
Lộ Đức: Một em bé bị điếc đã nghe được khi đi hành hương

Lời Chứng của những Anh Chị Em đi tìm và đã gặp được Chúa

LINH MỤC AUGUSTINO NGUYỄN VIẾT CHUNG THẦN TƯỢNG CỦA TÔI
Phú Khang
Từ nhà thương đến nhà Chúa
Vốn là một bác sĩ ngoại đạo, cuộc đời thánh hiến đã đến với cha Augustinô Nguyễn Viết Chung, Tu hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn (CM) từ những dấu ấn khó phai. Buổi thực hành mô phôi.
Vượt qua cung đường gió bụi, men theo con hẻm nhỏ lạo xạo sỏi đá, khúc khuỷu như thách thức người cầm lái, chúng tôi gặp cha nơi cộng đoàn heo hút giữa núi rừng thuộc xã Đăk Tân, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kontum. Giọng chậm rãi, nhỏ đều, vị linh mục ngoài 60 kể về đời mình như chỉ mới ngày hôm qua.
Sinh ra và lớn lên trong gia đình khó khăn có sáu anh chị em ở Sài Gòn, tuổi thơ cậu bé Chung là những tháng ngày không êm ả vì ba mẹ hay cãi vã, hục hặc. Ký ức ấy gieo vào tâm trí cậu nỗi ám ảnh, sợ hãi về nơi mà số đông người gọi là tổ ấm. Năm 1973, khi đang học lớp 12, cậu tình cờ đọc được bài báo về sự ra đi của Đức cha Jean Cassaigne – Giám mục của những người bị bệnh phong. Cuộc đời nhân đức, phục vụ quên mình của ngài chợt tác động mạnh mẽ lên tâm thức cậu học trò. Cậu thấy trần gian vẫn còn bao điều tốt đẹp, ý nghĩa và đáng để sống thật trọn vẹn. Một tia hy vọng, một niềm tin mới dần le lói sau những ngày dài bi quan, chán nản. Nắng xuân đã về xua tan đông dài lạnh lẽo.
Ngày 4.11.1974, cậu đạt được ước mơ đỗ vào Trung tâm Giáo dục Y khoa Sài Gòn (nay là ĐH Y Dược TP.HCM) để sau này săn sóc bệnh nhân phong như thần tượng J. Cassaigne. Kinh tế nhà eo hẹp, để có tiền trang trải học phí, chàng sinh viên nghèo đạp xích lô buổi tối kiếm thêm ít đồng. Được một thời gian, không đủ sức khỏe, giờ giấc lại eo hẹp, cậu ngưng việc, tập trung đèn sách. Bữa nọ, trước lúc tiến hành thực nghiệm mổ xác, giảng viên dạy môn Mô phôi (là một linh mục) yêu cầu học trò tham dự thánh lễ cầu nguyện cho người đã hiến xác tại nhà thờ Thánh Jeanne d’Arc (quận 5, TPHCM), cách trường 1 cây số. Nét thánh thiện về đời tu và chuyên môn vượt trội của người thầy đã đặc biệt thu hút cậu. Thế nên chiều cùng ngày, khi thầy đề nghị viết thông tin cá nhân gởi về, kèm câu hỏi phụ: “Sau khi tốt nghiệp, bạn muốn làm gì?” cậu Chung đã viết: “Con muốn trở thành linh mục giống thầy.” Dù bấy giờ, cậu chưa là người Công giáo.
Năm 1980, sinh viên Nguyễn Viết Chung ra trường. Đồng lương Nhà nước eo hẹp khi đất nước còn khó khăn, phải xoay sở bằng việc khác. Rồi cậu nộp đơn gởi Sở Y tế TP trình bày mong muốn chăm lo người bị bệnh ở Di Linh nhưng bị từ chối vì không đúng tay nghề (cậu thuộc chuyên ngành Ký sinh trùng sốt rét). Khoảng từ 1986 – 1989, bác sĩ Chung làm việc tại Trạm sốt rét Đồng Nai. Cuối năm 1989, cậu xin vào Bệnh viện Da liễu TPHCM, có cơ hội trau dồi những kiến thức về bệnh phong. Ba năm sau, bác sĩ Chung lên trại phong Bến Sắn (tỉnh Bình Dương) phục vụ. Điều ấp ủ, trông đợi lâu nay cuối cùng cũng thành hiện thực. Ngày qua ngày, chứng kiến sự tận tâm với người bệnh nơi những nữ tu thuộc Tu hội Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn, ý định muốn dâng mình lại sáng lên trong lòng người thầy thuốc.
Nhờ sự hướng dẫn, giúp đỡ của các dì, ngày 15.5.1993, bác sĩ Chung được rửa tội. Tiếp đến, “người tân tòng” bắt đầu tìm hiểu Tu hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn. Cứ làm việc ba tuần, ghé Tu hội một tuần, trong vòng một năm. Do lớn tuổi và đặc thù công việc nên mọi người cũng cảm thông trường hợp “hiếm, lạ” này. Năm 2002, thầy hoàn tất chương trình Triết học và Thần học. Tới lễ Truyền tin năm 2003, thầy Chung thụ phong linh mục tại Dòng Chúa Cứu Thế (quận 3 – TPHCM). Điều kỳ diệu mà Thiên Chúa làm đã được tỏ bày qua hành trình ơn gọi đầy trúc trắc và không ít những bất ngờ thú vị ấy.
“Xin vâng”
Sau ngày chịu chức, cha giúp Mái ấm Mai Hòa chăm sóc người bị nhiễm HIV (huyện Củ Chi, TPHCM) và dạy học tại một số cộng đoàn của Tu hội. Năm 2009, vâng lời Bề trên, cha bắt đầu gắn bó cùng bà con dân tộc thiểu số trên dải đất Kontum. Môi trường sống mới, đối tượng tiếp xúc mới, song cha mau chóng thích nghi và hòa nhập.
Qua tìm hiểu, người mục tử nắm cụ thể những thiệt thòi, khổ cực mà bà con Thượng gánh chịu. Đi tìm lời giải cho câu hỏi tại sao họ rơi vào cảnh ngộ đó, cha gút nhận ra các rào cản chính như bệnh tật, thất học, không có đất canh tác… “Nhiều nhà có nương rẫy nhưng do họ mù mờ nên bị người dưới xuôi lợi dụng, cho vay nặng lãi tới mức phải bán hết đất, hết vườn để trả nợ”, cha giải thích. Thế là, cha hỗ trợ anh em mua miếng rẫy khác đặng có chỗ cắm cây mì, trồng cây bắp sinh sống. Đi đôi với trồng trọt, cha gởi các hộ khó khăn trong thôn cặp bò giống và cùng họ chăn nuôi để chờ ngày có bê. Một tuần đôi ba lần, cha chạy vào làng thăm chừng chuồng trại, thức ăn, con nào bệnh, con nào sắp đẻ hay có “ẻm” nào “bốc hơi” vì: “Người dân tộc mà, túng quá sẽ bán ngay để có tiền hay làm thịt cho cả nhà ăn chứ đâu suy tính chuyện dài lâu”, cha mỉm cười.
Mấy bận thăm hỏi bản làng, thấy túp lều nhà ai xuống cấp đáng thương, cha ngược xuôi giúp một tay để họ có được chốn tựa lưng đàng hoàng tử tế, để gió mùa đông thôi lùa vào thông thốc. Cái khổ nữa là người Thượng ít có nhà vệ sinh, hầu hết đều “giải quyết” tự do nên cha ra sức giúp bà con “cải thiện thực trạng” vì điều này ảnh hưởng đáng kể tới sức khỏe, môi trường. Khi mảng dân sinh tạm ổn, cha lo đến y tế. Hễ làng nào có người phong cùi, bóng dáng “áo chùng thâm” lại xuất hiện ngay bên: đưa họ ra cơ sở chữa trị, lo phí ăn uống, vận chuyển, ủi an… Sau hết, cha dồn mọi trăn trở vào khoản giáo dục. Bà con nếu muốn đổi đời, muốn con cháu bớt khổ cần mau mắn “đầu tư” cho chúng chữ nghĩa, tri thức. Phụ huynh chưa nghĩ xa tới chuyện đó, cha nghĩ và phân tích thay họ. Để gia đình yên tâm, bớt áp lực, cha đồng hành lo học phí, sách vở… Dẫu cực mấy nhưng thấy “hoa trái” thu về, lòng lại an yên.
Có thể nói, những tên làng như Konscôi, Konken, Konselat (xã Đăk Ruồng, huyện Kon Rẫy) từ lâu thân thuộc với cha như hình với bóng. Làng gần nhất cách nơi cha ở 7 km. Đường đi mù bụi, lởm chởm mấp mô, quệt vội giọt mồ hôi rồi nổ máy, cha cứ thế dấn bước hết năm này tháng nọ. Nhưng đâu chỉ có vậy. Ở những thôn xa xôi tận huyện Đăk Hà, Đăk Tô hay Ngọc Hồi cũng in rõ dấu chân vị linh mục vùng cao. Hôm nào khỏe, cha tranh thủ sáng đi chiều về, lúc mệt thì ngủ qua đêm do đường xấu lại xa. “Thế mới thấy hết ý nghĩa đời tu. Nghĩ tới hình ảnh mấy đứa bé chết vì suy dinh dưỡng, ngộ độc khoai mì (*) lòng lại ray rứt không yên nên làm được gì giúp họ cứ làm, kẻo muộn”, cha chia sẻ.
Xế trưa, một phụ nữ thuộc sắc tộc Rơ Ngao cầm nải chuối già từ xa lên biếu cha để cảm ơn vì căn nhà đã xây xong. Tấm lòng của cha, sự đơn sơ nhưng chân tình của chị khiến chúng tôi chợt nghĩ, nếu ngày trước Đức cha Cassaigne từng hé mở một mùa xuân mới trong cuộc đời cha, thì nay cha đang mang mùa xuân ấm áp đó đến với muôn dân, trên vạn nẻo đường.
Phú Khang
(*): Bà con dân tộc thiểu số thường hái lá khoai mì nấu canh ăn bởi quá nghèo.
nguon: langthangchieutim
Một Buổi Nói Chuyện Lý Thú Về Chúa Thánh Linh của Cha An Tôn Nguyễn Ngọc Sơn – Phần ba.
Phan Sinh Trần
Thuở xưa còn bé, chúng ta có khi hay tham gia trò chơi đóng kịch, đóng vai, như là làm Cha, làm Ma sơ phải không? Rồi chúng ta hay có điệu bộ giả như đang giảng, đang làm lễ, hay đang thăm hỏi người bịnh, kẻ ốm đau. Tôi còn nhớ lúc lên bẩy tám tuổi, được đọc truyện thánh Mác ti nô, Ngài vác vai, đem người bệnh ở các cống rãnh, khu vực đường phố tối tăm, nhơ bẩn về nhà Dòng chăm sóc, chữa trị và cho nằm ngay cả trên gường của mình, khi đọc đến đó, tôi đã có một ước ao ngộ nghĩnh đó là hình ảnh tại thủ đô Vatican, có một vị Giáo Hoàng làm các khu dành riêng cho người hành khất tạm trú, ăn uống, tắm rửa, bẵng đi mấy chục năm vù trôi qua, “thì nay … cũng đã có như vậy” vào thời của Đức Giáo Hoàng Phan xi cô. Rồi khi đã lớn hơn, độ thiếu niên, tôi thắc mắc có đức Cha nào thân mật trò chuyện và mời ăn mày, vô gia cư, bụi đời cùng ngồi ăn chung vào các ngày đại lễ Giáng Sinh, Phục Sinh giống như sự ân cần gần gũi, ngồi cùng bàn, của Chúa Giê Su với các quân thu thuế, đĩ điếm, ăn xin, “thì nay… cũng đã có như vậy”, khi mà chính Đức Tổng Giám Mục Tage, giáo phận Manilla và ĐTGM Jorge Mario Bergoglio, giáo phận Buenos Aires, đèo xe máy chở người vô gia cư về Tòa Giám Mục cùng dùng bữa trưa vào các dịp tiện hay các dịp lễ.
Tới nay, khi mình đã bắt đầu luống tuổi, nhìn sự suy thoái xã hội của nước Việt mến yêu, tôi ước ao có một Linh Mục, đầy sự thánh khiết và yêu thương của Chúa để ra tay chữa lành bằng lời cầu nguyện trong sức mạnh. Sẽ có chăng vị Linh Đạo nào đó, có thể thốt ra lời giảng dậy có uy lực trong quyền năng, vinh quang của Chúa Thánh Thần không? Có vị Chủ Chăn nào có tấm lòng chạnh thương đầy tình thương xót của Chúa? “thì nay… cũng đã có như vậy”. Ta được biết đến nhiều Linh Mục Dòng Chúa Cứu Thế, Các Đan sĩ ẩn tu Biển Đức, nhiều Linh Mục rất thánh thiện và mạnh mẽ trong đời sống Đức Tin. Trong số Linh Mục làm được công việc của các Thánh tông đồ xưa, rao giảng trong quyền năng đi kèm với sức mạnh oai hùng của Chúa Thánh Thần, tôi cho rằng có cha An Tôn Nguyễn ngọc Sơn vì qua lời cầu nguyện của Ngài, Chúa đã chữa khỏi cho trên mười ngàn bệnh nhân, hối nhân, người vô thần, kể cả thày bùa, thày phép, người đa thần.
Câu hỏi mà người Ki tô hữu luôn day dứt, đó là, làm sao để loan báo Tin Mừng cho Anh Em lương dân, làm sao ứng dụng Tin Mừng vào đời, mang lại thăng hoa, cứu độ cho người chung quanh và hơn thế nữa canh tân xã hội Việt Nam, làm phong phú cho dân Việt? Cha An Tôn Nguyễn ngọc Sơn đã đề nghị một giải pháp rất hào hứng, một trong những cách loan báo là hãy làm “hiệp sĩ hành khất của Tin Mừng”. Cha trần tình:
– Trước tình trạng nhiều bạn trẻ bị thu hút bởi trò chơi trực tuyến của Võ Lâm Truyền Kỳ, và ngay cả người lớn cũng mê mẫn những truyện kiếm hiệp, chúng tôi muốn mở một sân chơi cho nhiều người để đáp ứng khát vọng sống đẹp, sống hùng.Trò chơi lớn này có tên gọi Hành Khất Kitô. Chơi để sống đúng, sống ích lợi cho người khác, nhất là cho những người yếu kém trong xã hội hiện nay. Đất nước ta đang có hơn 82 triệu dân mà 60% dân số thuộc về người trẻ từ 24 tuổi trở xuống. Nhiều bạn trẻ muốn sống đúng, sống tốt, sống hào hùng nhưng lại không biết nguồn chân thiện mỹ là ai. 51% dân số là phụ nữ mà nhiều người bị bạo hành trong gia đình vì hiện có hơn 20 triệu người uống rượu và nghiện rượu, 26% dân số sống dưới mức nghèo khổ trong khi một thiểu số giàu có ăn chơi hết sức xa hoa. Hơn 5 triệu người khuyết tật, hơn 3 triệu người goá bụa sống hết sức khó khăn, 263.000 người nhiễm HIV-AIDS, 160.000 người nghiện ma tuý đang tìm cách phục hồi cuộc sống… Tất cả đang giang tay kêu cứu.Bạn có muốn cùng với những người Hành Khất Kitô lên đường đến với họ không?
Cái hay của Hành Khất Ki Tô là nhìn từ bên ngoài họ rất tầm thường nhưng lại có nội lực thâm hậu của Chúa, càng khiêm nhường càng bị khinh khi thì họ càng có nhiều cơ hội thâm nhập vào các nơi tội lỗi mà cứu giúp Đời qua lời cầu nguyện và việc làm bác ái.
Cách loan báo Tin Mừng thứ hai được Cha đề nghị là sống Lời Chúa cho đến mức mình trở nên Lời cứu độ, “Bạn là Lời cứu độ”, Cha trao tặng cho các bạn trẻ một cuốn cẩm nang dạng sách bỏ túi với cùng tựa đề “ Bạn là Lời cứu đô” gói ghém từ cách thở trong Thần Khí cho đến cách sống theo Lời Chúa và các nhân sinh quan dựa trên Lời Chúa và Khoa học. Sách tuy nhỏ nhưng có các thực hành rất quan trọng và thực tế, có thể làm theo để canh tân mình và làm chứng cho người một khi ta đã thực có “Lời Cứu Độ” sinh ra các hoa trái tốt tươi trong cuộc đời của mình. “Bạn là Lời cứu độ”, hiện nay là best seller ở Việt Nam, loại sách tu thân bán chạy nhất của nhà xuất bản tôn giáo, tái bản 3 lần trong khoảng thời gian ngắn, một năm. Đến thời điểm này, năm 2016 thì ấn bản lần thứ ba, gồm 40.000 cuốn đã bán hết sạch, chúng ta đành chờ đến lần tái bản thứ tư ? Một vài giáo phận như Phát Diệm, Bùi chu, một số dòng tu và nhiều xứ đạo đã tặng sách này cho tất cả các giáo lý viên và bạn trẻ như là cẩm nang cho công cuộc Tân Phúc Âm hoá bản thân và cộng đồng giáo xứ. Quả thật, tập sách giúp cho các bạn trẻ định hướng được đời sống qua 10 điều tâm niệm (phần 1), tổ chức được ngày sống (phần 2), cầu nguyện ở bất cứ nơi nào (phần 3), vượt qua những đam mê, nghiện ngập đủ loại (phần 4). Xin các bạn hãy giới thiệu sách này cho người thân của mình, cho thiếu niên và cho mọi bạn trẻ.
Cách loan báo Tin Mừng thứ Ba, sống Tin Mừng và áp dụng Tin Mừng vào Đời, Cha Sơn đề nghị ta theo gương Công Giáo Hàn Quốc, thực hành Lời Chúa trong đời thường cách tích cực nhất:
– … những hoạt động loan báo Tin Mừng của các học sinh Công Giáo Hàn Quốc. Hầu như các em học sinh này có phong cách sống khác hẳn những em ngoài Công Giáo: các em không để tóc highlight, được luyện tập những kỹ năng làm chủ chính mình rất hiệu quả từ những hội đoàn. Ngay từ lớp 1 các em đã quyết tâm : “ Em phải học hành thật giỏi, cư xử thật tốt, lễ phép với thầy cô, giúp đỡ bạn bè và cố gắng làm trưởng lớp để lôi kéo các bạn về cho Chúa Kitô”. Điều quyết tâm ấy thật lạ lùng và ta không lạ khi người tín hữu Công Giáo Hàn Quốc tăng tỷ lệ người Công Giáo so với dân số toàn quốc từ 1% vào năm 1949 tới 10,5% vào năm 2010: 5.135.000 giáo dân trên tổng dân số 48.875.000 người
Tới đây thì có lẽ Bạn rất muốn biết về phần mình Cha Nguyễn ngọc Sơn đã sống với “Lời cứu độ” như thế nào ? Cha chia sẻ:
– Chính trong khi học hỏi Lời Chúa, tôi tìm được sức mạnh và rất nhiều ơn thiêng cho đời linh mục của mình.
– Trong thánh lễ kết hợp với Chúa Giêsu tôi tìm được nguồn lực vô tận cho đời linh mục của mình.
Càng yêu quí Thánh Lễ, thì Cha càng có nhiều khó khăn, gian nan, thử thách… “Ngày 24/12/1976, tôi nhận được công văn khẩn của UBND quận 10 thông báo rằng: “Bắt đầu từ ngày 25/12/1976, tôi không được phép dâng thánh lễ tại nhà thờ giáo xứ Vinh Sơn”. Thông báo không cho biết lý do tại sao tôi lại bị cấm dâng lễ ở đó. Đêm Giáng Sinh năm đó, tôi dâng lễ với niềm vui pha lẫn nỗi buồn, vì biết rằng cuộc đời linh mục của mình lại có những khó khăn mới. Đức Tổng Phaolô Nguyễn Văn Bình biết vậy nên bảo tôi: “Mỗi sáng Chúa Nhật, con lên Toà Giám mục dâng lễ trong ngôi nhà nguyện cổ của cha”. Tôi vâng lệnh ngài, nhưng chỉ dâng được 4 tuần thì lại có công văn nhắc nhở: “Linh mục Nguyễn Ngọc Sơn không được phép dâng lễ tại Toà Tổng Giám mục”. Đức Tổng Phaolô lại sai tôi đi dâng lễ ở nhà thờ Bắc Hà, đường Lý Thái Tổ, quận 10 vào lúc 4g30 sáng. Ngài nói: “Con dâng lễ sớm, ít người tham dự thì họ không để ý đến con đâu”. Nhưng sự việc cũng chỉ kéo dài được 4 tuần, lại có một công văn nhắc nhở: “Linh mục Nguyễn Ngọc Sơn không được phép dâng lễ tại Nhà thờ Bắc Hà”. Một số anh em linh mục ngạc nhiên, không biết tôi “mắc tội” gì mà chính quyền không cho dâng lễ. Có người đoán là vì tôi làm việc ở Caritas Việt Nam với Đức cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã bị bắt vào tháng 8 năm 1975; hoặc là vì người ta không muốn tôi biến Giáo xứ Vinh Sơn thành một biểu tượng nhắc nhở về “Vụ án chống phá cách mạng”; hoặc nghi ngờ tôi là nhân viên CIA để lại do cả gia đình tôi ra nước ngoài, hay do chính quyền quận 10 muốn chiếm căn nhà của cha mẹ tôi ở số 804 Điện Biên Phủ, nên không muốn tôi có mặt ở đó… Tất cả chỉ là những lời phỏng đoán, nhưng từ đó anh em linh mục không dám mời tôi dâng thánh lễ tại nhà thờ giáo xứ của họ vì sợ bị chính quyền để ý theo dõi. Vì thế, qua sự an bài của Chúa, cuộc đời linh mục của tôi lại bước sang một bước ngoặt mới”.
– Đức Tổng Phaolô Nguyễn Văn Bình thấy tôi gặp nhiều khó khăn liền bảo tôi: “Con cứ an tâm dâng lễ ở trong tu viện và đi làm công nhân để tìm hiểu đời sống người lao động vì trong chế độ này, hai giai cấp công nhân và nông dân rất được tôn trọng”. Tôi đã vâng lệnh ngài đến làm việc tại Nhà In Nguyễn Bá Tòng như một công nhân thực thụ, nhất là từ khi nhà in này được Toà Tổng Giám mục giao cho Sở Văn hoá và Thông tin TP.HCM quản lý từ tháng 6/1978 và được đổi tên thành Nhà máy In Tổng Hợp TP.HCM… Trong suốt 18 năm, từ 1978-1996, mỗi ngày, sau thánh lễ ban sáng, tôi làm việc chung với các anh chị em khác trong tổ sắp chữ máy Monophoto từ 7g30 sáng đến 16g30 chiều, buổi trưa được nghỉ từ 11g30-12g30. Chính trong môi trường lao động này, tôi học lại bài học vâng phục, yêu thương của Chúa Giêsu dưới mái nhà Nazareth.
Nhờ những nghiên cứu phát minh của tôi trong ngành sắp chữ máy và sắp chữ điện tử, tôi được mời tham gia sáng lập Khoa Kỹ thuật In của Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM, trụ sở của trường ở đường Võ Văn Ngân, Thủ Đức. Suốt 16 năm dạy tại đây, chúng tôi đã đào tạo hàng ngàn sinh viên trở thành kỹ sư ngành in phục vụ cho ngành in ấn của Việt Nam. Trong mối quan hệ ngành nghề, tôi cũng được mời dạy 3 năm ở Khoa Mỹ thuật Công nghiệp tại Đại học Kiến Trúc TP.HCM và 2 năm tại Khoa Ngữ văn Báo chí thuộc Đại học Tổng Hợp TP.HCM. Những năm tháng dạy dỗ và nghiên cứu đó giúp cho cuộc đời linh mục của tôi có cơ hội hoà nhập thêm với giới trẻ trí thức để cảm nhận họ đang đói khát những giá trị tinh thần mà người mục tử chúng tôi có sứ mạng phải cung cấp cho mọi người.
– Trong sự quan phòng của Chúa cho làm việc trong Nhà In, đời linh mục của tôi đã gắn bó với sách vở, báo chí và các phương tiện như Internet sau này để truyền bá Tin Mừng.Nhờ làm việc trong ngành in nên tôi vẫn âm thầm tiếp tục sửa chữa để hoàn thành bản dịch với thầy Giuse Nguyễn Tất Trung, dòng Đa Minh, (đã chịu chức linh mục năm 1997). Sau đó chúng tôi thuê người đánh mày sắp chữ bản thảo trên hệ thống Monotype Filmsetter, photo ra giấy và làm thử 2 cuốn Sách Lễ Rôma và Phụng vụ Các Giờ Kinh thành các cuốn sách giống như thật để Đức Tổng Phaolô Nguyễn Văn Bình trình cho HĐGMVN trong khoá họp thường niên năm 1991. Năm 1992, hai cuốn sách này đã được chính thức xuất bản và là niềm vui cho tất cả những ai dùng chúng. Từ đó tôi cũng bắt đầu lo công tác văn hoá cho Toà Tổng Giám mục TP.HCM. Chúng tôi soạn và dịch khá nhiều sách cho trẻ em như Chúa Nói với Trẻ em(1994), các truyện tranh như Mẹ Maria (1994), Thánh Phaolô Thành Tácxô (1996), Têrêsa Hài Đồng Giêsu (1996), sách cho các bạn trẻ như Con Người Mới trong Gia Đình Thiên Chúa (1994), Lắng Nghe Tiếng Gọi từ Gia Đình Nazareth (1994), hoặc cho các tu sĩ như Người Mục Tử Cộng đồng Hướng về Tương Lai (1996), Thống Nhất Đời Sống Trong Chúa Giêsu Kitô (1997). Cùng với mấy cha bạn chúng tôi lo tập Bài Giảng Chúa Nhật do Toà Tổng Giám Mục TP.HCM phát hành để giúp anh em linh mục trong việc phục vụ Lời Chúa. Chính trong khi học hỏi Lời Chúa, tôi tìm được sức mạnh và rất nhiều ơn thiêng cho đời linh mục của mình. (nguồn: http://hanhkhatkito.org/Default.aspx?tabid=107&ctl=ViewNewsDetail&mid=461&NewsPK=10130)
Mỗi khi gặp khó khăn, Cha lại được Chúa giúp đỡ cách trực tiếp, gián tiếp qua các biến cố, bàn tay quan phòng của Chúa kính yêu thật là chu đào. Xin được đan cử vài mẫu chuyện ý nghĩa,
– Đức Tổng Phaolô Nguyễn Văn Bình, nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của ngài, khi ngài kéo riêng cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm và tôi mà nói: “Các con phải làm gì cho giới trẻ đi chứ!”, tôi đã thực hiện cuốn Sứ điệp Loài hoa vào năm 1993. Các bạn trẻ đã nồng nhiệt đón nhận: 35.000 cuốn bán hết trong vòng 2 tháng đầu năm 1994. Nhưng khi Đức Tổng Phaolô 3 lần viết đơn xin tái bản cuốn sách, thì Sở Văn hoá Thông tin TP.HCM đều từ chối và cho đó là một cuốn sách phản động. Chính Đức Tổng Phaolô cũng không hiểu tại sao lại không trả lời cho ngài lý do từ chối. Tôi đoán có lẽ là vì một đoạn văn ngắn viết về Hoa Bất tử, dù trong toàn bộ cuốn sách tôi đã không dùng từ “Chúa” hay từ có liên quan đến tôn giáo như “Giêsu Kitô” một lần nào? Sau này, do sự can thiệp của ông Trần Quốc Hương, sau khi ông được Chúa chữa lành cánh tay bất động vì tai biến mạch máu não, cuốn sách đã được tái bản vào năm 1997 và đến nay đã vượt quá 150.000 ấn bản. Bài học Sứ điệp loài hoa dạy tôi cách loan báo Tin Mừng trong thời đại hôm nay là cần phải biết gắn bó với Chúa Giêsu và thở được Thần Khí của Người để mỗi anh em linh mục chúng tôi trở thành những chứng nhân sống động của Người.
Rồi lại một sự an bài khác của Chúa, “vào tháng 8/2001, tôi gặp Bác sĩ Trương Thìn, Viện trưởng Viện Y học Dân tộc TP.HCM, và Chúa đã chữa cho ông khỏi bệnh như một dấu hiệu mời gọi tôi dấn thân cho các bệnh nhân đủ loại, nhất là người nghiện ngập và những người bất an về mặt tinh thần trong xã hội VN hiện nay.Năm 2011, tôi tham gia vào Hội Bảo trợ Người Khuyết tật và Trẻ Mồ côi TP.HCM. Với cương vị là Phó Chủ tịch kiêm Trưởng ban Xã hội-Y tế, tôi cố gắng làm một chút gì đó cho 54.000 người khuyết tật và 13.000 trẻ mồ côi khuyết tật hiện nay của TP.HCM. Ước vọng của tôi là được gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu cùng với các anh chị em Kitô hữu khác như những chứng nhân sống động của Chúa Kitô Phục Sinh để có thể giúp đỡ, chữa lành cho 6,7 triệu người khuyết tật về thể lý và hơn 10 triệu người hiện đang khiếm khuyết về mặt tinh thần ở Việt Nam”.
– Để giúp tôi có thể làm chứng nhân cho Chúa Giêsu, Người đã ban cho tôi một số những cảm nghiệm về lời đầy quyền năng của Người trong việc chữa lành bệnh nhân, xua trừ ma quỷ, tác động đến vạn vật, làm cho bánh cá hoá nhiều, nhất là loan báo Tin Mừng cho những người nghèo khó, an ủi những tâm hồn đau khổ. Đồng thời Người cũng ban sức mạnh của Chúa Thánh Thần để tôi có thể chịu đựng những gian nan, thử thách, nghi kỵ, ghen tức, bất công của người khác gây cho mình trong cuộc đời linh mục, để cho tôi thật sự cùng chịu đóng đinh với Người trên thập giá đời mình.
– Tôi đã từng bị phản đối vì những tư tưởng mới lạ và những nhận xét về sự thật làm mất lòng người, bị theo dõi vì những hoạt động không đẹp lòng các người quyền thế, bị quấy rầy vì những ghen tuông của các phụ nữ, bị bôi nhọ vì những tranh chấp, bị bầm dập vì những cú đánh lén sau lưng của bạn bè, bị tiêu diệt vì dám chống đối những bất công với đôi chân 2 lần bị gãy vì tai nạn “cố tình”.
– Có những lúc tôi muốn buông xuôi tất cả. Nhưng gương sáng của những bậc tiền bối anh hùng, của Đức Thánh Cha (ĐTC) Gioan Phaolô II, của nhiều anh chị em linh mục, tu sĩ, giáo dân trong những vùng sâu, vùng xa, đang miệt mài làm việc, chịu đựng gian khổ, lại thúc đẩy tôi tiếp tục bước đi trên con đường sự thật và sự sống.
Trong dịp kỷ niệm chịu chức, Cha khiêm nhường soi nhìn lại đời mình và chia sẻ:
– Sau 40 năm linh mục với nhiều lầm lỗi, khuyết điểm, tôi lại càng cảm nhận được tình yêu thương của Chúa và mọi người đối với tôi. Xin tha thứ cho tôi nếu tôi đã làm phiền lòng ai và gây đau khổ cho người nào trong cộng đồng mình sống.
Tôi mong ước với ơn Chúa và sự giúp đỡ của mọi người, tôi sẽ sống từng giây phút còn lại của đời mình một cách ý thức và hiệu quả hơn cho xứng đáng với tình yêu thương quảng đại ấy.
Xin mọi người tiếp tục cầu nguyện cho tôi cũng như cho tất cả được kết hợp mật thiết với nguồn lực vô biên là Chúa Ba Ngôi để chúng ta đều trở thành hình ảnh sống động của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ duy nhất của trần gian. Xin Người chúc lành cho tất cả chúng ta.
Ta có thể nói, Chúa Thánh Thần khi xưa của Các Thánh Tông Đồ và Chúa Thánh Thần hôm nay của các Giám Mục, Linh Mục vẫn chỉ là một đấng duy nhất. Vào thời buổi càng u tối, càng nhiều vấn nạn trong sự bộc phát mãnh liệt, từ các hành động bạo tàn của Quỉ Dữ thì ân sủng lại càng chan chứa. Chưa có thời nào mà tội lỗi con người phạm đến Chúa và luật pháp của Ngài nhiều như thời chúng ta nhưng cũng chưa có thời nào mà ân sủng, lòng thương xót của Chúa tuôn trào, nhiều như thời của chúng ta, ơn lành tuôn đổ hiển hiện một cách rõ ràng và phổ biến mà ai cũng được mục kích. Hãy phấn khởi, hy vọng và tiến lên trong trận chiến Đức Tin này. Ta biết rằng một khi Lời Chúa được thể hiện cách sống động trong Đời Các Thánh của Chúa thì khi họ đi đến đâu, Ma Quỉ chắc chắn sẽ phải run rẩy, khiếp sợ đến đó, cho dù chúng có căm tức và âm mưu quỉ quyệt gài bẩy đến đâu, thì sự hiện diện của Chúa Giê Su trong đời ta sẽ làm thất bại các âm mưu đó.
Ai phạm tội thì là người của ma quỷ,
Vì ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu
Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện
Là để phá hủy công việc của ma quỷ (1 Ga 3: 8).
Tôi xin mượn lời kết của Cha để chào tạm biệt các Bạn, cha có cảm nghĩ này,
– Tôi cảm thấy an ủi và được khích lệ rất nhiều vì ĐTC Phanxicô, trong Tông huấn Niềm vui Phúc Âm – mới công bố ngày 24/11/2013 – nhắc nhở chúng tôi rằng: “Chúng ta hãy đi ra, đi ra để cung cấp cho tất cả mọi người sự sống của Chúa Giêsu Kitô. Tôi lặp lại cho toàn thể Hội Thánh: tôi muốn có một Giáo Hội bị bầm dập, bị tổn thương và dơ bẩn vì đã ở ngoài đường, còn hơn một Giáo Hội bị bệnh hoạn vì đóng cửa và thanh nhàn bám víu vào sự an toàn của riêng mình. Tôi không muốn một Hội Thánh chỉ quan tâm đến việc nằm ở trung tâm và cuối cùng bị vướng vào một mạng lưới của những cố chấp và thủ tục…” (số 49).
– Tất cả những chương trình mục vụ mà chúng ta mơ ước chỉ có thể trở thành hiện thực nếu chúng ta biết “không những canh tân các chương trình của mình mà còn phải tăng chất lượng cho chứng tá của mình. Công cuộc Phúc Âm hoá không chỉ là một kế hoạch có tổ chức hay một chiến lược; một cách cơ bản, nó là vấn đề thiêng liêng đúng như lời ĐGH Phaolô VI đã nói: ‘Con người thời nay sẵn sàng nghe các chứng nhân hơn là các thầy dạy, và nếu họ có nghe các thầy dạy, thì chính là vì các thầy dạy cũng là những chứng nhân…’. Vì vậy Giáo Hội sẽ loan báo Tin Mừng cho thế giới trước tiên bằng hạnh kiểm và đời sống của mình, bằng chứng tá sự nghèo khó và vô tư, và bằng chứng tá sự tự do của mình đối với các quyền lực của thế gian này, tóm lại, chứng tá sự thánh thiện” (TLLV, số 158; TĐ Evangelii nuntiandi, ngày 8-12-1975, số 7).
Phan Sinh Trần
Đây Là Phép Lạ Chứ Đâu Nữa.
Tại Trường Đại Học Luật TP. HCM, ngay trước sân trường và là nơi trung tâm của nhà trường cây tháp chuông nhà thờ Fatima cũ vẫn đứng hiên ngang mà không bị đập phá. Dưới mái trường XHCN thì liệu một tháp chuông của công giáo có thể đứng yên vậy không? Đây lại là trường đại học luật nữa? Mọi người biết, trước đây khu này là nhà thờ Fatima bình triệu, sau năm 1975 thì cộng sản cướp và từ đó để vậy làm trường đại học luật. Những năm gần đây, nhà trường này xây dựng lại và đập phá hết nhà thờ và nhà xứ cũ để xây mới. Tuy nhiên, cây tháp chuông không thể đập được, không phải là họ không đập mà họ đã cho máy vào múc và đập phá nhưng máy vào đập là tắt máy, lần nào cũng vậy máy cứ cho cần lên đập phá tháp chuông là máy tắt. Do vậy, họ đã để cái tháp chuông đứng giữa sân nhà trường. Hung tran có hỏi một người từng xây nhà trường này và còn được biết, trong trường có một phòng giờ họ xây bịt kín lại và để đó vì không thể sử dụng. Đó là bàn làm lễ trong nhà thờ, cũng năm lần bảy lượt cho máy vào đập phá bàn làm lễ nhưng thất bại vì không náy nào đập được. Cứ cho máy vào đập là lại tắt máy. Sự việc lạ đó giờ vẫn ở đó, ai đi ngang qua đại học luật đều thấy cây tháp chuông cao đứng sừng sững giữa sân trường.
Chúng ta biết rằng, phá hoại giáo hội Chúa không phải là dễ, giáo hội đã hơn hai ngàn năm, vượt qua bao chế độ sụp đổ những giáo hội vẫn phát triển mạnh mẽ. Không có một chế độ vô thần nào có thể phá huỷ được giáo hội mà Chúa Kito đã lập nên. Đơn giản vì giáo hội là của Chúa.
Facebook cuả Hung Tran

BUỔI PHỎNG VẤN CHA AUGUSTINÔ NGUYỄN VIẾT CHUNG ĐÃ ĐƯỢC CHA ANTÔN M.Z. PHAN TỰ CƯỜNG, OP, GIÚP GIỚI THIỆU VÀ HƯỚNG DẪN TẠI BUỔI HỌP MẶT CỦA HƠN 800 BẠN TRẺ ĐẾN THAM DỰ NGÀY ƠN GỌI GIÁO MIỀN KON TUM TỔ CHỨC VÀO SÁNG NGÀY CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH – CN. CHÚA CHIÊN LÀNH, CẦU XIN ƠN THIÊN TRIỆU – 17-4-2016 TẠI TÒA GIÁM MỤC KON TUM.
Đức Mẹ ban “phép lạ” tại Trà Cú, Sóc Trăng, VN.
Dziễm Hoàn ghi lại
Lạy Chúa con là người ngoại đạo,
Nhưng tin có Chúa ngự trên cao.
Ngay từ khi còn nhỏ tôi đã thích hai câu thơ trên, vì tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình theo đạo Phật, bố mẹ tôi rất sùng đạo. Nhưng không hiểu vì một sự mầu nhiệm nào khiến tôi lại thích đạo công giáo. Khi mới bốn tuổi tôi đã được theo chị vú nuôi đi nhà thờ vào mỗi chiều Chúa Nhật. Hình ảnh ngôi giáo đường cổ kính, hình ảnh Chúa Giêsu đóng đinh trên thập giá và hình ảnh Đức Mẹ đẹp dịu hiền, tay lúc nào cũng cầm sâu chuỗi đã in sâu vào tiềm thức của tôi.
Càng lớn lên tôi lại càng thích tìm hiểu về đạo Chúa nhiều hơn, vì thế tôi thích quen thân với những người bạn có đạo. Tôi say mê nghe tiếng chuông giáo đường ngân vang mỗi buổi chiều, thích đeo ảnh tượng Chúa và Đức Mẹ, thích đọc kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng và thích nhất là mỗi lần được tham dự thánh lễ hôn phối trong nhà thờ. Hình ảnh cô dâu chú rể nắm tay nhau, trao nhẫn cưới cho nhau, nói lên những lời thề nguyền sắt son trước cung thánh, đối với tôi thật tuyệt đẹp và tôi bắt đầu có những mơ ước thầm kín.
Rồi như có sự sắp đặt của Thiên Chúa, lớn lên tôi đã gặp và yêu một người có đạo. Nhưng tình yêu của chúng tôi đã gặp rất nhiều khó khăn trở ngại về vấn đề tôn giáo, vì bố mẹ tôi không chấp thuận và đã nhiều lần ép gả tôi cho người ngoại đạo. Tôi chỉ còn biết liên lỉ cầu nguyện đêm ngày, trông cậy vào tình thương của Chúa và Mẹ Maria.
Sau hơn sáu năm chờ đợi, tôi đã được Chúa Mẹ nhậm lời nên bố mẹ tôi đã chấp thuận cho tôi được kết hôn với người mình yêu, nhưng với điều kiện tôi không được rửa tội theo đạo cũng như không được làm phép hôn phối trong nhà thờ, phải đợi đến ngày bố tôi khuất bóng.
Cuối năm 1974 bố tôi qua đời và trong khi tôi đang học đạo để chuẩn bị rửa tội thì biến cố 30-4 1975 ập đến. Chúng tôi theo lời khuyên của một người bạn, di chuyển về quê của anh tại họ đạo Trà cú, thuộc tỉnh Sóc Trăng, với hy vọng không ai biết được lý lịch của mình.
Họ đạo Trà Cú từ trước nổi tiếng là một họ đạo chống Cộng triệt để, vì thế mặc dù đã bị Việt cộng tiếp quản nhưng họ rất e ngại không giám dùng biện pháp mạnh đối với họ đạo này.
Về đến nơi, chúng tôi xuất trình giấy tờ với nhà cầm quyền địa phương, và đã được họ cho dạy học tại trường trung học Long Tân. Trường toạ lạc ngay trong khuôn viên nhà thờ thuộc họ đạo Trà Cú.
Sau khi đời sống đã tạm ổn định, chúng tôi đã xin cha sở để tôi được học đạo chuẩn bị rửa tội và chúng tôi được làm phép hôn phối. Nhưng nhiều lần cha sở khuyên chúng tôi hãy thong thả vì giữa buổi giao thời giữa hai chế độ và nhất là chế độ Công Sản không có cảm tình với đạo Thiên Chúa, nếu tôi rửa tội và làm phép hôn phối ngay lúc đó thì e rằng gia đình chúng tôi sẽ gặp nhiều khó khăn. Nhưng tôi quyết tâm xin cha chánh xứ cho tôi được học đạo và rửa tội rồi việc gì xảy đến tôi cũng xin chấp nhận.
Hằng tuần đi nhà thờ và nhất là mỗi buổi sáng được nghe tiếng chuông vang vọng từ một ngôi thánh đường cổ kính, lòng tôi lại nôn nao mong chóng đến ngày được rửa tội.
Niềm mơ ước của tôi đã được thực hiện. Đêm Phục Sinh 1976 tôi đã được rửa tội, lãnh phép thêm sức và chúng tôi đã được làm phép hôn phối trước sự tham dự của cả ngàn giáo dân trong họ đạo.
Hai tuần sau khi được rửa tội thì Việt Cộng đến gặp chúng tôi, yêu cầu chúng tôi phải bỏ đạo vì chúng tôi là giáo chức, tức là công nhân viên của nhà nước thì phải theo thuyết duy vật, không được theo thuyết duy tâm.
Sau nhiều lần thuyết phục chúng tôi không được, nên gần hai tháng sau thì Việt cộng ập vào nhà chúng tôi, đọc án lệnh kết tội chồng tôi là C.I.A cho Mỹ, trà trộn vào họ đạo để tổ chức và móc nối đưa người vào bưng chống phá cách mạng, rồi chúng trói bắt chồng tôi đem đi.
Hoàn cảnh của tôi lúc bấy giờ thật bi đát. Lúc đó tôi đang bị bệnh, trong nhà chỉ còn vỏn vẹn mười lăm đồng bạc. Ba đứa con của tôi thì còn quá nhỏ dại: đứa lớn nhất mười tuổi, đứa thứ nhì bảy tuổi, thứ ba ba tuổi. Sống giữa nơi xứ lạ quê người, không bà con ruột thịt để nương tựa, tôi lại không có tin tức gì của chồng tôi, thật tôi không chết được mà phải sống.
Tôi chỉ còn biết trông cậy và phó thác vào Chúa và Mẹ Maria. Hình ảnh Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá đã an ủi và nuôi dưỡng tôi rất nhiều vì tôi nghĩ rằng: Chúa mà còn chịu đau khổ, nhục nhã và cuối cùng còn bị đóng đinh và chết trên thập giá để chuộc tôi cho nhân loại, trong đó có tội của tôi và gia đình tôi, thì tôi là con cái của Chúa lại không thể vác thánh giá ở đời này hay sao ? Tôi nhớ lời Chúa đã phán: ‘’Ai muốn theo Ta thì vác thánh giá mà theo Ta.’’( Luca 14:27) Hơn nữa, tôi nghĩ theo Chúa không phải là là theo con đường vinh quang hạnh phúc mà phải còn theo con đường khổ nạn của Chúa nữa. Nhờ vậy tôi đã có đủ nghị lực và can đảm để vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Chúa Mẹ đã thương tôi nên đã cho tôi có một cuộc sống khá đầy đủ để tôi có thể tiếp tế cho chồng tôi ở trong tù và nuôi ba đứa con còn nhỏ dại.
Trong thời gian chồng tôi ở tù, tôi vẫn được tiếp tục dạy học tại trường trung học Long Tân và tôi đã được chứng kiến một biến cố vô cùng quan trọng đã xảy ra tại họ đạo Trà Cú. Đó là: Đức Mẹ ban phép lạ chữa cho một cô bé tật nguyền được trở lại đi đứng bình thường.
Hàng tuần đi dự lễ ngày Chúa Nhật, tôi thường thấy một cô bé khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, da ngâm đen, tóc ngang vai, dáng cục mịch quê mùa. Em bị liệt hai chân vì bị sốt tê liệt hồi em lên hai tuổi. Em phải đi nạng, mỗi lần lên rước lễ mẹ em và chị của em phải dìu em đi rất vất vả khó khăn.
Tôi thấy cô bé tật nguyền đi lại khó khăn như vậy nhưng vẫn chịu khó đi nhà thờ, không hề vắng mặt một tuần nào. Tôi tìm hiểu về em và được biết tên em là Trần thị Hữu. Cha em là một người ngoại đạo, đã rửa tội để được cưới mẹ em, nhưng sau đó vài năm ông bỏ đạo. Nhiều lần cha em định đem em đi chữa bằng phương pháp bùa phép nhưng em phản đối và nói với cha mẹ em rằng: Đức Mẹ đã hiện về với em và hứa sẽ chữa cho em đi được, vì thế em chỉ cần ở nhà cầu nguyện, nhất định không chịu chữa trị bằng phương pháp nào khác.
Bẵng đi một thời gian tôi không thấy em đến nhà thờ nữa, tôi được chị hàng xóm cho biết em đã bị đau, không ngồi dạy được, tê liệt hoàn toàn, suốt đêm ngày chỉ nằm trên giường, em ăn rất ít mà chỉ uống nước phép của đền thờ Đức Mẹ Lộ Đức, nhưng em vẫn tươi tỉnh hồng hào.
Hằng ngày bà con lối xóm và bạn bè đến thăm đều được em thuật lại cho nghe những lần Đức Mẹ hiện ra với em. Điều làm mọi người chú ý và nhớ nhất là Đức Mẹ hứa sẽ chữa cho em đi được vào dịp Lễ Phục Sinh 1977. Tin này được loan đi rất nhanh khắp mọi nơi và người đến thăm em càng ngày càng đông.
Riêng tôi vì cuộc sống quá khó khăn, hơn nữa nhà tôi và nhà em cách xa nhau cả hai cây số nên tôi không đến thăm em được.
Ngày tháng cứ đều đặn trôi qua và Mùa Phục sinh nữa lại đến, mọi người nôn nao chờ đợi. Tuy sống trong chế độ Cộng Sản nhưng họ đạo Trà Cú vẫn tổ chức Lễ Phục Sinh rất rầm rộ. Các cổng chào đều được dựng lên trước một tuần lễ, từ cổng nhà thờ đến nhà thờ đèn điện sáng chưng, bông hoa rực rỡ, người người lũ lượt đi dự lễ, quần áo đủ mầu sắc, quang cảnh thật tưng bừng náo nhiệt, khiến mọi người có cảm tưởng như đang sống trong chế độ cũ.
Tất cả mọi người không ai bảo ai đều chú ý tìm kiếm xem trong đám người đi dự lễ có em Hữu hay không. Nhưng ai nấy đều hết sức thất vọng vì được mẹ em Hữu cho biết em vẫn nằm trơ như một cây gỗ. Sau lễ, một số người về nhà em để thăm em và em vẫn nằm trên giường tiếp chuyện mọi người như thường lệ. Trong số những người đến thăm em có chị Nhan là người đã may tặng em chiếc áo dài soa Pháp màu xanh như màu áo của Đức Mẹ và một chiếc quần trắng để nếu Đức Mẹ chữa cho em khỏi chân, em sẽ mặc áo đó đi dự lễ Phục Sinh. Qua lễ rồi em vẫn còn nằm trên giường, chị Nhan hỏi em:
– Đức Mẹ hứa với em đến Lễ Phục Sinh sẽ ban phép lạ cho em và em sẽ đi được, sao bây giờ em vẫn còn nằm thế này ?
Em Hữu chỉ mỉm cười không nói gì. Khoảng hai giờ sáng một số người nản lòng đã bỏ ra về, chỉ còn chị Nhan và một vài người ở lại. Khi đang nói chuyện với nhau, bỗng dưng em Hữu ngồi phắt dạy, chỉ lên bàn thờ và nói:
-Thắp đèn cầy lên, Đức Mẹ đã hiện ra đó.
Em vừa nói vừa bước ra khỏi giường, đến bàn thờ, tự em thắp đèn nến. Mọi người thấy vậy sợ quá chạy toán loạn, kẻ chạy ra sau bếp, người chạy đi loan báo cho bà con hàng xóm. Có người chạy vội vàng trật cả mắt cá chân.
Em đòi mời mẹ đỡ đầu của em đến, viết tên thánh vào người em và mời cha mẹ của em đến để nghe Đức Mẹ dạy.
Đức Mẹ hỏi cha mẹ em có bằng lòng dâng con cho Đức Mẹ không ? Với giọng run run vì quá cảm động và sợ hãi, cha em thưa với Đức mẹ:
– Kính Đức Mẹ, con phải dâng con của con như thế nào, con sẽ cho con của con đi tu dòng con Đức Mẹ hay như thế nào, xin Đức Mẹ chỉ dạy.
Đức Mẹ phán:
– Bất cứ lúc nào và bất cứ cách nào khi Đức Mẹ cần đến.
Và Đức Mẹ cũng nói với những người có mặt tại đó:
– Các con phải chịu khó đi đọc kinh và lần hạt Mân Côi.
Chỉ chưa đầy một giờ sau nhà em Hữu đã chật ních người, đứng vòng trong, vòng ngoài.
Đêm hôm đó vì ở xa, tôi không được biết để đến nhà em Hữu chứng kiến Đức Mẹ hiện ra ban phép lạ cho em. Nhưng sáng hôm sau thì tôi gặp em trên đường đi đến nhà thờ. Sau hơn một năm gặp lại em, tôi hết sức ngạc nhiên vì em xinh đẹp hơn trước nhiều, ngoài sức tưởng tượng của tôi. Em không còn là cô bé Hữu quê mùa của một năm về trước. Không những em đi đứng bình thường như mọi người, em còn thay đổi hẳn vóc dáng; khuôn mặt bầu bĩnh với cặp mắt đen lánh, da trắng tươi, hai má ửng hồng, môi mọng đỏ, mái tóc huyền phủ kín bờ vai. Dáng người thon thon trong chiếc áo dài xanh tha thướt uyển chuyển. Vẻ đẹp của em bây giờ là vẻ đẹp của một thiếu nữ tỉnh thành sang trọng quí phái.
Tôi đi bên em và hỏi em về việc Đức Mẹ ban phép lạ cho em đêm hôm trước. Với giọng hết sức nhỏ nhẹ, em nắm tay tôi kể cho tôi nghe và dặn tôi:
– Chị nhớ cầu nguyện cho em nhé !
Như có một sự sắp đặt của Thiên Chúa, buổi lễ hôm đó có ba cha đồng tế, và em Hữu là người lên rước lễ đầu tiên. Cha sở Nguyễn Mạnh Đồng trao mình Thánh Chúa cho em mà vẫn không biết đó là cô bé Hữu đã từng chống nạng mỗi khi lên rước lễ trước đây.
Sau thánh lễ, em và gia đình em vào thăm cha sở, khi đó các cha mới hay. Cả ba cha đều hỏi chuyện em và nhìn nhau với ánh mắt chan hoà niềm vui.
Ba tháng sau, em Hữu đã được Chúa gọi về một cách đột ngột như Đức Mẹ đã bất ngờ hiện ra ban phép lạ cho em, trước sự bàng hoàng của mọi người.
Được tin đó tôi đã đến viếng em. Lại một lần nữa tôi vô cùng ngạc nhiên vì khi em đã tắt thở một ngày một đêm nhưng nét mặt vẫn tươi đẹp như hồi em còn sống, không nhợt nhạt như nét mặt của một người đã chết.
Đám tang em Hữu được tổ chức vô cùng trọng thể và thi hài em được an táng vào phần đất đặc biệt ngay sau nhà thờ Trà Cú. Tiếng chuông nhà thờ Trà Cú đã ngân vang hồi vĩnh biệt để tiễn đưa linh hồn Maria Trần thị Hữu về Nước Chúa.
Riêng gia đình tôi sau sáu năm thử thách, Chúa Mẹ lại ban cho một phép lạ nữa là cả gia đình tôi đã đến được bến bờ tự do, không tốn một đồng bạc.
Giờ đây gia đình chúng tôi đã có được một đời sống ổn định. Chúng tôi muôn vàn cảm tạ Thiên Chúa và Mẹ Maria.
(Dziễm Hoàn ghi lại)
Anh chi Thu & Mai goi
MỘT BUỔI NÓI CHUYỆN LÝ THÚ CỦA CHA NGUYỄN NGỌC SƠN.
Phan Sinh Trần
Hôm Chúa Nhật ngày 20 tháng ba , 2016 Nhóm Cầu Nguyện chúng tôi được nghe vị khách diễn giảng về Chúa Thánh Linh, tôi cho rằng bài chia xẻ này thuộc loại kinh điển, tiêu biểu cho gốc cổ thụ lớn trong khu vườn Thánh Linh. Điều có vẻ nghịch lý một cách thích thú khi mà Ngài chưa từng một ngày ở trong phong trào Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo, chưa từng tham dự các buổi tĩnh tâm Thánh Linh, nhưng lại rất uyên bác về nguyên lý của đời sống trong Chúa Thánh Thần, và hơn thế nữa, luôn sống trong sự sinh động, yêu thương, hòa hợp tuyệt diệu của Chúa Thánh Thần trong đời sống của một người con được Chúa chọn và yêu mến.
Cha bắt đầu buổi chia xẻ bằng sự khiêm nhường cầu nguyện khi Ngài chấp nhận để cho cả nhóm chúng tôi giơ tay cầu xin ơn Thánh Thần tuôn đổ ơn xuống trên Ngài và rồi Ngài cất tiếng lên chia xẻ cho chúng tôi trong ơn biện giảng hùng hồn Chúa ban.
Cha đưa ra một dụng cụ y khoa nhỏ để đo dung lượng thở cho mọi người thử, có anh thanh niên mạnh khỏe thì có thể thở được với dung lượng đo trên máy, tới 2200 ml, trong khi đó có bác cao niên ốm yếu, chỉ thở vào máy được có 770 ml… một sự so sánh rất cụ thể và minh họa về vấn đề, thiếu không khí trong lúc thở. Cha giải thích:
⦁ Não của chúng ta có 16 tỷ nơron thần kinh, cần tối thiểu 2.000 lít khí/ngày trong 10.000 lít tối thiểu của cơ thể. Chính bộ não ấy phát ra những lệnh cho tất cả các cơ quan hoạt động. Nếu chúng ta tăng cường dung tích khí thở mỗi lần lên 1.500ml hoặc 2.000ml, 2.500ml, bộ não chúng ta sẽ phát ra lệnh gấp đôi cho các bộ phận hoạt động; chúng ta sẽ học hành, làm việc hiệu quả và thông minh hơn nhiều. Thân thể chúng ta sẽ khoẻ mạnh, xinh đẹp nhờ các bộ phận hoạt động hài hoà…Chỉ cần 4 phút không có dưỡng khí là bộ não chúng ta sẽ chết, trong khi chúng ta có thể nhịn ăn được 30 ngày, nhịn uống được 3,4 ngày. Nói như thế để từ nay chúng ta chú ý đến việc thở hít khí tự nhiên hơn và tập thở để tăng cường chất lượng sống.
Sau đó, cha đề cập đến vấn đề sống đạo:
⦁ Vì sao các Bác, các Anh Chị có một đời sống Đạo rất chuyên cần, rất chăm chú đọc kinh mà vẫn thấy mình có một cái gì đó không được ổn, vẫn còn hoang mang cho tương lai cuộc đời, vẫn còn tìm đến cầu cơ, bói toán ?
Bởi vì, Tinh thần càng cần đến hơi thở Thần Khí hơn nữa, không biết tập thở Thần Khí thì linh hồn sẽ yếu rũ.
⦁ Vì sao chúng ta thực hành các việc đạo đức đều đặn đi lễ mỗi ngày mà vẫn không có được sự linh ứng của lời cầu nguyện?
⦁ Người tín hữu giáo dân Việt Nam rất tôn kính Mình Máu Thánh Chúa, 80% tín hữu giữ lễ Chúa Nhật và rước lễ trong những dịp lễ trọng, khoảng 15-20% đi lễ thường ngày. Nhưng chúng ta thấy rằng dù đi lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa thường xuyên nhưng chúng ta lại chưa phát huy được sự sống kỳ diệu phi thường của Thiên Chúa trong con người của mình. Cuộc sống của người tín hữu chưa toát ra được niềm vui, bình an, hạnh phúc, ơn cứu độ cho mình cũng như cho người khác. Phép lạ trong đời sống người tín hữu là những gì hoạ hiếm chứ không phải là những chuyện thường ngày mà chúng ta phải thực hiện để mang lại ơn cứu độ cho những người nghèo khổ, tật bệnh, bị ma quỷ kiềm chế có mặt ở khắp nơi trên đất nước. (⦁ nguồn: hanhkhatkito.org)
Trong không khí im lặng chú ý của phòng họp, khi mà mọi người đều thấm thía về các yếu đuối, Cha tiếp tục đặt ra các vấn nạn của Ki tô hữu:
Vì sao chúng ta không có tâm tình biết ơn, không biết ơn khi ta ăn hạt cơm nóng sốt mà người nông dân đổ mồ hôi, công sức, dãi dầu mưa nắng, có khi còn phải đổ máu, hy sinh thân mình vì cày lên bom mìn sót lại từ thời chiến tranh … Còn trong gia đình mình thí sao, Chúng ta có khi nào biết ơn người vợ đã mấy chục năm qua rửa hàng núi chén dĩa ngày qua tháng nọ dọn nhà sạch sẽ cho ta được thoải mái, … Trong đất nước thì mình ít khi nhớ ơn bao tiền nhân, chiến sĩ vô danh, đã tận tụy khai phá, đã hy sinh xương máu cho ta có được mảnh đất này để sinh sống.
Chúng ta thử đặt tình trạng mình như một người mù trong vài phút rờ rẫm, đi từ đây ra cửa thôi, sẽ thấy khổ sở thế nào, đụng chạm lủng củng ra sao, có khi còn vấp té nữa. Trong khi đó chúng ta được sáng mắt, được Chúa ban cho không khí để thở, ban cho cặp mắt để ngắm nhìn, … có bao giờ chúng ta hít sâu vào trong tâm tình biết ơn, vì Chúa ban cho mình không khí và biết bao nhiêu tạo vật, thiên nhiên mỹ miều, hữu dụng, xinh đẹp chung quanh ta.
Sau đó, Cha tóm tắt về căn nguyên của một đời sống Ki tô hữu, phong phú và tươi mát bao gồm trong hai yếu tố chính, kết hợp với Chúa Giê Su và sống trong Thần Khí của Thiên Chúa.
⦁ Một là kết hợp mật thiết với Chúa Giê Su như cành liền với cây trong cầu nguyện, đơn sơ thủ thỉ với Chúa một câu trong tâm tình yêu mến, hướng về Chúa ở mọi lúc, mọi nơi.
Cây nho, chính là Ta,các ngươi là nhánh. Ai lưu lại trong Ta và Ta trong kẻ ấy, thì nó sinh nhiều quả,vì ngoài Ta, các ngươi không thể làm gì.(Gioan 15:5)
⦁ Hai là, xin Chúa Giê Su thực hiện lời hứa “ban Thánh Thần” và xin cho bằng được ơn Chúa Thánh Thần, được tiếp nhận Thần Khí Chúa sống động trong mọi sinh hoạt của đời sống mình, cách xin được Chúa nhận lời là khi ta dám từ bỏ các quyến rũ của trần gian, ma quỉ và quyết tâm thuộc về Chúa một cách trọn vẹn, chấp nhận đi theo con đường do Chúa hoạch định.
Từ bỏ mình rất khó, từ bỏ cái tôi càng không dễ, tuy nhiên đã có nhiều người giống như ông Gia Kêu và Mát thêu, hành nghề thu thuế đã làm được, giống như cô Ma đa len na vốn sống buông thả nhưng sau, đã làm được, cũng như nhiều người khác đã làm được. Chúng ta, là Ki tô hữu có thể từ bỏ “cái Tôi” một khi ta dám chấp nhận sự dạy dỗ của Lời Chúa và kết hiệp với Chúa, được Chúa giúp sức cho.
Tập hít thở trong Thần khí Chúa:
⦁ Có lẽ chúng ta phải nhìn lại thái độ của chúng ta đối với Thần Khí, chúng ta cần phải gắn bó nhiều hơn với Chúa Thánh Thần và tập thở từng giây phút Thần Khí mà Chúa Giêsu thổi trên chúng ta khi Người hiện ra với chúng ta và nói rằng: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
⦁ Mỗi lần chúng ta nhớ đến Chúa Thánh Thần và cầu xin Ngài là mỗi lần chúng ta thở Thần Khí. Một ngày chúng ta dành chừng 5 phút, ngồi ở bàn làm việc hay nằm trên giường trước khi ngủ, chúng ta nói thầm với Chúa Giêsu khi chúng ta hít khí vào: “Lạy Chúa, xin ban Thần Khí cho con”. Thần khí là sức mạnh, niềm vui, tình yêu, bình an, ân sủng của Người được đưa vào trong ta để biến đổi ta. Rồi khi chúng ta thở ra bằng miệng từ từ, thân xác ta thở ra thán khí thì tinh thần cũng thở ra những uế khí, tà khí ra khỏi con người mình. Đó là: buồn phiền, chán nản, lo lắng, sợ hãi, thất vọng, ghen tương… Đang khi đẩy chúng ra khỏi tâm trí, chúng ta cũng nói thầm với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, xin xua đuổi tà khí ra khỏi lòng con”.
Đời sống được Chúa Thánh Thần dẫn dắt thì rất tuyệt vời, cho dù trong đời ta đi qua bao nhiêu truân chuyên hay thác ghềnh khó khăn. Tôi xin được trích từ trang mạng công giáo hiện đang có nhiều người đọc nhất ở Việt Nam, có tên là “hành khất Ki Tô” để minh họa các kinh nghiệm sống động này của Cha Nguyễn ngọc Sơn:
Chúa mời gọi ta quên đi quá khứ tội lỗi của mình hay của người khác, để thông hiệp với Đức Kitô và phát huy những ân sủng lạ lùng của cuộc đời làm con Chúa Cha và cũng là người tình, là hiền thê của Đức Kitô
⦁ … Anh chị em cho phép tôi được chia sẻ một kinh nghiệm về việc Chúa Kitô chữa lành bệnh nhân để xác tín về đời sống siêu việt của con cái Chúa. Sáng Chúa Nhật hằng tuần tôi thường giúp các người bệnh từ nhiều nơi tìm đến. Hôm đó, có người con trai dẫn bà mẹ chừng 65 tuổi đến xin tôi cầu nguyện chữa lành vì bà bị đau toàn thân, nhất là ở tim gan ruột. Các bác sĩ ở Canada khám không ra bệnh sau khi xét nghiệm đủ thứ. Con cháu đưa sang Hoa Kỳ chữa cũng không khỏi nên đưa về Việt Nam. Nghe tiến trình chữa bệnh như thế nên tôi chỉ còn biết đặt tay trên đầu bà, đọc 4 kinh tôi thuộc là Kinh Xin Ơn Đức Chúa Thánh Thần, Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh, rồi tiễn bà về. Tuần sau, bà đến đưa tôi 1 vòng đeo tay bằng vàng, 1 răng nanh heo rừng cũng mạ vàng để đeo ở cổ và nói: “Thưa cha, hôm nay con đã khoẻ mạnh và hoàn toàn bình phục nên đến cảm ơn cha và thú thực với cha về bệnh tật của con. Con là 1 bà già sống gần nhà thờ nên sáng nào cũng tản bộ đi dự lễ. Vì già yếu không nín được đường tiểu nên con thường chui vào bụi cây bên đường. Mọi khi không xảy ra chuyện gì, nhưng một hôm con thấy đôi cánh tay đen đủi ôm chân con. Con rất hoảng sợ và phát bệnh từ đó. Sau khi các bác sĩ chữa không khỏi, gia đình đưa con đến nhiều thầy pháp. Họ cho con 1 lá bùa và con đã bỏ chung với áo Đức Bà đeo ở cổ vì con là đạo gốc! Còn chiếc lắc vàng đeo tay và răng nanh đeo cổ đã được ếm bùa Lỗ Ban. Hôm nay con giao lại tất cả cho cha để làm kỷ niệm”. ( nguồn: hanhkhatkito.org)
Sự việc khiến tôi từ đó hiểu được rằng Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục chữa lành cho con người trong thời đại hôm nay.
⦁ Niềm vui và hạnh phúc đời ta chính là Đức Giêsu. Người sẽ chuyển thông cho chúng ta sự sống vĩnh hằng, quyền năng vô biên, hạnh phúc vô tận để ta cảm nghiệm được mình được là con cái của Thiên Chúa giống như Người. Tôi đã cảm nhận được niềm vui đó cách đây 2 tuần khi sang giảng tĩnh tâm cho cộng đồng người Việt thuộc Nhà thờ Thánh Polycarp, đường Chapman, California, Hoa Kỳ. Hôm đó có Ông Nguyễn Kỳ đến cám ơn vì Chúa đã chữa cho Ông khỏi bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Cách đây 3 tháng, bác sĩ cho biết ông bị ung thư và nói không thể sống quá 6 tháng. Bây giờ Chúa cho ông khỏi hẳn, không còn thấy triệu chứng của ung thư. (nguồn:hanhkhatkito.org)
Thiên Chúa chúng ta sống động vô cùng, giàu sang vô tận, đẹp đẽ vô song. Nếu chúng ta gắn bó với Chúa thì chúng ta cũng sẽ tốt đẹp, mạnh mẽ, giàu sang như thế
⦁ Tôi xin chia sẻ một kinh nghiệm riêng tư: Trong dịp cứu trợ đồng bào lũ lụt năm 2010, người ta yêu cầu Caritas Việt Nam hãy làm dự án xin các tổ chức nước ngoài yểm trợ. Tôi nghĩ rằng: đất nước chúng ta có nhiều người đóng góp rộng rãi và rất quảng đại… Chúng tôi cầu nguyện, và chúng tôi nhận được số thuốc trị giá khoảng 2 tỷ đồng của Công ty Rohto Mentholatum. Chị giám đốc thương mại của công ty này không có đạo, đến gặp chúng tôi và cho chúng tôi rất nhiều thuốc cần cho đồng bào lũ lụt dù chúng tôi chưa làm một đơn xin nào. Ngoài ra, bao nhiêu nhà hảo tâm khác đã góp tiền và vật dụng cho đồng bào nghèo khổ. Tôi thầm cảm tạ Chúa và cảm nhận được quyền năng vô biên của Ngài.
(nguồn: hanhkhatkito.org)
Sự kiện này nhắc nhở tôi quyền năng chữa lành kỳ diệu của Chúa Giêsu trong một số trường hợp khuyết tật vì lý do tâm linh
⦁ Tôi xin chia sẻ 1 trường hợp cụ thể. Cách đây 3 tuần một phụ nữ trung niên dẫn theo người con gái tên Hương, đang có thai hơn 7 tháng, đến xin tôi chữa cho con bà bị câm và điếc trên 2 tuần qua. Đi theo có cả người chồng, anh trai, cô và cậu của cô gái. Cô gái tỏ vẻ rất sợ hãi không muốn vào nhà nguyện, nên tôi đành tiếp tất cả trong phòng làm việc. Người mẹ cho tôi biết tình trạng của con, chạy thầy, chạy thuốc cũng đã nhiều mà bệnh không khỏi. Vì cô gái không nghe được nên tôi giải thích cho tất cả hiểu về sức khoẻ thể chất và tinh thần. Cô Hương cứ nhắm nghiền đôi mắt như ngủ.
Sau đó tôi mời mọi người có mặt vào nhà nguyện để ban bí tích Xức dầu Bệnh nhân và Xức dầu Trừ tà. Trong khi cử hành nghi thức, cô Hương không mở mắt và tỏ ra không biết gì. Nhưng cuối cùng, trước khi cho bệnh nhân rước lễ, tôi hỏi cô Hương; “Con có muốn rước Chúa không?”. Cô trả lời rõ ràng: “Con muốn”. Bà mẹ đứng bên cạnh buột miệng kêu lớn: “Con tôi nghe và nói được rồi!”..
(nguồn: hanhkhatkito.org)
Cảm tạ Chúa, vì cho dù ở đâu, thời nào thì Thần Khí oai quyền của Thánh Phao lô, Thần Khí thiết tha,hy sinh của Thánh Tê pha nô (Stephano), Thần Khí chữa lành và an ủi ở trong Thánh An Tôn, thánh Mác ti nô xưa và Thần Khí tuôn đổ trong Cha Nguyễn ngọc Sơn hôm nay,… và rất có thể là ngay cả trong bạn và trong tôi nữa ở thời đại hôm nay, vẫn đang có một cách dồi dào từ một nguồn duy nhất.Tôi xin mượn lời chia xẻ của Ngài để kết thúc bài làm chứng này.
“Lời nói tự nhiên chỉ mang lại niềm vui bình thường, nhưng khi ta thở được Thần Khí của Chúa Giêsu thì những lời nói của chúng ta có thể soi sáng cho tâm trí mù tối của con người, vực họ dậy khỏi tình trạng tê liệt, bất động, thậm chí chết chóc, của tâm hồn. Hơn nữa, Chúa Giêsu sẵn sàng ban cả những ơn chữa bệnh thể xác cho tất cả những ai muốn làm tông đồ, làm chứng nhân cho Người. Cầu chúc anh chị em trở thành người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến vì được tràn đầy Thánh Thần tình yêu của Đấng Phục Sinh”
Phan Sinh Trần
HỒNG ÂN LÃNH BÍ TÍCH RỬA TỘI THEO ĐẠO CÔNG GIÁO
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Một buổi chiều mùa hè năm 1992, nơi một tiệm hớt tóc ở thành phố Dreux (Bắc Pháp), một thanh niên bước vào tiệm. Trong tiệm lúc bấy giờ có cô thợ Valérie Baptiste và cô chủ Pascale.
Thanh niên – khách lạ đến tiệm lần đầu – có mái tóc quăn và dài. Đến tiệm hớt tóc vào ngày thứ ba trong tuần hẳn chàng phải là công nhân của một hãng xưởng nào đó! Khi tò mò hỏi thăm thì thanh niên cho biết chàng tên Patrick và là cha Sở mới về nhậm chức!

Nghe vậy, Valérie vui mừng kêu lên:
– May quá, con đang muốn đến gặp cha!
Dĩ nhiên cha Sở vui vẻ ghi nhanh một cuộc hẹn.
Cuộc đời Valérie Baptiste là chuỗi dài những biến cố đau thương. Valérie chào đời năm 1968. Năm lên 4 tuổi, ông thân sinh ra đi vui sống với tình nhân mới, một phụ nữ khác, bỏ rơi vợ trẻ với ba đứa con thơ. Bà mẹ trẻ quá buồn nên lâm cảnh nghiện rượu và không còn khả năng chăm sóc ba đứa con nhỏ dại nữa. Người ta liền giao ba đứa trẻ cho một gia đình săn sóc. Nhưng gia đình này không khá giả mà cũng không tốt. Valérie lại được giao cho một gia đình khác và sau cùng được giao cho một ký túc xá do các nữ tu trông coi tại thành phố Chartres, cách thủ đô Paris khoảng 100 cây số. Nơi đây Valérie may mắn gặp những con người tốt có trái tim quảng đại và có đức tin Công Giáo chân chính.
Suốt thời gian sống xa mẹ ruột, Valérie không bao giờ quên hình ảnh mẹ và vẫn giữ nguyên tình thương dành cho mẹ, một người mẹ kém may mắn!
Valérie luôn luôn bênh vực mẹ tránh khỏi những lời trách cứ. Mỗi khi hoàn cảnh cho phép, Valérie đều đặn đến thăm mẹ.
Hơn 10 năm sau ngày bị chồng bỏ rơi và bị nghiện ngập, bà mẹ đáng thương từ trần, để lại nơi Valérie một nỗi niềm đau đớn không kể xiết.
Điều đáng nói là trong quãng đời thơ trẻ bơ vơ này, Valérie vẫn nuôi dưỡng tâm tình tôn giáo tự nhiên. Lúc mẹ còn sống cũng như sau ngày mẹ từ trần, Valérie luôn luôn cầu nguyện cùng Thiên Chúa cho hiền mẫu dấu yêu.
Rồi đến ngày Valérie kết hôn với Éric, chàng thanh niên sống cạnh nhà và là tín hữu Công Giáo. Valérie không ngờ rằng từ đây cuộc đời nàng chuyển sang khúc quanh mới. Khúc quanh trên cả hai bình diện tâm lý và tôn giáo.
Thật thế. Mẹ đỡ đầu của Éric chồng nàng là tín hữu Công Giáo sống đạo chân thành. Bà tỏ dấu mong ước trông thấy đôi vợ chồng trẻ được kết hôn theo phép đạo Công Giáo. Mong ước đồng nghĩa với việc Valérie phải lãnh bí tích Rửa Tội và gia nhập Giáo Hội Công Giáo.
Valérie vui vẻ chấp thuận đề nghị vì hai lý do. Trước tiên vì nàng muốn làm vui lòng mẹ đỡ đầu của chồng. Khi yêu, người ta muốn làm vui lòng người mình yêu. Thứ hai, vì nàng linh cảm rằng, bí tích hôn phối sẽ mang lại nhiều lợi ích thiêng liêng cho cuộc sống vợ chồng. Tận thâm tâm Valérie vẫn luôn tin tưởng vững chắc nơi tình yêu Thiên Chúa.
Và những ước nguyện trên đây được thực hiện khi cha Sở mới bất ngờ xuất hiện vào một buổi chiều thứ ba nơi tiệm hớt tóc mà Valérie Baptiste đang làm việc. Sau khi trình bày và được cha Sở đồng ý, Valérie vui vẻ nhập cuộc. Con đường chuẩn bị đưa nàng đến việc lãnh nhận bí tích Rửa Tội kéo dài hai năm.
Tiếp xúc đầu tiên của Valérie với Kitô Giáo là học hỏi Lời Chúa cùng với các tín điều buộc phải tin. Nhưng Valérie không đơn độc. Nàng thuộc về nhóm dự tòng, được hướng dẫn và được tháp tùng. Valérie rất thích đọc Phúc Âm và sung sướng khám phá ra Cuộc Đời của Đức Chúa Giêsu Kitô nơi dương thế.
Sau cùng, ngày chờ mong đã đến. Nghi lễ rửa tội diễn ra vào một Chúa Nhật tháng 5 trong Thánh Lễ nơi nhà thờ xứ đạo. Mọi người thân thuộc gia đình nhà chồng đều hiện diện, đặc biệt là mẹ đỡ đầu của chồng.
Nhắc lại kỷ niệm đáng nhớ của ngày trọng đại này, Valérie Baptiste tâm sự:
– Một Người nào đó, một sức mạnh nào đó đã đi vào cuộc đời tôi, đi vào trái tim tôi. Tôi không còn tỉ-tê khóc cho riêng mình nhưng tự chủ hơn và can đảm hơn. Tôi cũng hiểu người khác hơn. Tôi cầu nguyện cùng Thiên Chúa thường xuyên hơn. Tôi không đợi Chúa Nhật mới đến nhà thờ. Trái lại, bất cứ lúc nào cần hoặc mỗi khi gặp khó khăn, tôi tức tốc chạy đến nhà thờ. Nhà thờ là nơi nương ẩn vững vàng nhất cho tôi. Tôi thân thưa mọi sự cùng Thiên Chúa. Không có Ngài, tôi cảm thấy thật bơ vơ và thật đáng thương!
“Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước. Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện, để thấy uy lực và vinh quang của Ngài. Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương. Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài. Lòng thỏa thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca. Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ, suốt năm canh con thầm thĩ với Ngài. Quả thật Ngài đã thương trợ giúp, nương bóng Ngài con hớn hở reo vui. Trót cả tâm tình, con cùng Ngài gắn bó, giơ tay quyền lực, Ngài che chở phù trì” (Thánh Vịnh 63, 2-9).
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Câu chuyện của John Shirieda, S.D.B.
……Dòng Salesian qui tụ những Linh mục, Tu sĩ Nam Nữ sống trong Cộng đoàn theo gương Thánh Phanxico Salê. Cộng đoàn do Thánh Gioan Bosco thành lập (1815-1888). Hoạt động đặc biệt cho giới trẻ. Cha Thánh thành lập Dòng thường được mọi người gọi là Don Bosco đã chọn Thánh Phanxico Salê, một trong những Vị Thánh vĩ đại về đời sống thiêng liêng làm gương mẫu và làm quan thày cho Cộng đoàn.
Cách nay hơn 25 năm, gia đình tôi gồm có mẹ, chị, anh tôi và tôi. Mỗi buổi sáng, chúng tôi đều tụng kinh trước tượng của Đức Phật trong căn nhà nghèo nàn tồi tệ của gia đình. Việc tụng kinh này thể hiện lòng sùng kính sốt sắng của chúng tôi với Đức Phật. Thường thường mỗi buổi sáng chúng tôi còn dâng lên bàn thờ một chén gạo nữa.
Tôi không đề cập tới cha tôi ở trên và nhấn mạnh đến căn nhà ngèo nàn, tồi tệ của chúng tôi, vì sự tàn ác của chiến tranh đã đưa gia đình tôi vào cảnh túng cực khổ sở. Cha tôi là một sĩ quan trong một Trung Đoàn Bộ Binh đã tử trận tại đồng bằng Trung Hoa vào năm 1937.
Căn nhà của chúng tôi tại Kagoshima đã biến thành một đống gạch vụn sau trận dội bom kinh hoàng cuối cùng của Hoa Kỳ. Ý muốn được sống gần bà nội của chúng tôi đã khiến chúng tôi phải đi xa thành phố hơn 50 dặm đường. Nhưng ngay cả tại vùng ngoại ô này cũng toàn là hoang địa và đổ nát.
Trong suốt nhiều năm theo dõi chiến tranh với lòng ái quốc và sự lo lắng, đã có lần tôi nghĩ rằng mình sẽ phải trở thành một chiến sĩ theo chân cha tôi. Có thể tôi sẽ chỉ can đảm bằng cha tôi thôi, nhưng chắc chắn tôi sẽ may mắn hơn. Sự ngèo túng của gia đình cần sự hiện diện của tôi và niềm thất vọng của Hoàng gia Nhật khiến giấc mơ của tôi tàn lụi. Vấn đề quan trọng là làm sao có được một đời sống thích nghi với hoàn cảnh. Tôi phải bắt đầu từ mái ấm gia đình: Gỗ lạt ở Nhật đầy dẫy, làm một căn nhà để trú mưa trú nắng không phải là chuyện khó, nhưng vấn đề là đào đâu ra đinh để đóng những tấm gỗ vào với nhau?
Một đứa bạn của tôi đưa ra sáng kiến rất hay để giải quyết khó khăn này: Hắn ta đề nghị tôi ăn cắp đinh từ một ngôi nhà thờ Công Giáo gần đó đang xây cất sắp xong dưới sự trợ giúp của quân đội Hoa Kỳ.
Ý nghĩ ăn cắp làm chùn bước chân tôi, nhưng đinh hiện quá cần cho việc làm nhà. Hơn nữa, lấy cắp của cải của kẻ thù và của đạo Công Giáo đối với tôi lúc đó là việc phải làm.
Một hôm nọ, vào buổi giữa trưa, khi các công nhân xây cất nhà thờ đang nghỉ việc để ăn cơm, tôi thực hiện ý định. Tất cả mọi việc xảy ra êm thắm, cả người tôi từ trên xuống dưới, tất cả các túi đều đầy đinh.
Một cách hết sức cẩn thận, tôi trở ra bằng chính con đường tôi đã đi vào lúc trước. Nửa đường, một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu tôi: Thử nhìn xem trong căn nhà mới cất có gì trong đó? Tò mò mạnh hơn sự sợ hãi, tôi hì hục leo lên một cửa sổ để nhìn vào bên trong.
Ngay lúc đó, một ông Cha đang đọc kinh trong nhà thờ giật mình vì tiếng động do tôi gây ra, ông ngước mắt nhìn lên và trông thấy tôi đang đứng ngoài cửa sổ.
Như một luồng điện cao thế chuyển qua thân thể, trước khi kịp nghĩ ngợi, tôi nhảy đại xuống và chạy bán sống bán chết. Tuy nhiên, không hiểu bằng cách nào, ông Cha đã xuất hiện đứng trước mặt tôi, hai tay ông giữ lấy vai tôi. Tôi muốn vùng chạy, nhưng so với khổ người Tây Phương, tôi thấp và bé quá, nhất là với sức nặng của số đinh trên người, tôi thật sự lúng túng.
Thế là tôi bị bắt quả tang đang ăn cắp. Tôi run rẩy trong tay của người chủ to lớn, một người ngoại quốc, một ông Cha Công Giáo. Thật là một xỉ nhục cho gia đình và cho dân tộc tôi.
Tưởng tượng ra chân tay tôi bị trói, bị nhốt tù trong một căn phòng nhỏ hôi hám. Tôi nghĩ tới mẹ tôi, một người mẹ luôn luôn dạy tôi “Masayuki” có nghĩa là “một người công chính”, luôn luôn dạy tôi phải thật thà. Thật là ghê gớm nếu mẹ tôi biết rằng sau bao nhiêu thì giờ và công sức đã bỏ ra để giáo dục con, kết quả là tôi trở thành một đứa ăn cắp. Tôi đã làm nhục mẹ, phản bội lại tất cả những gì mẹ đã tin tưởng nơi tôi từ thuở ấu thơ. Vì nghĩ như thế, nên trên khoảng đường ông Cha dẫn tôi trở lại chỗ để đinh, tôi năn nỉ với ông: “Cha muốn phạt hay làm gì tôi, Cha cứ làm, nhưng xin Cha một điều là đừng cho mẹ tôi biết.”
Thật không ngờ, khi dẫn tôi đến chỗ để đinh bên cạnh ngôi nhà thờ vừa cất xong, ông Cha với tay lấy thùng đinh, hốt đinh trao cho tôi nhiều đến nỗi tôi không thể nào mang nổi. Ông mỉm cười thân ái, chúc tôi vui vẻ, chào tôi và bảo tôi đi về.
Tôi ngạc nhiên đến nỗi không thốt lên được lời nào. Tưởng chừng như vừa trải qua một giấc mơ. Suốt buổi chiều hôm đó, rồi suốt cả đêm, tôi bị ám ảnh bởi khuôn mặt của ông Cha ngoại quốc, người đã dạy tôi biết thế nào là cho đi, nhất là trong hoàn cảnh hậu chiến của quốc gia Nhật, dân chúng chỉ ước ao lãnh nhận hơn là cho đi.
Ngày hôm sau tôi trở lại nhà thờ với ước muốn sẽ được gặp lại ông Cha tử tế ngày hôm trước. Gặp Cha, chẳng biết sao, tôi lại kể với Cha rằng tôi không muốn trở thành một sĩ quan trong quân đội Nhật Hoàng nữa và tôi muốn trở thành Linh mục Công giáo như Cha. Tôi không muốn cho Cha biết rằng tôi đã bị hấp dẫn bởi Kitô Giáo. Nhưng qua hành động của Cha, tôi khám phá ra Thầy Chí Thánh của đời sống con người.
Đó là lần thứ nhất tôi đến thăm ông Cha ngoại quốc, khởi sự cho những lần đến thăm sau thường xuyên hơn. Dần dà, chị tôi, anh tôi cùng đi với tôi đến thăm Cha. Niềm tin của chúng tôi vào Đức Phật dần dần chuyển hướng sang Đức Tin vào Chúa Kitô qua cách sống “nhân chứng” của người Công Giáo.
Vào Mùa Phục Sinh năm 1947, chị tôi rửa tội theo đạo. Năm sau đó, vào Ngày Lễ Đức Mẹ Lên Trời, chính bức tường đã chứng kiến cho hành động ăn cắp của tôi, lần này làm chứng cho những bước chân mạnh dạn của tôi tiến vào Thánh đường trong tiếng Thánh ca thánh thiện. Chính ông Cha đã “chộp” được tôi trong hành động ăn cắp ngày nào là Cha Chủ sự đại diện Giáo Hội đón nhận tôi và anh tôi gia nhập đoàn chiên của Chúa.
Mẹ tôi là người duy nhất còn lại trong gia đình vẫn trung thành với Đức Phật. Đã có lần mẹ tôi dọa là mẹ sẽ từ chúng tôi nếu chúng tôi theo Đạo Công Giáo. Mẹ nói: “Nếu các con theo Đạo ấy, các con không còn là con cái của mẹ nữa!”
Thời gian trôi qua với đời sống khiêm nhường, cần cù, bác ái thật thà trong Đức Tin của chúng tôi ảnh hưởng từ ông Cha ngoại quốc đã làm dịu mẹ tôi khiến mẹ tôi cũng bắt đầu tìm hiểu về Giáo Hội Công Giáo.
Chúng tôi vẫn sống chung dưới một mái gia đình. Sau khi theo đạo, chị, anh tôi và cả tôi nữa đều muốn đi theo con đường của ông Cha ngoại quốc khả kính.
Năm 1950, cả ba chúng tôi đều gia nhập Dòng Salesian.
Năm 1955, chính ông Cha ngoại quốc, người hướng dẫn chúng tôi và đã đánh thức ơn Thiên triệu trong gia đình tôi đã hy sinh mạng sống của mình cho một người anh em Nhật Bản: Người bạn Nhật của chúng tôi bị kẹt trong một phòng học đang bốc cháy. Cha đã không ngại nguy hiểm lăn mình vào cứu. Tay ôm người thiếu niên Nhật, cả hai đều tử nạn trong ngọn lửa ngút trời.
Cha đã vẫn thường nói: “Cha yêu nước Nhật lắm, ước gì Cha được hy sinh mạng sống để trở thành một nắm đất cho nước Nhật!”. Chúa đã giúp Cha thực hiện ước vọng cao vời đó.
Đời sống và cái chết của Cha Adino củng cố Ơn Thiên Triệu của tôi thật nhiều. Tôi quyết định sẽ phải trở thành “Ông Cha Ngoại quốc Adino” thứ hai
Năm 1956, tôi được phép sang Ý Đại Lợi du học và gặp lại người mẹ của Cha Adino. Người mẹ này đã trở thành người mẹ thứ hai của tôi. Tôi ở lại Ý Đại Lợi tu học và chấm dứt chương trình năm 1967.
Giờ đây mẹ của chúng tôi đang sống cô độc tại một quận lỵ hẻo lánh nơi miền Nam nước Nhật. Bà bỏ hết phần đời còn lại để truyền giáo. Anh tôi, Linh mục Anthony, cũng thuộc Dòng Salesian như tôi đang dạy học tại Miyazaki. Chị tôi, Nữ tu Lucy cũng tu Dòng Salesian đang học thêm Thần học tại Học Viện Higher Institude, tỉnh Turin, Ý Đại Lợi.
Tôi hiện đang làm Bề Trên cho Chủng Viện Salesian và dạy Thần Học Tín Lý tại Viện Đại Học Sophia, Nhật Bản. Tôi có nhiệm vụ huấn luyện các Linh mục trẻ cho nhà Dòng và cho Giáo Hội. Ước vọng của tôi là làm sao hướng dẫn các Linh mục trẻ và cả chính tôi nữa theo chân “ông Cha ngoại quốc”: Linh mục Adino Roncato.
Dòng Salesian qui tụ những Linh mục, Tu sĩ Nam Nữ sống trong Cộng đoàn theo gương Thánh Phanxico Salê. Cộng đoàn do Thánh Gioan Bosco thành lập (1815-1888). Hoạt động đặc biệt cho giới trẻ. Cha Thánh thành lập Dòng thường được mọi người gọi là Don Bosco đã chọn Thánh Phanxico Salê, một trong những Vị Thánh vĩ đại về đời sống thiêng liêng làm gương mẫu và làm quan thày cho Cộng đoàn.
Anh chị Thụ & Mai gởi
MẸ NIỀM CẬY TRÔNG, CHƯA THẤY AI XIN MẸ VỀ KHÔNG
Maria TRẦN THỊ HƯỜNG, Nhóm BVSS Hà Nội
Trích EPHATA 687
“Mẹ niềm cậy trông, chưa thấy ai xin Mẹ về không”. Đó là điều chắc chắn cho những ai biết trông cậy, tín thác nơi Mẹ Maria. Tôi và gia đình tôi là một nhân chứng cho điều này, xin được lần lượt kể lại ít là 3 câu chuyện:
Chuyện thứ nhất: Tôi lập gia đình
Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình nền nếp đạo gốc cha truyền con nối… Khi trưởng thành tôi lập gia đình với chồng tôi giáo sư Đỗ Mạnh Môn dạy tại Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội, một gia đình cha mẹ là giáo viên theo đạo Phật. Mặc dầu khi cưới, chúng tôi đươc cha xứ ban “phép chuẩn” ( Đạo ai người nấy giữ ), nhưng do khác đạo nên nhiều khi bản thân tôi vẫn buồn và lo lắng vì “chưa được nên một hoàn toàn trong tình yêu của Chúa”…
Thế rồi tôi chỉ biết cầu nguyện và trông cậy vào Chúa, vào lời cầu bầu của Mẹ Maria quan thầy của tôi. Hàng ngày tôi đọc kinh Hãy Nhớ: “Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào đến kêu xin cùng Đức Mẹ mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời…” Tôi đọc kinh này với lòng tha thiết nguyện xin Mẹ cứu giúp, chở che gia đình tôi và xin Chúa cho chồng tôi tìm được Chúa để chúng tôi hạnh phúc nên một trong Chúa.
Thế hệ chúng tôi đã lớn lên và tồn tại dưới chế độ CS Việt Nam, vì thế việc chồng tôi tìm Chúa và theo Chúa không dễ dàng như trong vòng 20 năm gần đây của thời buổi hiện tại. Các bạn có điều kiện, các cha ở các Giáo Xứ và Nhà Dòng mở các lớp Giáo Lý Hôn Nhân, Giáo Lý Tân Tòng. Còn ở thế hệ chúng tôi, không những chẳng có được các lớp Giáo Lý mà còn rất nhiều khó khăn cản trở của phía chính quyền vô thần…
Tôi đã cầu nguyện và cầu nguyện tha thiết trong suốt 40 năm cho chồng tôi tìm được Chúa. Tôi hy vọng trong tiệc cưới Cana, Mẹ đã thương nói với Chúa: “Nhà này hết rượu” và Chúa đã làm cho nước hóa thành rượu ngon. “Mẹ nguồn cậy trông, chưa thấy ai xin Mẹ về không…” Cứ thế tôi tín thác vào Mẹ Maria của tôi.
Và cuối cùng, Chúa đã thương cho chồng tôi gặp và theo Chúa một cách “tự nguyện”, lại còn hết sức sốt sắng nữa. Một buổi sáng tháng 8 năm 2010, như vậy là cách nay đã 6 năm, chồng tôi nói vớitôi:
“Bà ơi ! Tôi muốn theo Đạo Chúa để được ở cùng bà khi ra đi về với Chúa”. Tôi ngỡ ngàng hỏi nhà tôi:
“Ông là con trưởng và là trưởng tộc, ông theo Đạo Chúa thì tôi phải về quê hỏi bên họ Đỗ của ông, ít nhất cũng phải hỏi gia đình, anh chị em ông chứ.” Chồng tôi trả lời: “Chẳng phải hỏi ai cả, tôi ngần này tuổi đầu, tôi biết tôi tin vào ai chứ !”
Mừng vui và quá đỗi ngạc nhiên tôi hỏi ông: “Ông muốn mời cha nào đến giúp ông hiểu thêm về Chúa, về Đức Tin Công Giáo, trước khi ông nhận Bí Tích Thánh Tẩy không ?” Không ngần ngừ ông nói:
“Bà mời cha Bề Trên Vũ Khởi Phụng, DCCT Thái Hà, có được không ?” – “Ồ được chứ sao không ?”
Thực ra, trong thời gian trên 40 năm ông sống với tôi. Ông đã có dịp cùng tôi gặp và tiếp xúc với nhiều đấng bậc trong Hội Thánh mà trong việc Tông Đồ tôi thường gặp như: Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn, Đức Hồng Y Phạm Đình Tụng và cha giáo Trịnh Hưng Kỷ, cha Nguyễn Văn Đạt và các cha DCCT… Không ngờ qua những cuộc trò truyện tiếp xúc với các ngài, ông đã nhận được ơn Chúa mà dần dần đã tin vào Người. Và thế là khi tôi đến ngỏ ý với cha Vũ Khởi Phụng, Bề Trên DCCT Thái Hà, Hà Nội, thì cha hiểu và vui mừng nhận lời ngay.
Sau hơn một tháng cha đến giúp chia sẻ củng cố niềm tin của ông vào Chúa, ông đã được chính ngài cử hành các Bí Tích Thánh Tẩy, Thêm Sức và Rước Chúa lần đầu tại Nhà Thờ Sainte Marie Dòng Saint Paul, phố Hai Bà Trưng, Hà Nội, với rất đông các bạn bè trí thức của ông tại trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội. Các soeurs Dòng Saint Paul, Đa Minh, Mến Thánh Giá Hà Nội và mọi người thân của gia đình chúng tôi, cả lương lẫn giáo đều đến dự Thánh Lễ rất trang trọng và thiêng thánh, trao ban các Bí Tích cho ông Đỗ Mạnh Môn, chồng tôi.
Tạ ơn Chúa, sau ba năm chính thức tin theo Chúa, chồng tôi đã được đón về bên Chúa theo
đúng nguyện vọng của ông lúc tuổi già.
Chuyện thứ hai: Tôi sinh con đầu long
Tôi lập gia đình từ năm 1964, mà mãi tới năm 1968 mới sinh con đầu lòng. Ở Hà Nội thời chiến bắt đầu từ năm 1964. Sau Tết Mậu Thân năm 1968, Hà Nội đã hứng bom đạn của Mỹ thật ác liệt. Lúc bấy giờ mọi người sơ tán ra xa khỏi Hà Nội hàng trăm cây số. Cơ quan nơi tôi làm việc trực thuộc Hà Nội nên vào diện phải ở lại Hà Nôi để… “bảo vệ Thủ Đô” ! Vậy mà tôi lại được miễn trừ vì đang có bầu. Chồng tôi cũng đã sơ tán theo trường Đại Học Bách Khoa lên đến tận biên giới Na Sầm, tỉnh Cao Bằng, cách Hà Nội hơn 300 cây số. Thế là coi như gia đinh ly tán bởi
chiến tranh, không còn ai là người thân ở Hà Nội lúc bấy giờ. Tôi nhớ rất rõ: Giữa bom đạn ngày 12.4.1968, tôi chạy từ nơi đang sơ tán về nhà tại 40B phố Hòa Mã, Hà Nội, để chuẩn bị ít tã lót, áo quần cho cuộc “vượt cạn”. Về tới nhà không gặp một ai kể cả hàng xóm. Trong tiếng bom đạn xé trời, loa truyền thanh oang oang: “Máy bay Mỹ cách Hà Nội 80 cây số, 60, 50, 40 và máy bay địch đã vào Hà Nội… Mời đồng bào xuống hầm trú ẩn gấp…” Với chiếc bụng bầu lặc lè, tôi làm sao có thể xuống hầm trú ẩn khi bắt đầu thấy đau quặn, trở dạ sanh con ? ! ?
Tôi ra khỏi nhà. Khi ấy mọi người đã xuống hầm trú ẩn an toàn cả rồi mà tôi thì vẫn một mình lững thững đi trong tiếng gầm rú của máy bay B52 và tiếng pháo cao xạ rầm rầm đáp trả. Tôi tìm đến nhà hộ sinh để “vượt cạn” một mình… Có nơi tôi vừa đi qua, thì bom rơi trúng căn hầm có mấy người trú ẩn…
Lúc gian nguy, “khi gặp những sự thiếu thốn”, tôi thường chạy đến kêu cầu Mẹ Maria cứu giúp. Tôi thầm thĩ kêu xin Mẹ Maria, quan thầy của con, xin đến bên con lúc này… Và như có bàn tay vô hình nâng đỡ, tôi thấy mình như có một sức mạnh để yên tâm tiếp bước. Gần 12 giờ trưa, tôi biết mình đang trở dạ. Tôi cố lê bước đến nhà hộ sinh B chỉ cách nhà tôi có vài ba cây số mà phải mất hơn một giờ đồng hồ !
Cô y tá trực hỏi ráo hoảnh: “Có ai đi cùng không ?” Tôi trả lời: “Không !” Cô ấy tiếp tục căn vặn:
Bom đạn rầm rầm thế này mà đi đẻ một mình à ?” Rồi cô chỉ tay nói trống không: “Vào kia, phòng tay trái ! Chuẩn bị thay áo váy đi…”
Vào phòng chờ sinh, cơn đau tiếp tục dồn dập hơn, tôi mệt rũ người, và cũng quên bẵng từ sáng tới giờ hơn mười mấy giờ đồng hồ chưa ăn uống gì cả. Bụng đói miệng khát, nhưng tôi vẫn cố gắng chịu đựng vì sau khi thăm khám, bác sĩ bảo: “Con so, chưa vỡ ối, còn lâu mới sinh…”
Tôi vừa ngả lưng thì cơn đau lại tiếp tục, không thể nằm được, tôi cố ngồi dậy kéo cỗ tràng hạt đang đeo trên cổ, miệng đọc 3 Kinh Kính Mừng rồi đọc tiếp kinh Hãy Nhớ: “Mẹ ơi ! Không ai kêu cầu Mẹ mà về không… Lúc này con đang trong cơn khốn khó gian nguy… Đi biển có bầu có bạn, còn con vượt cạn một mình ! Mẹ ơi, bên cạnh con không một người thân, xin Mẹ đến bên nâng đỡ con lúc con sinh nở Mẹ nhé…”
Tôi nghiến răng chịu đựng cơn đau suốt từ 12 giờ trưa ngày 12 sang đến 1 giờ sáng hôm sau,
ngày 13.4.1968. Cơn đau của người sinh con, lại sinh con đầu lòng như tôi, thì cuộc trở dạ đau gấp nhiều lần người sinh con dạ, nghĩa là từ con thứ hai, thứ ba trở đi.
Đau quá, máu ra đầm đìa ướt cả váy. Tôi đến gặp bà bác sĩ trực đêm hôm đó xin được khám, bác sĩ hỏi: “Đau lâu chưa, đã vỡ ối chưa ?” Tôi trả lời: “Chưa ạ !” Bác sĩ tiếp tục phán: “Con so. Chưa vỡ ối.
Vào giường nằm, còn lâu mới sinh !” Người với người, cùng là phụ nữ với nhau cả, vậy mà không được lấy một câu an ủi sẻ chia. Thái độ bác sĩ và y tá XHCN là vậy đấy, lạnh lùng, vô cảm trước người bệnh !
Tôi đau đớn lê bước quay về giường… Qua ba lần xin bác sĩ và hộ lý thăm khám thì cả ba lần họ đều lạnh lùng trả lời như trên. Tôi đã kiệt sức vì đau và đói. Với cỗ tràng hạt trong tay, tôi nằm phó linh hồn chờ chết và xin Chúa cho con được chết lành trong tay Chúa và Mẹ Maria quan thầy của tôi. Máu ra đầm đìa cả váy áo và tấm drap giường như nhuộm đỏ. Tôi thiếp đi, có lẽ vào khoảng 11 giờ trưa…
Tôi đang lịm đi chờ chết thì rất may, có một bà bác sĩ từ bên Bệnh Viện Phụ Sản Trung Ương xuống kiểm tra những ca sinh khó của bệnh viện tuyến dưới. Tôi còn nhớ rõ bác sĩ tên Nguyệt. Tôi vừa chợt tỉnh thì lại thiêm thiếp đi, thế nhưng tai vẫn loáng thoáng nghe bà bác sĩ đến bên hỏi chị nằm giường cạnh tôi: Còn chị nào chưa khám không ? Có lẽ chị ấy đã chỉ vào tôi và nói với bác sĩ: “Chị này con so đến từ trưa hôm qua, băng huyết mà chưa sinh được…” Bác sĩ Nguyệt quay sang nhìn thấy tôi “sắp chết” môi khô da tái, bà gọi hộ lý, y tá đến bế tôi đặt lên bàn khám, bà âu yếm an ủi và lấy nước cho tôi uống… Những lời nói, những cử chỉ âu yếm của bác sĩ Nguyệt như một sức mạnh làm cho tôi hồi tỉnh lại. Tôi thầm tạ ơn Chúa thương tôi, qua lời cầu bầu của Mẹ Maria, đã đến cứu tôi qua bàn tay của bác sĩ Nguyệt đây rồi.
Trên bàn sanh, tôi nghe các hộ lý, y tá quây chung quanh bác sĩ Nguyệt nói: “Con so lại chưa vỡ ối ?” Bác sĩ Nguyệt bảo: “Chưa vỡ ối thì bấm ối cho sanh, chứ để con người ta chết ngạt trong bụng sao ? Các chị đâu, bấm ối xong, mang máy hút ra…” Trước đó, vì là con so nên bác sĩ Nguyệt hướng dẫn tôi cách “vượt cạn”… Tôi đã làm theo hướng dẫn ấy nhưng khi cháu sinh ra, do ở quá lâu trong tử cung và vòng nhau cuốn cổ, cháu đã ngạt thở và tím đen, không khóc nổi… Bác sĩ liền cầm chân cháu giốc ngược đầu xuống, phát nhẹ vào mông cháu, và cuối cùng cháu đã cất tiếng khóc chào đời đúng vào 12 giờ trưa 13.4.1968, sau đúng một ngày thập tử nhất sinh…
Chuyện thứ ba: Tôi gặp tai nạn
Chuyện này xảy ra đã gần 50 năm, tôi vẫn còn nhớ “như in”, không bao giờ có thể quên
được… Tai nạn khủng khiếp xảy ra với tôi trong khi bom đạn và máy bay gầm thét trên bầu trời Hà Nội giữa buổi chiến tranh kinh hoàng. Dạo ấy phương tiện của mọi người dân tThủ
đô Hà Nội ra đường là xe đạp chứ không có xe máy hay ôtô như hiện nay. Ngoài ra cơ giới chỉ có xe UAZ 469 của Liên Sô viện trợ cho bộ đội hay xe Volga dành cho cán bộ lãnh đạo lưu thông trên đường phố mà thôi. Gia đình vợ chồng tôi cũng không ngoại lệ, cọc cạch chiếc xe đạp quanh năm. Hôm ấy là Chúa Nhật, chồng tôi chở tôi bế cậu con trai đầu lòng mới 6, 7 tháng tuổi từ nhà Nội bên quận Hai Bà Trưng lên thăm nhà Ngoại bên quận Hoàn Kiếm, đoạn đường chỉ khoảng 3, 4 cây số. Trong chiến tranh thì Hà Nội là mục tiêu của máy bay B 52 Mỹ ném bom xuống, bên này thì tên lửa, pháo cao xạ của bộ đội, của tự vệ thành Hà Nội bắn trả lên. Bom rơi đạn lạc chết người là chuyện thường ngày… Trên đường đi bằng xe đạp đến thăm mẹ tôi, nếu dừng xe xuống hầm theo loa báo động thì ít nhất cũng cả chục lần… Của đáng tội, trong chiến tranh người Hà Nội nghe tiếng loa báo động giục giã tại các ngã 4 đường phố mãi rồi cũng “quen” nên xe đạp của gia đình chúng tôi cứ tiếp tục đi bất chấp mọi sự… Xe đang ngon trớn xuyên qua lưới bom đạn thì tôi nghe một tiếng rầm ! Tôi cứ ngỡ bom nổ ngay bên cạnh, nhưng không phải ! Ấy lại là xe UAZ của quân đội nghe báo động nên hốt hoảng lạc tay lái đâm trực diện vào xe đạp của vợ chồng tôi đang phóng nhanh trên phố Nguyễn Du. Cú đâm quá mạnh đến nỗi xe đạp và chồng tôi bắn lên vỉa hè. Cháu bé tôi bế trên tay bắn ra khỏi vòng tay của tôi, còn tôi thì ngã sấp mặt xuống đường, toàn thân tôi nằm sát đất, xe UAZ lao ngang qua và tôi lọt hoàn toàn dưới gầm xe !
Môt tai nạn thật kinh khủng xảy ra với tôi ! Vậy mà sao tôi vẫn tỉnh, tôi còn nghe tiếng phanh kít
của xe UAZ trên mặt đường nhựa. Khoảnh khắc ấy, lạ thay, tôi vẫn kịp nghĩ đến Mẹ Maria thánh quan thầy của tôi, và tôi buột miệng kêu tên “Giêsu, Maria, Giuse” để phó linh hồn mình trong tay ba Đấng. Và rồi tôi nghe rõ tiếng mọi người và tiếng chồng tôi kêu cứu. Người ta cho xe lùi lại để có thể kéo xác tôi ra khỏi gầm xe, ai cũng tưởng tôi đã chết dí… Không ngờ, gầm xe chỉ xé nát quần áo tôi từ cổ xuống. Một ngón tay út bên phải bị bánh ô tô đè lên, tôi không nhấc được tay ra. Tôi lấy tay trái quờ vào đầu thấy đầu và tai chảy máu… Thế nhưng tôi vẫn tỉnh.
Bạn đã thấy một tai nạn kinh khủng nào mà người bị nạn nằm sấp hoàn toàn dưới gầm xe mà vẫn sống sót không ? Trong trường hợp tai nạn tương tự, nếu nạn nhân nằm lọt trong gầm xe thì đáng lẽ lái xe bình tĩnh tắt máy xe rối yêu cầu mọi người giúp đẩy xe, đề phòng lạc xe còn nổ máy có thể đè chết luôn nạn nhân bị thương, hoặc nếu đã chết thì có thể chết lần thứ hai ! Nhưng không, lái xe hôm ấy lại cuống lên trong tiếng kêu cứu của nhiều người, cứ nổ máy mà lùi xe… Nằm dưới gầm xe, khi nghe tiếng máy xe UAZ nổ ì ì cài số lui, tôi lạnh toát cả người và tiếp tục phó linh hồn tôi trong tay ba Đấng !
Không thể tưởng tượng được, như một phép lạ xe lùi về phía sau và tôi đã thoát khỏi gầm xe an toàn, thật sự tỉnh táo trước sự ngạc nhiên của mọi người chứng kiến tai nạn “có một không hai” ấy…
Máu từ đầu và tai bên phải tiếp tục chảy, nhưng tôi vẫn tỉnh… Và xe cấp cứu đến…
Về phần ông nhà tôi, khi người và xe đạp bắn tung lên vỉa hè, ông đã lồm cồm bò dậy không hề hấn gì, còn chú bé con sơ sinh rời khỏi vòng tay của tôi bắn ngược về phía sau thì được một người đi đường chạy đến bế lên. Khi xe cấp cứu đến nơi, người ấy trao cháu cho chồng tôi khi cháu đang còn khóc… Và cuối cùng, tôi còn kịp an tâm nhìn thấy ông nhà tôi bế con ngồi ngay bên cạnh băng ca của tôi trong xe cấp cứu, tôi cũng nhận biết có một bác sĩ đang sơ cứu cầm máu trên đầu và tai cho tôi… Xe cấp cứu bình an đến được Bệnh Viện Phủ Doãn, nay là Bệnh Viện Việt Đức nằm trên phố Phủ Doãn Hà Nội.
Cấp cứu đấy… nhưng do chiến tranh nên ưu tiên những nạn nhân bị bom đạn được chăm sóc trước và tai nạn xe như tôi thì phải xếp hàng chờ. Tôi lịm đi trong cơn đau đớn toàn thân, tôi nhớ miệng tôi vẫn không ngừng thầm thĩ lời cầu xin Mẹ Maria của tôi…
Hình như khoảng một giờ sau thì tôi tỉnh lại, đến lượt vào phòng cấp cứu, bác sĩ cho y tá tiêm giảm đau và khám lâm sàng… Họ rửa vết thương trên đầu và mấy ngón tay phải của tôi và cho siêu âm đầu ngay. Kết quả: không ảnh hưởng sọ não, chỉ chảy máu phần da bên ngoài. Bác sĩ chỉ đinh khâu 7 mũi trên đầu, băng bó đầu và mấy ngón tay. Chẳng biết y tá có quên tiêm thuốc giảm đau cho tôi khi khâu hay không mà tôi đau đớn quá chừng…
Khi thấy quần áo tôi bị gầm xe UAZ xé rách, bác sĩ lật lưng lên xem thì thấy một vết xước chạy dài từ cổ tới phần eo lưng, rất may, không có đụng chạm gì đến cột sống ! Đang giữa chiến tranh nên sau khi vết thương được lo liệu tạm ổn, bác sĩ kê đơn thuốc rồi tôi xuất viện cho về nhà, hẹn vài ngày sau khám lại và cắt chỉ trên đầu.
Về vụ tai nạn, không biết Công An có lập biên bản không, nhưng sau khi tôi ở viện về được hai hôm thì anh bộ đội lái xe đến nhà thăm và xin lỗi, anh nhận sai về phía mình, anh vừa nhận được bằng công nhận lái xe an toàn trong 15 năm của tiểu đoàn… Anh xin gia đình tôi không kiện cáo, nhưng tôi giải thích cho anh: có một bàn tay vô hình của Chúa Giêsu và Mẹ Maria đã cứu giúp gia đình tôi và cũng là cứu giúp chính anh khỏi một tai nạn thảm khốc có thể chết đến ba mạng người !
Đó là một phép lạ ! Và thật bất ngờ, anh cho biết anh cũng là người Công Giáo và chưa từng thấy một tai nạn nào mà người bị nạn nằm sấp gọn gàng dưới gầm xe mà vẫn còn sống sót, hơn thế nữa, chính anh còn vô ý nổ máy cho xe lùi lại mà không cán ngang qua người tôi. Vâng, anh lính lái xe cũng tin đó là phép lạ. Cuối câu chuyện, anh đã cùng tôi đọc ba kinh kính mừng tạ ơn Chúa và Mẹ Maria…
Vậy đó, suốt đời tôi, tôi đã hoàn toàn tín thác và trông cậy vào Lòng Thương Xót của Chúa qua Mẹ Maria. Đúng là “Có Mẹ sợ chi, có mẹ lo gì”…
Maria TRẦN THỊ HƯỜNG, Nhóm BVSS Hà Nội
Nguyễn Văn Đức, Tùy Bút / Tản Mạn
Nguyễn Văn Đức

Linh mục Yuse Nguyễn Thế Thuấn
Đây là một bài viết có tính cách riêng tư nhưng có nhiều thông tin giá trị được viết từ năm 2010. Là bạn thân của tác giả, anh Nguyễn Văn Đức, tôi xin gởi đến Ban Biên Tập. (Trần Đình Sơn Cước)
Ngày 28 tháng 3 năm 2010 là ngày giỗ thứ 35 của linh mục Yuse Nguyễn Thế Thuấn, Dòng Chúa Cứu Thế, người đã sống một cuộc đời âm thầm để chuyển ngữ toàn bộ cuốn Kinh Thánh gồm Tân Ước và Cựu Ước từ tiếng Hipri, Aram và Hilạp ra tiếng Việt. Với một cuộc sống âm thầm là vậy, nhưng cái chết của ngài còn âm thầm lặng lẽ hơn so với những người đã chết tức tưởi trong vụ chôn sống tập thể tại Huế – Thừa Thiên hồi Tết Mậu Thân 1968. Linh mục Thuấn ra đi, để lại một công trình dịch thuật Thánh Kinh còn dang dở. Ngài chưa dịch xong ba quyển : Yob, Cách Ngôn, và Baruk. Khi xuất bản toàn bộ cuốn Kinh Thánh, ban Xuất bản gồm học trò và bạn bè của ngài đã dịch ba quyển này từ bản tiếng Pháp ‘Bible de Jerusalem.’
Ngày 28 tháng 3 năm 2010 là Chúa Nhật Lễ Lá, nhưng ngày 28 tháng 3 của năm 1975 là Thứ Sáu Tuần Thánh. Thân mời các bạn trở lại với bối cảnh của khu vực tỉnh Lâm Đồng khi chiến cuộc Việt Nam đang ở vào giai đoạn dầu sôi lửa bỏng nhất. Sau khi chiếm huyện Di Linh được một hai tuần, quân Cộng sản đã thủ tiêu linh mục Yuse Nguyễn Thế Thuấn tại đồn điền Nguyễn Ngọc, xã Châu Thành, Tỉnh Lâm Đồng. Một Hạ sĩ quan Truyền Tin của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã can đảm vùi xác ngài tại vùng đó. Người ta nói ngài bị Cộng sản cuốc vào đầu, gây thêm một cái chết oan khiên vô tội vào một chiều Thứ Sáu Tuần Thánh. Nhưng tôi tin rằng, cha Thuấn trước khi chết đã theo gương Đấng mình tin để nói lên trong lòng,“Lạy Cha, xin tha thứ cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Luca 23 34). Trong cuốn sách” Cha Eugène Larouche, 51 năm Thừa Sai Dòng Chúa Cứu Thế tại Việt-Nam”, linh mục Rôcô Nguyễn Tự Do, CssR, có viết một đoạn về cha Thuấn. “Năm 1945, quân Nhật chiếm Huế và giam giữ các cha Canada tại Morin. Cha Nguyễn Thế Thuấn lúc đó còn là một chú Đệ Tử đã dùng chữ Nho để bút đàm với viên sĩ quan Nhật lúc họ lui tới nhà Dòng, mà theo sự suy nghĩ của Cha Thuấn là “nhờ đó tạo được bầu không khí cởi mở hơn, thân thiện hơn.” Nhưng năm 1975, cha Thuấn đã không tạo được bầu không khí thuận lợi đó tại Di Linh với những người Cộng sản Việt Nam khi ngài đi giảng Tuần Thánh ở Xứ đạo Di Linh theo lời mời của linh mục Chánh xứ Yuse Phùng Thanh Quang. Đây cũng là lý do dẫn đến cái chết của cha Yuse Nguyễn Thế Thuấn, người thầy kính yêu của tôi.

Mộ phần của cha Nguyễn Thế Thuấn tại DCCT Đà Lạt. Hình chụp Tháng 5/2010
Qua việc thủ tiêu một linh mục khá nổi tiếng như cha Thuấn, người Cộng sản đã để lộ chính sách “Thà giết lầm hơn bỏ sót” của họ, đồng thời cũng để trấn áp bất cứ một suy nghĩ nào gây bất lợi cho chính sách đó. Trong thực tế, suốt trong chiều dài của cuộc chiến Việt Nam và nhất là sau biến cố 1975, chính sách dã tâm này của Cộng sản đã gây ra không biết bao nhiêu cái chết vô tội. Giờ phút này, tôi nhớ đến câu chuyện của “Người Samari nhân hậu” trong Phúc Âm Thánh Luca khi nghĩ đến người Hạ sĩ quan QLVNCH, người cũng mang một quả tim nhân hậu vì đã mai táng người thầy của tôi. Khi có ý định viết bài này, tôi đã liên lạc về Việt Nam tìm tông tích người Hạ sĩ quan ân nhân hầu tôi có thể biết thêm chi tiết về cái chết, việc chôn cất và dời hài cốt của cha Thuấn về nghĩa trang DCCT Đà Lạt, nhưng được biết người Hạ sĩ quan tốt bụng này cũng đã qua đời cách đây vài năm. Sau biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975, anh Nguyễn Ngọc Lan, lúc ấy còn là linh mục, đã nhanh chóng áp dụng bài học bà Rebecca dạy cho Giacóp để xin Bộ Thông Tin Văn Hóa-Cục Báo Chí Xuất Bản cấp giấy phép xuất bản toàn bộ cuốn Kinh Thánh. Khi xin phép, anh Nguyễn Ngọc Lan chỉ xin in cuốn Kinh thánh Tân Ước của cha Nguyễn Thế Thuấn có trước năm 1975, nhưng tiện dịp nên đã in luôn phần Cựu Ước. Tân Ước hay Cựu Ước cũng là Kinh Thánh cả và cũng cùng một dịch giả. Tôi biết khá rõ chuyện này vì thời gian đó tôi còn ở tại quê nhà. Đó là cuốn sách in lậu đầu tiên sau năm 75 dưới chế độ Cộng sản. Thầy Robert Nguyễn Sĩ Nhàn phải chạy mượn tiền của giáo dân để mua thêm giấy lụa bên tòa Tổng Giám mục Sàigòn. Lần đó, tổng số in được 10.000 cuốn, vì không biết đến bao giờ mới được in lại.
Khi Nhà In Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp đã sắp chữ gần xong phần Tân Ước, ban Xuất Bản cử thầy Nguyễn Gia Trần và tôi lên giáo xứ Di Linh gặp cha Quang xin lại cuốn Tân Ước cha Thuấn hay dùng, nếu còn. Ý định là xem cha Thuấn có sửa chữa hay thêm bớt gì trong cuốn Tân Ước hay không, để có thể có một cuốn Tân Ước hoàn chỉnh theo ý dịch giả. Chúng tôi lấy chuyến xe sớm nhất đi Đà Lạt nhưng đến giáo xứ Di Linh thì chúng tôi xuống xe . Lúc này dân chúng còn đi lại không cần xin giấy phép của địa phương, chỉ có các linh mục thì phải cấm cung tại chỗ; do đó khi chúng tôi vào nhà xứ thì được gặp ngay cha Quang là chánh xứ họ đạo Di Linh. Sau vài câu chào hỏi và biết sự yêu cầu của chúng tôi, cha Quang lúc đó đang cầm sẵn trong tay chiếc mũ “di tích” của cha Thuấn (không biết làm sao mà cha Quang lại có được chiếc mũ này) nói với anh em chúng tôi: “Các thầy cho tôi cái mũ này để đội, xin cha Thuấn che chở cái đầu cho tôi”. Tôi trả lời : “Thưa cha, cha muốn lấy cái gì để làm kỷ niệm cũng được, chúng con chỉ xin cuốn Tân Ước”. Tiếp đó, cha Quang bước vào bên trong mang ra chiếc cặp táp của cha Thuấn. Tôi nhận ra ngay chiếc cặp này, vì cha Thuấn thường đeo nó bên mình mỗi khi đi ra khỏi nhà Dòng. Tôi nhận chiếc cặp từ tay cha Quang và đi vội ra khỏi nhà xứ để tránh bị theo dõi. Chúng tôi đi về cổng nhà thờ, liếc mắt nhìn phía nhà xứ thì thấy một tên công an cũng đang lò dò đi vào. Chúng tôi đi lên chợ Di Linh đón xe đi tiếp lên Đà Lạt và sáng sớm hôm sau về lại Sàigòn. Nhiệm vụ coi như đã hoàn thành. Sau này, khoảng năm 1993, khi hội “Hột Lúa” của Madame Geneviève Jouan, người Pháp, có giúp giáo xứ Di Linh thuốc men để chữa bệnh cho người nghèo, tôi có dịp gặp lại cha Quang nhiều lần nhưng vấn đề cái chết của cha Thuấn quá ư là tế nhị nên tôi chẳng dám hé môi hỏi thêm điều gì. Một thời gian sau, tôi được tin cha Yuse Phùng Thanh Quang cũng đã qua đời tại bệnh viện Nguyễn Trải, Sàigòn, hưởng thọ 77 tuổi. Ngài qua đời ngày 31 tháng 10 năm 2003, đúng vào ngày sinh nhật của mình. Cha Quang vẫn tin là cha Thuấn đã chết thay cho mình. Cách đây vài năm, tôi tình cờ may mắn gặp được hai sĩ quan Địa phương quân VNCH đã đóng quân ở Di Linh trước năm 1975. Họ cho tôi biết chính cha Quang đã rửa tội cho Trung Tá Nguyễn Văn Thiệu khi cha làm Tuyên Úy cho trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Nhưng khi Trung Tá Nguyễn Văn Thiệu trở thành Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, cha Quang đã không lợi dụng sự quen biết trước kia để trục lợi cho giáo xứ của mình. Một lần Tổng Thống Thiệu lên Đà Lạt họp, có cho trực thăng đến đón cha Quang nhưng ngài từ chối. Cha nói, ban phép bí tích rửa tội là công việc mục vụ, chẳng vì quen biết mà làm mất ý nghĩa thánh thiêng.
Cuộc đời của linh mục Nguyễn Thế Thuấn đã âm thầm lặng lẽ bao nhiêu thì cái chết của ngài càng lặng lẽ bấy nhiêu. Năm 1958, cha Yacôbê Nguyễn Hữu Sơn là bạn học cùng lớp với cha Thuấn dẫn một số Đệ tử Huế lên Đà Lạt nghỉ hè một tháng. Chúng tôi được trú ngụ tại nhà bà Paul trong Giáo xứ Tùng Lâm và thường được vào Nhà Dòng Đà Lạt chơi mà chẳng nghe cha Sơn nói gì về cha Thuấn cả. Phải đến năm 1964 khi cuốn Tân Ước chào đời, chúng tôi mới biết Dòng mình có một cha biết dịch Kinh thánh từ tiếng Hipri là cha Nguyễn Thế Thuấn. Tôi nhớ là cha Gérard Gagnon, DCCT, cũng có dịch Kinh thánh nhưng chắc là từ tiếng Pháp. Lúc đó chúng tôi thán phục cha Gagnon về khả năng tiếng Việt của cha. Cha Thuấn sống âm thầm để dịch cho xong cuốn Tân ước rồi mới bắt đầu đi giảng hay dạy học ở những nơi khác ngoài Học viện DCCT Đà Lạt. Các thầy Học viện cũng đã có dịp thấy bà con của cha Thuấn tới thăm ngài và đùa với ngài, “Chúng con biết cha có tổ quốc nhưng lại tưởng cha vô gia đình chứ”. Tôi nghĩ, nếu ngài tiếp tục cấm cung trong phòng để dịch tiếp cho xong cuốn Cựu ước như ngài đã làm để hoàn tất cuốn Tân Ước thì hôm nay chúng ta đã có một bản dịch trọn bộ Kinh thánh của dịch giả Nguyễn Thế Thuấn.
Bản dịch nguyên thủy toàn bộ Kinh Thánh của cha Nguyễn Thế Thuấn, theo ngài cho biết, đã chứa đựng đầy đủ tính chất xác thực và tinh thần thần học xác tín của ngài. Nói cách khác, ngài không muốn có một sự sửa đổi nào của ai khác, nếu không được ngài thông qua. Tôi cũng nhớ ngài có viết một bài đăng trên báo Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp để đính chính những chỗ trong bản dịch Kinh Thánh của mình mà linh mục Yuse Trần Hữu Thanh, DCCT, tự ý sửa đổi. Cha Thanh đã có sửa đổi một vài từ ngữ mà không hỏi qua ý kiến của cha Thuấn khi dùng bản dịch Tân Ước của cha Thuấn để in sách Kinh thánh theo chương trình “Mỗi quân nhân, một Tân Ước” trước năm 1975. Nghĩa là, khi cho in toàn bộ cuốn Kinh thánh, ban Xuất Bản đã thay thế một ít danh từ mà có thể họ cho là không quan trọng. Đặc biệt danh xưng ‘Thần Linh’ trong bản dịch đã được thay bằng danh từ ‘Thiên Chúa’ có lẽ để cho phù hợp với thông thường”. Trong bản dịch nguyên thủy, khi dùng chữ Thần Linh, dịch giả Nguyễn Thế Thuấn có ý nói đến sự ‘Mặc khải tiệm tiến’ của Thiên Chúa dành cho con người. Ý của ngài muốn cho chúng ta biết rằng loài người trong quá trình nhận biết về Thiên Chúa cũng đã phải trải qua nhiều giai đoạn trong cuộc hành trình đức tin, nghĩa là chúng ta phải dần dần mới hiểu thêm về Thiên Chúa. Điều này dễ nhận ra hơn khi nói rằng con người, trong cuộc sống hằng ngày, cũng cần phải có yếu tố thời gian và kinh nghiệm rồi mới hoàn toàn hiểu được cuộc đời là gì. Huống hồ đây là một phạm trù của khoa Thánh kinh học. Hiện nay tôi không có trong tay bài đính chính viết trên báo Đức Mẹ HCG của cha Thuấn, nhưng nếu tôi nhớ không lầm thì trong Phúc Âm Thánh Luca (13:10) cha Thanh đã sửa chữ “Nhân ngày Hưu lễ” thành “Ngay ngày Hưu lễ”. Và cha Thuấn đã phải đính chính lại. Ngài phải đính chính ngay cả những chữ xem ra bình thường, huống chi là “danh xưng Thần Linh” đã bị thay thế bằng “danh từ Thiên Chúa”. Thế mới biết lãnh vực kinh điển thật là tỉ mỉ từng chữ. Nhưng khi in bản Cựu Ước thì linh mục dịch giả Nguyễn Thế Thuấn đã qua đời. Ngài là dịch giả nhưng cũng chẳng có cơ hội để viết thêm vào trước bản dịch một lời tâm sự với người đọc bản dịch của mình. Ngài sống âm thầm, và chết cũng rất âm thầm. Âm thầm như chính công việc của ngài.
Rồi những lợi ích tinh thần mà bao nhiêu người lĩnh hội được do việc cha giảng dạy hoặc nhờ đọc cuốn Kinh Thánh của ngài dịch, cũng âm thầm chẳng kém. Tôi có một kỷ niệm liên quan đến tinh thần Kinh Thánh của cha Thuấn. Năm 1965, ngài ra giảng tại Nhà Dòng Huế. Một anh bạn cùng lớp với tôi vào xưng tội với ngài về việc “chọc gái” sao đó. Tôi không nhớ anh ta lãnh bao nhiêu kinh phải đọc để đền tội để xem việc giải tội của một giáo sư Kinh thánh có màu sắc Kinh thánh không. Bù vào đó, người bạn có tâm sự với tôi điều cha Thuấn đã khuyên anh ta trong tòa giải tội. Cha khuyên bạn tôi: “Người ta không phải là đồ chơi”. Đến nay, tôi vẫn không quên lời khuyên đó. Sau này, một lần khi ngồi xem phim “Toy Story”, tôi thấy Woody nói to vào mặt Buzz, “You are a toy. T- O- Y”. Thỉnh thoảng khi có dịp dạy bảo con cái, tôi cũng nói với các con tôi, “ We are not a toy”. Từ “triết lý” của câu nói đó, tôi tìm ra một điều tâm niệm cho mình. Đó là, trong suốt cuộc đời tôi luôn ráng sống sao để không đối xử với người khác, nam cũng như nữ, và ngay chính bản thân mình nữa, như là đồ chơi. Tôi cảm thấy mình trưởng thành hơn nhờ vào bài học hàm chứa trong lời khuyên của cha Thuấn mà bạn tôi đã chia sẻ. Nhưng dù sai đó cũng chỉ là điều tôi gián tiếp học được qua câu chuyện của một người bạn. Còn câu nói, “Các thầy đừng phí uổng cuộc đời, vì chỉ có một lần” thì chính tai tôi đã trực tiếp nghe và học được nơi cha Thuấn là giảng sư của lớp tôi ở Nhà Tập. Những lần phí phạm cuộc đời, tôi nhớ đến câu nói này. Có thể cha Thuấn không hẳn là tác giả nguyên thủy của ý tưởng trong câu nói này, nhưng đối với tôi, tôi xem đó là của cha Thuấn vì lần đầu tôi nghe cha nói mà trước đó tôi chưa đọc được ở đâu hoặc nghe ai nói đến. Thông điệp của câu nói đó đã âm thầm nâng đỡ và dẫn lối cho tôi rất nhiều, nhất là trong thời gian tôi còn tu tập.
Trong khi viết bài này, tôi muốn tìm một tấm hình của cha Thuấn để kèm theo bài thì may mắn được cha Louis Đặng Đức Anh, DCCT, tiếp tay. Cha gửi ngay cho tôi một tấm ảnh hiếm quí của cha Thuấn mà một nhân viên trại gà Scala cũ ở Đà Lạt, chị Minh Phượng, còn giữ lại được qua bao năm tháng. Tấm ảnh do cha Bosco Phạm Minh Thiện, DCCT, học trò lớp đầu tiên của cha Thuấn, bấm máy. Hình chụp năm 1972 khi cha Đại diện Tổng quyền DCCT Roma qua kinh lý xem trại gà Scala hoạt động có đúng đường lối của Thánh Anphongsô trong phát triển kinh tế cho người nghèo hay không. Trong hình có cha Bề trên Giám Tỉnh Bạch Văn Lộc và cha Thuấn, khi đó đang đặc trách Nhà Dòng Đà Lạt. Chân thành cám ơn cha Louis Anh và chị Minh Phượng đã chia sẻ tấm hình có một không hai của cha Thuấn, và cầu xin cho cha Bosco Thiện được mạnh chân khỏe tay như trước khi gặp nạn để tiếp tục bấm máy và dịch sách.

Cha Thuấn tiếp đón cha Đại diện Tổng quyền Rôma thăm trại gà Scala, Đà Lạt.
(Hình do cha Boscô Thiện chụp năm 1972.)
Khi đi định cư ở Mỹ tôi không mang theo được cuốn Kinh Thánh toàn bộ của cha Thuấn. Cách đây vài năm, cha Yuse Phạm Kim Điệp, DCCT, mang qua cho tôi một cuốn in lần đầu. Hình bìa do anh Hoàng Ngọc Biên, họa sĩ kiêm nhà văn của nhà Xuất Bản Trình Bày vẽ . Cuốn sách đã ngã màu theo thời gian. Và trước khi về Việt Nam, cha Louis Anh để lại cho tôi một cuốn in tại Mỹ năm 1980. Tôi rất mừng vì không ngờ Giáo Hội Việt Nam tại Mỹ in lại được cuốn Kinh Thánh này trên giấy lụa và hình bìa mạ vàng rất rõ nét. Người ta dùng kỹ thuật photocopy nên nội dung hoàn toàn giống như cuốn in tại Việt Nam. Chỉ khác là mở đầu bằng lời cảm tạ của linh mục Nguyễn Văn Tịnh và vài nét tiểu sử của dịch giả do DCCT ở Altadena, California, viết.
Hôm nay, tôi viết thêm một hai nét để bổ túc cho tiểu sử của thầy mình, linh mục Yuse Nguyễn Thế Thuấn, như là thắp lên một nén nhang trong lòng hầu biểu tỏ sự kính phục đối với một bậc thầy đáng kính. Phần nào, tôi cảm thấy hãnh diện được làm học trò của thầy, hân hạnh được thầy truyền đạt cho một triết lý sống trong bất cứ ơn gọi nào trong đời, trước khi thầy mình qua đời. Nhưng trước hết và trên hết, tôi hãnh diện không kém vì trọn bộ cuốn Kinh Thánh đã được dịch ra tiếng mẹ đẻ Việt Nam từ tiếng Hipri, Aram, và Hilạp, và lại do một linh mục Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam dịch. Dịch giả đó chính là linh mục Yuse Nguyễn Thế Thuấn, và chỉ có một mà thôi.
Mùa Phục Sinh 2010
CĐT Tôma Nguyễn Văn Đức
Nguồn: Bài do nhà thơ Trần Đình Sơn Cước gửi
