ĐỨC MẸ CỨU GIA ĐÌNH TÔI KHỎI NẠN THỜ CÚNG DỊ THẦN

 CANH TÂN ĐẶC SỦNG KHẮP NƠI – LỜI CHỨNG TỪ THÀNH PHỐ MUMBAI,  ẤN ĐỘ ( Bài 1)

______________________________ ________________________

ĐỨC MẸ CỨU GIA ĐÌNH TÔI KHỎI NẠN THỜ CÚNG DỊ THẦN

MARIA AN DO

Bà Maria Sê-bat-chien Worli,           

      Thành phố Mumbai, Ấn Độ.

Cha Mẹ của tôi là những người Công Giáo biết kính sợ Chúa, họ đi lễ và đọc kinh thường xuyên; Chúa cho gia đình tôi có một công việc kinh doanh, đó là công việc chế tạo máy dụng cụ cho các phòng thí nghiệm, Công việc làm ăn phát triển nhanh chóng, cơ xưởng đã tăng lên được 30-35 người thợ, dưới quyền điều khiển của cha tôi. Nhưng dần dà, theo đà công việc bận rôn, chúng tôi đã không có thời giờ dành cho việc cầu nguyện, thưa chuyện với Chúa. Cha tôi vốntrước đây rất sốt sắng đến với Chúa thì nay lại thoái thác và nói “làm việc cũng là thờ phuơng” rồi ông bị cuốn hút luôn vào trong công việc kinh doanh tất bật.

Trong thời gian đó, mọi người lưu ý đến sự kiện các máy móc vốn có tổn phí hàng trăm ngàn rupee, tuy chúng đã được kiểm tra, cho chạy thử ở thành phố Mumbai trước khi được xuất xưởng, nhưng khi chở đến nơi của khách, máy mócthường hay bị nổ tung khi chúng tôi cho máy chạy để nghiệm thu trước mặt khách hàng. Sự lạ đó như một bí mậtkhông rõ nguyên nhân, rồi đến các Công nhân bắt đầu tự ý bỏ việc đi khỏi xưởng làm cho việc kinh doanh càng bị lỗ lãnhiều hơn. Ngày nọ, một công nhân đi coi bói về báo lại cho Cha tôi rằng những sự thiệt hại, thua lỗ là do công việc kinh doanh bị ếm chú bởi các thày phù thủy. Ông ta mời Cha tôi cùng đi đến thày pháp vào lần gặp kế tiếp. Thoạt đầu Cha tôi do dự và từ chối vì không tin vào pháp thuật, nhưng rôi, khi hỏi ý một người có niềm tin tôn giáo thì Cha tôi lại bị khuyên làm điều sai lạc, ông kia xúi dục “cứ việc đi tìm hiểu xem sao”. Thế là ông đã đi gặp người thày. Không phải chỉ gặp một lần mà sau đó, ông còn gặp tới ít nhất là 35 lần với nhiều thày pháp khác nhau, tất cả đều vô vọng, không giải quyết được các vấn nạn trong kinh doanh. Có người còn chỉ cho ông đi đến đền thờ Ajmer Meera Dattar, vợ của Thần Shiva (tượng thần có mười tay và thường được tạc cho cưỡi trên lưng một con cọp), sẽ cứu giúp trong mọi trường hợp vô hy vọng. Đó là lần thử cuối, ông tiêu nhiều tiền trong tất cả các lần thăm viếng những chỗ đó và càng làm cho phí tổn trong xưởng gia tăng lên, có lần một người lên đồng đòi phải sát tế súc vật, ba tôi cũng đã cúng tiến như lời dặn nhưng tất cả đều không làm cho tình hình khá lên chút nào. Thánh vịnh đoạn 16, câu 4 nói:

–     Sự đau đớn của những kẻ theo thần khác Sẽ gia tăng gấp bội…

Đây thực sự là điều xẩy ra trong trường hợp của gia đình chúng tôi. Sự trục trặc gia tăng lên gấp nhiều lần và không gì có thể cứu chúng tôi khoát khỏi những khổ sở đó… cho đên khi Cha Mẹ tôi đi viếng nhà thờ ở Irla trong dịp những ngày lễ trọng.

Ngay vào ngày đầu tiên, khi Mẹ của tôi đến viếng tượng Đức Mẹ được trang điểm đẹp đẽ cho việc tôn kính Mẹ trong dịp lễ, Bà chỉ nhìn thấy mặt Đức Mẹ không có tròng mắt, tuy ngạc nhiên nhưng mẹ tôi giũ kín điều đó trong lòng. Rồi trong ngày  tiếp theo, Bà thăm viếng cùng tượng Đức Mẹ, thì lại thấy Đức Mẹ như đang tỏ ra buồn bực, hai mắt của Mẹ tròn xoe như những viên bi, Đức Mẹ tỏ ra rất không vui lòng, bức xúc. Hoảng hốt khi được mục kích những điều xảy ra, mẹ tôi chạy đi tìm các sơ trong giáo xứ để tìm hiểu tại sao ban tổ chức lễ đã thay đổi  tượng kính Đức Mẹ vào mỗi ngàycủa dịp Lễ như vậy? Câu trả lời của Sơ là không hề có việc đó, nhưng sơ có nói thêm với Mẹ của tôi, có thể Đức Mẹ đã muốn nói điều gì đó với bà  và chúng ta cần phải ngồi trong nhà thờ, cầu nguyện để được rõ về những hiện tượng đã xảy ra. Rồi cả hai người đi  đến nhà thờ và cầu nguyện trong nước mắt ăn năn, xin cho được hiểu biết đường lối phải theo. Khi họ đi ra khỏi nhà thờ, mắt họ nhìn trúng ngay ở bảng thông báo, một chữ to, in đậm, “Đặc Sủng”,  nó tiếp tục chớp nháy trong mắt của họ. Mẹ tôi nghe tiếng Đức Mẹ truyền dạy “Hãy đi tới nhóm cầu nguyện Đặc Sủng”

Ngày thứ năm hôm đó, chúng tôi đi đến nhà thờ “Chúa Chiên lành” thuộc giáo xứ nhà, khu Bungalow số bốn, quận Andheri, để tham dự nhóm cầu nguyện Canh Tân Đặc Sủng, cũng ngay chiều hôm đó, có một thông báo về chương trình tiếp cận của nhóm mục vụ “Nguồn Nước Sống – Jeevan Jal”. Mẹ tôi hỏi thăm những người khác về chương trình này, một bà tốt lành đã lưu ý rằng Chúa sử dụng sư huynh Trevor để thuyết giảng về Lời của Ngài ở trong sách Kinh Thánh và nhiều người được chữa lành hay được giải thoát khỏi các trói buộc của Ma Quỷ. Thật đúng với những gì mà chúng tôi đang mong ước và chúng tôi cảm nhận được rằng, cuối cùng thì Chúa đã dùng Mẹ Maria để chỉ cho chúng tôi con đường đến với Chúa Giê Su.

Chúng tôi đã tham dự chương trình “Tiếp Cận” và cuộc đời của chúng tôi được thay đổi hoàn toàn. Một thời gian sau, tất cả các kẻ thù nghịch, tranh cạnh với chúng tôi đều làm hòa, trở thành bạn hữu. Chúa bắt đầu làm những điều kỳ diệu trong đời chúng tôi qua việc chữa lành và giải thoát chúng tôi khỏi các mối quan hệ, tương giao tội lỗi. Kể từ khi đó chúng tôi không hề bỏ Chúa và tiếp tục phục vụ trong nhóm cầu nguyện Canh Tân Đặc Sủng Jeevan Jal.

PEREIRA

SỰ ĐỔI ĐỜI CỦA  TÔI                          Ông Hillary Pereira,
Ghatkopar, Mumbai

Trước khi tiếp nhận Chúa Giê Su tôi sống theo cách của tôi, đời sống tôi chỉ có 3 thứ nối với nhau, nhảy Disco – uống rượu – họp mặt, tôi đàn đúm với chúng bạn vào mỗi ngày nghỉ cuối tuần ở quán nhậu. Tôi lê bước về nhà rất khuya, có khi đến 4 giờ sáng.

Vì tôi là người Công Giáo, nên tôi nghĩ rằng, mình có nhiệm vụ đi tham dự lễ vào Chúa Nhật, thế là đủ rồi. Nhưng rồi, bỗng nhiên các bạn tôi rời xứ sở đi làm ở nơi khác, họ đã bỏ tôi ở lại một mình. Vào một ngày thứ tư nọ, cảm thấy nhàm chán không có việc gì làm, lại thêm một người bạn cứ nài nỉ nhiều lần, cho nên tôi nhận lời đi đến tham dự một buổi thờ phượng Nguồn nước sống – Jeevan Jal”. Đề tài giảng dạy ngày hôm đó là “Tình Yêu của Thiên Chúa”. Tôi còn nhớ mình chọn một ghế ở bao lơn để không ai nhìn thấy, từ lúc đầu của buổi mít ting, tôi cảm thấy có một cảm giác khác lạ đang xảy ra trong tâm tư tôi. Khi sư huynh Trevor bắt đầu giảng Lời của Chúa, tôi bị đụng chạm cách mãnh liệt, đặc biệt là khi ông ta dẫn chứng thư La Mã 5:8

–     Còn Thiên Chúa thì lại thi thố lòng yêu mến của Người đối với ta thế này: là Đức Ki tô đã chết vì ta, ngay lúc ta còn là tội nhân!

Từ khoảnh khắc đó cuộc đời tương lại của tôi thay đổi, nó không bao giờ còn giống như xưa nữa.

Cũng có lúc tôi muốn quay đầu trở lại với nếp sống cũ, rồi mọi sự bắt đầu chìm vào nếp cũ, đâu hoàn đó chăng?

Mọi sự rất tốt trong một thời gian cho đến khi bạn tôi về thăm và định rằng chúng tôi cần đi với nhau như xưa, họ chỉ ở Mumbai có vài ngày và tôi không thể trả lời không khi họ mời đi chơi, tôi cùng  đi vũ trường Disco “động đất”, tuy nhiênkhi đến nơi, tôi chỉ lấy một chỗ ở trong góc và ngồi chờ ở đó trong suôt thời gian các bạn tôi quay cuồng trên sàn nhảy. Chẳng bao lâu sau, tôi nhận ra là mình rất không vui, và sợ hãi, tôi mong sao cho bạn mình mau chóng quay lại chỗ ngồi, sau một thời gian chờ đợi dài, vào lúc 1 giờ sáng, tôi đứng lên để đi tìm họ. Khi tôi từ ban công trên lầu nhìn xuống dưới, chỗ sàn nhảy, tôi giật mình, trong khoảng vài giây, ánh đèn chớp nhiều mầu sắc thay đổi, trông giống như một ngọn lửa lớn lóe lên, còn những người đang hò hét thích thú và cười giòn dã thì giống như tiếng kêu gào xin được cứu giúp cho thoát ra khỏi nơi đó. Tôi bị choáng vì những gì đã nhìn thấy và nghe rõ. Bấy giờ, tôi thực sự kinh hoàng, lòng đầy sợ hãi, tôi bắt đầu khóc thầm…

–     Còn lũ đớn hèn, bội tín, vô luân, sát nhân, dâm dật, và gian dối hết thảy, thì phần của chúng là nơi vũng lửa sinh diêm, đó là cái chết thứ hai  (Khải huyền 21:8)

 Cuối cùng, tôi cũng tìm ra được các bạn hữu và khẩn khoản xin họ đưa tôi về nhà. Về đến nhà, tôi lại càng khóc nhiều vì sự sợ hãi phát sinh từ những hình ảnh đã mục kích, vào lúc đó, thậm chí tôi than trách Chúa của tôi, vì sao Ngài lại đểcho sự số xẩy ra như vậy mà không dừng chân tôi khỏi phải  đi vào sàn khiêu vũ Disco ngay từ lúc đầu. Sau một lúc lâu, những giọt lệ vơi dần, tôi liền nghe thấy Chúa nói một cách dịu dàng ở  trong tâm hồn của tôi, “Regina, ta muốn chỉ cho con thấy nơi mà ta đã nhặt con ra khỏi”. Tôi lờ mờ nhận ra rằng vào lúc đó Chúa cho tôi thấy một thoáng nhìn, chớp lên, hình ảnh của hỏa ngục. Chỉ từ khi đó tôi mới hoàn toàn ý thức việc “được Chúa cứu” thì có giá trị ngần nào. Tôi ca ngợi và cảm ơn Chúa vì đời sống mới trong Chúa Giê Su đang được Ngài ban cho tôi.

–     Cho nên ai ở trong Đức Ki tô, kẻ ấy là tạo thành mới: cũ đã qua đi, và này mới đã thành sự!

(Nguồn: http://www.jeevanjal.org/ jeevanjal/testimonies.html).

Các phép lạ mới và ít được biết đến của cha Thánh Piô

Các phép lạ mới và ít được biết đến của cha Thánh Piô

“Cha Piô”, tên gọi đơn giản nhưng thân thuộc mà tín hữu khắp nơi trên thế giới dùng để gọi cha Thánh Piô thành Pietrelcina. Cha Piô sinh ngày 25 tháng 5 năm 1887, với tên Francesco Forgione, trong một gia đình Công giáo đạo hạnh ở Pietrelcina, Italia.

Vào năm 15 tuổi, cha gia nhập dòng capuchinô và trở thành Linh mục. Trong suốt cuộc đời, cha Piô được biết đến như là một nhà huyền bí, được mang 5 dấu thánh của Chúa Giêsu trong suốt 50 năm – các vết thương ở chân tay và cạnh sườn như Chúa Giêsu đã bị đóng đinh. Nhiều phép lạ và dấu lạ đã được thực hiện bởi cha Piô như các vụ chữa lành, đọc được nội tâm, bay lên và thậm chí xuất hiện ở hai nơi khác nhau trong cùng thời gian. Ngài là một trong những vị thánh vẫn đang thực hiện nhiều phép lạ trong Giáo hội cho đến ngày nay, cho những ai xin ngài khấn cầu.

Còn cha John Paul Zeller là một thừa sai dòng Phanxicô Ngôi lời vĩnh cửu và là một thừa sai Lòng thương xót đến từ thành phố Birmingham, tiểu bang Alabama, Hoa kỳ. Cha đang giữ một thánh tích hạng nhât của cha Piô và đã tận mắt chứng kiến những lần chữa lành qua lời cầu bầu của cha Piô với thánh tích cầm trên tay. Đối với cha Zeller, cha Piô là một vị thánh bầu cử rất quyền thế. Cha Zeller kể lại rằng ban đầu cha không có lòng kính mến đặc biệt đối với cha Piô.

Cha luôn tưởng tượng ra cha Piô rất là nghiêm khắc và sợ xin ngài cầu bầu vì sợ cha Piô cũng nghiêm khắc với cha. Nhưng vào năm 2004, sau khi cha Pio được Thánh Giao hoàng Gioan Phaolô II tuyên phong hiển thánh, cha Zeller đã hành hương đến thành phố San Giovanni Rotondo, nơi cha Pio đã phục vụ trong thánh chức Linh mục phần lớn thời gian ởđó, và lòng yêu kính đối với cha thánh Piô đã gia tăng từ đó. Cha Zeller đột nhiên cảm thấy mình có mối liên hệ với cha Piô, vì thánh nhân đã chọn ngài chứ không phải ngài chọn thánh nhân. Giờ đây cha nhận ra cha Piô thật sự là một tu sĩ vui vẻ. Cha nghĩ là cha Piô có vẻ nghiêm khắc là vì “thánh nhân biết khi nào người ta không ăn năn hoán cải.” Người ta nói là Cha Piô có thể ngửi được mùi của tội. Cha lo lắng cho ơn cứu độ của các linh hồn và mang lòng thương xót và tha thứ của Chúa đến cho các linh hồn của dân chúng.

Sau khi học biết về cuộc đời của cha Piô, cha Zeller được đánh động và lấy hết can đảm để xin các bề trên tu viện ở San Giovanni cho cha một thánh tích của cha Piô. Cha bề trên đã đồng ý và tặng cho cha Zeller không chỉ một, nhưng tới hai mảnh băng thấm máu mà cha Piô buộc quanh vết thương của các dấu thánh. Sau khi nhận được thánh tích của cha Piô, cha đã tặng cho cộng đoàn của cha, được Mẹ Angelica, người sáng lập mạng lưới truyền  hình Công giáo thành lập và được phép giữ cho mình thánh tích còn lại. Cha mang thánh tích này theo mình mọi lúc. Là giám đốc hành hương của trung tâm Mạng lưới truyền hình Lời vĩnh cửu, cha có nhiều cơ hội cầu nguyện với nhiều người. Cha cầu nguyện với các tín hữu hành hương và có những trường hợp, theo cha, có sự chữa lành nhờ lời cầu bầu của cha Piô.

Một trường hợp xảy ra vào gần giữa năm ngoái (2016), trong một buổi cử hành chữa lành ở đền thánh Thánh Thể ở Hanceville vào ngày lễ Đức Mẹ Fatima, khi cha và 2 Linh mục khác đã dùng hai băng vải thánh tích của cha Pio để cầu nguyện trên dân chúng. Khi họ đang cầu nguyện, một phụ nữ bị đau thần kinh tọa tiến lên và cha đã cầu nguyện cho bà. Sau  đó, phụ nữ này trở lại và cho cha biết là sau khi trở về chỗ ngồi, cơn đau của bà đã biến mất. Một trường hợp khác, không lâu sau khi nhận được thánh tích, cha Zeller đang trò chuyện với vài người bạn thì nhận ra đứa con gái 12 tuổi của một người bạn đang đau đớn vì bị viêm tai và dường như không thể lành.

Cha Zeller hỏi đứa bé xem ngài có thể cầu nguyện trên cô với thánh tích không. Cô bé trả lời được. Cha Zeller cho người mẹ và cô gái thấy thánh tích. Khi cha vừa đặt thánh tích đụng tai của cô gái và bắt đầu cầu nguyện, cô bé trượt khỏi tay cha và ngã xuống đất. Cha Zeller không kịp đỡ cô bé vì nghĩ có chuyện gì xảy ra với cô. Khi cha đang lo sợ thì mẹ cô bé rất bình tĩnh, bà tin đó là hoạt động của Chúa Thánh Thần. Nhưng từ lúc đó cô bé không còn bị viêm tai nữa. Một trường hợp của một phụ nữ bị bệnh tim đã 40 năm cũng được chữa lành sau khi được cha đặt thánh tích của cha Pio trên bà và cầu nguyện. Cha Zeller nhấn mạnh rằng không phải là cha, nhưng việc chữa lành là nhờ lời cầu bầu của cha thánh Piô. (CNA 22/09/2016)

Hồng Thủy

Anh chị Thụ & Mai gởi

Chứng Nhân Lòng Thương xót Chúa

 Chứng Nhân Lòng Thương xót Chúa

Maria Kim Nhung

Đã từ lâu, tôi có nghe nói đến Lòng Thương Xót Chúa. Chuyện kể về Nữ tu Faustina được thị kiến và mạc khải bởi Chúa Giêsu. Kinh Lòng Thương Xót Chúa và Tuần Cửu Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa cũng đã được phổ biến. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã dành Chúa Nhật thứ nhất sau lễ Phục Sinh để Kính Lòng Thương Xót Chúa.

Kinh Lòng Thương Xót Chúa chưa được phổ biến rộng rãi, nên nhiều người trong chúng ta chưa quan tâm đúng mức và cũng chưa biết rõ lắm. Tôi cũng nằm trong thành phần đó. Quyển sách Nhật ký Lòng Thương Xót Chúa của Thánh Nữ Faustina tôi cũng đã mua, Kinh Lòng Thương Xót Chúa tôi cũng sẵn có, còn đọc… thì từ từ, khi nào người ta đọc thì mình đọc theo! Sách thì dầy quá, ngại đọc lắm! Tôi cũng đã đọc nhiều chuyện kể về những chứng nhân Lòng Thương Xót Chúa, nhưng đọc thì đọc, tôi cũng chẳng quan tâm gì lắm! Ngay cả chị bạn gần nhà, kể tôi nghe rằng: Má chị và chị chiều nào cũng vậy, khoảng 3 giờ chiều, hai mẹ con cùng nhau đọc Kinh Lòng Thương Xót Chúa. Kết quả thật bất ngờ: Má chị đã đi lại được sau 6 tháng nằm liệt giường! Nghe cho biết vậy thôi, chứ thực sự tôi cũng chảng mấy quan tâm đến việc mà chị bạn tôi cho là một phép lạ!

Cho đến gần đây, chính tôi được Chúa chữa lành, việc này đã là một bước ngoặt trong niềm tin của tôi, một ngã rẽ trong cuộc đời tôi, khiến tôi không thể không tin, tôi viết lại những lời chia sẻ này như là một lời tạ tội với Chúa , đồng thời để ngợi khen Lòng Thương Xót Chúa mà tôi chính là người đã được Chúa đoái thương. Bây giờ thì tôi đã hiểu câu “Jesus, I Trust In You” dòng chữ dưới tấm ảnh, tạm dịch “Lạy Chúa Giêsu, con tin cậy Chúa”. Hiểu rất rõ và cũng vô cùng thấm thía!

Cách đây hai năm, tôi bị đau cổ tay và các ngón tay ở bàn tay phải. Tôi đi khám Bác sĩ gia đình, Bác sĩ cho tôi uống nhiều loại thuốc Tây, kể cả tôi được gửi đi vật lý trị liệu. Cơn đau vẫn không thuyên giảm. Hàng đêm tôi phải vật vã với cơn đau. Tây y không kết quả, tôi tìm đến Đông y. Tôi phải uống những chén thuốc đen quánh, đặc sệt, đắng nghét, mà tôi rất ghét! Nhưng vì những cơn đau hành hạ từng đêm, tôi phải nhắm mắt, nhắm mũi mà ực từng ngụm. Hết thang thuốc này tới thang thuốc kia, mà cơn đau vẫn không thuyên giảm! Tôi cũng tìm đến các nhà châm cứu, Tây, Ta, Tàu đũ hết. Cũng chẳng bớt chút nào! Cuối cùng Bác sĩ đề nghị giải pháp cuối cùng: mổ! Nghe đến giải pháp này, tôi rùng mình, ớn lạnh! Vì thú thật tôi rất sợ mổ. Thà đau, chết bỏ chứ mổ thì… cho tôi cám ơn! Nhưng, nhiều khi cơn đau hành hạ, chịu không nỗi, đã có lúc tôi định liều một phen, chịu mổ để khỏi chịu đau! Nhưng rồi lại ngần ngại, cuối cùng thì, thà chịu đau hơn bị mổ! Cơn đau vẫn làm khổ tôi từng đêm. Cơn đau cũng hạn chế mọi khả năng xử dụng bàn tay phải, ảnh hưởng đến viêc làm của tôi trong hảng… Tôi sút giảm thể lực và bi quan vô cùng. Trong tận cùng nỗi đau, tôi chợt nhớ đến Chúa, nhớ lại chuyện của bà mẹ chị bạn được Chúa chữa lành bệnh bại liệt… Tôi tự nghĩ, sao mình không chạy đến Chúa? Bại liệt Chúa còn chữa lành huống chi tay đau, “chuyện nhỏ”? Bảy, tám Bác sĩ ngoài đời, tốn bao nhiêu tiền mà cũng không chữa được tay mình, sao không chạy đến Bác sĩ Giêsu, có tốn đồng xu cắc bạc nào đâu, Bác sĩ Giêsu chỉ cần mình có Lòng Tin thôi! Còn chờ gì nữa!

Từ hôm ấy, tôi bắt đầu đọc Kinh Lòng Thương Xót Chúa mỗi ngày. Cứ khoảng 3 giờ chiều, dù ở nhà hay tại nơi làm việc, tôi cũng đọc kinh. Sau đó, tôi mời gọi chồng, con tôi cùng đọc chung với tôi trong những ngày nghỉ, đọc kinh tại nhà. Khoảng hai tháng sau thì đến Tuần Cửu Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa (tuần Cửu Nhật bắt đầu từ Thứ Sáu Tuần Thánh, kết thúc vào Chúa Nhật thứ nhất sau Lễ Phục Sinh, tức là Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa) Tôi gia tăng lòng Tin và khẩn thiết nài xin Chúa chữa lành tay tôi. Kết quả thật khả quan: tay tôi bớt đau, cử động nhẹ nhàng, xoay trở dễ dàng và không còn bị đau về đêm như trước đây nữa! Bác sĩ Giêsu thật tuyệt vời! Ngài đã nghe lời tôi kêu xin, Ngài đã chữa lành cho tôi – cơn đau mà tôi đã phải khốn khổ vì nó suốt hai năm qua – không phải uống thuốc, không phải tốn tiền, không bận tâm gì cả! Thật ra tôi chỉ bỏ ra MƯỜI PHÚT mỗi ngày, cùng với LÒNG TIN vào Tình Yêu của Chúa. Thế thôi!

Alleluia! Alleluia! Bây giờ thì tôi tin, tin tuyệt đối! Và tôi cũng cầu mong mọi người cùng có lòng tin như tôi! Tôi xin là một nhân chứng sống cho Chúa qua sự kiện Chúa đã chữa lành tay tôi! Bây giờ thì tôi thấm thía lời một bài Thánh Ca nào đó “Có Thần Linh nào như là Gia-vê? Mỗi khi khẩn cầu, có Ngài ngay bên…” Thật vậy, Chúa ở ngay bên cạnh chúng ta, sẵn sàng nghe lời ta kêu xin, vậy mà chúng ta thật vô tâm. Chúng có một nguồn hổ trợ vô cùng phong phú, vậy mà chúng ta không biết, không xử dụng trong cuộc sống của mình!

Qua “câu chuyện thật đời tôi” mà tôi vừa chia sẻ, tôi ước mong mọi người hãy hưởng ứng đọc kinh Lòng Thương Xót Chúa mỗi ngày, với niềm tin rằng Chúa hiện diện bên cạnh chúng ta, luôn mở rộng vòng tay chờ đón tất cả các con tìm về bên Trái Tim Yêu Thương vô bờ của Người!

Maria Kim Nhung

Anh chị Thụ & Mai gởi

Trở về với CHÚA

Trở về với CHÚA

Trở về bên CHÚA, CHÚA ơi

Nguồn vui tràn ngập , cuộc đời nở hoa
Quên đi những tháng ngày qua

Đồng hành bên CHÚA chan hoà yêu thương

knga
Thứ Ba, Ngày 24 tháng 5-2016

Phật tử về với Chúa

Anh Phan Tiến Quá – một người Phật giáo, từng là chuyên viên phụ trách âm thanh ánh sáng tại tụ điểm ca nhạc 126  nổi tiếng và rất quen thuộc trong giới trẻ tại tp.HCM. Đất nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, nhiều tập đoàn lớn của nước ngoài vào làm ăn tại Việt Nam. Anh Quá có cơ hội đến làm việc cho một siêu thị lớn, cuộc đời anh vì thế mà thay đổi hòan toàn.

Khi còn lãnh đồng lương khiêm tốn, anh có đời sống khép kín, ít giao tiếp và rất yêu thương vợ con. Nhưng kinh tế khá lên, thì anh bắt đầu cởi mở hơn, giao lưu nhiều hơn với bạn bè. Muốn làm ăn thì phải là tay sành điệu, sành điệu với bạn bè và sành điệu trong ánh mắt các em ….gà móng đỏ ! Các quán bia ôm là địa chỉ anh thường xuyên lui tới. Vợ anh đau khổ vật vã vì người chồng phản bội nhưng chị không sao kéo anh về với gia đình được.

Bất ngờ anh mất việc, tiền bạc vì thế mà cạn kiệt dần, nợ nần chồng chất, không lối thoát. Anh trở nên gánh nặng cho người vợ mà anh từng nhẫn tâm phản bội. Mỗi ngày qua đi là một nỗi đau dày xé lương tâm anh. Qua bao đêm dày vò, thao thức, anh quyết định tự tử và xin hiến xác cho khoa học. Ít ra, anh nghĩ rằng, như thế là anh làm được một việc có ích cho đời sau khi chết ! Vợ con anh không còn phải chịu đựng người chồng khốn nạn này nữa! Và cái ngày định mệnh ấy đã đến …

Ngày 13/07/2006, anh bỏ nhà ra đi từ rất sớm để thực hiện ý định tự vẫn. Anh đi lang thang vô định, thẫn thờ không biết đi đâu, về đâu ! Gia đình cuống cuồng tìm kiếm nhưng vô ích ! Nhiều lần gọi điện thoại cho anh, chỉ nhận được những tiếng trả lời ò í e… anh đã tắt máy di động rồi ! Càng hoảng sợ, càng không biết làm gì, nhất là vợ con anh, họ chỉ biết ôm mặt mà khóc, kinh hoàng nghĩ đến giờ phút nhận xác của anh trở về.

Thật may mắn, anh có người em cột chèo có đạo, hiền lành và rất thật thà, cô em vợ tân tòng tốt bụng này hay giúp đỡ gia đình anh. Anh yêu mến họ mọi điều, duy chỉ có một điều anh không thích là họ đọc kinh Kính mừng hàng ngày. Anh rất ghét khi họ cầm Chuỗi Mân Côi, miệng thì nhai nhải câu “Kính mừng Maria” …. Anh có ngờ đâu, lúc này chỉ có cặp vợ chồng này nhờ kinh Kính Mừng và chuỗi Lòng Thương Xót, họ cầu nguyện liên lỉ xin Chúa và Mẹ Maria cứu anh thoát khỏi bóng đen của tử thần.

Điều kỳ diệu đã xảy ra, lúc 16:30 chiều, anh mở máy di động và vợ anh đã khóc thảm thiết xin anh nghĩ đến gia đình mà trở về nhà với họ và anh đã xiêu lòng…. Anh trở về trong trạng thái tuyệt vọng. Gia đình anh quá đỗi vui mừng vì anh vẫn còn sống, nhưng phần anh thì ngơ ngác, chán chường. Sáng hôm sau là ngày 14/07/2007, Nguyễn Thế Hùng, người em cột chèo của anh, đã nói vào tai anh :

– “Anh Quá, anh theo tôi, tôi sẽ chỉ cho một người có thể giúp anh trong lúc này’’.

– ‘’Ừ, đi thì đi’’, anh Quá trả lời.

Hai anh em đến nhóm cầu nguyện Đức Mẹ Mễdu. Đến nơi, Hùng chỉ lên bàn thờ có tượng Đức Mẹ Mễ du, và nói :

– “Anh Quá, bây giờ chỉ có Bà đó mới giúp anh được. Anh hãy qùi xuống và cầu xin Bà ấy đi’’.

Vừa thấy tượng Đức Mẹ Mễdu, như có một sức mạnh vô hình thúc đẩy, anh qùi xuống thầm thì thưa chuyện với Mẹ. Anh say xưa thổ lộ tất cả những ưu tư phiền muộn của anh với Mẹ. Anh nói hết về gia đình anh, bạn bè anh, về thân xác khốn khổ của anh. Bao nhiêu nỗi đắng cay của cuộc đời anh tâm sự hết với Mẹ, anh khẩn thiết xin Mẹ giúp đỡ anh và gia đình anh vượt qua cơn khốn khó này.

Một điều kỳ lạ đã xảy ra:  Anh qùi gối suốt hai tiếng đồng hồ bên Mẹ mà không mệt. Đầu gối chưa bao giờ qùi nhưng lại chịu đựng được cơn đau suốt 120 phút ! Anh Hùng rất đỗi kinh ngạc, vì đã từng dặn rằng:

“Nếu anh Quá qùi không được và cảm thấy khó chịu ở trước Nhà Chầu thì anh cứ ra ngoài chờ, khi nào em cầu nguyện xong thì hai anh em cùng về”.

Nào ngờ, Quá không bỏ ra giữa chừng mà đắm chìm trong vòng tay yêu thương của Mẹ suốt 2 giờ cầu nguyện Đức Mẹ Mễdu. Anh Quá dường như đã trút được một gánh nặng đè trĩu trong lòng bao năm qua. Chưa bao giờ anh cảm thấy bình an và thanh thản như lúc này. Tâm hồn lâng lâng, tràn ngập một niềm vui khó tả.

Trở về nhà, anh bắt đầu thấy thấm mệt qua bao đêm mất ngủ, anh thèm được ngủ như chưa bao giờ được ngủ và anh thiếp đi trong ánh mắt bừng cháy niềm tin của những người thân yêu trong gia đình. Vừa chợp mắt được một chút thì anh mơ thấy Một Bà rất đẹp hiện đến và dẫn anh đến nhà thờ Huyện Sỹ (Saigon). Bà đưa anh đến núi Đức Mẹ, rồi biến mất. Anh choàng tỉnh giấc và bàng hoàng kinh ngạc về giấc mơ của mình. Anh quyết định đến Nhà Thờ lúc đó gần ba giờ chiều – giờ của lòng thương xót vĩ đại tuôn đổ xuống nhân loại. Anh nhận ra ý của Mẹ : Mẹ dẫn anh đến Lòng Thương Xót của Chúa.

Kể từ đó anh bắt đầu học cách cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi và lần Chuỗi Thương Xót mỗi ba giờ chiều. Kinh Kính Mừng ngày xưa anh ghét cay ghét đắng, nay anh lại dùng chính kinh Mân Côi này để tâm tình say xưa với Mẹ. Mỗi ngày qua đi là một niềm vui. Anh tham gia nhóm cầu nguyện Đức Mẹ Mễdu mỗi tối thứ tư hàng tuần tại nhà thờ Huyện Sỹ. Anh không còn làm cho tụ điểm ca nhạc 126 nữa, nhưng anh trở thành chuyên viên nhiệt thành về âm thanh ánh sáng cho cộng đoàn Mễdu. Anh vẫn là Phật tử nhưng anh đã lần đủ ba chuỗi Kinh Mân Côi, tham dự Thánh Lễ mỗi ngày mà chỉ rước lễ thiêng liêng, đọc Kinh Thánh hằng đêm để nghiền ngẫm và suy niệm Lời Chúa, ăn chay thứ tư và thứ sáu.
Anh ước ao, người vợ thân thương của anh cũng đón nhận đức tin như anh. Trong những lần cầu nguyện, anh dâng ý chỉ này cho Mẹ, cầu xin Mẹ giúp anh. Anh rất đỗi vui mừng vì căn bệnh xuất huyết hậu môn bác sỹ đã chê từ nhiều năm, nay tự nhiên biến mất, điều lạ lùng là anh không hề xin Chúa chữa lành. Người vợ cứng lòng đã nhiều lần thất hứa với Mẹ thì nay vui vẻ song hành với anh đi cầu nguyện và tham dự Thánh Lễ hàng ngày.

Một người đạo Phật đi cầu nguyện không dễ bao giờ, anh gặp rất nhiều trở ngại, có lần anh sắp sửa đi làm chứng cho Chúa thì bị vật té sấp mặt từ cầu thang xuống đất!  Anh bị bất tỉnh, mê man nhưng khi hồi tỉnh anh vẫn liên lỉ cầu nguyện và cuối cùng anh lại đến được với Chúa. Có điều kỳ lạ,̣ là trước mỗi Thánh Lễ anh hay bị sốt khiến anh không thể tham dự Thánh Lễ được. Không vì thế mà anh chùn bước, anh lần chuỗi nhiều hơn, tất cả nỗi đau thể xác anh dâng hết cho Mẹ và Mẹ đã cứu chữa anh. Đức tin của anh ngày một lớn mạnh hơn.

Anh càng hạnh phúc hơn nữa vì ngày 5/5/2007 vợ chồng anh chính thức được làm con Chúa và ngày 6/5/2007 sau khi chịu bí tích hôn phối anh chị đã tổ chức một đám cưới tuy khiêm tốn nhưng ấm cúng. Bạn bè vây quanh chúc cho họ hạnh phúc mãi mãi trong tình yêu Thiên Chúa.

Anh chị nghẹn ngào trong niềm vui vô tận :

“Vợ chồng em phó thác hết cho Chúa, tất cả những gì chúng em có là của Chúa. Chúng em không giàu có về vật chất, nhưng đời sống tâm linh của chúng em rất thỏa mái và tròn đầy. Chúng em được đón rước Chúa vào tâm hồn mỗi ngày. Có Chúa là chúng em có tất cả. Chúa là tài sản qúi giá nhất của gia đình chúng em. Sau mấy chục năm chung sống, giờ đây gia đình em mới cảm nghiệm được thế nào là bình an, thế nào là hạnh phúc đích thực! ‘’.

Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cho gia đình anh chị để họ luôn mãi là ánh sao rực sáng dẫn đường cho nhiều con chiên lạc, đang bước đi trong bóng đêm tội lỗi của thế giới hôm nay.

Một người con yêu mến Mẹ Mễdu,

Giuse Nguyễn Lê ghi

 

LINH HỒN NGƯỜI CHẾT HIỆN VỀ

 LINH HỒN NGƯỜI CHẾT HIỆN VỀ XIN LỄ CẦU NGUYỆN

LM Trịnh Ðức Hòa, DCCT khi giảng về đề tài Tứ Chung, cha Hòa kể lại câu chuyện mà cha cố Vũ Tuấn Tú thuật:

“Năm 1996, tôi được một gia đình ở giáo xứ nhà thờ St. Barbara mời đến tư gia để dâng Thánh Lễ. Ở đấy có một hiện tượng lạ. Một cô con gái trẻ bị một linh hồn nhập vào và nói giọng đàn ông. Tôi bèn xin gia đình ấy cùng đọc chuỗi kinh Mân Côi Năm Sự Thương. Khi đọc đến chục kinh thứ tư thì linh hồn ở trong cô gái nói rằng:
“Con là người con trai trong gia đình. Con bị tai nạn ở vùng San Jose (thuộc miền bắc California). Xin gia đình đừng nghĩ là con tự tử. Hôm nay, Chúa cho phép con về để xin cha mẹ và cha Tú dâng 3 Thánh Lễ cầu nguyện cho con để con được về với Chúa.”
Tôi hỏi:
“Chỉ cần có 3 Thánh lễ thôi à?”
“Vâng, con chỉ cần ba Thánh lễ thì sẽ được lên Thiên Ðàng. Xin gia đình tiếp tục cầu nguyện cho một số linh hồn người thân đang còn ở luyện ngục.”
Nói xong thì linh hồn ấy xuất đi và cô gái trở lại tình trạng bình thường, không còn nói tiếng đàn ông nữa.”

Suy niệm:

-Phải kể đây là một thanh niên thánh thiện, giữ đạo hẳn hoi, không phạm tội trọng. Vì thế, khi bị tai nạn chết bất thình lình, không kịp xưng tội, chịu Mình Thánh Chúa, mà anh chỉ cần 3 Thánh lễ để lên Thiên Ðàng. Ðó là tấm gương sáng cho tất cả chúng ta. Xin tạ ơn Chúa!
CÂU CHUYỆN 2: XIN GIA ÐÌNH THA THỨ, ÐỪNG THƯA KIỆN BÁC SĨ.
Ðây là câu chuyện thật đã xẩy ra cho một gia đình nổi tiếng về thương mại ở vùng Quận Cam (Orange County), California.
– Một cô gái 18 tuổi bị bịnh nên được đưa vào nhà thương nhưng vì sự chữa trị chậm trễ của các bác sĩ mà cô gái ấy qua đời.
Cả gia đình đau buồn vì cái chết của cô. Họ định sau tang lễ thì sẽ nhờ luật sư thưa kiện các bác sĩ vì đã không chữa trị kịp thời và chu đáo nên con của họ chết.
Một đêm kia, cha mẹ của cô gái quá cố nằm mơ thấy con gái hiện về mặc áo trắng đẹp đẽ và vui vẻ nói với cha mẹ rằng:
“Xin bố mẹ đừng buồn, đừng thưa kiện người ta vì con được hưởng phước Thiên Ðàng rồi.”
Ðược con gái báo mộng là cô đang ở Thiên Ðàng thì cha mẹ cô mừng rỡ nên không còn nghĩ đến việc kiện tụng nữa.

Suy niệm:

Người trẻ khi chết mà lên Thiên Ðàng ngay, đó là một hồng ân. Như vậy người trẻ này là một người thánh thiện và đạo đức. Ðó là phúc lớn cho bản thân cô và gia đình cô. Cô là tấm gương sáng cho mọi người, đặc biệt là cho giới trẻ. Cảm tạ Chúa!

Kim Hà

Anh chị Thụ & Mai gởi

CHUÁ CHỮA LÀNH BỆNH LAO THẬN VÀ ĐỔI MỚI ĐỜI SỐNG

CHUÁ CHỮA LÀNH BỆNH LAO THẬN VÀ ĐỔI MỚI ĐỜI SỐNG

Linh mục:    James Manjackal

HINH 01

Trong gia đình từ thời thơ ấu, tôi đã nghe mẹ  đọc kinh Chúa Thánh Thần vào đầu những giờ kinh tối trong gia đình, việc đọc kinh thường kéo dài từ một đến một tiếng rưỡi đồng hồ. Sau này, đi học trong các chủng viện vào đầu giờ ở các lớp học cũng như trong các sự kiện quan trọng,  đã có xướng lên một lời cầu nguyện hoặc một bài thánh ca xin ơn Chúa Thánh Thần. Đó là tất cả những gì tôi biết về Chúa Thánh Thần trong quá khứ. Tôi vốn không có ngay cả một hệ giáo lý hay một luận án về Chúa Thánh Thần trong quá trình trau dồi về thần học của mình.  Tất nhiên tôi có được biết từ giáo lý rằng Đức Thánh Linh là ngôi thứ ba của Thiên Chúa Ba Ngôi và Ngài ban ơn trong cuộc sống của chúng ta. Tuy nhiên tôi chưa bao giờ có một kinh nghiệm thực sự về Chúa Thánh Thần cho đến khi tôi được Chúa đụng chạm  thông qua lời cầu nguyện mạnh mẽ của một người đàn ông trẻ tuổi nọ.

HINH 2

Sau khi tôi chịu chức linh mục vào ngày 23 tháng 4 năm 1973, tôi  làm việc trong các cơ quan đại diện của Visakhapatnam khoảng một năm rồi sau đó tôi được bổ nhiệm làm giáo sư tại Đại Chủng Viện SFS Ettumanoor, Kerala. (Ấn Độ)

Khi còn là sinh viên ở các chủng viện, nguyện vọng tha thiết của tôi là được làm giáo sư tại một trường đại học hay chủng viện, một vị trí thoải mái và đáng kính trong đời sống tu trì.  Tôi không bao giờ có thể tưởng tượng ra được rằng mình sẽ du hành, lang thang từ nơi này đến nơi khác tập thích ứng với các tình huống khác nhau về ứng sử với con người, tương thích với văn hóa và tiêu thụ thực phẩm lạ.  Trong thâm tâm tôi đã muốn tìm kiếm cho mình các tiện nghi vật chất và sự  an lành của một cuộc sống ổn định.  Năm 1975, tôi tình cờ đọc được bài viết về ân tứ chữa lành và nói tiếng lạ từ một tạp chí Mỹ,  “Giao ước mới”.  Tôi không thể tin rằng vào những ngày trong thời đại này lại có người được chữa lành bởi đức tin và lời cầu nguyện.  Tôi chế giễu những ơn tiếng lạ, cho rằng nó xuất ra từ  cảm tính rên rỉ thái quá của phụ nữ !.  Tâm trí tôi tràn ngập niềm tự hào về  kiến thức Triết học và Tâm lý học của mình.  Sau đó, tôi nghe nói về một khóa tĩnh tâm Đặc Sủng ở Poona ,  Bắc Ấn Độ.  Cùng với một linh mục già thuộc giáo đoàn, tôi đã tham dự khóa tĩnh tâm  của cha James D’Souza. Cha là một nhà thuyết giảng hùng hồn và là một ca sĩ có giọng hát hay. Tôi thích sự giảng dạy và ca hát của Ngài. Tôi đã đi lên không phải để tiếp nhận một lời cầu nguyện chữa lành vì tôi không bị bệnh. Tôi đã thực hiện một buổi xưng tội sốt sắng và làm theo tất cả các hướng dẫn của các nhà truyền giáo như đưa tay lên cao và vỗ tay.  Khi Ngài nói về ơn nói tiếng lạ và các đặc sủng khác, tôi nghĩ rằng ơn đó không dành cho tôi nhưng ban xuống cho các tâm hồn ưu tú về tâm linh. Vào ngày Nhóm đón nhận “Phép Rửa trong Chúa Thánh Thần” tôi chuẩn bị tốt tinh thần ,  ngồi cùng với các thành viên khác nhưng tôi  đã không cảm nhận được bất cứ điều gì đặc biệt khi được Cha cầu nguyện và đặt tay trên tôi.

Cha phụ trách tĩnh tâm, khi đến cầu nguyện trên tôi, Ngài nói, “James một ngày nào đó bạn sẽ là nhà thuyết giảng Đặc Sủng”, nghe điều này, tôi cười to và nói “không bao giờ, không bao giờ đâu”.  Không chỉ có vậy, tôi không thể chấp nhận những cách đặc biệt của Canh Tân Đặc Sủng đâu, và tôi luôn luôn tỏ ra nhút nhát trước mặt người khác. Từ những ngày còn đi học và sau này được đào tạo trong chủng viện, tôi đã không thể phát biểu trước đám đông.  Ngay cả sau khi chịu chức, tôi là một người thất bại hoàn toàn trên bục giảng.  Tôi vẫn còn nhớ rõ những gì đã xảy ra với tôi trong dịp giảng bài đầu tiên của mình.  Sau khi chịu chức, với nhiều miễn cưỡng, tôi đành đồng ý để cử hành Thánh Lễ và giảng vào ngày hôm sau, một ngày lễ Chúa nhật.  Ở nhà tôi đã chuẩn bị trên giấy một vài ghi chú về Tin Mừng của ngày hôm đó và kẹp chúng trong quyển Kinh Thánh mới của tôi.  Tôi không gặp vấn đề khi dângThánh lễ, vì tôi sẽ nhìn vào sách lễ mà đọc những lời cầu nguyện và những lúc khác tôi thường khép mắt lại vì tôi sợ phải nhìn vào mọi người. Sau khi đọc bài Tin Mừng tôi nhìn dán chặt cả hai mắt trên cửa chính cuối nhà thờ và bắt đầu tìm kiếm tờ giấy ghi chú kẹp sát bìa bên trong quyển Kinh Thánh.  Tôi trở nên rất lo lắng và sợ hãi, tôi quên mất là đã để chúng ở phía bìa bên phải hoặc bên trái sách.  Tôi sợ không dám dời mắt khỏi cánh cửa nhà Thờ và nhìn vào Kinh Thánh, vì tôi nghĩ rằng làm như vậy mình sẽ nhìn thấy dân chúng và với tình trạng sợ hãi này tôi sẽ sup đổ cách thảm hại hơn. Run rẩy, đổ mồ hôi, nhiều lần tôi đã cố gắng để thốt lên vài lời, … “Anh Chị Em thân mến, thân mến” mà không nói thành câu. Đến vài phút đã trôi qua, từ bên trong cửa sổ, cha xứ nhìn biết tình trạng khó khăn đến ngớ ngản của tôi, Ngài thì thầm qua cửa sổ “Cha giảng đủ rồi, bây giờ Cha có thể tiếp tục Thánh Lễ.”  Giống như một quả bóng xì hết hơi, xấu hổ và tự thương hại, tôi tiếp tục dâng Thánh Lễ. Tôi chắc chắn rằng mọi người có thể đã cười hay thương hại cho vị linh mục trẻ,  mới và nhút nhát!  Sau Thánh Lễ khi tôi đến phòng thánh, tôi nghe một vị linh mục nhận xét: “Cha ấy là một nhà truyền giáo của (Dòng)Thánh Francis de Sales, ông sẽ rao giảng điều gì đây?”.  Đó là lý do tôi đã cười khi nghe Cha phụ trách tĩnh tâm nói rằng tôi sẽ là một nhà giảng thuyết đặc sủng.  Nhưng đó quả thực là một lời tiên tri!  Vì trong suốt 32 năm tiếp theo, tôi chỉ dùng thời gian này để truyền giảng ở khắp nơi trên thế giới.

Vào ngày cuối cùng của khóa tĩnh tâm, hầu hết mọi người tham gia đã lên làm chứng về ơn chữa lành của Chúa, chia sẻ kinh nghiệm được các ơn tiên tri, ơn thị kiến, ơn tiếng lạ,… Tuy nhiên, riêng tôi, không có được ơn gì để làm chứng.  Nhiều người đã có kinh nghiệm được gặp gỡ Chúa Giêsu và được nghe Ngài nói chuyện với họ!  Tôi cảm thấy buồn bã.  Tôi bắt đầu cáo tội mình vì quá tự hào nên đã không hợp tác đầy đủ với việc tĩnh tâm và không gặt hái được các ơn tứ của Chúa Thánh Thần.  Có lẽ tại thời điểm này trong sâu thẳm con tim, tôi bắt đầu ao ước và khao khát thần khí Chúa. Nhiều người bạn tò mò hỏi tôi đã nhận được ơn gì trong khóa tĩnh tâm nhưng tôi không thể đưa ra một câu trả lời chính xác nào.  Rồi một tuần sau khi tĩnh tâm, tôi đã bị ốm nặng lần đầu tiên trong đời.  Tôi nằm ở hai bệnh viện trong hơn bốn tháng.  Tôi trở nên yếu và xanh xao, không thể ăn do các cơn đau trong dạ dày, lưng tôi cũng rất đau.  Tôi nôn thốc tháo ra mọi thứ kể cả các viên thuốc.  Khi đứng lên, tôi không thể tự dâng Thánh lễ, tôi quen với việc dâng Thánh Lễ trên giường với sự giúp đỡ của một số linh mục khác.  Khi nhìn thấy tình trạng đau ốm nặng nề và thảm hại của tôi, nhiều người nghĩ rằng tôi sẽ không thể sống lâu.  Cuối cùng bệnh tật của tôi được chẩn đoán, đó là bệnh lao ở thận cùng với sỏi thận và nhiễm trùng. Liệu pháp bao gồm chín mươi mũi tiêm và uống thuốc viên con nhộng trong hai năm để chữa bệnh lao. Các bác sĩ đề nghị phẫu thuật trong thận sau chín mươi ngày tiêm thuốc.

Vào ngày thứ bảy kể từ khi bắt đầu cuộc điều trị dài ngày này, một điều lớn lao đã xảy ra làm thay đổi toàn bộ cuộc đời của tôi.  Trong buổi chiều sau giờ ngủ trưa, tôi đang trò chuyện với hai Sơ đến thăm, đột nhiên có một người đàn ông trẻ, khoảng hai mươi tuổi đi về phía tôi và hỏi: “Thưa Cha, con xin phép cầu nguyện trên Cha cho được chữa lành “.  Vào thời điểm đó, Canh Tân Đặc sủng chưa được biết đến và truyền bá tại Kerala, thậm chí không có linh mục nào thực hành việc cầu nguyện chữa lành. Nhưng người Tin Lành Ngũ Tuần quen thuộc với việc cầu nguyện cho sự chữa lành.  Là một linh mục Công giáo, tôi không muốn một người Tin Lành Ngũ tuần đặt tay trên tôi, một linh mục.  Khi tôi hỏi anh ta về nhân thân, anh nói rằng chỉ mới tám tháng nay, anh đã được biết Chúa lãnh nhận phép rửa tội và được ban cho nhiều đặc sủng của Chúa Thánh Thần.  Tôi càng không thể nào tin rằng Chúa đã sai anh ta du hành bằng xe buýt đến bệnh viện để lo cầu nguyện cho tôi.  Chưa bao giờ chúng tôi từng quen biết nhau trước đây!  Anh không chờ đợi tôi cho phép anh trong việc đặt tay cầu nguyện, kết thúc chia sẻ lời chứng của mình, Anh ta đặt tay trên đầu của tôi và bắt đầu cầu nguyện. “Lạy Cha trên trời, xin gởi Con của Ngài là Chúa Giêsu giờ đây đến với vị linh mục này đang bị tổn thường vì bệnh lao thận, sỏi thận và nhiễm trùng và phục hồi ngài hoàn toàn lành mạnh trong cơ thể và tâm hồn”.  Khi đó, tôi nghĩ trong tâm trí mình rằng anh ta có thể đã thấy các biểu đồ bệnh viện nơi bệnh tật của tôi được báo cáo!  Tôi đã không biết rằng anh đang cầu nguyện với ơn trí tri.  Nhiều lần anh đã cao rao ngợi khen Thiên Chúa và đôi khi xen lẫn với tiếng lạ trong lời cầu nguyện.  Tôi cảm thấy một luồng điện chạy từ tay anhtruyền dẫn vào trong tôi.  Rồi tôi ý thức được sức mạnh của việc ca ngợi và cầu nguyện công khai. Trong khóa tĩnh tâm tôi không thể tán thành việc cầu nguyện ồn ào với các lời ca khen lớn tiếng.  Đột nhiên tôi nghĩ đến những lời cầu nguyện của người mù, ăn xin có tên là Barthimaeus. Ông đã kêu nài lớn tiếng “Lạy Con Vua David, xin thương xót tôi”.  Mặc kệ các môn đệ đã cố gắng để giữ cho ông yên lặng, nhưng ông càng gọi lớn hơn nữa.  Sau đó, Chúa Giêsu gọi ông đến bên và ban cho điều ông thỉnh cầu (Mc 10: 46-52).  Biểu lộ ra ngoài miệng chính là sự diễn tả ước muốn từ trái tim!  Một lời nguyện to và mạnh mẽ từ miệng là sự dốc đổ lòng ao ước mãnh liệt và tín thác của linh hồn.

” Tiếng tôi lên với Thiên Chúa, tôi kêu,

tiếng tôi lên với Thiên Chúa,

Người sẽ ghé tai lại với chúng tôi,     (Tv 77: 1).

Các tông đồ vào thời điểm của cuộc bách hại thứ nhất, dâng cao lời kêu xin lên Thiên Chúa.  Lời cầu nguyện của họ mạnh đến mức làm rung chuyển ngôi nhà mà họ đang tụ tập với nhau (Cv 4: 24-31).  Tất cả sự hoài nghi của tôi về việc cầu nguyện lớn tiếng đã được chữa lành hoàn toàn.  Tôi cũng bắt đầu cầu nguyện cùng anh ta với lời ca ngợi vang xa.

Sau đó, chàng thanh niên bắt đầu chuyển hướng cầu nguyện với một cung giọng khác, cho các sự kiện xảy ra trong quá khứ của cuộc đời tôi. Anh cầu nguyện “Lạy Chúa, vị linh mục này là một linh mục tốt lành nhưng Ngài không thể rao giảng Tin Mừng vì Ngài rất hay mắc cỡ và rụt rè, căn nguyên của một mặc cảm tự ti đã phát triển trong thời thơ ấu của mình. Ngài đã mất cha khi lên bảy tuổi. Ngài cảm thấy bị xua đuổi và phân biệt đối xử trong số năm người con cùng sinh hoạt chung. Mẹ góa bụa của Ngài rất vất vả để nuôi nấng các con. Ngài mập và to con nên anh chị em gọi đùa là “thằng béo”. Bạn trong trường gọi Ngài là “thằng đen” vì là người da màu. Như vậy, tuổi thơ đã chịu đựng rất nhiều thương tổn, Em nhỏ này, đã có nhiều oán hận kẻ khác trong tim mình. Lậy Chúa, Xin Chúa Thánh Thần lấy đi khỏi Ngài các vết thương, sự oán giận và ban cho Ngài một tâm tư mới. Giải thoát Ngài khỏi mọi trói buộc và quyền lực của tối tăm. Ôi, lạy Chúa Thánh Thần xin đổ đầy tim Ngài với tình yêu của Chúa…” Tôi bị sửng sốt vì lời cầu nguyện, Anh ta như phân cắt nội tâm tôi ra thành từng mảnh trong sức mạnh của Lời Chúa. (Thư Do Thái 4:12) . Vì  tất cả những gì anh nói là sự thật trong cuộc sống của tôi.  Tôi biết chắc rằng các bệnh trạng anh nêu ra trong khi cầu nguyện không hề hiện hữu trong các biểu đồ của bệnh viện!  Anh ta đã đọc một biểu đồ từ Chúa Thánh Thần! Trong nước mắt tôi đã nhớ lại những lời của Chúa Giêsu: ” “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. ” (Lc 10: 21).  Một lần nữa tôi khóc cho niềm tự hào vô nghĩa của tôi, đặc biệt là sự tự hào về trí tuệ thông thái của mình.  Tôi cảm biết là mình quá thô thiển trong cách dùng hiểu biết thế gian mà đo lường và giới hạn sự khôn ngoan và tình yêu không có giới hạn, không thể dò thấu của Thiên Chúa. Tôi nhận ra rằng người thanh niên này, một người tân tòng, lại được ơn tái sinh trong Chúa Thánh Thần trong khi đó thì tôi, một người Công giáo truyền thống, một vị linh mục thụ phong, vẫn còn ở trong bản tính xác thịt của mình.  Tôi bắt đầu hiểu rằng những điều mắt chưa thấy, tai chưa hề nghe và lòng người chưa từng nghĩ đến, thì Đức Chúa Trời đã chuẩn bị sẵn cho những kẻ yêu kính Ngài. Vì Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta nhờ Thần khí, bởi Thần khí dò thấu mọi sự, cả những chiều sâu thẳm nơi Thiên Chúa.  (I Cor 2: 9-10).  Tôi nhận thức có nguồn nước hằng sống đang chảy qua tôi và giải thoát cho tôi khỏi tội nhơ.  Tôi cảm thấy có năng lượng tập trung trên thân mình, một cảm giác ấm áp trên bụng và trên phần của thượng thận ở lưng.  Tôi tin rằng Chúa đã chữa lành cho tôi.  Tôi tuyên bố sự chữa lành và ngợi khen Chúa Giêsu.

Vào ngay lúc đó tôi có một nỗi sợ nảy ra trong lòng, đó là, liệu người đàn ông trẻ này vốn có thể nhìn thấy tôi một cách từ trong suốt cho đến thấu suốt, sẽ nói trắng ra các tội lỗi tàng ẩn quá đặc biệt của tôi trước mặt hai Sơ này.  Rồi, anh ta cầu nguyện “Lạy Chúa Giêsu, chính Ngài đã gọi cha tới chức linh mục, nhưng Cha đang dâng tiến lễ với trái tim và bàn tay không thanh tịnh”. Những lời của tiên tri Malachi đến tâm trí của tôi và bắt đầu cáo buộc tội tôi về sự không thánh khiết trong chức linh mục.  ” hỡi các thầy tế lễ khinh dể danh ta!… Các ngươi dâng bánh ô uế trên bàn thờ ta.”  (Mal 1: 6-7).  Anh tiếp tục cầu nguyện rằng ” Vị linh mục này đang còn chưa tha thứ đối với nhiều người, xin ban ơn biết tha thứ cho người khác và rửa Ngài trong máu quý giá của Chúa và ban cho Cha một quả tim trắng hơn tuyết” (Is 1: 18).  Vào thời điểm này, chính Chúa Thánh Thần bắt đầu cáo buộc về các tội lỗi tôi đã phạm (Ga 16: 8).  Tôi không biết rằng cậu thanh niên đã bước ra khỏi phòng với các sơ để đi cầu nguyện đặt tay cho những người khác.  Tôi nhìn thấy một tờ giấy trắng trước mặt tôi, trong đó có ghi rõ ràng tất cả tội lỗi của tôi, những tội lỗi tôi đã xưng ra, và đôi khi những tội tôi dấu diếm vì sợ hãi và xấu hổ.  Tôi thấy rõ người mà tôi chưa tha thứ và những người mà tôi chưa thực sự làm hòa trong tâm tư. Tôi thấy trái tim của tôi bị bao bọc trong tối tăm với tấm màn của những thói quen xấu và mạng nhện của sự giả hình.  Lời Chúa, về sự rước Chúa cách bất xứng tất sẽ đưa đến sự tội và bị kết án (I Cor 11: 27), bắt đầu xua đẩy tôi vào một cuộc khủng hoảng sâu trong lương tâm.  Tôi đã có một thói quen xấu bắt rễ sâu xa từ tuổi thiếu niên của tôi.  Ngay cả bàn tay của tôi đã nhuộm vàng với mùi hôi của khói thuốc lá.  Trong nước mắt tôi thưa: “Lạy Chúa, con không thể thoát ra khỏi những thói quen xấu này. Con bất lực. Con không thể tiếp tục làm một linh mục thánh thiện” Trong những giọt lệ, tôi kêu khóc với Chúa, có lẽ là lần đầu tiên trong đời tôi cầu nguyện với nước mắt. Tôi hoang mang cực độ, không biết là nên rời khỏi chức vụ linh mục hay tiếp tục.  Chúa Thánh Thần trong tôi đang nói, nếu tôi muốn tiếp tục, tôi phải là một linh mục thánh thiện, một con người khác.  Tôi cho rằng các Thánh lễ tôi dâng trong quá khứ đã không được chấp nhận bởi Cha trên trời và không một lời lời cầu nguyện nào của tôi đã được Chúa nghe lời.  Khi tôi bước lên bàn thờ tôi cần phải tha thứ và hòa giải (Mt 5: 23).  Tôi phải tha thứ cho người khác để cho lời cầu nguyện của tôi có hiệu quả (Mc 11: 25).  Tôi nghĩ rằng tôi là một con người khốn khổ, hoàn toàn hư mất!  Tôi đang ở trong bóng tối đen ngòm, nghi ngờ và bối rối.  Tôi nghĩ rằng mình đã lừa dối Thiên Chúa và mọi người trong chức linh mục của mình.  Tôi đang cầu nguyện trong sự bất lực “Lạy Chúa xin cứu con là kẻ tội lỗi”.

Thiên Chúa của tôi đã không bỏ rơi tôi trong tuyệt vọng.  Lần đầu tiên trong cuộc sống của tôi, tôi thấy Chúa Phục Sinh đi về phía tôi trong ánh sáng chói lòa.  Khuôn mặt Ngài chiếu sáng, áo trắng của Ngài lấp lánh hào quang.  Bao quanh Ngài có nhiều thiên thần.  Tôi có thể nghe thấy tiếng nhạc du dương của các thiên thần.  Ngài đặt tay lên vai tôi, tôi đã trở nên rất nhỏ bé trước Ngài.  Chúa nói với tôi một cách rất rõ ràng “James, con là linh mục của ta mãi mãi. Ngay từ khi ta thụ thai trong lòng mẹ ta (cung lòng của Đức Maria), con đã có đó như một linh mục chia sẻ chức vụ tư tế đời đời của ta. Cha tha thứ cho tất cả tội lỗi của con và làm cho con hoàn toàn nên mới”.  Đó là một sự mặc khải lớn lao đối với tôi, rằng tôi đã thuộc về nhiệm thể của Ngài từ khi Ngài mặc lấy hình dạng con người.  Đức Maria đã trở thành mẹ của tôi từ lâu trước khi Chúa Giê Su giao phó Mẹ cho nhân loại trên thập tự giá khi nói “ Này là con Mẹ…”. Rồi tôi thực sự cảm nghiệm được sự gần gũi với Mẹ Maria, tôi cảm thấy mình như một em bé được an ủi và chữa lành trong khi Mẹ bế đặt trên đùi mặc dù tôi không nhìn thấy Mẹ.  Không có từ nào diễn tả hết được kinh nghiệm tôi đã trải qua trong buổi ngất trí kéo dài hơn ba tiếng rưỡi đồng hồ.  Chúa bảo tôi thực hiện một cuộc thú tội tổng thể thật sâu sắc về cuộc sống quá khứ của tôi.  Ngoài ra, Ngài hướng dẫn tôi ra đi hòa giải với những người mà tôi oán hận.  Trong thời gian dài được đào tạo ở chủng viện hay trong nhà tập, tôi chưa bao giờ có kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu trong cầu nguyện hay nghe giọng nói ngọt ngào này mặc dù Giáo Sư và Linh hướng của tôi đã dạy tôi chiêm niệm và cầu nguyện.  Bây giờ tôi biết rằng lời cầu nguyện và chiêm niệm không phải là một cái gì đó mà tôi có thể đạt thấu nhưng là ơn mà tôi có thể nhận được chỉ như món quà tinh khiết của Chúa Thánh Thần.

Tôi thức dậy từ giấc mơ đầy ơn phúc khi một y tá gọi tên tôi.  Tôi nhìn thấy cô đứng trước tôi với các liều thuốc tiêm và viên thuốc.  Với nhiều niềm vui trong tim, tôi nói với cô ấy rằng tôi vừa trải qua một kinh nghiệm sâu sắc về sự đụng chạm của Chúa Giêsu và tôi đã được chữa lành.  Khi cô rời khỏi phòng tôi cất tiếng ca ngợi Thiên Chúa với một giọng nói lạ, tôi cảm thấy rằng ngôn ngữ và lời nói của tôi được gỡ bỏ và Chúa Thánh Thần cho một ngôn ngữ và lời nói mà nghĩa của nó là khó hiểu với tôi.  Món quà rất đáng gọi là quà tặng là ơn nói tiếng lạ, mà tôi vốn đã không muốn có, nay được trao cho tôi bởi Chúa của tôi.  Tôi đã thực sự cố gắng để hội ra được mọi chiều: rộng, dài, cao, sâu của tình yêu vô biên của Thiên Chúa thể hiện qua Chúa Giêsu, Con của Ngài (Eph 3: 18).  Sau một lúc, bác sĩ điều trị đến và trách cứ tôi vì không chịu dùng thuốc.  Ông nói: “Cha là một linh mục, tôi tin rằng Cha có ý thức và kiến thức, Cha có nghĩ rằng Cha lại đang được chữa lành bằng lời cầu nguyện của thanh niên tân tòng. Nếu Cha không uống thuốc, bệnh sẽ tái phát.”  Tôi nói: “Xin lỗi Bác sĩ, tôi sẽ uống thuốc nhưng tôi biết mình được chữa lành bởi những lời cầu nguyện của cậu nhỏ”.  Tôi uống viên thuốc và chịu mũi tiêm trước sự hiện diện của bác sĩ bởi vì tôi biết rằng các bác sĩ và thuốc men đều nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa và tôi hứa rằng tôi sẽ tiếp tục việc điều trị theo y khoa cho tới khi ông có kết luận khác (Huấn ca 38: 1-2).

Tôi rất hạnh phúc và vui vẻ.  Tôi bắt đầu nói với những người bên cạnh và các Sơ về việc được chữa lành.  Đêm hôm đó, tôi có giấc ngủ ngon và sâu mà không cần một viên thuốc ngủ.  Đó là sự lành bệnh về thể lý đầu tiên mà tôi nhận được.  Kể từ khi tôi có vấn đề về thận, tôi đã không thể ngủ được nếu không sử dụng thuốc an thần.  Hôm sau, tôi thức dậy vào lúc 4 giờ sáng như thể có ai đó đánh thức mình dậy sớm, chắc chắn vị đó là Chúa (kể từ ngày hôm đó tôi luôn thực hiện việc cầu nguyện cá nhân hàng ngày vào buổi sáng lúc 4 giờ).  Tôi ngồi trên chiếc ghế của tôi và cầu nguyện trong một tiếng rưỡi với cùng kinh nghiệm sốt sắng của ngày hôm trước nhưng với sức mạnh gia tăng hơn nhiều.  Trong lúc tôi cầu nguyện, Chúa đặt để sự khôn ngoan của Ngài vào trong miệng của tôi và trao cho năng lực để rao giảng về Vương Quốc của Ngài và ra lệnh cho tôi phải từ chức giáo sư chủng viện và đi ra rao giảng.  Sau khi cầu nguyện tôi đi bách bộ một giờ.  Mới ngày hôm trước, tôi còn không thể đứng dậy một mình ra khỏi giường và bước xung quanh căn phòng! Sau khi tắm rửa, tôi liền đi đến nhà nguyện cử hành Thánh Lễ cùng với hơn một trăm năm chục người tham dự. Bài đọc Tin Mừng trích sách Luca chương mười chín, về câu chuyện của Gia kêu.  Không có bất kỳ sự chuẩn bị trước nào, cậy dựa hoàn toàn vào Chúa Thánh Thần tôi đã có thể giảng trong mười tám phút và làm điều đó nữa, tức là nhìn mặt đối mặt với mọi người.  Tôi cảm thấy đã hoàn toàn được giải thoát khỏi gánh nặng và trói buộc của sự sợ hãi và mặc cảm tự ti. Tôi cảm thấy có một sự gần gũi đặc biệt với những người trong Thánh Lễ. Tôi có thể nhìn ngắm họ với sự tự do và tình mến như thể mỗi người là anh chị em ruột của tôi.  Sau Thánh lễ, được thông báo về sự thay đổi trong hành vi của tôi, bác sĩ liền đề xuất lệnh cho làm lại tất cả các xét nghiệm. Sau đó, ông gọi tôi vào phòng và chỉ cho tôi cách so sánh những kết quả cũ và mới của các cuộc thử nghiệm lâm sàng đồng thời tuyên bố, xác nhận rằng thận của tôi đã hoàn toàn bình phục và rằng tôi có thể ngưng tất cả các loại thuốc cùng được xuất viện.  Tôi không biết làm thế nào để diễn tả hết niềm vui vào thời điểm đó.  Tôi nói, “Ngợi khen Chúa” và ôm từ giả bác sĩ trước khi rời bệnh viện.

Tôi đi ra khỏi bệnh viện như một con người mới với các quyết định và quyết tâm mới.  Tôi quyết định sống cho một mình Chúa Giêsu và dành cả đời mình cho việc rao giảng Nước của Người.  Tôi từ bỏ công việc của tôi trong vị trí giáo sư chủng viện và chuẩn bị bước ra ngoài đi rao giảng,  sau khi đã dành bốn mươi ngày ăn chay và cầu nguyện.  Kể từ ngày 17, tháng 2 năm 1976 tôi bắt đầu giảng tĩnh tâm Đặc Sủng, lần đầu tiên, tôi giảng bằng tiếng Malayalam, ở tiểu bang Kerala, cho đến tận bây giờ tôi chỉ dành thời gian của tôi trong việc rao giảng Lời của Ngài mà thôi.  Bề trên kính mến của tôi sau đó đã đề nghị nhiều cơ hội cho tôi đi đến nước Đức hoặc đến Rome để theo đuổi học vị tiến sĩ, nhưng tôi đã mạo muội từ chối vì Chúa Thánh Thần nói với tôi, “Ta là đủ cho con”.  “Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa!” (Lc 9: 62).  Trong thời gian đào tạo tại chủng viện, khi tôi thấy có nhiều bạn đồng hành được đề cử ra nước ngoài để theo học bậc cao hơn, tôi đã có một khát vọng lớn đó là được đi ra nước ngoài để nâng cao trình độ kiến thức.  Tạ ơn Chúa, bây giờ Chúa còn đang thỏa mãn ước vọng của tôi, khi được tiếp tục giảng thuyết về Vương Quốc ở ngoại quốc. Thật quả đúng là khi chúng ta chịu từ bỏ bất kỳ ham muốn thế gian nào vì lợi ích của Chúa, Ngài sẽ trả lại gấp trăm lần! Đúng là Chúa Giêsu đã sử dụng tôi để Ngài xây dựng một nhà cầu nguyện cho Ngài, tại Athirampuzha, Kerala, cũng được gọi là Charis Bhavan.  Trong các buổi giảng tĩnh tâm, hội nhóm và sứ cầu nguyện chữa lành tôi gặp phải những chống đối  và ngay cả các bách hại nữa.  Nhưng Lời Chúa nói rằng, mỗi người muốn sống một cuộc đời thánh thì sẽ bị bức hại, lời này đã an ủi và tiếp sức mạnh cho tôi (II Tim 3: 12).  Tôi biết rằng tất cả những món quà và quyền hạn được trao cho tôi, một con người yếu đuối, chứa đựng trong những bình sành lọ đất, ngõ hầu quyền lực siêu vời kia thực rõ là của Thiên Chúa, chớ không phải xuất tự chúng tôi. (II Cor 4: 7). Cùng với Thánh Phaolô, tôi nữa, tôi cũng sẽ nói rằng Tôi có sức chịu đựng mọi sự, trong Ðấng ban sức mạnh cho tôi. (Phi-líp 4: 13).  Quyền năng của Ngài được bày tỏ trong giai đoạn tôi bị bắt cóc và cầm tù trong thế giới Hồi giáo ở các nước Ả Rập, và trong những lời lăng mạ và những hiểu lầm của bề trên và bạn bè.  Tôi kết luận lời chứng của tôi với những lời của Thánh Phêrô: “Anh em thân mến, đừng lấy làm lạ vì hỏa tai bốc cháy để thí luyện anh em, như một cái gì lạ lùng xảy đến. Nhưng càng được chung phần thống khổ của Ðức Kitô chừng nào, anh em hãy vui mừng! Ngõ hầu khi vinh quang của Ngài mạc khải ra, anh em cũng được vui mừng hớn hở. Nếu anh em phải chịu sỉ vả vì Danh Ðức Kitô, thì phúc cho anh em, vì Thần khí vinh quang, Thần khí của Thiên Chúa, sẽ đậu lại trên anh em. “(Phê rô 4: 12-14 ).

Cám ơn Chúa vì sự thành tín và rộng rãi của Ngài, ngày hôm nay mục vụ Canh Tân Đặc Sủng của Cha James Manjackal được Giáo Hội công nhận,

Cha thực hiện nhiều hành trình rao truyền Tin Mừng trong 87 quốc gia trên 5 châu lục, Ngài thuyết giảng trong các buổi tĩnh tâm Canh Tân Đặc Sủng, chủ trì các hội nghị và cầu nguyện xin ơn chữa lành, hướng dẫn trong các trường Tin Mừng và tiên phong trong công tác truyền bá đức tin cho người Hồi Giáo vùng vịnh Ả Rập. Cha sáng lập dòng “Tì nữ Maria đầy ơn phước” trong giáo phận Vijayapuram, bang Kerala, Ấn độ. Ngài viết nhiều sách về Canh Tân Đặc Sủng như “33 Lời nguyện Đặc sủng” được dịch ra vài ngôn ngữ, “Cầu nguyện làm nên điều kỳ diệu”, “Ngài đụng chạm và chữa lành tôi”, “Sự Chữa lành tạo nên Đời Sống mới”, “Tỉnh thức, Ta gõ cửa đây”, “Tìm thấy rồi”, “Vào trong tàu . Mới đây vào tháng 2, năm 2016, Cha được Đức Thánh Cha Phan xi cô chỉ định là một  trong bẩy trăm sứ giả của Lòng Thương Xót Chúa nhân dịp năm thánh Lòng Thương Xót.

Phan Sinh Trần gởi

Hiện tượng lạ: Xác thánh GH Gioan Phaolo 2 không hư nát

Giáo Hoàng Gioan Phaolô II qua đời ngày 2/4/2005 cho đến nay nhưng tất cả cơ thể của Ngài đều còn nguyên vẹn.

Phép lạ phi thường minh chứng cho Đức tin vào sự sống đời đời của chúng ta.

httpv://www.youtube.com/watch?v=iTzGKTGRniA

Hiện tượng lạ: Xác thánh GH Gioan Phaolo 2 không hư nát

40 năm chăm sóc bệnh nhân lao phổi nghèo ở Ấn độ của Cha Antonio Grugni

 40 năm chăm sóc bệnh nhân lao phổi nghèo ở Ấn độ của Cha Antonio Grugni

Hồng Thủy

Cha Antonio Grugni sinh tại Legnano, Italia, là một thừa sai thuộc Hội truyền giáo Giáo hoàng hải ngoại, gọi tắt là Pime. Cha năm nay 75 tuổi nhưng đã phục vụ các bệnh nhân và người nghèo ở Ấn độ từ 40 năm qua. Ngay từ khi còn là một trẻ nhỏ, cậu bé Grugni đã luôn quan tâm đến việc chăm sóc bệnh nhân. Dần dần cậu nhận ra đời sống Kitô hữu của mình ngày càng hướng đến ước mơ dâng hiến toàn đời mình để phục vụ. Sau khi hành nghề bác sĩ tim mạch 8 năm tại bệnh viện ở quê nhà Legnano, gần Milano, bác sĩ Grugni cảm thấy mình không thể tiếp tục cuộc sống như hiện tại dù có một cuộc sống tiện nghi với công việc ổn định và được trả lương cao. Khi được yêu cầu đến Ấn độ lam việc, bác sĩ Grugni cảm thấy như nghe một tiếng chuông, một tiếng gọi và đồng ý ngay lập tức. Năm 1976, bác sĩ Grugni đến Ấn độ và vào năm 1989, sau khi trải qua thời gian phân định ơn gọi, bác sĩ được thụ phong Linh mục trong Hội truyền giáo Pime.

Hiện nay cha Grugni sống ở Warangal, Telangana. Năm 2005, cha đã thành lập tại Warangal một hiệp hội chăm sóc các bệnh nhân lao phổi, phong cùi và bệnh nhân nhiễm virus HIV, được gọi là “Hội tình yêu phổ quát”. Hiệp hội có 13 nhân viên: gồm 2 bác sĩ, 7 y tá, một chuyên gia y tế, một thợ giày chuyên làm giày dép đặc biệt cho bệnh nhân cùi, một tài xế và một người giúp việc. Chính quyền cũng như dân chúng đa phần theo Ấn độ giáo nhìn nhận giá trị công việc của cha Grugni và đội ngũ của cha. Ở một đất nước mà việc cải đạo không những là không tốt mà còn không thể chấp nhận, thì cách thế tốt nhất là làm chứng bằng tình yêu, giúp đỡ người nghèo, những người đau khổ, những người thấp bé nhất trong xã hội. Cha Grugni chia sẻ: “Các bệnh nhân bị đánh động khi chúng tôi đến thăm, giúp đỡ họ, cho họ thức ăn, trong khi xã hội gạt họ ra bên lề. Chính họ hỏi chúng tôi: ‘Tại sao các bạn làm tất cả những điều này cho chúng tôi?’ Họ ngưỡng mộ công việc mà chúng tôi làm với tinh yêu vô vị lợi. Họ nhận ra có điều đặc biệt trong cách chúng tôi tiếp cận họ. Đó là chứng tá Kitô giáo. Nhiệm vụ của chúng tôi là gieo những hạt giống rồi chính Chúa  sẽ làm cho hạt giống mọc lên trong tâm hồn họ. Chúng tôi giống như những người thợ gieo hạt giống trên đất và đất sẽ sinh hoa trái.”

Cha Grugni nhớ lại điều Mahatma Gandhi đã nói về vai trò của Kitô hữu ở Ấn độ. “Tôi cầu chúc cuộc sống của các bạn như hoa hồng. Hoa hồng không cần những lời nói nhưng chỉ cần tỏa hương thơm. Ngay cả một người mù cũng cảm nhận được sự hiện diện của hoa hồng bởi vì anh ta có thể ngửi được mùi hương. Đó là điều tôi mong ước nơi các bạn: tỏa hương thơm sứ điệp của Kitô giáo, sứ điệp tôn trọng tự do.” Cha Grugni tin là nếu Chúa Kitô ở Ấn độ thì Người cũng làm như vậy. Người sẽ chăm sóc bệnh nhân, ở với dân chúng. Cha nói: “Chúng tôi cố gắng làm cách tốt nhất có thể những gì mà Chúa Giêsu làm.” Nói về vai trò của các thừa sai ở Á châu, cha Grugni nhận xét rằng: “một nửa nhân loại sống ở Ấn độ và Trung quốc và phần lớn họ không phải là Kitô hữu. Công việc của chúng tôi là ở giữa dân chúng với tình yêu và lòng thương xót. Tình yêu thì tự do; nó được trao ban cách nhưng không, không có động cơ hay mục đích riêng.”

Hội tình yêu của cha Grugni cộng tác với cơ quan y tế của chính phủ và chính phủ tin tưởng là các nhà nhân viên của hội sẽ làm việc cho đến cùng. Các nhân viên thăm viếng các trung tâm sức khỏe và gia đình các bệnh nhân để bảo đảm các bệnh nhân sẽ uống thuốc đều đặn. Nhờ sự chăm sóc và dấn thân của các nhân viên, tỉ lệ bệnh nhân bị lao được lành bệnh lên đến hơn 90%. Trong trường hợp các bệnh nhân bị cùi, các nhân viên ý tế thăm các bệnh viện về da, rồi kiểm tra thân thể của bệnh nhân để có thể khám phá các trường hợp bị cùi, một căn bệnh vẫn còn bị kỳ thị ghê sợ. Bên cạnh việc chăm sóc cho các bệnh nhân, Hội tình yêu còn quan tâm đến gia đình các bệnh nhân như, giúp tiền để con cái họ có thể đến trường và một số tiền hưu nho nhỏ cho người già. Hội xây nhà, cung cấp thực phẩm trong vài tháng đầu trị liệu để giúp các bệnh nhân lấy lại sức khỏe. Người dân ở đây toàn là những người nghèo, những lao động bình dân cần được giúp đỡ. Cha Grugni chia sẻ: “Khi các bệnh nhân thấy chúng tôi đến, họ chạy đến với chúng tôi, vui mừng vì biết là chúng tôi sẽ giúp đỡ họ, biết là chúng tôi ở đó là vì họ.” (Asia News 17/11/2014)

Hồng Thủy

 

 

Câu chuyện của một linh mục tử đạo Albania.

Câu chuyện của một linh mục tử đạo Albania.

tu-dao-albanie

Câu chuyện của một linh mục tử đạo Albania, người được ĐGH Phanxicô tấn phong hồng y vào ngày 19 tháng Mười Một

Trong chuyến đi tới Albania vào tháng Chín năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô nghe câu chuyện rợn người của một linh mục 84 tuổi sống trong một trại lao động 28 năm dưới chế độ cộng sản ở Albania. Tên của ngài là Ernest Simoni và ngài sẽ được tấn phong hồng y tại hội nghị công giáo vào ngày 19 tháng Mười Một.

Đây là toàn văn câu chuyện của ngài, mà ngài đã tiết lộ trong một bài phát biểu trước Đức Thánh Cha Phanxicô, trong chuyến thăm quốc gia Đông Âu này.

Toàn văn:

“Con tên là Ernest Simoni. Con là một linh mục 84 tuổi. Vào tháng Mười Hai, năm 1944, Đảng Cộng sản đến Albania, với mục tiêu chính của họ là tiêu diệt đức tin và giáo sĩ của đất nước này. Để đạt được mục tiêu này, ngay lập tức họ bắt đầu bắt giữ, tra tấn, và đấu tố hành quyết hàng trăm linh mục và giáo dân. Biến cố này kéo dài bảy năm, các Kitô hữu vô tội đổ máu, một số trong đó, ánh mắt đăm đăm trên khuôn mặt nhìn vào cái chết, hét lên, “Vạn tuế Đức Kitô Vua!”

Năm 1952, chính quyền cộng sản, tiếp theo là một chiến lược chính trị được dàn dựng cẩn thận từ Moscow (Stalin), bằng mọi cách tập trung các linh mục còn lại và cho họ được thực thi đức tin với một điều kiện: họ tách ra khỏi Roma và Vatican. Hàng giáo sỹ không bao giờ chấp nhận sự lừa bịp của chính phủ. Con tiếp tục với việc học hành của mình tại trường đại học Phanxicô mười năm, từ năm 1938 đến năm 1948. Các đấng bề trên của chúng con buộc phải thi hành bởi những người cộng sản và đó là lý do tại sao con buộc phải hoàn tất việc nghiên cứu Thần học trong tình trạng lén lút.

Bốn năm sau, con phải đi lính. Họ muốn cho con biến mất. Con đã mất hai năm ở đó, mà còn tệ hơn là ở trong tù. Nhưng Chúa đã cứu con và, vào ngày 07 tháng Tư năm 1956, con được thụ phong linh mục. Ngày hôm sau, Chúa Nhật Lòng thương xót Chúa, con cử hành thánh lễ đầu tiên của con. Trong tám năm rưỡi thực thi tác vụ, cho đến khi những người cộng sản quyết định rằng con phải dời đi.

Vào ngày 24, tháng Mười Hai, 1963, sau khi cử hành Thánh Lễ Vọng Giáng sinh, tại thị trấn Barbullush, gần Scutari, cán bộ đến tìm con và đưa cho con lệnh bắt giữ và thực hiện. Họ trói tay con ra sau lưng, đưa con vào còng, và lôi con vào xe của họ bằng cách đá đạp con. Từ giáo xứ, họ đưa con đến một phòng cách ly con bị họ giam giữ ba tháng trong điều kiện không phải con người. Họ thẩm vấn con. Thủ trưởng của họ nói với con: “Mày sẽ bị treo cổ như một kẻ thù bởi vì mày đã nói với dân chúng rằng họ sẽ chết cho Đức Kitô nếu cần.” Họ siết còng sắt trên cổ tay của con đau đến nỗi con có thể cảm thấy nhịp tim của con ngưng đập. Con sắp chết. họ muốn con lên tiếng chống lại Giáo Hội và các đấng bậc trong Giáo Hội. Con gần như chết vì bị tra tấn. Thấy con trong trạng thái đó, họ gỡ con ra. Chúa muốn con còn được sống.

Họ còn kết tội con vì cử hành ba thánh lễ cho linh hồn của cố Tổng thống Hoa Kỳ, John F. Kennedy, người đã bị sát hại một tháng trước khi con bị bắt. Nhưng con cử hành những Thánh Lễ này theo chỉ dẫn của Đức Phaolô VI trao cho tất cả các linh mục trên thế giới. Con đặt mua tạp chí chính của Nga bằng tiếng Pháp: “Liên bang Xô viết”. Như bằng chứng để họ buộc tội, họ đã trình bày với thẩm phán về vấn đề của tạp chí này, trên trang bìa có một hình của Tổng thống Mỹ. Nhờ sự yêu thương và che chở của Thiên Chúa, bản án của con không bao giờ được thực hiện. Họ mang một tù nhân khác đến phòng biệt giam, người mà để do thám con. Người này chỉ trích Đảng nhưng con trả lời rằng Chúa Kitô dạy chúng ta yêu thương kẻ thù của chúng ta, tha thứ cho họ, và làm việc vì lợi ích của nhân dân. Nhà độc tài đã biết được về những lời con đã nói. Ông ta đã thay thế án tử hình của con bằng 18 năm tù trong mỏ than Spac. Khi con được thả ra, con bị kết án thêm mười năm lao động cưỡng bức, cho đến khi chế độ độc tài sụp đổ. Con làm việc trong cống rãnh nước thải. Con đã dâng lễ bằng tiếng Latin, từ trí nhớ.

Con cũng giải tội và ban Phép Thánh Thể bí mật.

Khi quyền tự do tôn giáo đã được thiết lập, Chúa đã giúp con phục vụ tại nhiều thị trấn và hóa giải với những người đầy hận thù với Thánh Giá, xua đuổi hận thù và ma quỷ ra khỏi trái tim của con người.

Thưa Đức Thánh Cha, con nghĩ rằng con nói thay cho tất cả mọi người ở đây. Con cầu nguyện với Chúa rằng, nhờ lời cầu bầu của Thánh Mẫu của Đức Kitô, xin Người ban cho ngài sống thọ, sức khỏe tốt, và sức mạnh để dẫn dắt đoàn chiên, đó là Giáo Hội của Đức Kitô. Amen.”

BUI HUY CUONG
2 avenue Claude Debussy

78330 FONTENAY LE FLEURY

FRANCE

From: Cam Tuyet & chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Niềm tin giản đơn đến bất ngờ

Niềm tin giản đơn đến bất ngờ

Vinhsơn Vũ Tứ Quyết S.J

Tạ ơn Chúa vì con bị HIV !

Đây là lời cầu nguyện “ngược đời” của một con người hạnh phúc trong khổ đau. Chị là một người giữa bao người. Chị bình thường trong một cuộc sống bình thường. Thế nhưng, một ngày đã tới, ngày mà chị biết mình bị nhiễm căn bệnh thế kỷ HIV. Chẳng mấy chốc, mọi người đều rời xa chị. Chị cô đơn đến tuyệt vọng. Chị kiệt sức. Chị muốn chết.

Phúc thay, chị được đưa đến mái ấm có các sơ chăm sóc. Dần dần, sức khỏe chị khá lên. Ngày qua ngày, niềm vui chị nhận được từ những người xa lạ, dần lớn lên trong chị. Lần đầu tiên trong đời chị biết Chúa Giêsu. Lần đầu tiên trong đời chị cảm nhận được tình thương mến lạ lùng từ những người tin vào Giêsu. Lần đầu tiên trong đời chị nhận ra ơn của Chúa ngay trong nghịch cảnh, nhận ra sức sống ngay trong sự tiều tụy. Sự kinh ngạc và niềm vui lớn tới nỗi chị thốt lên: “Nếu con không bị HIV, con nào biết Chúa trên đời. Vì con bị HIV như thế này mà con có dịp biết Chúa. Tạ ơn Chúa.”
Vâng, con người bỏ rơi nhau, còn Chúa thì không bao giờ.

Tại sao con theo đạo Phật, mà Chúa lại bắt con vác thánh giá ?

Đó là lời “than trách khó hiểu” của một bà bị tai biến, hiện liệt nửa người, đang ở trong nhà dưỡng lão mà các sơ chăm sóc. Trước kia, bà vốn ở một mình. Nhìn khuôn mặt bà, nghe bà kể chuyện, tôi nhận thấy niềm tiếc nuối rất lớn về quá khứ. Bà nói: “Trước kia con đẹp lắm, làm ăn được lắm, có của ăn của để, bạn bè rất nhiều… Đến một ngày, con bị tai biến, liệt nửa người. Thế là, tiền bạc của con có dư thì cũng không cứu được con. Bạn bè con bỏ con hết, chẳng còn ai. Người thân của con thì ai họ cũng phải lo việc nhà của họ. Con còn lại một mình.”

“Cũng chẳng biết ở đâu, vì không có người chăm sóc, con đành ở trong nhà dưỡng lão này. Từ trước tới giờ, con sùng đạo Phật lắm. Khi vào đây ở, có các sơ, con mới biết Chúa. Các sơ có an ủi con thế này: Bà chịu khó vác thánh giá Chúa trao.”

Bà thắc mắc về số phận khó chấp nhận của mình, bà hỏi tôi: “Khi con bị tai biến, con đâu biết Chúa. Tại sao con theo đạo Phật mà Chúa lại bắt con vác thánh giá?” Nhìn bà, tôi nhủ thầm: “Bà ơi! Bệnh tật là một phần của đời người, chẳng ai tránh được. Chỉ có điều, mỗi người đối diện với bệnh tật một cách mà thôi. Bà buồn rầu và thất vọng không phải vì bà bị bệnh, mà là vì bà bị bỏ rơi và bị quên lãng, là vì bà chưa có sức mạnh từ bên trong, là vì bà chưa có những người thực sự thân thiết yêu thương.”

Cầu chúc bà có thể nhận thấy tình thương mến của những người đang sống với bà.

Đối diện với đau khổ và cái chết, mỗi người chọn cho mình một thế đứng. Tùy điểm tựa mà mỗi người vững vàng hay sụp đổ. Có một điều chắc chắn là ai cũng chết, cũng có một điều khá chắc chắc là hầu như người ta cứ nghĩ mình còn lâu mới chết. Giá trị đời người và giá trị con người, ngày càng bị lãng quên trong cuộc sống xô bồ.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết tìm điểm tựa nơi Ngài, để con sống một cuộc đời đáng sống và chết một cái chết bình an, và dù có chết thì con vẫn sống trong Ngài. Amen.

Vinhsơn Vũ Tứ Quyết S.J

No automatic alt text available.

Sứ Ðiệp Của Một Người Tàn Tật

Sứ Ðiệp Của Một Người Tàn Tật

Msgr. Petrus Nguyễn Văn Tài

Hằng năm tổ chức có tên là “Tự nguyện chịu đau khổ” hành hương đến Lộ Ðức để chia sẻ kinh nghiệm của họ khi đối đầu với đau khổ. Năm 1982, khách hành hương đã chú ý đến lời chia sẻ của Jacques Lebreton, một phó tế vĩnh viễn không tay, mù mắt. Chúng ta hãy lắng nghe chứng từ của ông:

Sau trận đánh ở El Alamem, tôi và các bạn của tôi đang lo gỡ mìn. Một anh bạn tôi cầm một quả lựu đạn và vô tình mở chốt. Trong cơn hốt hoảng, anh trao cho tôi. Tôi cứ tự nhiên cầm lấy quả lựu đạn. Nó đã nổ tung trong tay tôi. Tôi tối tăm mặt mũi, không nói được nữa. Tôi cảm thấy mình đang chết. Tôi chỉ còn là một người không tay, không mắt… Tôi toan tự tử.

Trên giường bệnh ở nhà thương, tôi, một người đã không giữ đạo từ lâu, tôi bắt đầu cầu nguyện. Tôi xin được rước lễ. Tôi đã hiểu nguyên do sự đau khổ của tôi là tội lỗi nhân loại: đó là thù oán, kiêu căng, chiến tranh… Và tôi đã tìm lại được sự an vui và trông cậy.

Tôi cảm thấy một cái gì tương tự như Chúa Giêsu trong vườn Giêtsêmani. Ngài cũng không muốn chịu đau khổ. Ngài đã van xin: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này”, nhưng liền sau đó, Ngài lại thưa: “Lạy Cha, xin vâng theo ý Cha”. Sau thảm kịch Golgotha, Ngài đã sống lại. Chính nhờ mầu nhiệm chết và sống lại mà Chúa Kitô muốn cho chúng ta cùng sống. Tôi đã đạt đến mức độ không phải là chịu đựng mà là chấp nhận. Chịu đựng là một thất bại. Chấp nhận là một chiến thắng. Trên giường bệnh, tôi đã khóc, khóc vì sung sướng với ý nghĩ ấy. Ðiều mà tự nhiên tôi cũng không thể chịu được, nay nhờ ơn Chúa tôi đã chịu được.

Như lời văn hào Mauriac nói: “Chúa Giêsu không đến để xóa bỏ đau khổ, nhưng để cùng hiện diện với những người đau khổ“. Tôi đã cảm nghiệm được lời Chúa phán: “Phúc cho những kẻ khóc lóc, phúc cho những kẻ đau khổ”.

Tại Evreux, tôi được gặp một người đàn bà hoàn toàn bất toại, đến nỗi không thể nói được. Nhưng nhờ ngón chân cái của bà, bà có thể máy động bàn chữ cái trên một miếng ván và bà đã tặng cho tôi một bài thơ có tựa đề “Nụ cười”.

Tôi liên tưởng đến một người đàn ông khác, bị điếc lúc 14 tuổi, mù từ lúc lên 16 tuổi. Trên giường bệnh, lúc hấp hối, người đàn ông 87 tuổi này đã thốt lên như sau: “Tôi đã trải qua một cuộc đời tốt đẹp”.

Ông Jacques Lebreton kết luận như sau: “Tôi, một người không tay, không mắt, tôi cũng thấy đời tươi đẹp. Cuối cùng, sự tàn tật lớn lao nhất là bị chia lìa với Thiên Chúa. Tôi không thể nói như vậy, nếu tôi lành lặn với đôi mắt và đôi tay. Nhưng tôi có thể nói như vậy vì tôi biết thế nào là sống xa Chúa. Và hôm nay, sau một chặng đường dài, tôi lớn tiếng kêu lên với tất cả các người anh em của tôi rằng: Thiên Chúa hằng sống. Ðức Kitô đã sống lại”.

Ðã có khoảng 6,000 vụ lành bệnh lạ lùng được ghi nhận tại Lộ Ðức, trong số này chỉ có 64 vụ được Giáo Hội công nhận là phép lạ. Nhưng phép lạ cả thể nhất của Lộ Ðức cũng như của những trung tâm Thánh Mẫu khác: chính là phép lạ của lòng tin. Và trong những phép lạ của lòng tin ấy, kỳ diệu hơn cả vẫn là niềm tin, sự chấp nhận, tinh thần lạc quan của chính những người đau khổ. Trong niềm đau tột cùng trong thân xác cũng như tâm hồn, những con người ấy vẫn còn thấy được ý nghĩa của cuộc sống, tình yêu cao cả của Chúa. Ðó chính là phép lạ mà Chúa vẫn tiếp tục thực hiện qua những người có lòng tin. Và đó cũng là phép lạ mà chúng ta không ngừng kêu cầu Chúa thực hiện.

Nhìn lên thập giá Chúa, trong niềm hiệp thông với Mẹ Ngài, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta được tiếp tục tin yêu, được tiếp tục nhìn thấy ánh sáng phục sinh giữa những đêm tối của khổ đau, thử thách. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho không biết bao nhiêu người đang quằn quại trong đau đớn của thể xác, trong cô đơn của tâm hồn. Xin cho họ được nâng đỡ, ủi an và tìm được niềm tin.

Msgr. Petrus Nguyễn Văn Tài

Anh chị Thụ & Mai gởi