GS.Vũ Quốc Thúc đã gia nhập Giáo hội Công Giáo

Yeuchua.net 

12.04.2012 Lễ Phục Sinh, Giáo xứ Việt Nam Paris đã đón nhận 25 tân tòng nhập đạo, trong đó có Giáo sư Vũ Quốc Thúc.

Đây là một hồng ân nhưng không mà Chúa đã ban cho giáo xứ năm nay. Phải chăng Chúa muốn thưởng công bao nhiêu đóng góp thầm kín và kiên nhẫn của bao nhiêu hội đoàn, bao nhiêu giáo hữu trong giáo xứ? Không ai dám khẳng định. Chỉ biết rằng dưới sự lãnh đạo của Ban Giám Đốc nhiệt thành và hăng say truyền giáo, rất nhiều công việc đã được thực hiện, khi thì công khai, khi thì kín đáo.

  1. Ông đã thấy và đã tin Phúc Âm Gioan, đọc trong lễ Phục Sinh, ngày Gs Vũ Quốc Thúc lãnh nhận phép rửa, kể lại việc bà Maria Mácđala, ông Simon Phêrô và ông Gioan đã ra mộ tìm Chúa. Cả ba người đã thấy và đã tin.Gs Vũ Quốc Thúc và các tân tòng khác cũng đã thấy và đã tin. Họ đã thấy gì? Họ đã thấy một ân huệ Chúa ban, một nghĩa cử đáng phục, một người bạn đáng mến? Hay một điều gì khác?Trước và sau nghi lễ rửa tội, người viết có dịp được nói chuyện với dăm ba tân tòng. Người viết hỏi họ xem lý do nào đã thúc đẩy họ gia nhập đạo công giáo. Một chị trả lời rằng: “Hai năm trước đây, em học xong, ra trường, tìm mãi, không được việc làm. Trong lúc chán nản, một người bạn rủ em đi Lộ Đức cầu nguyện. Em nghe theo. Mấy tháng sau, em tìm được việc làm. Em nghĩ rằng đó là ơn Đức Bà phù hộ. Em đến trình bày với cha Vinh và xin học đạo”. Một anh thanh niên kể rằng: “Cách đây đúng 4 năm, em không phải là công giáo, nhưng thích sinh hoạt và du lịch, đã ghi danh dự ngày JMJ Sydney. Em đã gặp được vài người bạn. Gương bác ái của họ làm em xúc động và suy nghĩ rồi quyết định đi sinh hoạt theo họ. Trong các sinh hoạt đó, em gặp được một thiếu nữ công giáo. Em muốn xây dựng cuộc đời lâu dài với nàng và để đảm bảo hạnh phúc lâu bền gia đình, em đã xin học giáo lý vào đạo”.Trên bình diện tổng quát ở giáo xứ Việt Nam Paris, Đức Ông Mai Đức Vinh (1), người lo việc dạy giáo lý tân tòng trên ba chục năm nay (1977-2012), đã đặt câu hỏi và đã trả lời: “Những động lực nào đã thúc đẩy người Việt Nam xin học giáo lý để gia nhập đạo Công Giáo? Xin thưa:• Vì đã khấn hứa với Chúa và Đức Mẹ (đặc biệt khi rời Việt Nam,…);
    • Vì đã lãnh nhận một ân huệ Chúa và Đức Mẹ ban (ơn khỏi bệnh, ơn thoát nạn, được việc làm,…);
    • Vì muốn gia đình được hiệp nhất trọn vẹn và bảo đảm hạnh phúc lâu bền (các đôi bạn đã lập gia đình một số năm, hay sắp lập gia đình,…);
    • Vì cảm mến đạo công giáo (thấy đạo công giáo quan tâm nhiều về bác ái nhân đạo, có những nhân vật nổi tiếng, như Mẹ Têrêxa Calcutta, Abbé Pierre, Đức Gioan Phaolô II, hoạt động bác ái của giáo xứ Việt Nam,…);
    • Vì ảnh hưởng tốt của các bạn công giáo (ngoại quốc hay Việt Nam, có khi đã quen thân lâu năm, có khi những năm ở ca đoàn, trong một sinh hoạt, như JMJ, trại hè,…)
    • Ngoài ra, Đức Ông còn nhắc đến một động lực khác nữa, thúc đẩy, lôi cuốn và đưa đến Thiên Chúa Tình Yêu. Đó là ảnh hưởng của những người bạn đời hay bạn thân, có đời sống và liên hệ hằng ngày với các lương dân dự tòng, những người đồng hành lâu dài, những người giúp hiểu giáo lý, những người nhận đỡ đầu.Về phần Giáo sư Vũ Quốc Thúc, trong bữa tiệc tiếp tân chúc mừng, do Hội Ái Hữu Đại Học Đà Lạt tại Âu Châu, quy tụ các cựu Giáo Sư và Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt, tổ chức sau lễ rửa tội, ông đã đặc biệt nhắc đến ba điều ông đã thấy và đã tin.Ông đã thấy ơn Đức Mẹ. Ông kể rằng “Tôi còn nhớ vào năm 1976, trong lúc tinh thần hoang mang, chờ người ta đến bắt mình đi “cải tạo”, chưa biết tương lai sẽ ra sao, một lòng chỉ muốn ra khỏi nước. Lúc đó tôi đã lên cầu xin Đức Mẹ ở Bình Triệu. Nhà tôi ở Sài Gòn, gần nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, đường Kỳ Đồng, có tượng Đức Mẹ Lộ Đức. Trong lúc hoang mang, tôi đến cầu Đức Mẹ. Hôm đó tôi đã lên Bình Triệu và đã có sự linh ứng. Tôi có lời nguyện, tôi xin Đức Mẹ cứu cho vợ chồng tôi và bốn con còn nhỏ ra được ngoại quốc, thì tôi sẽ xin nguyện đem tất cả những năm còn lại trong đời tôi, trước hết để tranh đấu cho dân tộc, và tranh đấu cho tôn giáo. Sau khi tôi vừa cầu nguyện xong, thì tượng Đức Mẹ sáng rực lên và trong lòng tôi thấy bồi hồi vô cùng, và sau lần đó tôi đã vận động và sang được bên Pháp này. Còn nhiều chuyện tôi không muốn nói ra đây, nhưng quả thật là linh ứng” (2).Từ khi sang Pháp, ông thường xuyên hay gặp một người cựu học trò ở Trường Chính Trị Kinh Doanh Đại Học Đà Lạt khi xưa, khóa I, 1964-1968. Ông đã thấy gương đức tin của anh. Ông quyết định xin học giáo lý, vào đạo công giáo, giữ lời hứa với Đức Mẹ Fatima Bình Triệu. Ông xin anh làm bõ đỡ đầu. Đó là anh Lê Đình Thông. Ông nói: “Trong việc đi tìm Chúa, người mà tôi phải cảm tạ vô cùng, cảm tạ rất đặc biệt là GS Lê Đình Thông. Anh LĐT quả thực đã giúp đỡ tôi rất nhiều, có lẽ đến cả chục năm nay, tôi đã tâm sự với anh về bao nhiêu những vấn đề đã khiến cho tôi phải trăn trở. Và khi tôi nói đến chuyện trăn trở của tôi về cõi thiêng liêng thì chính anh đã có những lời tâm tình làm tôi cảm động, và chính anh đã giúp tôi làm các thủ tục và luôn luôn dìu dắt tôi để cho tôi khỏi mệt nhọc. Và hôm nay, anh Thông đã đối xử với tôi, quả thật không khác chi là một người anh em ruột thịt, xin cám ơn anh, cám ơn anh” (3).

    Ông muốn xin được rửa tội công khai và trang trọng theo đủ các nghi thức của Giáo hội, như mọi tân tòng khác, như một biểu lộ và dấu chứng làm chứng nhân, công khai công bố đức tin của mình.

    Hôm nay, đã nhận Bí tích Rửa Tội, đã gia nhập Giáo Hội Tình Yêu, có lẽ Giáo Sư Jean-Paul Vũ Quốc Thúc và những tân tòng khác đã cảm nhận được những điều mà họ không thấy, nhưng cũng là những lực đưa đẩy họ tìm được Chúa, đi vào Đức Tin. Đó là những lời cầu nguyện và những sinh hoạt; có khi âm thầm của nhiều tín hữu, của nhiều cá nhân, của nhiều hội đoàn, của nhiều đồng nghiệp, bạn bè thân quen của họ, hay những nguyện cầu, suy nghĩ, biên khảo của chính họ; có khi công khai tổ chức quy mô ở giáo xứ, giáo phận, giáo hội, như các chiến dịch trong các năm: 2012 “Liên đới Niềm tin”, 2006 “Liên đới Tin Mừng”, 2005 “Liên đới Truyền giáo”, 2004 “Sống truyền giáo Tổng Giáo phận Paris”,…

    Và hôm nay, đã nhận Bí tích Thêm sức, có lẽ họ cũng đã cảm nhận được sức thúc bách sống và biểu lộ đức tin, làm chứng nhân về Chúa Phục Sinh, rao giảng Lời Chúa và liên đới bác ái với mọi người, như lời Đức Phaolô VI đã nói trong thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu rằng: “Bản chất Hội Thánh được thể hiện qua một trách nhiệm có ba mặt: rao giảng Lời Chúa, cử hành các Bí tích, phục vụ bác ái. Đó là những trách nhiệm lệ thuộc vào nhau và không thể tách rời nhau được. Việc phục vụ bác ái đối với Hội Thánh không phải là một cách thức hoạt động trợ giúp có thể giao cho người khác, nhưng nó thuộc về bản chất của Hội Thánh, là một biểu lộ bản chất không thể từ bỏ được” (4).

    2. Hội Ái Hữu Viện Đại Học Đà Lạt chúc mừng

    Nhân dịp này, trong niềm vui chung cho cộng đoàn giáo xứ và đại gia đình thụ nhân trên khắp thế giới và riêng tại Paris, các cựu giáo sư, sinh viên và gia đình thuộc Viện Đại Học Đà Lạt đã tổ chức một bữa tiệc, vừa để chúc mừng Lễ Rửa Tội gia nhập Giáo Hội Công Giáo, vừa để chúc mừng sinh nhật thứ 92 của Giáo Sư Vũ Quốc Thúc. Khoảng 70 người đã đến tham dự.

    Mở đầu bữa tiệc, anh Phạm Trọng Khoát, chủ tịch hội Thụ Nhân, có đôi lời chúc mừng và dâng thầy Vũ Quốc Thúc bài thơ chúc thọ và mừng rửa tội:

    “Trong đời sống hàng ngày của mỗi người, ai cũng có niềm tin. Bình thường niềm tin đó là những ước muốn, những tin tưởng, những hy vọng về vật chất hay cho thăng tiến trong xã hội. Tuy nhiên, còn có những niềm tin thiêng liêng cao cả, sâu đậm, thánh hóa, đó là niềm tin về tôn giáo. Hôm nay trong ngày lễ Phục Sinh, thầy Vũ Quốc Thúc đã chọn niềm tin vào Thiên Chúa, đón nhận bí tích rửa tội để trở thành một tín đồ Công giáo. Đại diện cho toàn thể Hội Ái Hữu Đại Học Đà Lạt tại Âu Châu, chúng con xin cảm ơn Đức Ông, quý Cha, quý vị và quý anh chị đã đến để chứng kiến, và chia sẻ niềm vui này với thầy Thúc, là một người cha trong gia đình thụ nhân.

    Thưa Thầy, đối với những người đã trưởng thành, mỗi quyết định gia nhập bất cứ tôn giáo nào, vì nhiều lý do khác nhau, đều là chính đáng. Con nhớ những lần Thầy kể cho chúng con nghe về những phép lạ, những ơn lành mà Thầy đã nhận được, chắc hẳn đó là một trong những lý do đã tạo được niềm tin của Thầy với Thiên Chúa.

    Trong một bài giảng của một linh mục người Mỹ mà con được nghe, vị linh mục này nói: “Hãy đến với Thượng đế, chứ đừng dùng Thượng Đế như số 911, chỉ khi nào cần thì mới gọi, xong rồi thôi”. Thầy không vậy, sau khi tìm thấy được lòng tin vào Thiên Chúa, Thầy đã quyết định trở thành tín đồ để thờ phượng Ngài. Ở tuổi của Thầy, đây không phải là một quyết định dễ dàng, cũng như trước những phê bình, dèm pha của người đời, nhưng thưa Thầy, đức tin bao giờ cũng thắng.

    Đây là một bài học “dấn thân” thứ hai của Thầy cho chúng con. Đọc tác phẩm “Thời Đại của tôi” của Thầy, con đã học được bài học dấn thân cho đất nước, một lần nữa, Thầy lại cho chúng con thấy, ở bất cứ tuổi nào, việc có khó khăn đến đâu, khi đã tin tưởng, Thầy sẽ dấn thân vào việc đó.

    Chúng con không được nhiều dịp gặp Thầy đông đủ, cho nên mỗi lần có cơ hội như hôm nay, là một lần chúng con xin được phép chúc mừng thượng thọ Thầy. Chúng con xin có một bài thơ của anh Thông xin kính tặng Thầy:

    Nắng mới vườn xuân thoảng sắc hương,
    Thiều quang chợt đến lúc tinh sương.
    Niên kỷ cửu thập tri quốc mệnh,

    Bách niên chi kế chí cương thường.

    Thượng đế ban ơn qua vận hạn,
    Thiên thần giáng phúc thoát tai ương.
    Mừng Thầy rửa tội mùa xuân mới:
    Bách niên trường thọ phúc miên trường.
    綿

    Chúng con xin thành thật cầu mong Thầy tiếp tục được ơn trên che chở, và tìm được sự bình an đạo, đời với đức tin mà Thầy vừa lãnh nhận” (5).

    Sau đó, một chị đã dâng bon sai kính chúc thượng thọ thầy. Rồi anh Lê Đình Thông đã đích thân đọc bài Đường thi chúc mừng. Đức Ông Giám đốc Mai Đức Vinh, bận đi làm lễ, không đến tham dự được, nhưng gửi biếu chuỗi tràng hạt do Đức Bênêdictô XVI làm phép. Cha Tuyên úy Đinh Đồng Thượng Sách (thi sĩ Cung Chi) đã ghé chúc mừng Giáo sư Vũ Quốc Thúc và đề tặng một bài thơ.

    Thầy Vũ Quốc Thúc có đôi lời cám ơn Đức Ông đã ban phép Rửa tội, phép Thêm sức, phép Mình Thánh Chúa và cám ơn Ngài đã trao tặng cỗ tràng hạt do Đức Bênêđictô XVI làm phép. Thầy cũng đã cám ơn cha Tuyên úy Đinh Đồng Thượng Sách đã ghé thăm và chúc mừng. Rồi thầy kể lý do tại sao theo đạo, tại sao đã chọn Giáo Sư Lê Đình Thông làm bõ đỡ đầu và tại sao lại đã muốn công khai nhận phép rửa tội. Thầy cám ơn các cựu giáo sư và sinh viên Viện Đại Học Đà Lạt hiện diện hôm nay, cám ơn chân tình và thịnh tình của họ, đã tổ chức tiệc mừng lễ rửa tội và chúc thọ. Việc anh chị em ăn mừng thượng thọ cho thầy vào ngày Phục sinh, thật chẳng khác chi nhắc nhở cho thầy rằng đời sống tinh thần không bao giờ chấm dứt, không bao giờ hết. Đặc biệt hôm nay thầy nhận ăn mừng thượng thọ bởi vì nó đem lại một niềm vui, phấn khởi; đánh tan nỗi buồn man mác của những người tuổi đã xế chiều như thầy.

    Thầy chúc cho mọi người theo gương văn hóa và giáo dục trong tinh thần THỤ NHÂN của Viện Đại Học Đà Lạt, đặc biệt là gương của ba vị Cựu Viện Trưởng: Lm Trần Văn Thiện (1957-1960), Lm Nguyễn Văn Lập (1960-1969) và Lm Giáo Sư Tiến sỹ Lê Văn Lý (1969-1975).

Ghi chú:

(1). Mai Đức Vinh, In: 60 năm Giáo xứ Việt nam Paris, 1947-2007, Giáo Xứ Việt Nam Paris; 2010, tr. 579
(2). Tài liệu ghi âm, do anh Phạm Trọng Khoát đánh máy và chuyển. Xin cám ơn anh Khoát
(3). Ibidem
(4). ĐTC Phaolô XVI, Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThongDiep/01DEUS_CARITAS_EST.htm, số 25
(5). Tài liệu đánh máy, do anh Phạm Trọng Khoát chuyển. Xin cám ơn anh Khoát

Paris, ngày 12 tháng 04 năm 2012
(Trần Văn Cảnh)
(Nguồn: Trung tâm Công giáo Việt Nam Gp. Orange)

Giáo sư Vũ Quốc Thúc trả lời phỏng vấn RFI ngày 08/03/2012. (Hình: Thanh Phương – RFI)

CHUỖI MÂN CÔI cứu gia đình tôi

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Đứa em gái tôi thương mến nhất bị đau mắt. Sau khi khám nghiệm kỹ lưỡng, bác sĩ nhãn khoa cho biết chứng bệnh có dấu hiệu trầm trọng có thể đưa đến mù lòa. Ông ra toa cho thuốc và hẹn sẽ tái khám. Ba Má tôi và 5 anh chị em chúng tôi, nghĩa là cả gia đình chúng tôi, bắt đầu làm Tuần Cửu Nhật khấn Đức Mẹ Lộ Đức. Riêng tôi, tôi hứa với Đức Mẹ MARIA là mỗi ngày sẽ lần một chục hạt, nếu em gái tôi được khỏi bệnh…

Đức Mẹ Lộ Đức tại Việt Nam – Legio Mariae – Đạo Binh Đức Mẹ

Lần khám bệnh tiếp theo đó vị bác sĩ vô cùng kinh ngạc vì thấy chứng bệnh của em gái tôi đã hoàn toàn biến mất. Kể từ ngày hôm đó, giữ lời đã hứa, mỗi ngày, tôi đều lần một chục hạt để tạ ơn Đức Mẹ MARIA. Lớn lên, tôi lập gia đình. Mỗi tối, chồng tôi và tôi, cả hai cùng lần hạt Mân Côi kính Đức Mẹ. Rồi đệ nhị thế chiến 1939-1945 diễn ra. Năm 1940, chồng tôi bị động viên. Ở lại nhà một mình, tôi theo cha mẹ tôi chạy giặc từ miền Bắc nước Pháp di cư xuống sinh sống tại Nantes, miền Trung nước Pháp, nơi gia đình người chị cả của tôi.

Những tin tức nhận được từ chiến trường sôi động miền Bắc, “miền hỏa ngục Dunkerque”, khiến tôi vô cùng lo âu. Một ngày, tôi đến nhà thờ cầu nguyện và hứa với Đức Mẹ MARIA là sẽ lần mỗi ngày trọn Chuỗi Mân Côi, nếu chồng tôi trở lại gia đình bằng an, khi chiến tranh chấm dứt…

ba-nhan-duc-chung-ta-co-the-hoc-duoc-khi-lan-chuoi-man-coi - Sinh Viên ...

Cầu nguyện xong, tôi ra về. Vừa bước vào nhà, chị tôi nói ngay với tôi: “Có thư cho em kìa”. Tôi vội vàng mở thư ra đọc. Đó là thư của chị dâu tôi, vẫn còn ở lại miền Bắc, viết cho tôi. Chị báo tin là trong thời gian qua chồng tôi bị bắt làm tù binh nhưng sau đó đã được thả ra. Hiện chồng tôi đã về lại nhà và đang mong đợi tôi. Đọc xong thư, tôi vô cùng sung sướng và hết lòng cảm tạ Đức Mẹ.

Khi gặp lại chồng, tôi mới biết là anh đã ba lần thoát chết.

Lần thứ nhất, khi anh lái chiếc xe cam-nhông chạy dưới những lằn đạn bắn như mưa của quân Đức. Đạn xuyên qua cạnh anh nhưng anh vẫn bằng an vô sự.

Lần thứ hai, đáng lý đơn vị của anh phải lên tàu sang Anh quốc nhưng vào phút chót, có lệnh thay đổi. Các binh sĩ Anh phải lên tàu thay vì binh sĩ Pháp. Và chiếc tàu này đã bị quân Đức bắn chìm ngay trước mắt các binh sĩ Pháp.

ASPI recommends ‘Pacific Crucible: war at sea in the Pacific 1941–42 ...

Lần thứ ba, vào một đêm, khi nghe còi báo động, anh liền ra khỏi giường, chạy ra ngoài, nằm rạp xuống nơi hành lang, thì cũng vừa lúc đó, đạn pháo kích bắn rơi vào phòng. Riêng anh thì không bị vết thương nào…

Kể từ ngày đoàn tụ gia đình sau chiến tranh, mỗi ngày tôi đều lần Chuỗi Mân Côi và càng ngày tôi càng yêu thích lần chuỗi Mân Côi. Tôi thâm tín rằng khi cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi thì chúng ta nhận được rất nhiều ơn lành của Chúa nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA và nhất là được Đức Mẹ thương yêu gìn giữ cách riêng.

Familia rezando rosario - MVC

Ước gì câu chuyện này khuyến khích nhiều tín hữu Công Giáo yêu chuộng và sốt sắng lần hạt Mân Côi, dâng kính Mẹ THIÊN CHÚA.

(Albert Pfleger, “FIORETTI DE LA VIERGE MARIE”, Mambré Editeur Diffuseur, 1992, trang 114-115)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Nguồn: Nguyen Thai & NguynNThu

Ông Roman Kluska, doanh nhân người Ba Lan được ơn trở lại nhờ đọc Nhật ký Lòng Thương Xót Chúa

Thánh nữ Faustina

Ông Roman Kluska, doanh nhân người Ba Lan nổi tiếng trong lĩnh vực máy tính, được ơn trở lại, thay đổi cuộc đời nhờ đọc Nhật ký Lòng Thương Xót Chúa của thánh Faustina.

Ngọc Yến – Vatican News

Năm 1988, Roman Kluska thành lập Optimus, công ty sản xuất máy tính cá nhân. Vào thời điểm đó, Đông Âu có nhiều biến động, nhưng Optimus rất nhanh chóng khẳng định là công ty dẫn đầu tại thị trường này. Trực giác kinh doanh của Kluska rất ấn tượng. Nhiều người thắc mắc làm thế nào mà một người khởi nghiệp với 12 USD trong túi lại có thể đánh bại các công ty lớn như IBM, Dell và HP trên thị trường khu vực?

Komputery Optimus na rynku - Nowe Technologie - polskieradio.pl

Thành công như vậy nhưng vào năm 2000, Kluska bị chính quyền Ba Lan buộc tội trốn thuế và bắt giữ. Năm 2003, Kluska hoàn toàn được minh oan và được trả tiền bồi thường. Qua sự kiện này Kluska trở thành một động lực thúc đẩy cho một cuộc cải cách cần thiết giữa các doanh nghiệp Ba Lan và chính quyền. Trường hợp của Kluska và của các doanh nhân khác phản ánh tình trạng tham nhũng và kém cỏi trong bộ máy quan liêu của Ba Lan vào giai đoạn đó.

Dlaczego upadł Optimus? Roman Kluska: Wszystko wskazuje na służby - tvp ...

Rõ ràng là cuộc chạy đua này với chính phủ không làm tổn hại đến danh tiếng của Kluska. Trong những năm sau đó, Kluska được nhiều người biết đến và được kính trọng vì các hoạt động bác ái, nhiều hoạt động trong số đó mang tính chất tôn giáo, như cung cấp kinh phí chính cho việc xây dựng Đền thánh Lòng Thương Xót Chúa ở Krakow.

Kluska bắt đầu quan tâm và chú ý đến Lòng Thương Xót Chúa trong một kỳ nghỉ đông của gia đình ở vùng núi vào đầu những năm 1990. Kluska nói: “Do công việc tôi không có thời gian đi trượt tuyết vào ban ngày, vì thế tôi đi trượt tuyết vào chiều tối, khi các sườn núi thiếu ánh sáng. Một ngày nọ, khi đang trượt tuyết trong bóng tối, tôi bị ngã nặng và phải nằm trên giường trong một thời gian dài”.

Diary of Saint Faustina | The Sisters of Our Lady of Mercy

Mặc dù tiếp tục nằm tại và chỗ quản lý công ty cách tốt đẹp bằng điện thoại, nhưng vào chiều tối, ông Kluska cảm thấy buồn chán. Không thể di chuyển, một ngày nọ, ông cố gắng tìm thứ gì đó để đọc và rồi ông thấy một tập sách nhỏ gồm những đoạn trích từ Nhật ký của Thánh Faustina trên chiếc bàn cạnh giường ngủ mà vợ ông đã đặt gần giường ông.

Về điều này, ông xác tín: “Hôm nay, tôi biết cú ngã đó không phải là một tai nạn”. Mặc dù đã quen đọc những cuốn sách khoa học hoặc những sách liên quan đến lĩnh vực kinh doanh, nhưng doanh nhân này bắt đầu đọc Nhật ký, không có chút hứng thú nào với tác giả tập sách chỉ mới học ba năm tiểu học.

Tuy nhiên, tập sách lôi cuốn ông. Kluska tiếp tục đọc hết cuốn sách. Ông thú nhận: “Tôi đã quen với việc dễ dàng bắt lý hầu hết mọi cấp phó hoặc chủ tịch của các công ty cấp dưới của tôi về những điểm không nhất quán hoặc thiếu lý chứng… Hãy tưởng tượng sự ngạc nhiên của tôi khi đọc Nhật ký mà tôi không có một bình luận nào về Faustina! Trong đó, không có mâu thuẫn nội tại. Nó rất rõ ràng. Tôi khẳng định thánh nữ không thể tự mình viết Nhật ký, thánh nữ thực sự là thư ký của Chúa Giêsu. Thánh Faustina sẽ không thể thuyết trình một cách mạch lạc trong cuốn sách dày 600 trang về cách chúng ta cần phải sống”.

Việc đọc đã có một tác động sâu sắc đến Kluska. Ông nói: “Tôi được Chúa thu hút, được đánh động bởi sự hoàn hảo của Người trong mọi khía cạnh. Chúa nói với con người: ngươi có quyền lựa chọn giữa tình yêu thương xót vô biên của Ta hoặc công lý của Ta. Tuỳ ngươi. Ngươi được tự do! Cuối cùng tôi cũng cảm nhận được ý nghĩa của việc trở thành một người tự do… Tôi có quyền lựa chọn”.

Khi Kluska bị bắt và bỏ tù một thời gian sau đó với lý do trốn thuế, Nhật ký Lòng Thương Xót Chúa là “vũ khí mạnh nhất và duy nhất” của ông. Ông nói: “Trong tù, tôi không còn gì ngoài lời hứa của Chúa Giêsu rằng nếu tôi tin cậy Chúa, thì Người sẽ giải quyết các vấn đề của tôi. Đầu óc tôi tràn ngập những suy nghĩ đen tối. ‘Tôi tự hỏi điều gì sẽ xảy ra?’ Tôi bắt đầu nói trong phòng giam, ‘Lạy Chúa, con tin tưởng nơi Ngài’”.

Roman Kluska i jego historia: Optimus i walka z fiskusem - Biznes ...

Ông nói thêm: “Chúa giải quyết các vấn đề của chúng ta khi chúng ta can đảm đáp lại tình yêu Chúa bằng sự tin tưởng vô điều kiện, bất kể điều gì xảy ra. Khi chúng ta có thể tin tưởng và đón nhận ý Chúa, các vấn đề sẽ tự giải quyết. Nếu chúng không được giải quyết, điều đó có nghĩa là cần phải thay đổi điều gì đó”.

Roman Kluska w Łagiewnikach

Ông nhấn mạnh: “Một công ty dựa trên đạo đức Kitô giáo là vô song so với một công ty chỉ dựa trên các thủ tục. Anh ấy đã mô tả những tình huống kịch tính từ kinh nghiệm của chính mình, khi “việc làm lương thiện được thay thế bằng điều kiện có quan hệ tốt với chính quyền.” Anh nhớ lại những chi tiết về vụ bắt giữ đầy kịch tính của mình và – với tư cách là một “tội phạm nguy hiểm” – bị còng tay và cách ly trong một chiếc lồng đặc biệt và giam giữ trong phòng giam bốn người.

Anh ấy gọi thời gian ở trong tù là “một bài kiểm tra thực sự về sức mạnh và niềm tin.” “Tôi sẽ không ở đây nếu không có St. Chị Faustina và câu nói ‘Chúa ơi, con tín thác vào Chúa’ mà tôi cứ lặp đi lặp lại,” Kluska nói trong hội nghị “doanh nhân đi hành hương” ở Łagiewniki.
Để phổ biến những lời của Thánh Faustina, ông đã phân phát miễn phí hơn một triệu bản Nhật ký của thánh nữ.

Hiện nay, ông Roman Kluska đã thành công trong việc kinh doanh chăn nuôi cừu và canh tác hữu cơ, nhưng ông vẫn tiếp tục hỗ trợ các dự án bắt nguồn từ các giá trị Kitô giáo và không ngừng làm chứng rằng niềm tin vào lòng thương xót của Chúa không bao giờ vô ích, ngay cả khi liên quan đến các vấn đề thế gian.

 


 

CÓ MỘT CỤ GIÀ…

Có một Cụ Già, mà khi gặp Cụ, các Đức Giám Mục đã cúi mình xuống và niềm nở chuyện trò.

Cụ già đó chính là Giáo sư Stêphanô NGUYỄN KHẮC DƯƠNG, nguyên trưởng Ban Triết học và Quyền Khoa trưởng Văn khoa của Đại học Đàlạt trước 1975; người đã góp công rất lớn trong việc đào tạo nên những nhà tri thức cho Giáo hội và xã hội.

Có rất nhiều Tu sĩ, Linh mục và cả Giám Mục… đã là môn sinh của thầy. Tuy nhiên, “Gia tài” mà cụ để lại không phải chỉ là những kiến thức uyên bác, nhưng là một chứng nhân của đức tin, một tình yêu cao cả mà cụ dành cho Chúa và Hội Thánh.

Thầy Nguyễn Khắc Dương sinh ngày 24-9-1925, trong một gia đình Nho Giáo tri thức. Tuổi thơ thầy sống với cha mẹ tại làng Thịnh Xá, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; trực thuộc Giáo họ Bình Hòa, Giáo xứ Đông Tràng, Giáo phận Vinh.

Thân phụ, cụ Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm, là một nhà nho nổi tiếng học giỏi, đức độ. Sau khi đỗ đạt, cụ được bổ dụng vào chức Tư nghiệp Quốc tử giám tại Huế. Cụ đã từng làm Tri phủ huyện Anh Sơn, Án sát tỉnh Nghệ An, Phủ doãn tỉnh Thừa Thiên, và về hưu năm 1943 với phẩm hàm Hiệp Biện Thượng thư. Cụ là một vị quan thanh bạch, trung chính, không lấy danh vị làm vinh, và nổi tiếng thanh liêm nên được dân chúng rất mến phục.

Thầy Dương là em ruột của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, một trong các lý thuyết gia hàng đầu về văn hóa của Cộng Sản Bắc Việt.

Sinh ra trong một gia đình Nho Giáo nên từ nhỏ, thầy Khắc Dương không mấy thiện cảm với Đạo Kitô giáo, thậm chí là khinh thường Kitô giáo. Tuy nhiên, nhờ được học trong trường Thiên Hựu ở Huế, thầy đã có cơ hội tìm hiểu về Đạo và lãnh nhận bí tích Rửa tội ngày 9 tháng giêng năm 1949, tại nhà thờ Nghĩa Yên.

Việc trở thành người Kitô hữu của thầy Khắc Dương, đã gặp sự chống đối rất lớn từ gia đình và dòng họ, nhất là mẹ của thầy. Bà mẹ chất vấn thầy rằng: “Ông bà tổ tiên của mày có tội gì, mà mày phải cúi đầu cho người ta rửa tội nguyên tổ? , Tội của mày là tội bất hiếu, tội này có cạo hết tóc trên đầu cũng không sạch được, vậy chỉ một chút nước trên đầu thì sao mà rửa sạch được chứ”.

Lý giải về việc “bỏ” gia đình để theo Đạo, thầy Khắc Dương có lần chia sẻ rằng: Nho Giáo là một tôn giáo dành cho người tri thức, sống thanh cao và sống “trên” người khác; không dành cho người bình dân. Phật Giáo thì quan niệm rằng Đời Là Bể Khổ, nên phải tránh Đời, tự bản thân tìm sự giải thoát cho riêng mình. Còn Kitô giáo thì ngược lại, Chúa Giêsu vốn là Con Thiên Chúa nhưng đã bước vào đời, sống như một người nghèo, chia sẻ thân phận làm người của con người, vui niềm vui của con người, đau nỗi đau của phận người và yêu con người một cách say đắm đến nỗi sẵn sàng chết vì yêu con người… Đây là một tôn giáo gần với con người, gắn liền với con người, là đạo của tình yêu…

Một vài nét như thế, để ta hiểu hơn về con người của Cụ Già này, và để hiểu vì sao khi gặp Cụ, các Đức Giám Mục đã bước tới, cúi mình xuống và thăm hỏi chuyện trò.

FB: Hoa Trên Ngàn

CHA STEFAN GẶP MA và CUỘC DÕI TÌM TIỂU SỬ NGƯỜI KHUẤT MẶT

LM Stefan Starzynski, gp Arlington tiểu bang Virginia.

Một đêm nọ, tôi đang nằm ngủ trên giường trong phòng riêng, tôi còn đang ở trạng thái mơ mơ màng màng, nửa thức nửa ngủ. Rồi tôi nhìn qua phía phải của mình, tôi thấy một người đàn ông, thân thể không có vẻ như của người, không có da thịt thể lý rõ ràng như của chúng ta. Tuy thế, người đó là đàn ông, đầu hói, khuôn mặt gầy gò, ông mặc áo chùng của linh mục với hàng nút áo dài đến cuối hàng. Trông ngài giống như một linh mục đã sống cách nay một trăm năm vậy và khá hiền từ không có gì đáng sợ cả. Thế rồi, tôi chìm vào giấc ngủ sau đó.

Đến sáng hôm sau, thức dậy đi điểm tâm, trong phòng ăn, tôi nói với Mẹ mình, tôi đã thấy có một con ma trong phòng ngủ. Tôi tả hình dáng Ma từ ký ức của mình, hình ảnh rất rõ ràng của Ngài, như trên giấy trắng mực đen vậy, cho dù chỉ được gặp Ma trong một khoảnh khắc ngắn. Tôi nhớ tỏ tường cung cách nhân từ của Ngài, chỉ tiếc một điều, tôi không biết Ngài là ai!

Thấm thoát hai năm qua, tôi vẫn không biết người đàn ông Ma đó là ai cả, cho đến một ngày nọ, có một người quen đi lễ ở Vương Cung Thánh Đường, đền Đức Mẹ Vinh Thắng ở Lackawana, Nữu Ước.

Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Vinh Thắng do Cha Baker tổ chức xây cất năm 1921

Khi bà quen về nhà, bà mang theo một ảnh và đưa khoe, bà cho tôi xem một ảnh của Cha Nelson Baker, tôi nhận ra Ngài ngay lập tức, Cha Baker rất thánh thiện và là ân nhân tận tụy của vô số người nghèo, cô nhi, quả phụ. Cơ sở từ thiện của Ngài đã đón nhận rất nhiều em trai tứ chiếng, bụi đời và em gái có chửa, chính Ngài là người đàn ông Ma đã hiện ra với tôi.

Bài toán Ma, tôi đã giải được câu đầu rồi, còn câu hỏi thứ hai quan trọng hơn nhiều, Ngài muốn tôi làm gì, tôi thầm thì, Ngài định trăn trối cho con một hoài bão gì đây? Khi đi tìm con, Ngài có nhìn sai người không vậy? Tôi nhớ lại hồi đó, khi còn là một đứa trẻ nhỏ, trong một lần nói chuyện với cô tôi khi bà về thăm chúng tôi tại nhà, Cô là một nữ tu, Sơ mục vụ ở thành phố Buffalo, tôi được nghe Sơ kể về Cha Baker, rồi sơ chỉ tay về hướng driveway ở phía cuối đường xe đi, nơi có một căn nhà, “đó chính là nhà của Cha Baker.” Cho tới giờ phút đó, căn nhà là điều duy nhất tôi được biết về đời tư của Cha Baker!

Tôi tiếp tục tìm hiểu về Cha Baker, theo Thời Báo Buffalo, trong thời gian mục vụ, cộng đoàn phục vụ của Ngài đã nuôi người nghèo, họ đã cung cấp tới 50 triệu bữa ăn.

Trong giai đoạn đại khủng hoảng kinh tế (1930) Ngài và các thành viên phục vụ đã trao tặng hơn một triệu bữa ăn một năm, cung cấp quần áo ấm cho nửa triệu người.

Cơ quan từ thiện của Ngài chăm sóc y tế cho 250 ngàn người, cộng thêm việc cung cấp thuốc men cho 200 ngàn người nữa.

Có trên 300 ngàn người từ đàn ông, đàn bà, đến thanh niên, trẻ em đã được huấn luyện nghề nghiệp ở một chừng mực nào đó thông qua các cơ sở thiện nguyện của Ngài. Có 100 ngàn các em trai được huấn luyện tay nghề kỹ thuật chuyên môn.

Nhà cho Mẹ đơn thân và em bé sơ sinh, ảnh trích từ Wikipedia

600 các em gái chửa hoang trong cơn tuyệt vọng, đau khổ đã đến gõ cửa cơ quan của Cha Baker và được cứu vớt. 6000 trẻ sơ sinh bị vứt bỏ được cứu và có một mái nhà nương thân tại cơ sở từ thiện của Ngài.

Thể rồi Ngài mất vào năm 1936, đường phố Lackawanna bỗng dưng tràn ngập người là người, họ cùng nhau đi tham dự đám tang của Cha Baker, tạo nên một đám đông gần nửa triệu người.

Càng tìm hiểu về Ngài bao nhiêu, tôi càng say mê đời sống và công việc quá vị tha của Cha, thứ công việc tàm lam chả ai muốn dấy vào nhưng lại được Chúa ban ơn một cách nhiệm mầu. Vì yêu người cùng khổ, Cha nhìn ra nhu cầu to lớn quá mức của xã hội, nhất là các trẻ nam bụi đời, các trẻ gái chửa ngoài hôn nhân (vốn là điều bị khinh bỉ và cấm kỵ, bị ruồng bỏ vào thời đó). Chúa đã dùng một người để ảnh hưởng, tạo nên sự biến đổi tốt đẹp cho biết bao nhiêu cuộc đời, hàng triệu, triệu người.

Thật là một con người vĩ đại, sau khi tìm hiểu về lai lịch của Cha Baker. Tôi cảm thấy một sự thúc đẩy, tôi cần phải đến Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Vinh Thắng, nơi có hầm mộ của Ngài để tĩnh tâm vì Cha Baker đang kêu gọi tôi, dường như Ngài muốn tôi tiếp nối công việc của Ngài.

Tôi đã cầu nguyện trước mộ Cha Baker trong tám tiếng đồng thời tôi được chứng kiến đức tin tốt đẹp của những người đến viếng mộ (Cha Baker chưa được tôn phong chân phước, hay hiển thánh). Trong khi cầu nguyện, tôi nài xin Cha Thánh cho tôi một dấu chỉ, đó là được sở hữu các thánh tính của Cha và… Ngài nhận lời tôi xin. Ngay sau đó, tôi tình cờ gặp một bà cụ, là thợ may ngày xưa của Cha, bà còn giữ được nguyên một bộ áo chùng linh mục của Cha Baker. Bà liền lộng kiếng 7 mảnh nhỏ vải và đem tặng cho tôi.

Rời Vương Cung Thánh Đường, tôi đến phi trường Buffalo để bay về nhà, ngày 6, tháng 6, năm 2008. Trong lúc nhàn rỗi, chờ chuyến bay, tôi lân la chuyện trò với người ngồi bên cạnh, bà ta tên là Debbie, một ca sĩ chuyên nghiệp vừa kết thúc cuộc lưu diễn, sô diễn ở Toronto, Gia Nã Đại. Không may là bà bị một thể ung thư lạ và được bác sĩ cho biết rằng bà chỉ còn vài tháng nữa để sống mà thôi. Ông chồng liền khuyến khích bà hãy làm tất cả những gì mình muốn trước khi từ giả cõi đời. Còn đang tràn đầy thần khí, tôi kể lại cho bà Debbie về chuyến đi của mình, cuộc thăm viếng mộ và di ảnh của Cha Baker. Rồi tôi đặt tay cầu nguyện cho bà ta nhờ Cha Baker dâng lên lời chuyển cầu của Ngài trước Chúa. Sau đó, chúng tôi ra đi. Tôi chả còn nghĩ ngợi nhiều về cuộc gặp gỡ ở phi trường, rồi ngày nọ, một giáo dân đến báo cho tôi biết rằng Người Đàn Bà mà tôi cầu nguyện cho ở phi trường đã được ơn chữa lành. Hai ngày sau, Debbie điện thoại cho tôi, bà cho biết căn bệnh ung thư, Metastasis melanoma (Ung thư hắc tố đã di căn), giai đoạn 4 (giai đoạn sau cùng của bệnh) coi như đã bị phán quyết tử hình rồi. Loại Ung thư này hung hiểm, nó đứng thứ hai về mức độ hung hiểm, chỉ sau bệnh ung thư tuyến tụy. Tôi liền nhờ bà thu thập dữ liệu y khoa để góp vào hồ sơ phong thánh cho Cha Baker.

Ngày nay Cha Stefan tiếp tục phục vụ trong cơ sở thiện nguyện có tên là “Paul Stefan Homes”, cơ sở chuyên phò sự sống, cứu vớt Mẹ bầu, Thai Nhi.

Cha là thành viên tích cực của ủy ban phò sự sống của Giáo Phận Virginia.

Một số hình ảnh của Mẹ đơn thân và con sơ sinh

Bà Evenly, người đồng sáng lập cơ sở “Paul Stefan Homes” nói, “Lòng tận tụy và đức tin của Cha Stefan Starzynski đã ảnh hưởng đến cách chúng ta sống cuộc sống của mình ngày nay. Sau sáu năm kể từ khi mở cửa cho Paul Stefan Homes, hơn 150 phụ nữ và trẻ sơ sinh đã có cơ hội cải thiện cuộc sống của họ. Chúng tôi kết hợp những lời cầu nguyện của chúng tôi với Cha Stefan, hy vọng rằng chúng ta sẽ chấm dứt nạn phá thai và chúng ta tiếp tục hỗ trợ phụ nữ một cách yêu thương bằng cách thiết lập những mái ấm khác ở mọi khu vực trên khắp đất nước (Hoa Kỳ).”

Cha Stefan còn có một nhiệm vụ quan trọng khác, lo giờ sau hết cho toàn thể bệnh nhân của nhà thương Inova Fairfax, tiểu bang Virginia. Trong đợt dịch Covid vừa qua, Cha được đặc quyền đi vào tất cả các phòng bệnh, (lạ quá Bác Sĩ cũng tin Cha được đặc ân miễn nhiễm khỏi Virus hay sao?)

Quả thực, Cha không hề bị Covid vật ngã, hơn thế nữa, Virus COVID không hề có chút ảnh hưởng nào trên thể lý của Cha ít nhất là cho tới ngày tháng này, 03/2023.

Bệnh nhân Covid được Cha lần chuỗi Lòng Thương Xót và cảm thấy được sự an ủi vô bờ bến vì vào cao điểm của COVID Cha là người duy nhất mà họ được gặp mặt trong tình trạng cô lập với thế giới bên ngoài. Đó là chưa kể lời cầu nguyện của Cha thường mang lại ơn chữa lành cho mọi bệnh nhân bất kể họ đang bị bệnh nan y gì. Lời cầu nguyện linh ứng của một Linh Mục tốt lành.

Phan Sinh Trần lược dịch

Linh mục bị bướu ở não được Đức Mẹ Lộ Đức chữa lành


Thông tấn xã Công Giáo Viêtcatholic

Linh mục bị khối u não cho biết ngài đã được chữa lành khi đến thăm Lộ Đức. Việc chữa lành diễn ra tức khắc, hoàn toàn không còn dấu vết bệnh tật, và không thể giải thích được về mặt y khoa.

Hãy ngợi khen Chúa vì sự tốt lành của Ngài!

Cha John Hollowell thuộc Tổng giáo phận Indianapolis đã thông báo vào ngày 30 Tháng Giêng rằng ngài đã được chữa khỏi bệnh u não khi đến thăm Lộ Đức, bên Pháp. Việc chữa lành cho ngài diễn ra tức khắc, hoàn toàn không còn dấu vết bệnh tật, và các bác sĩ nói họ không thể giải thích được về mặt y khoa.

Cha sở của Nhà thờ Công Giáo Truyền tin ở quận Brazil, của tiểu bang Indiana lần đầu tiên được chẩn đoán mắc bệnh u não vào đầu năm 2020. Ngài quyết định dâng tất cả những đau khổ của mình cho các nạn nhân bị giáo sĩ lạm dụng.

Trong thông báo video trên YouTube, Cha Hollowell cung cấp một lịch sử ngắn gọn và sự quan phòng của Chúa trong việc chẩn đoán và chữa lành của ngài.

Ngài đã nhận được chẩn đoán mắc khối u não vào ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức, 11 tháng 2 năm 2020 tại bệnh viện Mayo.

“Tôi phát hiện ra mình có một khối u não tại bệnh viện Mayo vào ngày 11 tháng 2, lễ Đức Mẹ Lộ Đức. Đêm đó, tôi đã thực sự có Thánh lễ trong Nhà nguyện Đức Mẹ Lộ Đức của bệnh viện này.”

Sau đó, cha Hollowell giải thích lịch sử của bệnh viện Mayo, bắt đầu sau tầm nhìn siêu nhiên của một nữ tu viện trưởng dòng Phanxicô.

“Viện trưởng đã nhìn thấy một bệnh viện và Chúa Giêsu bảo bà ấy đi vào thị trấn và tìm bác sĩ Mayo. Vì vậy, cô ấy đã làm, và đó là cách bệnh viện Mayo bắt đầu,” vị linh mục nói. “Các nữ tu là những y tá đầu tiên của bệnh viện. Bệnh viện Mayo thực sự được kết nối, và trong cùng tòa nhà với nhà nguyện Đức Mẹ Lộ Đức.”

Kể từ đó, vị linh mục đã trải qua phẫu thuật và điều trị, nhưng không lâu trước khi lên đường đến Lộ Đức, khối u của ngài tái phát. Tuy nhiên, ngài nói rằng ngài hài lòng với cái chết nếu Chúa muốn.

Ngài nói: “Kết quả chụp MRI cho thấy nó đang phát triển trở lại. Trên thực tế, chụp MRI cũng tìm thấy một khối u trên tuyến yên của tôi. Tôi không sao nếu tôi chết…Tôi sẵn sàng hy sinh cho những nạn nhân bị giáo sĩ Công Giáo ngược đãi”.

“Nhưng tôi nghĩ, nếu tôi đến Lộ Đức và tôi được chữa lành ở đó, thì điều đó có thể ảnh hưởng đến một số gia đình và bạn bè đã lìa xa Giáo Hội Công Giáo. Vì vậy, tôi đã đến đó và tôi đã được chữa lành,” ngài nói.

“Tạ ơn Chúa,” vị linh mục vui mừng. “Tôi rất phấn khích – dù thế nào thì tôi cũng rất vui, nhưng một lần nữa, tôi đã đến Lộ Đức và được chữa lành.”

Nhiều người dùng mạng xã hội đã vui mừng sau khi biết tin.

Nữ tu Veronica Paul đã viết: “Thật là một câu chuyện vinh quang tuyệt vời! Lạy Đức Mẹ Lộ Đức, xin cầu cho chúng con. Thánh Bernadette, xin cầu cho chúng con.”

Một người dùng mạng xã hội khác nói: “Ngợi khen Chúa, Thiên Chúa của chúng con! Cha Hollowell đã nằm trong danh sách cầu nguyện của tôi kể từ khi được chẩn đoán vì ngài là một linh mục nổi tiếng thánh thiện và đây là Tin Vinh Quang!!! Tạ ơn Chúa!!! Xin Chúa tiếp tục chúc lành cho Cha Hollowell, khi cha ấy phục vụ Chúa Giêsu và chúng ta hàng ngày!

“Tôi nhớ đến cha ấy! Thật là một ân sủng đẹp đẽ mà ngài đã nhận được. Ngài đúng là một linh mục thánh thiện.”

Người dùng Twitter Karolina Beccue cũng cho biết: “Thật là một tin tức quá hay! Tôi rất mừng cho ngài! Vâng, Đức Mẹ thật tuyệt vời…”

Lạy Đức Mẹ Lộ Đức, xin cầu cho chúng con!

Source:ChurchPOPPriest With Brain Tumor Says He Was Healed While Visiting Lourdes: “I’m Very Excited”

Tổng Bí thư đầu tiên của đảng Cộng Sản Việt Nam đã được rửa tội tại bệnh viện Chợ Quán

Phan Sinh Trần

Nguồn WikipediaVăn thơ Lạc ViệtThôn Quê Sài Gòn TVReuters

Tháng 3 năm 1931, với bí danh Anh Năm, Trần Phú chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 2 tại Sài Gòn bàn việc chấn chỉnh Đảng sau đợt khủng bố của thực dân Pháp. Hội nghị đã vạch ra nghị quyết về nhiệm vụ hiện tại của Đảng, nghị quyết về tổ chức của Đảng, nghị quyết về cổ động tuyên truyền. Tại hội nghị này, một quyết định về “Tổ chức ra cộng sản thanh niên Đoàn…tiền đề để hình thành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh về sau này.

Ngay sau Hội nghị, do sự phản bội của Ngô Đức Trì, ngày 19 tháng 4 năm 1931, Trần Phú bị chính quyền thuộc địa Pháp bắt tại nhà số 66 đường Champagne (đường Lý Chính Thắng hiện nay), Sài Gòn.

Biết ông là cán bộ cao cấp, chính quyền tìm cách dụ dỗ và tra tấn để khai thác thông tin. Nhưng với chí khí kiên cường, ông không bị khuất phục, dù bị đày ải nhiều lần. Ngày 6 tháng 9 năm 1931, ông qua đời tại Nhà thương Chợ Quán ở tuổi 27 với lời nhắn nhủ bạn bè “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”.

Sau khi ông qua đời, người thân ông vào Sài Gòn, tìm cách đưa thi hài ông ra chôn cất tại khuôn viên nghĩa trang Nhà thờ Họ đạo Chợ Quán Sài Gòn (tại cư xá Bắc Hải, đường Cách Mạng Tháng Tám, quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh).

Năm 1998, chính quyền TP. HCM có chủ trương di dời các nghĩa trang của các xứ đạo tại cư xá Bắc Hải trên đường CMT8, Q.10 (mỗi xứ đạo có nghĩa trang riêng tại đây). Nghĩa trang các xứ đạo được gọi là Đất Thánh và chôn cất người Công giáo. Trong số những nghĩa trang bị di dời có nghĩa trang của họ đạo Chợ Quán.

Hội đồng giáo xứ (HĐGX) họ đạo Chợ Quán thông báo cho các thân nhân tự di dời hài cốt người thân của mình. Những ngôi mộ không có thân nhân thì HĐGX lo việc cất bốc và mai táng.

Trong quá trình cất bốc các ngôi mộ không có thân nhân, đã phát hiện một ngôi mộ trên tấm bia có ghi Phêrô Trần Phú. HĐGX báo cáo cho chính quyền sự việc trên. Chính quyền đã làm xét nghiệm ADN, và xác định bộ hài cốt này là của Trần Phú, vị TBT đầu tiên của ĐCSVN. Sau đó Trung ương Đảng, UBND TP.HCM, Chính quyền tỉnh Hà Tĩnh đã tổ chức đưa rước hài cốt ông về an táng tại quê nhà: Xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

Khoảng đầu tháng 12 năm 1998, báo Sài Gòn Giải Phóng (Cơ quan ngôn luận của Đảng bộ TP. HCM) có bài đăng trên trang nhất với tựa đề: “Tại sao Đồng chí Trần Phú lại được an táng tại nghĩa trang họ đạo Chợ Quán?”

Sau khi báo loan tin khiến độc giả nhiều người thắc mắc, nhưng rồi cũng rơi vào im lặng vì không ai có câu trả lời.

Vào năm 2018, một chuyện tình cờ xảy ra: Một cụ già là lão thành cách mạng ở Trà Vinh, tình cờ phát hiện bài báo nói trên được dùng để gói thuốc bắc. Ông liền tò mò đọc và phát hiện ra sự việc. Ông là người từng hoạt động và từng bị giam cầm cùng nơi với Trần Phú bị giam trước đây. Do bị địch hành hạ dã man nên ông được chuyển tới bệnh viện gần đó và được các sơ Công giáo chăm sóc tận tình cùng với những người khác. Hàng ngày các sơ chăm sóc, kể chuyện đạo cho Trần Phú và các chiến sĩ khác và ông thấy lòng mình được bình yên nơi chúa Giê-su và ông quyết định theo đạo cùng các đồng chí khác và được an táng tại bệnh viện Chợ Quán.

Vào ngày 03/7/2018, ông viết thư kể lại toàn bộ sự việc và gửi Cha sở họ đạo Chợ Quán, là Linh mục Phanxicô Lê Văn Nhạc.

Linh mục Phanxicô Lê Văn Nhạc đã kiểm tra hồ sơ lưu trữ của giáo xứ Chợ Quán giai đoạn 1930-1940, và phát hiện trong sổ rửa tội năm 1931 có ghi tân tòng Phêrô Trần Phú; Sau đó ông sao chụp hồ sơ lưu sổ rửa tội, bài báo đăng trên SGGP và bức thư của vị lão thành cách mạng Trà Vinh, gửi ba nơi. Một gửi cho chính quyền thành phố Hồ Chí Minh, một gửi lên Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn, một lưu tại giáo xứ. Sau đó có người (là cán bộ an ninh) đến nói với linh mục Lê Văn Nhạc rằng không được tiết lộ thông tin này.

Hiện tài liệu của đảng chỉ viết: “Ngày 6 tháng 9 năm 1931, ông qua đời tại Nhà thương Chợ Quán” mà thôi.

Ngày 4 tháng 1 năm 1999, phần mộ được cho rằng của ông đã được phát hiện. Ngày 12 tháng 1 năm 1999, hài cốt của Trần Phú được di dời về an táng tại quê hương Đức Thọ, Hà Tĩnh.

Hiện nay tại bệnh viện Nhiệt Đới (nhà thương Chợ Quán cũ) số 764 Võ Văn Kiệt, P.1, Q.5; bước vào cổng phía tay trái có một công viên nhỏ và tượng đài Đức Mẹ nay vẫn còn lưu giữ, là nơi các dì phước thời xưa mỗi buổi chiều đến thăm nom, chăm sóc bệnh nhân và đưa Mình Thánh cho các bệnh nhân có đạo được rước Chúa. Vào các chiều thứ bảy, các dì tổ chức dạy Giáo lý và có các Cha đến giải tội.


Ông Trần Phú là một trong những bệnh nhân được cảm hóa, tin Chúa và cảm mến Chúa để được rửa tội tại đây. Đi vào hành lang bên tay phải, nhà cầm quyền cho dựng lại “một chuồng cọp” nói là nơi giam giữ ông Trần Phú lúc được đem đến đây chữa bệnh. Người ta cũng dựng lên một bức tượng của ông tại đó.


Một nữ y tá làm việc lâu năm tại nơi này cho biết: “Cái nhà đá nói là nơi giam giữ ông Trần Phú là chuyện tưởng tượng. Bởi thời đó Bệnh viện là bệnh viện, và nếu là phạm nhân thì họ chỉ cần còng tay vào giường và có người canh gác là đủ”.

Riêng Cha sở Lê Văn Nhạc nay đã 80 tuổi. Ngài đang nghỉ hưu tại GX Hạnh Thông Tây, Gò Vấp”.

Cần biết, một người trưởng thành xin rửa tội vào đạo Công Giáo thủ tục còn khó hơn đứa trẻ sơ sinh. Giáo hội đòi hỏi người tân tòng phải học đạo, có người “đỡ đầu”, và trí óc còn minh mẫn (nếu là bệnh nhân).

Câu chuyện trên, chắc chắn không được nhà cầm quyền CSVN công nhận, bởi Lm Lê Văn Nhạc cho biết, ngài từng được Cán bộ CS đến hỏi thăm khi nhận được “hồ sơ” về việc rửa tội xin vào đạo Công Giáo của ông Trần Phú, và yêu cầu ngài không phổ biến tin tức này.

Và nếu phải nói về việc “ngoài dự kiến” không hay ấy, các văn nô viết lịch sử Đảng cũng sẽ nói “bọn thực dân và tay sai” đã ép buộc Đ/c Trần Phú vào đạo, để phá bỏ hình ảnh “vô thần” của Tổng Bí Thư.

Cho đến nay CSVN đã có 12 người làm TBT, nhưng rất nhiều ông khi chết đã bị hé lộ chuyện vẫn tin tưởng có thế giới bên kia, chứ không “vô thần” như lúc tuyên thệ vào Đảng. Ông HCM cũng nói khi chết sẽ đi gặp Các Mác và Lê Nin. Ông Lê Khả Phiêu trong nhà có bàn thờ Phật to tướng, và khi hạ huyệt có nhiều sư tụng kinh gõ mõ..v.v.

Chi tiết câu chuyện Trần Phú theo đạo còn được Thôn Quê Sài Gòn TV kể rõ ở đây:

https://youtu.be/wTm1ScGfJa0?t=638

Không phải chỉ có Trần Phú tin vào linh hồn bất tử, còn phải kể đến ông trùm cộng sản Fidel Castro, tổng bí thư đảng Cộng Sản Cuba,

Theo các bà vợ cũ và nạn nhân của Fidel kể lại, ông là một người chồng vũ phu và bệnh hoạn, đã từng cưỡng hiếp nhiều trẻ nhỏ từ 12 tới 17 tuổi, giao cấu với các tử tù nữ do cơ quan an ninh đưa nạp mỗi đêm, cho phép hút hết máu của tử tù trước giờ hành quyết để xuất khẩu lấy ngoại tệ giá 50 đô la một bịch máu.

Chính vợ và một số con gái phải chạy trốn vượt biên và đang sống ở Tây Ban Nha và Hoa Kỳ. Con trai lớn nhất của ông,  Castro Diaz-Balart một nhà khoa học, 68 tuổi,  đã tự sát năm 2017 vì bị trầm cảm nặng.

Cho đến nay, Cơ quan Lưu trữ ghi nhận khoảng 10.723 cái chết do chế độ Castro thực hiện. Bao gồm gần 1.000 trường hợp tử vong liên quan đến “mất tích”, hơn 2.000 vụ giết người không xét xử và hơn 3.100 người bị xử bắn. Khoảng 100 trẻ vị thành niên đã bị chế độ sát hại bằng cách đánh đập cho đến chết, không cho chăm sóc y tế và cấp dưỡng. Ngoài những vụ giết người này, ước tính có khoảng 78.000 người đã chết khi cố gắng chạy trốn khỏi đất nước.

Theo tờ Washington Thời Báo, trong những bức thư từ nhà tù của cựu chủ tịch Cuba Fidel Castro lúc còn là một thanh niên trẻ, khi chưa cướp được chính quyền ông từng tỏ ra “là một người có chiều sâu tâm linh khác thường – và là một người tin tưởng nhiệt thành vào Chúa”. Ông viết cho cha của một đồng chí đã ngã xuống, như sau:

– Tôi sẽ không nói về anh ấy như thể anh ấy vắng mặt, anh ấy đã không có mặt và sẽ không bao giờ có mặt. Đây không chỉ là những lời an ủi. Chỉ những ai trong chúng ta, những người cảm nhận nó một cách thực sự và vĩnh viễn trong sâu thẳm tâm hồn mình mới có thể hiểu được điều này. Cuộc sống vật chất là phù du, nó trôi qua không thể tránh khỏi… Sự thật này nên được dạy cho mọi người – rằng những giá trị bất tử của tinh thần ở trên cuộc sống vật chất. Cuộc sống có ý nghĩa gì nếu không có những giá trị này? Thế thì sống để làm gì? Những người hiểu điều này và hào phóng hy sinh mạng sống thể xác của mình vì lợi ích và công lý – làm sao họ có thể chết được? Thượng đế là ý niệm tối cao về sự tốt lành và công bằng.

Trong cuốn tự truyện viết năm 2009 của mình, Castro nói rằng Kitô giáo thể hiện “một nhóm giới luật rất nhân đạo” mang lại cho thế giới “các giá trị đạo đức” và “ý thức về công bằng xã hội”, sau đó ông kết luận một cách rõ ràng, “Nếu mọi người gọi tôi là Kitô hữu, không phải từ cách nhìn tôn giáo, nhưng từ quan điểm xã hội, tôi tuyên bố rằng tôi là một Kitô hữu.” Có tin đồn rằng Fidel đã trở lại đạo trước khi chết.

Lời Bàn:

– Chúa yêu thương mọi người và có thể cứu độ bất cứ tội nhân nào kể cả người Cộng Sản miễn là họ biết từ bỏ tội lỗi và sám hối quay về với tình thương của Chúa. Họ sẽ phải trả lẽ công bằng cho các nạn nhân khiếu nại với Chúa, tuy nhiên sau thời gian ở luyện hình, linh hồn họ cũng sẽ được cứu vớt.

Phan Sinh Trần

Tổng Bí Thư Trần Phú được rửa tội tại giáo xứ Chợ Quán trước khi qua đời

VỊ LINH MỤC VIỆT NAM RẤT ĐẶC BIỆT VÌ CÓ CHA THUỘC ĐẠO CAO ĐÀI VÀ CÓ MẸ THUỘC ĐẠO PHẬT

Nguyễn Văn Hùng

Nhất gia tam Đạo. Tam nhân tam Tôn. Gia đình liên Tôn. Một gia đình ba Tôn giáo. Ba thành viên trong cùng một gia đình lại thuộc ba Tôn giáo khác nhau.

Chuyện lạ không tưởng này đã xảy ra trong gia đình cha Phêrô Giuse Maria HÀ THIÊN TRÚC, đương kim Chánh xứ Martinô và nguyên là Phó xứ Hàng Xanh thuộc Tổng Giáo phận Sài Gòn.

Quả vậy, cha Trúc đã xuất thân trong một gia đình có thân phụ là một tín đồ thuộc Đạo Cao Đài và thân mẫu thuộc Đạo Phật.

Ngài nguyên là một bác sĩ y khoa có tâm và kiêm là một ca sĩ hát rất chân tình.

Cha ngài vì muốn con trai trưởng thành về tâm linh và vững mạnh về kiến thức nên đã đặt tên ngài là Thiên Trúc, tên cũ của Ấn Độ, một quốc gia Phật Giáo.

Cả ông cố và bà cố đều tôn trọng niềm tin của nhau, cùng sùng Đạo của riêng mình và đã tôn trọng sự chọn lựa tâm linh của các con, nên đã vui vẻ chấp nhận cho con trai mình là Hà Thiên Trúc được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội để gia nhập Giáo Hội Công Giáo.

Chính Chúa Giêsu đã phán: “Cây tốt thì sinh trái tốt. Xem quả thì biết cây” (Lc 6, 43-44). Ông bà cố bố mẹ cha Trúc quả thật rất tốt lành. Hiện nay cả hai ông bà cố đều đã an nghỉ. Lễ tang của ông bà cố đã được cử hành theo nghi thức của riêng Đạo mình.

Cha Trúc đã từng sống bên những người Công giáo đạo đức thánh thiện, đã được nghe biết về Chúa Giêsu cách sâu xa ấn tượng thuyết phục.

Chính vì thế mà cha Trúc đã gia nhập Đạo Công giáo vào năm 19 tuổi với sự chấp thuận, tôn trọng và ủng hộ rất vô tư của cả cha lẫn mẹ.

Ngài được Rửa tội ở Giáo xứ Tân Định, Sài Gòn năm 1989 và được gia nhập vào Giáo xứ này.

Không dừng lại ở đó, cha còn say mê Đạo Công giáo đến nỗi đã muốn trở thành một Linh mục để phục vụ nhằm đem ơn cứu độ cho nhân thế.

Cha đã được cha sở Gioan Baotixita Võ Văn Ánh giới thiệu vào Đại Chủng viện dưới sự dìu dắt tận tình vô tư trước đó của cha nghĩa phụ Giuse Maria Đỗ Duy Lạn.

Chính cha Lạn đã khuyến khích, đã nâng đỡ, đã hướng dẫn bác sĩ Hà Thiên Trúc trong những bước đầu của ơn gọi linh mục.

Và cuối cùng, sau 20 năm liên lỷ tận tụy theo Chúa, cha đã được truyền chức Linh mục vào ngày 19.06.2009. Năm nay 2021, cha vừa tròn 12 năm được làm Linh mục.

Vậy là cha Trúc tuy đang có một tương lai xán lạn, cũng đang phục vụ, mang lại an ủi cho nhiều bệnh nhân, nhưng đã chọn đi tu trở thành linh mục, và có lẽ đã làm nhiều người thắc mắc, khó hiểu.

Vậy là bác sĩ Trúc từ việc chữa lành thể xác con người cách chóng qua lại trở nên “bác sĩ” chữa lành tâm linh con người cách Vĩnh cửu.

Vậy là cha Trúc từ là người không hiểu gì về Đạo Công giáo đã trở thành thầy dạy sâu sắc về Đức tin Công giáo.

Khẩu hiệu đời linh mục mà cha đã chọn lại chính là những câu ca ngợi Thiên Chúa của Đức Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa” (Lc 1,46).

Sở dĩ cha Trúc có đến 3 tên Thánh vì cha rất yêu thích Thánh Phêrô, rất sùng kính Đức Mẹ và tri ân cha nghĩa phụ Giuse Maria Đỗ Duy Lạn nên đã chọn tên Thánh Giuse để tưởng nhớ cha cố.

Cha đã thành tâm thiện chí tìm hiểu Đạo Công giáo nên đã khiến cha hết sức thán phục và quyết định gia nhập Đạo.

Hiện nay cha Trúc còn là thành viên tích cực của ủy ban đối thoại liên Tôn thuộc Tổng Giáo phận Sài Gòn và là phó Linh giám hội Legio Mariae Việt Nam.

Cha Trúc khi còn là một Chủng sinh đã từng chân thành tâm sự như sau:

“Ba con rất sùng đạo Cao Đài, ăn chay trường, đạo đức, có ước muốn con cái giúp ích cho đời (như: đặt tên chị con là “Thanh Tuyền” với ước mong phục vụ vô vị lợi cho đời như “dòng suối trong” chảy hoài không ngưng nghỉ, và hiện chị con là bác sĩ đang giúp ích rất nhiều cho các bệnh nhân và cho xã hội trong lãnh vực ngoại thần kinh và chẩn đoán hình ảnh).

“Và ba con cũng đã giác ngộ trên đường Đạo nên có ước mong các con cái sẽ được thăng tiến trong đời sống tâm linh (như đặt tên con là “Thiên Trúc”, tên cũ của Nước Ấn Độ – cái nôi của Phật giáo).

“Má con cũng là người sùng đạo Phật, đã dẫn các con cái quy y Phật. Má cũng thường đi học và nghe thuyết pháp về Phật giáo vào các chiều chủ nhật hàng tuần ở chùa Xá Lợi. Bản thân con cũng được má con dẫn quy y Phật vào năm học lớp 6, pháp danh “Thiện Tuấn”.

“Ba má con rất quan tâm, chăm sóc, giáo dục nhiều cho các con cái về tri thức và đạo đức.”

Cha Trúc chính là chứng nhân cho câu nói của Thánh Phê-rô: “Quả thật, tôi nghiệm biết rằng Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận!” (Cv 10, 34-35).

Hồng ân Chúa vẫn ngày ngày tuôn đổ như nắng như mưa xuống trần gian không phân biệt.

Bất cứ ai thành tâm thiện chí mở rộng tâm hồn, thì sẽ được đón nhận dồi dào ơn Chúa.

Chúng ta cùng nhau thành tâm cúi đầu tạ ơn Chúa, ngợi khen Chúa, chúc mừng cha Thiên Trúc, cám ơn sự thiện chí của cha, cám ơn sự quảng đại của ông bà cố, rồi cầu cho cha, cho ông bà cố và tất cả chúng ta ngày càng gần trái tim Chúa hơn.

Ước được như vậy. Amen.

Giuse Thanh Bình

(Bài viết có tham khảo một số nguồn tin).

Hơn 10 ngàn người tham dự Thánh lễ an táng thầy Biagio Conte, Phanxicô Assi thời nay

18/01/2023

Thầy Biagio Conte 

Ngọc Yến – Vatican News

Vatican News (18.01.2023) – Sáng thứ Ba 17/01/2023, hơn 10 ngàn người tham dự Thánh lễ an táng thầy Biagio Conte, một thừa sai giáo dân tông đồ bác ái, được gọi là Phanxicô Assisi thời nay, vì đã từ bỏ mọi sự, cho đi tất cả những gì mình có, sống như một ẩn sĩ và người hành hương, bắt đầu tìm kiếm tự do và an bình đích thực và theo gương thánh Phanxicô Assisi.

Biagio Conte sinh năm 1963 trong một gia đình giàu có ở Palermo. Năm 16 tuổi Biagio bắt đầu làm việc tại một công ty xây dựng do gia đình làm chủ. Anh sống thoải mái và vô tư trong một xã hội tiêu thụ. Nhưng rồi anh cảm thấy khó chịu, bất an trước những bất công xã hội mà anh chứng kiến hằng ngày, sự trống rỗng trong cuộc sống, sự vắng bóng các giá trị.

Thầy Biagio giữa mọi người

Năm 26 tuổi, anh từ bỏ mọi sự, sống như một ẩn sĩ và người hành hương, bắt đầu tìm kiếm tự do và an bình đích thực và theo gương thánh Phanxicô Assisi. Anh cho đi tất cả những gì mình có. Lúc đầu muốn đi truyền giáo ở châu Phi, nhưng khi ghé qua Palermo để chào người thân, Biagio thấy hoàn cảnh nghèo khó của người dân trong thành phố, nên quyết định ở lại, và vào năm 1993 thầy thiết lập trung tâm “Hy vọng và Bác ái”, trợ giúp và đón tiếp hơn 600 người vô gia cư và di dân trong hàng chục nhà. Ngày 15/9/2018, khi viếng thăm mục vụ tại thành phố Palermo, Đức Thánh cha đã đến thăm và dùng bữa trưa với thầy tại trung tâm “Hy vọng và Bác ái”.

Thầy Biagio thường mặc một chiếc áo choàng màu nâu, mang theo một cây gậy và vác thánh giá, đồng thời cũng được chú ý vì những lần tuyệt thực yêu cầu chính quyền dân sự quan tâm nhiều hơn đến những người gặp khó khăn.

Ngày 12/01/2023 thầy Biagio qua đời ở tuổi 59, sau một thời gian chiến đấu với căn bệnh ung thư ruột già.

Thầy Biagio sống bên lề đường như những người vô gia cư

Hay tin vị thừa sai giáo dân tông đồ bác ái qua đời, qua Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, Đức Thánh Cha đã gửi điện thư chia buồn đến Đức Tổng Giám Mục Corrado Lorefice của Palermo. Ngài nói : “Thầy Biagio Conte là thừa sai giáo dân đã nhận ra nơi những người nghèo khuôn mặt của Chúa Giêsu và đã dấn thân không biết mệt mỏi, an ủi, bảo vệ và mang lại hy vọng cho họ. Chứng tá can đảm theo tinh thần Tin Mừng của thầy Biagio Conte, người môn đệ của Chúa Kitô, đã thắp lên một ngọn lửa tình thương tại thành Palermo và trong tâm hồn những người gặp gỡ thầy”.

Đức Thánh Cha gặp thầy Biagio

Trong Thánh lễ an táng được cử hành vào sáng thứ Ba tại Nhà thờ Chính toà Palermo, trước sự hiện diện của hơn 10 Giám mục, nhiều linh mục cùng với 1.500 giáo dân trong nhà thờ và hơn 10 ngàn tham dự bên ngoài, Đức Tổng Giám Mục Corrado Lorefice nói: “Thầy Biagio đã nghe tiếng Chúa Giêsu, đã bỏ tất cả những gì mình có và đã sống nghèo khó với người nghèo, vì người nghèo. Trong thầy luôn có niềm vui. Thầy có tất cả, giàu có nhưng lại không có gì, không thiếu điều gì. Người nghèo, bình an và công lý là niềm say mê của người giáo dân này. Sự bảo đảm của thầy đến từ một nơi khác. Vì thế thầy đầy tràn sức sống ngay cả trên giường bệnh”.

Hàng ngàn người đưa tiễn thầy Biagio

Ngài nói thêm: “Kim chỉ nam cho cuộc đời của thầy Biagio là cầu nguyện tin tưởng. Mẫu gương của thầy sưởi ấm tâm hồn chúng ta. Thầy đã cùng đi trên con đường của chúng ta để bày tỏ lòng ưu ái dành cho người nghèo qua nụ cười. Bất công, tội ác và mafia sẽ không phải là lời cuối cùng. Thầy Biagio là một chiến binh ôn hòa và mạnh mẽ. Thầy đã chiến đấu để dạy chúng ta rằng có thể đấu tranh chống lại mọi hình thức bạo lực, mafia”.

Nguồn: vaticannews.va/vi