| Linh mục gốc Việt hiến thận cho linh mục gốc Việt từng tu chung
Nhất Anh/Người Việt MANDEVILLE, Louisiana (NV) – Một linh mục gốc Việt quyết định hiến tặng thận của mình cho một linh mục khác sau khi hay tin linh mục này bị tiểu đường và cần ghép thận. Vào Tháng Tám vừa qua, Linh Mục John-Nhân Trần, chánh xứ nhà thờ Mary Queen of Peace tại Mandeville, Louisiana, tặng quả thận trái của mình cho Linh Mục Thành Nguyễn, quản nhiệm giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở Oklahoma City, Oklahoma.
Nói với nhật báo Người Việt, vị linh mục chánh xứ cho biết sức khoẻ của mình hiện giờ đã ổn định hơn và bắt đầu làm công việc mục vụ bình thường. “Mới đầu sau khi mổ xong, tôi thấy sức khoẻ của mình yếu đi nhiều lắm. Vết mổ đau, đi đứng cũng khó khăn, nhưng bây giờ thì đang bình thường trở lại. Và có một điều là tôi chưa bao giờ hối hận những điều mình làm,” Linh Mục John-Nhân Trần chia sẻ. Cả hai linh mục John-Nhân Trần và Thành Nguyễn rời Việt Nam và ban đầu định cư tại Louisiana. Họ gặp nhau lần đầu tiên vào năm 1980 tại chủng viện St. Joseph ở St. Benedict. Sau đó, cả hai vào chủng viện North Dame, New Orleans, cùng một lúc. Rồi chủng sinh John-Nhân Trần được thụ phong linh mục vào năm 1992, trong khi chủng sinh Thành Nguyễn tiếp tục ở lại chủng viện và chịu chức linh mục tám năm sau đó. Trong khi Linh Mục John-Nhân Trần sang tiểu bang Oklahoma làm mục vụ, Linh Mục Thành Nguyễn phục vụ ở các nhà thờ khác nhau ở phía Nam Louisiana. Thỉnh thoảng họ lại gặp nhau ở các sự kiện của cộng đồng người Việt. “Lúc cha Thành gặp lại tôi trong đám tang của ba tôi, tôi biết được tin ngài đang mang căn bệnh tiểu đường,” Linh Mục John-Nhân Trần kể. “Ngài phải lọc thận và chờ đợi đến phiên mình trong danh sách những người cần được ghép thận.” Không chần chừ, cũng không suy nghĩ, vị linh mục chánh xứ Mary Queen of Peace đề nghị được khám sức khoẻ xem thận của mình có phù hợp với Linh Mục Thành hay không. “Tôi và cha Thành từng học ở chung Chủng viện, chúng tôi là bạn của nhau. Và nhiều lần tôi có dịp đi đến các bệnh viện, chứng kiến người bệnh vật vã đau đớn chống chọi với bệnh tật và cứ phải lọc thận, lọc máu chờ ngày ghép thận. Đó là những hình ảnh đau long,” Linh Mục John-Nhân Trần bày tỏ. “Tôi không suy nghĩ gì hết, mà chỉ muốn giúp đỡ.” Lúc đó, theo lời kể của Linh Mục John-Nhân Trần, Linh Mục Thành Nguyễn luôn im lặng mỗi khi được người bạn nói muốn hiến thận, “vì lấy đi một quả thận của người bạn mình là điều quá to lớn.” Và mỗi khi gặp lại bạn mình, Linh Mục John-Nhân Trần luôn hỏi thăm tình trạng sức khoẻ và luôn nhắc lại nhã ý của mình. “Vào đầu năm nay, sau khi gặp lại cha Thành, tôi biết rằng mình bắt buộc phải làm,” vị linh mục chánh xứ chia sẻ. “Cuối cùng tôi liên lạc được người phụ trách việc hiến thận. Chúng tôi tiến hành khám sức khỏe, và kết quả là thận của tôi khoẻ và phù hợp với cha Thành.” Ngày 17 Tháng Tám, cuộc ghép thận diễn ra thành công. Hai tháng sau cuộc giải phẫu, sức khoẻ của cả linh mục đều dần dần ổn định. “Tôi cảm thấy vui khi cha Thành khoẻ mạnh trở lại, và cảm thấy việc mình làm có thể giúp đỡ cho người khác,” Linh Mục John-Nhân Trần tâm sự. “Tôi thấy việc mình làm là điều bình thường, không có gì là to tát hết.” San sẻ một quả thận của mình cho người khác có lẽ đó không phải là điều đơn giản đối với nhiều người. Nhưng đối với Linh Mục John-Nhân Trần, “con người có các thứ bên mình là do Chúa ban cho, nên tâm phải luôn biết ơn và cho đi người khó khăn hơn.” “Chúa soi sáng cho con đường tôi đi và nhờ ơn Chúa, thận của tôi phù hợp với cha Thành. Chúng ta luôn tạ ơn Thiên Chúa và phải biết cho đi những gì Chúa ban cho mình,” vị linh mục chia sẻ. “Chúng ta nên cố gắng sống cho người khác bất cứ trong hoàn cảnh nào chúng ta có thể làm, bởi vì sống chính là cho đi mà không mong chờ nhận lại điều gì từ người khác.” —————- |
BỐN MƯƠI NĂM – MỘT DÒNG LỆ
BỐN MƯƠI NĂM – MỘT DÒNG LỆ
Tri’ch EPHATA 661
Bà Lê Tín Hương hiện ở California, là một nhạc sĩ, cũng là một nhà văn, qua cha cố Ngô Văn Trọng đang nghỉ hưu tại Orange County, California, gởi cho chúng tôi câu chuyện về Ơn Lạ của Mẹ La Vang đã ban cho gia đình bà cách đây 40 năm. Xin mời quý độc giả…

Tôi rời nhà lúc 6 giờ sáng Chúa Nhật. Lái xe trong cơn mưa tầm tã, trên con đường dài vẫn còn mù mờ tối của một buổi sáng mùa đông lạnh, đối với tôi là một việc làm gần như rất hiếm hoi.
Ngày cuối tuần, nhất là những sáng trời mưa, tôi vẫn có cái thú rúc trong chăn và nằm nướng. Cây đàn Tây Ban Cầm được gác sẵn bên góc đường để tôi có thể với tay kéo lên bất cứ lúc nào, và ngồi dậy tựa lưng vào thành giường nhã hứng… Những dòng nhạc về mưa, về thân phận lúc đó lại có cơ hội tiếng thăng tiếng trầm đến với cuộc đời…
Riêng sáng hôm nay, lòng tôi nao nao mong đợi. Tôi thức dậy sớm. Sau một chút trang điểm nhẹ nhàng, tôi chọn cho tôi chiếc áo màu trắng, khoác ngoài chiếc áo ấm màu đen và sẵn sàng chờ giờ ra xe. Trời chưa thấy sáng và giờ đi hãy còn sớm. Tôi bâng khuâng ngồi nhìn ra khung cửa, mưa vẫn còn nặng hạt, dấu chỉ báo hiệu cho một cơn mưa có thể kéo dài đến chiều…
Liên tưởng đến buổi Thánh Lễ Ðại Trào mà tôi sẽ tham dự sáng nay, khai mạc năm Toàn Xá 200 năm Ðức Mẹ La Vang và kỷ niệm 10 năm phong thánh, 117 vị anh hùng Tử Ðạo Việt Nam. Tôi bỗng thấy lòng lâng lâng xúc động. Ngoài sự cảm phục về tấm gương sáng ngời tình yêu và tuyên xưng đức tin của các Thánh Tử Ðạo, thì mỗi khi nhắc đến Mẹ La Vang, là gợi lại trong tôi hồi tưởng về một khung trời thơ ấu xa xưa với biến cố trọng đại đã đến với gia đình tôi cách đây 40 năm về trước, vào một ngày mưa gió như hôm nay…
Năm 1958, ba tôi làm việc tại Bệnh Viện Trung Ương thành phố Huế. Mỗi tháng ông vẫn cùng các bác sĩ đi thanh tra các bệnh viện nhỏ ở các vùng lân cận. Hôm ấy, ông sửa soạn đi thăm Bệnh Viện Quảng Trị, cách thành phố Huế khoảng 65 cây số về phía Tây Bắc.
Tôi còn nhớ rõ sáng hôm ấy trời mưa lạnh. Những cơn mưa mà những ai đã từng ở Huế chắc chắn không thể nào quên được. Mưa tầm tã, rả rích kéo dài từ ngày này sang ngày khác tưởng chừng như vô tận. Ba tôi chuẩn bị lên đường. Chiếc xe chở ông cùng ba vị bác sĩ và một nhân viên bệnh viện đã đón ông ở ngoài cổng. Ba tôi mặc vào người chiếc áo jacket bằng da và dặn dò mẹ tôi một vài điều gì đó rồi vội vàng ra xe.
Bước xuống mấy bậc thềm ông gặp ngay cha Luận đang bước vào. Cha Cao Văn Luận cùng quê quán với cha tôi, ngài rất gần gũi và thương yêu gia đình tôi. Một trong những mong mỏi của ngài là được thấy gia đình tôi theo Ðạo. ( Ảnh chụp Vương Cung Thánh Đường La Vang ngày xưa, trước khi bị chiến tranh tàn phá vào Mùa Hè 1972 ).
Tuy rất kính và quý mến cha nhưng điều đó với ba mẹ tôi là một trở ngại lớn, không thể nào thực hiện được. Cả hai bên nội ngoại tôi không ai có Ðạo. Mẹ tôi đồng thời lại là một Phật Tử. Bà đã quy y, pháp danh Nguyên Khai. Bà cũng đã từng xây chùa cho làng ngoại tôi tại Huế. Mẹ tôi là một người đàn bà có học. Như đa số những bà mẹ Việt Nam khác rất hiền lành và nhẫn nhục. Cả cuộc đời hy sinh cho hạnh phúc của chồng con, nhưng trong vấn đề tín ngưỡng thì lại rất cương quyết, chẳng thể nào lay chuyển được. Ba tôi biết thế nên ông rất tôn trọng mẹ tôi mặc dầu ông rất kính mến cha Luận.
Cha Luận gặp ba tôi, ngài bắt tay rất vui vẻ, ngài đưa cho ba tôi một tấm ảnh và bảo: “Tôi mới đi kiệu ngoài La Vang về. Tôi kính cho ông một tượng ảnh của Mẹ La Vang. Ðức Mẹ đã làm nhiều phép lạ và rất linh thiêng. Ông hãy giữ lấy mà cầu nguyện.”
Ba tôi cười cười, nói cám ơn cha, rồi thuận tay ông nhét tấm ảnh vào túi trong của chiếc áo da. “Con phải đi ngay cha à, mọi người đang đợi con ở ngoài kia.” Vừa nói ba tôi vừa chào từ giã cha rồi ra xe. Tôi nhìn theo chiếc xe chở ba tôi khuất dần, khuất dần sau màn mưa dày đặc…
Buổi chiều trong khi người nhà chuẩn bị bữa cơm, chúng tôi ngồi nghe mẹ kể chuyện. Mẹ đang kể một đoạn trong câu chuyện “những kẻ khốn cùng” ( Les misérables ) của văn hào Victor Hugo thì chúng tôi nhận được hung tin. Chiếc xe chở ba tôi và bốn người nữa đã bị lật tại cầu Giồng, Quảng Trị, và chìm xuống sông. Tất cả đều tử nạn. Bệnh viện báo tin và yêu cầu gia đình ra ngay hiện trường để nhận xác đồng thời để tẩm liệm tại chỗ cho thân nhân…
Trước biến cố bất ngờ đó, mẹ tôi như người bị sét đánh. Bà run rẩy rững sờ ôm lấy tôi. Làm sao tôi có thể diễn tả hết nỗi đau đớn trong lòng mẹ lúc ấy… ( giờ đây sau biết bao lần chứng kiến những chia ly, tử biệt, tôi mới ngậm ngùi thấm thía được niềm đau đớn của những nỗi đợi chờ tuyệt vọng ), chỉ biết là đã nhìn thấy mẹ đầm đìa nước mắt và cả chúng tôi nữa…
Ngoài kia dòng lệ của đất trời vẫn hững hờ rơi…
Mẹ tôi và chị em tôi theo chiếc xe của bệnh viện ra Quảng Trị nhận xác cha. Ðến nơi, tại một trạm gác nhỏ nằm cuối chân cầu, xác của ba vị bác sĩ và nhân viên bệnh viện đã được vớt lên. Còn thi hài của ba tôi thì chưa tìm thấy. Người ta chưa vớt được ba tôi nhưng mọi người xác định là ông cũng cùng một số phận với những người đã tử nạn; nhất là ông đã chìm sâu dưới lòng nước quá lâu. Mẹ tôi mặt mày bạc nhược tái xanh, mắt đỏ hoe vì khóc, đứng ở một góc phòng chờ đợi…
Thân nhân của các nạn nhân đều đã tới, tiếng kêu gào khóc kể nghe rất não lòng. Tôi vừa buồn vừa sợ, mơ hồ cảm thấy một khúc quành nào đó thật ngặt nghèo đang chờ đợi gia đình tôi.
Em tôi vì còn nhỏ, có lẽ chưa hiểu lắm, nép trong lòng mẹ ngơ ngác nhìn quanh: “Ba đâu, ba đâu mẹ ?” Mẹ tôi chưa kịp dỗ dành em thì bỗng có tiếng người la lớn: “Ðây rồi, vớt được xác sau cùng rồi !” Là ba đó, mẹ tôi chạy nhào tới. Phải rồi, người ta đang khiêng ba tôi vào, đặt ba tôi nằm trên chiếc băng ca… Lại có tiếng người la lên: “Trời ơi ! Ông ta hình như chưa chết. Còn thở. Hơi thở yếu lắm. Làm hô hấp nhân tạo ngay đi !”
Và ba tôi quả còn sống thật ! Mẹ tôi quỳ xuống lạy trời lạy đất. Cám ơn Trời Phật đã cứu sống ba tôi. Nước mắt một lần nữa tuôn dầm dề trên má mẹ, nhưng lần này là những dòng nước mắt hạnh phúc không ngờ…
Chúng tôi quỳ chung quanh chiếc băng ca nơi ba tôi đang nằm. Ba tôi tỉnh lại hẳn. Ông nói bằng một giọng nói thật yếu ớt, câu nói đầu tiên mà tôi không bao giờ quên được: “Hãy xin cha rửa tội, rửa tội cho cả nhà, Ðức Mẹ La Vang đã cứu ba.”
Nói xong ông đưa tay vào trong túi áo da lục lọi kiếm tìm, và sau đó ông rút ra tấm ảnh Ðức Mẹ La Vang. Tấm ảnh mà cha Luận đã cho ông trước chuyến đi định mệnh. Tấm ảnh đã ướt sũng và đậm màu vì thấm nước, nhưng hình Ðức Mẹ với chiếc áo choàng xanh vẫn còn in rõ nét.
Ba tôi nói tiếp: “Ðây chính Bà này đã cứu ba, Bà đã lôi ba, lúc ấy đang mắc kẹt trong xe, ra khỏi cửa xe. Bà đẩy ba nổi lên mặt nước và nói Ta là Ðức Mẹ La Vang, Ta đến cứu con.”
Tôi chợt nghĩ lại, nếu ngày hôm đó ba tôi không vội vàng ra đi, và có thời giờ để tiếp chuyện với cha Luận. Có lẽ bức tượng ảnh Ðức Mẹ La Vang đã bị bỏ quên trong một ngăn kéo nào đó cùng với sự hững hờ của ba mẹ tôi.
Sau biến cố đó, gia đình tôi gồm ba mẹ và 7 anh chị em đã rửa tội trong sự tự nguyện rất hoan hỷ của mẹ tôi. Ba vị Linh Mục thân thiết của gia đình tôi, cha Cao Văn Luận, cha Ngô Văn Trọng lúc bấy giờ là cha Chánh Xứ Họ Đạo Phanxicô, hay còn gọi là Nhà Thờ nhà nước, nơi mà gia đình tôi cư ngụ, và cha Vũ Minh Nghiễm, Dòng Chúa Cứu Thế, người đã dày công dạy giáo lý cho chúng tôi. Cả ba vị Linh Mục này đã dâng Thánh Lễ và ban Bí Tích rửa tội cho chúng tôi.
Theo lời xin của ba tôi, để cảm tạ ơn thánh của Ðức Mẹ, lễ rửa tội được tổ chức tại Thánh Ðường Ðức Mẹ La Vang Quảng Trị. Mẹ tôi vô cùng vui mừng hân hoan, và tin tưởng lần chuỗi Mai Khôi cảm tạ ơn Ðức Mẹ mỗi ngày. Cho đến ngày nhắm mắt bà là một tín đồ sốt sắng, sùng kính Ðức Mẹ tuyệt đối. Ðây là những hình ảnh cuối đời của mẹ tôi.
Tôi còn nhớ rõ sau thời gian gia đình nhận Bí Tích Rửa Tội. Mẹ tôi đã chịu đựng nhiều lời ra tiếng vào của họ hàng và những người quen biết. Họ cho rằng gia đình tôi theo đạo là để mưu cầu cho một quyền lợi nào đó. Về phần chúng tôi khi đến trường cũng nghe những lời đàm tiếu của bạn bè. Mỗi lần than vãn với mẹ thì mẹ lại khuyên răn chúng tôi: “Ba là cột trụ và là nguồn sống của gia đình chúng ta. Vì thế dầu có chịu bao nhiêu thử thách, khó khăn cũng phải chấp nhận để cảm tạ ân sủng đó. Tình yêu luôn luôn có cái giá phải trả, và cái giá đó có nghĩa gì đâu với ân huệ mà Ðức Mẹ đã ban cho gia đình chúng ta.” ( Ảnh tượng Mẹ La Vang nguyên thủy và bộ tem Mẹ La Vang, chụp vào năm 1962, là mẫu tượng Đức Bà phù hộ các giáo hữu ).
Mẹ tôi nói đúng, ơn lạ mà Mẹ La Vang đã ban là một biến cố lớn trong đời sống tâm linh của gia đình, cũng là một biến cố trong lịch sử gia tộc. Ba tôi năm nay đã gần 90. Ông vẫn còn kính tấm tượng ảnh năm xưa đã cứu ông trên bàn thờ. Tấm ảnh Ðức Mẹ ngày nay đã mờ nhạt theo thời gian, nhưng mỗi ngày ông đều đọc kinh lần hạt cảm tạ Ðức Mẹ.
Câu chuyện mầu nhiệm này đã được chúng tôi thường xuyên kể lại cho con cháu nghe, như là một câu chuyện thần thoại nhưng có thật. Xảy đến từ một trong những phép lạ của Ðức Mẹ La Vang đối với gia đình tôi nói riêng và nhiều gia đình khác nói chung.
Ngày đại lễ hôm nay, trời cũng mưa. Tôi lái xe trong cơn mưa như trút nước, Lòng hạnh phúc vô cùng vì tôi được có Chúa. Có ánh sáng Niềm Tin của Ngài chiếu rọi tâm hồn tôi. Có Tình Yêu bao la rộng mở của Ðức Mẹ đã đến với gia đình tôi từ thuở tôi mới lên mười…
Tôi lắng nghe những lời huấn từ của Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận. Bằng giọng nói rõ ràng trầm ấm, ngài nhắc lại lịch sử Hội Thánh Công Giáo Việt Nam từ những ngày đầu tiên. Qua biết bao nhiêu thăng trầm gian khổ có máu, có nước mắt và ngày nay đã được thăng hoa với 117 Vị Thánh Tử Ðạo. Gia đình ngài cũng đã theo Chúa cách đây 300 năm, với những thử thách cùng với nhiều ân sủng của Chúa, của Ðức Mẹ, đặc biệt là Mẹ La Vang. Ngài cũng kể lại những phép lạ mà Ðức Mẹ đã ban, trong đó có phép lạ chữa lành bệnh cho cha cố Trọng, cha Linh Hướng của gia đình tôi.
Tôi tự cảm thấy gia đình mình may mắn, đã được hưởng một ân sủng quá đặc biệt đến từ Tình Yêu bao la không bờ bến của Ðức Mẹ.
Trong cái lạnh của mùa Ðông, lòng tôi bỗng nhiên ấm cúng. Tôi thấy tâm hồn như nở hoa. Ðóa hoa Yêu Thương trong vườn hoa rực rỡ của Niềm Tin. Tôi hy vọng sẽ mãi mãi là đóa hoa đầy hương sắc, không bao giờ héo rũ úa tàn. Tôi thầm cám ơn Chúa, cám ơn Mẹ, cúi đầu để che dấu dòng lệ cảm xúc đang âm thầm rơi. Dòng lệ của hơn bốn mươi năm trước kể từ khi gia đình tôi được ơn lạ của Ðức Mẹ La Vang, trải qua biết bao sóng gió bể dâu… Có lúc đã ngưng đọng, có lúc tưởng chừng bị lãng quên, hôm nay lại từng giọt chảy dài… Những giọt lệ vui mừng. Những giọt lệ bồi hồi nhắc nhở tôi niềm hạnh phúc được nương náu trong Tình Yêu và Ân Sủng của Chúa, của Mẹ Maria.
LÊ TÍN HƯƠNG, California,
Chúa Nhật 22.2.1998
ĐHY – Nguyễn Văn Thuận – Gương Chứng Nhân Hy Vọng
ĐHY – Nguyễn Văn Thuận – Gương Chứng Nhân Hy Vọng
httpv://www.youtube.com/watch?v=iI-iYDo5fmA&feature=youtu.be
CHÚA CHỮA LÀNH BỆNH UNG THƯ NÃO THỜI KỲ CUỐI.
CHÚA CHỮA LÀNH BỆNH UNG THƯ NÃO THỜI KỲ CUỐI.
MARIA NGUYỄN KỲ.
Hôm nay, tôi lại được hân hạnh gặp gỡ quí Bạn và làm chứng cho Chúa thêm một lần nữa.
Có một số trong các Bạn còn nhớ lần chia xẻ đầu của tôi về Lòng Thương Xót bao la của Chúa, Ngài đã ra tay vào tháng 10 năm 2014 cho Ba tôi, Chúa đã chữa cho Ba khỏi đốt xương sống bị trật, bật ra khỏi khớp sống vì tai nạn xe cộ, vào dịp đó tôi đã có dịp làm chứng ở trang Web này:
http://thanhlinh.net/node/84301
Cũng như Bạn và nhiều người khác, tôi biết là Lòng Thương Xót của Chúa to lớn đến mức vô giới hạn. Lòng Thương Xót vốn đã có từ hơn hai ngàn năm rồi, trong lịch sử nhân loại, Chúa Giê Su luôn chạnh thương và vô cùng xót xa cho nạn nhân, tội nhân
“Các bệnh tật của ta Ngài đã gánh lấy, Ngài đã vác lấy các nỗi đau thương của ta.” (Mát thêu 8, 17).
Tôi biết là ai tìm đến Chúa với tâm tình tín thác đều lãnh nhận sự chữa lành của Chúa cách này hay cách khác sao cho có lợi ích nhất cho người đó. Chính Kinh Thánh đã nói rất rõ rồi phải không?
“Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem lại cho Ngài mọi kẻ ốm đau và những người bị quỉ ám; Tất cả thành tụ họp lại trước cửa và Ngài đã chữa nhiều người ốm đau mắc đủ chứng bệnh; Ngài trừ quỉ cũng nhiều, và cấm quỉ nói năng vì chúng biết Ngài.” (Mác cô 1, 32-34)
Ngay cả trong thời đại chúng ta, Chúa Giê Su vẫn hành xử giống như khi xưa, sự chữa lành của Chúa thật là tuyệt vời. Vào tháng 7 năm 2015 mới đây, Chị Xuân bạn mới quen mà tôi có dịp gặp trong một dich vụ bảo hiểm, chị rất buồn vì hoàn cảnh gia đình mình đang có nhiều trăn trở, số là anh Sang chồng của chị bị ung thư máu thời kỳ cuối, Bác sĩ cho biết Anh phải ghép tuỷ lại lần thứ hai vì lần đầu cách đây một năm, cách điều trị ghép tuỷ có dầu hiệu thất bại, Anh bị sốt cao độ, đau nhức trong đầu, trong xương khớp và tiêu chảy không ngưng, người hoàn toàn suy kiệt tới mức Anh Sang nghĩ rằng lần đi đến bệnh viện này sẽ là lần chót, anh hoàn toàn suy kiệt trong mọi cơ quan của thân thể và anh nghĩ rằng sẽ không bao giờ còn có cơ hội quay về căn nhà của mình thêm một lần nữa. Khi nghe biết hoàn cảnh của chị, tôi đã cảm thấy đau xót và thương cảm như chính mình đang trải qua các đau thương,khó khăn đó, tôi không thể cầm được nươc mắt, tôi cầu nguyện lòng thương xót Chúa cho anh Sang, tôi ôm lấy tượng thánh giá với các thương tích loang lổ máu trên thân thể Chúa và dâng hoàn cảnh của Chị Xuân cho Lòng thương xót Chúa, Chị là một người mẹ với bốn con,chị nuôi Mẹ già tám mươi lăm tuổi, bịnh nặng, tài chính một tay chị phải xoay xở, chống chọi, anh Sang thì không thể đi làm nữa, sanh mạng Anh đang gần kề huyệt mộ, thậm chí gia đình đã mua xong phần đất để dành đó cho việc mai táng. Tôi cứ khóc và cầu nguyện, tình yêu thương cho Chị Xuân và cho Anh Sang một tân tòng cứ thấm vào trong tim tôi và làm tôi thao thức, Tôi biết là chỉ có Lòng Thương Xót của Chúa mới có thể cứu gia đình chị, những giọt nước mắt của tôi đã nhỏ trên tượng chuộc tội mà tôi ôm trong tay, có giọt nước mắt nào rơi trên những vết thương rỉ máu của Người? Tôi xin Chúa tỏ uy quyền và tình thương xót Chúa trong đời sống của Anh Sang, một người con mới biết sơ sài về Chúa mà thôi, xin Chúa cứu anh là một Tân Tòng… Còn đang cầu nguyện thì từ bệnh viện chị Xuân gọi phôn cho tôi biết ngay vào thời khắc đó Anh Sang đã tự nhiên ngưng sốt, và ngưng tiêu chảy. Các Bác sĩ ngạc nhiên và tiếp tục theo dỏi, hai mươi bảy tiếng đồng hồ sau khi chúng tôi cầu nguyện cho Anh Sang thì Bác sĩ cho phép Anh Sang xuất viện ngay đúng vào 3 giờ chiều, tức là giờ của Lòng Thương Xót Chúa, giờ mà Chúa Giê Su đã hứa cho bất kỳ ai biết tín thác và cầu nguyện với Lòng Thương Xót Chúa vào giờ đó thì sẽ được nhận lời.
Chúng tôi còn đang vui mừng và tiếp tục cầu nguyện cho anh Sang thì vào Chúa Nhật tuần trước, ngày 23 tháng 8, 2015 , Chúa gởi đến cho nhóm cầu nguyện chúng tôi một nhân chứng của Lòng Thương Xót khác thật là tuyệt vời, tôi xin ghi lại lời của Bác gái chứng nhân, khoảng trên sáu mươi tuổi, như sau:
– Thưa các Bác, các Anh Chị , tôi được hân hạnh đến Nhóm hôm nay để làm chứng về Lòng Thương Xót Chúa, tôi không biết cách cầu nguyện của Nhóm (mãnh liệt) như thế nào , phần tôi thì cảm nhận được sự linh thiêng khi cầu nguyện vào lúc 3 giờ chiều với Lòng Thương Xót Chúa. Cách nay gần hai năm, con gái lớn của tôi hay bị đau đầu, khi không còn chịu đựng nổi, cháu mới chịu đến bệnh viện, khi chụp cộng hưởng từ, MRI rồi chụp cắt lớp CAT Scan thì khám phá ra là trong đầu cháu có đến 4 khối u ung thư. Cháu được điều trị tại trung tâm ung thư hàng đầu của Texas, bệnh viện M D Anderson, thuộc đại học UT. Tuy nhiên căn bệnh ung thư của cháu đã di căn và phát triển đến giai đoạn cuối cùng, các Bác sĩ đã bó tay, họ không dám mổ cũng không dám đặt kim xạ trị, không thể đụng chạm vào các khối u, tình trạng của cháu được kể là hoàn toàn tuyệt vọng và chỉ còn sống được một thời gian ngắn. Trước hung tin của cháu, tôi rất đau khổ và xúc động, điều này không tốt cho căn bệnh tim mạch và cao huyết áp nặng triền miên của tôi. Khi tôi thường xuyên từ nhà vào bệnh viện thăm cháu, thấy tôi xúc động và quá xao xuyến, cháu đã bình tĩnh nói với tôi, “ Con xin Mẹ đừng vào thăm con nữa vì Mẹ đã biết bịnh tình con sẽ như thế nào rồi. Con không muốn bịnh áp huyết của Mẹ ra nặng bất ngờ và Mẹ bị tai biến tim, tai biến mạch máu não (stroke) mà chết trước con thì khổ lắm. Từ nay, xin đừng vào đây thăm con nữa.” …
Làm thế nào đây? Là người Mẹ tôi phải tìm mọi cách để cứu cháu, tôi biết là chỉ còn có một cách duy nhất, đó là đặt trọn tín thác vào Lòng Thương Xót của Chúa, đêm hôm đó trong thao thức tôi cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa nhiều lần, tôi cứ tiếp tục cầu nguyện Lòng Thương Xót, trước bàn thờ, tôi chăm chú ngước lên nhìn ngắm Lòng Thương Xót Chúa với hết tấm lòng cậy trông xin Lòng Thương Xót Chúa chữa lành cho cháu vì Bác sĩ đã chịu thua cuộc và bó tay rồi. Như một em bé trong cơn đắm thuyền, tôi bám víu vào phao nổi là cứu Chúa với Lòng Thương Xót của Ngài. Tôi vững tin vào Chúa Giê Su, vốn là vị Bác sĩ đại tài, không có một bệnh tật nào mà Ngài không thể cứu chữa dù là 4 cục ung thư não di căn vào thời kỳ cuối. Nó chẳng là gì trong quyền năng của Chúa Giê Su, mạnh tin, tôi tiếp tục cầu nguyện liên lỉ với Lòng Thương Xót Chúa… Rồi trời cũng sáng dần, bắt đầu cho một ngày mới, lúc sau, tôi được cháu cho biết là đêm qua nó đã cảm thấy khỏe khoắn, và cảm thấy dường như có điều gì đã xảy ra trong đầu cháu. Về phần Bác sĩ, họ nhận thấy tình trạng bệnh không còn các cơn đau co thắt người cũng như các dấu hiện bệnh tiến triển, trở nặng. Hai ngày sau, Bác sĩ cho cháu chụp hình lại để xác định bệnh, kết quả MRI, CT đều không tìm ra bướu cũng như bất kỳ dấu vết ung thư hay sự thương tổn nào trong não. Chúa không chỉ chữa ung thư mà còn phục hồi các thương tổn trong não bộ do ung thư gây ra.
Đến nay, cháu đã sống khỏe mạnh, đi làm bình thường được gần hai năm rồi. Kỳ công của Chúa thật là ngoài sức tưởng tượng của các Bác sĩ và mọi người.
Thưa bạn, Lòng Thương Xót và quyền năng của Chúa Giê Su là như thế đó.Thật là uổng phí và thiệt thòi cho ta, nếu ta không biết chạy đến với Lòng Thương Xót Chúa và dìm tâm hồn vào trong biển tình bao la của Chúa kính yêu, vì Chúa luôn mong ngóng ta chạy đến với tình yêu mỏi mòn trong chờ đợi của Chúa.
Chúa phán với thánh nữ Faustina:“Cha khao khát lòng tín thác từ các thụ-tạo của Cha. Con hãy khuyên các linh hồn hết lòng Tín-Thác nơi LÒNG THƯƠNG XÓT vô-biên của Cha…Chớ chi các linh hồn tội lỗi và yếu đuối đừng bao giờ sợ đến với Cha, dù tội của họ có hằng hà sa số như cát đại dương đi nữa, thì tất cả những tội lỗi ấy cũng chìm hết trong Vực Thẳm Tình Yêu Thương Xót của Cha” (NK. 1059)
Không biết là từ bao giờ , tôi đã “ghiền” được cầu nguyện với Lòng Thương Xót Chúa, tôi luôn dùng cách thuận tiện là cầu nguyện Lòng thương Xót Chúa qua cell phone, mỗi ngày vào lúc 2 giờ ở Houston, ( tức là 3 giờ ở NewYork, múi giờ Miền Đông Hoa Kỳ) chúng tôi lại cùng nhau gọi vào số điện thoại 605-562-3140, sau đó khi nghe đáp thì bấm tiếp số 460922# để được ca ngợi và cầu nguyện với Lòng Thương Xót Chúa. Chương trình cầu nguyện này được Cha Lê Thanh Quang linh hướng và giảng Lời Chúa mỗi ngày. Bạn có thể tìm hiểu thêm chi tiết ở trang liên kết này http://www.longthuongxotchua-memedju.org/
Xin tạm biệt Bạn và hẹn gặp trong các kỳ chia xẻ cho nhau về tình yêu vô biên của Lòng Thương Xót Chúa.
Tình Mẫu Tử Bao La
Tình Mẫu Tử Bao La
Trước đệ nhất thế chiến 1914-1918, các xứ đạo tại Đức mở Tuần Đại Phúc.
Năm đó, một giáo xứ của giáo phận Aachen (Tây Đức), cũng mở Tuần Đại Phúc. Dịp này, Cha Sở mời Linh Mục Thừa Sai đến nói chuyện với giáo dân. Thánh đường chật ních tín hữu. Bổn đạo im lặng hướng mắt về tòa giảng. Vị Linh Mục Thừa Sai trạc ngũ tuần. Cha bắt đầu bài giảng như sau:
Một bà mẹ đau nặng gần chết. Tất cả con cái tề tựu quanh giường người hấp hối. Chỉ thiếu mặt người con út, đứa con trai hoang đàng. Đây là đứa con nhận lãnh nhiều tình thương nhất. Đáp lại, anh gây cho mẹ nhiều sầu khổ và đổ không biết bao giọt nước mắt. Giờ sau cùng đến, nhưng quí tử của bà đang bị giam tù, vì các tội ác của chàng. Dầu vậy người mẹ vẫn không quên đứa con út. Bà ao ước nhìn mặt con lần cuối. Các người con khác cố gắng thực hiện mong muốn của mẹ. Họ xin phép đặc biệt cho người em về thăm mẹ.
Phép xin được chấp thuận. Hai tay bị còng, đứa con út được bốn quân nhân hộ tống đưa đến cạnh giường người mẹ. Bà đã quá yếu. Bà không còn hơi để nói với con trai lời nào, dù chỉ một lời duy nhất. Nhưng tâm trí bà vẫn tĩnh táo. Bà chăm chú nhìn con yêu dấu lần cuối. Chỉ có thế. Chàng trai lại được bốn người lính đưa về nhà tù. Nhưng phép lạ đã xảy ra sau đó. Ánh mắt vừa sầu khổ, vừa yêu thương trìu mến của mẹ hiền có giá trị hơn ngàn lời sửa dạy trách mắng.
Một mình trong phòng giam chật hẹp, chàng quỳ gối nức nở khóc. Chàng hồi tâm về tất cả tội lỗi đã phạm. Chàng cũng bắt đầu cầu nguyện, van xin THIÊN CHÚA đoái thương tha thứ cho chàng. Sau đó chàng xin gặp Cha Tuyên Úy, vị Linh Mục mà trước đó không bao giờ chàng muốn thấy mặt, hoặc nghe nói đến tên. Chàng khiêm tốn xưng tội và thật lòng ăn năn thống hối.. Từ đó cuộc đời chàng biến đổi hẳn. Ơn thánh hoạt động và tìm được thửa đất tốt để nẩy mầm rồi sinh hoa kết trái.
Mãn hạn tù, người con trai hoang đàng trở lại gia đình và trường học. Xong bậc trung học chàng xin vào chủng viện. Mấy năm sau chàng được thụ phong Linh Mục. Nhưng vị tân Linh Mục không ngừng lại ở đó. Cha tình nguyện đi truyền giáo tại một xứ đạo nghèo bên Phi Châu…
Nói đến đây, vị Thừa Sai ngừng lại. Cha đưa mắt nhìn mọi người rồi chậm rãi nói:
– Anh chị em có biết chàng trai hoang đàng trở thành Linh Mục đó là ai không? Thưa chính tôi đây!
Bài giảng tiếp tục. Nhưng phần đầu đã gây tác động mạnh trên tâm lòng các anh chị em tín hữu có mặt trong nhà thờ hôm ấy…….
Câu chuyện xảy ra cách đây hơn 90 năm và vị Linh Mục đã là người thiên cổ. Câu chuyện thứ hai của vị Linh Mục vẫn còn sống: Cha Mansour Labaky, người Liban. Cha cộng tác với hai văn phòng chuyên giúp đỡ các trẻ bụi đời ở Paris, thủ đô nước Pháp. Cha nói về hiền mẫu trong công trình đưa Cha đến thiên chức Linh Mục như sau.
Năm đó tôi vừa xong bậc tiểu học. Tôi thưa với mẹ về ước muốn trở thành Linh Mục và xin phép mẹ gia nhập chủng viện. Mẹ vui mừng lắng nghe tôi trình bày. Mẹ tôi cảm động nói:
– Mẹ sẽ đồng hành với con trong thời gian con chuẩn bị tiến lên chức vụ Linh Mục.
Mẹ tôi chỉ nói có thế.
Thời gian trôi qua. Một tháng trước ngày tôi thụ phong Linh Mục, mẹ tôi chỉ cho tôi bình lúa mì và nói:
– Con yêu dấu, kể từ giây phút con chính thức báo tin muốn trở thành Linh Mục, mẹ quyết định sẽ dâng nhiều hy sinh để cầu xin Chúa giữ gìn con trung thành với ơn gọi. Mỗi lần làm một hy sinh, mẹ bỏ vào bình một hột lúa mì. Tất cả hạt lúa mì sẽ được xay, rồi tán nhuyễn thành bột và đúc thành chiếc bánh lễ, để con thánh hiến, trong ngày con dâng lên THIÊN CHÚA Thánh Lễ đầu tay. Con hãy nhận các hạt lúa mì này, ghi dấu tình mẹ thương con và cộng tác với con. Bao lâu Chúa cho mẹ còn sống, mẹ sẽ tiếp tục hợp tác với chức vụ Linh Mục của con, bằng những hy sinh trong cuộc đời khiêm tốn thường ngày của mẹ.
(“IL SEME”, 12/1990, trang 21 – Radio Vatican)
Lạy Chúa, Chúa đã gởi con đến với đời qua đôi dòng sữa một người mẹ, xin gìn giữ mẹ lúc người còn sống, xin dủ lòng xót thương khi người đã khuất núi. Xin cho những đứa con còn mẹ hôm nay luôn biết trân quý món quà vô giá đó. Xin cho những người con mất mẹ biết tìm chỗ tựa nương ủi an bên Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Amen
Con nhỏ không mắt
Con nhỏ không mắt
Hai sinh viên Y khoa ở Zurich – thành phố lớn nhất của Thụy Sĩ – nhân dịp kỳ nghỉ Giáng sinh, đáp phi cơ từ Zurich đi Lisbon – thủ đô của Bồ Đào Nha -, rồi từ Lisbon đáp xe đò ngược lên Fatima. Hai sinh viên này, một Công Giáo, một Tin Lành, cả hai đều 20 tuổi.
Anh sinh viên Tin Lành là con duy nhất của một gia đình khá giả ở Zurich. Anh muốn đến Fatima để tạ ơn Đức Mẹ, vì nhờ ơn Đức Mẹ anh qua khỏi một căn bệnh nguy hiểm, mà theo các bác sĩ, không hiểu nổi theo cách thức thông thường.
Chiều 24-12-1967, hai anh tới Lisbon và lúc 22giờ30 thì tới Fatima. Trời gió lạnh. Mưa lâm râm. Công trường trước Thánh đường vắng vẻ, mênh mông…. Trong nhà nguyện – nơi Đức Mẹ hiện ra 6 lần cách đây 50 năm – chỉ có vài chục người đang đọc kinh, cầu nguyện… Hai anh vào Nhà Nguyện được ít phút, còn đang mải mê ngắm nhìn tượng Đức Mẹ Nữ Vương Mân Côi, thì một phụ nữ trẻ bước vào, trên tay bồng đứa con nhỏ, đầu và nửa mặt trên bưng kín, nằm gọn trong bộ đồ ấm mùa đông. Bà đến trước tượng Đức Mẹ Nữ Vương Mân Côi, lộ vẻ đau khổ, lâm râm khấn cầu, nâng đứa con dâng cho Đức Mẹ, rồi hạ xuống, nước mắt chan hòa.. Những người có mặt đều nhìn mẹ con bà với vẻ cảm thông, thương xót. Một bà trong đám lại gần, hỏi đứa nhỏ bệnh tật, ốm yếu ra sao? Bà mẹ trẻ trào nước mắt, lật cái khăn bịt đầu đứa nhỏ ra: Trời ơi, một con nhỏ, mặt nhẵn thín, không có mắt, chỉ có mũi và miệng. Từ trán đến mũi, miệng và hai tai, là một làn da thịt nhẵn nhụi.
Bà mẹ đau khổ thều thào trong nước mắt: “Lạy Mẹ, xin Mẹ thương con, xin Mẹ thương con nhỏ tội nghiệp. Xin Mẹ hãy nhớ, khi xưa sinh hạ Chúa Hài Đồng, Mẹ sung sướng ẵm nhìn xiết đứa con vàng ngọc vào lòng. Còn con và con nhỏ này? Đau khổ biết bao, Mẹ ơi! Con gởi gấm nó cho Mẹ, Mẹ đừng nỡ để nó đui mù suốt đời ”. Bà nấc lên. Rút xâu chuỗi ở túi. Lần hột. Các người có mặt nãy đến giờ đứng nghe chăm chỉ… Có bà lại còn xụt xùi, chùi nước mắt… Rồi một bà đứng ra nói: “Thôi, xin tất cả các bà, chúng ta cùng nhau đọc một chuỗi kinh kính Đức Mẹ Nữ Vương Mân Côi, cầu cho mẹ con bà này ”. Đọc kinh đến nửa mùa, quãng một giờ sáng (25-12-1967), con nhỏ dẫy dụa, rên rỉ, khóc. Bà mẹ lật tấm khăn bịt đầu, xem có chuyện chi mà nó khóc. Vừa lật tấm khăn lên, bà há miệng, ớ một tiếng lớn, đầy kinh ngạc… Mọi người bỏ cả đọc kinh, xúm lại quanh hai mẹ con, thì ớ kìa: ngay bên dưới trán con nhỏ, xuất hiện hai lỗ nhỏ xíu, rồi từ đó hai đường nứt nhỏ cứ lớn dần dần, lan ra phía bên tai, rồi hai con mắt hiện ra… Con nhỏ ngỡ ngàng, nhìn má, nhìn mọi người… như một tạo vật vừa từ trời rớt xuống…Mọi người sửng sốt, reo hò, mừng rỡ, túm tít chung quanh hai mẹ con, cười cười, nói nói, hỏi han đủ truyện, quên cả ván kinh đang đọc giở…
Hai anh sinh viên được chứng kiến tận mắt chuyện lạ . Cảm xúc vô cùng. Sau khi về lại Zurich, cả hai anh nhất trí khước từ mọi sự, ngoại trừ việc học hỏi thêm về Chúa. Hai tháng sau, cả hai anh bỏ Đại học. Cả hai cùng đi Nam Mỹ, giúp việc truyền giáo trong một Nhà thương cùi. Anh sinh viên Tin Lành đã gia nhập Công Giáo… Vì lòng khiêm tốn, hai anh xin ẩn danh.
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Chứng từ của một Tân Tòng về Quyền Năng của Chúa Thánh Thần
Chứng từ của một Tân Tòng về Quyền Năng của Chúa Thánh Thần
Chứng từ của một Tân Tòng về Quyền Năng của Chúa Thánh Thần

Tôi, Một tân Tòng được làm con cái Chúa sau 39 năm bị trói buộc bởi quyền lực của Satan, tôi muốn lần lượt viết lại tất cả những gì đã xảy đến cho tôi trong một thời gian rất dài, một hành trình về nhà Cha một cách lạ kỳ và đầy dẫy những trông gai hiểm trở. Tạ ơn Chúa vì Ngài đã kiên nhẫn chờ đợi tôi, mặc dầu tôi là kẻ hèn mọn; vô ơn và bất xứng với tình yêu của Ngài. Tôi không biết phải nói lên ngôn ngữ nào của loài người để có thể diễn tả một Thiên Chúa quyền năng vô biên nhưng lại hạ mình yêu tôi vô điều kiện, mặc dầu tôi chỉ là một người ngọai đạo.
Chúa hiện hữu qua Đức Mẹ
Năm 1976, qua một tai nạn cướp xe, họ đập vào sau gáy tôi bằng một thanh sắt dài, tôi được đem đến bệnh viện Chợ Rẫy, qua Xray tôi bị nứt sọ và bị chấn thương rất trầm trọng, tuy không chảy máu nhưng đầu tôi xưng phồng như trái bưởi, chỉ có thể ngồi dựa lưng vào ghế 24/24 vì không thể nằm, không ăn, cũng như không ngủ được một chút nào.
Tôi la khóc suốt ngày đêm với ơn đau dữ dột từ não. Thời gian đó tôi không được uống thuốc giảm đau vì tài chánh eo hẹp, thuốc lại rất hiếm. Bác sĩ quyết định giải phẩu vào 8h sáng ngày hôm sau.
9h tối đêm đó, từ sâu thẳm tâm linh, tôi nghe một tiếng chớp như sấm sét và một Tượng Đức Mẹ mấu trắng hiện ra cách tôi một mét, trên tay bà cầm trái địa cầu nhỏ mầu trắng.
Từ bức tượng phát ra một tiếng nói rất rõ bằng tiếng Việt: Ta là Mẹ Maria đến để cứu con, vết nứt sẽ tự lành, không phải mổ. và bức tượng biến mất. Quả thật sáng hôm sau, vết nứt đã tự lành tôi không phải mổ và cơn đau cũng biến mất. Tôi trờ về với cuộc sống bình thường. Tạ ơn Chúa và Mẹ Maria đã cứu chữa con một cách thật nhiệm mầu, mặc dầu con không cầu khẩn vì không nhận biết Ngài là Thiên Chúa của con.
Năm 1980 gia đình tôi nhận được giấy bảo lãnh của chị tôi từ Canada. Tôi đạp xe xuống nhà thờ Đức Bà, Sài Gòn. Qùi dưới chân tượng Chúa, tôi khẩn cầu cho chuyến bay được bình an, mọi việc được suông sẻ .
Đêm đó tôi nằm mơ, từ trong tâm tôi nghe một tiêng nói dặn dò: Chuyến bay vào tuần thứ nhất sẽ bị hoãn lại và con sẽ đi vào chuyến bay tuần thứ hai. Quả thật, chuyến bay của tuần thứ nhất có danh sách gia đình tôi bị hoãn lại và đúng 7 ngày sau chúng tôi được đi vào chuyến thứ hai y như lời đã báo trước với tôi trong giấc mơ.
Chết Đi Sống Lại.
Sáng 1/1/2002 tôi không dậy được. Lúc đó là 11 giờ sáng, chồng tôi vào đánh thức thì thấy người tôi đã cứng ngắc. Anh kêu xe cứu thương đến, họ cho biết tôi đã chết được 4 giờ. Họ đưa tôi vào bệnh viện, tôi bị hôn mê sâu, họ đưa tôi vào phòng hồi sinh. Sau 24 giờ ở phòng hồi sinh, tôi vẫn không tỉnh dậy, họ đưa tôi vào nhà xác, họ bảo sẽ để tôi ở đây trong vòng 72 giờ. Qua hai ngày tôi vẫn không thức dậy. Đến ngày thứ ba thì cô y tá thấy tay tôi nhúc nhích. Cô báo cho bác sĩ, bác sĩ thấy tim tôi đập lại và ông cho tôi về. Ông cho biết tôi sẽ bất động trong 6 đến 7 tuần.
Trong khi tôi ở trong tình trạng hôn mê sâu, tôi mơ thấy có một ông đi ngang, đầu đội mũ gai, tôi hỏi: Ông là ai?. Ông trả lời: Ta là Giêsu và tôi thấy ông bị đưa lên đồi. Ông nói với tôi bằng tiếng Việt rất rõ: Con lấy khăn trắng nhúng nước sông lau mặt đi, con sẽ sống lại vào ngày thứ ba. Ông nói chữ đi rất mạnh, như một mệnh lệnh. Tôi chạy tới bờ sông, ở đó có một chiếc khăn trắng, tôi nhúng nước lau mặt Chúa vì tôi thấy trên má Chúa có vết máu nhưng Chúa nói: Con lau mặt cho con và con đừng đi theo Ta, con đứng lại đi, và tôi tỉnh lại.
Mùa hè năm 2005 gia đình anh chị tôi từ bang California đến thăm tôi, vừa bước vào cửa nhà, chị dâu tôi đã khựng lại chỉ tay vào tấm hình tôi treo trên tường, đối diện với cửa chính. Chị hỏi tôi về nguồn gốc của tấm hình, và tôi có tấm hình này lúc nào? Tôi kể rằng: có một tầu ngọai quốc trong lúc đang cứu vớt những thuyền nhân bị nạn, ông thấy một vật lạ từ xa phóng tới, vội vàng ông lấy máy ra chụp khi rửa ra thì nó hiện nguyên hình ảnh của một con Rồng rất dài, trên 10 mét và mình nó rất lớn. Mặt nó rât dữ tợn nhe răng như sẵn sàng nuốt chửng ai ở gần nó. Toàn thân nó bốc lửa, trên đầu con rồng có một Người Nữ mặc áo trắng, nhìn như thể Phật Bà Quan Âm, một tay cầm lọ Cam Lồ, một tay kia cầm cành Dương Liễu, tay bà có nhiều vết bầm tím. Chị dâu tôi giải thích cho tôi biết là con rồng là hiện thân của Satan, quỷ dữ, Đồng thời chị cũng cho tôi đọc một đọan Thánh Kinh để xác tín vế điều chị nói. Chị nói khi chị vừa bước vào nhà thì chị cảm thấy như có một tà lực từ hướng con rồng đẩy chị ra khỏi cửa, chị phải cầu nguyện mới có thể bước vào trong nhà.
Chị khuyên tôi nên bỏ tấm hình này đi và đừng thờ lạy nó nữa, nếu không nó có thể gây họa đến cho tôi và gia đình. Tôi cứ ừ hử cho qua chuyện vì trong lòng tôi vẫn yêu thích tấm ảnh này.
Tôi kể cho chị dâu tôi nghe về phép lạ mà Me Maria đã cứu tôi năm 1976 và tôi ngỏ ý muốn viết sách để vinh Danh Mẹ. Chị nói với tôi: ” em nên vào đạo Công Giáo để vinh Danh Chúa và Mẹ thì tốt hơn là viết sách. Hoặc em chỉ nên viết sách sau khi rửa tội thì mọi người sẽ tin em.” Chị khuyên tôi nên vô đạo để được làm con cái Chúa. Những ngày chị ở Canada chị luôn chia sẻ về niềm vui của chị khi được là công Chúa nước trời. Chị cũng chia sẻ những kinh nghiệm của chị khi phải sống trong quyền lực tối tăm qua bệnh tật, yếu đuối, và tội lỗi. Chị nói với tôi rất nhiều về một Thiên Chúa Ngôi Ba, đó là Chúa Thánh Thần. Chính Ngài đã Thánh hóa, chữa lành và giúp chị được biến đổi.
Sau khi rời Canada trở về nhà chị, chị luôn gọi tôi và nhắc tôi phải phá hủy tấm hình đó càng sớm càng tốt, nếu không tôi sẽ tiếp tục gặp biết bao tai ương lẫn bệnh tật do nó đem lại . Quả tình đã có một lần tôi nghe lời chị, bắc thang leo lên để gỡ tấm hình nhưng tôi nghe một tiếng nói : “đừng, đừng làm như vậy” . Và điều đó như có một sức mạnh khiến tôi không thể tháo tấm hình xuống được.
Chúa lại cứu tôi
Năm 2007, tôi bị tai biến mạch máu não, tôi không bị liệt nhưng không còn nhớ gì. Tôi mơ thấy Thánh Anrê thành Montréal. Thánh Anrê nói với tôi: 7 tuần sau con sẽ nhớ lại, con không cần phải mổ và con sẽ đi làm lại. Đúng sau 7 tuần, tôi hồi phục lại trí nhớ và tôi đi làm lại.
Chúa cứu mạng tôi một lần nữa qua cha Trương Bửu Diệp.
Tôi được biết đến cha Diệp qua một tờ báo, thấy người ta đăng báo tạ ơn cha rất nhiều. Tôi có cắt tấm hình cha đem về nhà, một vài lần tôi đã cầu nguyện xin ơn cho tôi, con và chồng, đều được cha nhận lời theo lời thỉnh cầu của chúng tôi.
Tháng 1, 2014
Từ Walmart về nhà tôi chỉ độ 5 phút nhưng vì trời đang bão băng tuyết bao phủ cả thước, mặt đường bị đóng băng, gió rất mạnh và tôi bị té trong lúc băng qua ngã tư, xương sườn đập mạnh xuống lớp đá cứng, vì té ngay trên đường xe chạy, quá đau tôi đã không thể tự đứng lên được. Trời tối đen, tôi lần mò tìm cell phone trong túi áo manteau gọi 911, nhưng không kịp vì một chiếc xe từ xa phóng tới. Tôi thét lên: Cha Diệp, và tức khắc có 2 bàn tay của ai đó nhấc bổng tôi lên và đem tôi khỏi con đường. Chiếc xe chạy qua mắt tôi rồi lui lại, tài xế hỏi tôi có sao không? Tôi đứng chết trân vì sự kiện sảy ra thật quá bất ngờ và khiếp đảm. Bà nói rằng tôi nhìn thấy một người đàn ông mặc áo chùng đen, mang thánh giá, có râu mép nhấc cô ra khỏi con đường, nếu không tôi đã không thể thắng kịp và đã cáng ngang cô. Bà nói, ông đang đứng đàng sau cô đó. Tôi quay lại và không thấy gì, nhưng tôi biết người đó chính là cha Trương bửu Diệp. Cơn đau xương sườn của tôi cũng biến mất.
Qua tai nạn này tôi tình nguyện làm thỉnh nguyện viên đi xin chữ ký khắp mọi nơi cũng như đến nhà thờ VN vào mỗi thánh lễ Chúa nhật. Đi đến đâu, tôi cũng chia sẻ chứng từ cha Diệp cứu tôi khỏi tai nạn. Niềm khao khát của tôi là cha Trương Bửu Diệp sớm được phong thánh và tôi quyết tâm dùng toàn thời gian rảnh rỗi để thu thập chữ ký của cả người lương cũng như người công giáo.
Tháng 1 năm 2014, tôi nằm mơ thấy cha Trương Bữu Diệp bấm chuông, cha dắt tôi đi chùa. Cha mang thánh giá. Đến trước chùa, cha nói: Con vào đi, cha mang thánh giá cha không vào được. Cha đứng ngoài chờ tôi. Tôi thấy cha đứng ngoài trời nắng và đổ mồ hôi hột. Tôi rất xúc động, từ giấc mơ đó tôi biết tôi phải đi theo Chúa.
Tháng 4 năm 2014, tôi kể các chuyện này cho chị dâu tôi nghe, chị nói với tôi: Người trong giấc mơ năm 2002 của em là Chúa Giêsu đó và Ngài nói lấy chiếc khăn trắng nhúng nước lau mặt là dấu chỉ Ngài muốn em rửa tội đó
Tôi hân hoan vui mừng vô cùng, tôi hiểu ra là Chúa thương yêu và gìn giữ mạng tôi tuy tôi là người ngọai đạo… Đến thánh đường tôi chảy nước mắt khi nhìn hình ảnh Ngài uy nghi sáng tỏa khắp nhà thờ. Tôi yêu Chúa đến nỗi không đến đườc nhà thờ là tôi bồn chồn, tiếc nuối và khóc rưng rức, nên dù có bận rộn cách mấy tôi cũng cố gắng đi dự lễ. Nhưng trong thâm tâm tôi như có một cản trở vô hình nào đó khiến tôi không sãn sàng nghĩ đến chuyện Rửa Tội. Mà thật tình tôi không hiểu vì sao ? Lúc đó tôi nghĩ rất hạn hẹp, dù rửa tội hay không rửa tội, miễn tôi yêu Chúa, tin Chúa và ca tụng Chúa là đủ, đủ để Ngài vui lòng khi thấy tôi không quên ơn Ngài. Đủ thứ chuyện làm tôi không hề muốn phải nặng lòng khi nghĩ đến 2 chữ vô đạo , tôi lo lắng viện đủ mọi lý do : sợ mình không hiểu về bài vở và sẽ bị rớt giáo lý; không đủ điểm để vào Công Giáo. Liệu chồng tôi có chấp nhân hoặc sẽ cùng vào đạo với tôi hay không?
Tôi vẫn tiếp tục đi chùa hằng tuần cùng lúc tôi cũng đi nhà thờ. Tôi không có sự chọn lựa chính xác, nói trắng ra tôi rất tránh né 2 chữ Rửa Tội; mặc dầu tâm tư tôi lúc đó hoàn toàn dâng trọn cho Chúa, tôi nhân ra sự bình an mỗi khi tôi ngắm nhìn và nghĩ đến Ngài, lúc đó tôi nhận ra 2 chữ đáng sùng bái nhất là: Giêsu KiTô.
Khi đi nhà thờ tôi có nói với linh mục ĐTS là tôi được rất nhiều ơn lành của Chúa và đó là lý do cha thấy tôi đi nhà thờ mỗi tuần. Cha nói: vậy còn chần chờ gì nữa , bao giờ chị sẵn sàng thì cho tôi biết để tôi thông báo khi có khóa học giáo lý. Tôi lại kiếm chuyện từ khước: Thưa cha con rất bân….
Tôi không bao giờ nghĩ đến việc đi học giáo lý, cứ hẹn tới hẹn lui, không sốt sắng lắm mặc dầu trong thâm tâm tôi biết là tôi đang hướng về Chúa và tôi rất yêu Ngài.
Trong thời gian này tôi lại bị chứng trầm cảm, tôi sợ nghe tíếng người, sợ gặp người, ngoài trừ Chúa Nhật tôi đến nhà thờ dự lễ, hoặc phải đi làm còn tất cả thời gian còn lại tôi ngồi ở một xó tường, hoặc trùm mền kín mít từ đầu đến chân, suất ngày nghỉ, đầu óc hoang mang, trống rỗng, không suy nghĩ, chán đời , nỗi buồn vô hình cứ đè nặng trong não tôi mà không biết lý do gì để buồn. Tôi có ýnghĩ tự tử cho thóat đi cảnh buồn chán này.
Từ từ tôi sống khép kín, không hăng say họat động, làm việc, suy nghĩ hay đọc sách như trước. Cả ngày tôi chỉ uống một ly cafe độc nhất, đến tối tôi lết vô bếp nấu cơm cho mọi người, phần tôi chỉ ăn sơ sơ rồi lại đi tìm chỗ nằm tiếp. Thật sự tôi sợ cả việc hằng ngày trong đời sống, như chuyện chải đầu, nấu cơm… chuyện mà bình thường phải làm trong đời sống hằng ngày, nhất là phải ra đường vì tôi rất sợ gặp đám đông.
Tôi tự biết mình đang bị bệnh trầm cảm, lười nói, biếng ăn, đêm ngủ không thẳng giấc, tôi cứ bị giật mình vào lúc nửa đêm và thức tới sáng. Tôi gầy và xanh sao, xuống cân cả chục ký chỉ trong vòng 2 tháng. Tôi bắt đầu sợ luôn ánh sáng mặt trời, tôi đóng kín tất cả màn trong nhà lại và một mình ngồi trong xó trong những ngày nghỉ. Tinh thần và thể xác tôi xuống dốc một cách thê thảm. Ý nghĩ tự tử cứ lởn vởn trong đầu óc tôi.
Nhưng chỉ có một điều lạ lùng duy nhất là tôi cứ mong đến Chúa Nhật để tôi đi nhà thờ, vì bão tuyết nên tôi không thể lái xe nên phải ngồi xe bus cả tiếng mới đến nơi. Bước vô nhà thờ, tôi cảm nhận được sư bình an khôn tả và đó là lý do tôi khao khát được đến nhà thờ.
Chúa Giải thóat tôi trong Quyền Năng của Chúa Thánh Thần
Một buổi tối, tháng Năm 2014, cầm tấm ảnh cha Diệp tôi thủ thỉ với Ngài: Xin Cha cầu cùng Chúa cho con thóat khỏi cơn bệnh suy xụp tâm linh và thể xác này đi, cho con được trở lại trạng thái bình thường như trước. Lúc này tôi chỉ còn biết cậy trông vào phép lạ của Chúa. Và tôi bật khóc khi cảm thấy người mình nóng ran lên, ấm áp lạ thường như có một ngọn lửa nhỏ, rất nhẹ nhàng , từ từ hâm nóng toàn thân tôi, mặc dù thời tiết vẫn còn rất lạnh . Tôi lóe lên một tia hy vọng là Chúa đã nhậm lời.
Cùng thời điễm này chị dâu tôi cũng gọi cho tôi,chị ngỏ ý muốn được Rửa tôi trong Thánh Thần để tôi được biến đổi và đươc chữa lành. Chị hỏi tôi có chấp nhận dâng mình cho Chúa Giêsu và từ bỏ tất cả những gì không thuộc vế Chúa không? tôi bằng lòng và tuyên hứa tôi đồng phục Chúa và từ bỏ Satan và những gì liên hệ đến chúng. Chị nói với tôi: Em đọc và hát theo chị mấy câu này nha, chị cầu nguyện và xin Chúa rửa em trong Thánh Thần.
Lúc đó tôi không hiểu câu chị nói là gì? tại sao phải Rửa trong Thánh Thần? tôi cũng không thắc mắc, chị đọc câu nào tôi lập lại câu đó. chị hát: Send your spirit….Alleluia …
Chị hát bao nhiêu lần tôi hát theo bấy nhiêu, chị đọc câu nào tôi lập lại câu ấy .
Tôi nói với chị: Em thấy có bóng người mặc áo trắng đặt tay trên vai em, ai vậy chị? chị trả lời: Chính Chúa, Ngài đến để ban Thánh Thần cho em qua lời khấn xin của chị em mình. Thật là mầu nhiệm và tôi cảm thấy bình an khôn tả.
2 tiếng sau, chồng tôi đi làm về tôi có kể cho anh nghe tất cả mọi việc. Anh chợt nói nếu đã quyết chọn Thiên Chúa thì nên chấm dứt tất cả những liên hệ bên chùa và đừng đi chùa nữa, chọn một bên thôi. Giọng anh chắc nịch như một mệnh lệnh, tôi giật mình sững sờ nhìn anh, vô cùng sung sướng vì không ngờ câu nói đó lại phát suất từ anh, một người vô thần, chẳng tin vào tôn giáo nào.
Cũng từ giây phút đó, ngay chiều hôm chị Rửa tôi trong Thánh Thần, tinh thần tôi bỗng hết trầm uất , trạng thái vui tươi và bình an khôn tả, tôi thích ra đường ngắm nhìn bầu trời trong xanh và tưởng tượng Chúa trên cao đang vui tươi nhìn tôi và tôi thật hạnh phúc.Tôi trở về sống với sinh họat bình thường, Chúa ban cho tôi một công việc mới vì tôi bị mất việc bởi bệnh trấm cảm.
Tôi can đảm gỡ bỏ tất cả những ảnh tượng không thuộc về Chúa, nhất là tấm hình có con rồng rực lửa. Lúc này tôi mới nhớ lời chị dâu tôi nói khi chị mới bước vào nhà tôi:” Nó là hình ảnh của quỷ dữ, Satan nếu em thờ lạy nó em sẽ phải khốn khổ vì nó’. Quả tình kể từ ngày tôi “thỉnh” nó về biết bao nhiêu đại họa đã sảy ra cho tôi, tôi đã mang trong mình đủ lọai bệnh tật, bao nhiêu tai biến mà tôi đã kể trên. Tệ nhất là ước muốn tự tử. Tôi ném tất cả những vật này thật xa, cách nhà tôi khảng 2 cây số. Theo lời chị dâu tôi dặn là xin nước phép trong nhà thờ và với niềm tin mạnh mẽ tôi có thể nhân Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần thanh tẩy căn nhà của tôi, xua trừ mọi sự không thuộc về Chúa ra khỏi nhà tôi. Tôi bắt đầu trưng Thánh Giá, tượng Đức Mẹ và hình cha Trương Bửu Diệp.
Chồng tôi bỗng dưng cho tôi biết là anh sẽ cùng tôi vào đạo. Điều này làm tôi muốn khóc, vì sau khi được Rửa trong Thánh Thần, ngày đêm tôi mong được ghi danh học giáo lý càng sớm, càng tốt. Tôi luôn nghĩ anh sẽ là một trở ngại cho tôi, ngay cả đi học giáo lý vào ngày Chúa Nhật anh cũng không thể vì là ngày đi làm của anh, và chính tôi cũng không đủ can đảm để đề nghị anh vô đạo vì tôi hiểu tính chồng tôi rất cứng cỏi, việc trước nhất là anh phải xin nghỉ việc ngày Chúa Nhật, nhưng làm sao có thể nghỉ được vì ngày cuối tuần là ngày họp của cả sở và đó là việc anh làm suất 20 năm. Chồng tôi nói anh đã khấn xin với cha Diệp 2 điều, một là anh xin được chữa lành gót chân bị tật không chữa được. điều thứ hai là xin cho bà boss cho anh được nghỉ ngày Chúa Nhật để đi học giáo lý. Điều thứ nhất cha đã nhận lời phục hồi gót chân anh, thế nên anh tin là phép lạ thứ 2 sẽ sảy ra.
Khi chồng tôi gặp bà boss và xin được nghỉ bà có hỏi lý do thì anh trả lời: tôi muốn vào đạo công giáo nhưng lớp dạy giáo lý không có ngày nào khác ngoài ngày Chúa Nhật. Nghe vậy bà hưởng ứng rất mau mắn : Tôi sẽ giúp anh và từ đây cả hãng sẽ họp vào ngày Thứ Bẩy và anh sẽ được nghỉ vào ngày chúa Nhật.
Lễ Phục Sinh 2015 vợ chồng tôi đã chính thức được rửa tội để làm con cái Chúa, lúc cha đổ nước trên đầu tôi một sự mầu nhiệm ập xuống toàn thân tôi , tôi hạnh phúc khôn tả khi nhớ lại Lời Nói khi xưa: Con hãy lấy tấm khăn trắng xuống sông rửa mặt 3 ngày sau sẽ sống lại.
Lời chị dâu tôi nói với tôi:” Chính Chúa Thánh Thần đã làm tất cả cho em vì em đã dâng mình em cho Chúa Giêsu và Ngài đã ban Thánh Thần cho em để Ngài biến đổi mọi sự tốt lành cho em. Chỉ sau khi em được rửa trong Chúa Thánh Thần em đã trở thành một con người mới, cũng có nghĩa là em đã được Tái Sanh trong thần khí. Kể từ nay em sẽ xin vâng để Ngài có thể dùng em là công cụ của Ngài.” Chị cũng nói với tôi chính chị cũng được Rửa trong Thánh Thần trong dịp chị đi dự khóa Canh Tân Đặc Sủng sau khóa tĩnh tâm chị đã được chữa lành căn bệnh nan y mà khoa học đã bó tay và đồng thời dứt đi được căn bệnh trầm cảm giống như tôi.
Hôm nay tôi viết ra những lời này để làm chứng nhân cho quyền năng của Chúa Thánh Thần và tôi thật sự muốn vinh Danh Ngài. Đồng thời tôi cũng nói lên quyền lực của Satan, qủi dữ. Ước gì mọi người nhất là những người ngọai giống như tôi nhận biết được Thiên Chúa là Vua các vua, Chúa các Chúa, Ngài đang chờ đợt tất cả mọi người để ban ơn cứu độ cho họ, không phân biệt một tôn giáo nào. Hơn hết Ngài là Cha. Cha của tất cả mọi người, sẵn sàng tha thứ mọi lỗi phạm và ban ơn làm công chúa và hoàng tử nước trời cho những ai đón nhận Ngài.
Lạy Cha, con nguyện xin mọi người nhân biết Cha. Amen.
Anna Maria Phanxicô Nguyễn Dung,
Canada
VÀ NGƯỜI BẢO…
VÀ NGƯỜI BẢO…
Trích EPHATA 650
Con nói: Không thể được !
Chúa bảo: Mọi sự đều có thể được đối với Thiên Chúa ( Lc 18, 27 )
Con nói: Con quá mệt rồi !
Chúa bảo: Thầy sẽ cho con được nghỉ ngơi bồi dưỡng ( Mt 11, 28 – 30 )
Con nói: Chẳng có ai thực sự yêu thương con !
Chúa bảo: Thầy vẫn luôn yêu thương con ( Ga 3, 16; 13, 34 )
Con nói: Con không thể tiếp tục đuợc !
Chúa bảo: Ơn của Thầy ban luôn đủ cho con ( 2 Cr 12, 9; Tv 91, 15 )
Con nói: Con nghĩ không ra !
Chúa bảo: Thầy sẽ hướng dẫn những bước đường con đi ( Cn 5 – 6 )
Con nói: Con không làm đuợc !
Chúa bảo: Con sẽ làm đuợc mọi sự ( Pl 4, 13 )
Con nói: Con không có khả năng !
Chúa bảo: Thầy có đủ quyền tuôn đổ xuống trên con mọi thứ ân huệ ( 2 Cr 9, 8 )
Con nói: Con không thể tha thứ cho chính mình được !
Chúa bảo: Thầy tha thứ cho con ( 1 Ga 1, 9 ). Con không còn bị lên án nữa ( Rm 8, 1 )
Con nói: Con không thể xoay sở được !
Chúa bảo: Thầy sẽ thỏa mãn mọi nhu cầu của con một cách tuyệt vời ( Pl 4, 19 )
Con nói: Con sợ !
Chúa bảo: Thầy đâu có cho con một Thần Khí làm cho con trở nên nhút nhát ! ( 2 Tm 1, 7 )
Con nói: Con luôn lo lắng và giận dữ !
Chúa bảo: Mọi lo âu, hãy trút cả cho Thầy vì Thầy luôn chăm sóc con ( 1 Pr 5, 7 )
Con nói: Con không đủ lòng tin !
Chúa bảo: Thầy đã ban cho mọi người một lượng Đức Tin đúng mức ( Rm 12, 3 )
Con nói: Con không đủ thông minh !
Chúa bảo: Thầy cho con trí khôn ngoan ( Cr 1, 30 ) và ơn thông hiểu mọi sự ( 2 Tim 2, 7 )
Con nói: Con cảm thấy cô đơn quá !
Chúa bảo: Thầy sẽ không bỏ rơi, Thầy sẽ không ruồng bỏ con đâu ( Dt 13, 5 )
Gs. NGUYỄN THỊ TIẾN
dịch theo Feelgoodpages
NGƯỜI CHA GIÚP CON BỊ HỘI CHỨNG DOWN THÀNH SINH VIÊN GIỎI TOÀN NĂNG
NGƯỜI CHA GIÚP CON BỊ HỘI CHỨNG DOWN
THÀNH SINH VIÊN GIỎI TOÀN NĂNG
Trích EPHATA 649
Tại thành phố Sàigòn có một chàng trai bị Down 27 tuổi nhưng lại biết chơi đàn organ, đạt đai nâu võ Aikido, bơi lội, đá banh, có khả năng đọc, hiểu tiếng Anh cơ bản và đã theo học trường Đại Học Văn Lang.
Mạc Đăng Mừng chính là chàng trai lập được những kỳ tích hiếm có này. Đằng sau những thành tích của Mừng là nỗ lực không biết mệt mỏi của cha, người đã tìm mọi cách thay đổi số phận của chàng trai.
Không chấp nhận nhìn con chịu bất hạnh
Chúng tôi tìm đến nhà Mừng vào thời điểm cuối ngày. Nhà Mừng nằm cạnh Nhà Thờ Xóm Chiếu, Quận 4, Sàigòn. Như thường lệ, gần nửa năm nay, đến tầm 17 giờ, bà An, mẹ của Mừng, lại ngồi cửa đợi chồng và con đi học về. Đây là niềm vui được bà mong chờ nhất trong ngày. Kết thúc buổi học ở trường, về đến nhà, Mừng khoe ngay với bà An về điểm thi kết thúc môn học kỹ năng Photoshop đạt điểm cao.
Để cậu con trai Mạc Đăng Mừng có thể hòa đồng và phát triển như những đứa trẻ bình thường khác, vợ chồng ông Mạc Văn Mỹ, 66 tuổi, đã phải nỗ lực rất nhiều. Ông Mỹ cho biết, lúc ông bà bước sang tuổi tứ tuần mới sinh đứa con trai đầu lòng. Niềm vui chưa được trọn vẹn thì nỗi buồn ập đến khi ông bà biết tin Mừng đã mắc Hội Chứng Down bẩm sinh.
Trước đây, do điều kiện y tế chưa phát triển nên việc phát hiện thai nhi mắc bệnh rất khó khăn. Ngày ấy, trông Mừng rất èo uột phải ẵm trên tay, thương con, ông bà Mỹ đã chạy chữa khắp nơi. Cứ nghe ai nói ở đâu có thầy hay thuốc tốt là họ lại đưa con đến trị bệnh.
Cậu bé Mừng ngày ấy 7 tuổi mới chỉ biết lết, 9 tuổi bập bẹ nói và phải đến 12 tuổi mới đi những bước tập tễnh đầu tiên. Nhìn tương lai của con quá chông chênh, không ít lần vợ chồng suy sụp, tuyệt vọng. Bà An tâm sự: “Lúc 5 tuổi, Mừng vẫn còn yếu lắm, đặt đâu ngồi đó, đầu thì ngoẹo một bên, mỗi lần cầm muỗng cháo đút cho con mà nước mắt bà nuốt vào trong. May mắn chúng tôi được một bác sĩ khuyên hãy mua một cây đàn cho cháu.
Vị bác sĩ giải thích, đánh đàn sẽ giúp những đầu ngón tay được kích thích, nếu làm việc này thường xuyên sẽ giúp não bộ phát triển”. “Còn nước còn tát”, ông bà lại bấu víu vào chút hy vọng ấy để tiếp tục chữa trị cho con. Về nhà, hai vợ chồng gom hết tài sản có giá trị trong nhà mang đổi được 5 chỉ vàng để mua cho con cây đàn Organ. Từ đó, người ta thấy trong căn nhà nhỏ phát ra những âm thanh từ tiếng đàn Organ. Ông Mỹ cho biết, hồi đầu để có thể chỉ cho con học đàn, ông đã phải đi học lỏm, bởi lẽ thuê giáo viên ai cũng từ chối. Họ cho rằng, một đứa bé đến đứng còn không vững như Mừng thì làm sao có thể học đàn.
Có thể nói, con đường hòa nhập của Mạc Đăng Mừng quả lắm chông chênh. Ngày Mừng biết rõ từng phím đàn, biết cảm thụ được những âm thanh trong trẻo từ tiếng đàn Organ, ông Mỹ nghĩ ngay đến một nơi dạy đàn bài bản. Ông dẫn Mừng tới một cơ sở dạy nhạc nhưng chẳng cần nghe người cha giãi bày, chủ cơ sở từ chối thẳng thừng: “Cháu nó bị như vậy học hành làm gì cho tốn tiền !”. Người cha vẫn nhẫn nại nhờ người nọ khóa đàn lại để Mừng tự mở. Trước ánh mắt tò mò xen lẫn nhiều nghi ngại, cậu bé Mừng làm theo lời cha và đặt bàn tay lên phím đàn dạo những bản nhạc đơn giản. Thấy vậy, người chủ ngạc nhiên: “Ủa, nó biết chơi đàn luôn hả ?”
Để tiện chăm sóc con, bà An phải xin nghỉ việc ở cơ quan. Mỗi đêm trước khi Mừng ngủ, bà đều dành ra một khoảng thời gian nhất định để kể chuyện cổ tích cho con nghe. Ông Mỹ thì luôn sát cánh bên con trong việc học hành. “Để cho con có đầy đủ chất dinh dưỡng, tôi luôn áp dụng chế độ ăn nhiều rau củ quả, thực phẩm có lợi cho sự phát triển của não bộ. Trong quá trình tiếp xúc hàng ngày, mình phải hòa đồng với con, không chỉ làm cha, làm mẹ mà còn là một người bạn. Thấy con có lỗi thì phải “mổ xẻ” đi từ ngoài vào trong, mưa dầm thấm lâu chứ không thể đi ngang về tắt được”, bà An chia sẻ.
Hai vợ chồng ông Mỹ trước đây đều theo học chương trình giáo dục của Pháp, nên để dạy cho con ông bà phải tự mày mò tìm từng cuốn giáo trình tiếng Việt. Rồi họ quyết định cho Mừng đi học. Nghe tin này, họ hàng nội ngoại phản đối, vì lo Mừng không thể tiếp thu. Vậy mà Mạc Đăng Mừng đã hoàn thành chương trình học lớp 9 tại Trung Tâm Bảo Trợ Dạy Nghề và Đào Tạo Việc Làm cho Người Tàn Tật thành phố Sàigòn.

Phạm Đăng Mừng trong lớp võ Aikido.
Tình yêu thường làm thay đổi một số phận
Cách đây 2 năm, sau khi Mừng hoàn thành chương trình học lớp 9 cho người tàn tật, vợ chồng ông Mỹ quyết định cho con đi học nghề. Hai ông bà xin được cho Mừng học tin học tại trung tâm ở đường Bến Vân Đồn, Quận 4. “Chỉ tháng đầu là tôi đưa con đi và đón con về. Còn sau đó, sáng thì tôi chở, trưa Mừng tự đi bộ về. Từ trung tâm về nhà cũng khá xa nhưng tôi muốn tập cho con tính tự lập. Thi thoảng, tôi chạy xe từ xa để nhìn con đi về, mỗi lần như thế tôi thấy rất mừng. Có hôm đi học về thì trời mưa, nó tìm chỗ trú rồi gọi điện về bảo con đang đứng ở đoạn đường nào, số nhà mấy để tôi chạy đến chở về”, ông Mỹ nghẹn ngào kể.
Suốt hơn một năm trời, Mừng miệt mài bên chiếc máy vi tính và đã lấy được chứng chỉ A tin học, đồng thời tiếp tục học nâng cao. Cách đây mấy năm, có một nhà sư đã chỉ cho ông Mỹ lấy những hạt đá nhỏ li ti đem về để con trai chà chân mỗi ngày. Theo ông Mỹ, việc này sẽ làm tăng ma sát ở chân để con có cảm giác. Ban đầu mới chà thì hơi đau, nhưng dần dần Mừng lại thấy thích thú. Hôm nào không phải đến lớp, hai cha con lại cùng nhau đi xe đạp quanh công viên.

Ông Mỹ hướng dẫn con trai tự học sau những giờ học trên lớp.
Ông Mỹ cho biết, hiện tại Mừng đang theo học lớp Kỹ Thuật Đồ Họa tại trường Đại Học Văn Lang, quận Bình Thạnh. Vì trường học khá xa, nên hôm nào hai cha con cũng phải dậy từ rất sớm mới kịp giờ học. Buổi trưa, hai cha con ở lại ăn cơm chay từ một tổ chức từ thiện để lấy sức cho buổi chiều lên lớp.
Vì chương trình học khá nặng, nên ông Mỹ xin Ban Giám Hiệu nhà trường cho phép được dự thính trong lớp học cùng con. Người cha già vẫn cần mẫn ghi chép cẩn thận trong mỗi giờ học vi tính, học tiếng Anh chuyên ngành để về nhà giảng lại cho con. “Vợ chồng tôi luôn mong sau này con sẽ có tương lai. Nghĩ vậy, tôi cũng ráng đi học để tối về chỗ nào con chưa hiểu giảng lại cho nó. Hy vọng sau này con sẽ có công ăn việc làm để tự lo cho bản thân”, ông Mỹ nghẹn ngào nói.
Bất kể là mưa hay nắng, Mừng vẫn đến lớp đều đặn mỗi ngày. Ở trường con học thì cha cũng học, về nhà khi con học thì cha lại là thầy. Đều đặn công việc ấy suốt hơn 20 năm nay, ông bà đã dần đưa con tiếp cận trí thức hòa nhập với cộng đồng. Giờ đây, Mừng không chỉ biết tự lo liệu cho sinh hoạt cá nhân, mà còn biết quan tâm tới người xung quanh. “Có hôm đi học về thấy mẹ bị ốm, Mừng hỏi han liên tục xem mẹ đau chỗ nào, đã đỡ hơn chưa. Có hôm anh chàng bảo mẹ từ nay để con tự giặt giũ quần áo, nhưng tôi không đồng ý và bảo con phải học tính ngăn nắp, gọn gàng trước đã. Nghe mẹ nói vậy, Mừng cười rồi ngoan ngoãn làm theo”, bà An vui vẻ cho hay.
Tình yêu thương con chính là nguồn động lực để vợ chồng ông Mỹ nỗ lực, bền bỉ sát cánh bên con suốt một thời gian dài. Chia sẻ về phương pháp giúp con hòa nhập với tri thức cộng đồng, ông Mỹ vui vẻ cho hay: “Để con có cuộc sống ổn định như hiện tại, hai vợ chồng tôi đã phải huấn luyện con từ khi còn nhỏ để cháu tập tính tự lập, bền bỉ và ngăn nắp.
Bản thân tôi thấy có 4 cách áp dụng với cháu và có kết quả ngoài mong đợi, đó là dạy cháu học đàn, học võ, đi bơi và chà chân. Những phương pháp này có tác động rất lớn đến sự phát triển thể chất, não bộ và tinh thần cho con. Tôi rất mừng khi có một ông giám đốc đồng ý nhận cháu về công ty tin học làm việc, sau khi cháu ra trường”. Khi được hỏi về ước mơ sau này, chàng trai Mạc Đăng Mừng trả lời rành rọt: “Ước mơ của Mừng đó là trở thành võ sư Aikido, hoàn thành xong khóa học Thiết Kế Đồ Họa. Con cũng sẽ cố gắng học thật giỏi để tự đi làm”.
Nhìn vào cuốn album của gia đình ghi lại khoảnh khắc của Mừng đạt được nhiều huy chương, không ai ngờ được đây chính là thành tích của một chàng trai bị Hội Chứng Down. Tại giải thể thao dành cho người khuyết tật năm 2014, Mừng giành được Huy Chương Vàng cá nhân, Huy Chương Đồng tập thể môn bóng rổ và Huy Chương Bạc đồng đội môn bóng đá kết hợp dành cho người thiểu năng trí tuệ và người không bị thiểu năng trí tuệ.
Ngoài ra, chàng trai này còn biết chơi đàn Organ khá điêu luyện, biết võ Aikido, thành thạo bơi lội, yêu đá banh và có khả năng đọc hiểu một số câu tiếng Anh cơ bản. Nhìn vào cuốn album của gia đình ghi lại khoảnh khắc của Mừng đạt được nhiều huy chương, không ai ngờ được đây chính là thành tích của một chàng trai bị Hội Chứng Down.
KHÔI NGUYÊN, Gia Đình và Xã Hội, eva.vn
Ghi chú thêm của Ephata:
Em Mạc Đăng Mừng có tên Thánh là Giuse, đã học Rước Lễ và Thêm Sức tại Nhà Thờ Mactynho Q. 1, Sàigòn. Mẹ em cho biết: năm em 7 tuổi vẫn chưa thể đi đứng được, bà đã khóc rất nhiều, đã tìm đến cầu khấn ơn chữa lành cùng Mẹ Fatima Bình Triệu, và Chúa đã nhậm lời !
THƯ GỞI CHÚA GIÊSU TỪ BỆNH VIỆN UNG BƯỚU
THƯ GỞI CHÚA GIÊSU TỪ BỆNH VIỆN UNG BƯỚU
Chúa Giêsu giầu lòng thương xót ơi,
Hôm nay con viết thư cho Chúa, bỗng nhớ trong thánh kinh có đoạn nói về việc Chúa mới sinh ra đã phải chạy trốn sang Ai Cập và các anh hài bị giết, làm trái tim con quặn thắt: “Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rên rỉ: tiếng bà Rakhen khóc thương con mình và không chịu cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa.” (Mt 2,18)

Mùa hè năm nay, nhóm thiện nguyện Tín Thác chúng con được một linh mục mà cuộc đời cũng khốn khổ như Chúa, hướng dẫn đến một nơi, mà nơi ấy tất cả các bà mẹ, kể cả các ông bố nữa, đã cạn nước mắt rồi. Họ không thể khóc như bà Rakhen được nữa. Hay nói đúng hơn là họ cố gắng nuốt những giọt nước mắt, để dành sức lực chăm sóc cho những đứa con mình, mà dù có đổ bao nhiêu tiền của công sức chạy chữa thì phía trước vẫn là một màn đen vô vọng…
Nơi ấy là Khoa Ung Thư Nhi của Bệnh Viện Ung Bướu Sài Gòn, Chúa đã đến đó chưa?
Theo con số thống kê mới nhất, ở Việt Nam mỗi ngày trung bình có 250 người qua đời vì ung thư, trong đó gần hai phần trăm là trẻ thơ, có nghĩa là gần một ngàn bốn trăm linh hồn bé thơ rời bỏ mặt đất này mỗi năm. Tội quá Chúa nhỉ!

Thôi, con mời Chúa đi với con. Khi chúng con tới nơi ấy thì quá đông, quá ngột ngạt! Cái đông đúc, chen chúc, bức bách và ngột ngạt tràn cả ra hành lang. Nhóm chúng con cố gắng len lỏi vất vả lắm mới đem quà vào trong các phòng bệnh được, thì nhận ra lúp xúp những bé thơ, với cái đầu tròn vo, trọc lóc. Giá như trong hoàn cảnh khác thì đó là sự ngộ nghĩnh. Nhưng nơi này đó là nỗi đau, là cùng tận nỗi đau Chúa ạ!
Con nhớ lại buổi sáng Chúa Nhật 18/1/2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ giới trẻ Philippines tại Sân Thể Thao Đại Học Đường Thánh Tôma ở thủ đô Manila. Một em gái đã được cứu khỏi đời sống bụi đời, đã hỏi ĐTC một câu hỏi rất thực tế và đầy thương tâm, rồi nghẹn ngào đến trào nước mắt khóc: “Có rất nhiều trẻ em bị cha mẹ mình bỏ rơi, có rất nhiều em trở thành nạn nhân của ma túy, đĩ điếm, và nhiều điều kinh khủng xẩy ra cho chúng. Tại sao Thiên Chúa lại để cho những điều ấy xẩy ra cho những trẻ em vô tội? Và tại sao lại có rất ít người giúp chúng con?”
Và ĐTC đã trả lời: “Cái cốt lõi của câu em hỏi, hầu như không có câu trả lời. Chỉ khi nào cả chúng ta nữa có thể khóc về những gì em đã nói thì chúng ta mới có thể tới gần chỗ trả lời cho câu hỏi ấy. Tại sao trẻ em chịu khổ quá nhiều? Tại sao trẻ em lại chịu khổ? Khi tâm can có thể tự vấn và kêu lên thì bấy giờ chúng ta mới có thể hiểu được một điều gì đó.

”. Bước chân vào đây, chúng con cũng tự hỏi: “Tại sao trẻ em chịu khổ quá nhiều? Tại sao trẻ em lại chịu khổ?”
Không thể lý giải nổi lý do nào mà trẻ thơ mới chút xíu đã bị ung thư, và ung thư nhiều đến thế. Những chứng ung thư làm chúng con lạnh hết người: ung thư máu, ung thư võng mạc, và ung thư xương nữa…

Đời bệnh nhân ung thư khủng khiếp nhất là những cơn đau. Chúng con đã chứng kiến những cơn đau rúc rỉa thịt xương đó trong hành trình thiện nguyện, đau đau đến mức cuối cùng phải dùng đến moọc phin để làm tê liệt những giây thần kinh, để giảm đau trong chốc lát. Trong những giây phút thống khổ ấy, người thân chỉ biết ôm lấy bệnh nhân như muốn sẻ chia phần nào nỗi đau, và càng đau khổ hơn vì thấy mình bất lực, không thể làm gì hơn để giảm nỗi đau cho người bệnh. Thế mà những cơn đau ấy đổ xuống trẻ thơ. Hình dung thôi chúng con cũng thấy rùng mình sợ hãi!
Lúc đó chỉ còn biết khóc thương, khóc than và giơ tay lên khẩn nài: “Xin dâng lên lòng thương xót Chúa, những vết thương… xin Chúa thương tha thứ chữa lành, nhận chìm con vào lòng Chúa xót thương”
Không dừng lại ở chỗ khóc thương sụt sùi, chúng con đã cố gắng trong khả năng có thể, mang tới cho 200 bé nơi đây chút quà, sữa tươi và một phong bao lì xì.
Chúa biết không, khi chọn quà cho các em, một bác sĩ đã tư vấn nên tặng các em sữa tươi cho nhẹ nhàng, bởi thể trạng của các em, nhiều trẻ loại sữa quá giàu đạm và chất bổ sẽ khiến các em không tiếp nhận và dội ngược ra, thì sẽ rất mệt. Trao bao lỳ xì cho các em vui, với cảm giác được thêm tuổi mới trong đời, nhưng thiết thực là để bữa trưa này, cha hoặc mẹ các bé có chút tiền mua hộp cơm có thêm miếng thịt, ăn cho có sức khỏe để chăm sóc người không còn sức khỏe.

Nhà nào có người bị bệnh ung thư là kiệt quệ, là sạch cửa nhà, bán mọi thứ trong nhà để chạy thầy chạy thuốc cho bệnh nhân. Tại nơi này có những người mẹ ròng rã bao năm tháng chỉ ăn cơm từ thiện thôi, Chúa ạ. Ăn uống thiếu thốn, suy dinh dưỡng, mẹ đi chăm con mòn mỏi yếu ớt xanh xao như tàu lá chuối, đứa con bị ung thư xương nằm thóp thoi trơ cái đầu trọc lóc, đến là khốn khổ.
Chắc Chúa còn nhớ, trong suốt mấy năm trời, nhóm thiện nguyện chúng con cũng trợ giúp 80 phần cơm mỗi ngày cho các bệnh nhân hoặc người nuôi bệnh. Bây giờ phải đi nhiều nơi để gieo rắc hạt giống lòng Chúa thương xót qua những chuyến công tác bác ái nơi vùng sâu vùng xa, cho nên chúng con chỉ tổ chức những chuyến thăm viếng như hôm nay được thôi, Chúa ạ!

Chúa gởi thêm nhiều người có lòng xót thương đến với chúng con để cùng chung tay góp sức xoa dịu nỗi đau của những con người nghèo khổ nhé! Con xin lỗi Chúa trước, nếu Chúa đưa đến những đại gia, những chức sắc, những người tiền bạc rủng rỉnh đi làm việc thiện mà muốn cho cả làng biết, muốn nêu tên trên bảng vàng, muốn khắc danh tính vào bằng tri ân, muốn được liệt vào danh sách các ân nhân… thì chúng con không nhận đâu đấy nhé! Dù họ có tiền rừng bạc biển, quyền cao chức trọng, thì cũng không có chỗ trong nhóm thiện nguyện nhỏ bé của chúng con đâu!
Nằm chèo kheo ở bậc nghỉ cầu thang là một người đàn ông gầy gò xương xẩu, ngủ khò khò bất chấp kẻ lại người qua, con cứ tưởng là Chúa đang nằm đó chứ! Bỗng anh giật mình ngồi phắt dậy, vồ cái túi lép kẹp dùng làm gối kê đầu, nhìn xung quanh ngơ ngác. Đợi người đàn ông định thần trở lại, chúng con đến lân la trò chuyện, mới biết anh tên Thành, quê mãi Vĩnh Long, có đứa con điều trị ở đây, cháu bị ung thư máu.
Lau giọt lệ, anh thở dài: “Mọi sự là vô vọng rồi, vì cơ thể cháu không tiếp nhận hóa chất truyền vô được nữa!” Đêm qua anh nhắn vợ lên thay phiên để anh về quê chuẩn bị sẵn sàng đón con về trong tình huống xấu nhất. Anh phải giấu vợ, sợ chị tuyệt vọng. Anh tới góc cầu thang ngủ vội lấy sức sau cả tháng thức trắng bên con, rồi sẽ bắt xe đi về dưới. Mấy sào ruộng anh đã bán hết để cứu con, mà công cốc hoàn công cốc. Anh bảo dù khó khăn đến đâu, cũng sẽ kiếm cái áo tử tế cho con khi đón nó về. Đau lắm, đau buốt trong tim mà giấu vợ, trìu mến ôm hôn con rồi ra đi. Chúa có thấy nỗi đau nào hơn thế không?
Kể cho Chúa nghe những đau đớn đó, lòng chúng con cũng trĩu buồn. Cảm ơn Chúa đã gởi những phần quà từ tấm lòng xót thương của những anh chị em từ khắp nơi, bớt ăn tiêu chi chút, dành dụm gởi về để chúng con lên đường trao tặng cho những mảnh đời rách nát, bệnh tật, nghèo túng…
Có chi tiết nhỏ này có lẽ sẽ làm Chúa vui hơn : ấy là chúng con đã hì hục ngồi trong góc cầu thang bơm những trái bong bóng to đẹp rực rỡ sắc mầu trao tặng các em. Những trái bóng đủ hình dạng sắc màu làm mắt đám trẻ sáng lên, quên đi cơn đau trong chốc lát. Nhìn thấy nhiều em cứ cà cái đầu trọc lóc vào trái bóng, ôm khư khư trái bóng như sợ nó bay mất, thương đến là thương. Thật xót xa khi hóa chất vào cơ thể các em chế ngự tế bào độc của chứng ung thư, thì cũng chính là tước đi hết mái đầu xanh của trẻ. Thương chúng quá!
Tuy nhiên, người mục tử ân cần dặn thiện nguyện viên chúng con khi đến nơi này hãy dằn lại nỗi đau lòng, ráng tươi lên, đem niềm vui nụ cười như một kỷ niệm đẹp cho các bé. Chúng con làm vậy được không Chúa?
Người mục tử linh hướng từng chia sẻ với chúng con: ra đi, đem niềm vui cho anh em nghèo khổ và trẻ thơ bệnh tật yếu đau, nhưng đồng thời cũng là để nhận thức ra cái cõi hạn hẹp nơi con người. Biết sự bất lực của mình mà gửi gắm sự cậy trông tín thác vào thiên Chúa. Ra đi cũng để thấy mình còn được Chúa thương rất nhiều. Còn thân hình đầy đủ, còn đi lại nói năng bình thường, còn sức khỏe… đó là món quà quý nhất Chúa trao ban mà con đâu biết trân trọng, đâu thấy mình hạnh phúc. Con cứ lao đầu tìm tiền tài danh vọng của cải chức tước địa vị… đến khi ngã quỵ vì ốm đau bệnh tật, lúc đó mới thấy tất cả là hư vô, là con số không, nếu không có sức khỏe.

Rời Khoa Nhi Bệnh Viện Ung Bướu, ám ảnh chúng con là nụ cười ngây thơ trên những gương mặt tròn trịa với cái đầu cũng tròn xoay, như những dấu chấm tròn vo giữa cuộc đời này. Những dấu chấm ngây thơ không hề biết rằng cuộc đời các em có thể chấm hết bất cứ lúc nào…. Hữu hạn mong manh quá đỗi. Bỗng thấy mắt cay xé, con nhớ lại lời ĐTC Phanxicô nói với giới trẻ: “Chúa Giêsu trong Phúc Âm đã khóc. Ngài đã khóc thương người bạn Lazarô qua đời. Người đã khóc cho gia đình mất đứa con gái của họ. Người đã khóc khi thấy người mẹ góa đem người con trai của bà đi an táng.Và Người đã động lòng đến chảy nước mắt, đã cảm thương khi thấy đoàn lũ dân chúng không có chủ chiên. Nếu các bạn không biết khóc các bạn không thể trở thành Kitô hữu tốt lành.
Vâng, Chúa Giêsu ơi! Con đang khóc đây!
Chúa cùng khóc với con nhé!
Thiện Nguyện Tín Thác
Bình Thạnh
2015
Bi ẩn thi hài thánh nữ đẹp như mỹ nhân
Bi ẩn thi hài thánh nữ đẹp như mỹ nhân
Mấy trăm năm qua đi, dung nhan thánh nữ Bernadette vẫn tuyệt vời như khi bà qua đời ở tuổi 35, dù không hề được ướp xác.
Trên thế giới có rất nhiều hiện tượng nhục thân bất hoại, thi hài nguyên vẹn sau hàng trăm, hàng nghìn năm, đa số có thể lý giải bằng khoa học. Thế nhưng với hiện tượng nhục thân bất hoại của thánh nữ Bernadette và một số vị thánh, nhà tu hành khác thì các nhà khoa học vẫn phải đau đầu bởi sự kỳ lạ dường như mang tính chất thần linh.
Thánh nữ Bernadette là ai?
Người được nhà thờ Thiên chúa giáo La Mã 2 lần phong thánh này là con gái đầu lòng của một gia đình thợ may nghèo ở Louders, miền nam nước Pháp, từ nhỏ đã ốm yếu vì bệnh hen. Vào năm 1858, khi 14 tuổi, cô bé nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra với mình trong một cái hang gần sông Gave, khi cô nhặt củi ở đó, nên về kể với mẹ.
Tin đồn lan ra, và dĩ nhiên rất nhiều người không tin. Trong vòng 5 tháng sau đó, cô bé còn được thị kiến Đức Mẹ thêm 17 lần, khiến đám đông đổ về hang ngày một đông. Điều đó khiến cô thiếu nữ gặp nguy hiểm bởi sự cảnh cáo, đe dọa của nhà chức trách. Tuy nhiên, Bernadette vẫn trung thành với những gì mình nhìn thấy thay vì tuyên bố mình nói dối như nhà chức trách yêu cầu.
Người dân càng tin vào Bernadette hơn khi có một dòng suối chảy ra từ hang do cô đã dùng tay đào theo chỉ dẫn của Đức Mẹ, và nước suối ấy được cho là chữa khỏi bệnh cho nhiều người. Trong một lần hiện ra với Bernadette, Đức Mẹ nói muốn xây một nhà thờ tại đây, nhưng nhà chức trách tìm cách ngăn cản, cũng như đóng dòng suối lại. Nhưng tiếng tăm về Bernadette và Đức Mẹ trong hang đã đến tai hoàng hậu nước Pháp, và bà đã can thiệp để nhà thờ được xây dựng.
Năm 22 tuổi, Bernadette được vào tu viện đúng như khao khát của cô, dành hết tâm sức để thờ Thiên chúa và làm những việc thiện nguyện. Nữ tu sĩ qua đời ở tuổi 35 (năm 1879) sau một thời gian dài bệnh tật. Vào năm 1913, Bernadette được Giáo hoàng Pius X phong thánh, mộ của bà lần đầu tiên được mở ra và mọi người ngạc nhiên bởi thi hài vẫn y nguyên như lúc còn sống. Do hoàn cảnh chiến tranh (chiến tranh thế giới thứ nhất 1914-1918), các nghi thức bị gián đoạn nên đến năm 1919, mộ của bà lại được mở ra lần nữa để hoàn tất các nghi lễ.
Lúc này, Bernadette đã qua đời được 30 năm. Bác sĩ phẫu thuật Tourdan, người chứng kiến sự việc, kể lại: “Quan tài được mở ra dưới sự chứng kiến của nhiều người, trong đó có tôi. Thi thể thánh nữ trong trang phục yêu thích của bà không hề có mùi xú u. Khuôn mặt, bàn tay và cẳng tay lộ ra bên ngoài. Đầu bà nghiêng sang một bên, miệng hé mở để lộ hàm răng trắng. Hai tay đặt trên ngực, lớp da vẫn hoàn hảo”.
Theo mô tả của những người khác, đầu gối bên trái của thánh nữ nhỏ hơn bên phải do ảnh hưởng của chứng bệnh lao xương mà bà mắc phải. Trang phục của bà hơi ẩm ướt, cỗ tràng hạt bà cầm cũng như tượng thánh bằng đồng trên ngực đã rỉ sét, nhưng lạ kỳ là da thịt lại vẹn nguyên, các khớp xương vẫn mềm mại và da vẫn đàn hồi, tươi tắn. Thánh nữ Bernadette được thay y phục mới và mai táng trở lại.
Năm 1925, Đức Giáo hoàng Pius XI phong thánh lần nữa cho Bernadette, và mộ bà lại được mở ra lần thứ ba. Người phụ nữ qua đời ở tuổi 35 vẫn mang dung nhan thánh thiện, đẹp đẽ như đang nằm ngủ, duy có da mặt hơi sẫm hơn một chút do bị lau rửa lần trước. Sau khi bọc sáp gương mặt và đôi tay, di hài được đưa vào quan tài bằng pha lê đặt ở nhà nguyện tại Lourder cho đến tận ngày nay cho mọi người kính ngưỡng.
Lourder – quê hương Bernadette đã trở thành một trong những điểm hành hương lớn nhất của các tín đồ Thiên chúa giáo, và dòng suối nhỏ được bà đào theo chỉ dẫn của Đức Mẹ vẫn cung cấp nước cho khách thập phương đến tận ngày nay.
Bí ẩn của thi thể không rữa nát
Đã có vô số thi thể cổ xưa được người đương đại phát hiện trong tình trạng nguyên vẹn: những bậc đế vương, những người giàu có, những thiền sư đắc đạo, những người sống ở vùng băng giá. Sự hoàn hảo của những thi thể này được khoa học lý giải nguyên nhân rất dễ dàng: Những tảng băng tạo thành cái tủ lạnh khổng lồ khiến những xác chết nằm trong đó được bảo quản tươi nguyên sau nhiều thế kỷ.
Những thi hài được ướp xác bằng cách rút hết nội tạng, được quấn và nhồi bằng nhiều loại dầu, thảo dược có tác dụng chống phân hủy. Còn các vị cao tăng thường “tự ướp xác” mình bằng cách nhịn ăn nhiều ngày, chỉ uống loại nước thuốc đặc biệt để ngừng trao đổi chất, làm sạch cơ thể, khiến người gầy rộc chỉ còn da bọc xương trước khi họ viên tịch trong tư thế thiền định.
Đặc điểm chung của những xác ướp đó là tuy không bị rữa nát, chúng cứng đơ, khô quắt, bị rút hết nước, và màu da xám xịt hoặc đen sì. Thực ra cũng có một ngoại lệ, đó là xác ướp của Tân Truy phu nhân, vợ một vị quan triều Hán ở Trung Quốc cách đây 2.000 năm, được phát hiện năm 1972. Thi thể người phụ nữ qua đời lúc 50 tuổi này vẫn đầy đặn, mặt tuy đã phân hủy nhưng còn khá rõ các nét, da còn khá mềm và ẩm, có khớp vẫn cử động được, đáng ngạc nhiên là nội tạng vẫn đầy đủ, thậm chí trong ruột và dạ dày vẫn còn hàng trăm hạt dưa.
Dù kỳ lạ nhưng sự “bất hoại” của Tân Truy phu nhân vẫn được giới nghiên cứu lý giải rõ ràng: thi thể bà đã được bảo quản cực kỳ khoa học với 20 lớp vải quấn quanh, ngâm trong dung dịch chống phân hủy bao gồm cả chu sa, thủy ngân và thạc tín, đặt trong 4 lớp quan tài. Có đến 5 tấn than được đổ quanh và thi hài được chôn sâu 15 mét dưới lòng đất.
Tóm lại, gần như tất cả những thi thể tồn tại qua thời gian đều là kết quả của sự bảo quản kỳ công, hoặc thi hài tình cờ được ở trong môi trường đặc biệt để vi khuẩn và sự oxy hóa không “tác quái” được. Nhưng điều đó không đúng với trường hợp thi thể thánh nữ Bernadette. Khi qua đời, bà chỉ ở địa vị một nữ tu sĩ bình thường, thậm chí bị mẹ bề trên ghét bỏ, nên thi thể được mai táng hoàn toàn theo cách bình thường, không có một tác động nào nhằm mục đích bảo quản thi hài.
Môi trường nơi đặt thi thể bà cũng hoàn toàn bình thường, nghĩa là những thi thể khác đặt ở đó vẫn rữa nát nhanh chóng theo quy luật tự nhiên. Các nhà khoa học không lý giải được tại sao, còn những người tin vào tâm linh thì cho rằng, chính hồng ân của Thiên chúa và Đức Mẹ đã tạo ra phép lạ cho người con gái thánh thiện của các ngài.
Không chỉ Bernadette, một số vị thánh khác của Thiên chúa giáo cũng có thi thể bất hoại, chẳng hạn nữ á thánh Anna Maria Taigi, người Italy, qua đời năm 1837 ở tuổi 68. Bà không phải là một tu sĩ, mà là bà mẹ 7 con nhận được ơn tiên tri của Thiên chúa, thấy được quá khứ và tương lai. Bà sống cuộc đời đạo đức, cống hiến và được Giáo hoàng Benedikt XV phong á thánh vào năm 1920. Mặc dù qua đời khi tuổi đã cao và đến nay đã hơn 175 năm trôi qua, gương mặt vị á thánh này vẫn tròn đầy, căng mịn, rất tươi đẹp.
Thánh Johannes Bosco (1786-1859) cũng được hậu thế chiêm ngưỡng trong quan tài kính với thần thái không khác lúc còn sống. Ông là một linh mục Pháp, người sáng lập nhà dòng Salesianer, được Giáo hoàng Pius XI phong thánh và tuyên xưng là Thánh quan thầy của các linh mục. Những vị thánh khác như Francis Xavier (1506-1552), di hài đang được lưu giữ tại Ấn Độ, Jean Marie Baptiste Vieanney (1786-1859)… cũng nổi tiếng là nhục thân bất hoại dù không hề được ướp xác.
Theo Xzone
CHÌA KHÓA VẠN NĂNG
Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà
(Suy niệm Tin Mừng Mác-cô (5, 21-43) trích đọc vào Chúa Nhật 13 thường niên)
Có một ông vua rất đỗi giàu sang và vô cùng quảng đại. Nhà vua có một kho tàng đầy ắp những báu vật mọi người hằng mơ ước. Nhà vua tuyên bố với thần dân rằng bất cứ ai muốn lấy bất cứ thứ gì trong kho tàng vô tận của vua thì cứ lấy, miễn là phải dùng một loại chìa khoá rất đặc biệt mới mở được kho tàng. Chìa khoá ấy, vua cũng chỉ cho biết là đang nằm trong tầm tay mọi người. Tiếc thay, người ta không biết đó là chìa khoá thần kỳ và chưa mấy ai đem ra sử dụng.
Khi nghe tin nầy, nhiều người nao nức hỏi: Vị vua đại lượng đó là ai? Kho tàng nằm ở đâu? Chìa khoá nào mở được kho tàng, xin mau mau cho biết.
Đức vua đó chính là Thiên Chúa quyền năng. Kho tàng của Ngài là vô vàn phúc lộc không bao giờ vơi cạn. Chìa khoá để mở kho tàng ấy là lòng tin. Ai có lòng tin mạnh mẽ, người đó có thể mở được cửa kho tàng và chiếm lấy những gì mình muốn. Ai không có lòng tin, thì đành bó tay và chẳng thu lượm được gì.
Hai sự kiện thánh sử Mác-cô thuật lại trong Tin Mừng hôm nay minh chứng cho chân lý nầy:
Trường hợp người phụ nữ bị bệnh băng huyết
Một người phụ nữ bị băng huyết đã mười hai năm, đã lắm phen tìm thầy chạy thuốc nhưng bệnh của bà vẫn vô phương cứu chữa. Nay gặp Chúa Giê-su, bà mừng như người sắp chết đuối vớ được tấm phao.
Vì luật cấm những người mang thứ bệnh nhơ uế như bà tiếp cận với người khác (Lv 15, 25) nên bà không dám công khai gặp Chúa Giê-su, chỉ len lén tiến lại phía sau lưng Ngài, tự nhủ lòng rằng: “Mình chỉ cần sờ được vào áo Ngài thôi là sẽ được cứu.” Và điều nhiệm mầu đã xảy ra: bà vừa đụng vào áo Chúa Giê-su thì tức khắc huyết cầm lại và bà được chữa lành.
Chúa Giê-su biết có một năng lượng từ mình xuất ra nên quay lại tìm hiểu và khi người phụ nữ thú nhận việc bà vừa làm, Chúa Giê-su bảo: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”
Chính Chúa Giê-su xác nhận lòng tin là chìa khoá thần kỳ mở ra cho người đàn bà kho tàng chứa đựng điều mà bà khao khát: được chữa lành chứng bệnh nan y.
Trường hợp ông trưởng hội đường
Ông trưởng hội đường đang cùng Chúa Giê-su tiến vội về nhà để nhờ Chúa cứu chữa đứa con gái đang hấp hối, thì người nhà của ông này chạy đến báo cho ông biết rằng con gái ông chết rồi, đừng phiền Chúa đến nhà làm gì mất công.
Nghe vậy, Chúa Giê-su động viên ông ta: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.“ Tin là được. Thế rồi, nhờ lòng tin, con gái ông đã được cứu sống.
Một lần nữa, Tin Mừng chứng tỏ cho thấy lòng tin là chìa khoá đem lại ân sủng nhiệm mầu: đứa con gái thân yêu chết rồi nay được cứu sống!
Còn nhiều sự kiện khác được ghi lại trong Tin Mừng chứng tỏ cho thấy phải có lòng tin thì mới đạt được điều mong muốn và không có lòng tin thì chẳng được gì (Mt 13, 58). Lòng tin có thể chuyển núi dời non. Với lòng tin, người ta có thể làm được tất cả như lời Chúa Giê-su dạy: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi nầy: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ chuyển qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (xem thêm: Mt 17, 19-20; Mt 15, 28; Mt 21, 21-22).
Quả vậy, điểm lại những khuôn mặt đạt được thành công lớn lao trên thế giới, ta thấy rằng nguyên nhân chính giúp họ thành đạt là nhờ mạnh tin. Vững tin rằng mình sẽ làm được thì sẽ được như ý.
Như thế, lòng tin là bí quyết để thành công trên đường đời, và cũng là chìa khoá mở vào kho tàng ân sủng của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, lòng tin của chúng con còn yếu kém nên chẳng thu hoạch được gì. Xin ban thêm lòng tin để chúng con có thể mở được kho tàng ân sủng của Chúa.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

