Tình Mẫu Tử Bao La

Tình Mẫu Tử Bao La

Trước đệ nhất thế chiến 1914-1918, các xứ đạo tại Đức mở Tuần Đại Phúc.

Image result for duc me maria

Năm đó, một giáo xứ của giáo phận Aachen (Tây Đức), cũng mở Tuần Đại Phúc. Dịp này, Cha Sở mời Linh Mục Thừa Sai đến nói chuyện với giáo dân. Thánh đường chật ních tín hữu. Bổn đạo im lặng hướng mắt về tòa giảng. Vị Linh Mục Thừa Sai trạc ngũ tuần. Cha bắt đầu bài giảng như sau:

Một bà mẹ đau nặng gần chết. Tất cả con cái tề tựu quanh giường người hấp hối. Chỉ thiếu mặt người con út, đứa con trai hoang đàng. Đây là đứa con nhận lãnh nhiều tình thương nhất. Đáp lại, anh gây cho mẹ nhiều sầu khổ và đổ không biết bao giọt nước mắt. Giờ sau cùng đến, nhưng quí tử của bà đang bị giam tù, vì các tội ác của chàng. Dầu vậy người mẹ vẫn không quên đứa con út. Bà ao ước nhìn mặt con lần cuối. Các người con khác cố gắng thực hiện mong muốn của mẹ. Họ xin phép đặc biệt cho người em về thăm mẹ.

Phép xin được chấp thuận. Hai tay bị còng, đứa con út được bốn quân nhân hộ tống đưa đến cạnh giường người mẹ. Bà đã quá yếu. Bà không còn hơi để nói với con trai lời nào, dù chỉ một lời duy nhất. Nhưng tâm trí bà vẫn tĩnh táo. Bà chăm chú nhìn con yêu dấu lần cuối. Chỉ có thế. Chàng trai lại được bốn người lính đưa về nhà tù. Nhưng phép lạ đã xảy ra sau đó. Ánh mắt vừa sầu khổ, vừa yêu thương trìu mến của mẹ hiền có giá trị hơn ngàn lời sửa dạy trách mắng.

Một mình trong phòng giam chật hẹp, chàng quỳ gối nức nở khóc. Chàng hồi tâm về tất cả tội lỗi đã phạm. Chàng cũng bắt đầu cầu nguyện, van xin THIÊN CHÚA đoái thương tha thứ cho chàng. Sau đó chàng xin gặp Cha Tuyên Úy, vị Linh Mục mà trước đó không bao giờ chàng muốn thấy mặt, hoặc nghe nói đến tên. Chàng khiêm tốn xưng tội và thật lòng ăn năn thống hối.. Từ đó cuộc đời chàng biến đổi hẳn. Ơn thánh hoạt động và tìm được thửa đất tốt để nẩy mầm rồi sinh hoa kết trái.

Mãn hạn tù, người con trai hoang đàng trở lại gia đình và trường học. Xong bậc trung học chàng xin vào chủng viện. Mấy năm sau chàng được thụ phong Linh Mục. Nhưng vị tân Linh Mục không ngừng lại ở đó. Cha tình nguyện đi truyền giáo tại một xứ đạo nghèo bên Phi Châu…

Nói đến đây, vị Thừa Sai ngừng lại. Cha đưa mắt nhìn mọi người rồi chậm rãi nói:

– Anh chị em có biết chàng trai hoang đàng trở thành Linh Mục đó là ai không? Thưa chính tôi đây!

Bài giảng tiếp tục. Nhưng phần đầu đã gây tác động mạnh trên tâm lòng các anh chị em tín hữu có mặt trong nhà thờ hôm ấy…….

Câu chuyện xảy ra cách đây hơn 90 năm và vị Linh Mục đã là người thiên cổ. Câu chuyện thứ hai của vị Linh Mục vẫn còn sống: Cha Mansour Labaky, người Liban. Cha cộng tác với hai văn phòng chuyên giúp đỡ các trẻ bụi đời ở Paris, thủ đô nước Pháp. Cha nói về hiền mẫu trong công trình đưa Cha đến thiên chức Linh Mục như sau.

Năm đó tôi vừa xong bậc tiểu học. Tôi thưa với mẹ về ước muốn trở thành Linh Mục và xin phép mẹ gia nhập chủng viện. Mẹ vui mừng lắng nghe tôi trình bày. Mẹ tôi cảm động nói:

– Mẹ sẽ đồng hành với con trong thời gian con chuẩn bị tiến lên chức vụ Linh Mục.

Mẹ tôi chỉ nói có thế.

Thời gian trôi qua. Một tháng trước ngày tôi thụ phong Linh Mục, mẹ tôi chỉ cho tôi bình lúa mì và nói:

– Con yêu dấu, kể từ giây phút con chính thức báo tin muốn trở thành Linh Mục, mẹ quyết định sẽ dâng nhiều hy sinh để cầu xin Chúa giữ gìn con trung thành với ơn gọi. Mỗi lần làm một hy sinh, mẹ bỏ vào bình một hột lúa mì. Tất cả hạt lúa mì sẽ được xay, rồi tán nhuyễn thành bột và đúc thành chiếc bánh lễ, để con thánh hiến, trong ngày con dâng lên THIÊN CHÚA Thánh Lễ đầu tay. Con hãy nhận các hạt lúa mì này, ghi dấu tình mẹ thương con và cộng tác với con. Bao lâu Chúa cho mẹ còn sống, mẹ sẽ tiếp tục hợp tác với chức vụ Linh Mục của con, bằng những hy sinh trong cuộc đời khiêm tốn thường ngày của mẹ.

(“IL SEME”, 12/1990, trang 21 – Radio Vatican)

Lạy Chúa, Chúa đã gởi con đến với đời qua đôi dòng sữa một người mẹ, xin gìn giữ mẹ lúc người còn sống, xin dủ lòng xót thương khi người đã khuất núi. Xin cho những đứa con còn mẹ hôm nay luôn biết trân quý món quà vô giá đó. Xin cho những người con mất mẹ biết tìm chỗ tựa nương ủi an bên Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Amen

Con nhỏ không mắt

Con nhỏ không mắt

Hai sinh viên Y khoa ở Zurich – thành phố lớn nhất của Thụy Sĩ – nhân dịp kỳ nghỉ Giáng sinh, đáp phi cơ từ Zurich đi Lisbon – thủ đô của Bồ Đào Nha -, rồi từ Lisbon đáp xe đò ngược lên Fatima.  Hai sinh viên này, một Công Giáo, một Tin Lành, cả hai đều 20 tuổi.

Anh sinh viên Tin Lành là con duy nhất của một gia đình khá giả ở Zurich. Anh muốn đến Fatima để tạ ơn Đức Mẹ, vì nhờ ơn Đức Mẹ anh qua khỏi một căn bệnh nguy hiểm, mà theo các bác sĩ, không hiểu nổi theo cách thức thông thường.

Chiều 24-12-1967,  hai anh tới Lisbon và lúc 22giờ30 thì tới Fatima. Trời gió lạnh. Mưa lâm râm. Công trường trước Thánh đường vắng vẻ, mênh mông…. Trong nhà nguyện – nơi Đức Mẹ hiện ra 6 lần cách đây 50 năm – chỉ có vài chục người đang đọc kinh, cầu nguyện… Hai anh vào Nhà Nguyện được ít phút, còn đang mải mê ngắm nhìn tượng Đức Mẹ Nữ Vương Mân Côi, thì một phụ nữ trẻ bước vào, trên tay bồng đứa con nhỏ, đầu và nửa mặt trên bưng kín, nằm gọn trong bộ đồ ấm mùa đông.  Bà đến trước tượng Đức Mẹ Nữ Vương Mân Côi, lộ vẻ đau khổ, lâm râm khấn cầu, nâng đứa con dâng cho Đức Mẹ, rồi hạ xuống, nước mắt chan hòa..  Những người có mặt đều nhìn mẹ con bà với vẻ cảm thông, thương xót. Một bà trong đám lại gần, hỏi đứa nhỏ bệnh tật, ốm yếu ra sao? Bà mẹ trẻ trào nước mắt, lật cái khăn bịt đầu đứa nhỏ ra: Trời ơi, một con nhỏ, mặt nhẵn thín, không có mắt, chỉ có mũi và miệng.  Từ trán đến mũi, miệng và hai tai, là một làn da thịt nhẵn nhụi.

Bà mẹ đau khổ thều thào trong nước mắt:  “Lạy Mẹ, xin Mẹ thương con, xin Mẹ thương con nhỏ tội nghiệp. Xin Mẹ hãy nhớ, khi xưa sinh hạ Chúa Hài Đồng, Mẹ sung sướng ẵm nhìn xiết đứa con vàng ngọc vào lòng. Còn con và con nhỏ này? Đau khổ biết bao, Mẹ ơi! Con gởi gấm nó cho Mẹ, Mẹ đừng nỡ để nó đui mù suốt đời ”.  Bà nấc lên. Rút xâu chuỗi ở túi. Lần hột. Các người có mặt nãy đến giờ đứng nghe chăm chỉ… Có bà lại còn xụt xùi, chùi nước mắt… Rồi một bà đứng ra nói: “Thôi, xin tất cả các bà, chúng ta cùng nhau đọc một chuỗi kinh kính Đức Mẹ Nữ Vương Mân Côi, cầu cho mẹ con bà này ”.  Đọc kinh đến nửa mùa, quãng một giờ sáng  (25-12-1967),  con nhỏ dẫy dụa, rên rỉ, khóc. Bà mẹ lật tấm khăn bịt đầu, xem có chuyện chi mà nó khóc. Vừa lật tấm khăn lên, bà há miệng, ớ một tiếng lớn, đầy kinh ngạc… Mọi người bỏ cả đọc kinh, xúm lại quanh hai mẹ con, thì ớ kìa: ngay bên dưới trán con nhỏ, xuất hiện hai lỗ nhỏ xíu, rồi từ đó hai đường nứt nhỏ cứ lớn dần dần, lan ra phía bên tai, rồi hai con mắt hiện ra… Con nhỏ ngỡ ngàng, nhìn má, nhìn mọi người… như một tạo vật vừa từ trời rớt xuống…Mọi người sửng sốt, reo hò, mừng rỡ, túm tít chung quanh hai mẹ con, cười cười, nói nói, hỏi han đủ truyện, quên cả ván kinh đang đọc giở…

Hai anh sinh viên được chứng kiến tận mắt chuyện lạ . Cảm xúc vô cùng. Sau khi về lại Zurich, cả hai anh nhất trí khước từ mọi sự, ngoại trừ việc học hỏi thêm về Chúa.  Hai tháng sau, cả hai anh bỏ Đại học. Cả hai cùng đi Nam Mỹ, giúp việc truyền giáo trong một Nhà thương cùi. Anh sinh viên Tin Lành đã gia nhập Công Giáo… Vì lòng khiêm tốn, hai anh xin ẩn danh.

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Chứng từ của một Tân Tòng về Quyền Năng của Chúa Thánh Thần

Chứng từ của một Tân Tòng về Quyền Năng của Chúa Thánh Thần

Thanhlinh.net

Chứng từ của một Tân Tòng về Quyền Năng của Chúa Thánh Thần

Tôi, Một tân Tòng được làm con cái Chúa sau 39 năm bị trói buộc bởi quyền lực của Satan, tôi muốn lần lượt viết lại tất cả những gì đã xảy đến cho tôi trong một thời gian rất dài, một hành trình về nhà Cha một cách lạ kỳ và đầy dẫy những trông gai hiểm trở.  Tạ ơn Chúa vì Ngài đã kiên nhẫn chờ đợi tôi, mặc dầu tôi là kẻ hèn mọn; vô ơn và bất xứng với tình yêu của Ngài. Tôi không biết phải nói lên ngôn ngữ nào của loài người để có thể diễn tả một Thiên Chúa quyền năng vô biên nhưng lại hạ mình yêu tôi vô điều kiện, mặc dầu tôi chỉ là một người ngọai đạo.

Chúa hiện hữu qua Đức Mẹ

Năm 1976, qua một tai nạn cướp xe, họ đập vào sau gáy tôi bằng một thanh sắt dài,  tôi được đem đến bệnh viện Chợ Rẫy, qua Xray  tôi bị nứt sọ và bị chấn thương rất trầm trọng, tuy không chảy máu nhưng đầu tôi xưng phồng như trái bưởi, chỉ có thể ngồi dựa lưng vào ghế 24/24 vì không thể nằm, không ăn, cũng như không ngủ được một chút nào.

Tôi la khóc suốt ngày đêm với ơn đau dữ dột từ não. Thời gian đó tôi không được uống thuốc giảm đau vì tài chánh eo hẹp, thuốc lại rất hiếm. Bác sĩ quyết định giải phẩu vào 8h sáng ngày hôm sau.

9h tối đêm đó, từ sâu thẳm tâm linh, tôi nghe một tiếng chớp như sấm sét và một Tượng Đức Mẹ mấu trắng hiện ra cách tôi một mét, trên tay bà cầm trái địa cầu nhỏ mầu trắng.

Từ bức tượng phát ra một tiếng nói rất rõ bằng tiếng Việt: Ta là Mẹ Maria đến để cứu con, vết nứt sẽ tự lành, không phải mổ. và bức tượng biến mất. Quả thật sáng hôm sau, vết nứt đã tự lành tôi không phải mổ và cơn đau cũng biến mất. Tôi trờ về với cuộc sống bình thường. Tạ ơn Chúa và Mẹ Maria đã cứu chữa con một cách thật nhiệm mầu, mặc dầu con không cầu khẩn vì không nhận biết Ngài là Thiên Chúa của con.

Năm 1980 gia đình tôi nhận được giấy bảo lãnh của  chị tôi từ Canada. Tôi đạp xe xuống nhà thờ Đức Bà, Sài Gòn. Qùi dưới chân tượng Chúa, tôi khẩn cầu cho chuyến bay được bình an, mọi việc được suông sẻ .

Đêm đó tôi nằm mơ, từ trong tâm tôi nghe một tiêng nói dặn dò: Chuyến bay vào tuần thứ nhất sẽ bị hoãn lại và con sẽ đi vào chuyến bay tuần thứ hai. Quả thật, chuyến bay của tuần thứ nhất có danh sách gia đình tôi bị hoãn lại và đúng 7 ngày sau chúng tôi được đi vào chuyến thứ hai y như  lời đã báo trước với tôi trong giấc mơ.

Chết Đi Sống Lại.

Sáng 1/1/2002 tôi không dậy được. Lúc đó là 11 giờ sáng, chồng tôi vào đánh thức thì thấy người tôi đã cứng ngắc. Anh kêu xe cứu thương đến, họ cho biết tôi đã chết được 4 giờ. Họ đưa tôi vào bệnh viện, tôi bị hôn mê sâu, họ đưa tôi vào phòng hồi sinh. Sau 24 giờ ở phòng hồi sinh, tôi vẫn không tỉnh dậy, họ đưa tôi vào nhà xác, họ bảo sẽ để tôi ở đây trong vòng 72 giờ. Qua hai ngày tôi vẫn không thức dậy. Đến ngày thứ ba thì cô y tá thấy tay tôi nhúc nhích. Cô báo cho bác sĩ, bác sĩ thấy tim tôi đập lại và ông cho tôi về. Ông cho biết tôi sẽ bất động trong 6 đến 7 tuần.

Trong khi tôi ở trong tình trạng hôn mê sâu, tôi mơ thấy có một ông đi ngang, đầu đội mũ gai, tôi hỏi: Ông là ai?. Ông trả lời: Ta là Giêsu và tôi thấy ông bị đưa lên đồi. Ông nói với tôi bằng tiếng Việt rất rõ: Con lấy khăn trắng  nhúng nước sông lau mặt đi, con sẽ sống lại vào ngày thứ ba. Ông nói chữ đi rất mạnh, như một mệnh lệnh. Tôi chạy tới bờ sông, ở đó có một chiếc khăn trắng, tôi nhúng nước lau mặt Chúa vì tôi thấy trên má Chúa có vết máu nhưng Chúa nói: Con lau mặt cho con và con đừng đi theo Ta, con đứng lại đi, và tôi tỉnh lại.

Mùa hè năm 2005 gia đình anh chị tôi từ bang California đến thăm tôi, vừa bước vào cửa nhà, chị dâu tôi đã khựng lại chỉ tay vào tấm hình tôi treo trên tường, đối diện với cửa chính. Chị hỏi tôi về nguồn gốc của tấm hình, và tôi có tấm hình này lúc nào? Tôi kể rằng: có một tầu ngọai quốc trong lúc đang cứu vớt những thuyền nhân bị nạn, ông thấy một vật lạ từ xa phóng tới, vội vàng ông lấy máy ra chụp khi rửa ra thì nó hiện nguyên hình ảnh của một con Rồng rất dài, trên 10 mét và mình nó rất  lớn. Mặt nó rât dữ tợn nhe răng như sẵn sàng nuốt chửng ai ở gần nó. Toàn thân nó bốc lửa, trên đầu con rồng có  một Người Nữ  mặc áo trắng, nhìn như thể Phật Bà Quan Âm, một tay cầm lọ Cam Lồ, một tay kia cầm cành Dương Liễu, tay bà có nhiều vết bầm tím.  Chị dâu tôi giải thích cho tôi biết là con rồng là hiện thân của Satan, quỷ dữ,  Đồng thời chị cũng cho tôi đọc một đọan Thánh Kinh để xác tín vế điều chị nói. Chị nói khi chị vừa bước vào nhà thì chị cảm thấy như có một tà lực từ hướng con rồng đẩy chị ra khỏi cửa, chị phải cầu nguyện mới có thể bước vào trong nhà.

Chị khuyên tôi nên bỏ tấm hình này đi và đừng thờ lạy nó nữa, nếu không nó có thể gây họa đến cho tôi và gia đình. Tôi cứ ừ hử cho qua chuyện vì trong lòng tôi vẫn yêu thích tấm ảnh này.

Tôi kể cho chị dâu tôi nghe về phép lạ mà Me Maria đã cứu tôi năm 1976 và tôi ngỏ ý muốn viết sách để vinh Danh Mẹ. Chị nói với tôi: ” em nên vào đạo Công Giáo để vinh Danh Chúa và Mẹ thì tốt hơn là viết sách. Hoặc em chỉ nên viết sách sau khi rửa tội thì mọi người sẽ tin em.” Chị khuyên tôi nên vô đạo để được làm con cái Chúa. Những ngày chị ở Canada chị luôn chia sẻ về niềm  vui của chị khi được là công Chúa nước trời. Chị cũng chia sẻ những kinh nghiệm của chị khi phải sống  trong quyền lực tối tăm qua bệnh tật, yếu đuối, và tội lỗi. Chị nói với tôi rất nhiều về một Thiên Chúa Ngôi Ba, đó là Chúa Thánh Thần. Chính Ngài đã Thánh hóa, chữa lành và giúp chị được biến đổi.

Sau khi rời Canada trở về nhà chị, chị luôn gọi tôi  và nhắc tôi phải phá hủy tấm hình đó càng sớm càng tốt, nếu không tôi sẽ tiếp tục gặp biết bao tai ương lẫn bệnh tật do nó đem lại . Quả tình đã có một lần tôi nghe lời chị, bắc thang leo lên để gỡ tấm hình nhưng tôi nghe một tiếng nói : “đừng, đừng làm như vậy” . Và điều đó như có một sức mạnh khiến tôi không thể tháo tấm hình xuống được.

Chúa lại cứu tôi

Năm 2007, tôi bị tai biến mạch máu não, tôi không bị liệt nhưng không còn nhớ gì. Tôi mơ thấy Thánh  Anrê thành Montréal. Thánh Anrê nói với tôi: 7 tuần sau con sẽ nhớ lại, con không cần phải mổ và con sẽ đi làm lại. Đúng sau 7 tuần, tôi hồi phục lại trí nhớ và tôi đi làm lại.

Chúa cứu mạng tôi một lần nữa qua cha Trương Bửu Diệp.

Tôi được biết đến cha Diệp qua một tờ báo, thấy người ta đăng báo tạ ơn cha rất nhiều. Tôi có cắt tấm hình cha đem về nhà, một vài lần tôi đã cầu nguyện xin ơn cho tôi, con và chồng, đều được cha nhận lời theo lời thỉnh cầu của chúng tôi.

Tháng 1, 2014

Từ Walmart về nhà tôi chỉ độ 5 phút nhưng vì trời đang bão băng tuyết bao phủ cả thước, mặt đường bị đóng băng, gió rất mạnh và tôi bị té trong lúc băng qua ngã tư, xương sườn đập mạnh xuống lớp đá cứng, vì té ngay trên đường xe chạy, quá đau tôi đã không thể tự đứng lên được. Trời tối đen, tôi lần mò tìm cell phone trong túi áo manteau gọi 911, nhưng không kịp vì một chiếc xe từ xa phóng tới. Tôi thét lên: Cha Diệp, và tức khắc có 2 bàn tay của ai đó nhấc bổng tôi lên và đem tôi khỏi con đường. Chiếc xe chạy qua mắt tôi rồi lui lại, tài xế hỏi tôi có sao không? Tôi đứng chết trân vì sự kiện sảy ra thật quá bất ngờ và khiếp đảm. Bà nói rằng tôi nhìn thấy một người đàn ông mặc áo chùng đen, mang thánh giá, có râu mép nhấc cô ra khỏi con đường, nếu không tôi đã không thể thắng  kịp và đã cáng ngang cô. Bà nói, ông đang đứng đàng sau cô đó. Tôi quay lại và không thấy gì, nhưng tôi biết người đó chính là cha Trương bửu Diệp. Cơn đau xương sườn của tôi cũng biến mất.

Qua tai nạn này tôi tình nguyện làm thỉnh nguyện viên đi xin chữ ký  khắp mọi nơi cũng như đến nhà thờ VN vào mỗi thánh lễ Chúa nhật. Đi đến đâu, tôi cũng chia sẻ chứng từ cha Diệp cứu tôi khỏi tai nạn. Niềm khao khát của tôi là cha Trương Bửu Diệp sớm được phong thánh và tôi quyết tâm dùng toàn thời gian rảnh rỗi để thu thập chữ ký của cả người lương cũng như  người công giáo.

Tháng 1 năm 2014, tôi nằm mơ thấy cha Trương Bữu Diệp bấm chuông, cha dắt tôi đi chùa. Cha mang thánh giá. Đến trước chùa, cha nói: Con vào đi, cha mang thánh giá cha không vào được. Cha đứng ngoài chờ tôi. Tôi thấy cha đứng ngoài trời nắng và đổ mồ hôi hột. Tôi rất xúc động, từ  giấc mơ đó tôi biết tôi phải đi theo Chúa.

Tháng 4 năm 2014, tôi kể các chuyện này cho chị dâu tôi nghe, chị nói với tôi: Người trong giấc mơ năm 2002 của em là Chúa Giêsu đó và Ngài nói lấy chiếc khăn trắng nhúng nước lau mặt là dấu chỉ Ngài muốn em rửa tội đó

Tôi hân hoan vui mừng vô cùng, tôi hiểu ra là Chúa thương yêu và gìn giữ mạng tôi tuy tôi là người ngọai đạo… Đến thánh đường tôi chảy nước mắt khi nhìn hình ảnh Ngài uy nghi sáng tỏa khắp nhà thờ. Tôi yêu Chúa đến nỗi không đến đườc nhà thờ là tôi bồn chồn, tiếc nuối và khóc rưng rức, nên dù có bận rộn cách mấy tôi cũng cố gắng đi dự lễ. Nhưng trong thâm tâm tôi như có một cản trở vô hình nào đó khiến tôi không sãn sàng nghĩ đến chuyện Rửa Tội. Mà thật tình tôi không hiểu vì sao ? Lúc đó tôi nghĩ rất hạn hẹp, dù rửa tội hay không rửa tội, miễn tôi yêu Chúa, tin Chúa và ca tụng Chúa là đủ, đủ để Ngài vui lòng khi thấy tôi không quên ơn Ngài. Đủ thứ chuyện làm tôi không hề muốn phải nặng lòng khi nghĩ đến 2 chữ vô đạo , tôi lo lắng viện đủ mọi lý do : sợ mình không hiểu về bài vở và sẽ bị rớt giáo lý; không đủ điểm để vào Công Giáo. Liệu chồng tôi có chấp nhân hoặc sẽ cùng vào đạo với tôi hay không?

Tôi vẫn tiếp tục đi chùa hằng tuần cùng lúc tôi cũng đi nhà thờ. Tôi không có sự chọn lựa chính xác, nói trắng ra tôi rất tránh né 2 chữ Rửa Tội; mặc dầu tâm tư tôi lúc đó hoàn toàn dâng trọn cho Chúa, tôi nhân ra sự bình an mỗi khi tôi ngắm nhìn và nghĩ đến Ngài, lúc đó tôi nhận ra 2 chữ đáng sùng bái nhất là: Giêsu KiTô.

Khi đi nhà thờ tôi có nói với  linh mục ĐTS là tôi được rất nhiều ơn lành của Chúa và đó là lý do cha thấy tôi đi nhà thờ mỗi tuần. Cha nói: vậy còn chần chờ gì nữa , bao giờ chị sẵn sàng thì cho tôi biết để tôi thông báo khi có khóa học giáo lý. Tôi lại kiếm chuyện từ khước: Thưa cha con rất bân….

Tôi không bao giờ nghĩ đến việc đi học giáo lý, cứ hẹn tới hẹn lui, không sốt sắng lắm mặc dầu trong thâm tâm tôi biết là tôi đang hướng về Chúa và tôi rất yêu Ngài.

Trong thời gian này tôi lại bị chứng trầm cảm, tôi sợ nghe tíếng người, sợ gặp người, ngoài trừ Chúa Nhật tôi đến nhà thờ dự lễ, hoặc phải đi làm còn tất cả thời gian còn lại tôi ngồi ở một xó tường, hoặc  trùm mền kín mít từ đầu đến chân, suất ngày nghỉ, đầu óc hoang mang, trống rỗng, không suy nghĩ, chán đời , nỗi buồn vô hình cứ đè nặng trong não tôi mà không biết lý do gì để buồn. Tôi có ýnghĩ tự tử cho thóat đi cảnh buồn chán này.

Từ từ tôi sống khép kín, không hăng say họat động, làm việc, suy nghĩ hay đọc sách như  trước. Cả ngày tôi chỉ uống một ly cafe độc nhất, đến tối tôi lết vô bếp nấu cơm cho mọi người, phần tôi chỉ ăn sơ sơ rồi lại đi tìm chỗ nằm tiếp. Thật sự tôi sợ cả việc hằng ngày trong đời sống, như chuyện chải đầu, nấu cơm… chuyện mà bình thường phải làm trong đời sống hằng ngày, nhất là phải ra đường vì tôi rất sợ gặp đám đông.

Tôi tự biết mình đang bị bệnh trầm cảm, lười nói, biếng ăn, đêm ngủ không thẳng  giấc, tôi cứ bị giật mình vào lúc nửa đêm và thức tới sáng. Tôi gầy và xanh sao, xuống cân cả chục ký chỉ trong vòng 2 tháng. Tôi bắt đầu sợ luôn ánh sáng mặt trời, tôi đóng kín tất cả màn trong nhà lại và một mình ngồi trong xó trong những ngày nghỉ. Tinh thần và thể xác tôi xuống dốc một cách thê thảm. Ý nghĩ tự tử cứ lởn vởn trong đầu óc tôi.

Nhưng chỉ có một điều lạ lùng duy nhất là tôi cứ mong đến Chúa Nhật để tôi đi nhà thờ, vì bão tuyết nên tôi không thể lái xe nên phải ngồi xe bus cả tiếng mới đến nơi. Bước vô nhà thờ, tôi cảm nhận được sư bình an khôn tả và đó là lý do tôi khao khát được đến nhà thờ.

Chúa Giải thóat tôi trong Quyền Năng  của Chúa Thánh Thần

Một buổi tối, tháng Năm 2014, cầm tấm ảnh cha Diệp tôi thủ thỉ với Ngài: Xin Cha cầu cùng Chúa cho con thóat khỏi cơn bệnh suy xụp tâm linh và thể xác này đi, cho con được trở lại trạng thái bình thường như trước. Lúc này tôi chỉ còn biết cậy trông vào phép lạ của Chúa. Và tôi bật khóc khi cảm thấy người mình nóng ran lên, ấm áp lạ thường như có một ngọn lửa nhỏ, rất nhẹ nhàng , từ từ hâm nóng toàn thân tôi, mặc dù thời tiết vẫn còn rất lạnh . Tôi lóe lên một tia hy vọng là Chúa đã nhậm lời.

Cùng thời điễm này chị dâu tôi cũng gọi cho tôi,chị ngỏ ý muốn được Rửa tôi trong Thánh Thần để tôi được biến đổi và đươc chữa lành. Chị hỏi tôi có chấp nhận dâng mình cho Chúa Giêsu và từ bỏ tất cả những gì không thuộc vế Chúa không? tôi bằng lòng và tuyên hứa tôi đồng phục Chúa và từ bỏ Satan  và những gì liên hệ đến chúng. Chị nói với tôi: Em đọc và hát theo chị mấy câu này nha, chị cầu nguyện và xin Chúa rửa em trong Thánh Thần.

Lúc đó tôi không hiểu câu chị nói là gì? tại sao phải Rửa trong Thánh Thần? tôi cũng không thắc mắc, chị đọc câu nào tôi lập lại câu đó. chị hát: Send your spirit….Alleluia …

Chị hát bao nhiêu lần tôi hát theo bấy nhiêu, chị đọc câu nào tôi lập lại câu ấy .

Tôi nói với chị: Em thấy có bóng người mặc áo trắng đặt tay trên vai em, ai vậy chị? chị trả lời: Chính Chúa, Ngài đến để ban Thánh Thần cho em qua lời khấn xin của chị em mình. Thật là mầu nhiệm và tôi cảm thấy bình an khôn tả.

2 tiếng sau, chồng tôi đi làm về tôi có kể cho anh nghe tất cả mọi việc. Anh chợt nói nếu đã quyết chọn Thiên Chúa thì nên chấm dứt tất cả những liên hệ bên chùa và đừng đi chùa nữa, chọn một bên thôi. Giọng anh chắc nịch như một mệnh lệnh, tôi giật mình sững sờ nhìn anh, vô cùng sung sướng vì không ngờ câu nói đó lại phát suất từ anh, một người vô thần, chẳng tin vào tôn giáo nào.

Cũng từ giây phút đó, ngay chiều hôm chị Rửa tôi trong Thánh Thần, tinh thần tôi bỗng hết trầm uất , trạng thái vui tươi và bình an khôn tả, tôi thích ra đường ngắm nhìn bầu trời trong xanh và tưởng tượng Chúa trên cao đang vui tươi nhìn tôi và tôi thật hạnh phúc.Tôi trở về sống với sinh họat bình thường, Chúa ban cho tôi một công việc mới vì tôi bị mất việc bởi bệnh trấm cảm.

Tôi can đảm gỡ bỏ tất cả những ảnh tượng không thuộc về Chúa, nhất là tấm hình có con rồng rực lửa. Lúc này tôi mới nhớ lời chị dâu tôi nói khi chị mới bước vào nhà tôi:” Nó là hình ảnh của quỷ dữ, Satan nếu em thờ lạy nó em sẽ phải khốn khổ vì nó’. Quả tình kể từ ngày tôi “thỉnh”  nó về biết bao nhiêu đại họa đã sảy ra cho tôi, tôi đã mang trong mình đủ lọai bệnh tật, bao nhiêu tai biến mà tôi đã kể trên. Tệ nhất là ước muốn tự tử. Tôi ném tất cả những vật này thật xa, cách nhà tôi khảng 2 cây số. Theo lời chị dâu tôi dặn là xin nước phép trong nhà thờ và với niềm tin mạnh mẽ tôi có thể nhân Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần thanh tẩy căn nhà của tôi, xua trừ mọi sự không thuộc về Chúa ra khỏi nhà tôi. Tôi  bắt đầu trưng Thánh Giá, tượng Đức Mẹ và hình cha Trương Bửu Diệp.

Chồng tôi bỗng dưng cho tôi biết là anh sẽ cùng tôi vào đạo. Điều này làm tôi muốn khóc, vì sau khi được Rửa trong Thánh Thần, ngày đêm tôi mong được ghi danh học giáo lý càng sớm, càng tốt. Tôi luôn nghĩ anh sẽ là một trở ngại cho tôi, ngay cả đi học giáo lý vào ngày Chúa Nhật anh cũng không thể vì là ngày đi làm của anh, và chính tôi cũng không đủ can đảm để đề nghị anh vô đạo vì tôi hiểu tính chồng tôi rất cứng cỏi, việc trước nhất là anh phải xin nghỉ việc ngày Chúa Nhật, nhưng làm sao có thể nghỉ được vì ngày cuối tuần là ngày họp của cả sở và đó là việc anh làm suất 20 năm. Chồng tôi nói anh đã khấn xin với cha Diệp 2 điều, một là anh xin được chữa lành gót chân bị tật không chữa được. điều thứ hai là xin cho bà boss cho anh được nghỉ ngày Chúa Nhật để đi học giáo lý. Điều thứ nhất cha đã nhận lời phục hồi gót chân anh, thế nên anh tin là phép lạ thứ 2 sẽ sảy ra.

Khi chồng tôi gặp bà boss và xin được nghỉ bà có hỏi lý do thì anh trả lời: tôi muốn vào đạo công giáo nhưng lớp dạy giáo lý không có ngày nào khác ngoài ngày Chúa Nhật. Nghe vậy bà hưởng ứng rất mau mắn : Tôi sẽ giúp anh và từ đây cả hãng sẽ họp vào ngày Thứ Bẩy và anh sẽ được nghỉ vào ngày chúa Nhật.

Lễ Phục Sinh  2015 vợ chồng tôi đã chính thức được rửa tội để làm con cái Chúa, lúc cha đổ nước trên đầu tôi một sự mầu nhiệm ập xuống toàn thân tôi , tôi hạnh phúc khôn tả khi nhớ lại Lời Nói khi xưa: Con hãy lấy tấm khăn trắng xuống sông rửa mặt 3 ngày sau sẽ sống lại.

Lời chị dâu tôi nói với tôi:” Chính Chúa Thánh Thần đã làm tất cả cho em vì em đã dâng mình em cho Chúa Giêsu và Ngài đã ban Thánh Thần cho em  để Ngài biến đổi mọi sự tốt lành cho em. Chỉ sau khi em được rửa trong Chúa Thánh Thần em đã trở thành một con người mới, cũng có nghĩa là em đã được Tái Sanh trong thần khí. Kể từ nay em sẽ xin vâng để Ngài có thể dùng em là công cụ của Ngài.” Chị cũng nói với tôi chính chị cũng được Rửa trong Thánh Thần trong dịp chị đi dự  khóa Canh Tân Đặc Sủng  sau khóa tĩnh tâm chị đã được chữa lành căn bệnh nan y mà khoa học đã bó tay và đồng thời dứt đi được căn bệnh trầm cảm giống như tôi.

Hôm nay tôi viết ra những lời này để làm chứng nhân cho quyền năng của Chúa Thánh Thần và tôi thật sự muốn vinh Danh Ngài. Đồng thời tôi cũng nói lên quyền lực của Satan, qủi dữ. Ước gì mọi người nhất là những người ngọai giống như tôi nhận biết được Thiên Chúa là Vua các vua, Chúa các Chúa, Ngài đang chờ đợt tất cả mọi người để ban ơn cứu độ cho họ, không phân biệt một tôn giáo nào. Hơn hết Ngài là Cha. Cha của tất cả mọi người, sẵn sàng tha thứ mọi lỗi phạm và ban ơn làm công chúa và hoàng tử nước trời cho những ai đón nhận Ngài.

Lạy Cha, con nguyện xin mọi người nhân biết Cha. Amen.

Anna Maria Phanxicô Nguyễn Dung,

Canada

VÀ NGƯỜI BẢO…

VÀ NGƯỜI BẢO…

Trích EPHATA 650

Con nói: Không thể được !

Chúa bảo: Mọi sự đều có thể được đối với Thiên Chúa ( Lc 18, 27 )

Con nói: Con quá mệt rồi !

Chúa bảo: Thầy sẽ cho con được nghỉ ngơi bồi dưỡng ( Mt 11, 28 – 30 )

Con nói: Chẳng có ai thực sự yêu thương con !

Chúa bảo: Thầy vẫn luôn yêu thương con ( Ga 3, 16; 13, 34 )

Con nói: Con không thể tiếp tục đuợc !

Chúa bảo: Ơn của Thầy ban luôn đủ cho con ( 2 Cr 12, 9; Tv 91, 15 )

Con nói: Con nghĩ không ra !

Chúa bảo: Thầy sẽ hướng dẫn những bước đường con đi ( Cn 5 – 6 )

Con nói: Con không làm đuợc !

Chúa bảo: Con sẽ làm đuợc mọi sự ( Pl 4, 13 )

Con nói: Con không có khả năng !

Chúa bảo: Thầy có đủ quyền tuôn đổ xuống trên con mọi thứ ân huệ ( 2 Cr 9, 8 )

Con nói: Con không thể tha thứ cho chính mình được !

Chúa bảo: Thầy tha thứ cho con ( 1 Ga 1, 9 ). Con không còn bị lên án nữa ( Rm 8, 1 )

Con nói: Con không thể xoay sở được !

Chúa bảo: Thầy sẽ thỏa mãn mọi nhu cầu của con một cách tuyệt vời ( Pl 4, 19 )

Con nói: Con sợ !

Chúa bảo: Thầy đâu có cho con một Thần Khí làm cho con trở nên nhút nhát ! ( 2 Tm 1, 7 )

Con nói: Con luôn lo lắng và giận dữ !

Chúa bảo: Mọi lo âu, hãy trút cả cho Thầy vì Thầy luôn chăm sóc con ( 1 Pr 5, 7 )

Con nói: Con không đủ lòng tin !

Chúa bảo: Thầy đã ban cho mọi người một lượng Đức Tin đúng mức ( Rm 12, 3 )

Con nói: Con không đủ thông minh !

Chúa bảo: Thầy cho con trí khôn ngoan ( Cr 1, 30 ) và ơn thông hiểu mọi sự ( 2 Tim 2, 7 )

Con nói: Con cảm thấy cô đơn quá !

Chúa bảo: Thầy sẽ không bỏ rơi, Thầy sẽ không ruồng bỏ con đâu ( Dt 13, 5 )

Gs. NGUYỄN THỊ TIẾN

dịch theo Feelgoodpages

NGƯỜI CHA GIÚP CON BỊ HỘI CHỨNG DOWN THÀNH SINH VIÊN GIỎI TOÀN NĂNG

NGƯỜI CHA GIÚP CON BỊ HỘI CHỨNG DOWN
THÀNH SINH VIÊN GIỎI TOÀN NĂNG

Trích EPHATA 649

Tại thành phố Sàigòn có một chàng trai bị Down 27 tuổi nhưng lại biết chơi đàn organ, đạt đai nâu võ Aikido, bơi lội, đá banh, có khả năng đọc, hiểu tiếng Anh cơ bản và đã theo học trường Đại Học Văn Lang.

Mạc Đăng Mừng chính là chàng trai lập được những kỳ tích hiếm có này. Đằng sau những thành tích của Mừng là nỗ lực không biết mệt mỏi của cha, người đã tìm mọi cách thay đổi số phận của chàng trai.

Không chấp nhận nhìn con chịu bất hạnh

Chúng tôi tìm đến nhà Mừng vào thời điểm cuối ngày. Nhà Mừng nằm cạnh Nhà Thờ Xóm Chiếu, Quận 4, Sàigòn. Như thường lệ, gần nửa năm nay, đến tầm 17 giờ, bà An, mẹ của Mừng, lại ngồi cửa đợi chồng và con đi học về. Đây là niềm vui được bà mong chờ nhất trong ngày. Kết thúc buổi học ở trường, về đến nhà, Mừng khoe ngay với bà An về điểm thi kết thúc môn học kỹ năng Photoshop đạt điểm cao.

Để cậu con trai Mạc Đăng Mừng có thể hòa đồng và phát triển như những đứa trẻ bình thường khác, vợ chồng ông Mạc Văn Mỹ, 66 tuổi, đã phải nỗ lực rất nhiều. Ông Mỹ cho biết, lúc ông bà bước sang tuổi tứ tuần mới sinh đứa con trai đầu lòng. Niềm vui chưa được trọn vẹn thì nỗi buồn ập đến khi ông bà biết tin Mừng đã mắc Hội Chứng Down bẩm sinh.

Trước đây, do điều kiện y tế chưa phát triển nên việc phát hiện thai nhi mắc bệnh rất khó khăn. Ngày ấy, trông Mừng rất èo uột phải ẵm trên tay, thương con, ông bà Mỹ đã chạy chữa khắp nơi. Cứ nghe ai nói ở đâu có thầy hay thuốc tốt là họ lại đưa con đến trị bệnh.

Cậu bé Mừng ngày ấy 7 tuổi mới chỉ biết lết, 9 tuổi bập bẹ nói và phải đến 12 tuổi mới đi những bước tập tễnh đầu tiên. Nhìn tương lai của con quá chông chênh, không ít lần vợ chồng suy sụp, tuyệt vọng. Bà An tâm sự: “Lúc 5 tuổi, Mừng vẫn còn yếu lắm, đặt đâu ngồi đó, đầu thì ngoẹo một bên, mỗi lần cầm muỗng cháo đút cho con mà nước mắt bà nuốt vào trong. May mắn chúng tôi được một bác sĩ khuyên hãy mua một cây đàn cho cháu.

Vị bác sĩ giải thích, đánh đàn sẽ giúp những đầu ngón tay được kích thích, nếu làm việc này thường xuyên sẽ giúp não bộ phát triển”. “Còn nước còn tát”, ông bà lại bấu víu vào chút hy vọng ấy để tiếp tục chữa trị cho con. Về nhà, hai vợ chồng gom hết tài sản có giá trị trong nhà mang đổi được 5 chỉ vàng để mua cho con cây đàn Organ. Từ đó, người ta thấy trong căn nhà nhỏ phát ra những âm thanh từ tiếng đàn Organ. Ông Mỹ cho biết, hồi đầu để có thể chỉ cho con học đàn, ông đã phải đi học lỏm, bởi lẽ thuê giáo viên ai cũng từ chối. Họ cho rằng, một đứa bé đến đứng còn không vững như Mừng thì làm sao có thể học đàn.

Có thể nói, con đường hòa nhập của Mạc Đăng Mừng quả lắm chông chênh. Ngày Mừng biết rõ từng phím đàn, biết cảm thụ được những âm thanh trong trẻo từ tiếng đàn Organ, ông Mỹ nghĩ ngay đến một nơi dạy đàn bài bản. Ông dẫn Mừng tới một cơ sở dạy nhạc nhưng chẳng cần nghe người cha giãi bày, chủ cơ sở từ chối thẳng thừng: “Cháu nó bị như vậy học hành làm gì cho tốn tiền !”. Người cha vẫn nhẫn nại nhờ người nọ khóa đàn lại để Mừng tự mở. Trước ánh mắt tò mò xen lẫn nhiều nghi ngại, cậu bé Mừng làm theo lời cha và đặt bàn tay lên phím đàn dạo những bản nhạc đơn giản. Thấy vậy, người chủ ngạc nhiên: “Ủa, nó biết chơi đàn luôn hả ?”

Để tiện chăm sóc con, bà An phải xin nghỉ việc ở cơ quan. Mỗi đêm trước khi Mừng ngủ, bà đều dành ra một khoảng thời gian nhất định để kể chuyện cổ tích cho con nghe. Ông Mỹ thì luôn sát cánh bên con trong việc học hành. “Để cho con có đầy đủ chất dinh dưỡng, tôi luôn áp dụng chế độ ăn nhiều rau củ quả, thực phẩm có lợi cho sự phát triển của não bộ. Trong quá trình tiếp xúc hàng ngày, mình phải hòa đồng với con, không chỉ làm cha, làm mẹ mà còn là một người bạn. Thấy con có lỗi thì phải “mổ xẻ” đi từ ngoài vào trong, mưa dầm thấm lâu chứ không thể đi ngang về tắt được”, bà An chia sẻ.

Hai vợ chồng ông Mỹ trước đây đều theo học chương trình giáo dục của Pháp, nên để dạy cho con ông bà phải tự mày mò tìm từng cuốn giáo trình tiếng Việt. Rồi họ quyết định cho Mừng đi học. Nghe tin này, họ hàng nội ngoại phản đối, vì lo Mừng không thể tiếp thu. Vậy mà Mạc Đăng Mừng đã hoàn thành chương trình học lớp 9 tại Trung Tâm Bảo Trợ Dạy Nghề và Đào Tạo Việc Làm cho Người Tàn Tật thành phố Sàigòn.

Phạm Đăng Mừng trong lớp võ Aikido.

Tình yêu thường làm thay đổi một số phận

Cách đây 2 năm, sau khi Mừng hoàn thành chương trình học lớp 9 cho người tàn tật, vợ chồng ông Mỹ quyết định cho con đi học nghề. Hai ông bà xin được cho Mừng học tin học tại trung tâm ở đường Bến Vân Đồn, Quận 4. “Chỉ tháng đầu là tôi đưa con đi và đón con về. Còn sau đó, sáng thì tôi chở, trưa Mừng tự đi bộ về. Từ trung tâm về nhà cũng khá xa nhưng tôi muốn tập cho con tính tự lập. Thi thoảng, tôi chạy xe từ xa để nhìn con đi về, mỗi lần như thế tôi thấy rất mừng. Có hôm đi học về thì trời mưa, nó tìm chỗ trú rồi gọi điện về bảo con đang đứng ở đoạn đường nào, số nhà mấy để tôi chạy đến chở về”, ông Mỹ nghẹn ngào kể.

Suốt hơn một năm trời, Mừng miệt mài bên chiếc máy vi tính và đã lấy được chứng chỉ A tin học, đồng thời tiếp tục học nâng cao. Cách đây mấy năm, có một nhà sư đã chỉ cho ông Mỹ lấy những hạt đá nhỏ li ti đem về để con trai chà chân mỗi ngày. Theo ông Mỹ, việc này sẽ làm tăng ma sát ở chân để con có cảm giác. Ban đầu mới chà thì hơi đau, nhưng dần dần Mừng lại thấy thích thú. Hôm nào không phải đến lớp, hai cha con lại cùng nhau đi xe đạp quanh công viên.

Người cha giúp đứa con bị bệnh Down thành sinh viên giỏi toàn năng

Ông Mỹ hướng dẫn con trai tự học sau những giờ học trên lớp.

Ông Mỹ cho biết, hiện tại Mừng đang theo học lớp Kỹ Thuật Đồ Họa tại trường Đại Học Văn Lang, quận Bình Thạnh. Vì trường học khá xa, nên hôm nào hai cha con cũng phải dậy từ rất sớm mới kịp giờ học. Buổi trưa, hai cha con ở lại ăn cơm chay từ một tổ chức từ thiện để lấy sức cho buổi chiều lên lớp.

Vì chương trình học khá nặng, nên ông Mỹ xin Ban Giám Hiệu nhà trường cho phép được dự thính trong lớp học cùng con. Người cha già vẫn cần mẫn ghi chép cẩn thận trong mỗi giờ học vi tính, học tiếng Anh chuyên ngành để về nhà giảng lại cho con. “Vợ chồng tôi luôn mong sau này con sẽ có tương lai. Nghĩ vậy, tôi cũng ráng đi học để tối về chỗ nào con chưa hiểu giảng lại cho nó. Hy vọng sau này con sẽ có công ăn việc làm để tự lo cho bản thân”, ông Mỹ nghẹn ngào nói.

Bất kể là mưa hay nắng, Mừng vẫn đến lớp đều đặn mỗi ngày. Ở trường con học thì cha cũng học, về nhà khi con học thì cha lại là thầy. Đều đặn công việc ấy suốt hơn 20 năm nay, ông bà đã dần đưa con tiếp cận trí thức hòa nhập với cộng đồng. Giờ đây, Mừng không chỉ biết tự lo liệu cho sinh hoạt cá nhân, mà còn biết quan tâm tới người xung quanh. “Có hôm đi học về thấy mẹ bị ốm, Mừng hỏi han liên tục xem mẹ đau chỗ nào, đã đỡ hơn chưa. Có hôm anh chàng bảo mẹ từ nay để con tự giặt giũ quần áo, nhưng tôi không đồng ý và bảo con phải học tính ngăn nắp, gọn gàng trước đã. Nghe mẹ nói vậy, Mừng cười rồi ngoan ngoãn làm theo”, bà An vui vẻ cho hay.

Tình yêu thương con chính là nguồn động lực để vợ chồng ông Mỹ nỗ lực, bền bỉ sát cánh bên con suốt một thời gian dài. Chia sẻ về phương pháp giúp con hòa nhập với tri thức cộng đồng, ông Mỹ vui vẻ cho hay: “Để con có cuộc sống ổn định như hiện tại, hai vợ chồng tôi đã phải huấn luyện con từ khi còn nhỏ để cháu tập tính tự lập, bền bỉ và ngăn nắp.

Bản thân tôi thấy có 4 cách áp dụng với cháu và có kết quả ngoài mong đợi, đó là dạy cháu học đàn, học võ, đi bơi và chà chân. Những phương pháp này có tác động rất lớn đến sự phát triển thể chất, não bộ và tinh thần cho con. Tôi rất mừng khi có một ông giám đốc đồng ý nhận cháu về công ty tin học làm việc, sau khi cháu ra trường”. Khi được hỏi về ước mơ sau này, chàng trai Mạc Đăng Mừng trả lời rành rọt: “Ước mơ của Mừng đó là trở thành võ sư Aikido, hoàn thành xong khóa học Thiết Kế Đồ Họa. Con cũng sẽ cố gắng học thật giỏi để tự đi làm”.

Nhìn vào cuốn album của gia đình ghi lại khoảnh khắc của Mừng đạt được nhiều huy chương, không ai ngờ được đây chính là thành tích của một chàng trai bị Hội Chứng Down. Tại giải thể thao dành cho người khuyết tật năm 2014, Mừng giành được Huy Chương Vàng cá nhân, Huy Chương Đồng tập thể môn bóng rổ và Huy Chương Bạc đồng đội môn bóng đá kết hợp dành cho người thiểu năng trí tuệ và người không bị thiểu năng trí tuệ.

Ngoài ra, chàng trai này còn biết chơi đàn Organ khá điêu luyện, biết võ Aikido, thành thạo bơi lội, yêu đá banh và có khả năng đọc hiểu một số câu tiếng Anh cơ bản. Nhìn vào cuốn album của gia đình ghi lại khoảnh khắc của Mừng đạt được nhiều huy chương, không ai ngờ được đây chính là thành tích của một chàng trai bị Hội Chứng Down.

KHÔI NGUYÊN, Gia Đình và Xã Hội, eva.vn

Ghi chú thêm của Ephata:

Em Mạc Đăng Mừng có tên Thánh là Giuse, đã học Rước Lễ và Thêm Sức tại Nhà Thờ Mactynho Q. 1, Sàigòn. Mẹ em cho biết: năm em 7 tuổi vẫn chưa thể đi đứng được, bà đã khóc rất nhiều, đã tìm đến cầu khấn ơn chữa lành cùng Mẹ Fatima Bình Triệu, và Chúa đã nhậm lời !

giadinh.net.vn

THƯ GỞI CHÚA GIÊSU TỪ BỆNH VIỆN UNG BƯỚU

THƯ GỞI CHÚA GIÊSU TỪ BỆNH VIỆN UNG BƯỚU

Chúa Giêsu giầu lòng thương xót ơi,

Hôm nay con viết thư cho Chúa, bỗng nhớ trong thánh kinh có đoạn nói về việc Chúa mới sinh ra đã phải chạy trốn sang Ai Cập và các anh hài bị giết, làm trái tim con quặn thắt: “Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rên rỉ: tiếng bà Rakhen khóc thương con mình và không chịu cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa.” (Mt 2,18)

Mùa hè năm nay, nhóm thiện nguyện Tín Thác chúng con được một linh mục mà cuộc đời cũng khốn khổ như Chúa, hướng dẫn đến một nơi, mà nơi ấy tất cả các bà mẹ, kể cả các ông bố nữa, đã cạn nước mắt rồi. Họ không thể khóc như bà Rakhen được nữa. Hay nói đúng hơn là họ cố gắng nuốt những giọt nước mắt, để dành sức lực chăm sóc cho những đứa con mình, mà dù có đổ bao nhiêu tiền của công sức chạy chữa thì phía trước vẫn là một màn đen vô vọng…

Nơi ấy là Khoa Ung Thư Nhi của Bệnh Viện Ung Bướu Sài Gòn, Chúa đã đến đó chưa?

Theo con số thống kê mới nhất, ở Việt Nam mỗi ngày trung bình có 250 người qua đời vì ung thư, trong đó gần hai phần trăm là trẻ thơ, có nghĩa là gần một ngàn bốn trăm linh hồn bé thơ rời bỏ mặt đất này mỗi năm. Tội quá Chúa nhỉ!

Thôi, con mời Chúa đi với con. Khi chúng con tới nơi ấy thì quá đông, quá ngột ngạt! Cái đông đúc, chen chúc, bức bách và ngột ngạt tràn cả ra hành lang. Nhóm chúng con cố gắng len lỏi vất vả lắm mới đem quà vào trong các phòng bệnh được, thì nhận ra lúp xúp những bé thơ, với cái đầu tròn vo, trọc lóc. Giá như trong hoàn cảnh khác thì đó là sự ngộ nghĩnh. Nhưng nơi này đó là nỗi đau, là cùng tận nỗi đau Chúa ạ!

Con nhớ lại buổi sáng Chúa Nhật 18/1/2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ giới trẻ Philippines tại Sân Thể Thao Đại Học Đường Thánh Tôma ở thủ đô Manila. Một em gái đã được cứu khỏi đời sống bụi đời, đã hỏi ĐTC một câu hỏi rất thực tế và đầy thương tâm, rồi nghẹn ngào đến trào nước mắt khóc: “Có rất nhiều trẻ em bị cha mẹ mình bỏ rơi, có rất nhiều em trở thành nạn nhân của ma túy, đĩ điếm, và nhiều điều kinh khủng xẩy ra cho chúng. Tại sao Thiên Chúa lại để cho những điều ấy xẩy ra cho những trẻ em vô tội? Và tại sao lại có rất ít người giúp chúng con?”

Và ĐTC đã trả lời: “Cái cốt lõi của câu em hỏi, hầu như không có câu trả lời. Chỉ khi nào cả chúng ta nữa có thể khóc về những gì em đã nói thì chúng ta mới có thể tới gần chỗ trả lời cho câu hỏi ấy. Tại sao trẻ em chịu khổ quá nhiều? Tại sao trẻ em lại chịu khổ? Khi tâm can có thể tự vấn và kêu lên thì bấy giờ chúng ta mới có thể hiểu được một điều gì đó.

”. Bước chân vào đây, chúng con cũng tự hỏi: “Tại sao trẻ em chịu khổ quá nhiều? Tại sao trẻ em lại chịu khổ?”

Không thể lý giải nổi lý do nào mà trẻ thơ mới chút xíu đã bị ung thư, và ung thư nhiều đến thế. Những chứng ung thư làm chúng con lạnh hết người: ung thư máu, ung thư võng mạc, và ung thư xương nữa…

Đời bệnh nhân ung thư khủng khiếp nhất là những cơn đau. Chúng con đã chứng kiến những cơn đau rúc rỉa thịt xương đó trong hành trình thiện nguyện, đau đau đến mức cuối cùng phải dùng đến moọc phin để làm tê liệt những giây thần kinh, để giảm đau trong chốc lát. Trong những giây phút thống khổ ấy, người thân chỉ biết ôm lấy bệnh nhân như muốn sẻ chia phần nào nỗi đau, và càng đau khổ hơn vì thấy mình bất lực, không thể làm gì hơn để giảm nỗi đau cho người bệnh. Thế mà những cơn đau ấy đổ xuống trẻ thơ. Hình dung thôi chúng con cũng thấy rùng mình sợ hãi!

Lúc đó chỉ còn biết khóc thương, khóc than và giơ tay lên khẩn nài: “Xin dâng lên lòng thương xót Chúa, những vết thương… xin Chúa thương tha thứ chữa lành, nhận chìm con vào lòng Chúa xót thương

Không dừng lại ở chỗ khóc thương sụt sùi, chúng con đã cố gắng trong khả năng có thể, mang tới cho 200 bé nơi đây chút quà, sữa tươi và một phong bao lì xì.

Chúa biết không, khi chọn quà cho các em, một bác sĩ đã tư vấn nên tặng các em sữa tươi cho nhẹ nhàng, bởi thể trạng của các em, nhiều trẻ loại sữa quá giàu đạm và chất bổ sẽ khiến các em không tiếp nhận và dội ngược ra, thì sẽ rất mệt. Trao bao lỳ xì cho các em vui, với cảm giác được thêm tuổi mới trong đời, nhưng thiết thực là để bữa trưa này, cha hoặc mẹ các bé có chút tiền mua hộp cơm có thêm miếng thịt, ăn cho có sức khỏe để chăm sóc người không còn sức khỏe.

Nhà nào có người bị bệnh ung thư là kiệt quệ, là sạch cửa nhà, bán mọi thứ trong nhà để chạy thầy chạy thuốc cho bệnh nhân. Tại nơi này có những người mẹ ròng rã bao năm tháng chỉ ăn cơm từ thiện thôi, Chúa ạ. Ăn uống thiếu thốn, suy dinh dưỡng, mẹ đi chăm con mòn mỏi yếu ớt xanh xao như tàu lá chuối, đứa con bị ung thư xương nằm thóp thoi trơ cái đầu trọc lóc, đến là khốn khổ.

Chắc Chúa còn nhớ, trong suốt mấy năm trời, nhóm thiện nguyện chúng con cũng trợ giúp 80 phần cơm mỗi ngày cho các bệnh nhân hoặc người nuôi bệnh. Bây giờ phải đi nhiều nơi để gieo rắc hạt giống lòng Chúa thương xót qua những chuyến công tác bác ái nơi vùng sâu vùng xa, cho nên chúng con chỉ tổ chức những chuyến thăm viếng như hôm nay được thôi, Chúa ạ!

Chúa gởi thêm nhiều người có lòng xót thương đến với chúng con để cùng chung tay góp sức xoa dịu nỗi đau của những con người nghèo khổ nhé! Con xin lỗi Chúa trước, nếu Chúa đưa đến những đại gia, những chức sắc, những người tiền bạc rủng rỉnh đi làm việc thiện mà muốn cho cả làng biết, muốn nêu tên trên bảng vàng, muốn khắc danh tính vào bằng tri ân, muốn được liệt vào danh sách các ân nhân… thì chúng con không nhận đâu đấy nhé! Dù họ có tiền rừng bạc biển, quyền cao chức trọng, thì cũng không có chỗ trong nhóm thiện nguyện nhỏ bé của chúng con đâu!

Nằm chèo kheo ở bậc nghỉ cầu thang là một người đàn ông gầy gò xương xẩu, ngủ khò khò bất chấp kẻ lại người qua, con cứ tưởng là Chúa đang nằm đó chứ! Bỗng anh giật mình ngồi phắt dậy, vồ cái túi lép kẹp dùng làm gối kê đầu, nhìn xung quanh ngơ ngác. Đợi người đàn ông định thần trở lại, chúng con đến lân la trò chuyện, mới biết anh tên Thành, quê mãi Vĩnh Long, có đứa con điều trị ở đây, cháu bị ung thư máu.

Lau giọt lệ, anh thở dài: “Mọi sự là vô vọng rồi, vì cơ thể cháu không tiếp nhận hóa chất truyền vô được nữa!” Đêm qua anh nhắn vợ lên thay phiên để anh về quê chuẩn bị sẵn sàng đón con về trong tình huống xấu nhất. Anh phải giấu vợ, sợ chị tuyệt vọng. Anh tới góc cầu thang ngủ vội lấy sức sau cả tháng thức trắng bên con, rồi sẽ bắt xe đi về dưới. Mấy sào ruộng anh đã bán hết để cứu con, mà công cốc hoàn công cốc. Anh bảo dù khó khăn đến đâu, cũng sẽ kiếm cái áo tử tế cho con khi đón nó về. Đau lắm, đau buốt trong tim mà giấu vợ, trìu mến ôm hôn con rồi ra đi. Chúa có thấy nỗi đau nào hơn thế không?

Kể cho Chúa nghe những đau đớn đó, lòng chúng con cũng trĩu buồn. Cảm ơn Chúa đã gởi những phần quà từ tấm lòng xót thương của những anh chị em từ khắp nơi, bớt ăn tiêu chi chút, dành dụm gởi về để chúng con lên đường trao tặng cho những mảnh đời rách nát, bệnh tật, nghèo túng…

Có chi tiết nhỏ này có lẽ sẽ làm Chúa vui hơn : ấy là chúng con đã hì hục ngồi trong góc cầu thang bơm những trái bong bóng to đẹp rực rỡ sắc mầu trao tặng các em. Những trái bóng đủ hình dạng sắc màu làm mắt đám trẻ sáng lên, quên đi cơn đau trong chốc lát. Nhìn thấy nhiều em cứ cà cái đầu trọc lóc vào trái bóng, ôm khư khư trái bóng như sợ nó bay mất, thương đến là thương. Thật xót xa khi hóa chất vào cơ thể các em chế ngự tế bào độc của chứng ung thư, thì cũng chính là tước đi hết mái đầu xanh của trẻ. Thương chúng quá!

Tuy nhiên, người mục tử ân cần dặn thiện nguyện viên chúng con khi đến nơi này hãy dằn lại nỗi đau lòng, ráng tươi lên, đem niềm vui nụ cười như một kỷ niệm đẹp cho các bé. Chúng con làm vậy được không Chúa?

Người mục tử linh hướng từng chia sẻ với chúng con: ra đi, đem niềm vui cho anh em nghèo khổ và trẻ thơ bệnh tật yếu đau, nhưng đồng thời cũng là để nhận thức ra cái cõi hạn hẹp nơi con người. Biết sự bất lực của mình mà gửi gắm sự cậy trông tín thác vào thiên Chúa. Ra đi cũng để thấy mình còn được Chúa thương rất nhiều. Còn thân hình đầy đủ, còn đi lại nói năng bình thường, còn sức khỏe… đó là món quà quý nhất Chúa trao ban mà con đâu biết trân trọng, đâu thấy mình hạnh phúc. Con cứ lao đầu tìm tiền tài danh vọng của cải chức tước địa vị… đến khi ngã quỵ vì ốm đau bệnh tật, lúc đó mới thấy tất cả là hư vô, là con số không, nếu không có sức khỏe.

Rời Khoa Nhi Bệnh Viện Ung Bướu, ám ảnh chúng con là nụ cười ngây thơ trên những gương mặt tròn trịa với cái đầu cũng tròn xoay, như những dấu chấm tròn vo giữa cuộc đời này. Những dấu chấm ngây thơ không hề biết rằng cuộc đời các em có thể chấm hết bất cứ lúc nào…. Hữu hạn mong manh quá đỗi. Bỗng thấy mắt cay xé, con nhớ lại lời ĐTC Phanxicô nói với giới trẻ: “Chúa Giêsu trong Phúc Âm đã khóc. Ngài đã khóc thương người bạn Lazarô qua đời. Người đã khóc cho gia đình mất đứa con gái của họ. Người đã khóc khi thấy người mẹ góa đem người con trai của bà đi an táng.Và Người đã động lòng đến chảy nước mắt, đã cảm thương khi thấy đoàn lũ dân chúng không có chủ chiên. Nếu các bạn không biết khóc các bạn không thể trở thành Kitô hữu tốt lành.

Vâng, Chúa Giêsu ơi! Con đang khóc đây!

Chúa cùng khóc với con nhé!

Thiện Nguyện Tín Thác

Bình Thạnh

2015

Bi ẩn thi hài thánh nữ đẹp như mỹ nhân

Bi ẩn thi hài thánh nữ đẹp như mỹ nhân

Mấy trăm năm qua đi, dung nhan thánh nữ Bernadette vẫn tuyệt vời như khi bà qua đời ở tuổi 35, dù không hề được ướp xác.

Trên thế giới có rất nhiều hiện tượng nhục thân bất hoại, thi hài nguyên vẹn sau hàng trăm, hàng nghìn năm, đa số có thể lý giải bằng khoa học. Thế nhưng với hiện tượng nhục thân bất hoại của thánh nữ Bernadette và một số vị thánh, nhà tu hành khác thì các nhà khoa học vẫn phải đau đầu bởi sự kỳ lạ dường như mang tính chất thần linh.

Thánh nữ Bernadette là ai?

Người được nhà thờ Thiên chúa giáo La Mã 2 lần phong thánh này là con gái đầu lòng của một gia đình thợ may nghèo ở Louders, miền nam nước Pháp, từ nhỏ đã ốm yếu vì bệnh hen. Vào năm 1858, khi 14 tuổi, cô bé nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra với mình trong một cái hang gần sông Gave, khi cô nhặt củi ở đó, nên về kể với mẹ.

Bernadette thời thiếu nữ. Bà là vị thánh đầu tiên của Thiên chúa giáo có hình chụp lúc còn sống.

Tin đồn lan ra, và dĩ nhiên rất nhiều người không tin. Trong vòng 5 tháng sau đó, cô bé còn được thị kiến Đức Mẹ thêm 17 lần, khiến đám đông đổ về hang ngày một đông. Điều đó khiến cô thiếu nữ gặp nguy hiểm bởi sự cảnh cáo, đe dọa của nhà chức trách. Tuy nhiên, Bernadette vẫn trung thành với những gì mình nhìn thấy thay vì tuyên bố mình nói dối như nhà chức trách yêu cầu.

Người dân càng tin vào Bernadette hơn khi có một dòng suối chảy ra từ hang do cô đã dùng tay đào theo chỉ dẫn của Đức Mẹ, và nước suối ấy được cho là chữa khỏi bệnh cho nhiều người. Trong một lần hiện ra với Bernadette, Đức Mẹ nói muốn xây một nhà thờ tại đây, nhưng nhà chức trách tìm cách ngăn cản, cũng như đóng dòng suối lại. Nhưng tiếng tăm về Bernadette và Đức Mẹ trong hang đã đến tai hoàng hậu nước Pháp, và bà đã can thiệp để nhà thờ được xây dựng.

Bernadette khi đã là nữ tu.

Năm 22 tuổi, Bernadette được vào tu viện đúng như khao khát của cô, dành hết tâm sức để thờ Thiên chúa và làm những việc thiện nguyện. Nữ tu sĩ qua đời ở tuổi 35 (năm 1879) sau một thời gian dài bệnh tật. Vào năm 1913, Bernadette được Giáo hoàng Pius X phong thánh, mộ của bà lần đầu tiên được mở ra và mọi người ngạc nhiên bởi thi hài vẫn y nguyên như lúc còn sống. Do hoàn cảnh chiến tranh (chiến tranh thế giới thứ nhất 1914-1918), các nghi thức bị gián đoạn nên đến năm 1919, mộ của bà lại được mở ra lần nữa để hoàn tất các nghi lễ.

Lúc này, Bernadette đã qua đời được 30 năm. Bác sĩ phẫu thuật Tourdan, người chứng kiến sự việc, kể lại: “Quan tài được mở ra dưới sự chứng kiến của nhiều người, trong đó có tôi. Thi thể thánh nữ trong trang phục yêu thích của bà không hề có mùi xú u. Khuôn mặt, bàn tay và cẳng tay lộ ra bên ngoài. Đầu bà nghiêng sang một bên, miệng hé mở để lộ hàm răng trắng. Hai tay đặt trên ngực, lớp da vẫn hoàn hảo”.

Theo mô tả của những người khác, đầu gối bên trái của thánh nữ nhỏ hơn bên phải do ảnh hưởng của chứng bệnh lao xương mà bà mắc phải. Trang phục của bà hơi ẩm ướt, cỗ tràng hạt bà cầm cũng như tượng thánh bằng đồng trên ngực đã rỉ sét, nhưng lạ kỳ là da thịt lại vẹn nguyên, các khớp xương vẫn mềm mại và da vẫn đàn hồi, tươi tắn. Thánh nữ Bernadette được thay y phục mới và mai táng trở lại.

Thi hài thánh nữ Bernadette được đặt trong quan tài kính.

Năm 1925, Đức Giáo hoàng Pius XI phong thánh lần nữa cho Bernadette, và mộ bà lại được mở ra lần thứ ba. Người phụ nữ qua đời ở tuổi 35 vẫn mang dung nhan thánh thiện, đẹp đẽ như đang nằm ngủ, duy có da mặt hơi sẫm hơn một chút do bị lau rửa lần trước. Sau khi bọc sáp gương mặt và đôi tay, di hài được đưa vào quan tài bằng pha lê đặt ở nhà nguyện tại Lourder cho đến tận ngày nay cho mọi người kính ngưỡng.

Lourder – quê hương Bernadette đã trở thành một trong những điểm hành hương lớn nhất của các tín đồ Thiên chúa giáo, và dòng suối nhỏ được bà đào theo chỉ dẫn của Đức Mẹ vẫn cung cấp nước cho khách thập phương đến tận ngày nay.

Bí ẩn của thi thể không rữa nát

Đã có vô số thi thể cổ xưa được người đương đại phát hiện trong tình trạng nguyên vẹn: những bậc đế vương, những người giàu có, những thiền sư đắc đạo, những người sống ở vùng băng giá. Sự hoàn hảo của những thi thể này được khoa học lý giải nguyên nhân rất dễ dàng: Những tảng băng tạo thành cái tủ lạnh khổng lồ khiến những xác chết nằm trong đó được bảo quản tươi nguyên sau nhiều thế kỷ.

Những thi hài được ướp xác bằng cách rút hết nội tạng, được quấn và nhồi bằng nhiều loại dầu, thảo dược có tác dụng chống phân hủy. Còn các vị cao tăng thường “tự ướp xác” mình bằng cách nhịn ăn nhiều ngày, chỉ uống loại nước thuốc đặc biệt để ngừng trao đổi chất, làm sạch cơ thể, khiến người gầy rộc chỉ còn da bọc xương trước khi họ viên tịch trong tư thế thiền định.

Đặc điểm chung của những xác ướp đó là tuy không bị rữa nát, chúng cứng đơ, khô quắt, bị rút hết nước, và màu da xám xịt hoặc đen sì. Thực ra cũng có một ngoại lệ, đó là xác ướp của Tân Truy phu nhân, vợ một vị quan triều Hán ở Trung Quốc cách đây 2.000 năm, được phát hiện năm 1972. Thi thể người phụ nữ qua đời lúc 50 tuổi này vẫn đầy đặn, mặt tuy đã phân hủy nhưng còn khá rõ các nét, da còn khá mềm và ẩm, có khớp vẫn cử động được, đáng ngạc nhiên là nội tạng vẫn đầy đủ, thậm chí trong ruột và dạ dày vẫn còn hàng trăm hạt dưa.

Thi hài 2.000 năm của Tân Truy phu nhân.

Dù kỳ lạ nhưng sự “bất hoại” của Tân Truy phu nhân vẫn được giới nghiên cứu lý giải rõ ràng: thi thể bà đã được bảo quản cực kỳ khoa học với 20 lớp vải quấn quanh, ngâm trong dung dịch chống phân hủy bao gồm cả chu sa, thủy ngân và thạc tín, đặt trong 4 lớp quan tài. Có đến 5 tấn than được đổ quanh và thi hài được chôn sâu 15 mét dưới lòng đất.

Tóm lại, gần như tất cả những thi thể tồn tại qua thời gian đều là kết quả của sự bảo quản kỳ công, hoặc thi hài tình cờ được ở trong môi trường đặc biệt để vi khuẩn và sự oxy hóa không “tác quái” được. Nhưng điều đó không đúng với trường hợp thi thể thánh nữ Bernadette. Khi qua đời, bà chỉ ở địa vị một nữ tu sĩ bình thường, thậm chí bị mẹ bề trên ghét bỏ, nên thi thể được mai táng hoàn toàn theo cách bình thường, không có một tác động nào nhằm mục đích bảo quản thi hài.

Dung nhan của thánh nữ Bernadette hiện nay vẫn tươi đẹp như đang ngủ.

Môi trường nơi đặt thi thể bà cũng hoàn toàn bình thường, nghĩa là những thi thể khác đặt ở đó vẫn rữa nát nhanh chóng theo quy luật tự nhiên. Các nhà khoa học không lý giải được tại sao, còn những người tin vào tâm linh thì cho rằng, chính hồng ân của Thiên chúa và Đức Mẹ đã tạo ra phép lạ cho người con gái thánh thiện của các ngài.

Nữ á thánh Anna Maria Taigi.

Không chỉ Bernadette, một số vị thánh khác của Thiên chúa giáo cũng có thi thể bất hoại, chẳng hạn nữ á thánh Anna Maria Taigi, người Italy, qua đời năm 1837 ở tuổi 68. Bà không phải là một tu sĩ, mà là bà mẹ 7 con nhận được ơn tiên tri của Thiên chúa, thấy được quá khứ và tương lai. Bà sống cuộc đời đạo đức, cống hiến và được Giáo hoàng Benedikt XV phong á thánh vào năm 1920. Mặc dù qua đời khi tuổi đã cao và đến nay đã hơn 175 năm trôi qua, gương mặt vị á thánh này vẫn tròn đầy, căng mịn, rất tươi đẹp.

Thánh Johannes Bosco.

Thánh Johannes Bosco (1786-1859) cũng được hậu thế chiêm ngưỡng trong quan tài kính với thần thái không khác lúc còn sống. Ông là một linh mục Pháp, người sáng lập nhà dòng Salesianer, được Giáo hoàng Pius XI phong thánh và tuyên xưng là Thánh quan thầy của các linh mục. Những vị thánh khác như Francis Xavier (1506-1552), di hài đang được lưu giữ tại Ấn Độ, Jean Marie Baptiste Vieanney (1786-1859)… cũng nổi tiếng là nhục thân bất hoại dù không hề được ướp xác.

Theo Xzone

CHÌA KHÓA VẠN NĂNG

CHÌA KHÓA VẠN NĂNG

Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà

(Suy niệm Tin Mừng Mác-cô (5, 21-43) trích đọc vào Chúa Nhật 13 thường niên)

Có một ông vua rất đỗi giàu sang và vô cùng quảng đại. Nhà vua có một kho tàng đầy ắp những báu vật mọi người hằng mơ ước. Nhà vua tuyên bố với thần dân rằng bất cứ ai muốn lấy bất cứ thứ gì trong kho tàng vô tận của vua thì cứ lấy, miễn là phải dùng một loại chìa khoá rất đặc biệt mới mở được kho tàng. Chìa khoá ấy, vua cũng chỉ cho biết là đang nằm trong tầm tay mọi người. Tiếc thay, người ta không biết đó là chìa khoá thần kỳ và chưa mấy ai đem ra sử dụng.

Khi nghe tin nầy, nhiều người nao nức hỏi: Vị vua đại lượng đó là ai? Kho tàng nằm ở đâu? Chìa khoá nào mở được kho tàng, xin mau mau cho biết.

Đức vua đó chính là Thiên Chúa quyền năng. Kho tàng của Ngài là vô vàn phúc lộc không bao giờ vơi cạn. Chìa khoá để mở kho tàng ấy là lòng tin. Ai có lòng tin mạnh mẽ, người đó có thể mở được cửa kho tàng và chiếm lấy những gì mình muốn. Ai không  có lòng tin, thì đành bó tay và chẳng thu lượm được gì.

Hai sự kiện thánh sử Mác-cô thuật lại trong Tin Mừng hôm nay minh chứng cho chân lý nầy:

Trường hợp người phụ nữ bị bệnh băng huyết

Một người phụ nữ bị băng huyết đã mười hai năm, đã lắm phen tìm thầy chạy thuốc nhưng bệnh của bà vẫn vô phương cứu chữa. Nay gặp Chúa Giê-su, bà mừng như người sắp chết đuối vớ được tấm phao.

Vì luật cấm những người mang thứ bệnh nhơ uế như bà tiếp cận với người khác (Lv 15, 25) nên bà không dám công khai gặp Chúa Giê-su, chỉ len lén tiến lại phía sau lưng Ngài, tự nhủ lòng rằng: “Mình chỉ cần sờ được vào áo Ngài thôi là sẽ được cứu.” Và điều nhiệm mầu đã xảy ra: bà vừa đụng vào áo Chúa Giê-su thì tức khắc huyết cầm lại và bà được chữa lành.

Chúa Giê-su biết có một năng lượng từ mình xuất ra nên quay lại tìm hiểu và khi người phụ nữ  thú nhận việc bà vừa làm, Chúa Giê-su bảo:  “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”

Chính Chúa Giê-su xác nhận lòng tin là chìa khoá thần kỳ mở ra cho người đàn bà kho tàng chứa đựng điều mà bà khao khát: được chữa lành chứng bệnh nan y.

Trường hợp ông trưởng hội đường

Ông trưởng hội đường đang cùng Chúa Giê-su tiến vội về nhà để nhờ Chúa cứu chữa đứa con gái đang hấp hối,  thì người nhà của ông này chạy đến báo cho ông biết rằng con gái ông chết rồi, đừng phiền Chúa đến nhà làm gì mất công.

Nghe vậy, Chúa Giê-su động viên ông ta: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi. Tin là được. Thế rồi, nhờ lòng tin, con gái ông đã được cứu sống.

Một lần nữa, Tin Mừng chứng tỏ cho thấy lòng tin là chìa khoá đem lại ân sủng nhiệm mầu: đứa con gái thân yêu chết rồi nay được cứu sống!

Còn nhiều sự kiện khác được ghi lại trong Tin Mừng chứng tỏ cho thấy phải có lòng tin  thì mới đạt được điều mong muốn và không có lòng tin thì chẳng được gì (Mt 13, 58). Lòng tin có thể chuyển núi dời non. Với lòng tin, người ta có thể làm được tất cả như lời Chúa Giê-su dạy: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi nầy: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng  sẽ chuyển qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (xem thêm: Mt 17, 19-20; Mt 15, 28; Mt 21, 21-22).

Quả vậy, điểm lại những khuôn mặt đạt được thành công lớn lao trên thế giới, ta thấy rằng nguyên nhân chính giúp họ thành đạt là nhờ mạnh tin. Vững tin rằng mình sẽ làm được thì sẽ được như ý.

Như thế, lòng tin là bí quyết để thành công trên đường đời, và cũng là chìa khoá mở vào kho tàng ân sủng của Thiên Chúa.

Lạy Chúa, lòng tin của chúng con còn yếu kém nên chẳng thu hoạch được gì. Xin ban thêm lòng tin để chúng con có thể mở được kho tàng ân sủng của Chúa.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

TIN LÀ MỞ CỬA TÂM HỒN…

TIN LÀ MỞ CỬA TÂM HỒN…

Tác giả: Lm. Vinh Sơn, scj

Kn 1,13-15;2,23-24; 2Cr 8,7.9.13-15; Mc 5,21-43

Họa sĩ Holman Hunt (1827 – 1910) vẽ xong bức tranh Đức Giêsu đang đứng gõ cửa một ngôi nhà nhỏ. Ông mời bạn bè đến góp ý xem có gì sai sót.

Thấy bức họa, các bạn trầm trồ khen ngợi và không thấy có gì sai. Ông Hunt cứ thúc dục các bạn xem kĩ lại. Cuối cùng, một hoạ sĩ còn rất trẻ lên tiếng : “Thưa Ngài, tôi thấy có một sai lỗi trên bức danh hoạ. Ngài đã quên không vẽ tay cầm hay ổ khoá nơi cửa”.

Hunt đáp: “Này bạn, khi đức Giêsu gõ cửa nhà bạn, thì cửa phải mở từ bên trong”.

Bà góa mắc bệnh băng huyết và của ông trưởng hội đường tên là Giarô có người con bệnh nặng sắp qua đời đã mở cửa tâm hồn mình bằng niềm tin như Tin Mừng Mc 5,21-43 ghi lại:

  • Bà góa bị bệnh băng huyết, quan niệm của người Do Thái xưa, máu huyết tượng trưng cho sự sống. Người phụ nữ bị băng huyết có nghĩa là sự sống nơi bà mất dần đi, tiêu hao đi, cho nên coi như bà là người đã chết. Hơn thế nữa, theo luật Môisen (Lv 15,25) bệnh xuất huyết là thứ bệnh dơ nhớp, bệnh nhân không được công khai giao thiệp với dân chúng:  bà có thể làm cho những người khác cũng bị nhơ vì tiếp xúc với bà. Cho nên bà không chỉ đau đớn về bệnh tật hoành hành cả đời bà, niềm đau hơn nữa bà bị loại ra khỏi mọi sinh hoạt xã hội, khỏi cộng đoàn tôn giáo. Trong cơn thất vọng về tình trạng bệnh tật và tâm linh, bà tin Đức Kitô có thể chữa bà khỏi cơn bạo bệnh và qua đó còn đưa bà trở về với cuộc sống xã hội. Bà tin và chân thành xin một chút sức mạnh từ nơi Đấng Messia bằng cử chỉ đụng vào áo Ngài, lòng tin đơn sơ nhưng thật mạnh mẽ: “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi” (Mc 5,28). Và bà “chạm đến áo Người”, chạm đến áo Người trong lúc bà mang cơn bệnh là thái độ liều lĩnh vì đã xé rào luật lệ ngăn cấm, nhưng đó cũng là thái độ chứng tỏ đức tin vững vàng của bà. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.
  • Ông Giarô đã không hề ngại đến thân thế của trưởng hội đường, khiêm tốn nài xin Chúa Giêsu đến thăm viếng để cứu chữa người con gái ông đang bị bệnh nặng: “Xin Ngài đặt tay trên nó” (Mc 5,23). Cử chỉ đặt tay trên bệnh nhân là cử chỉ Chúa thường dùng khi cứu chữa bệnh nhân và họ được khỏi bệnh (x.Mc 6,5; 7,32; 8,23). Xin Chúa đặt tay tức là tin rằng : Ngài sẽ chữa khỏi được bệnh cho con ông. Ông xác tín cử chỉ đặt tay của Thầy – Đấng Messia mang đến cho con ông được cứu như ông tuyên tín: “Để nó được khỏi và được sống” (Mc 5,23b),  dù em bé bệnh rất nặng và đang hấp hối nguy ngập. Thái độ này của Giarô biểu lộ một đức tin vững vàng, xác tín vào quyền năng của Chúa Giêsu và con ông đã được sống dù nó đã chết như người nhà loan báo khi Chúa đến đầu ngõ nhà ông.

Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin mà Đức Giêsu xác nhận. Với người phụ nữ đau khổ góa bụa bệnh băng huyết có lòng tin vững vàng : “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5,34) như mỗi lần chữa lành bệnh tật, Ngài thường khẳng định: “Niềm tin của con đã cứu chữa con”  (Mt 9,22; Lc 8,48; 17,19; 18,42…). Ðược lành bệnh, được phục hồi, người được chữa lành không chỉ tìm lại được sức khỏe thể lý nhưng còn có cuộc sống mới trong niềm tin và họ đã tuyên xưng.

Còn ông Giarô, Ngài nâng đỡ ông hãy vững lòng tin: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36), khi ông muốn ngã quỵ vì nhận được tin dữ như sét đánh ngang tai: “Con ông đã chết rồi ” (Mc 5,35).

Sống đức tin là mở cửa tâm hồn dám sẵn sàng đi ra khỏi chính mình để gặp Chúa tin và đi theo tiếng gọi của niềm tin, sẵn sàng đi ra khỏi tư tưởng áp đặt đám đông để sống thực cho những đòi hỏi của đức tin. Sống đức tin đích thực là sẵn sàng lội ngược dòng như bà góa vượt qua lề luật để gặp, sờ áo Chúa và ông Giarô vượt qua thân phận chủ hội đường mà đến với Đức Kitô.

Thánh Augustinô đã suy niệm: “Có đức tin là tin những gì chúng ta không thấy và phần thưởng của đức tin là thấy những gì chúng ta tin”. Bà góa tin rằng sờ vào áo thầy thôi là được khỏi, và bà đã được như lòng tin muốn, ông Giarô tin rằng Thầy sẽ chữa lành con ông đang bị bệnh, còn lạ lùng hơn, ngay cả con ông đã chết vẫn được sống như ông mong ước khi tin vào Thầy.

Ngày hôm nay, với cái nhìn tổng quát cuộc sống, mỗi chúng ta đều mang bệnh tật: có thể về thể xác như mang các cơn bệnh, có thể là những thứ bệnh tâm lý như lo lắng, cô đơn, cay đắng, giận hờn, stress, có thể là những cơn bạo bệnh tâm linh khi sống mất phương hướng hoang tàn trong cuộc đời, còn tệ hơn nữa là chết về tâm hồn… Thế nhưng chúng ta lại có vẻ bề ngoài như người mạnh khỏe, có xu hướng che giấu bệnh tật và thương tích của mình và vì thế cơn bệnh luôn hiện diện và hoành hành trong chúng ta thầm lặng, có lúc bùng phát như cơn bệnh ung thư. Chúng ta luôn cần được chữa lành như người phụ nữ mang bệnh tật đến với Đức Giêsu với niềm tin vào Ngài, như người cha Giarô xin Thầy đến bên con gái đang bị bệnh gần chết với niềm tin con ông được sống.

Thật thế, mỗi giây phút cuộc đời, với tất cả tình trạng của mình, chúng ta hãy chạy đến với Thầy: “Như trẻ thơ đặt hết  niềm tin  nơi Chúa” (Tv 131,1)

Và xác tín rằng: “Ai tin ở Người thì được  sống…” (Ga 3,15)

Lm. Vinh Sơn,

Sài Gòn, 27/06/2015

KHỎI CHỨNG BẠI LIỆT NHỜ TÌNH PHỤ TỬ BAO LA

KHỎI CHỨNG BẠI LIỆT NHỜ TÌNH PHỤ TỬ BAO LA

Sr.Jean Berchmans Minh Nguyệt

Bà Alessandra York là phụ nữ Hoa Kỳ.  Với mái tóc vàng óng ánh, với đôi mắt tinh anh và với dáng đi uyển chuyển, bà là biểu tượng cho mẫu phụ nữ tự tin, yêu đời và thành công trong cuộc sống.  Nhưng sỡ dĩ bà được như thế là nhờ đức kiên nhẫn, lòng can đảm và tình thương bao la của hiền phụ.  Sau đây là chứng từ của bà về người Cha đáng kính.

Mùa hè năm 1949 – tôi lên 8 tuổi – Hoa Kỳ trải qua thời kỳ đau thương.  Đây đó trên toàn nước bị bệnh dịch tê bại trẻ con hoành hành.  Tại nhiều thành phố, nhà thương không còn chỗ để tiếp nhận các trẻ em đáng thương.  Người ta phải đặt thêm giường trên các hành lang.

Tôi là một trong số các trẻ em bị bệnh này.  Chứng bệnh ban đầu làm cho tôi không nuốt được.  Tiếp đến: cổ, hai chân và cánh tay phải hoàn toàn bị tê liệt.  Tôi được chở đến nhà thương.  Các bác sĩ nói với Cha Mẹ tôi là tôi không thoát ra được chứng bệnh hiểm nghèo này.

Bệnh tê bại từ từ lan rộng sang các phần thân thể khác.  Nhưng phần bị nặng nhất là các đốt xương nơi cổ, khiến tôi không thể nào nhấc đầu lên khỏi chiếc gối.

Các bác sĩ giải thích cho Cha Mẹ tôi hiểu rằng, nếu theo một lối chữa trị thích hợp, có lẽ tôi sẽ đi đứng và sử dụng được cánh tay phải, nhưng tôi phải mang một vòng bao quanh cổ và phải theo học nơi trường dành cho các trẻ em tàn tật.

Ý nghĩ rồi đây tôi sẽ trở thành một đứa trẻ tàn tật, luôn luôn tùy thuộc người khác và là đối tượng cho lòng xót thương, khiến thân phụ tôi không thể nào chấp nhận được.  Ba tôi lục lọi tìm đọc tất cả sách nói về chứng bại trẻ em.  Ba tôi cũng thăm dò ý kiến các bác sĩ và y tá.  Sau cùng, Ba tôi thấy rằng, cần phải đưa tôi ra khỏi nhà thương càng sớm càng tốt để bắt đầu các buổi thực tập hầu tôi có thể sử dụng lại tứ chi.  Trong khi chờ đợi, Ba nói với tôi:

– Con phải làm tất cả những gì các bác sĩ và y tá bảo con làm, và phải làm cho tận lực!

“Phải làm cho tận lực”, là điều Ba vẫn hằng nhắn nhủ tôi, và hôm nay, Ba tôi trịnh trọng nhắc lại.

Thời gian sau đó, tôi thấy các trẻ gái lần lượt rời nhà thương trên xe lăn.  Ba nói với tôi:

– Con cũng sẽ rời nhà thương, nhưng không phải trên xe lăn mà bằng hai chân của con!

Ba tôi không bao giờ nói:

– Nếu con được khỏi bệnh,

nhưng luôn luôn nói:

– Khi nào con khỏi bệnh.

Từ tuổi lên 3, tôi theo học các khóa dạy vũ cổ điển.  Nhớ lại các bài học, tôi tận dụng các hiểu biết để tìm ra phương pháp giúp tôi ngồi yên trên giường được hai ba phút.  Tôi cũng tìm cách giữ cho đầu thăng bằng.  Các bác sĩ không thấy gì là đặc biệt, nhưng Ba tôi thì thật vui mừng, như thể là tôi sắp lành bệnh đến nơi!

Tôi rời nhà thương, nhưng vẫn chưa đi được.  Thay vì đẩy tôi trên xe lăn, Ba tôi quyết định bồng tôi trên đôi tay người.

Tôi học đánh dương cầm từ tuổi lên năm.  Khi về đến nhà, Ba tôi ngồi trước đàn và đặt tôi ngồi trên đầu gối của người.  Giữ cho tôi được thăng bằng xong, Ba tôi để hai bàn tay tôi trên các phím đàn.

Nhưng tay phải của tôi cứ buông thõng xuống, trượt ra khỏi các phím đàn.  Thấy thế Ba tôi nói:

– Không sao cả:  Thế nào con cũng chơi đàn trở lại.  Rồi con sẽ thấy!

Ba tôi mời bác sĩ đến tận nhà tập cho tôi sử dụng các bắp thịt.  Chính Ba tôi cũng bỏ bớt việc làm để đứng ra tập luyện cho tôi.  Từ từ tôi có thể đi đứng được, giữ cho đầu thăng bằng và chơi được vài nốt đàn.

Mùa thu năm sau, tôi trở lại trường học và trở lại với môn dương cầm và môn vũ cổ điển.

Khi bước vào bậc trung học, tôi là thiếu nữ bình thường như bao thiếu nữ khác.  Ba nói với tôi:

– Con sắp gặp số đông học sinh không biết gì về chứng bệnh của con.  Vậy con đừng nói với ai cả.  Bệnh tật đã qua rồi.

Tôi tuyệt đối nghe theo lời khuyên của Ba.  Ngay cả giờ đây, chỉ trừ ít người thân và bạn bè, còn lại không ai biết tôi từng bị bệnh tê liệt.

Ba tôi qua đời vào năm 61 tuổi.  Nhưng trước đó, Ba hãnh diện đưa tôi vào nhà thờ ngày tôi lãnh nhận Bí Tích Hôn Phối.  Sau đó, Ba sung sướng khi thấy tôi xuất hiện trên màn ảnh truyền hình.  Rồi Ba cảm động đọc các tác phẩm tôi viết về sức khoẻ và về sắc đẹp.  Nói tóm lại, Ba chứng kiến tất cả thành công của tôi, và nhất là Ba tôi biết rằng, tôi là phụ nữ tự tin, hạnh phúc và ngẩng cao đầu khi góp mặt với đời.

Tất cả thành công tôi đạt được là nhờ công ơn trời biển của hiền phụ tôi.  Người không đầu hàng trước căn bệnh hiểm nguy của tôi và cùng tôi chiến thắng căn bệnh.  Suốt đời, tôi ghi ơn Ba tôi.

… “Giờ đây, chúng ta hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông chúng ta qua các thế hệ. THIÊN CHÚA đã sáng tạo nên nhiều người con hiển hách là các vĩ nhân từ những thưở xa xưa: Có những người cai trị đất nước mình và là những con người nổi danh về quyền lực.  Có những người lãnh đạo dân bằng các lời chỉ dẫn, bằng tài dạy dỗ dân chúng và những lời giáo huấn khôn ngoan.  Có những người sáng tác những điệu nhạc du dương, viết ra những bài thơ bài phú.  Có những người giàu sang, lắm quyền nhiều thế, sống bình an hòa thuận trong nhà.  Hết thảy đều được người đương thời khen ngợi, được vẻ vang trong lúc sinh thời. Trong các vị, có những người lưu danh hậu thế cho người đời ca ngợi tán dương” (Sách Huấn Ca 44, 1-8).

Sr.Jean Berchmans Minh Nguyệt

(”Reader’s Digest SELECTION”, Juin/1992, trang 49-53). (radio Vatican)

CÓ LINH HỒN KHÔNG?

CÓ LINH HỒN KHÔNG?

Chu Tất Tiến

Vấn đề “có linh hồn hay không” đã được tranh cãi từ nhiều thế kỷ đến nay và vẫn chưa dứt. Những người vô thần, không tin có Thượng Đế hay Thiên Chúa, dĩ nhiên, cũng không tin có linh hồn. Họ đều cho rằng “chết là hết”. Vì thế, đa số những người tự tử đều là người không có tín ngưỡng, không tin có linh hồn. Một khi họ không tìm thấy ý nghĩa cuộc sống nữa, hoặc khi họ bị các yếu tố của xã hội (tiền bạc, gia đình, việc làm, tương lai, bệnh hoạn, đẳng cấp, danh dự..) đẩy họ vào chỗ tuyệt vọng, không còn tìm thấy lối thoát nữa, thì họ chán sống, và tự tìm lấy cái chết để chấm dứt nỗi đau âm ỉ trong lòng. Một số khác, tin có linh hồn nhưng lại tin một cách quá đáng là sau khi chết có thể gặp lại linh hồn người mình yêu ở một cõi khác, nên cũng tự sát. Số nhỏ nữa, cũng tin có linh hồn, nhưng cũng tin là mình làm nhiều việc sai trái quá phạm đến Thượng Đế, đến Chúa, nên tự giết mình để đền tội.

Nhìn vào vấn đề Sống, Chết theo phương pháp toán học, chúng ta có câu hỏi:

Tại sao đang sống lại chết? Đang sinh hoạt, suy nghĩ, ăn ngủ, yêu đương, vệ sinh, đột nhiên tim ngừng đập vĩnh viễn, óc ngưng hoạt động, tất cả mọi vấn đề liên quan đều chấm dứt, như vậy, theo toán học, thì Người Sống khác với Người chết là người Chết thiếu đi một yếu tố nào đó, mà ta gọi là Ẩn Số X. Vậy, chúng ta có phương trình:

NGƯỜI CHẾT = NGƯỜI SỐNG – Ẩn Số X.

Hoặc ngược lại: NGƯỜI CHẾT + Ẩn số X = NGƯỜI SỐNG!

Vậy, Ẩn Số X là gì?

Đừng vội cho Ẩn Số X là da thịt, xương cốt, tế bào vì hàng chục tỷ người đã chết vì già, vì đau tim, trong khi xương cốt, tế bào vẫn nguyên vẹn. Ẩn số X này không phải là máu, vì có rất nhiều người chết mà không mất đi một chút máu nào. Ẩn số X cũng không phải chỉ là vì tế bào bị hư hại như ung thư, hoại huyết… vì có người chết vì bị kích xúc quá mạnh. Nhiều triết gia lại cho là vì con người mất đi tình cảm, xúc động, yêu thương, mà tình cảm và xúc động, yêu thương đó là chỉ đạo của cơ thể, cho nên khi mất những yếu tố đó, thì con người Chết! Lý luận như vậy cũng không đúng, vì có những người bị tai nạn, sống đời thực vật hoặc bị Alzheimer, không biết rung động, yêu thương, nhưng vẫn là Sống.

Như thế, Ẩn Số X là gì nếu không phải một yếu tố mà người gọi là LINH HỒN? Vậy Linh Hồn cư ngụ ở đâu trong cơ thể? Nếu chúng ta nhìn vào mắt một con mèo, con chó, con vật nuôi nào bị bỏ rơi,chúng ta thường thấy mắt chúng đẫm lệ và chúng ta biết rằng chúng đang mang một linh hồn đau khổ mà không có khả năng diễn tả, ngoài cặp mắt rưng rưng. Với Con Người, khi chúng ta nhìn vào mắt người đối diện, chúng ta thấy trong cặp mắt đó lung linh sáng, cho dù đó là cặp mắt của người Ác, kẻ giết người, hay là cặp mắt hiền từ của một tu sĩ, một Ma Sơ, một tăng ni.. Từ ánh mắt đó, mà chúng ta cảm thấy chúng ta đã nhìn thấy Linh Hồn của họ. Những linh hồn sầu đau, cô quạnh, yếu đuối thì ánh sáng trong mắt bị lu mờ. Những linh hồn vui tươi, hạnh phúc thì ánh mắt như có lửa sáng. Linh hồn nhẩy múa theo cơ thể đang nhẩy múa, nhưng linh hồn không ngủ vùi với cơ thể nhắm mắt, vì trong khi ngủ, óc não vẫn có những giấc mơ phản ảnh với hiện thực ngoài đời, dĩ nhiên, vì thần kinh não là một hệ thống chằng chịt, xuyên qua xuyên lại, không phải là một tấm kính của máy ảnh chụp cho nên linh hồn tạo ra những giấc mơ bị vặn xoắn ra nhiều thứ hình ảnh lạ lùng. Đôi khi, vì sự trùng hợp ngẫu nhiên nào đó của linh hồn mà hệ thống thần kinh não cho ra những giấc mơ trọn vẹn, ngay ngắn, có đầu đuôi, xuôi ngược y như một cuốn phim được chiếu lên tường. Và cũng vì linh hồn không phải là vật thể, cho nên có thể giao lưu với những linh hồn khác trong một tần số nào đó, của một thế giới nào đó, cho nên có những vụ “báo mộng” hoàn hảo.

DUNG TÍCH (THỂ TÍCH) CỦA LINH HỒN CÓ CÂN ĐƯỢC KHÔNG?

Dung tích hay Thể tích của linh hồn phải bằng với thể tích của xác, vì khi người ta chết, thì toàn bộ các tế bào từ da, xương, thịt.. đều chết, không chừa một ngón tay, ngón chây nào không chết, cả tóc cũng chết luôn. Như vậy thì Thể Tích của Linh Hồn = thể tích của thân xác, nghĩa là linh hồn tràn ngập một con người, từ tóc, đến gan bàn chân. Khi người ta chết, linh hồn rời khỏi xác thân và đi đến một không gian mới, tùy theo quan niệm về tín ngưỡng, mà người ta gọi là Thiên Đàng, Địa Ngục, hay Niết Bàn.

TẠI SAO KHÔNG NHÌN ĐƯỢC LINH HỒN?

Tuy thể tích của linh hồn bằng thể tích của xác thân, nhưng linh hồn lại không phải là vật chất, nên ta có thể tưởng tượng linh hồn giống như một lớp sương mù hòa lẫn với những lớp tế bào bao bọc ngoài thân xác mà không có trọng lượng, khối lượng.

Ta có ba giả thiết:

1-Linh hồn = vật chất. Giả thiết này sai vì nếu linh hồn có trọng lượng, khối lượng như thân xác thì chẳng hóa ra linh hồn lại là vật chất sao? Nếu linh hồn có khối lượng thì như vậy, một con người có gấp đôi trọng lượng sao?

2-Linh hồn = ½ thể xác. Cũng không đúng vì nếu như vậy, khi chết, trọng lượng của con người sẽ giảm đi một nửa. Trước đây, có vài bài nghiên cứu cho rằng nếu đem cân người chết ngay sau khi tắt hơi, thì thấy người chết nhẹ hơn khi sống một chút xíu (?)

3-Linh hồn = 0. Vì không có khối lương nên trọng lượng = 0. Một khi trọng lượng là 0, thì mất thường không thể nhìn thấy được.

AI TẠO RA LINH HỒN?

Câu hỏi này là loại bài toán không có đáp số, nếu chúng ta không tin có Thượng Đế, có Thiên Chúa, có ông Trời. Người Bình dân thường khi gặp đau khổ, thì kêu lên: “Trời ơi!” như thể có một ông Trời lúc nào cũng lắng tai nghe người ta gọi, cho dù người ta ở Bắc Bán Cầu hay Nam Bán Cầu, ở Xích đạo hay miền ôn đới, trong rừng sâu núi thẳm hay dưới biển, trong sông. Tuy nhiên, hầu như người ta cũng không thể nói Trời ở đâu, và Trời là gì? Chỉ có người theo Thiên Chúa Giáo (Công Giáo, Tin Lành) thì có thể trả lời câu hỏi này được: “Chúa dựng nên con người và thổi Linh hồn vào thể xác con người.” Câu này không có nghĩa là cứ mỗi người sinh ra, Chúa lại thổi một lần, mà chỉ có một lần duy nhất khi tạo ra con người đầu tiên trên trái đất, mà huyền thoại đặt tên là Adam, Ông A dong, thì Chúa mới tạo ra cả Xác và Hồn, từ đó, con người được lưu truyền Cả Xác và Hồn theo sự sắp xếp của Chúa từ tiên khởi. Đến đây, cũng phải ngừng lại một chút để nói về Thuyết Sáng Tạo và 7 ngày đầu tiên. Sách Sáng Thế viết rằng “Chúa dựng nên vũ trụ và con người trong 7 ngày”. Nhiều người tin thực là có 7 ngày theo lịch hiện đại, và cũng từ niềm tin này mà những kẻ chống báng lại Thiên Chúa ngạo mạn điều này và nói đó là vô lý! Thật sự, đó là điều vô lý nếu người ta tin rằng con số 7 ngày đây đúng là 7 ngày theo thời khắc lịch mà con người đặt ra. Không phải thế đâu! Thứ nhất, lúc Chúa tạo dựng ra vũ trụ, trái đất, mặt trăng.. “Ai” có mặt ở đó mà ghi lại? Mà ghi lại bằng phương pháp nào? Chữ viết mới có từ thời Babylon, người ta dùng cỏ Papirus làm thành giấy và lấy đầu nhọn khắc những ký hiệu tượng trưng cho sự việc. Nhưng đó là khi con người đã có văn minh rồi, còn Người nguyên tổ thì đã xuất hiện cả triệu năm trước! Như thế thì sao lại ghi chép là có 7 ngày sáng tạo? Điều này dễ hiểu nếu người đọc biết rằng người Do Thái cổ xưa, là người đã viết nên sách Sáng Thế, có khuynh hướng sắp xếp những gì giống nhau vào một loại, MỘT NGÀY. Do đó, khi muốn nói về sự Sáng thế, người Do Thái cổ mới xếp những gì giống nhau vào một NGÀY! Như ngày của Trời và Đất, ngày của Ánh sáng và Bóng tối, ngày của Đất và Nước ..rồi Ngày tạo ra CON NGƯỜI là xếp sau cùng!

Tóm lại, Linh Hồn là có thực. Đã có hàng triệu chuyện ma, dĩ nhiên, trong đó, đa phần là tưởng tượng, nhưng phải công nhận là có rất nhiều chuyện ma có thật. Và ma là gì nếu không phải là những linh hồn lang thang, uổng tử, còn dính líu đến xã hội vật chất mà không chịu đi sang thế giới khác. Người Mỹ cho hồn ma là những linh hồn còn những công việc, dịch vụ chưa hoàn tất trên thế gian (unfinished business). Và nếu tin có linh hồn, thì phải tin có Chúa Trời, mà đã tin có Chúa Trời, thì phải tin có Thưởng, Phạt phân minh, do đó, mà con người khi còn sống, phải cố gắng sống Thiện, sống Lành, sống theo Lương tâm của người Công chính, không mong làm hại ai, không muốn cho ai buồn về mình, và đồng thời, phải làm chuyện công đức, giúp người, giúp đời thì mới mong linh hồn mình được an vui mãi mãi cho đến ngày Chúa lại đến.

Sau cái chết sẽ là gì?

Sau cái chết sẽ là gì?

Mo Costandi

BBC

“Cái này phải bẻ mạnh một chút nữa mới gỡ ra được,” Holly Williams, một người làm dịch vụ tang lễ nói trong lúc cô cố gắng duỗi các ngón tay, cùi chỏ và cổ tay của John.

“Thường thì công việc của tôi sẽ dễ dàng hơn nếu thi thể còn mới”.

Sinh ra trong một gia đình kinh doanh dịch vụ tang lễ ở phía bắc Texas, Williams, 28 tuổi, tính đến nay đã xử lý khoảng 1.000 thi thể.

Công việc của cô bao gồm việc đưa các thi thể từ khu vực Dallas-Forth Worth về nơi chuẩn bị cho tang lễ.

“Hầu hết những người chúng tôi mang về là từ các nhà dưỡng lão, nhưng cũng có người chết do bị bắn hay tai nạn giao thông,” cô nói.

“Đôi khi có người đã chết nhiều ngày hoặc nhiều tuần mới được phát hiện ra và thi thể của họ đã bắt đầu bị phân huỷ, khiến công việc của tôi trở nên khó khăn hơn”.

John đã chết khoảng 4 giờ trước khi thi thể của ông được đưa đến nhà tang lễ.

Khi còn sống, ông làm việc tại một mỏ dầu và là người khá khỏe mạnh. Ông bỏ thuốc lá từ hàng chục năm trước và cũng ít uống rượu. Thế nhưng cơn đau tim vào một buổi sáng tháng Giêng đã khiến John ngã quỵ và qua đời ở tuổi 57.

Giờ đây, nằm trên chiếc bàn sắt của Williams, thi thể của John đã chuyển lạnh và ngả màu tím-xám, dấu hiệu cho thấy quá trình phân huỷ đã bắt đầu.

Tự phân hủy

Thế nhưng cơ thể của người chết không ‘hoàn toàn chết’ mà vẫn chứa nhiều sự sống ngay trong quá trình phân huỷ.

Nhiều nhà khoa học xem thi thể là một hệ sinh thái xuất hiện ngay sau khi chết và chuyển hoá qua nhiều giai đoạn sau khi quá trình phân huỷ bắt đầu.

Quá trình phân huỷ bắt đầu chỉ vài phút sau khi chết, bắt đầu bằng giai đoạn ‘tự phân’.

Ngay sau khi tim ngừng đập, các tế bào sẽ không còn được cung cấp oxygen. Enzyme bắt đầu tiêu hoá màng tế bào và rò rỉ ra ngoài trong lúc các tế bào bị tan rã.

Điều này thường bắt đầu đầu tiên ở gan, vốn giàu enzyme, và ở não, nơi có tỷ lệ nước cao. Dần dần, tất cả các mô đều bị tiêu huỷ theo cách này.

Các tế bào máu bị tổn thương sẽ bắt đầu trào ra khỏi cách mạch máu bị vỡ và khiến da đổi màu.

Nhiệt độ cơ thể cũng bắt đầu giảm cho đến khi bằng với nhiệt độ xung quanh. Sau đó, xác bắt đầu cứng dần, bắt đầu từ mí mắt, hàm, cơ cổ, cho đến tay chân.

Ở người sống, thành phần tế bào cơ có thể co duỗi nhờ hoạt động của hai loại protein có cấu tạo dạng sợi là actin và myosin, vốn di chuyển sát nhau.

Sau khi chết, các tế bào này bị mất nguồn cung cấp năng lượng và ngưng hoạt động khiến các cơ bị cứng lại, còn các khớp xương không duỗi gập được nữa.

Trong giai đoạn đầu, hệ sinh thái xác chết thường chỉ bao gồm vi khuẩn sinh sống trên và trong cơ thể.

Cơ thể chúng ta chứa một lượng lớn vi khuẩn, từ bề mặt cơ thể cho đến nội tạng. Tuy nhiên nơi chứa nhiều vi khuẩn nhất là ruột, nơi sống của hàng nghìn tỷ vi khuẩn thuộc hàng trăm hay thậm chí hàng nghìn họ khác nhau.

Hệ miễn dịch ngưng hoạt động

Tháng Tám 2014, Gulnaz Javan, một nhà khoa học pháp y từ Đại học Bang Alabama tại Montgomery đã cùng các đồng nghiệp công bố kết quả nghiên cứu về cái mà họ đặt tên là ‘thanatomicrobiome’ (bắt nguồn từ từ thanatos, tức ‘cái chết’ trong tiếng Hy Lạp).

“Nhiều mẫu nghiên cứu của chúng tôi đến từ các vụ hình sự,” Javan nói. “Nhiều người chết vì tự vẫn, bị mưu sát, dùng ma tuý quá liều hoặc tai nạn giao thông, và tôi đã lấy mẫu mô từ đó. Do vấn đề đạo đức nên chúng tôi cần được sự đồng ý khi lấy các mẫu mô đó.”

Hầu hết nội tạng đều được bảo vệ trước vi khuẩn khi chúng ta còn sống.

Tuy nhiên ngay sau khi chết, hệ thống miễn dịch ngưng hoặc động, khiến vi khuẩn tự do lan ra khắp cơ thể.

Vi khuẩn làm haemoglobin trong máu chuyển thành sulfhaemoglobin (Hình: Science Photo Library)

Vi khuẩn thường bắt đầu lan ra từ ruột, tại các đoạn tiếp giáp giữa ruột non và ruột già.

Không bị kiềm chế, chúng bắt đầu đánh chén ruột trước, từ trong ra ngoài, sau đó đến các mao quản của hệ tiêu hoá và các hạch bạch cầu, lan sang gan và lá lách, rồi từ đó lên tới tim và não.

Javan và nhóm của bà đã lấy mẫu xét nghiệm từ gan, lá lách, não, tim và máu từ 11 thi thể của những người đã chết từ 20 – 240 tiếng đồng hồ. Nhóm nghiên cứu sử dụng hai công nghệ xét nghiệm DNA tối tân khác nhau, kết hợp với các thông tin sinh học để phân tích và so sánh thành phần vi khuẩn trong mỗi mẫu phẩm

Các mẫu xét nghiệm lấy từ các bộ phận cơ thể khác nhau của cùng một thi thể rất giống nhau, trong khi các nội tạng giống nhau từ nhiều thi thể lại rất khác nhau.

Điều này có thể là do cấu tạo khác biệt của các quần thể vi khuẩn trong từng thi thể, hoặc do thời gian chết khác nhau.

Một nghiên cứu từng chỉ ra rằng dù các quần thể vi khuẩn trải qua nhiều thay đổi sau cái chết, sự thay đổi này là khá đồng đều, giúp các nhà nghiên cứu có thể ước tính khá chính xác được thời gian chết từ ba ngày đến 2 tháng.

Nghiên cứu của Javan cũng cho thấy các vi khuẩn tràn vào gan 20 giờ sau khi chết và chúng cần khoảng 58 giờ để lan ra khắp các nội tạng.

Như vậy, sau khi chúng ta chết, vi khuẩn sẽ lan ra khắp cơ thể một cách hệ thống, và các bác sỹ pháp y có thể dựa vào thời gian vi khuẩn lan từ nội tạng này sang nội tạng khác để ước tính thời gian chết.

“Sau cái chết, cấu tạo các quần thể vi khuẩn thay đổi,” Javan nói.

“Vi khuẩn lan sang tim, lên não và cuối cùng mới đến các cơ quan sinh sản”.

Có một điều rõ ràng là các nhóm thành phần vi khuẩn khác nhau thì liên quan đến các giai đoạn phân hủy khác nhau.

Hoạt động của vi khuẩn thay đổi hàng giờ trong xác chết (Hình: Getty Images)

Phân huỷ tự nhiên

Đối với hầu hết chúng ta, hình ảnh thi thể là một điều đáng sợ. Nhưng đối với các thành viên tại Trung tâm Nghiên cứu Pháp y Ứng dụng ở đông nam Texas, việc tiếp xúc với tử thi là chuyện thường nhật.

Đi vào hoạt động từ năm 2009, trung tâm này nằm tại một khu rừng thuộc sở hữu của Đại học Sam Houston State (SHSU).

Vào cuối năm 2011, các nhà nghiên cứu từ SHSU là Sibyl Bucheli và Aeron Lynne đã cùng các đồng nghiệp đã mang hai thi thể đến đây và quan sát sự phân huỷ trong môi trường tự nhiên.

Sau khi quá trình tự phân bắt đầu và vi khuẩn đã lan ra khắp nội tạng, xác bắt đầu bị thối rữa.

Các mô mềm bắt đầu chuyển hoá thành khí, chất lỏng và muối.

Quá trình thối rữa bắt đầu ngay trong thời gian đầu, nhưng thực sự rõ rệt khi vi khuẩn kỵ khí tham gia hoạt động.

Việc thối rữa liên quan tới sự chuyển vai trò hoạt động từ các loài vi khuẩn ưa khí, vốn cần oxygen để sống, sang các loài kỵ khí, vốn không cần đến oxygen.

Chúng ăn các mô cơ thể, làm lên men chất đường rồi từ đó sinh ra khí methane, hydrogen sulphide và ammonia tích tụ trong cơ thể, làm trương phồng khoang bùng và đôi khi cả các bộ phận cơ thể khác.

Điều này khiến cơ thể bị chuyển màu rõ rệt hơn.

Trong lúc các tế bào máu tiếp tục rò rỉ ra từ các mạch máu đã tan rã, các vi khuẩn kỵ khí tiếp tục biến các phân tử haemoglobin, vốn từng đưa oxygen đi khắp cơ thể, thành sulfhaemoglobin.

Sự hiện hữu của loại phân tử này trong cơ thể khiến màu da thi thể chuyển sang màu xanh đen đặc trưng cho thấy việc phân hủy đang diễn ra.

Ký sinh trùng

Các loại khí tiếp tục tích tụ trong cơ thể, gây phồng rộp bề mặt da.Tiếp đến sẽ là giai đoạn từng mảng da lớn bong ra, chỉ còn dính hờ vào cơ thể đang phân rã.

Cuối cùng các lượng khí và các lớp mô đã chảy nước thoát ra khỏi cơ thể, mà thường là qua đường hậu môn và các lỗ tự nhiên khác cùng các vết da rách trên cơ thể. Đôi khi áp suất quá lớn khiến khoang bụng phình to tới mức nổ toác ra.

Việc sưng phồng lên thường được coi là dấu hiệu cho thấy quá trình chuyển từ giai đoạn đầu sang giai đoạn sau của quá trình phân hủy, và một nghiên cứu khác gần đây cho thấy việc chuyển biến này được xác định bằng việc thay đổi trong thành phần vi khuẩn trong xác chết.

Cơ thể trong quá trình phân huỷ trở thành hệ sinh thái của vi khuẩn, côn trùng và các loài ăn xác.

Hai loài thường gắn với quá trình phân huỷ là ruồi nhặng.

Ruồi nhặng phát hiện ra mùi thi thể bằng ăng-ten trên đầu, sau đó hạ cánh xuống thi thể và đẻ trứng và các khe hở.

Mỗi con ruồi có khả năng đẻ 250 trứng, và trứng sẽ nở thành giòi trong vòng 24 tiếng.

Giòi bò nhung nhúc làm nhiệt độ bên trong xác chết tăng cao (Hình: Science Photo Library)

Những con giòi này ăn xác và trở nên lớn hơn, cho đến khi chúng đủ sức chui ra khỏi cơ thể và phát triển thành ruồi.

Quy trình này tiếp tục cho đến khi chúng không còn gì để ăn.

Nếu hội tụ đủ các điều kiện cần thiết, một thi thể phân huỷ sẽ có một số lượng lớn giòi bên trong.

Các ‘đàn giòi’ tỏa nhiều nhiệt, khiến nhiệt độ bên trong cơ thể lên 10 độ C.

Nếu như chim cánh cụt thường xuyên di chuyển để giữ ấm thì những con giòi này lại di chuyển liên tục để hạ nhiệt.

Sự hiện diện của ruồi thu hút các loài săn mồi khác như bọ cánh cứng, kiến, nhện, vốn ăn trứng ruồi và ấu trùng. Kền kền và các loài ăn xác khác cũng có thể bị lôi cuốn.

Nếu không có các loài ăn xác, những đàn giòi này sẽ ăn hết các mô mềm rất nhanh.

Nhà khoa học Carl Linnaeus ghi lại trong một nghiên cứu năm 1767: “Ba con ruồi có thể tiêu thụ hết xác chết của một con ngựa nhanh không kém gì một con sư tử”.

Có thể dùng thiết bị bay phía trên phân tích đất để phát hiện ra thi thể bị chôn vùi bên dưới (Hình: Getty Images)

Đất màu mỡ

Xác chết bị phân huỷ giúp làm thay đổi thành phần hoá học của phần đất bên dưới, tạo nên những thay đổi có thể duy trì trong nhiều năm.

Những phần còn lại trong cơ thể mang lại chất dinh dưỡng cho đất, và sự di chuyển của giòi giúp mang phần năng lượng bên trong lan ra một môi trường rộng hơn.

Toàn bộ quy trình này tạo nên một ‘đảo thi thể phân huỷ’ – một khu vực đất đai màu mỡ.

Theo một ước tính, trung bình, một cơ thể người có 50-75% là nước và mỗi kg xác khô thải ra 32g nitrogen, 10g phosphorous, 4g potassium và 1g magnesium ra đất.

Các loài giun đất và các loài thực vật nhờ đó trở nên khoẻ mạnh hơn.

Những nghiên cứu về những thay đổi đối với môi trường xung quanh có thể giúp các nhà điều tra lần ra những thi thể bị chôn trong các vụ án mạng.

Việc nghiên cứu lớp đất quanh mộ cũng giúp ước tính tốt hơn thời gian chết.

Một nghiên cứu hồi năm 2008 chỉ ra rằng chất khoáng vô cơ phosphorous rỉ từ cơ thể vào trong đất ở mức cao nhất vào 40 ngày sau khi chết, trong khi đối với nitrogen là 72-100 ngày.

Hiểu biết rõ hơn về những quy trình này sẽ giúp các nhà nghiên cứu pháp y một ngày nào đó ước tính chính xác hơn thời gian một thi thể được chôn cất trong một ngôi mộ bí mật.