CHỨNG NHÂN KYTÔ HỮU

CHỨNG NHÂN KYTÔ HỮU

Bùi Ngọc Thắng.

Tôi vào chùa tu học Từ khi còn bé tôi đã thắc mắc tại sao linh hồn người chết có thể về ăn đồ cúng? Tại sao khi sống thì người ta bất lực nhưng sau khi chết thì linh thiêng và có thể phù hộ hoặc gieo họa cho bà con thân quyến? Những thắc mắc này thúc đẩy tôi vào chùa tu học. Trong chùa có bàn thờ một vị Bồ tát có nét mặt dữ tợn, cái lưỡi của ông dài hơn lưỡi rắn. Tên ông là Tiêu Diện Đại Sĩ. Theo giáo lý nhà chùa thì đây là vị thần cai trị các linh hồn vất vưởng đói rách không được ai cúng thức ăn. Mỗi buổi chiều nhà chùa cúng một bát cháo lỏng đặt ngay bàn thờ ông Tiêu Diện và tụng bài kinh Thí thực. Niềm tin này rất thich hợp với người bình dân Việt Nam. Tôi đã học giáo lý đạo Phật để tìm giải đáp, nhưng càng học càng có thêm những thắc mắc khó giải thích hơn. Ví dụ có chùa chuyên làm bùa Quang Minh và bùa Hải hội, để giải oan cho những linh hồn nghiệp nặng, chết nhầm vào ngày xấu. Ngày nay nhiều chùa bói toán xin quẻ. Là một tu sĩ tôi phải học nhiều giới cấm. Càng nhiều giới cấm người ta càng dễ phạm giới, vì thế có một giới cấm đặc biệt là tu sĩ cấp dưới không được tò mò giới luật của tu sĩ cấp trên. Mỗi sáng thức dậy, ai quên đọc câu thần chú trước khi đặt chân xuống đất là mắc tội sát sanh, vì vô ý đạp chết côn trùng trong ngày đó. Hoặc quên đọc câu thần chú uống nước, là mắc tội ăn thịt 8 vạn bốn ngàn con vi khuẩn trong một ly nước. Cạo đầu mà không đọc thần chú cũng có tội. Ở chùa ăn nhiều rau, lắm lần tôi thấy sâu chết trong rau muống luộc. Luộc những nồi rau to tướng như thế là giết rât nhiều sinh vật, thế nhưng không ai học câu thần chú luộc rau cả.

Ngày xưa Đức Phật cấm nam tu sĩ đứng tiển tiện, nhưng sau đó dân chúng tưởng rằng tất cả đệ tử của Phật là phụ nữ, Đức Phật phải hủy giới cấm ấy để tránh hiểu lầm. Vì giới luật nhà tu qúa chi li, nên không ai giữ được trọn vẹn một giới luật nào cả. Chẳng ai muốn tiết lộ sự phạm giới của mình. Đáng tiếc là đạo Phật không nhìn nhận một cách minh bạch về vấn đề tội lỗi. Để phá chấp người tu sĩ câp cao, học về ý nghĩa của sự phi giới và cao hơn nữa là vô phi giới. Mỗi khi ăn cơm, người tu hành đọc ba câu thề nguyện mà không một ai tin mình làm được. Thậm chí người ta đọc quen đến nỗi không cần một ý niệm tha thiết chân thành.

Một là từ bỏ tât cả việc ác (nguyện đoạn nhât thiết ác) .

Hai là làm trọn tât cả việc lành (nguyện tu nhât thiêt thiện).

Ba là hóa độ tât cả chúng sanh (thề độ nhât thiết chúng sanh). Khi học đến giáo lý cao siêu, tôi được dạy rằng không có tội lỗi, không ai tha tội cho ai, không có địa ngục, không có niết bàn, không ai dựng nên vũ trụ vạn vật mà chỉ do tâm con người tạo ra. Giáo lý nhà Phật không tin vào Đấng Tạo Hóa, không tin nguyên nhân khởi đầu, mà chỉ tin vào lý nhân duyên điệp trùng tiếp nối, khiến vạn vật lưu chuyển như là đang hiện hữu. Vạn vật vốn là vô thủy vô chung, không có cái gì vĩnh cửu (vô thường). Tâm con người chấp vào đâu thì có vào đó, chứ thật ra chẳng có cái gì hiện hữu thật sự. Ngay cả tôi đây cũng không phải là tôi. Phần đông tín đồ Phật giáo không hiểu giáo lý của Phật, mà chỉ nghe theo các vị tu sĩ. Đạo Phật cho rằng đời là bể khổ.

Có tám nguyên nhân chính gây ra đau khổ. Sinh khổ. Lão khổ. Bịnh khổ. Tử khổ. Thương yêu mà không được gần nhau là khổ (ái biệt ly khổ). Ghét nhau mà phải gần nhau là khổ (oán tăng hội khổ). Ước muốn không thành là khổ (cầu bất đắc khổ). Thân thể và tâm hồn mất thăng bằng là khổ (ngủ ấm thạnh khổ).  Giáo lý quan trọng đầu tiên của đạo Phật là Chân Lý Của Sự Đau Khổ. Muốn diệt đau khổ thì phải diệt sanh sản (diệt dục), diệt gìa nua (diệt lão), diệt bịnh tật, diệt sự chết. Nhưng chưa đủ, còn phải diệt thương yêu (ái nghiệp), diệt ham muốn (tham), diệt giận hờn (sân si). Muốn diệt khổ tuyệt đối thì phải diệt luôn cả ý muốn thành Phật (vì ai muốn thành Phật là còn tham). Đạo Phật tin vào luật quả báo thiện ác, nhưng không chấp nhận ai là đấng tạo ra luật quả báo thiện ác công minh, cũng không giải thích luật nhân quả công minh này từ đâu mà ra. Tôi cần mẫn học từng bậc, đến khi tốt nghiệp trường đào tạo tăng tài Phật Học Viện Nha Trang, tôi tự cảm thấy mình đi tu như thế vẫn không tiêu diệt bớt tội lỗi trong tôi. Chưa kịp tiêu diệt tội cũ, tội mới ló mặt ra trong tôi. Nếu có địa ngục, chắc tôi phải vào trước nhất. Làm một ông thầy tu phải biết che dấu tội lỗi để được các đệ tử thờ lạy khi mình còn sống. Người tu hành sau khi đã lên đến bực Đại Đức, thì khó hoàn tục vì được sự kính trọng quá cao và hưởng nhiều ưu đãi quá lớn. Tôi cởi áo nhà tu. Tự xét lấy mình tôi đã từng thất vọng trong con đường tu. Đã có khi tôi cảm thấy cần tìm một cái chết, để giảỉ quyết ngõ bí trong tâm hồn mình. Nhưng sau bao năm quen sống trong chiêc áo tu hành, tôi trở thành người thanh niên khờ khạo, vụng về, không thăng bằng và thất bại.. Ý nghĩ tự tử càng dễ xuất hiện trong tôi.Một cuộc đời rắc rối đầy rủi ro và thât bại như thế thì chẳng có gì đáng sống nếu theo con mắt phàm tục.

Lúc đầu tôi không có thiện cảm với Kinh Thánh, nhưng lạ thay, càng đọc Kinh Thánh, tôi càng thấy lời dạy của Chúa là rõ ràng và thực tế hơn giáo lý nhà Phật. Kinh Thánh nói về sự sáng tạo vũ trụ và Đấng Sáng Tạo, trong khi đạo Phật dạy rằng không ai dựng nên vũ trụ mênh mông vô lượng này cả, mà chỉ do tâm con người châp có nên mới có. Kinh Thánh dạy rằng Chúa là tình yêu, trong khi đạo Phật dạy rằng yêu là một sự cảm thọ, là ái nghiệp. Chúa dạy về tội lỗi, nguồn gốc của tội lỗi, quyền năng tha tội và cách giải quyết vấn đề tội lỗi tận gốc để chiến thắng điều ác. Nhưng đạo Phật dạy rằng tội bổn tánh không (tội lỗi vốn là không), không ai tha tội cho ai, con người phải tự mình thắp đuốc lên mà đi. Chúa dạy phải hiếu kính cha mẹ khi họ còn sống với mình, còn đạo Phật dạy cắt ái từ sở thân (lìa bỏ tình thương cha mẹ) như Đức Thích Ca đã lìa bỏ cha mẹ vợ con, nhưng lại thờ cúng cha mẹ sau khi họ đã qua đời. Chúa dạy chúng ta lấy thân thể mình làm đền thờ Ngài, nhưng Phật giáo dạy sự thờ phụng hình tượng trên bàn thờ gỗ, đá, xi măng. Chúa dạy con người dâng lời cầu nguyện để mở lòng tương giao với Chúa, nhưng Phật giáo dạy dâng nhang đèn, trầm hương lễ vật lên hình tượng, để bày tỏ lòng thành.

Chúa mặc khải ơn cứu rỗi để giải phóng con người ra khỏi bản tính tội lỗi trước, rồi sẽ học làm điều lành sau; nhưng Phật giáo dạy rằng con người phải giữ giới cấm, để tự làm cho mình trở nên toàn thiện, không cần ơn thiên thượng. Trên thực tế, con người dễ làm ác khó làm điều lành. Có những tu sĩ thật tâm tu niệm, họ tự cấm khẩu hàng tháng trời, cũng có vị tự nhập thất giam mình hàng tháng trong phòng kín để ngồi thiền hoặc tụng kinh. Nhưng bản chất của tội lỗi trong con người không thể xóa sạch bằng hành vi hãm mình khổ hạnh. Lắm khi vì hãm mình khổ hạnh, người tu sĩ vấp phải những tội lỗi kỳ cục hơn người ngoài. Trong giới tu sĩ Phật giáo có nhiều người tốt, nhưng người tốt chưa hẳn là người chiến thắng tội lỗi của mình. Thậm chí có người biết mình tu không được, đã từng đốt từng ngón tay để thề nguyện, quyết tâm tu; hoặc tự chặt đứt bộ phận kín của mình, nhưng sau đó vẫn phạm giới rất thê thảm. Chỉ có người quyết chí đi tu mới phải đau lòng khi thấy mình không làm sao tu được. Nhưng đa số tu sĩ khó rời chiêc áo, vỉ quyền lợi của một bậc tu hành trong Phật giáo qúa lớn. Người Phật tử phải thờ ba ngôi Tam bảo : Phật Bảo (tất cả các Đức Phật), Pháp Bảo (tất cả giáo lý nhà Phật), Tăng Bảo (hàng ngũ tu sĩ). Hồi đó tôi sợ nhất là mình được xêp vào hàng ngũ đáng tôn thờ, vì tôi nghĩ đây là lý do khiến tôi dễ vào địa ngục nhất. Khi ngồi trên cao cho hằng trăm người khác lạy, làm sao người ta thể hiện đức khiêm nhường và vô ngã trong thâm tâm?

Cầu nguyện Chúa có kết quả, tôi phải tin . Khi đọc Kinh Thánh, tôi thấy lời Chúa dạy rõ ràng và đơn giản. Nếu mình thật lòng thực hành là có thể thấy kết quả đúng hay sai. Lúc đầu tôi chỉ làm thử; nếu đúng tôi tin, nếu sai tôi bỏ Kinh Thánh. Sau khi tôi đã thử cầu nguyện âm thầm một mình, theo lời dạy của Chúa trong sách Gioan: 3:16. Chúa đã ban cho tôi những phép lạ thật kỳ diệu và thật là cụ thể. Bước đầu tiên tôi không dám tin lắm, nhưng nhiều lần cầu nguyện có kết quả tôi phải tin.

Ngày nay tôi sống trong Đức Tin của Chúa, sự cầu nguyện và kết quả của sự cầu nguyện chẳng khác gì mình thụ hưởng thức ăn điều độ và hít thở khí trời trong lành, ắt phải có sức khỏe tốt cho mình mà thôi. Sau khi trở về trong Chúa, tôi được Chúa thay đổi bản tính tội lỗi, để được mặc vào bản tính mới: tự do, nhẹ nhàng, khoan khoái thật là tuyệt vời. Chúa cho tôi đắc thắng tội lỗi mà không kiêu ngạo và Chúa cũng cho tôi thấy cái vực thẳm giữa sự thanh khiết và tội lỗi là rât mong manh, nhưng hai thế giới ấy cách xa nhau lắm. Mỗi ngày sống trong Chúa quả thật là qúy báu.

Dù bị thế gian hiểu lầm, bị xuyên tạc, tôi vẫn là một người hạnh phúc và yêu qúy mọi người. Không thất vọng, không nghi ngờ, tôi vui thỏa từng giờ, từng ngày. Đó là sự bình an, sự yên nghỉ mà Chúa hứa ban cho bât cứ ai muốn đi theo Ngài.

Tôi tiếp tục sống với Lời Chúa và nhận được những kết quả vô cùng lớn lao. Khi cầu nguyện linh hồn tôi bình tĩnh, tỉnh táo, nhẹ nhàng, khiêm hạ và thực tế chứ không mù mờ như khi ngồi thiền trước đây. Bản tánh nhân từ thánh khiết của Chúa, được bồi đắp thêm trong con người mới của tôi mỗi ngày rất cụ thể.

Đây là những kết quả qúy báu, để làm bằng chứng về nước Thiên đàng mai sau như lời Chúa hứa. Đối chiếu Phật Học và Kinh Thánh, nhất là kinh nghiệm tu hành theo đạo Phật với kết quả kỳ diệu trong Đức Tin Chúa ban cho tôi, tôi nhận thấy rằng Thái tử Tất Đạt Đa là một người thiết tha tìm con đường giải thoát, sau bốn lần ra khỏi cung vua để nhìn thấy cuộc đời toàn là đau khổ. Với bản tính một người Ấn Độ, thái tử đã suy niệm sâu xa về sự huấn tập đức tánh xấu trong con người, nhưng thái tử chưa thấu đạt nguyên nhân của sự huấn tập ấy, là tội lỗi của con người như Kinh Thánh đã nói rõ. Vì thế thái tử cho là nghiệp lực thay vì là tội lỗi. Tiếc thay thời đó Kinh Thánh Cựu Ước chưa được truyền qua Ấn Độ, mặc dù thái tử đã học nhiều tôn giáo khác nhau. Là một người thông minh vượt bực, lại có lương tâm nhạy bén, thái tử Tât Đạt Đa không thỏa mãn với những luồng tư tưởng và tôn giáo nặng thần bí theo văn hóa Ấn Độ. Sáu năm đầu sau khi từ bỏ hoàng cung để quyết chí tu học, thái tử đã thất bại với pháp môn khổ hạnh đầu đà. Rốt cuộc thái tử Tất Đạt Đa cương quyêt ngồi thiền bên bờ sông Ni Liên. Ngài thề rằng : Nếu ta không tìm ra chân lý thà chết chứ không đứng dậy khỏi chổ này. Khi ngồi thiền, thái tử đã thấy những hiện tượng nội tại như ngày nay nhiều người ngồi thiền cũng đã thấy. Từ đó Ngài nghĩ rằng mình đã thành Phật. (Ngày nay nhiều người ngồi thiền cũng đã tự xưng mình đã thành Phật). Giáo lý của Ngài đã bị các thế hệ sau thêm thắt qúa nhiều, khiến cho mâu thuẫn và bị mê tín hóa. Ví dụ Phật giaó Việt Nam có nhiều điều không bà con gì với Phật giáo Ấn độ. Các bộ kinh của Phật chỉ được truyền khẩu qua nhiều thế kỷ, trước khi được ghi lại bằng trí nhớ của môn đệ. Đó là lý do khiến kinh Phật bị thất bản và bị thêm thắt thành thiên kinh vạn quyển, khiến nhiều người học đạo đã lạc đường rồi mà vẫn chưa hay biết gì cả, hoặc có biêt phần nào cũng cam chịu nhắm mắt đưa chân. Phần đông người ta không đủ can đảm để tự hỏi đâu là chân lý ngoài các nghi thức cố châp và triêt lý mơ hồ. Vì không có chân lý, những mâu thuẫn sờ sờ cũng không ai màng che đậy. Ví dụ nghi thức quy y thì có ba câu thề nguyện, câu đầu là Qui y Phật, tôi thề sẽ không quy y, trời, thần, quỷ vật, nhưng câu nói đầu tiên ở cửa miệng người ta là Cầu Trời, khẩn Phật. Nghĩa là cầu Trời trước, khẩn Phật sau. Còn thờ lạy thì thờ lạy đủ các loại thần mà họ không biết, kể cả thần Quan Công, thần Hộ Pháp, thần chú, thần hoàng thổ địa, thần cô hồn các đảng.  Kinh nghiệm theo Chúa của tôi .

Sau khi tin Chúa, mọi thắc mắc của tôi đã được Kinh Thánh giải đáp cả ba mặt: thân thể, tâm trí và tâm linh. Tôi đã nhận được nhiều phép lạ lớn lao. Bản thân tôi được Ngài chữa lành bịnh. Những thói hư tật xấu của tôi được loại bỏ, để được thay thế vào những đức tánh mới mẻ, nhân từ, thánh khiết từ Chúa mà tôi không cần phải khổ công tu luyện như trước đây.

Giải đáp lớn nhất đối với tôi là sự hiện diện của Chúa Thánh thần trong con người vốn tầm thường yếu đuối của tôi, để làm cho tôi nên mạnh mẽ. Chúa đã cho tôi kinh nghiệm sống để biết Kinh Thánh là Lời sống trong năng quyền của Đức Thánh Thần chứ không phải là lý thuyết suông. Để mạc khải ơn tha thứ, trước hết Ngài đã tha tội cho tôi. Để mạc khải tình yêu thiêng liêng, trước hết Ngài đã yêu tôi và gánh chịu tội lỗi cho tôi trên thập gía. Tình yêu của Chúa là một bản tính thực tế đầy hiệu năng trong cuộc sống thường nhật, chứ không chỉ là một sự diễn tả bằng lời nói hay chữ viêt. Với những bằng chứng thực tế này, tôi quả quyết tiêp tục vui mừng và tin cậy Chúa như những gì Ngài dạy trong Kinh Thánh, dù hôm nay tôi chưa nhìn thấy hết. Chúng ta có thể tu và sửa cái phong cách bề ngoài cho tốt đẹp, nhưng bản tính tội lỗi bên trong thì không thể nào tự sửa chữa được.

Vì thế Ngài ban Con Một của Ngài đến thế gian để gánh cái ách tội lỗi cho chúng ta. Điều đáng tiếc là còn nhiều người đang khước từ ơn cứu rỗi của Chúa. Ai muốn giải quyết nguồn gốc tội lỗi thì phải quay về với Đấng dựng nên chúng ta. Ngài có quyền xét đoán chúng ta và cũng có quyền tha thứ cho chúng ta. Ngài ban cho chúng ta Ảnh Tượng của Ngài, nhưng chúng ta phạm tội nên đã đánh mât Ảnh Tượng thiêng liêng của Ngài.

Tôi thành tâm tha thiết kêu gọi anh chị em từ mọi tôn giáo, văn hóa và dân tộc nên mạnh dạn trở về trong Chúa để nhận ơn tha tội, để được tái sinh, để được sống đời đời và được nhận lại bản tính nhân lành của Cha thiêng thượng.

Bùi Ngọc Thắng.

21226 Somerset Park Ln

Katy, TX 77450.

(713) 820 – 1470

Anh chị Thụ & Mai gởi

Thư gửi Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu!

Thư gửi Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu!

thanh-teresa-hai-dong-giesu

Hẳn là nhiều người chúng con đã quá quen thuộc với cuộc đời thánh thiện, lòng nhiệt thành yêu mến Chúa Giêsu của ngài. Tại Việt Nam, ngài cũng là vị thánh nổi tiếng vì ai cũng muốn bắt chước con đường nhỏ bé của ngài, để mỗi ngày người Công giáo thêm mến yêu Chúa Giêsu nhiều hơn. Mỗi khi mừng lễ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu (1-10) , chúng con có dịp nhìn lại cuộc đời của ngài với cả một vườn hồng của tình yêu hạnh phúc.

Ngài ơi, tiếc thay xã hội chúng con hôm nay còn nhiều người không để tâm đến đời sống tôn giáo, phất lờ lối sống nhân bản. Nhiều khi chính chúng con cảm thấy mình đắm chìm trong niềm vui vô bổ, lạc hướng trong xã hội vô thần và hoang mang trong lối sống suy đồi. Lắm lúc chúng con không chọn Chúa Giêsu là niềm vui đích thực, ngại ngùng với sinh hoạt đạo đức. Không ít người thấy cuộc sống thánh thiện là điều gì quá xa lạ mơ hồ. Bởi thế chúng con thiếu vắng bình an, không nhiều hạnh phúc.

Mỗi khi chiêm ngắm cuộc đời thánh Têrêsa, chúng con được mời gọi để nên thánh ngay trong cuộc sống đời thường. Là trẻ thơ trong vòng tay Chúa giàu lòng thương xót, thánh Têrêsa Hài Đồng đã làm từng điều nho nhỏ với tình yêu nồng nàn. Tuy hành trình nên thánh của ngài lắm chông gai, nhiều thử thách, nhưng lúc nào ngài cũng dành trọn trái tim cho Thiên Chúa. Ngài may mắn có được một gia đình thánh thiện. Cha mẹ ngài lúc nào cũng để tâm đến Thầy Giêsu. Từ nền tảng vững chắc đó, cha mẹ ngài là hai thánh: Martin và Guérin, đã hun đúc cho con cái một tình yêu mãnh liệt nơi Thiên Chúa. Nhờ vậy, thánh nhân có được cảm thức yêu mến và nguyện trót đời dâng mình cho Thiên Chúa từ rất sớm.

Còn nhớ cung cách ngài cầu nguyện luôn là một sự trào dâng của con tim. Với thánh nhân, cầu nguyện đơn giản là một cái nhìn hướng về trời, là một tiếng kêu nhận biết và yêu thương, ôm lấy cả thử thách lẫn niềm vui. Điều này cần thiết cho chúng con là những người muốn nối tương quan với Thầy Giêsu bằng con đường cầu nguyện. Chúng em nhớ hoài lời chia sẻ của ngài: “Đừng sợ nói với Đức Giêsu rằng bạn yêu thương Người; cho dù không cảm thấy gì, đó là cách để buộc Người giúp đỡ bạn, và bồng lấy bạn như một em nhỏ quá yếu không thể bước đi.” Ngài quả đúng như lời nhận xét của nhiều người: “Đằng sau những việc nhỏ bé của con người thấp hèn ấy lại ẩn chứa một tình yêu cao cả”.

Với tình yêu ấy, thánh nhân đã sống 15 năm hạnh phúc trong gia đình thánh thiện, 9 năm thắm nghĩa vẹn tình với Thầy Chí Thánh trong Dòng kín Carmel. Rồi ngày 30 tháng 9 năm 1897, sau 18 tháng cuối đời chiến đấu với bệnh lao phổi nặng, thánh Têrêsa được đưa về Thiên đàng. Trên Thiên quốc, thánh nhân hằng gieo rắc muôn đóa hồng xuống trần gian. Nhờ ân huệ ấy, chúng con ước mong bắt chước thánh nhân để dâng về Chúa những đóa hồng của đời sống thường ngày. Mỗi hoa hồng là những hy sinh bé nhỏ, mỗi cái nhìn, mỗi lời nói và thực hiện mọi việc làm bé nhỏ với tình yêu thật lớn!

Hôm nay đây, chúng con tin rằng cả gia đình thánh nhân cũng tỏa ngát hương hoa hồng xuống từng người chúng con, từng gia đình dưới thế. Chúng con nài xin gia đình thánh nhân nơi Thiên quốc cầu bầu cùng Chúa cho mỗi gia đình chúng con trở nên thiên đường hạnh phúc, nên mái nhà yêu thương và nên tổ ấm thánh thiện!

Mừng lễ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu!

01-10-2016

Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

Sự Diệu Kỳ.

September 18, 2015 ·

Sự Diệu Kỳ.

Một đêm khuya, lâu lắm rồi, tôi lang thang trên mạng và bất ngờ “tầm” được tấm ảnh anh chiến sỹ VNCH quỳ cầu nguyện giữa ngôi thánh đường đổ nát, hoang tàn, và tôi đã chia sẻ trên FB. Bất chợt cách đây vài ngày, tôi nhận được một lời mời của một người hẹn gặp tại Bmt, và tôi đã đến. Trong buổi gặp gỡ, tôi thật ngỡ ngàng đến sững sờ: người hẹn gặp tôi chính là anh chiến sỹ trong ảnh, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, lúc đó anh mới ra trường, mang quân hàm Thiếu úy thuộc đội đặc nhiệm của Lữ đoàn Dù. Theo lời anh kể: Năm ấy, ngôi thánh đường La Vang, Quảng Trị sau một trận cuồng pháo của phía Bắc Việt nhưng cây thánh giá và tượng Đức Mẹ không hề bị một mảnh đạn pháo nào và một niềm tin vào Chúa, anh đã quỳ xuống… Tấm hình này hiện được trưng bày ở bảo tàng San Jose California USA. Lời cuối cùng khi chia tay, anh nói: “Anh đạo Phật nhưng anh tin Chúa”

Ánh Nguyễn Tôi rất tin như lời anh lính trong hình nói!

anh-linh

Mẹ Teresa được Vantican phong thánh, bằng chứng từ 2 phép màu

Mẹ Teresa được Vantican phong thánh, bằng chứng từ 2 phép màu

ME TERESA

Mẹ Terasa được phong thánh sau 19 năm qua đời. Ảnh: Channel News Asia

 Tòa thánh Vatican ngày 4/9 đã tổ chức Lễ phong thánh cho Mẹ Teresa – một nữ tu vĩ đại đã cống hiến cả đời cho những hoạt động nhân đạo.

Trước 120.000 giáo dân từ khắp nơi trên thế giới đổ về quảng trường Thánh Peter, Giáo hoàng Francis I đã tuyên bố phong thánh cho Mẹ Teresa, một ngày trước kỷ niệm 19 năm ngày mất của bà.

QUANG TRUONG THANH PETER

Quảng trường nhà thờ Thánh Peter trong ngày phong thánh cho Mẹ Teresa. Ảnh: Reuters

Một bức chân dung khổng lồ của Mẹ Teresa đã kéo lên trước nhà thờ Thánh Peter tại Vatican.

Mẹ Teresa tên thật là Agnes Gonxha Bojaxhiu, sinh năm 1910 tại Albania. Bà bắt đầu tham gia Hội truyền giáo từ thiện tại Kolkata (Ấn Độ) từ năm 1950. Tại đây, bà đã lao động miệt mài, không mệt mỏi để giúp đỡ những người nghèo khó trong suốt gần nửa thế kỷ, nên còn được biết đến với tên “Thánh của người bần cùng”.

Năm 1979, Mẹ Teresa được trao giải Nobel Hòa Bình.

Quá trình phong thánh cho Mẹ Teresa cũng diễn ra rất nhanh. Sau khi bà qua đời tại Kolkata năm 1997, giáo dân toàn cầu đã yêu cầu phong thánh cho bà, buộc Giáo hoàng khi đó là John Paul II phải phá lệ, bắt đầu xét phong thánh vào năm 1999.

Quá trình phong thánh được đẩy nhanh khi có 2 phép màu đã được công nhận như những bằng chứng thuyết phục để Mẹ Teresa được phong thánh.

Thứ nhất, vào năm 2002, khối u dạ dày của một phụ nữ 30 tuổi người Ấn Độ tên là Monica Bersa đã được chữa khỏi một cách thần kỳ sau khi cô cầu nguyện Mẹ Teresa. Đây cũng là tiền đề quan trọng để Mẹ Teresa được ban “chân phước” vào năm 2003.

Phép màu thứ hai được công nhận vào năm 2015 khi một người đàn ông Brazil bị nhiễm khuẩn não cũng tự hồi phục nhờ gia đình cầu nguyện Mẹ Teresa.

Tháng 3/2016, Giáo hoàng Francis I đã công nhận phép mầu của Mẹ Teresa và cho biết sẽ phong thánh cho bà.

Hạo Nhân tổng hợp

Anh chị Thụ & Mai gởi

Chứng từ của một Tân Tòng về Quyền Năng của Chúa Thánh Thần

Chứng từ của một Tân Tòng về Quyền Năng của Chúa Thánh Thần

 Tôi, Một tân Tòng được làm con cái Chúa sau 39 năm bị trói buộc bởi quyền lực của Satan, tôi muốn lần lượt viết lại tất cả những gì đã xảy đến cho tôi trong một thời gian rất dài, một hành trình về nhà Cha một cách lạ kỳ và đầy dẫy những trông gai hiểm trở. Tạ ơn Chúa vì Ngài đã kiên nhẫn chờ đợi tôi, mặc dầu tôi là kẻ hèn mọn; vô ơn và bất xứng với tình yêu của Ngài. Tôi không biết phải nói lên ngôn ngữ nào của loài người để có thể diễn tả một Thiên Chúa quyền năng vô biên nhưng lại hạ mình yêu tôi vô điều kiện, mặc dầu tôi chỉ là một người ngọai đạo.
Chúa hiện hữu qua Đức Mẹ
Năm 1976, qua một tai nạn cướp xe, họ đập vào sau gáy tôi bằng một thanh sắt dài, tôi được đem đến bệnh viện Chợ Rẫy, qua Xray tôi bị nứt sọ và bị chấn thương rất trầm trọng, tuy không chảy máu nhưng đầu tôi xưng phồng như trái bưởi, chỉ có thể ngồi dựa lưng vào ghế 24/24 vì không thể nằm, không ăn, cũng như không ngủ được một chút nào.

Tôi la khóc suốt ngày đêm với ơn đau dữ dột từ não. Thời gian đó tôi không được uống thuốc giảm đau vì tài chánh eo hẹp, thuốc lại rất hiếm. Bác sĩ quyết định giải phẩu vào 8h sáng ngày hôm sau.

9h tối đêm đó, từ sâu thẳm tâm linh, tôi nghe một tiếng chớp như sấm sét và một Tượng Đức Mẹ mấu trắng hiện ra cách tôi một mét, trên tay bà cầm trái địa cầu nhỏ mầu trắng.

Từ bức tượng phát ra một tiếng nói rất rõ bằng tiếng Việt: Ta là Mẹ Maria đến để cứu con, vết nứt sẽ tự lành, không phải mổ. và bức tượng biến mất. Quả thật sáng hôm sau, vết nứt đã tự lành tôi không phải mổ và cơn đau cũng biến mất. Tôi trờ về với cuộc sống bình thường. Tạ ơn Chúa và Mẹ Maria đã cứu chữa con một cách thật nhiệm mầu, mặc dầu con không cầu khẩn vì không nhận biết Ngài là Thiên Chúa của con.

Năm 1980 gia đình tôi nhận được giấy bảo lãnh của chị tôi từ Canada. Tôi đạp xe xuống nhà thờ Đức Bà, Sài Gòn. Qùi dưới chân tượng Chúa, tôi khẩn cầu cho chuyến bay được bình an, mọi việc được suông sẻ .

Đêm đó tôi nằm mơ, từ trong tâm tôi nghe một tiêng nói dặn dò: Chuyến bay vào tuần thứ nhất sẽ bị hoãn lại và con sẽ đi vào chuyến bay tuần thứ hai. Quả thật, chuyến bay của tuần thứ nhất có danh sách gia đình tôi bị hoãn lại và đúng 7 ngày sau chúng tôi được đi vào chuyến thứ hai y như lời đã báo trước với tôi trong giấc mơ.

Chết Đi Sống Lại.
Sáng 1/1/2002 tôi không dậy được. Lúc đó là 11 giờ sáng, chồng tôi vào đánh thức thì thấy người tôi đã cứng ngắc. Anh kêu xe cứu thương đến, họ cho biết tôi đã chết được 4 giờ. Họ đưa tôi vào bệnh viện, tôi bị hôn mê sâu, họ đưa tôi vào phòng hồi sinh. Sau 24 giờ ở phòng hồi sinh, tôi vẫn không tỉnh dậy, họ đưa tôi vào nhà xác, họ bảo sẽ để tôi ở đây trong vòng 72 giờ. Qua hai ngày tôi vẫn không thức dậy. Đến ngày thứ ba thì cô y tá thấy tay tôi nhúc nhích. Cô báo cho bác sĩ, bác sĩ thấy tim tôi đập lại và ông cho tôi về. Ông cho biết tôi sẽ bất động trong 6 đến 7 tuần.

Trong khi tôi ở trong tình trạng hôn mê sâu, tôi mơ thấy có một ông đi ngang, đầu đội mũ gai, tôi hỏi: Ông là ai?. Ông trả lời: Ta là Giêsu và tôi thấy ông bị đưa lên đồi. Ông nói với tôi bằng tiếng Việt rất rõ: Con lấy khăn trắng nhúng nước sông lau mặt đi, con sẽ sống lại vào ngày thứ ba. Ông nói chữ đi rất mạnh, như một mệnh lệnh. Tôi chạy tới bờ sông, ở đó có một chiếc khăn trắng, tôi nhúng nước lau mặt Chúa vì tôi thấy trên má Chúa có vết máu nhưng Chúa nói: Con lau mặt cho con và con đừng đi theo Ta, con đứng lại đi, và tôi tỉnh lại.

Mùa hè năm 2005 gia đình anh chị tôi từ bang California đến thăm tôi, vừa bước vào cửa nhà, chị dâu tôi đã khựng lại chỉ tay vào tấm hình tôi treo trên tường, đối diện với cửa chính. chị hỏi tôi về nguồn gốc của tấm hình, và tôi có tấm hình này lúc nào? Tôi kể rằng: có một tầu ngọai quốc trong lúc đang cứu vớt những thuyền nhân bị nạn, ông thấy một vật lạ từ xa phóng tới, vội vàng ông lấy máy ra chụp khi rửa ra thì nó hiện nguyên hình ảnh của một con Rồng rất dài, trên 10 mét và mình nó rất lớn. Mặt nó rât dữ tợn nhe răng như sẵn sàng nuốt chửng ai ở gần nó. Toàn thân nó bốc lửa, trên đầu con rồng có một Người Nữ mặc áo trắng, nhìn như thể Phật Bà Quan Âm, một tay cầm lọ Cam Lồ, một tay kia cầm cành Dương Liễu, tay bà có nhiều vết bầm tím. Chị dâu tôi giải thích cho tôi biết là con rồng là hiện thân của Satan, quỷ dữ, Đồng thời chị cũng cho tôi đọc một đọan Thánh Kinh để xác tín vế điều chị nói. Chị nói khi chị vừa bước vào nhà thì chị cảm thấy như có một tà lực từ hướng con rồng đẩy chị ra khỏi cửa, chị phải cầu nguyện mới có thể bước vào trong nhà.

Chị khuyên tôi nên bỏ tấm hình này đi và đừng thờ lạy nó nữa, nếu không nó có thể gây họa đến cho tôi và gia đình. Tôi cứ ừ hử cho qua chuyện vì trong lòng tôi vẫn yêu thích tấm ảnh này.

Tôi kể cho chị dâu tôi nghe về phép lạ mà Me Maria đã cứu tôi năm 1976 và tôi ngỏ ý muốn viết sách để vinh Danh Mẹ. Chị nói với tôi: ” em nên vào đạo Công Giáo để vinh Danh Chúa và Mẹ thì tốt hơn là viết sách. Hoặc em chỉ nên viết sách sau khi rửa tội thì mọi người sẽ tin em.” Chị khuyên tôi nên vô đạo để được làm con cái Chúa. Những ngày chị ở Canada chị luôn chia sẻ về niềm vui của chị khi được là công Chúa nước trời. Chị cũng chia sẻ những kinh nghiệm của chị khi phải sống trong quyền lực tối tăm qua bệnh tật, yếu đuối, và tội lỗi. Chị nói với tôi rất nhiều về một Thiên Chúa Ngôi Ba, đó là Chúa Thánh Thần. Chính Ngài đã Thánh hóa, chữa lành và giúp chị được biến đổi.

Sau khi rời Canada trở về nhà chị, chị luôn gọi tôi và nhắc tôi phải phá hủy tấm hình đó càng sớm càng tốt, nếu không tôi sẽ tiếp tục gặp biết bao tai ương lẫn bệnh tật do nó đem lại . Quả tình đã có một lần tôi nghe lời chị, bắc thang leo lên để gỡ tấm hình nhưng tôi nghe một tiếng nói : “đừng, đừng làm như vậy” . Và điều đó như có một sức mạnh khiến tôi không thể tháo tấm hình xuống được.

Chúa lại cứu tôi 
Năm 2007, tôi bị tai biến mạch máu não, tôi không bị liệt nhưng không còn nhớ gì. Tôi mơ thấy Thánh Anrê thành Montréal. Thánh Anrê nói với tôi: 7 tuần sau con sẽ nhớ lại, con không cần phải mổ và con sẽ đi làm lại. Đúng sau 7 tuần, tôi hồi phục lại trí nhớ và tôi đi làm lại.

Chúa cứu mạng tôi một lần nữa qua cha Trương Bửu Diệp.
Tôi được biết đến cha Diệp qua một tờ báo, thấy người ta đăng báo tạ ơn cha rất nhiều. Tôi có cắt tấm hình cha đem về nhà, một vài lần tôi đã cầu nguyện xin ơn cho tôi, con và chồng, đều được cha nhận lời theo lời thỉnh cầu của chúng tôi.

Tháng 1, 2014

Từ Walmart về nhà tôi chỉ độ 5 phút nhưng vì trời đang bão băng tuyết bao phủ cả thước, mặt đường bị đóng băng, gió rất mạnh và tôi bị té trong lúc băng qua ngã tư, xương sườn đập mạnh xuống lớp đá cứng, vì té ngay trên đường xe chạy, quá đau tôi đã không thể tự đứng lên được. Trời tối đen, tôi lần mò tìm cell phone trong túi áo manteau gọi 911, nhưng không kịp vì một chiếc xe từ xa phóng tới. Tôi thét lên: Cha Diệp, và tức khắc có 2 bàn tay của ai đó nhấc bổng tôi lên và đem tôi khỏi con đường. Chiếc xe chạy qua mắt tôi rồi lui lại, tài xế hỏi tôi có sao không? Tôi đứng chết trân vì sự kiện sảy ra thật quá bất ngờ và khiếp đảm. Bà nói rằng tôi nhìn thấy một người đàn ông mặc áo chùng đen, mang thánh giá, có râu mép nhấc cô ra khỏi con đường, nếu không tôi đã không thể thắng kịp và đã cáng ngang cô. Bà nói, ông đang đứng đàng sau cô đó. Tôi quay lại và không thấy gì, nhưng tôi biết người đó chính là cha Trương bửu Diệp. Cơn đau xương sườn của tôi cũng biến mất.

Qua tai nạn này tôi tình nguyện làm thỉnh nguyện viên đi xin chữ ký khắp mọi nơi cũng như đến nhà thờ VN vào mỗi thánh lễ Chúa nhật. Đi đến đâu, tôi cũng chia sẻ chứng từ cha Diệp cứu tôi khỏi tai nạn. Niềm khao khát của tôi là cha Trương Bửu Diệp sớm được phong thánh và tôi quyết tâm dùng toàn thời gian rảnh rỗi để thu thập chữ ký của cả người lương cũng như người công giáo.

Tháng 1 năm 2014, tôi nằm mơ thấy cha Trương Bữu Diệp bấm chuông, cha dắt tôi đi chùa. Cha mang thánh giá. Đến trước chùa, cha nói: Con vào đi, cha mang thánh giá cha không vào được. Cha đứng ngoài chờ tôi. Tôi thấy cha đứng ngoài trời nắng và đổ mồ hôi hột. Tôi rất xúc động, từ giấc mơ đó tôi biết tôi phải đi theo Chúa.

Tháng 4 năm 2014, tôi kể các chuyện này cho chị dâu tôi nghe, chị nói với tôi: Người trong giấc mơ năm 2002 của em là Chúa Giêsu đó và Ngài nói lấy chiếc khăn trắng nhúng nước lau mặt là dấu chỉ Ngài muốn em rửa tội đó

Tôi hân hoan vui mừng vô cùng, tôi hiểu ra là Chúa thương yêu và gìn giữ mạng tôi tuy tôi là người ngọai đạo… Đến thánh đường tôi chảy nước mắt khi nhìn hình ảnh Ngài uy nghi sáng tỏa khắp nhà thờ. Tôi yêu Chúa đến nỗi không đến đườc nhà thờ là tôi bồn chồn, tiếc nuối và khóc rưng rức, nên dù có bận rộn cách mấy tôi cũng cố gắng đi dự lễ. Nhưng trong thâm tâm tôi như có một cản trở vô hình nào đó khiến tôi không sãn sàng nghĩ đến chuyện Rửa Tội. Mà thật tình tôi không hiểu vì sao ? Lúc đó tôi nghĩ rất hạn hẹp, dù rửa tội hay không rửa tội, miễn tôi yêu Chúa, tin Chúa và ca tụng Chúa là đủ, đủ để Ngài vui lòng khi thấy tôi không quên ơn Ngài. Đủ thứ chuyện làm tôi không hề muốn phải nặng lòng khi nghĩ đến 2 chữ vô đạo , tôi lo lắng viện đủ mọi lý do : sợ mình không hiểu về bài vở và sẽ bị rớt giáo lý; không đủ điểm để vào Công Giáo. Liệu chồng tôi có chấp nhân hoặc sẽ cùng vào đạo với tôi hay không?

Tôi vẫn tiếp tục đi chùa hằng tuần cùng lúc tôi cũng đi nhà thờ. Tôi không có sự chọn lựa chính xác, nói trắng ra tôi rất tránh né 2 chữ Rửa Tội; mặc dầu tâm tư tôi lúc đó hoàn toàn dâng trọn cho Chúa, tôi nhân ra sự bình an mỗi khi tôi ngắm nhìn và nghĩ đến Ngài, lúc đó tôi nhận ra 2 chữ đáng sùng bái nhất là: Giêsu KiTô.

Khi đi nhà thờ tôi có nói với linh mục ĐTS là tôi được rất nhiều ơn lành của Chúa và đó là lý do cha thấy tôi đi nhà thờ mỗi tuần. Cha nói: vậy còn chần chờ gì nữa , bao giờ chị sẵn sàng thì cho tôi biết để tôi thông báo khi có khóa học giáo lý. Tôi lại kiếm chuyện từ khước: Thưa cha con rất bân….

Tôi không bao giờ nghĩ đến việc đi học giáo lý, cứ hẹn tới hẹn lui, không sốt sắng lắm mặc dầu trong thâm tâm tôi biết là tôi đang hướng về Chúa và tôi rất yêu Ngài.

Trong thời gian này tôi lại bị chứng trầm cảm, tôi sợ nghe tíếng người, sợ gặp người, ngoài trừ Chúa Nhật tôi đến nhà thờ dự lễ, hoặc phải đi làm còn tất cả thời gian còn lại tôi ngồi ở một xó tường, hoặc trùm mền kín mít từ đầu đến chân, suất ngày nghỉ, đầu óc hoang mang, trống rỗng, không suy nghĩ, chán đời , nỗi buồn vô hình cứ đè nặng trong não tôi mà không biết lý do gì để buồn. Tôi có ý nghĩ tự tử cho thóat đi cảnh buồn chán này.

Từ từ tôi sống khép kín, không hăng say họat động, làm việc, suy nghĩ hay đọc sách như trước. Cả ngày tôi chỉ uống một ly cafe độc nhất, đến tối tôi lết vô bếp nấu cơm cho mọi người, phần tôi chỉ ăn sơ sơ rồi lại đi tìm chỗ nằm tiếp. Thật sự tôi sợ cả việc hằng ngày trong đời sống, như chuyện chải đầu, nấu cơm… chuyện mà bình thường phải làm trong đời sống hằng ngày, nhất là phải ra đường vì tôi rất sợ gặp đám đông.

Tôi tự biết mình đang bị bệnh trầm cảm, lười nói, biếng ăn, đêm ngủ không thẳng giấc, tôi cứ bị giật mình vào lúc nửa đêm và thức tới sáng. Tôi gầy và xanh sao, xuống cân cả chục ký chỉ trong vòng 2 tháng. Tôi bắt đầu sợ luôn ánh sáng mặt trời, tôi đóng kín tất cả màn trong nhà lại và một mình ngồi trong xó trong những ngày nghỉ. Tinh thần và thể xác tôi xuống dốc một cách thê thảm. Ý nghĩ tự tử cứ lởn vởn trong đầu óc tôi.

Nhưng chỉ có một điều lạ lùng duy nhất là tôi cứ mong đến Chúa Nhật để tôi đi nhà thờ, vì bão tuyết nên tôi không thể lái xe nên phải ngồi xe bus cả tiếng mới đến nơi. Bước vô nhà thờ, tôi cảm nhận được sư bình an khôn tả và đó là lý do tôi khao khát được đến nhà thờ.

Chúa Giải thóat tôi trong Quyền Năng của Chúa Thánh Thần
Một buổi tối, tháng Năm 2014, cầm tấm ảnh cha Diệp tôi thủ thỉ với Ngài: Xin Cha cầu cùng Chúa cho con thóat khỏi cơn bệnh suy xụp tâm linh và thể xác này đi, cho con được trở lại trạng thái bình thường như trước. Lúc này tôi chỉ còn biết cậy trông vào phép lạ của Chúa. Và tôi bật khóc khi cảm thấy người mình nóng ran lên, ấm áp lạ thường như có một ngọn lửa nhỏ, rất nhẹ nhàng , từ từ hâm nóng toàn thân tôi, mặc dù thời tiết vẫn còn rất lạnh . Tôi lóe lên một tia hy vọng là Chúa đã nhậm lời.

Cùng thời điễm này chị dâu tôi cũng gọi cho tôi,chị ngỏ ý muốn được Rửa tôi trong Thánh Thần để tôi được biến đổi và đươc chữa lành. Chị hỏi tôi có chấp nhận dâng mình cho Chúa Giêsu và từ bỏ tất cả những gì không thuộc vế Chúa không? tôi bằng lòng và tuyên hứa tôi đồng phục Chúa và từ bỏ Satan và những gì liên hệ đến chúng. Chị nói với tôi: Em đọc và hát theo chị mấy câu này nha, chị cầu nguyện và xin Chúa rửa em trong Thánh Thần.

Lúc đó tôi không hiểu câu chị nói là gì? tại sao phải Rửa trong Thánh Thần? tôi cũng không thắc mắc, chị đọc câu nào tôi lập lại câu đó. chị hát: Send your spirit….Alleluia …

Chị hát bao nhiêu lần tôi hát theo bấy nhiêu, chị đọc câu nào tôi lập lại câu ấy .

Tôi nói với chị: Em thấy có bóng người mặc áo trắng đặt tay trên vai em, ai vậy chị? chị trả lời: Chính Chúa, Ngài đến để ban Thánh Thần cho em qua lời khấn xin của chị em mình. Thật là mầu nhiệm và tôi cảm thấy bình an khôn tả.

2 tiếng sau, chồng tôi đi làm về tôi có kể cho anh nghe tất cả mọi việc. Anh chợt nói nếu đã quyết chọn Thiên Chúa thì nên chấm dứt tất cả những liên hệ bên chùa và đừng đi chùa nữa, chọn một bên thôi. Giọng anh chắc nịch như một mệnh lệnh, tôi giật mình sững sờ nhìn anh, vô cùng sung sướng vì không ngờ câu nói đó lại phát suất từ anh, một người vô thần, chẳng tin vào tôn giáo nào.

Cũng từ giây phút đó, ngay chiều hôm chị Rửa tôi trong Thánh Thần, tinh thần tôi bỗng hết trầm uất , trạng thái vui tươi và bình an khôn tả, tôi thích ra đường ngắm nhìn bầu trời trong xanh và tưởng tượng Chúa trên cao đang vui tươi nhìn tôi và tôi thật hạnh phúc.Tôi trở về sống với sinh họat bình thường, Chúa ban cho tôi một công việc mới vì tôi bị mất việc bởi bệnh trấm cảm.

Tôi can đảm gỡ bỏ tất cả những ảnh tượng không thuộc về Chúa, nhất là tấm hình có con rồng rực lửa. Lúc này tôi mới nhớ lời chị dâu tôi nói khi chị mới bước vào nhà tôi:” Nó là hình ảnh của quỷ dữ, Satan nếu em thờ lạy nó em sẽ phải khốn khổ vì nó’. Quả tình kể từ ngày tôi “thỉnh” nó về biết bao nhiêu đại họa đã sảy ra cho tôi, tôi đã mang trong mình đủ lọai bệnh tật, bao nhiêu tai biến mà tôi đã kể trên. Tệ nhất là ước muốn tự tử. Tôi ném tất cả những vật này thật xa, cách nhà tôi khảng 2 cây số. Theo lời chị dâu tôi dặn là xin nước phép trong nhà thờ và với niềm tin mạnh mẽ tôi có thể nhân Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần thanh tẩy căn nhà của tôi, xua trừ mọi sự không thuộc về Chúa ra khỏi nhà tôi. Tôi bắt đầu trưng Thánh Giá, tượng Đức Mẹ và hình cha Trương Bửu Diệp.

Chồng tôi bỗng dưng cho tôi biết là anh sẽ cùng tôi vào đạo. Điều này làm tôi muốn khóc, vì sau khi được Rửa trong Thánh Thần, ngày đêm tôi mong được ghi danh học giáo lý càng sớm, càng tốt. Tôi luôn nghĩ anh sẽ là một trở ngại cho tôi, ngay cả đi học giáo lý vào ngày Chúa Nhật anh cũng không thể vì là ngày đi làm của anh, và chính tôi cũng không đủ can đảm để đề nghị anh vô đạo vì tôi hiểu tính chồng tôi rất cứng cỏi, việc trước nhất là anh phải xin nghỉ việc ngày Chúa Nhật, nhưng làm sao có thể nghỉ được vì ngày cuối tuần là ngày họp của cả sở và đó là việc anh làm suất  20 năm. Chồng tôi nói anh đã khấn xin với cha Diệp 2 điều, một là anh xin được chữa lành gót chân bị tật không chữa được. điều thứ hai là xin cho bà boss cho anh được nghỉ ngày Chúa Nhật để đi học giáo lý. Điều thứ nhất cha đã nhận lời phục hồi gót chân anh, thế nên anh tin là phép lạ thứ 2 sẽ sảy ra.

Khi chồng tôi gặp bà boss và xin được nghỉ bà có hỏi lý do thì anh trả lời: tôi muốn vào đạo công giáo nhưng lớp dạy giáo lý không có ngày nào khác ngoài ngày Chúa Nhật. Nghe vậy bà hưởng ứng rất mau mắn : Tôi sẽ giúp anh và từ đây cả hãng sẽ họp vào ngày Thứ Bẩy và anh sẽ được nghỉ vào ngày chúa Nhật.

Lễ Phục Sinh 2015 vợ chồng tôi đã chính thức được rửa tội để làm con cái Chúa, lúc cha đổ nước trên đầu tôi một sự mầu nhiệm ập xuống toàn thân tôi , tôi hạnh phúc khôn tả khi nhớ lại Lời Nói khi xưa:Con hãy lấy tấm khăn trắng xuống sông rửa mặt 3 ngày sau sẽ sống lại.

Lời chị dâu tôi nói với tôi:” Chính Chúa Thánh Thần đã làm tất cả cho em vì em đã dâng mình em cho Chúa Giêsu và Ngài đã ban Thánh Thần cho em để Ngài biến đổi mọi sự tốt lành cho em. Chỉ sau khi em được rửa trong Chúa Thánh Thần em đã trở thành một con người mới, cũng có nghĩa là em đã được Tái Sanh trong thần khí. Kể từ nay em sẽ xin vâng để Ngài có thể dùng em là công cụ của Ngài.” Chị cũng nói với tôi chính chị cũng được Rửa trong Thánh Thần trong dịp chị đi dự khóa Canh Tân Đặc Sủng sau khóa tĩnh tâm chị đã được chữa lành căn bệnh nan y mà khoa học đã bó tay và đồng thời dứt đi được căn bệnh trầm cảm giống như tôi.

Hôm nay tôi viết ra những lời này để làm chứng nhân cho quyền năng của Chúa Thánh Thần và tôi thật sự muốn vinh Danh Ngài. Đồng thời tôi cũng nói lên quyền lực của Satan, qủi dữ. Ước gì mọi người nhất là những người ngọai giống như tôi nhận biết được Thiên Chúa là Vua các vua, Chúa các Chúa, Ngài đang chờ đợt tất cả mọi người để ban ơn cứu độ cho họ, không phân biệt một tôn giáo nào. Hơn hết Ngài là Cha. Cha của tất cả mọi người, sẵn sàng tha thứ mọi lỗi phạm và ban ơn làm công chúa và hoàng tử nước trời cho những ai đón nhận Ngài.

Lạy Cha, con nguyện xin mọi người nhân biết Cha. Amen.
Anna Maria Phanxicô Nguyễn Dung, Canada

200.000 phật tử trở lại kitô giáo sau trận động đất ở Nepal

200.000 phật tử trở lại kitô giáo sau trận động đất ở Nepal

bởi phanxicovn – 

Women pray for the deceased at a blast site inside the Assumption Church in Kathmandu

Tất cả bắt đầu với sự trở lại của chỉ một nhà sư. Một năm sau, nhiều nguồn tin cho biết, có gần 200,000 người Tây Tạng, trong đó có 62 nhà sư trở lại kitô giáo. Theo ký giả Joel Handley (Asian Access), thì sự trở lại khổng lồ này liên hệ đến việc các tổ chức Phi Chính Phủ kitô giáo đã trợ giúp Nepal trong trận động đất khủng khiếp đã tàn phá nước Nepal năm ngoái. Trận động đất với cường độ 7.8 đã làm cho 9 000 người thiệt mạng và phá hủy gần 600 000 căn nhà.

«Những người địa phương này không thấy các phật tử cũng như người hinđu hay bất cứ một nhóm tôn giáo khác nào đến giúp. Nhưng tuần này qua tuần kia, các môn đệ của Chúa Giêsu cho họ thấy, đây là những người trung thành nhất, hy sinh chính bản thân mình để là tay, là chân của Chúa Giêsu», ký giả Handley tuyên bố. «Chúng tôi tập trung vào nhóm nhỏ thiểu số đặc biệt này, chúng tôi hy vọng làm cho họ thấy, trong số những người phục vụ có những người giống Chúa Kitô. Ưu tiên của chúng tôi là nuôi dưỡng quan hệ yêu thương của họ với Chúa. Như thế, họ được biến đổi theo hình ảnh Chúa Kitô trong cá tính của họ. Đây còn hơn cả sự tăng trưởng đơn thuần của đời sống thiêng liêng cá nhân. Các mục tử tương lai mà chúng tôi đào tạo phải trở nên các gương mẫu tích cực, các gương tốt».

Tổ chức này làm việc trên cả châu lục, từ Afghanistan đến Cam Bốt, từ Turkmenistan đến Việt Nam. «Asian Access có được ưu tiên là cùng đi với các nhà truyền giáo nên họ đã có thể gặp được nhà sư Tây tạng đầu tiên», ký giả Handley cho biết. «Chúng tôi đặt tất cả chú tâm vào việc đào tạo các nhà truyền giáo, để đến lượt họ, họ có thể truyền giáo trong chính cộng đoàn của mình».

Giuse Nguyễn Tùng Lâm chuyển dịch

Vị lãnh đạo hội thánh Tin Lành của “nhà thờ khổng lồ” trở lại Đạo Công Giáo‏

Vị lãnh đạo hội thánh Tin Lành của “nhà thờ khổng lồ” trở lại Đạo Công Giáo‏

baoconggiao.com

Vị lãnh đạo hội thánh Tin Lành của “nhà thờ khổng lồ” trở lại Đạo Công Giáo‏

 

Mục sư của “nhà thờ khổng lồ” giáo phái Phúc âm kể câu chuyện trở lại vang lừng của mình

Mục sư người Bắc Âu Ulf Ekman thổ lộ với đồng hương người Thụy Điển Henrik Lindell của mình.

Từ ba mươi năm nay, mục sư Ekman là người rao giảng phúc âm nổi tiếng nhất, ông sáng lập “nhà thờ khổng lồ” Livets Ord (Lời Sự sống). Trước hết là từ mạng của các cộng đồng quy tụ hơn 250 000 tín hữu ở Bắc Âu, nước Nga và vùng Caucase, ông cũng là một trong những người biểu tình chống cuộc viếng thăm của Đức Gioan-Phaolô II tháng 6 năm 1989 ở Stockholm, thủ đô Thụy Điển. Và bây giờ, ông được Đức Phanxicô ban phép lành ở Quảng trường Thánh Phêrô, ông tuyên bố: “Tôi muốn tất cả tín hữu kitô giáo trở lại đạo công giáo”!

Sững sờ, chướng tai, chất vấn…

Việc mục sư Ulf Ekman trở lại đạo công giáo đã gây kinh ngạc, tai tiếng nơi người Tin Lành, nhưng cũng tạo chất vấn nơi người công giáo, những người nghĩ rằng tinh thần đại kết là đời đời kiếp kiếp “ad vitam aeternam”, ai ở nhà đó. Ký giả báo Sự sống (La Vie) Henrik Lindell hiếu kỳ muốn biết tại sao có sự trở lại này, ông đã “tra hỏi” rất lâu dài đồng hương Ulf Ekman của mình để biết tiến trình này. Kết quả thật lôi cuốn. Sự quan tâm này không phải chỉ do bối cảnh trở lại của ông và vợ ông là bà Birgitta, nhưng còn do lập luận sáng rõ của mục sư về đại kết, về uy quyền của Đức Giáo hoàng, về đơn vị hợp nhất của Giáo hội, về vị trí của Đức Mẹ, về các Sách Thánh, các bí tích, cũng như các chủ đề chính yếu mang yếu tố quyết định đến cho chọn lựa của mục sư Ekman và ngoài ra cũng còn nhờ ơn sủng giúp đỡ.

Theo bước chân của Hồng y Newman

Tiến trình trở lại của mục sư không thể nào không liên tưởng đến tiến trình của Hồng y John Henry Newman, một nhà rao giảng Tin Lành nổi tiếng, tinh hoa của đại học Oxford, mà sự trở lại đạo công giáo năm 1845 của Hồng y đã làm cho Giáo hội Anh giáo và cả nước Anh sững sờ chấn động. Chúa nhật 9 tháng 3 năm 2014, ở Thụy Điển cũng có một cơn sốc không kém, khi từ trên bục giảng của nhà thờ do chính tay mình xây dựng ở thành phố đại học Upsal, mục sư Ulf Ekman loan báo tin mình sẽ trở lại đạo công giáo. Đài truyền thanh, truyền hình loan tin này ngay, tin chấn động vì liên quan đến một Giáo hội xưa cổ Luther, một Giáo hội để cho chủ thuyết tự do và chủ thuyết tương đối thắng thế (Ulf Ekman chống mãnh liệt các việc phá thai, phong chức cho phụ nữ, cũng như ban phép lành cho các cặp đồng tính). Cũng như người tạo cảm hứng cho mục sư một thế kỷ rưỡi trước đây, mục sư Newman, ông Ulf Ekman muốn quay về với các nền tảng đức tin và mang lại sức sống cho sứ vụ truyền giáo, nhưng không vì vậy mà ông làm lợi cho những người “thần phục giáo hoàng”. Lòng kính mến Đức Mẹ, lòng sốt sắng và sự ngay thẳng sâu đậm về mặt trí tuệ đã đem ông đến một nơi mà ông không nghĩ là mình sẽ đến: Thần Khí chờ ông ở điểm ngoặc…

“Biết bản chất tự nhiên của Giáo hội”

Chính đây là điểm ngoặc hay đúng hơn là sự quay về mà ông mô tả và giải thích cho ký giả Henrik Lindell. Ký giả Lindell theo dõi ông và vợ ông là bà Birgitta trên con đường hành hương thiêng liêng, vừa trí thức mà cũng vừa thể lý vì ông đưa họ đến Đất Thánh sống ba năm. Bà Birgitta vợ ông là người phụ nữ có trực giác, bà thường đi trước như các phụ nữ thánh đã đi trước các thánh tông đồ. Tại Đất Thánh, bước đầu họ tìm hiểu thế nào là đối thoại đại kết, bằng cách hỏ hết các thành kiến về các giáo hội bạn, nhất là Giáo hội công giáo. Những buổi cầu nguyện chung với những người công giáo có “đặc sủng”, những buổi tĩnh tâm thiêng liêng đã làm  thuận lợi cho sự xích lại gần. Nhưng cũng giống như Hồng y Newman ngày xưa, người kiên nhẫn và nghiêm nhặt tìm hiểu về mặt thần học, bám rễ sâu xa trong Lịch sử và trong các bài viết của các Tổ phụ để “hiểu bản chất thật của Giáo hội”, hai vợ chồng mục sư Ekman cũng đã tìm hiểu từ nhiều năm nay. Đối với mục sư Ulf và vợ là bà Birgitta, đây không đơn giản chỉ quan tâm đến tự biện nhưng là cả một khẩn cấp trong công việc truyền giáo, đáp trả lại lời kêu gọi tối thượng của Chúa Kitô: “Để tất cả nên một, như vậy thế gian sẽ tin” (Ga 17, 21).

Sự thẳng thắn và nghiêm nhặt không nhân nhượng của mục sư Ulf Ekman, người không che niềm vui chứng tá của mình, đã làm cho cuộc phỏng vấn với ký giả Henrik Lindell đích thực là một nguồn vui thiêng liêng. Một quyển sách nên đọc lui đọc tới, nên chiêm niệm để đến lượt chúng ta, chúng ta bỏ hết các thành kiến về Giáo hội công giáo và truyền thống của nó và để chúng ta tìm lại lòng “sốt sắng đầu tiên” này mà các Giáo hội Phương Tây cần biết bao.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm chuyển dịch, phanxico
aleteia.org, Philippe Oswald,

CÔ GIANNA JESSEN, TỪ MỘT BÀO THAI BỊ PHÁ HỤT THÀNH TÔNG ĐỒ

CÔ GIANNA JESSEN, TỪ MỘT BÀO THAI BỊ PHÁ HỤT THÀNH TÔNG ĐỒ

Cách đây 30 năm, tức là năm 1977, một thiếu nữ 17 tuổi, có bào thai 7 tháng rưỡi, vào một dưỡng đường ở tiểu bang California, Hoa Kỳ, để phá thai.  Bác sĩ dùng phương pháp đổ dung dịch nước muối vào bào thai và giữ trong 18 tiếng đồng hồ để trục ra ngoài ngày 6.4.1977.  Nhưng bào thai của thiếu nữ đó, thay vì bị quẳng vào thùng rác như bao nhiêu trường hợp khác, lại được một người mau lẹ đưa vào nhà thương gần đó để cứu cấp vì thấy thai nhi còn sống.

Gianna Jessen

Trong 4 tháng đầu tiên, hài nhi bé bỏng chỉ nặng một ký-lô, được nuôi trong lồng kính và phải chiến đấu với cái chết.  Bác sĩ chẩn bệnh thấy rằng hài nhi bị liệt não.  Dầu vậy, bà Penny, một người vẫn nổi tiếng là sẵn sàng nhận nuôi những trẻ em có nguy cơ bị tàn tật nặng, đã nhận hài nhi đó và đặt tên cho cô bé là Gianna Jessen.  Các bác sĩ bảo bà Penny rằng Gianna sẽ không bao giờ ngồi dậy được và chắc chắn sẽ không bao giờ có thể đi được.  Cô bé sẽ sống như một khúc cây suốt đời.  Vì thế, họ khuyên bà Penny đừng phí thời giờ mà nhận nuôi Gianna Jessen làm chi.

Tuy nhiên, bà Penny vẫn cương quyết nhận Gianna.  Nhờ các phương pháp vật lý trị liệu, năm lên 3 tuổi cô bé Gianna đi được.  Lúc đó, cô Diana DePaul, con gái của bà Penny, chính thức làm đơn xin tòa cho nhận Gianna làm con nuôi và thế là bà Penny trở thành bà ngoại nuôi của cô bé.  Diana tiếp tục cho đứa con nuôi theo các phương pháp vật lý trị liệu và ngày nay, Gianna trở thành phụ nữ 30 tuổi, khuôn mặt xinh đẹp, mái tóc vàng óng ánh, cũng sinh hoạt như bao nhiêu thiếu nữ khác, ngoại trừ cô hơi đi khập khiễng.

Bà Penny cũng như cô Diana không hề nói với Gianna về hoàn cảnh sinh ra của cô.  Tuy nhiên, dần dần cô đã đoán được sự thật.  Nhờ tình thương của mẹ nuôi, cô Gianna đã chấp nhận được sự thật đau thương đó.  Chẳng bao lâu người ta phát giác câu chuyện của cô, và các tổ chức bênh vực Sự Sống con người tranh nhau mời cô đi diễn thuyết.

Từ năm 1990 trở đi, mỗi tháng cô Gianna Jessen dành 25 ngày đi nhiều nơi trên nước Mỹ để diễn thuyết về việc bênh vực Sự Sống và chống phá thai.  Cô cũng làm nghề thâu băng đĩa nhạc để sinh nhai.  Hồi tháng 11 năm 2005, cô đã đến nói chuyện tại nhiều đại học trên toàn đảo Ai-len, và tháng 12 sau đó, cô đã nói trong một cuộc họp tại Hạ Nghị Viện Anh ở Luân Đôn.  Cô nói: “Tôi là một thiếu niên hoàn toàn bình thường,  nhưng tôi có một câu chuyện thật để kể lại: Câu chuyện về sự hiện diện và hoạt động của Chúa trong đời tôi.”

Sự hiện diện của cô Gianna trong các buổi diễn thuyết là một bằng chứng sống động cho thấy phá thai là giết các hài nhi trong rất nhiều trường hợp vẫn còn có thể sống được.  Cô xuất hiện trên các đài truyền hình toàn quốc, các đài phát thanh, các dịp đại hội của các trường trung học, để thông truyền cho mọi người sứ điệp: “Bào thai cũng là một người, và bào thai đó đang đứng trước mặt quý vị đây, đang sống và hô hấp.  Bào thai đó không phải chỉ là một mớ tế bào người ta có thể cắt bỏ như một khúc ruột thừa.”

Là một tín hữu Công Giáo nhiệt thành, cô Gianna Jessen tin rằng sự kiện cô được sống sót trong vụ mẹ ruột của cô phá thai như vậy là một dấu chỉ chứng tỏ Chúa muốn cô hoạt động bênh vực Sự Sống của các thai nhi khác.  Cô không hề oán hận bà mẹ ruột đã muốn sát hại cô.

Cô dùng âm nhạc để kể chuyện đời mình, cô hát những bài ca Phúc Âm và cả những nhạc dân ca Công Giáo hiện hành ở Mỹ và mỗi lần hát, cô đều tuyên bố là hát tặng các thai nhi bị phá mà không được cứu thoát như cô.   Bài ca cô Gianna thích hát nhất là bài “Các bạn” do ông Michael Smith sáng tác, trong đó có câu: “Tôi hát tặng những hài nhi bé nhỏ phải chết mỗi ngày vì phá thai, tôi hát tặng họ vì họ là những người bạn của tôi và một ngày kia tôi sẽ được thấy họ trên Trời.”

Cũng có những lần cô Gianna gặp sự chống đối của những người ủng hộ phá thai.  Một lần kia, khi cô vừa bắt đầu nói chuyện, thì có người đứng lên hét lớn rằng: “Bào thai trước khi sinh ra không phải là một đứa trẻ.”  Nhưng cô đáp: “Điều này làm tôi ngạc nhiên quá sức.  Tôi không hiểu tại sao người ta có thể nói như vậy được.  Vậy thì trước kia tôi là gì, bộ tôi là con cá hả?”

Trong phần lớn các trường hợp, những cuộc nói chuyện của cô Gianna Jessen đã có ảnh hưởng lớn nơi nhiều phụ nữ trẻ định phá thai.  Nhiều phụ nữ đến nói với Gianna và mẹ nuôi của cô rằng chính nhờ nghe câu chuyện của Gianna, họ quyết định không phá thai nữa.  Cũng có những người thay vì phá thai thì mang thai cho trọn và sau đó cho người khác nhận làm con nuôi.

Tuy bước chân của Gianna Jessen hơi khập khiễng, nhưng cô vẫn tham gia các cuộc đi bộ đường trường để cổ võ bênh vực Sự Sống và chống phá thai.  Ngày 30 tháng 4 năm 2005, cô đã đi 42 cây số trong vòng hơn 7 tiếng đồng hồ.  Ngày 23 tháng 4 năm 2006, cô Gianna cũng tham dự cuộc đi bộ đường trường tại Luân Đôn.

Ý thức thân phận mình từng là trẻ không được cha mẹ săn sóc, cô Gianna đã nhận bảo trợ nuôi 56 trẻ em ở các nơi.

  1. TRẦN ĐỨC ANH, Dòng Đa Minh, Đài Vatican ngày 17.4.2007

(theo Ephata 312)

langthangchieutim gởi

CHÚA CỨU MẸ CON TÔI KHỎI BỌN BUÔN NGƯỜI.

CHÚA CỨU MẸ CON TÔI KHỎI BỌN BUÔN NGƯỜI.

 Chị Maria Thủy – Chị Mỹ.
Phan Sinh Trần ghi

Tôi sinh ra trong một gia đình không có Đạo và rất nghèo,  sinh ra tôi được có bốn  ngày vỏn vẹn, thì Mẹ đã giao em bé cho Bà Ngoại và bỏ đi biệt tích. Bà Ngoại nấu nước cháo nuôi tôi sống và lớn lên. Tuy nhiên, hai bà cháu vật lộn với kế sinh nhai, nên tôi không được đi học, một chữ bẻ làm đôi tôi cũng không được biết, con số dê rô tôi cũng không hiểu nhận hết.Bà nói, “cho mày đi học thì sau này lấy ai nuôi bà”. Mới có bảy, tám tuổi tôi đã đi mót lúa, đi ở đợ để nuôi Bà. Lớn lên, rồi tôi cũng có được một con gái ngoại hôn.

Hai mẹ con chúng tôi qua Mỹ theo diện con lai đợt tái cứu xét, khi đi thì cháu được tám tuổi. Qua Mỹ, tôi cũng tiếp tục làm nghề dọn dẹp nhà ở tư của các chủ Việt. Ở Mỹ được mấy năm thì có người bạn cũ gọi qua hỏi thăm và mời về Việt Nam chơi, nó nói không cần tiền, cứ về đi, ở Việt Nam tao sẽ dẫn mày đi chơi, du lịch các nơi, vui lắm, nghỉ ngơi lấy lại sức sau bao năm vất vả. Tôi nghe thấy cũng bùi tai và nhận lời nó, tạm nghỉ việc đi về Việt Nam chơi một chuyến. Khi về đến nơi, một hai ngày đầu thật là vui vẻ, Bạn tôi lấy Honda đưa chúng tôi đi chơi, nó nói “mày có giấy tờ, nữ trang đưa tao giữ cho chứ ở Việt Nam cướp giựt và trộm cắp dữ lắm”, không nghi ngờ, tôi giao hết mọi thứ cho cô bạn, rồi nó nói bây giờ sẽ đi ra Rạch Giá, sau đó ra Phú Quốc chơi, nó mua vé tàu đưa hai mẹ con ra đảo, cùng đi còn có mấy người đàn ông, đàn bà bạn của nó, đến thị trấn Dương Đông, thì nó trở mặt liền, đưa chúng tôi về một xóm chung quanh có các nhà chứa với gái mãi dâm. Tôi năn nỉ nó trả lại giấy tờ thì bị la mắng:

Giấy tờ gì cái bản mặt mày, không có giấy má gì ráo, tao lấy đốt hết rồi, cái thứ tụi mày ngu ngốc, làm được cái gì chứ, bây giờ tụi mày phải ở đây chờ tao sắp xếp. Không được đi ra khỏi nhà khi tụi tao chưa cho đi. Lạng quạng bị đánh đừng nói tại sao.

Nói xong, tụi nó bỏ đi để mặc hai mẹ con bị đói trong căn phòng tồi tàn. Đói quá, tôi xin bọn nó cho phép đi rửa chén trong một nhà hàng để hai mẹ con có cái ăn, tội nghiệp con gái tôi, nó sợ hãi quá mức, lúc nào cũng mếu máo. Tôi đi làm, rửa chén mà lòng không yên, hết giờ làm là tôi ba chân bốn cẳng chạy về xem cháu có bị tụi nó bắt cóc và bán cho các ổ mãi dâm? Rất may là điều đó chưa xảy ra, có lẽ vì nó chưa tìm được khách ưng ý. Bọn chúng nói:

Tao đang tìm thằng thuyền chài để gả mày cho nó, rồi hai mẹ con sẽ có chỗ ăn ở.

Nghe chúng nói, hai mẹ con hoảng hồn, chúng tôi chỉ biết cầu Trời khấn Phật cho hai mẹ con được tai qua nạn khỏi, sực nhớ còn sợi dây chuyền nhỏ xíu dấu ở dưới cổ áo, có lẽ nhỏ quá nên tụi nó chưa thèm lấy, tôi vội lấy ra tìm cách bán đi và ngay nửa đêm hôm đó, hai mẹ con lén đi ra bến, nói dối với lái tàu là mẹ con bị móc bóp mất hết tiền bạc, giấy tờ, xin chủ tàu cứu giúp cho về đất liền, chủ tàu thương tình cho chúng tôi đi, đến Rạch Giá chúng tôi mua vé xe đò về Sài Gòn và sống lây lất ở Bến xe Miền Tây. Tôi nhờ người gởi thơ cho Bà Chủ Nhà mà tôi làm công trước đây nhờ giúp đỡ để về lại Mỹ. Tôi không dám nói thật sự thể, chỉ nói là tôi bị móc bóp và mất hết tiền bạc, giấy tờ tùy thân.

Cách xa nửa vòng trái đất, tại Houston, Texas Chị Thủy nghe chuyện và động lòng thương, chị kể:

–          Cách nay mấy năm, tôi đang làm nail cho một Bác thì được nghe bà kể lại câu chuyện có hai mẹ con ở Mỹ, về Việt Nam chơi bị móc túi, mất hết giấy tờ và cần giúp đỡ để về lại Hoa Kỳ. Bà đã chi ba ngàn đô, coi như ứng cho mượn trước số tiền, dùng để trả cho một Luật sư chuyên về di trú để nhờ giúp đỡ. Tôi muốn được đóng góp với Bác nọ để thêm phần tài chánh hòng giúp sức cho hai mẹ con chóng được về lại nhà. Nghe kể lại tình cảnh hai mẹ con rất đáng thương, tôi bức rức không yên, dù mình cũng chả dư dả gì nhưng tôi quyết phải giúp họ cho bằng được. tôi gọi phôn cho bốn Anh Chị Em còn đang ở Việt Nam để nhờ liên lạc, tìm cho ra hai mẹ con và giúp họ có nơi ăn chốn ở trong lúc chờ giấy tờ đi về Mỹ lại. Vì mình sinh hoạt trong Nhóm Thánh Linh, được biết rõ các kỳ tích từ Lòng thương xót của Chúa và ơn Mẹ Maria, nên tôi dâng hai mẹ con của chị Mỹ cho Chúa Mẹ và xin mọi người trong Nhóm cùng cầu nguyện. Chị Thủy kể tiếp:

–          Luật sư làm hơn một năm trời mà chắng tiến triển đến đâu, bà luật sư khám phá ra là Hai Mẹ con vì không rành rẽ thủ tục nên thẻ xanh đã bị hết hạn rồi, khó khăn chồng chất trong khi tiền phí tổn đã lên tăng lên nhiều. Vì thủ tục khá nhiêu khê, cần giấy cớ mất tại nơi xảy ra sự vụ, rồi phải có nơi tạm trú nhất định tại Việt Nam, sau đó làm thủ tục nhập khẩu và bắt đầu lại đơn xin xuất cảnh đi Mỹ. Tôi đi đến Luật sư Th-Th nhờ giúp đỡ, câu hỏi mà luật sư đưa ra là, tại sao họ không dám đến công an phường làm giấy cớ mất, rồi ai sẽ là người lo nhập hộ khẩu ở Việt Nam cho hai mẹ con, v. v . Vòng vo tam quốc một hồi, rồi Chị Mỹ mới xì ra sự thật là họ đã bị lừa đảo, từ Mỹ qua Việt Nam tới đảo Phú Quốc, rồi mới về lại vất vưởng ở bờ ở bụi, ăn xin, bữa đói bữa no, trong thành phố Sài Gòn.

Tại Việt Nam, Bốn Anh Chị Em của tôi ra sức giúp đỡ cho Mẹ con Chị Mỹ, Anh Ba thì lo giấy tờ dịch vụ, tôi gởi tiền dành dụm về, phí luật sư tốn thêm mấy ngàn đô nữa, chị Tư tôi thì giúp kế sinh nhai cho họ, Các Em Năm, Bẩy tìm cách cho họ nhập hộ khẩu, cả nhà ra sức cầu nguyện vì thực ra chỉ có Chúa mới có thể cứu họ trong hoàn cảnh hy hữu và thủ tục quá khó khăn này. Em Bẩy nói với hai mẹ con nên hết sức ngày đêm cầu Chúa Mẹ giúp cho dù họ chưa phải là tín hữu Công Giáo nhưng đức tin của họ sẽ được nhận lời. Chị Thủy ưu tư, nhận xét như sau:

–          Phái đoàn phỏng vấn tại Tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ, có thể nào tin được vào câu chuyện của Chị Mỹ không? Cho dù có tin đi nữa, thẻ xanh hết hạn ở nước ngoài làm sao để được tái cứu xét, đặc cách? Các Bạn của tôi ở Hoa Kỳ, nghe kể lại chuyện làm đơn vốn kéo dài đã hai năm thì không còn chú ý nữa, họ cho là không biết sự thật hoàn cảnh của Chị Mỹ có đúng không? Cuối cùng thì chỉ còn có Tôi và gia đình Anh Em trong nhà, gồng mình giúp đỡ hai mẹ con của Chị Mỹ cho tới cùng. Cảm tạ Chúa, truyền thống giúp đỡ người dưng, luôn có trong gia đình tôi từ lâu, nhất là tôi lại được sinh hoạt trong Nhóm Thánh Linh, tôi được Chúa rót vào lòng mình tình yêu và lòng chạnh thương làm cho tôi không thể nào không ray rứt và mong mỏi điều tốt cho hai mẹ con suýt bị bắt cóc. Tôi được Chúa cho cảm thấy cái xốn xang, bức rứt, âu lo của cháu bé con chị Mỹ, tôi thương nó như con gái của tôi, càng thương cháu tôi càng bám víu vào lời Chúa:

“Và Ta bảo các ngươi: Hãy xin, thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ thì sẽ mở cho, Vì phàm ai xin thì lĩnh; ai tìm thì gặp; và ai gõ thì sẽ mở cho.”   (Lc 11,9-10 ).
>
Thời gian làm giấy tờ tiếp tục trì trệ, Chị Thủy nhân xét:

–          Lòng kiên nhẫn của mọi người có hạn, dịch vụ tái cứu xét xuất cảnh đã kéo dài hơn ba năm, tôi đã chạy đến vị Luật sư thứ ba, tên T, tôi năn nỉ vị Luật sư cùng tham gia với tôi, cho dù đã có các luật sư và nhiều người giúp khác hoàn toàn hết kiên nhẫn và bỏ cuộc. Chúa làm cho vị luật sư chạnh lòng thương giúp cho trường hợp này, dù là chi phí quá ít ỏi hầu như chả đáng là bao, nhưng ông quyết định đóng góp phần của mình vào trong công tác này.

Cám ơn Chúa! Ngài không quên yên ủi tôi, Chúa làm thay đổi các Bạn trong Nhóm Thánh Linh, có anh đến ngỏ ý sẽ cùng chia sẻ một chút xíu về tài chánh dù là ít ỏi và cầu nguyện cùng với tôi. Cả Nhóm tiếp tục xin Chúa cứu vớt cho mẹ con của Chị Mỹ, rồi Chúa làm hết phép lạ này tới phép lạ khác, khi Em Năm cãi tay đôi với công an phường một số lần và cuối cùng đã được Phường cho phép nhập hộ khẩu cho mẹ con Chị Mỹ, khi phái đoàn Mỹ chấp nhận tái cứu xét, phỏng vấn và cho phép nhập cảnh vào Hoa Kỳ cho dù giấy tờ có thiếu xót như là chỉ có thế vì khai sinh mới làm lại trong dịp này, rồi không có giấy hôn thú, tiếp đến là các mâu thuẫn trong giấy cớ mất bóp, rồi lại đến sự vi phạm khác, hết hạn visa, hết hạn thẻ xanh, v.v Mỗi một chặng gian nan là một lần Chúa ra tay cứu giúp. Còn mấy ngày trước khi lên máy bay, Lãnh sự quán lại đòi giấy cớ mất bóp một lần nữa, đến nước này rồi làm sao tìm ra giấy đây? Nhưng rồi mọi sự cũng được cho qua nhờ Chúa quan phòng. Chị Mỹ kể rất tội nghiệp:

–          Tụi bất lương ở Phú Quốc tiếp tục đe dọa và nhắn tin chúng sẽ phá, sẽ gởi khiếu nại đến Lãnh sự quán Hoa Kỳ nếu tôi không trả nó một số tiền, do đó gia đình Chị Thủy ở Việt Nam dấu nhẹm tin tức về ngày giờ ra đi, lên xe ra sân bay mà hai mẹ con cũng chưa được cho biết, đến phi trường họ mới cho biết sẽ lên phi cơ về Mỹ trong vòng một vài tiếng và họ mua cho hai hộp cơm ăn lót đường, chúng tôi mừng quá run tay, không xúc cơm được, mẹ con mỗi người ăn được có một muỗng thôi. Khi đã vào khu cách ly con tôi còn năn nỉ mẹ ráng nhịn đừng đi tiểu vì sợ máy bay nó đi mất, cháu quá sợ nên đã khuyên tôi như vậy. Thế là sau hơn bốn năm trường đằng đẵng mà tôi cảm thấy dài như cả mười năm, Chúa Mẹ đã cứu chúng  tôi ra khỏi vùng đất sợ hãi. Có hai lần, lúc con gái tôi quá lo lắng, thất vọng nhưng khi nó cầu nguyện với Mẹ Maria và cảm thấy như Mẹ đang gật đầu nhìn nó, thì con bé được vững lòng và còn quay ra khuyên nhủ đức tin cho tôi là mẹ của nó.

Về đến Mỹ, gia đình chị  Thủy ra phi trường đón chúng tôi về nhà chị, Chị Mỹ và Cháu gái rất tin tưởng vào Chúa sẽ thương ban cho Chị và con nhưng tháng ngày an ủi. Chị Thủy nhỏ nhẹ,

“Cháu gái con Chị Mỹ đến nay đã vào tuổi mười bốn, mười lăm. Nhìn cháu ngây thơ, trong sáng xin gia nhập thiếu nhi Thánh Thể và đeo khăn quàng màu vàng mà mừng chảy nước mắt, Chúa của tôi thật là vĩ đại. Phần thưởng lớn nhất là được nhìn ngắm Chị Mỹ và Cháu cầu nguyện trong các buổi thờ phượng và ca ngợi Chúa”

Quả ơn nghĩa Yavê không hết,

lòng xót thương của Người không cạn,

mỗi buổi sáng thì lại mới  luôn.

Lớn thay tín nghĩa của Người! (Ai ca3:22-23)

Phan Sinh Trần

Viết nhân mùa Phục Sinh (*)

Viết nhân mùa Phục Sinh (*)

Theresa Phạm Thanh Nghiên (Danlambao)Viết tặng bố Trần Thúc Lân, người họa sĩ già kể chuyện Quê Hương qua nét vẽ.

Tôi từng ghét, và ác cảm với đạo Công giáo.

Ghét một cách hiển nhiên (và hồn nhiên) như việc tôi từng tin yêu cộng sản vậy. Tôi chưa bao giờ đi tìm nguyên cớ vì sao có cái sự yêu-ghét kỳ quặc, bất công và bất bình thường như thế. Cứ như một lập trình, ai tin cộng sản đều thù ghét tôn giáo. Sản phẩm giáo dục trong môi trường xã hội chủ nghĩa cứ cho ra đời những con người yêu- ghét theo quán tính vậy thôi. Vì sao yêu? Không biết. Vì sao ghét? Cũng không biết.

Trong suy nghĩ của tôi, người Công giáo không cần tổ quốc, không cần anh em, bằng hữu. Theo Đạo, là chối bỏ cha mẹ, anh em, họ tộc. Giờ nghĩ lại, tôi vẫn thấy ghê sợ cái lối tư duy kỳ quặc trong quá khứ của mình.

Hồi ấy, cô bạn học cùng lớp hay rủ tôi đến Nhà thờ. Thảo Ni không phải người Công giáo. Cô nàng đến nhà thờ chỉ vì thấy “hay hay”, Ni bảo thế.

Tôi đi cùng Ni vì chiều bạn, và vì tò mò xem Linh Mục ngoài đời có giảng đạo như Linh mục trong phim không. Tôi mê bộ phim “Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên” lắm. Đó là một trong những bộ phim truyền hình nhiều tập đầu tiên được phát trên kênh VTV3, khoảng những năm 95, 96 ở thế kỷ trước. “Thì ra đạo Công Giáo không xấu như mình tưởng.” Những cảnh “Thánh lễ” trong phim là những hình ảnh tôi mong chờ nhất khi dán mắt vào màn hình vô tuyến.

Tôi lại đi theo Thảo Ni đến nhà thờ.

Hôm ấy, nhà thờ đông lắm, người ngồi chật ních cả ngoài sân. Sau này nhớ lại, tôi đoán đó là ngày Lễ Phục Sinh.

Ông Linh mục (hồi đó tôi gọi như thế) bắt đầu động chạm đến chính trị, đúng đề tài tôi thích.

– …Và như thế, Stalin là một tên đồ tể, một kẻ giết người hàng loạt.

Gương mặt vị linh mục vẫn tự nhiên và bình thản như không phải mình đang nói những điều “nhạy cảm”.

Như điện giật, tôi đứng phắt dậy, mặc cho Thảo Ni níu tay tôi lại. Tôi luồn lách qua đám giáo dân đông đúc vẫn đang ngồi nghe ngoài sân. Vị linh mục vừa xúc phạm đến niềm tin của tôi. Tôi yêu quý Stalin như yêu quý những lãnh tụ cộng sản khác.

Tôi giận Thảo Ni mất mấy ngày.

Từ lần ấy, tôi lại tiếp tục ghét người Công giáo. Và không bao giờ trở lại nhà thờ nữa.

Mấy năm sau tôi đi làm. Cùng làm với tôi có một anh người Huế tên là Phong. Tôi quý mến anh mọi thứ, trừ việc anh là người Công Giáo.

Hôm ấy anh đến nhà tôi, mang theo cuốn Kinh Thánh. Đấy là lần đầu tiên tôi chạm tay vào một cuốn Kinh Thánh. Giở một trang bất kỳ, tôi đọc:

“Hãy đem yêu thương vào nơi oán thù,

Đem thứ tha vào nơi lăng nhục

Đem an hoà vào nơi tranh chấp,

Đem chân lý vào chốn lỗi lầm.”

Tim tôi như đập nhanh hơn. Phúc chốc tôi thấy hơi thở ấm lại và có điều gì đó giống như làn gió nhẹ len lỏi trong óc tôi.

Tôi vội vàng đem cuốn sổ tay ra chép. Như thể những ý tứ ấy sẽ bay biến nếu không tranh thủ lưu giữ lại. Tôi không biết đó là kinh gì, nhưng từ ấy, tôi không bao giờ ghét đạo Công Giáo nữa.

Năm 31 tuổi, tôi đi tù.

Tôi từng nếm trải hơn hơn bốn tháng biệt giam. Đó là một buồng giam rộng chưa đầy 6 mét vuông. Tôi có thói quen ghé mắt qua 6 cái lỗ nhòm của cửa buồng giam, dù chỉ để nhìn thấy khoảng sân chật chội và hàng rào kẽm gai sắc lạnh. Để bớt đi cảm giác ngục tù.

Tối nào tôi cũng hát. Nhưng chỉ hát thôi thì chưa đủ. Tôi cần một điều gì đó giá trị hơn, để nâng đỡ tinh thần mình.

“Hãy đem yêu thương vào nơi oán thù,

Đem thứ tha vào nơi lăng nhục.”

Lời kinh hôm nào lại văng vẳng trong trí não. Tôi không nhớ nguyên văn những điều mình đã đọc hơn mười năm về trước. Những câu kinh chắp vá, không nguyên vẹn trong trí nhớ ngày nào đã trở thành lời cầu nguyện mỗi ngày của tôi. Thiên Chúa, chắc không trách tội một kẻ ngoại đạo là tôi. Tôi đã tin như thế. Và tôi dần thấy mình được gần Thiên Chúa, tinh thần tôi đã có nơi để bám víu, tựa nương.

Ra tòa được ít hôm, tôi bị chuyển lên Trại giam số 5, Thanh Hóa. Mười một tháng cuối cùng của chặng đường tù, tôi bị chuyển vào ở hẳn trong Phân trại, không phải đi ra ngoài hiện trường lao động nữa dù ra ngoài đó tôi cũng không làm gì. Bạn tù bảo, tại tôi hay chặn đường các đoàn kiểm tra để kiếm chuyện, hay “săm soi” bắt lỗi cai tù nên tôi bị “tống” vào trong trại ngồi chơi xơi nước. Đi tù “được” ngồi chơi là điều không người tù nào nghĩ đến. Với lại, đi đội tôi cũng có làm gì đâu, cai tù mang tiếng đày ải tôi ra.

Buồng bên cạnh có một chị tên Bẩy theo đạo Công Giáo, người Nghệ An. Chị có gương mặt đẹp và phúc hậu như Đức Mẹ. Nhiều lần tôi tự hỏi, tại sao người phụ nữ có gương mặt đẹp và nhân từ như thế lại có gan đi buôn ma túy để bị kết án những 20 năm tù?

Mà chị Bẩy hiền lành thật. Tôi chưa thấy chị cãi vã với ai bao giờ. Thi thoảng gặp tôi ở sân giếng, chị tâm sự với tôi về nỗi ấm ức chị phải chịu. Chị bảo, theo Chúa là phải biết nhường nhịn và khiêm nhường.

Chiều hôm ấy, chị rỉ tai tôi:

– Nghiên ơi, mấy lần chị để ý thấy trong các lần sục buồng, cán bộ không bao giờ tự ý lục lọi đồ của em, phải không?

– Vâng. Họ muốn thì phải được sự đồng ý của em, và phải lập biên bản em mới cho kiểm tra chị ạ. Tôi trả lời, mặt tỉnh bơ trước thái độ dè dặt của chị.

– Thế nếu họ cố tình thì sao? Chị hỏi tiếp, nét mặt trông nghiêm trọng lắm.

– Em không biết. Nhưng họ chưa cố tình lần nào chị ạ.

– Vậy chị nhờ em một việc được không?

– Vâng, chị nói đi, giúp được em sẽ giúp.

– Em giữ giúp chị cuốn Kinh Thánh nhé. Chị sợ lúc cán bộ đột xuất sục buồng, thấy được là chết chị.

Từ hôm ấy, sáng nào trước khi đi làm chị cũng kín đáo mang cuốn Kinh Thánh sang gửi tôi. Hôm thì giấu trong vạt áo, hôm thì lấy thứ gì đó như cái khăn, tập giấy để che cuốn Kinh Thánh. Buổi chiều trước khi điểm buồng, tôi lại kín đáo đưa cuốn Kinh Thánh trả lại cho chị.

Tôi được đọc Kinh Thánh từ ấy.

Ban đầu, nhìn cuốn sách bé xíu, dầy khộp với chi chít những chữ, tôi cũng ngại. Đọc từ đầu, không hiểu gì cả. Tôi bỏ. Thi thoảng tôi lại giở những trang bất kỳ ra xem. Không bao giờ tôi nhớ nổi một câu nào trọn vẹn.

“Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy”.

Tôi nhớ rất rõ câu Kinh Thánh ấy ngay khi vừa mới đọc. Hôm ấy tôi đang ở ngày đầu tiên của cuộc tuyệt thực thứ 2 trong trại 5 Thanh Hóa. Tuyệt thực, để các tù nhân được trải nệm xuống nằm vào mùa đông, để được nhận chăn ấm từ gia đình gửi vào. Có dịp, tôi sẽ kể về cuộc tuyệt thực này trong một lần khác. Tại sao lại là lời Kinh ấy, tại khoảnh khắc ấy chứ không phải trong bao nhiêu lời Kinh khác?

Đến bây giờ, tôi vẫn tin rằng Thiên Chúa đã nâng đỡ, tiếp sức cho tôi trong những thời khắc khó khăn nhất của cuộc tù đày.

Tôi về hết án, chị Bẩy sụt sịt nói với tôi ngoài sân giếng:

– Em về, ai giữ cuốn Thánh Kinh cho chị?

Tôi không biết trả lời thế nào, buồn rũ người.

Tôi đã về nhà, tháng 9 này được tròn bốn năm. Bốn năm ấy, không biết ai niu giữ cuốn Kinh Thánh giúp chị Bẩy?

Phạm Thanh Nghiên

danlambaovn.blogspot.com

Chú thích:

(*). Viết dịp Phục sinh nhưng tháng 6/2016 mới đăng.

TRỞ THÀNH DỤNG CỤ CỦA TÌNH YÊU THƯƠNG XÓT

TRỞ THÀNH DỤNG CỤ CỦA TÌNH YÊU THƯƠNG XÓT

  Gm. GB Bùi Tuần

Càng về già, tôi càng rút vắn cách cầu nguyện. Bởi vì sức khoẻ của tôi mỗi ngày mỗi giảm sút. Khó tập trung. Dễ căng thẳng.

Cầu nguyện, nếu là gặp gỡ Chúa, thì cầu nguyện của tôi vẫn dài. Nhưng, nếu cầu nguyện là đọc kinh, thì đọc kinh của tôi bây giờ thường rất vắn.

Tôi thường đọc lời kinh sau đây: “Lạy Chúa, xin thương xót con”.

  1. Mỗi ngày, tôi cầu nguyện với Chúa bằng lời kinh vắn tắt đó rất nhiều lần. Lần nào cũng là gặp gỡ Chúa. Lần nào gặp gỡ Chúa cũng là như mới.
  1. Chủ yếu của gặp gỡ Chúa làđón nhậnThiên Chúa giầu tình yêu thương xót. Tôi càng nghéo khó, bé nhỏ, hèn mọn, thì càng dễ đón nhận tình yêu xót thương của Chúa.
  1. Một dấu chỉ giúp tôi nhận ra tôi được đón nhận tình yêu Chúa xót thương là tôi thấy mình được thay đổi sâu sắc. Thay đổi đó có thể gọi là đổi mới. Tôi được đổi mới một cách lạ lùng.

Tôi được đổi mới thế nào?

Thưa đổi mới nơi tôi là tôi cảm thấy mình thuộc về Chúa (Rm 14,8). Tôi cảm thấy mình trở thành của lễ hiến dâng lên Chúa (Rm 12,1). Tôi cảm thấy mình được làm con Thiên Chúa (Rm 8,16), một Thiên Chúa là tình yêu (Ga 4,8). Tôi cảm thấy mình được làm con Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu thương tôi (Ep 2,4).

  1. Những đổi mới trên đây, mà Chúa cho tôi được cảm thấy trong tôi, cho dù còn mờ nhạt, nhưng đã mở ra cho tôi những con đường mới.

Những con đường mới đó là những gì?

Thưa là những con đường tình yêu mà Chúa đã dạy.

  1. Ở đây tôi chỉ xin nói sơ qua về con đường tình yêu trong dụ ngôn“người Cha đón người con phung phá” (Lc 15,11-33).

Yêu của Chúa là đợi chờ người con phung phá trở về.

Yêu của Chúa là nhìn đứa con phung phá với tấm lòng xót thương âu yếm.

Yêu của Chúa là chạy ra đón người con trở về.

Yêu của Chúa là tha thứ mà không đòi điều kiện.

Yêu của Chúa là ăn mừng vì con trở về.

Yêu của Chúa là cứng rắn với đứa con kết án việc Chúa xót thương đứa con phung phá.

  1. Đối với tôi, bài học tình yêu mà Chúa dạy trên đây làhãy đi bước trước, hãy bước xa hơn trong những liên đới với những con người, đặc biệt là những con người tội lỗi.
  1. Đi bước trước và bước xa hơnvề tình yêu thương xót trong những liên đới mục vụ, truyền giáo và xã hội, đó là điều tôi vui mừng nhận thấy nơi nhiều môn đệ Chúa Giêsu tại Việt Nam hôm nay.

Họ đi bước trước và bước xa hơn về tình yêu trong những điểm rất sát cuộc sống. Như: Trong tư duy, trong tư cách, trong việc làm, trong đối xử, trong tha thứ, trong hy sinh.

  1. Trong Phúc âm, Chúa Giêsu dạy trong bất cứ lãnh vực nào của tình yêu, trên bất cứ con đường nào của tình yêu, luôncần phải cụ thể. Như phải biết chào hỏi họ, phải biết cầu nguyện cho họ, phải biết làm mọi sự có thể, để đem lại bình an cho họ, phải giúp đỡ họ, phải tha thứ cho họ.
  1. Yêu như Chúa dạy là rất khó. Nhưng Chúa quả quyết là khó, mà vẫn làm được, nhờ dựa vào ơn Chúa. Hãy tìm đến với Chúa Giêsu. Người sẽ bổ sức cho, Người sẽ làm cho gánh nặng trở nên nhẹ nhàng(x.Mt 11,30).
  1. Nhiều môn đệ Chúa tại Việt Nam hôm nay, đã có kinh nghiệm quý giá đó. Khó mà vẫn làm được, nhờ ơn Chúa.Vì thế, họ quan tâm nhiều đến việc “Ở lại trong Chúa” (Ga 15,4). “Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
  1. Với những chia sẻ trên đây, tôi tha thiết cầu chúc cho mọi người con Chúa tại việt Nam hôm nay, mau được ơn Chúa đổi mới chính mình, nhờ đó sẽ trở thành nhân chứng của tình yêu Chúa giàu lòng thương xót, ngay tại môi trường mình sống.
  1. Cách riêng, tôi tha thiết cầu chúc cho các tân linh mục, và các người đang được huấn luyện để lãnh chức linh mục, được thực sự đổi mới bản thân, nhờ đó sẽ mang nơi mình dấu ấn tình yêu thương xót của Chúa là Chúa Giêsu trên thánh giá.

Việt Nam đang rất cần một hàng tư tế mới như vậy.

  1. Tôi hết lòng cảm tạ Chúa vì những đổi mới Chúa thực hiện trong tôi. Nhưng tôi vẫn ý thức sâu sắc về khả năng sụp đổ trong tôi. Bởi vì tôi luôn yếu đuối. Với sự tự do Chúa còn để lại trong tôi, tôi vẫn có thể từ chối và lạm dụng ơn Chúa. Và còn biết bao lực lượng phá hoại khác. Vì thế, tôi không ngừng xin Chúa xót thương tôi. Mỗi ngày tôi như phải bắt đầu lại. Xin anh chị em thương cầu nguyện rất nhiều cho tôi.

Tôi hết lòng phó thác mình cho Chúa giàu lòng thương xót. Xin đón nhận mọi sự, cho dù là thánh giá, vì vâng phục thánh ý Chúa. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, tôi luôn vững tin:

Tình yêu thương xót của Chúa là nguồn cứu độ tôi.

Xin Chúa xót thương con.

 Long Xuyên, ngày 27.5.2016

+ Gm. GB Bùi Tuần

Tỷ phú Bill Gates: Tin Chúa là cách lựa chọn khôn ngoan

Tỷ phú Bill Gates: Tin Chúa là cách lựa chọn khôn ngoan

Tin Công Giáo

Bill Gates, người giầu nhất thế giới, gần đây đã tiết lộ trong một cuộc phỏng vấn: “Tin Chúa là khôn ngoan”, và “ít nhất đó là một niềm tin đạo đức”. Một tuyên bố như thế của một trong những người nổi tiếng nhất thế giới là một tin tốt lành đối với nhân loại.

Ngày 13/03/2014, tạp chí Rolling Stone đã có một cuộc phỏng vấn dài đối với Bill Gates về nhiều vấn đề nổi cộm trong thế giới ngày nay. Kết thúc cuộc phỏng vấn là hai câu hỏi sau đây:
1.- Ông là một nhà công nghệ , nhưng rất nhiều công việc ông làm với quỹ từ thiện mang một chiều kích đạo đức. Phải chăng suy nghĩ của ông về giá trị của tôn giáo đã thay đổi trong những năm qua?

2.- Ông có tin vào Chúa không?
Câu trả lời của Bill Gates có lẽ đã làm cho những người vô thần rất thất vọng. Ngược lại, những người có đức tin tôn giáo vui mừng, đặc biệt vì ông nhấn mạnh: “ các hệ thống đạo đức tôn giáo là cực kỳ quan trọng (The moral systems of religion are super important)”.

Sau đây là bản lược dịch một trong số những bài báo tường thuật cuộc phỏng vấn của Rolling Stone: “Bill Gates Reveals Family Goes to Catholic Church: It Makes Sense to Believe in God” (Bill Gates tiết lộ gia đình ông đến nhà thờ Công giáo: Tin Chúa là khôn ngoan) của Stoyan Zaimov trên tờ The Christian Post ngày 14/03/2014.
Bill Gates tiết lộ: Tin Chúa là khôn ngoan

Bài của Stoyan Zaimov

Bill Gates, người giầu nhất thế giới, tiết lộ trong một cuộc phỏng vấn gần đây rằng gia đình của ông đi đến một nhà thờ Công giáo và rằng đạo đức tôn giáo tạo nhiều cảm hứng cho công việc từ thiện của ông. Ông cũng chia sẻ những suy nghĩ cá nhân của ông về Chúa và về những vấn đề nổi cộm mà thế giới ngày nay đang phải đối mặt.

Trả lời phỏng vấn của tạp chí Rolling Stone ngày 13/03 (đã ra mắt trên báo giấy ngày 27/03), Bill Gates nói: “Tôi nghĩ rằng các hệ thống đạo đức tôn giáo là cực kỳ quan trọng. Chúng tôi nuôi dạy con cái theo phương pháp của tôn giáo; các con tôi tới nhà thờ Công giáo nơi Melinda tới đó và tôi cũng tham gia vào đó. Tôi đã rất may mắn, và do đó tôi hàm ơn sự may mắn đó và phải cố gắng giảm thiểu sự bất công trên thế giới. Đó chỉ là một chút đức tin tôn giáo. Tôi muốn nói, ít nhất đó là một niềm tin đạo đức”.

Khi được hỏi liệu ông có tin Chúa hay không, ông đáp: “ Tôi nghĩ tin Chúa là khôn ngoan, nhưng tôi không biết đích xác cái gì trong cuộc đời chúng ta làm cho chúng ta hành động khác với niềm tin đó ” [3].

Đồng thời ông nói ông tán thành với những người như Richard Dawkins rằng “nhân loại cảm thấy cần thiết phải có những tưởng tượng về sự sáng tạo của Chúa” [4]. Ông nói: “Trước khi chúng tôi bắt đầu hiểu về bệnh tật và thời tiết và về những vấn đề như thế, chúng tôi đã tin theo những giải thích sai lầm về những thứ đó. Hiện nay khoa học đã tham dự một phần – không phải tất cả – vào những lĩnh vực mà tôn giáo đã từng giải quyết”.

Ad finishes in 27 seconds

Ông nói tiếp: “Nhưng bí mật và vẻ đẹp của thế giới thật vô cùng đáng kinh ngạc, và không có một sự giải thích nào của khoa học có thể giải thích được tại sao nó xẩy ra như thế. Nói rằng điều đó hình thành bởi những con số ngẫu nhiên thì xem ra, bạn biết đấy, đó là một cách nhìn không hợp lý cho lắm” (cười).

Theo danh sách tỷ phú trên tạp chí Forbes 2014, nhà sáng lập Microsoft đã giành lại được vị trí giầu nhất thế giới với tổng giá trị tài sản lên tới 76 tỷ dollars. Tuy nhiên, người tạo nên cuộc cách mạng về công nghệ của Microsoft đã rời bỏ chức chủ tịch tập đoàn này để tập trung vào việc làm từ thiện của ông. Năm 2000, ông thành lập Quỹ Bill & Melinda Gates, một tổ chức được xếp hạng như một trong những tổ chức từ thiện quảng đại nhất thế giới.
Quỹ này đã hiến tặng tiền bạc và khởi động các chương trình vì nhiều mục đích khác nhau trên toàn thế giới. Quỹ này có một cơ quan mang tên Global Health Division (Chi nhánh Sức khỏe Toàn cầu) nhắm mục tiêu vào việc đẩy mạnh tiến bộ khoa học và công nghệ tại các nước đang phát triển, một chương trình mang tên Global Developments (Phát triển Toàn cầu) dành cho việc phát triển nông nghiệp, xử lý nguồn nước và vệ sinh, các dịch vụ tài chính dành cho người nghèo và các chương trình giáo dục tại Mỹ.

Bill Gates thể hiện niềm lạc quan rằng bệnh bại liệt, một căn bệnh mà quỹ từ thiện của ông tập trung cứu giúp nhiều nhất, sẽ bị xóa bỏ hoàn toàn, và rằng về căn bản đến năm 2035 sẽ không còn có nước nghèo nữa, ông chỉ ra những bài học thành công trong vấn đề này như Brazil, Mexico, Thái Lan và Indonesia.

Điều ông lo lắng nhất trong 50 năm tới là vấn đề thế giới cần phải làm nhiều hơn nữa để giải quyết tình trạng biến đổi khí hậu, chủ nghĩa khủng bố trên phạm vi rộng và giải quyết những mối lo về sức khỏe toàn cầu.

Ông nói: “ Tôi biết nếu mọi em bé được khỏe mạnh, mọi con đường được làm mới, thì sẽ đưa một đất nước đi trên một con đường tốt đẹp hơn như thế nào, nhưng tôi không phải một chuyên gia để biết làm thế nào để giải quyết vấn đề bất ổn định và chiến tranh sẽ dấy lên lúc này hoặc lúc khác. Tôi mong ước có một phát minh hoặc một tiến bộ nào đó để sửa chữa tất cả những thứ bất ổn đó. Có thể một số sự kiện thực sự tồi tệ sẽ xẩy ra trong vòng 50-100 năm tới, nhưng hy vọng là không có một sự cố nào trong số đó sẽ gây ra cái chết ở mức một triệu người (trở lên) mà bạn không dự kiến trước được từ một bệnh dịch, hoặc một vụ khủng bố hạt nhân hoặc sinh học”… ..

Năm 1995, cũng với câu hỏi “Ông có tin vào Chúa hay không?”, Bill Gates trả lời: “Tôi không biết liệu có Chúa hay không, nhưng tôi nghĩ các nguyên lý tôn giáo hoàn toàn có căn cứ vững chắc” (I don’t know if there is a God or not, but I think religious principles are quite valid) [5].

Với câu trả lời đó, giới vô thần vội vàng ghép Bill Gates vào danh sách “những người vô thần nổi tiếng” (celebrity atheists), bất chấp việc ông thể hiện một thái độ trân trọng đối với tôn giáo. Một số khác coi ông là người theo thuyết bất khả tri (agnosticist). Thậm chí có người mô tả ông như một người mê mải làm ăn, không bận tâm tới tôn giáo, vì có lần ông phát biểu: “Riêng về vấn đề phân phối dự trữ thời gian thì tôn giáo không hiệu quả cho lắm. Tôi còn hàng đống việc phải làm vào sáng chủ nhật”. Nhưng họ nhầm.

Theo Wikipedia, “khi Gates còn trẻ, gia đình ông thường xuyên tham dự lễ của Đạo Hợp nhất Tin Lành (Protestant Congregational church)”. Đó là lý do để sau này, ngay cả khi ông chưa có một quan điểm rõ ràng về Chúa, ông luôn luôn coi hệ thống tôn giáo là quan trọng. Đó là điều không bao giờ có ở một người vô thần.
Và bây giờ, Bill Gates đã thể hiện quan điểm rõ ràng hơn: “Tin Chúa là khôn ngoan”!

Căn cứ theo những gì ông tiết lộ trong cuộc phỏng vấn của Rolling Stone, có bài báo đã viết: “Bill Gates theo Đạo Công giáo La Mã” (Bill Gates follows Roman Catholicism). Không nghi ngờ gì nữa, sự thay đổi của Bill Gates theo hướng tích cực một phần lớn là kết quả của cuộc hôn nhân giữa ông với Melinda French, một người công giáo thuần thành.

Theo nhiều trang tiểu sử, họ sống với nhau hạnh phúc, đến nay đã có 3 người con. Nhưng còn hơn thế, họ là một đôi bạn tri kỷ, cùng đọc một số sách rồi thảo luận với nhau, cùng nhau theo đuổi một lý tưởng cao quý – lý tưởng chia sẻ tình yêu thương với tha nhân, đúng như lời Chúa dạy.

Năm 1994, khi nghe tin Bill Gates cưới Melinda, một nhân viên trong công ty mà ông làm chủ, tôi nói với bạn bè: “cô Melinda này may mắn quá”. Gần đây, khi biết Melinda đóng vai trò lớn lao trong việc “lôi kéo” chồng con vào những sinh hoạt tôn giáo và từ thiện, tôi lại nói với bạn bè: “ông Bill Gates này may mắn quá”.

Một người bạn vô thần nói với tôi rằng Bill Gates thay đổi chỉ vì Melinda, thay vì bởi chính Bill Gates muốn thay đổi. Tôi trả lời: “Này bạn, những người như bạn không thể hiểu được những giá trị thiêng liêng và cao quý. Người theo Đạo chúng tôi nghĩ rằng đó là ý Chúa – Chúa muốn một người như Bill Gates phải có ĐẠO, như thế sẽ có ích cho nhân loại nhiều hơn. Melinda chính là một sứ giả của Chúa đấy”.

Melinda Ann French sinh năm 1964 tại Dallas, Texas. Là con gái thứ hai trong bốn người con của ông Raymond Joseph French Jr., một kỹ sư về hàng không, và Elaine Agnes Amerland, một phụ nữ nội trợ. Melinda là một người Công giáo thuần thành, từng là học sinh xuất sắc của trường công giáo St. Monica Catholic School, có 2 bằng cử nhân của Đại học Duke, cử nhân khoa học computer và cử nhân kinh tế, và một bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh cũng của đại học đó.

Sau khi lấy chồng, bà đã dâng hiến đời mình cho sự nghiệp từ thiện, san sẻ tình yêu thương với đồng loại, thực hành tôn chỉ của công giáo là yêu thương tha nhân. Bà tự nhắc nhở mình và nhắc nhở mọi người rằng “Chúng ta phải lưu ý đến việc làm thế nào sử dụng ánh sáng này chiếu trên chúng ta” (We have to be careful in how we use this light shined on us). Đó là ánh sáng của Chúa – ánh sáng soi rọi cho chúng ta biết giá trị đích thực của con người là gì và đâu là đích để chúng ta hướng tới.

theo Khám Phá