kerala và bị một tai nạn chí tử: tôi đang lái xe gắn máy,thì bị đâm đầu vào một chiếc xe jeep do một người đàn ông say khướt sau một lễ hội Ấn giáo, điều khiển. Tôi được đưa gấp vào bệnh viện cách đó khoảng 35 dặm. Trên đường đi, linh hồn tôi lìa khỏi xác và tôi đã cảm nghiệm cái chết. Tức khắc, tôi gặp Thiên Thần Hộ Thủ của tôi. Tôi nhìn thấy thân thể mình và những người đến mang tôi vào bệnh viện. Tôi nghe họ khóc và cầu nguyện cho tôi. Vào lúc ấy thiên thần của tôi nói với tôi :” Ta đến đem người vào thiên đàng, Chúa Giêsu muốn gặp người và nói chuyện với người”. Thiên thần cũng cho biết rằng dọc đường Ngài muốn chỉ cho tôi thấy Hoả Ngục và Luyện Ngục.
HOẢ NGỤC.
Trước hết, Thiên thần hộ tống tôi đến Hoả ngục. Thật là một cảnh tượng khủng khiếp! Tôi nhìn thấy Satan và ma qủy,một ngọn lửa không thể dập tắt khoảng 2.000 độ F, những con sâu bọ lúc nhúc, những con người gào thét và dẫy dụa, những kẻ khác đang bị lũ qủy tra tấn. Thiên thần nói với tôi rằng tất cả những sự chịu đau đớn nầy là vì đã không ăn năn thống hối các tội trọng. Sau đó, tôi hiểu rằng có 7 cấp hoặc bảy mức chịu đau đớn, tùy theo con số và các loại tội trọng đã phạm khi còn sống ở trần gian. Các linh hồn trông rất xấu xí,hung tợn và khủng khiếp. Đó là một kinh nghiệm đáng sợ. Tôi nhìn thấy những người mà tôi đã quen biết, nhưng tôi không được phép tiết lộ danh tính của họ. Những tội lỗi khiến họ bị tuyên án chủ yếu là nạo phá thai,an tử,căm thù,không tha thứ và phạm sự thánh. Thiên thần nói với tôi rằng nếu họ đã chịu ăn năn sám hối, thì họ đã tránh được phải sa hoả ngục và thay vào đó sẽ được vào luyện ngục. Tôi cũng hiểu được rằng một số người nhờ hốn hận về những tôi lỗi nầy,mà đã có thể được thanh luyện khi ở trần gian nhờ những đau khổ họ chịu. Bằng cách nầy họ có thể tránh phải vào luyện ngục và vào thẳng thiên đàng.
Tôi sững sờ khi nhìn thấy cả các linh mục và giám mục trong hoả ngục, một số trong họ tôi không bao giờ trông đợi nhìn thấy ở đây. Nhiều người trong họ phải ở đây, vì họ đã làm cho dân chúng lầm đường lạc lối với lời giảng dạy sai lầm và gương xấu của họ.
LUYỆN NGỤC
Sau khi đã đi thăm Hoả ngục, Thiên thần hộ thủ của tôi hộ tống tôi đến Luyện ngục. Ở đây cũng vậy, có 7 cấp chịu đau đớn và lửa không bao giờ tắt. Nhưng ít nóng gắt hơn hoả ngục và không thấy cãi cọ đánh nhau. Sự đau đớn chính các linh hồn nầy phải chịu,là bị lìa xa khỏi Thiên Chúa. Một số trong những người ở luyện ngục đã phạm rất nhiều tội trọng,nhưng họ đã hoà giải với Thiên Chúa trước khi chết. Dù phải chịu đau đớn,họ vẫn được hưởng an bình và biết rằng một ngày nào đó họ sẽ được nhìn thấy Chúa diện đối diện.
Tôi đã có dịp giao tiếp với các linh hồn nơi luyện ngục. Họ xin tôi cầu nguyện cho họ và nói giùm với mọi người cầu nguyện cho họ nữa, để họ chóng được lên thiên đàng.
Khi chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn nầy, chúng ta sẽ nhận được lòng biết ơn của họ qua lời họ cầu nguyện và một khi họ được lên thiên đàng, lời cầu nguyện của họ sẽ càng trở nên xứng đáng hơn.
Thật khó cho tôi có thể tả lại Thiên thần hộ thủ của tôi đẹp dường nào. Ngài rạng ngời và chói sáng. Ngài là bạn đồng hành chung thủy của tôi và giúp đỡ tôi trong mọi thừa tác vụ của tôi, đặc biệt là tác vụ chữa lành. Tôi nghiệm thấy sự hiện diện của Ngài khắp mọi nơi tôi đi và tôi biết ơn Ngài vì đã che chở bảo vệ tôi trong suốt cuộc sống hằng ngày.
THIÊN ĐÀNG
Kế đó, thiên thần của tôi hộ tống tôi tới Thiên Đàng đi qua một hầm màu trắng lớn sáng chói loà. Tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được sự an bình và niềm vui như thế nầy trong đời.
Thiên Đàng lập tức mở ra và tôi nghe tiếng nhạc mê ly nhất mà tôi chưa từng được nghe trước đây. Các thiên thần ca hát và ngợi khen Thiên Chúa. Tôi nhìn thấy tất cả các thánh, đặc biệt là Mẹ Maria và Thánh Giuse,và rất nhiều giám mục và linh mục thánh thiện đang lấp lánh sáng như những vì sao. Và khi tôi xuất hiện trước Người, thì Chúa Giêsu nói với tôi :”Ta muốn con về lại thế gian. Trong cuộc sống lần thứ hai của con, con sẽ nói bằng một ngôn ngữ nước ngoài. Mọi thứ đều có thể xảy đến cho con với ân sủng Ta ban..”. Sau những lời nầy, Đức Maria nói với tôi :” Hãy làm bất cứ điều gì Người nói với con. Mẹ sẽ giúp con trong các thừa tác vụ của con”.
Lời nói không thể diễn tả hết vẻ đẹp của Thiên Đàng. Ở đó chúng ta tìm thấy được an bình và hạnh phúc nhiều dường nào, vượt qúa một triệu lần trí tưởng tượng của chúng ta.
Chúa Giêsu đẹp đẽ vượt xa hơn bất cứ hình ảnh nào có thể mô tả. Dung nhan Người rạng ngời và toả sáng và rực rỡ hơn ngàn vạn mặt trời đang mọc. Những bức hoạ chúng ta nhìn thấy trên thế giới chỉ là cái bóng vẻ lộng lẫy uy phong của Người. Đức Mẹ ở cạnh Chúa Giêsu . Mẹ xinh đẹp và rạng ngời biết bao. Không một hình ảnh nào chúng ta nhìn thấy trên thế giới có thể sánh ví được với vẻ đẹp thực sự của Mẹ.
Thiên đàng là quê thật của chúng ta. Tất cả chúng ta được dựng nên để đạt được tới Thiên Đàng và có được Thiên Chúa muôn đời. Và rồi tôi trở lại trần gian với thiên thần hộ thủ của tôi.
Trong khi thân thể tôi nằm ở bệnh viện, bác sĩ hoàn tất mọi kiểm tra và tôi bị tuyên bố là đã chết. Nguyên nhân dẫn đến cái chết là mất máu. Gia đình tôi được báo tin và vì họ ở xa, cho nên ban điều hành bệnh viện quyết định chuyển thi thể của tôi xuống nhà xác. Vì bệnh viện không có máy điều hoà không khí, họ quan ngại thi thể của tôi sẽ mau chóng bị phân hủy. Khi họ chuyển thi thể của tôi xuống nhà xác, thì linh hồn tôi trở về lại với xác tôi. Tôi cảm thấy một cơn đau hết sức mạnh do nhiều vết thương và xương gãy. Tôi bắt đầu thét lên. Bấy giờ người ta trở nên hoảng sợ và la lên rồi bỏ chạy hết. Một người trong nhóm lại gần bác sĩ và nói :” Thi thể đã chết nay đang kêu thét lên kìa!”. Vị bác sĩ đến kiểm tra thi thể và thấy tôi vẫn còn sống. Vì thế ông nói :” Cha vẫn còn sống. Đây là phép lạ! Hãy đưa Cha trở lại bệnh viện”.
Thế rối, khi được đưa về lại bệnh viện, họ chuyền máu cho tôi và làm phẫu thuật để chữa các xương gãy của tôi, những chỗ như hàm dưới, các xương sườn, xương chậu, xương cổ tay và chân phải. Sau hai tháng, tôi được cho xuất viện,nhưng vị bác sĩ chỉnh hình của tôi nói tôi sẽ chẳng bao giờ còn bước đi được nữa. Bấy giờ tôi nói với ông :” Đức Chúa, Đấng đã trả lại sự sống cho tôi và sai tôi về lại thế gian, sẽ chữa lành cho tôi”. Khi đã về đến nhà, tất cả chúng tôi cầu xin một phép lạ. Sau một tháng, khi đã tháo băng bó, tôi không tài nào cử động được. Nhưng một ngày nọ đang khi cầu nguyện, tôi cảm thấy một cơn đau phi thường ở vùng xương chậu. Sau một lúc ngắn, cơn đau biến mất hoàn toàn và tôi nghe một tiếng nói với tôi : “Ngươi được lành rồi. Hãy đứng lên và bước đi!”. Tôi cảm thấy sự an bình và sức mạnh chữa lành trên thân thể tôi. Lập tức tôi đứng lên và bước đi, Tôi ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho tôi phép lạ nầy.
Tôi báo cho vị bác sĩ tin tức tôi được khỏi bệnh và ông ta vô cùng sững sốt. Ông nói : “ Thiên Chúa của Cha là Thiên Chúa đích thực. Tôi phải theo Thiên Chúa của Cha”. Vị bác sĩ là một tín đồ Ấn giáo. Ông xin tôi dạy cho ông về Giáo Hội. Sau thời gian học hỏi đức tin, tôi đã rửa tội cho ông.
Theo lời dạy của Thiên Thần Hộ Thủ, tôi đến Hoa Kỳ vào ngày 10.11.1986 với tư cách một linh mục thừa sai… Kể từ tháng 06.1999, tôi là quản xứ Giáo Xứ Công giáo Mẹ Lòng Xót Thương, ở Macclenny, Florida .
(web giaoxukimphat.com)
Phép lạ tại Napoli nhân dịp Đức Thánh Cha viếng thăm thành phố
Phép lạ tại Napoli nhân dịp Đức Thánh Cha viếng thăm thành phố

NAPOLI. Hôm thứ 7, 21.3 vừa qua, khi Đức Thánh Cha Phanxicô đang chia sẻ với các tu sĩ, linh mục và chủng sinh tại Napoli, một phép lạ đã xảy ra: bình đựng máu khô của một vị thánh từ thế kỷ thứ tư đã hóa lỏng.
Hiện tượng này được cho là thường xảy ra tại đây ba lần trong một năm, vào ngày 1.5, ngày 19.9 (lễ kính thánh nhân) và ngày 16.12.
Lần cuối cùng hiện tượng này xảy ra đối với một vị giáo hoàng là vào năm 1848 với Đức Piô IX. Phép lạ này đã không xảy ra khi Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến viếng thăm thành phố Napoli vào tháng 10.1979 và cả dịp Đức Biển Đức XVI vào tháng 10.2007.
Máu này là máu của thánh Januarius, từng là giám mục Napoli và tử đạo vào thế kỷ thứ IV, bây giờ là bổn mạng xứ Napoli. Xương của ngài vẫn còn được bảo tồn trong Nhà thờ Chánh Tòa. Người ta tin rằng ngài đã chịu tử đạo trong thời kỳ bách đạo dưới thời Hoàng đế Roma Diocletian, người thoái vị vào năm 305.
Vào ngày 21.3, vào cuối buổi gặp gỡ các linh mục, tu sĩ và chủng sinh tại nhà thờ chánh tòa ở Napoli, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chúc lành cho thánh tích này. Khi Đức Hồng Y của giáo phận, Đức Crescenzio Sepe, nhận lại thánh tích, máu đã hóa lỏng một nửa.
Khi Đức Thánh Cha vừa quay đi, Đức Hồng Y nói với ngài rằng: “Dường như thánh Januarius yêu mến Đức Thánh Cha, vì máu thánh đã hóa lỏng một nửa rồi.”
Để phép lạ xảy ra, cần phải đợi vài phút trước khi khối máu đỏ và khô tiếp xúc với một phía của bình đựng hóa thành máu lỏng lan ra toàn bộ bình thủy tinh.
Đức Phanxicô hóm hỉnh trả lời: “Các bạn thấy là thánh nhân chỉ yêu mến chúng ta một chút thôi. Chúng ta cần phải hoán cải nhiều hơn.” Mọi người cười rộ lên.
Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
(theo http://www.catholicnewsagency.com)
Họa hay Phúc, một bài hay của Mr. Duy Anh
Họa hay Phúc, một bài hay của Mr. Duy Anh
Thánh Alphongsô kể lại câu chuyện về thánh Giuse như sau: Có đôi vợ chồng kia rất đạo đức, sốt sắng và có lòng sùng kính thánh Giuse cách đặc biệt. Hai vợ chồng cưới nhau đã lâu nhưng lại chưa có con nên hằng tin tưởng cầu xin với thánh cả Giuse.
Rồi họ được nhậm lời, người vợ sinh hạ được 3 cậu con trai ! Điều đó làm cho lòng họ càng thêm đạo đức và mến mộ thánh Giuse, họ gia tăng làm việc lành, nhất là trong dịp tháng 3 kính Thánh Giuse.
Khi cậu con trai cả lên 12 tuổi, vào ngày lễ kính Thánh Giuse (19/3), cậu được rước lễ lần đầu. Nhưng rồi 1 giờ sau, cậu cả đã qua đời. Không lẽ đây lại là 1 ơn lành sao ?
Dầu vậy, 2 vợ chồng kia vẫn không hề trách móc, oán thù, mà còn gia tăng lời cầu xin cho 2 đứa con còn lại đừng chịu chung 1 số phận như người anh cả.
Thế nhưng, đến năm sau, cũng chính vào ngày lễ kính Thánh Giuse, cậu con trai thứ hai lại lăn ra chết bất thình lình như người anh năm trước. Khỏi cần nói cũng biết nỗi đau của hai vợ chồng kia lớn biết chừng nào. Tuy nhiên, họ vẫn không mất niềm tin.
Vào một đêm kia, trong lúc hai vợ chồng còn đang chong đèn than thở thì được Chúa cho thấy cảnh tượng 2 người thắt cổ chết, bên cạnh còn có người thứ ba, dáng vóc khỏe mạnh, mặc áo Giám mục.
Rồi ngay lúc ấy, thánh cả Giuse lấy hình 1 ông già lão bước đến khuyên nhủ đôi vợ chồng: “Các con đau buồn làm chi. Hai đứa lớn nếu nó sống thì sau này cũng sẽ sinh tật trộm cướp và sẽ bị án thắt cổ như cảnh tượng các con vừa thấy đó. Vì thương chúng và thương các con, nên Chúa đã đưa chúng đi khi chúng còn đang trong sạch. Còn đứa thứ 3 sau này sẽ cứu được nhiều người tội lỗi trong cương vị Giám mục”. Nói xong, Thánh Giuse liền biến đi.
Hai vợ chồng được giải tỏa nỗi ưu phiền, họ không buồn đau nữa, và ngày càng tỏ rõ lòng kính mến Thánh cả Giuse. Về sau, đúng như lời thánh Giuse nói, đứa con thứ 3 khỏe mạnh, thông minh của họ đã trở thành Giám mục và mang rất nhiều người tội lỗi trở về cùng Chúa.
Quý Bạn bè và Anh chị em thân mến,
Thánh Giuse đã nhậm lời mời gọi hợp tác với xứ mệnh của Thiên chúa khi Sứ Thần hiện ra trong giấc mọ̉ng. Thánh Giuse đã vâng lời và âm thầm đón Đức Maria về chung sống và nuôi nấng Chúa Giêsu trong suỏ́t 33 năm trên trần gian. Thánh Giuse sẽ nhận lời những kẻ trông cậy chạy đến cùng ngài trong cơn gian nan khốn khó.
Vì vậy, chúng ta hãy đến với Thánh Giuse vừa để xin ngài cầu thay nguyện giúp trước tòa Chúa, vừa để noi gương ngài, học nơi ngài bài học âm thầm vâng phục trọn vẹn thánh ý Chúa. Thái độ vâng phục của thánh Giuse không thể hiện qua lời nói, nhưng qua việc làm. Thánh Giuse đem cả cuộc đời mình biến thành lời vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta học hỏi mẫu gương âm thầm và vâng lời của Thánh Giuse. Thánh Giuse gặp muôn ngàn thử thách, nhưng thánh nhân không có một lời than trách hay một thái độ phản kháng. Trái lại, thánh nhân đã mau mắn vâng theo thánh ý Chúa, cho dù có phải chấp nhận những gian nan, những vất vả, những cực nhọc, miễn sao thánh ý Thiên Chúa được chu toàn.
Nguyện cầu, xin giúp chúng con biết noi theo mẫu gương thánh Giuse để biết một niềm kính tin toàn vẹn và một lòng vâng phục thánh ý Chúa. Amen
SỰ CHẾT
SỰ CHẾT
Tác giả LM Nguyễn Tầm Thường, sj.
(Suy niệm mùa chay 2015)
Khi tôi được sinh ra là khởi điểm tôi bắt đầu đi về cõi chết. Làm gì có sự chết nếu không có sự sống. Làm gì có ngày người ta chôn tôi nếu không có ngày tôi chào đời. Như thế, cuộc sống của tôi là chuẩn bị cho ngày tôi chết.
Ngay từ trong bào thai của mẹ, bắt đầu có sự sống là tôi đã cưu mang sự chết rồi. Kết hợp và biệt ly ở lẫn với nhau. Trong lớn lên đã có mầm tan rã. Khi vũ trụ chào đón tôi, thì cùng một lúc, tôi bắt đầu từ giã vũ trụ từng ngày, từng giờ.
Mỗi ngày là một bước tôi đi dần về sự chết. Bình minh mọc lên, nhắc nhở cho tôi một bước cận kề. Hoàng hôn buông xuống, thầm nói cho tôi sự vĩnh biệt đang đến.
Không muốn nghĩ về sự chết tôi cũng chẳng tránh đuợc sự chết.
Tôi có thể không muốn nghĩ về sự chết nhưng tôi có ghét sự chết được không? Tôi ghét sự chết là tôi ghét chính tôi. Chết ở trong tôi. Tôi đang đi về cõi chết nên ngay bây giờ sự chết đã thuộc về tôi rồi. Sự sống của tôi hàm chứa sự chết, nên tôi yêu sự sống thì tôi cũng phải yêu sự chết. Vì vậy, cuộc đời có ý nghĩa vẫn chỉ là cuộc đời chuẩn bị cho ngày chết.
Trong dòng đời, tôi không sống một mình. Cuộc sống của tôi là tấm thảm mà mỗi liên hệ yêu thương là một sợi tơ, mỗi gắn bó quen biết là một sợi chỉ, anh em, cha mẹ, người yêu. Sự chết xé rách tung tất cả để tôi ra đi một mình. Chẳng ai đi với tôi. Vì thế, chết mang mầu ly biệt.
Sống là hướng về tương lai. Tương lai là cái tôi không nắm chắc trong tay, vì vậy, tôi hay nhìn về tương lai bằng nỗi sợ bấp bênh. Càng bấp bênh thì tôi càng tìm kiếm vững chãi, càng tích lũy. Nhưng tích lũy xong, xây đắp xong, vất vả ngược xuôi để rồi ra đi trắng đôi tay thì đời tôi thành đáng thương hại. Nếu tôi không đem theo được những gì tôi tích lũy, thì những gì tôi ôm ấp hôm nay chỉ làm tôi thêm đau đớn, nuối tiếc. Nếu không muốn vậy thì chúng phải là phương tiện để chuẩn bị cho giờ ra đi của tôi.
Tích lũy cho tương lai có thể là dấu hiệu khôn ngoan đề phòng những bất trắc có thể xẩy ra. Mà cũng có thể là một thứ nô lệ. Nếu suốt đời tôi lo âu tìm kiếm danh vọng, quá tham lam tiền bạc, lúc nào cũng bị vây khốn, băn khoăn thì đâu là niềm vui, tận hưởng.
Mà tận hưởng là gì? Ðâu là ý nghĩa của sự tìm kiếm? Tích lũy?
Kinh Thánh kể:
Có người trong đám dân chúng nói với Ðức Kitô: “Thưa Thầy, Thầy bảo anh tôi chia gia tài với tôi”.
Ngài đã nói cùng họ: “Hãy coi chừng! hãy lo giữ mình tránh mọi thứ gian tham, vì không phải ai được sung túc, là đời sống người ấy chắc chắn nhờ của cải”.
Ngài nói cùng họ một ví dụ rằng: “Có người phú hộ, ruộng nương được mùa, nên suy tính với mình rằng: ta phải làm gì? Vì ta không còn chỗ nào mà tích trữ hoa mầu nữa. Ðoạn người ấy nói: Ta sẽ làm thế này: phá quách các lẫm đi, mà xây những lẫm lớn hơn, rồi chất cả lúa mạ, và của cải vào đó, rồi ta nhủ hồn ta: Hồn ơi! mày có dư thừa của cải, sẵn đó cho bao nhiêu năm; nghỉ đi! ăn uống đi! hưởng đi! Nhưng Thiên Chúa bảo nó: Ðồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi sự ngươi đã sắm sửa, tích góp kia sẽ về tay ai? (Lc 12,13-21).
Không ai sống hộ tôi. Không ai chết thay tôi. Không ai đi cùng tôi. Tôi sẽ ra đi lẻ loi. Họ sẽ quên tôi cũng như tôi đã quên bao người. Có thể đôi khi họ nhớ tôi. Cũng như đôi khi tôi nhớ người này, kẻ kia. Nhưng nỗi nhớ chỉ là của riêng tôi, còn kẻ đã ra đi vẫn ra đi miền miệt. Thì cũng thế, chẳng ai làm gì được cho tôi lúc tôi ra đi không trở lại.
Chết là mất tất cả. Nhưng thánh Phaolô lại tuyên tín rằng chết là chiến thắng (1Cor 15,54). Chết là đi về sự sống vĩnh cửu. Chết là gặp gỡ. Gặp Ðấng tạo nên mình. Như vậy, chết là cánh cửa im lìm được mở ra để tôi về với Ðấng thương tôi. Chết là điều kiện để sống.
Chúa ơi, chết là đi về với Chúa sao con vẫn lo âu?
Phải chăng nỗi lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con sợ con có thể không gặp Chúa. Vì sợ không gặp nên chết mới là bản án nặng nề. Mà tại sao con lại sợ không gặp Chúa? Chúa luôn mong mỏi, đợi chờ con cơ mà. Như thế, muốn gặp Chúa hay không là do ý của lòng con. Con có quyền quyết định cho hạnh phúc của mình.
Chúa ơi, vì biết mình sẽ chết nên con băn khoăn tự hỏi bao giờ thì chuyến tầu định mệnh đem con đi. Hôm nay hay ngày mai? Mùa thu này hay mùa xuân tới? Con âu lo. Nhưng vì sao phải lo âu?
Phải chăng lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con chưa chuẩn bị đủ, là hồn con còn ngổn ngang. Có xa Chúa thì mới sợ mất Chúa. Sợ mất Chúa thì mới xao xuyến băn khoăn. Con biết thế, con biết rằng vì không sẵn sàng, vì không chuẩn bị nên mới hồi hộp, mất bình an. Con biết thế, con biết sau khi chết là hạnh phúc hay gian nan, là núi cao với mây ngàn cứu rỗi, hay vực sâu phiền muộn với đau thương. Nhưng chuẩn bị cho giờ ra đi không đơn giản Chúa ơi. Chúa biết đó, con đi tìm Chúa nhưng là đi trong lao đao. Bởi yêu một vật hữu hình thì dễ hơn lắng nghe tiếng gọi từ nơi xa thẳm. Giầu có và danh vọng cho con hạnh phúc mà con có thể sờ được. Còn hạnh phúc của đức tin thì sâu thắm quá.
Chung quanh có biết bao mời mọc. Kinh nghiệm cho con thấy rằng đã nhiều lần con bỏ Chúa. Như vậy biết đâu con lại chẳng bỏ Chúa trong tương lai. Nếu lúc đó mà giờ chết đến thì sao?
Chúa có nghĩ rằng khi con phải phấn đấu chối từ những rung cảm bất chính để sống theo niềm tin là thánh giá của con không. Chối từ tiếng gọi của tội lỗi đã là một thánh giá. Nhưng có khi lo âu vì không biết mình có từ chối được không còn là một thánh giá khác nữa. Chính đấng thánh của Chúa mà còn phải kêu lên: “Ôi! những điều tôi muốn làm thì tôi chẳng làm, những gì tôi muốn trốn tránh thì tôi lại làm” (Rom 7,15-16). Chúa thấy đó, vị tông đồ lớn của Chúa mà còn như thế, huống chi con, một kẻ mang nhiều đam mê, yếu đuối thì đường về với Chúa gian nan biết bao.
Ðể khỏi chết khi con chết, thì con phải chết trước khi con chết.
Cái chết đó là đóng đinh đời con vào thập giá. Con không biết con can đảm đến đâu. Con chỉ xin sao cho con tiếp tục đi mãi. Ði xiêu vẹo vì yếu đuối của con, nhưng vẫn tiếp tục đi.
Thập giá nào thì cũng có đau thương.
Con không muốn thập giá. Vì thập giá làm con mang thương tích. Chúa cũng đã ngã. Nhưng nếu sự sống của con mang mầm sự chết, thì trong cái chết của thập tự nẩy sinh sự sống. Chúa đã chết. Chúa hiểu nỗi sợ hãi của sự chết. Con vẫn nhớ lời Chúa cầu nguyện: “Lạy Cha, con xin phó hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Hôm nay con cũng muốn nói như vậy đó, với Chúa. Cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa dạy con rằng chẳng có sự sống nào mà không phải qua sự chết. Chết thì sợ hãi, nhưng nếu con yêu sự sống thì con phải yêu sự chết.
Con muốn chết để được sống.
Con sẽ đóng đinh đời con vào thập tự. Chúa ơi, Chúa có cho những lo âu của con là dấu chỉ tình yêu của một tâm hồn yếu đuối, đang thao thức đi tìm Chúa vì sợ mất Chúa không.
Lạy Cha, trong tay Cha con xin phó thác đời con.
LM Nguyễn Tầm Thường, SJ –
Trích trong Nước Mắt và Hạnh Phúc
CHÚA CHỮA LÀNH BỆNH UNG THƯ XƯƠNG THỜI KỲ CUỐI và GIẢI CỨU GIA ĐÌNH BÊN BỜ VỰC TAN VỠ.
CHÚA CHỮA LÀNH BỆNH UNG THƯ XƯƠNG THỜI KỲ CUỐI và GIẢI CỨU GIA ĐÌNH BÊN BỜ VỰC TAN VỠ.
LỜI CHỨNG CỦA CHỊ ANN, HOUSTON, TX.
Vào khoảng tháng 8-2014, gia đình tôi xào xáo nặng nề, chồng tôi bỏ nhà cửa, vợ con quay về sống với Bố Mẹ của anh, một hai tuần sau , tôi phôn cho Anh và nhỏ nhẹ, xuống nước, khuyên xin anh nghĩ lại và quay về với “bốn Mẹ con chúng em”, thì Anh tuyên bố:
– Một là ly dị, hai là cô phải bỏ job, bán nhà, quay về Dallas sống với Bố Mẹ tôi. Tôi phải báo hiếu và lo cho Bố Mẹ tôi.
Chương trình của Anh là chúng tôi sẽ bán căn nhà mà hai vợ chồng dành dụm mua được dù còn thiếu nợ nhà băng một phần, Anh định là sau khi trừ mọi chi phí thì đưa cho Bố Mẹ Anh giữ hết để các Ngài sắp xếp mọi sự theo ý, đại gia đình sẽ quây quần trong một mái nhà. Anh thực là một người con chí hiếu.
Thực tế này là một nan giải cho tôi , biết làm sao mà chọn lựa bây giờ đây, vì cũng giống như Anh , tôi đang có Job tốt ở Houston, nay về Dallas thì làm sao mà sống ? Đồng lương của Anh đang từ 25 dollar một giờ đã bị giảm đi còn có 15 đô vì công việc mới ở Dallas , là công việc thường không đòi kỹ năng của nghề tiện máy như là công việc cũ ở Houston. Phần tôi thì đang làm Nail được gần một ngàn một tuần, bỏ sang Dallas lần trước, lương bị giảm còn có chưa tới 400 dollars một tuần. Nhà cửa thì ở trong nhà Bố Mẹ của Anh, hai vợ chồng, ba đứa con thơ sẽ phải chui ra chui vào cái gara sửa lại làm phòng ở. Cả nhà sẽ không còn được tiện nghi như khi ở nhà riêng tại Houston, nhất là sự bất tiện ăn ở, học hành cho cả ba cháu bé mới có từ sáu đến tám tuổi rất tội nghiệp. Đó là chưa kể, sống chung trong một mái nhà với Ba Mẹ và Các Em thì rất e dè tinh thần tôi căng thẳng và dễ bị mệt nhọc.
Giải pháp sống chung trong đại gia đình ở Dallas đã được thử một lần và không có kết quả, nay chúng tôi đã ổn định ở Houston mà lại quay về con đường xưa thì thật là rủi ro nhiều…
Họa vô đơn chí , trong lúc tôi đang bấn loạn vì cuộc chia tay và ly dị sắp xẩy đến, nhìn các con thơ dại , tôi không biết làm sao để lo cho chúng, trong lúc hốt hoảng, tôi lái xe loạng quạng và bị tai nạn, đụng xe phải đi nhà thương và tại đó, Bác sĩ đã khám phá ra một chuyện động trời khác, đó là … bác sĩ trong khi chụp hình chẩn đoán tai nạn đã khám phá và cho biết rằng tôi bị ung thư xương, …Tệ hại hơn nữa, ung thư đã phát tác đến thời kỳ cuối. Thông thường thì một khi ung thư xương đã lan sang các bộ phận khác của cơ thể, tỉ lệ sống sót trong vòng 5 năm là thấp, dưới 25 phần trăm, huống hồ chi sự nghiêm trọng của bệnh trong thân thể tôi còn nặng hơn mức độ của thống kê y khoa này nhiều! Bác sĩ khuyên tôi nên lo liệu gấp bảo hiểm và các loại an sinh khác, để có thể yên tâm vào giờ phút chót của hành trình Đời. Tôi không còn hồn vía và tâm trí nào, tôi chỉ biết xin Chúa cho tôi được một cơ hội thứ hai để tôi có sức khỏe hầu có thể lo liệu cho các cháu, mấy mẹ con quây quần với nhau sống qua ngày tháng.
Tiền nong , chồng tôi đã lấy và quản lý hết, tôi chỉ còn vỏn vẹn tiền lương tháng trước gần hai ngàn đô thì phải dùng để trả nợ nhà hàng tháng và các sở hụi khác, hoàn cảnh gần như trắng tay trong khi tôi phải nuôi ba đứa con thơ. Tôi đã không biết phải trả lời ra sao khi chúng ngước mắt ngây thơ và hỏi mẹ “sao Ba đi thăm Ông Bà Nội lâu quá chừng mà không thấy về nhà?”
Túng thế, tôi định đi ra FoodBank xin thực phẩm tạm thời cầm cự qua ngày, chỉ cần Chúa cho tôi khỏi đau nhức, có sức khỏe thì tôi có thể đi làm và có tiền ngay,nhưng mà … lực bất tòng tâm, trong tình trạng cạn kiệt cả về tinh thần lẫn thể xác. Tôi ngơ ngẩn như người đang trong cơn mơ, không còn sức để phấn đấu làm việc nuôi con tôi.
Trong khi đó, chồng tôi liên tục hối thúc tôi xúc tiến đơn ly dị, anh hằn học, lạnh lùng làm tim tôi đau nhói và tâm trí bấn loạn, thêm vào đó, người thân, bạn bè khuyên tôi thế này thế khác, phần tôi không biết phải nói sao với Anh vì chồng tôi vốn đã hơn mười năm bỏ Chúa, bỏ các quan hệ tốt lành với Cộng Đoàn và không đi nhà thờ, không xưng tội; Bí thế và quá tuyệt vọng, sợ mất hết và không còn gì để nuôi các con thơ dại, tôi đã đi gặp luật sư để xúc tiến thủ tục ly dị. Điều kỳ diệu Chúa đã quan phòng, mặc dù nhìn từ bên ngoài, nó giống như là sự tình cờ. Khi ấy, do bạn bè giới thiệu, tôi đã tìm đến gặp một luật sư Công Giáo, vị luật sư này, thay vì xúi xiểm kiện tụng và làm giấy tờ ly dị cho tôi với các thủ thuật tình tiết éo le để kiếm chác được nhiều tiền, thì lại khuyên tôi nên nghĩ đến tương lai của các con tôi và tìm kiếm giải pháp tốt nhất cho toàn gia đình, Luật sư nói “ ly dị tức là tan vỡ hết , mất mát hầu hết, nhất là làm trái ý muốn của Chúa, Ngài chỉ muốn chúng ta tha thứ cho nhau và cứu vãn, tạo cơ hôi cho con cái lớn lên trong mái ấm gia đình theo đúng như tinh thần trách nhiệm của bậc Cha Mẹ ” rồi cô mời tôi cầu nguyện với Chúa Giê Su, vị luật sư cho tôi biết là Chúa rất yêu thương tôi và muốn cứu gia đình tôi khỏi tan vỡ, chúng tôi cùng nhau thưa chuyện với Chúa kính yêu. Khi vị luật sư cầu nguyện thì tinh thần tôi thấy phấn khởi và nhất là chấn thương vốn đau buốt ở nơi vai phải tôi, đã có từ hai mươi năm trước, cũng như phần xương cốt bị ung thư của tôi , chúng có cảm giác nóng rần, rất nóng như là có luồng điện mạnh đang chạy vào đó, còn nói theo siêu linh thì giống như là một sự đụng chạm của Chúa, tôi mang máng cảm thấy và tự nhủ rằng có phải chăng, là Chúa đang chạnh lòng thương và chữa lành cho tôi đây ? …Rồi vị luật sư này đã giới thiêu tôi dến với Nhóm Thánh Linh Houston.
Các Anh Chị Em Thánh Linh ân cần lo lắng cho tôi giống như là người thân trong một đại gia đình đầm ấm, cả Nhóm Thánh Linh đã đặt tay cầu nguyện cho tôi và gia đình tôi. Về vật chất, dù không có nhiều nhưng các Anh Chị Em cũng chia sẻ phần vật chất cho mấy mẹ con chúng tôi. Đang trong hoàn cảnh tứ cố cô đơn, nay có cả một gia đình ôm ấp, thăm hỏi và chia sẻ. Có các Anh, Chị đã đến thì thầm với tôi, “Chị ơi, Chúa yêu thương Chị và các cháu lắm, Ngài không khi nào bỏ rơi chị đâu!” Một vài Anh, Chị trong Nhóm Thánh Linh ngay lập tức khuyến khích tôi hãy tham gia “ đường giây cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa và Mẹ Medju “ qua số phone 605-562-3140, (bấm mật mã, 460922#). Ngay lập tức tôi được Các Anh Chị khác và nhất là Cha Lê Thanh Quang cầu nguyện ngày đêm cho bệnh tật hiểm nghèo của tôi và xin Chúa một giải pháp tốt đẹp cho gia đình tôi. Trong các buổi cầu nguyện như thế này, các bệnh nhân suy yếu về phần hồn, phần xác đều được dâng lên cho Lòng Thương Xót Chúa, mọi người tin tưởng và căn cứ vào lời Chúa hứa với thánh nữ Fostina:
“Vào lúc 3 giờ chiều con hãy khẩn cầu Lòng Thương Xót của Ta cho các tội nhân cách riêng, và nếu có thể trong giây lát, con hãy trầm mình vào cuộc khổ nạn của Ta, đặc biệt lúc Ta bị bỏ rơi trong cơn hấp hối. Đây là giờ cao điểm của Lòng Thương Xót vĩ đại tuôn đổ xuống trên thế giới… Trong giờ này, Ta sẽ chẳng từ chối bất cứ điều gì với các linh hồn kêu van Ta nhân danh cuộc tử nạn của Ta” (Hồi ký đoạn số 1320).
Kể từ lúc gặp luật sư và được dẫn tới sự cầu nguyện với Lòng Thương Xót Chúa qua phôn, cho đến lúc tôi tái khám để trị liệu, do quá bối rối và bận rộn, thời gian đã kéo dài đến 1 tháng rưỡi. Tôi được gặp một Bác sĩ chuyên môn khác để xúc tiến việc điều trị bệnh ung thư, sau khi trải qua các đợt xét nghiệm, chẩn đoán mới, Bác sĩ đi đến kết luận rằng các tế bào ung thư đã không còn tìm thấy, chúng đã hoàn toàn biến mất trong các mô xương của tôi. Thật là kỳ diệu và tuyệt vời, sự chữa lành của Chúa khi ta kêu cầu danh cực trọng của Đức Chúa Giê Su kết hợp với việc kính nhớ Lòng Thương Xót Chúa.
Điều còn khó khăn hơn, và có lẽ khó khăn hơn nhiều, đó là làm sao thay đổi quyết định rất cứng rắn của Chồng tôi, điều này là khó khan vì Chúa cần sự cộng tác của người trong cuộc qua tâm tình ăn năn, sám hối, họ phải chịu để cho Chúa chữa lành vì Ngài vốn rất tôn trọng sự tự do chọn lựa của con người. Nếu ta quyết đinh không đi theo hướng dẫn của Chúa thì rất khó. Nhưng rồi, với sự hiệp lại cầu nguyện mạnh mẽ của mọi người trong cả hai nhóm, “Thánh LInh” và “Lòng Thương Xót” thì Chúa đã ra tay. “Ở đâu có hai, ba người họp lại vì danh Ta, thì có Ta ở đó, giữa họ” (Matthêu18:19-20)
Vài tuần sau cuộc nói chuyện qua phôn, thì Anh đòi giấy ly dị có chữ ký ưng thuận của tôi, tôi tìm cách mời Anh đến văn phòng luật sư của tôi để ký giấy, đang khi Vị Luật Sư e dè nhìn khuôn mặt rất lạnh lùng của Anh và ngại ngần khuyên giải về lợi ích cho con cái trong một gia đình có Bố có Mẹ ruột, khi vị Luật sư mời Anh cầu nguyện, thì Chúa làm cho lòng Anh mềm dịu lại và chấp nhận cùng cầu nguyện, rồi Chúa làm cho Anh chạnh thương vợ con và cảm thấy lòng phân vân khi nghe lời khuyên… Sau đó, anh đã hứa với vợ sẽ quay về “mái nhà xưa” nơi chúng tôi, Bốn Mẹ con ngày đêm mong ngóng chờ Anh. Thật là một niềm vui lớn lao cho mấy mẹ con chúng tôi!
Chúa Giê Su vị bác sĩ đại tài, chữa bệnh phần hồn, phần xác. Trong trường hợp của tôi và gia đình tôi, Ngài không dừng lại ở đó, Ngài còn muốn cho tôi nhiều hơn nữa khi Ngài đã chữa thêm cho tôi được khỏi bệnh đau khớp vai phải, đã hành hạ tôi trong suốt hơn hai mươi năm qua, mỗi khi tôi nâng đỡ vật gì dù nặng hay nhẹ nó rất buốt nhức. Nay vai tôi không còn đau nữa cho dù tôi thử nâng vác vật nặng. Cám đội ơn Vị Bác Sĩ đại tài, Đức Chúa Giê Su Ki tô. Cám ơn các con chiên của Ngài đã hiệp lại và cầu khấn Ngài cùng với tôi và cho tôi.
Tôn vinh Chúa của Lòng chạnh xót thương vì Ngài luôn trung thành giữ lời hứa với loài người chúng ta. Chính thánh nữ Fostina đã ghi rõ lời Chúa hứa thêm một lần nữa, như sau:
– Chúa nhắc lại: “Này con, Ta nhắc cho con nhớ, cứ mỗi lần nghe đồng hồ điểm 3 tiếng, con hãy gieo mình ngụp lặn vào Lòng Thương Xót của Ta. Hãy bái thờ và tôn dương Lòng Thương Xót. Hãy khẩn cầu quyền năng vô hạn của Lòng Thương Xót cho các tội nhân khốn nạn cách riêng. Bởi chính vào giờ điểm này, Lòng Thương Xót được mở rộng cho hết mọi linh hồn. Vào giờ này, con có thể nhận được bất cứ ân huệ nào cho chính mình và cho người khác qua lời cầu xin của con. Đây là giờ ân sủng của toàn thế giới. Lòng Thương Xót vượt thắng cả công lý …
Bạn biết không, tôi tin rằng cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa không chỉ có thể cứu gia đình tôi đâu, mà còn có thể cứu gia đình của chính Bạn nữa, Lòng Thương Xót Chúa có thể cứu Gia Đình của mọi người toàn Thế Giới bất kể họ tội lỗi nặng nề đến đâu.
Trong một thế giới bên bờ vực thẳm của sự tan vỡ vì bạo lực giết chóc, tra tấn tàn ác kinh hoàng xảy ra khắp nơi dù là ở Âu Mỹ, Á hay Phi Châu, vì gian dối, tham lam, bất công đầy dẫy, vì đam mê ngút ngàn trong nhục thú và nghiện ngập, vì thù hận thăm thẳm thì chúng ta càng cần đến ơn tuôn trào dạt dào của Lòng Thương Xót Chúa Giê Su đến mức độ nào. Hơn bao giờ hết Giáo hội , Nhân Loại vô cùng cần đến thần dược của sự Cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa và sự chuyển cầu, bầu chữa của Mẹ Maria.
Tôi xin mạn phép chia sẻ rằng mình hãy để giờ báo thức trên phôn vào lúc 15 giờ chiều và mỗi ngày nghe tiếng chuông báo thì ta cầu nguyện Lòng Thương xót Chúa, càng tuyệt vời hơn nếu ta có thể cầu nguyện với các Anh Chị Em khác qua phôn mỗi khi thuận tiện, Bạn có thể tham khảo chi tiết ở trang Web sau đây:
http://thanhlinh.net/node/83833
Hẹn gặp và hiệp thông với quý Bác, quý Bạn trong giờ cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa.
XIN TẠ ƠN BA ĐẤNG, GIÊSU – MARIA – GIUSE…
XIN TẠ ƠN BA ĐẤNG, GIÊSU – MARIA – GIUSE…
Trích EPHATA 641
Kính thưa quý độc giả Ephata, câu chuyện dưới đây đã xảy ra cách đây hơn hai năm, tuy nhiên tính thời sự vẫn cứ luôn nóng hổi nóng hổi. Chúng tôi đã đăng bài này trên báo Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp số 17 ra mắt tháng 2 vừa qua, nay lại xin gửi đến quý độc giả của Ephata số tân niên này, chỉ nhắm đến một điều là chúng ta cùng chia sẻ với nhau một niềm xác tín vào Thiên Chúa, lại khích lệ lẫn nhau cùng đứng vững trong tinh thần Bảo Vệ Sự Sống, như vậy mới mong đề kháng được với chủ trương phá thai, vừa duy vật lại vừa vô thần, hiện đang là chính sách của cả một chế độ xã hội, lại đã âm thầm xói món vào lương tâm của cả những người có tín ngưỡng tâm linh, nhất là người Công Giáo…
Ngày 14.11.2012, con có viết một E-mail nhờ cha Quang Uy cầu nguyện cho gia đình chúng con. Lý do vào thời điểm ấy, vợ chồng chúng con bị khủng hoảng và suy sụp do bác sĩ khám thai, bảo là thai nhi con của chúng con có nguy cơ dị tật Hội Chứng Down.
Cha Quang Uy đã cho chúng con lời khuyên là dứt khoát không nghe lời bác sĩ để bỏ thai nhi. Cha hứa sẽ cùng Nhóm BVSS, Nhóm Fiat hiệp ý cầu nguyện ngay. Đặc biệt sau đó, cha đã dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho con của chúng con vào lúc 20 giờ Lễ Xa Quê tại Nhà Thờ DCCT Chúa Nhật 18.11.2012.
Trong suốt thai kỳ của vợ con sau đó, chúng con da diết cầu nguyện nhiều hơn với Chúa Giêsu – Mẹ Maria – Thánh Giuse, chúng con cũng đặc biệt cầu nguyện với các Linh Hồn Thai Nhi và Thánh Giêrađô. Chúng con biết đến Thánh Giêrađô là do đọc kinh Bảo Vệ Sự Sống từ khi học Giáo Lý Hôn Nhân Agape của cha. Ngoài ra, khi con chợt nhớ đến bất kỳ Thánh nào, con đều cầu nguyện hết.
Thế rồi cha ơi, ngày 12.5.2013 vừa qua, vợ con đã sinh một bé trai 3,4 kg khỏe mạnh. Lúc đó, chúng con vỡ òa, rơi nước mắt vì hạnh phúc. Cảm tạ các Ngài đã nhận lời chúng con, và giờ bé rất kháu khỉnh, đêm về bé hơi khó chịu và hành mẹ chút xíu. Từ khi con của chúng con ra đời, chúng con có mệt hơn, cực hơn nhưng vui và hạnh phúc vô cùng, cha ạ !
Hằng ngày chúng con vẫn tiếp tục cảm tạ Chúa Giêsu – Mẹ Maria – Thánh Giuse, Thánh Giêrađô, các Thánh, các Thiên Thần, các Linh Hồn Thai Nhi, cũng như cầu nguyện xin tiếp tục gìn giữ ban bình an và khỏe mạnh cho con của chúng con. Chúng con đã chọn tên Thánh cho bé là Giêrađô Trần Đức Tín. Có lẽ chúng con tội lỗi, trước đây chúng con cũng ít đọc kinh tối và lười cầu nguyện nên Chúa muốn củng cố Đức Tin cho chúng con, đúng không cha ?
Cuối thư, con xin Chúa Giêsu – Mẹ Maria – Thánh Giuse và các Linh Hồn Thai Nhi đổ tràn hồng phúc cho quý cha trong Dòng. Con biết ơn cha Quang Uy đã dâng Thánh Lễ Tạ Ơn ngày 22.6.2013 ở Nhà Nguyện Hiệp Nhất DCCT và đích thân cử hành Bí Tích Thánh Tẩy cho cháu Đức Tín. Gia đình chúng con sẽ nhớ và cầu nguyện cho cha trong giờ kinh tối hằng ngày.
Giuse TRẦN VĂN THIẾT – Maria NGUYỄN THỤY MINH Ý
“MẸ ƠI, CON YÊU MẸ, YÊU TỪ HỒI THƠ BÉ…”
“MẸ ƠI, CON YÊU MẸ, YÊU TỪ HỒI THƠ BÉ…”
Trích EPHATA 641
Thằng nhóc người Mỹ phục vụ bàn tại nhà hàng mình làm là người theo đạo Cải Cách ( Reform Church ), nhánh Methodist. Bỗng dưng tuần trước, hỏi tôi: “Xếp ơi, xếp là người Công Giáo, có bao giờ xếp gặp Bà Maria chưa ?” ( Nguyên văn, thằng bé dùng từ “encounter” có nhiều nghĩa: chạm trán, gặp mặt, đối diện, chứng kiến một phép lạ của Mẹ Maria v.v… ).
Câu hỏi của cậu bé khiến mình suy nghĩ nhiều, cũng đến lúc mình nói lên chứng tá nhỏ bé của mình. Có lẽ sau “Jesus”, thì “Maria” là một tên gọi gây nên nhiều tranh cãi và nhạy cảm nhất. Lời mở đầu cuốn “More Than A Carpenter” của Josh McDowell, như sau: “…as soon as you mention Jesus, people often want to stop the conversation. Why have men and women down through the ages been divided over the question “Who is Jesus ?” ( ngay khi bạn đề cập đến Giêsu, người ta thường muốn ngưng đối thoại. Làm sao mà cả đàn ông lẫn phụ nữ trong mọi thế hệ cứ bị chia rẽ bởi câu hỏi này ?”
Mình muốn thay “Jesus” bằng “Maria” để minh họa khía cạnh ảnh hưởng rất sâu xa và rộng lớn của Mẹ Maria trong đời sống tâm linh và lý luận con người.
Điều gì đã làm cho một cái tên, một thôn nữ bình dị của làng quê Nazareth, được đề cập không nhiều trong Kinh Thánh, lại trở thành một tâm điểm cho nhiều lẽ sống, suy tôn, ca tụng, là cảm hứng cho mọi ngành nghệ thuật và cũng là chủ đề cho quá nhiều tranh luận và chia rẽ lớn lao ?
“Rất Thánh Mân Côi”, “Vô Nhiễm Nguyên Tội”, “Nữ Vương Hòa Bình”, “Mẹ đầy ơn phước” “Đấng Cầu Bầu”… Bao nhiêu là danh xưng, tước hiệu dành cho Mẹ Maria. Nhưng thú thật tôi lại rất say mê tước hiệu “Mẹ Hằng Cứu Giúp”. Vì một lẽ đơn giản, sự hiện diện rất rõ ràng và sinh động của Mẹ trong đời sống thế gian và cảm nghiêm tâm linh con người chính tôi.
Bác tôi là một Linh Mục, cuộc đời của bác có không biết bao lần bàn tay Mẹ can thiệp rõ ràng. Tôi chỉ xin kể lần cuối cùng. Lúc đó, bác đã rơi vào trạng thái “thực vật”. Bác sĩ gọi chị tôi và sơ phụ trách chăm sóc vào để thông báo ông đã hoàn toàn ở “trạng thái sống cũng như chết”, vậy chỉ còn vấn đề quyết định có chọn “an tử” hay không, nghĩa là nếu quyết định rút một sợi dây, bác sẽ ra đi nhẹ nhàng, còn ngược lại thì cứ để bác nằm đó, thoi thóp tội nghiệp ngày này qua ngày khác với đủ thứ máy móc, dây nhợ, có khi cả vài năm mới xuôi tay !
Chị tôi và bà sơ không thể quyết định, đúng là tiến thoái lưỡng nan, bỏ thì thương, vương thì tội đầy đầu ! Họ chạy ra ngoài, quỳ xuống ngoài hành lang nhà thương, và đọc kinh Mai Khôi cầu nguyện, chỉ ít phút sau, bác ra đi nhẹ nhàng và thanh thản, chẳng cần đến chuyện “trợ tử”, “an tử” chi cả !
Thời còn chiến tranh, đợt pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất, mấy chị em tôi nằm dưới cầu thang của tòa nhà, run rẩy vì sợ. Chị Cả nói tất cả hãy cùng đọc kinh Mai Khôi, vừa đọc vừa khóc. Sáng ra, nhìn cái chỗ hai anh em tôi vẫn chơi đùa, chi chít các loại đinh ghim có bốn cánh, khi bom nổ, bắn ra gây sát thương tàn bạo. Cái chỗ ấy chỉ cách chỗ ẩn nấp của chúng tôi một tấm vách gỗ mỏng mảnh mong manh !
Có lần tôi nhận giữ quỹ quyên góp cho người nghèo gửi về từ Mỹ. Sổ sách thế nào, khuyết mất 5.000 đôla. Một số tiền quá lớn lúc bấy giờ. Tôi lo đến tím tái cả người, làm sao bây giờ ? Tôi chả có bất kỳ chi tiết gì giúp hình dung số tiền đó ở đâu. Chả dám hé răng, cứ mê muội cả hai, ba tuần lễ liền. Thế rồi, trong trí nhớ chợt lóe ra một niềm hy vọng, tôi chạy đến trước pho tượng Mẹ Maria trong nhà, quỳ xuống cầu xin. Lạy Chúa tôi, tôi tìm ra ngay lập tức nguyên vẹn cái bao thư đựng tiền tôi làm rớt ngay dưới gầm cái tủ sắt, rất nhiều người làm ra vào, bất kỳ ai cũng có thể đã nhặt lấy và cầm đi cái phong bì ấy.
Có đến năm, sáu lần xảy ra những chuyện liên quan đến tiền nong tương tự, và chỉ sau lời cầu nguyện Mai Khôi, Mẹ lại giải quyết ổn thỏa, cứ như đùa, không tin không được !
Một người xếp cao cấp công ty dược phẩm kia, thân với tôi, ông gặp vấn đề xung khắc tinh thần, vì công ty ông sản xuất thuốc tránh thai, thuốc giục thai, thuốc phá thai, mà ông lại là người Công Giáo. Ông hỏi tôi: “Tôi nên làm thế nào ?” Cái tên kém cỏi về Giáo Lý như tôi làm sao mà đủ tư cách trả lời bây giờ ! Tôi hỏi cha Quang Uy, Cha nói: “Anh bảo ông ta cứ cầu nguyện xin Mẹ Maria hướng dẫn”. Tôi thậm chí bực mình vì cha Uy đã không đưa ra được một lời khuyên nào cụ thể, chứ nói như thế thì quá đơn giản, ai chẳng nói được. Nhưng rồi tôi cũng vâng lời làm theo đúng chỉ dẫn. Tôi tặng ông một chuỗi Mai Khôi, đem vào Nhà Thờ Phủ Cam, Huế, nhờ cha Sở thánh hóa… Chỉ ít lâu sau, ông xin nghỉ việc ở công ty dược phẩm kia một cách bất ngờ, và bây giờ, ông đang vận hành một công ty tư vấn riêng, rất thành công. Thỉnh thoảng ông vẫn gửi email cảm ơn vì đã “nhắc tôi cầu nguyện với Mẹ Maria, điều mà tôi không hề nghĩ là sẽ giải quyết được vấn đề cách trọn vẹn đâu ra đấy như thế !”
Những năm 1994, 1995 gì đó, ở Việt Nam rộ lên loại tội phạm chuyên bắt cóc người đem sang bán bên Kampuchia, con bé em lần đầu tiên lên Sàigòn học luyện thi Đại Học. Hẹn nó ở ngã tư Hàng Sanh, tới giờ, ra đón chả thấy đâu, nghĩ nó kêu xe ôm, chạy về nhà ở đường Hồ Biểu Chánh cũng chả thấy, lại chạy ra Hàng Sanh, rồi lại chạy về nhà… cứ thế cả gần bốn, năm vòng mà em thì cứ mất tăm. Vợ ngồi sau xe cứ sụt sịt khóc vì lo sợ. Vòng cuối cùng, tôi bảo vợ: “Thôi, phải đi báo Công An thôi”. Nhưng từ Phú Nhuận, tôi vòng qua Nhà Thờ Đức Bà và đọc một kinh Mai Khôi với lời cầu nguyện “xin Mẹ cho chúng con bằng an” rồi lại vòng lên Văn Thánh, về nhà, định bụng sẽ tới đồn Công An luôn, tự nhiên thấy đèn trên lầu sáng, gọi với lên, con bé em thò đầu ra… Hú vía, quát đứa em mà lòng bay bổng lên tới Mẹ Maria.
Khi vợ chồng tôi sinh cháu đầu lòng, cháu bị cái gì đó, không ra “phân su”. Vợ tôi là bác sĩ phán cho một câu bàng hoàng ngay trong nhà thương: “Anh ơi, nếu sau vài giờ nữa, không thấy ra phân su, con mình sẽ phải… đại phẫu !” Chúa ơi, sợ ơi là sợ, nhìn con khóc, bụng trương phình mà thắt cả ruột gan. Chạy một mạch ra Nhà Thờ Phú Hạnh gần đó, quỳ bên đài Đức Mẹ và nói lời cầu nguyện rối bời chả giống ai: “Mẹ ơi, xin Mẹ cho con của con nó chịu ra… phân su”. Về đến nhà thương, vừa đúng lúc, thấy bà ngoại đang giúp con thải ra một đống phân su đen và quánh đặc như nhựa đường. Lúc đó, tôi dường như muốn sụp xuống quỳ lạy Mẹ Maria một cách vô thức.
Và còn nữa, nhưng cũng chỉ là chuyện bé bỏng của cá nhân tôi…
Các Thầy Dòng Phanxicô luôn mang theo một chuỗi Mai Khôi lòng thòng ngay chỗ thắt lưng có sợi dây thừng màu trắng thắt ba cái nút tượng trưng cho ba lời khấn, ai cũng hiểu rằng, các Thầy coi đó là vật hộ thân, Đức Mẹ sẽ bảo vệ các thầy trên đường đời hành đạo, đi trên lưng lừa ngựa qua những con đường xa xôi, nguy hiểm để tới những nơi truyền giáo. Nhưng có lẽ, ít người biết một điều khác, và điều này các Thầy vẫn đang làm. Ngày xưa, khi cưỡi lưng ngựa, lừa, la đi trên con đường dài tới nơi cần, các Thầy dùng chuỗi Mai Khôi cầu nguyện và con đường sẽ trở nên ngắn hơn, hành trình như nhanh hơn. Các Thầy gọi đó là “The Franciscan way”. Lời cầu kinh Mai Khôi luôn làm cho các con đường đi trở nên dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Và bản thân tôi, khi lái xe tới chỗ làm hay từ chỗ làm lái xe về nhà hàng ngay, tôi vẫn làm Dấu Thánh và đọc Kinh Mai Khôi: “Kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa trời ở cùng Bà, Bà có phước lạ hơn mọi người nữ…”
Ks. THÁI VŨ, Texas ( Hoa Kỳ )

