CÂU CHUYỆN HOÁN CẢI CỦA ÔNG Dr. SCOTT HAHN

CÂU CHUYỆN HOÁN CẢI CỦA ÔNG Dr. SCOTT HAHN – Jesus Mary Joseph I Love You Save Souls  

Mục sư Tin Lành, người Mỹ tên là Scott Hahn

Scott Hahn, sinh năm 1957, lấy tiến sĩ thần học Thánh Kinh năm 1992. Ông đã có 10 năm làm mục sư phục vụ trong giáo hội Trưởng Lão và dạy học tại nhiều chủng viện của anh em Tin Lành. Ông đã tìm hiểu Đức tin Công giáo và chính thức trở về vào Đêm Phục sinh năm 1986.

 Scott Hahn đã viết nhiều tác phẩm cũng như chia sẻ ở nhiều nơi trên thế giới về hành trình trở về của mình. Những tác phẩm và các cuộc nói chuyện của ông đã và đang là nguồn cảm hứng cho hằng ngàn người Tin Lành cũng như những người đang xa rời đức tin Công giáo quay trở về.

Hiện nay tiến sĩ Scott Hahn đang là giáo sư thần học tại trường Đại học thánh Phanxicô ở Ohio, nước Mỹ. Từ tháng 7 năm 2012 đến nay, ông được mời làm cố vấn cho Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin của Tòa Thánh.

Scott Hahn đã lập gia đình với Kimberly và sinh được 6 người con. Vợ ông là tín hữu tin Lành nhưng sau này cũng trở về Công giáo như ông.

Video clip này được Ban LBTM-GPXL dịch và lồng tiếng với sự cho phép của Mạng lưới truyền thông Công giáo quốc tế EWTN (www.ewtn.com)

Nguồn: http://dcvxuanloc.net/muc-vu/truyen-giao/hanh-trinh-tro-ve-tien-si-scott-hahn.html

CÂU CHUYỆN HOÁN CẢI CỦA ÔNG SCOTT HAHN

Thật là điều sung sướng và ngạc nhiên cho tôi khi được chia sẻ về vấn đề tại sao tôi coi Giáo Hội Công Giáo La Mã là một gia đình của Thiên Chúa mà Người muốn tất cả con cái của Người cùng chia sẻ.

Đức Fulton Sheen có nói, không có đến 100 người ở Hoa Kỳ ghét Giáo Hội Công Giáo, dù rằng có đến hàng triệu người ghét những gì mà họ lầm tưởng về Giáo Hội Công Giáo và các giáo huấn. Và thật may mắn, tôi thuộc về hạng người thứ hai. Vì trong nhiều năm tôi chống đối Giáo Hội Công Giáo, và tôi hoạt động đắc lực để đưa người Công Giáo ra khỏi Giáo Hội. Nhưng qua sự nghiên cứu và cầu nguyện, tôi thấy rằng Giáo Hội Công Giáo La Mã có nền tảng dựa trên Kinh Thánh.

NGƯỜI THIẾU NIÊN TRỞ VỀ VỚI CHÚA GIÊSU

Đó là điều tôi muốn chia sẻ với quý vị hôm nay. Nó khởi đầu bằng một cảm nghiệm hoán cải của tôi khi ở trung học. Tôi không lớn lên trong một gia đình Kitô Giáo vững mạnh. Chúng tôi không đến nhà thờ thường xuyên, và do đó tôi không đạo đức lắm. Điều mà Thiên Chúa đã dùng trong cuộc đời tôi là một tổ chức có tên Young Life, một tổ chức nhằm đến với các thiếu niên không thuộc tôn giáo nào, và một người tên Jack đặc biệt làm quen với tôi và chia sẻ với tôi Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô. Điều đó đã ảnh hưởng mạnh đến cuộc đời tôi.

Những năm đầu trung học, tôi thề hứa và nhận Đức Giêsu Kitô vào tâm hồn; tôi xin Người là Đấng cứu độ và là Chúa của tôi. Tôi trao cho Người những tội lỗi của tôi và tôi nhận lại ơn tha thứ và sự cứu độ. Đó là một sự khác biệt lớn lao cho tôi. Vì phải đánh đổi với biết bao bạn bè, nhưng Thiên Chúa đã bù đắp điều đó bằng cách cho tôi các người bạn thật, những người bạn trong Đức Kitô.

Jack là người dạy tôi biết yêu mến Thiên Chúa và cũng dạy tôi đọc Kinh Thánh và không chỉ đọc mà còn nghiên cứu, và không chỉ nghiên cứu mà còn đắm chìm trong đó-đọc đi đọc lại từ đầu cho đến cuối. Vào lúc xong trung học, tôi đã đọc trọn bộ Kinh Thánh đến hai ba lần. Và tôi trở nên say mê Kinh Thánh. Kết quả là tôi trở nên rất tin tưởng vào một vài điều kể sau.

Trước hết, ngoài việc đọc Kinh Thánh, Jack còn chia sẻ với tôi các văn bản của Martin Luther, của John Calvin, và tôi trở nên một Kitô Hữu Tin Lành đầy tin tưởng, không chỉ là một Kitô Hữu Duy Kinh Thánh, nhưng còn tin rằng cho đến khoảng năm 1500 Phúc Âm đã bị thất thoát giữa những mê tín dị đoan thời trung cổ và tất cả các công việc trần tục mà Giáo Hội Công Giáo chấp nhận. Và vì vậy, điều tin tưởng đầu tiên của tôi là giúp những người Công Giáo nhìn ra sự đơn giản của Phúc Âm Chúa Giêsu Kitô, để cho họ thấy rằng trong Kinh Thánh, chỉ cần chấp nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế và là Chúa, và tất cả chỉ cần có vậy. Không có những phô trương như Đức Maria, các thánh, luyện ngục, các việc sùng kính, chỉ cần xin Đức Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Thế.

Lúc bấy giờ, tôi có quen với một thiếu nữ người Công Giáo, và chúng tôi rất thân thiện. Nhưng tôi biết cuộc tình của chúng tôi sẽ chẳng đi đến đâu nếu cô ta vẫn giữ đạo Công Giáo. Do đó, tôi đưa cho cô một cuốn sách thật dầy của Loraine Boettner có tựa đề là Đạo Công Giáo La Mã. Cuốn này nổi tiếng là đả kích đạo Công Giáo. Nó gồm bốn trăm năm mươi trang đầy những xuyên tạc và dối gạt về Giáo Hội Công Giáo. Nhưng lúc bấy giờ tôi không biết, bởi vậy tôi thành thật chia sẻ với cô ta. Cô ấy đọc từ đầu đến cuối. Hè năm ấy, cô viết cho tôi và nói: “Cám ơn đã cho tôi cuốn sách này; tôi sẽ không bao giờ đi lễ nữa.” Tôi kể ra điều này với ít nhiều xấu hổ và hối hận, tuy nhiên tôi muốn cho quý vị thấy sự thành thật của nhiều Kitô Hữu Duy Kinh Thánh khi chống đối Giáo Hội Công Giáo. Tôi mường tượng rằng nếu miếng bánh mà họ thờ phượng trên bàn thờ không phải là Thiên Chúa, thì họ là những người thờ ngẫu tượng, họ là người ngoại giáo, họ đáng thương và đáng chống đối. Nếu Đức giáo hoàng ở La Mã không phải là vị đại diện 
bất khả ngộ của Đức Kitô mà đã ràng buộc hàng trăm triệu người Công Giáo trong các tín điều và việc đạo đức, thì ông ta là một bạo chúa. Ông ta đơn giản thực sự là một nhà lãnh đạo tinh thần độc tài. Và vì tôi không nghĩ ngài là vị đại diện bất khả ngộ, nên tôi thấy thật có lý để giúp người Công Giáo cũng có cái nhìn như tôi mà từ bỏ Giáo Hội.

Trong dòng họ của tôi, người duy nhất theo Công Giáo là bà ngoại thân yêu của tôi. Bà rất im lặng, rất khiêm tốn, rất đạo đức, tôi phải thú nhận như vậy. Và bà còn là một người Công Giáo sốt sắng. Khi bà từ trần, cha mẹ tôi trao cho tôi các vật tùy thân của bà. Tôi lướt qua sách kinh và sách lễ của bà, và tôi tìm thấy cỗ tràng hạt. Tất cả những thứ ấy chỉ làm tôi buồn nôn. Tôi biết bà tin thật nơi Đức Giêsu, nhưng tôi tự hỏi tất cả những thứ này có nghĩa gì. Do đó tôi kéo đứt chuỗi tràng hạt và ném vào thùng rác. Tôi nghĩ chuỗi hạt này không khác gì bùa chú mà sau cùng bà đã được giải thoát. Đó là khía cạnh thứ hai của cái nhìn của tôi: là những người này có lẽ có ít nhiều đức tin nhưng bị vây phủ bởi những giả trá, và do đó họ cần yêu quý Kitô Hữu Duy Kinh Thánh để giúp họ giải thoát.

Sau đó, khi tốt nghiệp trung học, tôi quyết định không những theo đuổi làm mục sư mà còn nghiên cứu thần học nữa. Quyết định này là kết quả của bài luận văn vào cuối năm trung học. Tôi viết một bài tựa đề Sola Fide. Đó là chữ La tinh có nghĩa Chỉ Nhờ Đức Tin. Đó chính là câu mà Martin Luther đã dùng để khởi động phong trào Cải Cách Tin Lành. Ông nói rằng chúng ta được công chính hóa, chúng ta được chính trực với Thiên Chúa chỉ nhờ đức tin, chứ không bởi bất cứ công việc nào mà chúng ta thi hành. Với ông, đó là vấn đề mà giáo hội sẽ đứng vững hay suy sụp. Và vì lý do đó, Giáo Hội Công Giáo đã sụp và Giáo Hội Tin Lành vùng dậy. Tôi viết bài luận văn đó với sự xác quyết rằng, nếu bạn sai lầm ở điểm này, bạn sẽ sai lầm bất cứ gì khác. Nếu bạn nói rằng đức tin phải thêm cái này cái nọ, bạn đã làm vẩn đục chân lý đơn giản của Phúc Âm. Và do đó tôi bước vào đại học với sự tin tưởng mãnh liệt ấy.

NHỮNG NĂM ĐẠI HỌC

Bốn năm đại học của tôi bao gồm ba môn chính là Triết Học, Thần Học Trong Kinh Thánh và Kinh Tế Học. Nhưng tôi cũng dành thời giờ để sinh hoạt trong tổ chức Young Life. Tôi muốn đền ơn Thiên Chúa vì Người đã dùng tổ chức Young Life để đưa tôi đến với Đức Kitô. Do đó, trong bốn năm đại học tôi tận tụy đến với các thiếu niên không biết gì về Đức Kitô, và tôi thú nhận rằng trong số các em ấy có cả các em Công Giáo trong trường trung học tôi làm việc. Sau một vài lớp học hỏi Kinh Thánh tôi khám phá rằng không chỉ các em này không biết đến Đức Giêsu Kitô, mà trên thực tế tất cả các em học sinh Công Giáo tôi gặp đều không biết gì về những điều Giáo Hội Công Giáo dạy bảo. Nếu có một hai em biết, thì chúng cũng không biết lý do tại sao. Các em không có một chút lý luận gì để hỗ trợ cho đức tin của các em. Do đó thay đổi quan điểm của các em này theo nhãn quan Phúc Âm của Martin Luther, nhãn quan bài Công Giáo, thì dễ như bắt vịt trong lồng. Các em không chuẩn bị, không được học hỏi, không có khả năng tự vệ.

Tôi không nhớ rõ những gì đã xảy ra trong mười lăm, hai mươi, hai mươi lăm năm qua, nhưng khi nhìn lại các em này và tự hỏi không biết các em có phải là những vật thí nghiệm trong một loại thử nghiệm giáo lý nào đó hay không, mà người ta nghĩ rằng có thể bỏ qua việc dạy bảo các học thuyết cần phải tin và các lý lẽ hỗ trợ cho các học thuyết ấy. Nhưng thật là như vậy. Tôi thấy nhiều em đã từ bỏ Giáo Hội và tôi chiêu dụ các em trong một ý nghĩa nào đó của một đức tin chân chính tốt lành, nhưng tôi cũng chiêu dụ các em chỉ vì chính tôi cũng bị sai lạc.

Vào năm thứ ba hoạt động trong tổ chức Young Life, tôi rủ một cô đẹp nhất trong tổ chức là Kimberly cùng hợp tác với tôi để chiêu dụ các thiếu niên không thuộc một giáo hội nào cả. Chúng tôi cùng nhau hoạt động trong hai năm và có cảm tình với nhau. Đôi khi chúng tôi cãi nhau như anh em trong nhà khi thảo luận một vài phương cách để chiêu dụ các thiếu niên. Nhưng chúng tôi ngày càng thực sự tôn trọng nhau, do đó vào năm cuối đại học tôi ngỏ ý muốn lấy cô làm vợ. Chúng tôi làm đám cưới ngay sau khi tốt nghiệp đại học. Cả hai chúng tôi đều có cùng một quan điểm. Chúng tôi muốn cùng nhau thi hành thừa tác vụ, chúng tôi muốn chia sẻ tin mừng của Chúa Kitô, chúng tôi muốn khai phá Kinh Thánh và làm cho dân chúng mến mộ.

NHỮNG NĂM HUẤN LUYỆN LÀM MỤC SƯ

Sau khi đám cưới khoảng một hai tuần, chúng tôi vào trường huấn luyện (Công Giáo gọi là chủng viện). Thật là một cảm nghiệm lớn lao khi cùng nhau học hỏi để lấy bằng cử nhân thần học. Tôi lấy cấp bằng ba năm tại chủng viện Gordon-Conwell ở Boston ; vợ tôi lấy bằng hai năm. Sau cùng cả hai chúng tôi đều có cử nhân và tôi đứng nhất lớp. Tôi nói ra điều đó không phải vì kiêu ngạo, nhưng cho thấy tôi theo đuổi việc học này với một kiểu cách trả thù nào đó. Những ai biết tôi ở chủng viện họ đều biết tôi rất nhiệt thành. Tôi dùng bất cứ thời giờ nào rảnh rỗi để đọc và học hỏi Kinh Thánh, hay các sách về Kinh Thánh nhằm trưng ra các ý nghĩa của Kinh Thánh. Nếu không đọc sách hay học hỏi, tôi lại đến các tiệm sách cũ để tìm kiếm tài liệu. Kimberly và tôi trải qua ba năm thật tuyệt vời. Nhưng một vài điều đã xảy ra mà tôi cần phải kể ra đây vì hồi tưởng lại tôi thấy đó là những kinh nghiệm đáng nhớ trong đời.

Điều thứ nhất là môn học mà Kimberly theo học năm thứ nhất, đó cũng là lớp mà tôi đã theo học năm trước có tên là Đạo Đức Học Kitô Giáo. Tiến sĩ Davis cho mọi người chia thành các nhóm nhỏ để thảo luận về nhiều đề tài. Có nhóm về vấn đề phá thai, có nhóm về chiến tranh nguyên tử, có nhóm về án tử hình. Một tối kia, vợ tôi cho biết nhóm của cô nghiên cứu về vấn đề ngừa thai. Tôi nhớ lúc ấy tự nhủ thầm, “Tại sao lại ngừa thai?”

Năm trước khi tôi học lớp này, không có ai muốn ghi tên vào nhóm và tôi cho Kimberly biết như vậy. Cô ấy trả lời, “Thì có thêm ba người nữa ghi tên và hôm nay chúng em gặp mặt nhau lần đầu tiên. Có một tên được bầu làm trưởng nhóm, và hắn ta công bố kết quả các cuộc nghiên cứu ngay trước khi bắt đầu. Hắn nói, ‘Tất cả chúng ta đều biết là Tin Lành, là Kitô Hữu Duy Phúc Âm, việc ngừa thai thì không có gì trở ngại, tôi muốn nói là một khi chúng ta không dùng dụng cụ ngừa thai mà có thể đưa đến phá thai như I.U.D., v.v.’ Hắn còn nói thêm là chỉ những người tự nhận mình là Kitô Hữu mà chống ngừa thai nhân tạo là người Công Giáo, và hắn cho biết, ‘Dĩ nhiên, họ lý luận rằng vì họ dưới quyền của một Giáo Hoàng độc thân và được hướng dẫn bởi các linh mục độc thân không muốn nuôi con nít nhưng muốn các cha mẹ Công Giáo đẻ thật nhiều để họ có thể tuyển chọn các linh mục và nữ tu. Chỉ có vậy!'”

Kiểu cách lý luận đó không thuyết phục nổi Kimberly. Cô ấy hỏi, “Bạn có chắc đó là những lý luận mà người Công Giáo đưa ra hay không?” Và tôi đoán là anh chàng đó không trả lời nổi, nên nói, “Nếu vậy thì cô muốn tự mình đi tìm hiểu sao?” Đừng nói kiểu đó với Kimberly. Cô ấy trả lời, “Được,” và cô ta quyết tâm tự mình tra cứu. Một tuần lễ trôi qua và Terry, bạn tôi, chặn tôi ngay trong hành lang và nói, “Anh phải nói chuyện với bà xã; cô ta đào xới được một số chi tiết lý thú về ngừa thai.” Chi tiết lý thú về ngừa thai? Ngừa thai thì có gì là lý thú? Và Terry nói, “Cô ấy là vợ anh; anh phải tìm ra sự thật.” “Được rồi, để tôi sẽ hỏi cô ấy.”

Bữa cơm tối hôm đó, tôi hỏi vợ, “Terry nói về chuyện gì đó em?” Và Kimberly trả lời, “Em tìm thấy rằng mãi cho đến năm 1930, bất cứ nhánh Tin Lành nào cũng chống với việc ngừa thai dựa trên căn bản Kinh Thánh.” Sau đó tôi nói, “Thôi mà, có lẽ chỉ một vài thế kỷ còn sót lại vết tích của chế độ La Mã, nhưng anh không rõ.” Và cô ta nói, “Em sẽ tìm ra cho bằng được.”

Thêm một tuần nữa trôi qua, Terry chặn tôi lại và nói, “Các lý luận của vợ anh rất hợp lý.” Tôi hỏi, “Lý luận chống với việc ngừa thai có trong Kinh Thánh?” Terry đáp, “Anh phải nói chuyện với cô ấy.” “Được, tôi sẽ nói chuyện với cô ấy.” Quý vị thấy rằng lúc nào tôi cũng nghĩ là mình giỏi hơn vợ.

Do đó tôi nêu lên vấn đề và cô ta đưa cho tôi một cuốn sách. Đó là cuốn “Birth Control & The Marriage Covenant” (Kiểm Soát Sinh Sản và Giao Ước Hôn Nhân) của John Kippley. Sách mới được tái xuất bản, đổi tên là “Sex & The Marriage Covenant.” Bạn có thể mua cuốn này tại nhà xuất bản Couple to Couple League ở Cincinnati . Tôi bắt đầu đọc sách này với nhiều lý thú vì với khả năng nghiên cứu riêng tôi, đã đọc trọn bộ Kinh Thánh một vài lần, tôi tin rằng nếu bạn muốn biết Thiên Chúa, bạn phải hiểu về giao ước, vì giao ước là ý nghĩa chính trong tất cả Kinh Thánh. Do đó khi cầm sách lên, tôi thích thú khi thấy chữ ‘giao ước’ ở tựa đề, Kiểm Soát Sinh Sản và Giao Ước Hôn Nhân. Tôi mở sách ra và bắt đầu đọc, và tôi nói, “Khoan đã, Kimberly, ông này là người Công Giáo. Em muốn anh phải đọc sách của một người Công Giáo sao?” Và một tư tưởng chợt nảy ra ngay lúc đó, Người Công Giáo làm gì mà để chữ ‘giao ước’ ngay trong tựa đề? Họ đã chộp cái ý niệm đẹp đẽ của tôi từ lúc nào?

Và rồi tôi bắt đầu đọc. Sau hai ba chương tôi bắt đầu thấy tác giả có lý, do đó tôi vội ném sách lên bàn. Tôi thực sự không muốn thấy tác giả này hơn tôi. Nhưng tôi lại cầm lên và đọc tiếp. Các lý luận của ông thật có ý nghĩa. Từ Kinh Thánh, từ giao ước, ông cho thấy hành vi hôn nhân không chỉ là hành vi thể xác; nó là một hành vi tinh thần mà Thiên Chúa đã hoạch định để qua đó giao ước hôn nhân được làm mới lại. Và trong tất cả các giao ước, bạn có cơ hội để làm mới lại giao ước ấy, và hành vi canh tân giao ước là một hành vi hay một giây phút của ơn sủng. Khi bạn canh tân giao ước, Thiên Chúa ban cho ơn sủng, và ơn sủng là sự sống, ơn sủng là sức mạnh, ơn sủng là chính tình yêu của Thiên Chúa. Ông Kippley cho thấy làm thế nào trong giao ước hôn nhân, Thiên Chúa đã hoạch định để giao ước ấy cho thấy sức mạnh ban-sự-sống của tình yêu. Chính trong giao ước hôn nhân cả hai trở nên một, và Thiên Chúa đã hoạch định như vậy để khi cả hai trở nên một, và họ kết hợp mật thiết đến nỗi chín tháng sau bạn phải đặt tên cho nó. Và đứa bé được thụ thai, hiện thân của sự nên một mà Thiên Chúa đã kết hợp hai người qua hành vi hôn nhân. Đó là tất cả những gì mà Thiên Chúa đã hoạch định giao ước hôn nhân. Thiên Chúa phán, “Chúng ta hãy dựng con người trong hình ảnh và giống chúng ta,” và Thiên Chúa, là ba trong một, đã dựng nên con người, nam và nữ, và nói, “Hãy sinh sôi nẩy nở.” Hai người trở nên một và khi hai trở nên một, cái nên một ấy là đứa trẻ thứ ba, và sau đó họ trở nên ba trong một. Bắt đầu tôi thấy được các ý nghĩa, và tác giả cũng đưa ra nhiều lý luận khác. Khi đọc xong cuốn sách, tôi bị thuyết phục.

Điều làm tôi khó chịu chút ít là chỉ có Giáo Hội Công Giáo La Mã là Giáo Hội duy nhất còn duy trì giáo huấn cổ xưa có nguồn gốc từ Kinh Thánh, bởi vì trong năm 1930, Anh Giáo tách rời khỏi truyền thống này và bắt đầu cho phép ngừa thai, và không lâu sau đó mọi nhánh chính khác trên mặt đất này thực tế đã chịu thua trước áp lực vũ bão của cuộc cách mạng tình dục. Vào thập niên 1960 và 70, chính giáo phái của tôi, The Presbyterian Church in The United States of America (Hội Thánh Niên Trưởng Tại Hoa Kỳ), không chỉ tán thành ngừa thai nhưng cả việc phá thai theo yêu cầu và toàn quốc giúp quỹ cho việc phá thai, và điều đó làm tôi kinh hoàng.

Trong năm thứ ba và năm sau cùng ở chủng viện, một vài điều xảy ra tiêu biểu cho sự khủng hoảng của tôi. Tôi đang nghiên cứu về giao ước và nghe có một thần học gia khác cũng nghiên cứu về giao ước, là Giáo Sư Shepherd ở Philadelphia dạy tại Chủng Viện Westminster. Tôi biết về ông Shepherd chỉ vì ông đang bị kết án là rối đạo. Người ta nói rằng sự rối đạo của ông bắt nguồn từ sự hiểu biết về giao ước. Do đó tôi kiếm một vài tài liệu của ông, một số bài viết, và đọc qua. Tôi khám phá thấy rằng Giáo Sư Shepherd cũng đi đến cùng một kết luận mà việc nghiên cứu đã dẫn tôi đến.

Trong thế giới Tin Lành, ý tưởng giao ước được hiểu một cách thực tế như đồng nghĩa với hay có thể hoán đổi với chữ khế ước. Khi bạn có giao ước với Thiên Chúa, cũng giống như có khế ước. Bạn trao cho Thiên Chúa tội lỗi của bạn; Người trao Đức Kitô cho bạn, và mọi sự chỉ là trao đổi đức tin để được cứu độ.

Nhưng càng nghiên cứu tôi càng thấy người Do Thái xưa, và trong Sách Thánh, một giao ước khác với một khế ước cũng như một hôn nhân khác với sự mãi dâm. Trong khế ước bạn trao đổi tài sản, trong khi với giao ước bạn trao đổi con người. Trong khế ước bạn nói, “Đây là của bạn và đó là của tôi,” nhưng Sách Thánh cho thấy trong giao ước bạn nói, “Tôi là của bạn và bạn là của tôi.” Ngay cả khi Thiên Chúa giao ước với chúng ta, Người nói, “Ta sẽ là Thiên Chúa của ngươi và ngươi sẽ là dân của ta.” Sau khi nghiên cứu tiếng cổ Do Thái, tôi thấy rằng chữ ‘Am, có nghĩa người dân, đúng nghĩa là người bà con, gia đình. Ta sẽ là Thiên Chúa và cha của ngươi; ngươi sẽ là gia đình ta, con cái ta. Như thế giao ước tạo thành các mối giây thân thuộc hợp thành một gia đình với Thiên Chúa.

Tôi đọc các bài của Giáo Sư Shepherd, và ông cũng nói cùng một điều: giao ước của chúng ta với Thiên Chúa có nghĩa là phận làm con. Tôi nghĩ, “Nếu vậy thì đúng.” Tôi tự hỏi sự rối đạo ở đây gồm có gì. Sau đó có người nói với tôi, “Ông Shepherd đang đặt ra vấn đề sola fide.” Cái gì! Không thể nào được. Vì đây là Phúc Âm mà. Đó là chân lý đơn giản của Đức Kitô. Người đã chết vì tội lỗi; tôi tin ở Người. Người cứu độ tôi, rõ ràng và đơn giản; nó đã xong rồi. Sola fide? Ông ấy đặt vấn đề đó sao? Không thể nào được.

Tôi gọi điện thoại cho ông. Tôi nói, “Tôi vừa mới đọc xong những điều ông viết về giao ước; nó thật có ý nghĩa. Tôi cũng đi đến cùng một kết luận. Nhưng tại sao điều này lại dẫn ông đến việc đặt lại vấn đề học thuyết sola fide của Luther?” Trong cuộc nói chuyện, ông tiếp tục cho thấy rằng ý niệm về công chính hóa của Luther thì rất hạn hẹp. Nó có nhiều sự thật nhưng cũng thiếu sót nhiều sự thật.

Khi cúp điện thoại, tôi theo đuổi điều này thêm một chút và khám phá thấy rằng đối với Luther, và có thể nói với tất cả mọi Kitô Hữu Duy Phúc Âm và Tin Lành, Thiên Chúa là một quan tòa, và giao ước là khuôn viên tòa án mà tất cả chúng ta là tội phạm. Nhưng vì Đức Kitô đã chịu hình phạt của chúng ta, chúng ta có sự công chính của Người, và Người gánh lấy tội lỗi của chúng ta, do đó chúng ta không bị trừng phạt; chúng ta được công chính hóa. Với Luther, nói cách khác, sự cứu độ là một trao đổi hợp pháp, nhưng với Phaolô trong thư Rôma, thư Galát, sự cứu độ là như vậy, nhưng còn hơn thế nữa. Nó không chỉ là một trao đổi hợp pháp vì giao ước không hướng về một tòa án La Mã mà hướng về một căn phòng gia đình Do Thái. Thiên Chúa không chỉ là một ông tòa; Thiên Chúa là một người cha, và phán quyết của Người thì nhân từ của một người cha. Đức Kitô không chỉ là người đại diện cho một nạn nhân vô tội đã gánh lấy tội lỗi, hình phạt của chúng ta; Người là trưởng tử trong các anh chị em. Người là anh cả trong gia đình, và 
Người thấy chúng ta tán loạn, như đứa con hoang đàng, như phiến loạn tách rời khỏi đời sống gia đình của Thiên Chúa. Và qua giao ước mới, Đức Kitô không chỉ trao đổi trong ý nghĩa pháp luật; Đức Kitô đã ban cho chúng ta tư cách làm con của chính Người để chúng ta thực sự trở nên con cái Thiên Chúa.

Khi tôi chia sẻ điều này với các bạn tôi, tất cả đều nói, “Phải, đó là Phaolô.” Nhưng khi tôi tiếp tục đi vào các văn bản của Luther và Calvin, tôi không còn thấy điều đó. Họ huấn luyện tôi để nghiên cứu Sách Thánh, nhưng trong tiến trình, trong một ý nghĩa, tôi khám phá rằng có những kẽ hở hiển nhiên trong sự giảng dạy của họ. Do đó tôi đi đến kết luận rằng sola fide thì sai lầm. Thứ nhất, chỉ vì trong Kinh Thánh chẳng có chỗ nào nói đến điều đó cả. Thứ hai, vì Luther đã thêm vào chữ “chỉ” trong bản dịch sang tiếng Đức, trong thư Roma 3, dù rằng ông biết rất rõ là chữ “chỉ” không có trong bản văn tiếng Hy Lạp. Không thấy chỗ nào mà Thánh Thần đã linh ứng cho các tác giả Kinh Thánh để nói rằng chúng ta được cứu độ chỉ bởi đức tin. Thánh Phaolô dạy rằng chúng ta được cứu độ bởi đức tin, nhưng trong thư Galát ngài nói rằng chúng ta được cứu độ bởi đức tin hoạt động trong đức ái. Và đó không phải là phương cách sinh hoạt của một gia đình hay sao? Người cha không bao giờ nói với con cái rằng, “Này mấy đứa, vì các 
con ở trong gia đình này còn mấy đứa bạn con không ở trong nhà này, nên các con không phải làm việc, các con không phải vâng lời, các con không phải hy sinh vì các con đã được miễn. Các con sẽ được hưởng thừa kế bất kể các con hành động thế nào.” Đó không phải là kiểu cách hành động.

Bởi đó tôi thay đổi ý nghĩ và trở nên rất băn khoăn. Một trong những giáo sư sáng giá của tôi là Tiến Sĩ John Gerstner, từng nói rằng “nếu chúng ta sai lầm về sola fide, tôi sẽ quỳ gối bên ngoài điện Vatican ở Rôma sáng ngày mai để sám hối.” Lúc bấy giờ chúng tôi cười, thật là khoe khoang. Nhưng ông đã đưa ra điểm quan trọng; đây là điểm mà từ đó tất cả các học thuyết khác phát sinh. Và nếu chúng tôi sai lầm, chúng tôi phải tìm hiểu xem còn có những chỗ nào sai lầm nữa. Tôi băn khoăn, nhưng không quá lo lắng. Lúc bấy giờ tôi dự định sang Tô Cách Lan để theo học Đại Học Aberdeen về giao ước, vì ở Tô Cách Lan, thần học về giao ước được phát sinh và khai triển. Và tôi nóng lòng muốn sang học ở bên ấy. Do đó tôi không đặc biệt lưu tâm đến việc giải quyết vấn đề này, vì nói cho cùng, đó có thể là mục tiêu của luận án tiến sĩ của tôi.

Sau đó bỗng dưng chúng tôi được tin rằng sự thay đổi của chúng tôi về lý thuyết ngừa thai đã đưa đến sự thay đổi nơi Kimberly về cơ thể và sinh lý; cô ta có thai. Và nước Anh không tài trợ cho trẻ em Hoa Kỳ sinh ra ở nơi đây nên chúng tôi phải nhìn lại hoàn cảnh và nhận ra rằng chúng tôi chưa đủ khả năng để sang Tô Cách Lan. Chúng tôi phải chờ một năm, nhưng chúng tôi phải làm gì khi sắp sửa đến ngày mãn khóa? Chúng tôi không biết chắc; chúng tôi bắt đầu cầu nguyện.

LÀ MỤC SƯ CỦA HỘI THÁNH Ở VIRGINIA

Tiếng điện thoại reo. Một hội thánh ở Virginia , một hội thánh nổi tiếng mà tôi đã nghe biết nhiều, gọi tôi và nói, “Ông có nghĩ đến việc xuống đây để làm mục sư ở đây không?” Điều này có nghĩa giảng một bài dài, hướng dẫn một lớp Kinh Thánh, trả lời các câu hỏi của những người “bô lão” (elders). Tôi nhận lời và xuống đó, giảng một bài, hướng dẫn học Kinh Thánh, gặp gỡ trong một cuộc họp. Họ nói, “Thật tuyệt vời; chúng tôi muốn ông ở đây. Chúng tôi sẽ trả ông hậu hĩnh để ông có thể theo học tối thiểu 20 giờ một tuần về Kinh Thánh và thần học. Tuy nhiên, chúng tôi muốn ông giảng tối thiểu 45 phút mỗi sáng Chúa Nhật để khai mở cho chúng tôi về Ngôi Lời.” Bạn có thể tưởng tượng một linh mục Công Giáo mà giảng 45 phút thì được gì? Trong tuần tới cả nhà thờ đều vắng tanh. Ở đây, họ yêu cầu tôi giảng tối thiểu 45 phút. Tôi nói, “Nếu các ông bà muốn thì trói tay tôi lại.” Và họ nói, “Chúng tôi muốn ông nhận chìm chúng tôi trong Lời Chúa,” và vì thế tôi bắt đầu.

Điều đầu tiên tôi nói về giao ước. Điều thứ hai là chấn chỉnh những hiểu lầm về giao ước để cho họ thấy giao ước có nghĩa là gia đình. Điều thứ ba tôi cho họ thấy rằng gia đình của Thiên Chúa thì có nhiều ý nghĩa hơn cho chúng ta và những gì Đức Kitô đã thi hành hơn bất cứ điều gì trong Kinh Thánh. Thiên Chúa là Cha, Thiên Chúa là Con, và Thiên Chúa qua Thánh Thần đã biến chúng ta thành một gia đình với Người. Và một khi tôi bắt đầu giảng giải điều này, dạy điều nọ, nó lan tràn như cháy rừng. Nó lan qua giáo xứ; bạn có thể thấy nó ảnh hưởng đến hôn nhân và gia đình.

Thật phấn khởi. Điều thứ bốn tôi dạy họ về phụng vụ, giao ước và gia đình, và nói rằng trong Kinh Thánh giao ước được cử hành qua việc phụng tự là nơi gia đình Thiên Chúa tụ tập để ăn tiệc để cử mừng sự hy tế của Đức Kitô. Trong bài giảng cũng như trong lớp dạy tôi đề nghị có lẽ chúng ta phải có bữa tiệc gia đình, sự hiệp thông. Tôi dùng cả chữ “Thánh Lễ” (Eucharist). Họ chưa bao giờ nghe chữ này cả. Tôi nói, “Có lẽ hàng tuần chúng ta phải cử mừng vì được là giao ước của Thiên Chúa-gia đình qua sự hiệp thông.” “Ông nói gì?” Tôi trả lời, “Thay vì dùng bài giảng làm tâm điểm, tại sao chúng ta không dùng bài giảng như phần mở đầu và chuẩn bị để đi vào việc ăn mừng chúng ta là gia đình của Chúa?” Họ thích ngay.

Nhưng một ông đứng lên hỏi, “Hàng tuần à? Ông biết là thân quá hóa nhờn; ông có chắc là chúng ta phải thi hành điều đó hàng tuần không?” Tôi trả lời, “Thử nghĩ coi. Có thể nào ông nói với vợ ông là anh chỉ yêu em bốn lần trong một năm? Cưng ơi, nói cho cùng, thân quá hóa nhờn. Ông biết là ông muốn được vợ ông hôn nhiều hơn bốn lần một năm chứ.” Ông nhìn tôi và nói, “Tôi hiểu ông muốn nói gì.”

Khi chúng tôi thay đổi phụng vụ, chúng tôi cảm thấy một sự thay đổi trong cảm nghiệm đời sống của giáo xứ cũng như trong gia đình. Và khi càng dạy họ về giao ước, tôi thật phấn khởi để thấy họ càng thèm khát muốn biết hơn nữa.

Trong khi đó, tôi cũng dạy một vài giờ tại một trường trung học Kitô Giáo địa phương cũng thuộc về hội thánh này. Có những học sinh thật sáng dạ chưa bao giờ thấy, và họ cũng nhiệt tình hưởng ứng ý tưởng về giao ước. Tôi khởi sự dạy một môn về lịch sử cứu độ, và lúc đầu, họ lo lắng vì môn này quá mơ hồ, tất cả những địa danh, tên tuổi còn chưa đọc đúng chứ nói gì đến ý nghĩa của những chữ ấy. Bởi đó tôi nói với các em, “Một khi các em nghĩ về giao ước như gia đình, điều đó thật đơn giản.” Tôi dẫn các em qua hàng chuỗi giao ước trong Cựu Ước mà từ đó dẫn đến Đức Kitô. Trước hết, chúng ta có giao ước giữa Thiên Chúa và ADong; đó là một hôn nhân, một mối giây thân thiết. Giao ước thứ hai giữa Thiên Chúa với ông Nôe. Đó là một gia đình, một dòng họ với ông Nôe, bà vợ, ba người con trai và ba nàng dâu; tất cả tạo thành một gia đình với Thiên Chúa, một gia đình đức tin. Sau đó trong thời ông Abraham chúng ta thấy gia đình Thiên Chúa phát triển cho đến mức nó trở thành một gia đình bộ lạc. Kế đó giao ước mà Thiên Chúa thiết lập với ông Môsê và Israel với 12 chi tộc đã trở thành một quốc gia, nhưng qua giao ước họ trở nên một gia tộc của Thiên Chúa. Cho đến sau cùng, khi Đức Kitô thiết lập giao ước mới. Thay vì gia đình Thiên Chúa chỉ gồm một dân tộc, đó là sự cao trọng đặc biệt của Tân Ước, tôi dạy các em, giờ đây chúng ta có một gia đình quốc tế, một gia đình trên toàn quốc – một gia đình phổ quát của chung (catholic family).

Một em giơ tay hỏi, “Nếu chúng ta thực sự phát triển điều này thì sẽ giống như cái gì?” Tôi vẽ hình kim tự tháp lên bảng và nói, “Hãy coi đó như một đại gia đình với hình ảnh người cha và mẹ ở những mức độ khác nhau, và tất cả chúng ta là anh chị em trong Đức Kitô.” Tôi nghe có tiếng xì xầm ở cuối lớp, “Em thấy nó giống Giáo Hội Công Giáo.” Tôi trả lời, “Không, không! Điều tôi nói với các em là giải pháp cho các vấn đề, là thuốc giải độc.” Sau đó, trong bữa ăn trưa cô Rebecca đến với tôi và nói, “Chúng em làm cuộc biểu quyết ở cuối lớp; tất cả đều nhất trí nghĩ rằng thầy sẽ trở thành một người Công Giáo La Mã.” Tôi mắc nghẹn, “Đừng nói vậy. Thầy không muốn mất việc, nhưng Rebecca này, điều tôi nói với các em thì không phải là đạo Công Giáo; nó là thuốc giải độc cho chất độc của đạo Công Giáo.” Cô ta đứng đó, nhìn đăm đăm, “Tất cả đều đồng ý là thầy sẽ trở nên một người Công Giáo.” Và cô quay lưng bỏ đi.

Tôi sững sờ. Chiều hôm ấy khi về đến nhà, tôi bước vào bếp, thấy Kimberly đứng gần tủ lạnh, tôi nói, “Em không thể tưởng được điều Rebecca nói với anh hôm nay!” “Cái gì nữa đây, một chuyện khác nữa của Rebecca hay sao?” Tôi trả lời, “Cô ấy đến với anh trong khi ăn trưa và tuyên bố rằng họ làm một cuộc biểu quyết ở cuối lớp và tất cả đồng ý rằng anh sẽ trở nên một người Công Giáo. Em có thể tưởng tượng được không, anh mà là người Công Giáo sao được?” Nhưng vợ tôi không cười. Cô ta đứng đó, nhìn chòng chọc vào tôi và hỏi, “Không phải vậy sao?” Như có ai cầm dao đâm sau lưng, tôi nói, “Em biết anh là một tín đồ của Calvin, một người Tin Lành, một người chống Công Giáo. Anh đã phân phát biết bao nhiêu sách của Boettner; anh đã làm nhiều người Công Giáo bỏ Giáo Hội. Anh đã quá quen với Martin Luther.” Cô ta đứng đó và nói, “Thì vậy, nhưng đôi khi em tự hỏi không biết anh có phải là người Luther đi ngược hay không.” Tôi không biết nói gì hơn.

Chậm rãi tôi trở về phòng đọc sách, đóng cửa rồi khóa lại, tôi thả mình xuống ghế và thực sự nghiền ngẫm. Tôi lo sợ. Một người Luther đi ngược. Đối với tôi, lúc đó có nghĩa đối nghịch với sự cứu độ. Tôi lo sợ. Có lẽ tôi đọc sách quá nhiều nhưng ít cầu nguyện, do đó tôi bắt đầu cầu nguyện nhiều hơn. Tôi bắt đầu đọc thêm nhiều sách chống đối đạo Công Giáo, nhưng tất cả chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Bởi đó tôi quay về với các tài liệu Công Giáo và tìm hiểu.

GIÁO SƯ CHỦNG VIỆN HỘI THÁNH NIÊN TRƯỞNG

Trong khi đó một thảm kịch xảy ra. Tôi được một chủng viện tìm đến, một chủng viện của hội thánh Presbyter, và họ hỏi tôi có muốn dạy các chủng sinh với môn Phúc Âm Thánh Gioan không. Tôi trả lời, “Dĩ nhiên là có.” Bởi đó từ Phúc Âm Thánh Gioan tôi bắt đầu chia sẻ tất cả về giao ước, về gia đình của Thiên Chúa, về ý nghĩa thực sự của việc tái sinh. Trong khi nghiên cứu tôi khám phá ra rằng tái sinh không có nghĩa là chấp nhận Đức Giêsu Kitô như Cứu Chúa của mình và xin Người chiếm ngự tâm hồn mình-dù đó là điều quan trọng và bất cứ tín hữu nào, Công Giáo hay không, phải xem Đức Giêsu Kitô là Cứu Chúa và có sự tương giao cá biệt với Người. Nhưng tôi khám phá thấy rằng điều Chúa Giêsu muốn nói trong Gioan đoạn 3 khi Người nói rằng anh em phải được sinh ra lần nữa. Người quay lại và nói rằng anh em phải được sinh ra trong nước và thần khí. Trong chương trước đó Người mới được thanh tẩy bằng nước và Thánh Thần ngự xuống trên Người. Và ngay khi Người chấm dứt nói với ông Nicôđêmô về sự cần thiết để tái sinh trong nước và Thánh Thần, câu kế đến nói rằng Đức Giêsu và các môn đệ đi làm phép rửa cho dân chúng. Tôi dạy rằng tái sinh là một hành vi giao ước, một bí tích, một canh tân giao ước bao gồm phép rửa. Tôi chia sẻ điều này với các sinh viên; họ tin là như vậy.

Trong khi đang chuẩn bị bài giảng và diễn thuyết về Gioan chương 3, tôi đào sâu vào Gioan chương 6. Tôi không biết có bao nhiêu quý vị từng nghiên cứu về Phúc Âm Thánh Gioan. Nhưng đó là cuốn Phúc Âm phong phú nhất trong tất cả. Nhưng Gioan chương 6 là chương tôi thích nhất trong bốn cuốn Phúc Âm. Ở đó tôi khám phá những điều mà tôi đã từng đọc trước đây nhưng không bao giờ thấy. Hãy lắng nghe. “Đức Giêsu nói với họ, ‘Thật Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không ăn thịt của con người và uống máu Người anh em không có sự sống trong mình. Ai ăn thịt và uống máu Thầy sẽ có sự sống đời đời và Thầy sẽ cho người chỗi dậy vào ngày sau hết, vì thịt Thầy thật là của ăn và máu Thầy thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu Thầy thì ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy.'” Tôi đã đọc câu đó; tôi đọc lại câu đó; tôi nhìn đến câu đó ở mười khía cạnh khác nhau. Tôi mua tất cả các cuốn sách viết về đoạn đó, các chú giải về Gioan. Tôi không thể biết làm thế nào để hiểu cho đúng.

Tôi được huấn luyện để giải thích điều đó trong một ý nghĩa tượng trưng; Đức Giêsu đang dùng một biểu tượng. Thịt và máu thực sự chỉ là một biểu tượng của thân thể và máu của Người. Nhưng càng nghiên cứu, tôi càng nhận thấy rằng sự giải thích đó chẳng có ý nghĩa gì cả. Tại sao? Bởi vì ngay khi những người Do Thái nghe điều Đức Giêsu nói, họ bỏ đi. Cho đến lúc ấy, hàng ngàn người đang theo Ngài, và bỗng dưng đám đông ấy ghê tởm với điều Người nói, “Thịt Thầy thật là của ăn, máu Thầy thật là của uống,” và tất cả họ bỏ đi. Hàng ngàn môn đệ bỏ Người. Nếu Đức Giêsu có ý định coi đó chỉ là biểu tượng, có lẽ Ngài sẽ nói, “Khoan đã, Thầy chỉ muốn nói điều ấy với ý nghĩa tượng trưng.” Nhưng Người đã không làm điều đó; quả thật, Người làm gì?

Phúc Âm cho thấy Người quay về nhóm mười hai, và nói với họ, “Anh em cũng bỏ Thầy sao?” Người không nói, “Anh em có hiểu là Thầy chỉ muốn nói điều đó như một biểu tượng thôi sao?” Không! Người nói sự thật giải thoát chúng ta, Thầy từng giảng dạy sự thật. Anh em sẽ làm gì với điều đó?

Ông Phêrô đứng lên và nói: “Chúng con sẽ đến với ai? Chỉ có Thầy mới có lời hằng sống và chúng con tin như vậy.” Điều ông Phêrô nói, “Chúng con sẽ đến với ai?” có nghĩa rằng, “Thầy Giêsu ơi, chúng con cũng không hiểu điều Thầy nói, nhưng Thầy có còn một rabbi nào khác để có thể giới thiệu không? Thầy biết, chúng con phải đến với ai bây giờ? Thật quá trễ cho chúng con; chúng con tin bất cứ gì Thầy nói ngay cả khi chúng con không thực sự hiểu hết, và nếu Thầy nói chúng con phải ăn thịt và uống máu của Thầy, thì thế nào Thầy cũng ban cho chúng con ơn sủng cần thiết để chấp nhận các lời Thầy theo giá trị bề mặt.” Chúa Giêsu không muốn nói điều đó theo nghĩa biểu tượng.

Khi bắt đầu nghiên cứu điều này, tôi bắt đầu nhận thấy rằng đó là điều thuyết phục người Prebyter tin rằng tái sinh có nghĩa được thanh tẩy, nhưng làm thế nào tôi có thể thuyết phục họ rằng, chúng ta phải thực sự ăn thịt Người và uống máu Người được? Sau đó tôi để ý hơn về bữa tiệc ly và sự hiệp thông. Tôi thấy rằng Đức Giêsu không bao giờ dùng chữ “giao ước” trong khi cuộc đời rao giảng. Người cẩn thận để dành chữ ấy cho đến khi thiết lập Thánh Thể và Người nói, “Chén này là máu của giao ước mới.” Nếu giao ước có nghĩa là gia đình thì điều gì biến chúng ta thành một gia đình? Chia sẻ thịt và máu. Do đó nếu Đức Kitô hình thành một giao ước mới, đó là một gia đình mới, thì Người sẽ cung cấp gì cho chúng ta? Thịt mới và máu mới. Tôi bắt đầu thấy lý do tại sao Giáo Hội tiên khởi hoặc trong vòng 700 năm đầu, không ai tranh luận về ý nghĩa của những lời Chúa Giêsu nói. Tất cả các giáo phụ tiên khởi chấp nhận lời của Chúa Giêsu theo giá trị bề mặt và các ngài tin tưởng cũng như dạy rằng Đức Kitô thực sự hiện diện t
rong Thánh Thể. Tôi thực sự lo sợ; tôi không biết phải quay về với ai.

Rồi một tối kia, bỗng dưng một tình tiết xảy ra ở chủng viện mà tôi không kịp chuẩn bị. Một sinh viên cựu Công Giáo tên là John giơ tay hỏi. Anh ta mới trình bầy xong chủ đề về Công Đồng Trentô. Nếu quý vị nhớ, Công Đồng Trentô (còn gọi là Triđentinô) là một phản ứng chính thức của Giáo Hội Công Giáo đối với Martin Luther và phong trào Cải Cách.

Trong khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ, anh trình bầy Công Đồng Trentô theo một quan niệm thuận lợi. Anh đưa ra những lý luận thực sự dựa trên Kinh Thánh. Sau đó anh đảo ngược tình thế đối với tôi. Các sinh viên được hỏi anh ta một vài câu. Anh nói, “Thưa giáo sư Hahn, tôi có thể hỏi giáo sư một câu không? Giáo sư biết Luther thực sự đưa ra hai khẩu hiệu, không những câu sola fide (chỉ có đức tin), mà còn câu thứ hai ông ta dùng để nổi lên chống với Rôma là sola Scriptura, chỉ có Kinh Thánh. Câu hỏi của tôi là, “Chỗ nào trong Kinh Thánh dạy điều đó?”

Tôi nhìn anh bối rối. Tôi có thể cảm thấy mồ hôi đang nhỏ trên trán. Tôi thường kiêu hãnh khi hỏi các giáo sư những câu hỏi khó khăn nhất, nhưng chưa bao giờ tôi được nghe câu này cả. Và tôi nghe mình nói những lời mà trước đây chưa bao giờ tôi nói như thế; tôi trả lời, “Này anh John, thật là một câu hỏi ngớ ngẩn.” Anh ta không nản chí rút lui. Anh nhìn tôi và nói, “Hãy cho tôi một câu trả lời ngớ ngẩn.” Tôi nói, “Được, để tôi xem.” Tôi bắt đầu vung vít, “2 Timôtê 3:16 là mấu chốt: ‘Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính, nhờ vậy, người của Thiên Chúa được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành…'” Anh nói, “Khoan đã, điều đó chỉ nói là Kinh Thánh được linh hứng và có lợi; nó không nói là CHỈ có Sách Thánh được linh hứng hay tốt hơn nữa, chỉ Sách Thánh thì có lợi cho những điều đó. Chúng ta cần những điều khác nữa như sự cầu nguyện,” và rồi anh nói, “Còn 2 Thessalônica 2:15 thì sao?” Tôi hỏi, “Cái gì nữa đây?” Anh nói, “Trong đó, Phaolô nói với dân thành Thessalônica rằng họ phải kiên vững, họ phải bám lấy các truyền thống mà Phaolô đã dạy họ qua thư văn hay truyền khẩu.” Tôi sững sờ, không chuẩn bị. Tôi đánh trống lảng, “Thôi, chúng ta đi sang các câu hỏi khác; tuần sau tôi sẽ trả lời câu ấy.”

Tôi không nghĩ là các sinh viên biết tôi hoang mang như thế nào. Khi lái xe về nhà tối hôm ấy, tôi nhìn lên trời hỏi Chúa, tại sao chưa bao giờ con nghe câu hỏi đó? Tại sao chưa bao giờ con tìm thấy câu trả lời? Hôm sau, tôi bắt đầu gọi điện thoại cho các thần học gia trên khắp thế giới, họ là các giáo sư cũ của tôi. Tôi hỏi, “Chỗ nào trong Kinh Thánh dạy về sola Scriptura? Chỗ nào dạy rằng Kinh Thánh là thẩm quyền duy nhất của chúng ta?” Có một ông trả lời, “Thật là một câu hỏi ngớ ngẩn.” Tôi nói, “Vậy ông hãy cho tôi một câu trả lời ngớ ngẩn đi.”Tôi tiếp tục theo đuổi. Một giáo sư mà tôi rất kính trọng, là thần học gia của Oxford , nói với tôi, “Anh Scott này, anh đừng mong tìm thấy minh chứng về sola Scriptura trong Kinh Thánh, vì đó không phải là điều Kinh Thánh bày tỏ. Đó là sự thừa nhận của chúng ta; đó là sự phỏng đoán của chúng ta khi tiếp cận với Kinh Thánh.” Câu nói đó khiến tôi thấy kỳ cục; tôi hỏi, “Nhưng thưa giáo sư, điều đó có vẻ kỳ quặc vì chúng ta thường nói rằng chúng ta chỉ tin những gì Kinh Thánh dạy, nhưng chính Kinh Thánh lại không dạy rằng chúng ta chỉ phải tin những gì Kinh Thánh nói. Sự thừa nhận của chúng ta không được dạy trong Kinh Thánh. Điều đó giống như chúng ta đang cắt đứt cái cành mà chúng ta đang ngồi trên đó”. Sau đó ông ấy nói, “Nhưng chúng ta còn chọn lựa nào khác?” Thật là một câu trả lời.

Một người bạn tôi, là thần học gia, gọi tôi và nói, “Scott, tôi nghe rằng anh đang lưu ý đến đức tin Công Giáo, điều đó có thật không?” “Ồ, không, tôi không thực sự lưu ý đến đức tin Công Giáo.” Sau đó tôi quyết định đặt câu hỏi với anh ta. Tôi nói, “Anh Art ơi, đối với anh đâu là trụ cột và nền tảng chân lý?” Và anh nói, “Đối với tất cả chúng ta, Kinh Thánh là trụ cột và nền tảng chân lý.” Tôi đáp, “Nếu vậy tại sao Kinh Thánh trong thư 1 Timôtê 3:15 lại dạy rằng trụ cột và nền tảng chân lý là giáo hội, gia đình đức tin?” Một sự im lặng và anh nói, “Tôi nghĩ là anh đang gài tôi với câu hỏi đó.” Và tôi trả lời, “Tôi nghĩ là tôi đang bị kẹt với rất nhiều vấn đề.” Anh nói, “Cho tôi biết giáo hội nào, hả Scott? Có quá nhiều hội thánh mà.” Tôi nói, “Này Art, có bao nhiêu hội thánh thực sự thi hành công việc là trụ cột và nền tảng của chân lý? Tôi muốn nói, là một hội thánh dám nói rằng ‘Chúng tôi là trụ cột và nền tảng của chân lý; hãy nhìn đến chúng tôi và các bạn sẽ được nghe Đức Kitô nói và giảng dạy’? Có bao n
hiêu ứng viên cho công việc đó? Tôi biết chỉ có một. Tôi biết chỉ có Giáo Hội Công Giáo dạy rằng họ được thành lập bởi Đức Kitô; họ đã có khoảng 2,000 năm và đang rêu rao điều khủng khiếp tương tự như trong 1 Timôtê 3:15″.

Cho đến lúc ấy, tôi không rõ phải làm gì. Tuy nhiên, một ngày kia tôi nhận được điện thoại từ ban giám đốc chủng viện nơi tôi dạy. Ông Steve rủ tôi đi ăn trưa. Tôi không rõ lý do. Tôi nghĩ, “Chắc tiếng đồn đã đến tai ông giám đốc rằng mình đang dạy những điều mà có lẽ của Công Giáo.” Khi gặp ông, tôi lo sợ và thiếu tự tin. Ông cho biết ban giám đốc đã đồng ý quyết định, vì các lớp tôi dạy quá xuất sắc, vì nhiều người ghi tên theo học, nên họ hỏi tôi có muốn làm giám đốc chủng viện ở tuổi 26 hay không. Tôi không thể tin được. Ông nói, “Chúng tôi sẽ để anh dạy những môn anh thích. Anh có thể thuê thêm nhân viên nếu cần. Chúng tôi sẽ trả tiền cho anh theo đuổi chương trình tiến sĩ về thần học.” Tôi nói, “Có chương trình tiến sĩ thần học nào gần đây không?” Ông nói, “Đại Học Công Giáo.” Tôi nghĩ, ồ không được. Tôi không muốn học trường đó; hiện giờ tôi đang muốn trốn tránh cái viễn ảnh đó. Thực sự thì tôi không nói với ông như vậy. Ông kết luận, “Vậy anh thử cầu nguyện về điều đó xem sao?” Tôi nói, “Tôi sẽ cầu ng
uyện, nhưng tôi nghĩ tôi đã biết câu trả lời. Và thật kỳ cục, tôi nghĩ là tôi sẽ từ chối và không thể giải thích được lý do tại sao, bởi vì chính tôi cũng không rõ.”

Khi về đến nhà, Kimberly đang đợi tôi. Cô nói, “Ông ấy muốn gì?” Tôi trả lời, “Ông ấy yêu cầu anh làm giám đốc.” “Anh đừng có đùa.” Tôi trả lời, “Không. Anh không đùa” “Anh trả lời sao?” Tôi nói, “Không.” “Anh nói gì?” Tôi nói, “Anh không nhận.” “Tại sao anh lại nói vậy?” Tôi nói, “Em ơi, ngay bây giờ anh còn chưa rõ những điều anh dạy. Ngay bây giờ anh không rõ Kinh Thánh dạy gì, và anh biết là một ngày nào đó anh sẽ đứng trước mặt Đức Giêsu Kitô để chịu phán xét, và điều đó không dễ để anh nói với Chúa rằng, ‘Chúa ơi, con chỉ dạy những gì con được học hỏi.’ Ngài sẽ cho anh thấy những gì là chân lý trong Kinh Thánh và anh phải trung thành với điều mà Chúa đã chỉ cho anh.” Cô ta bước đến bên tôi, quàng tay ôm tôi và siết chặt. Rồi cô ấy nói, “Anh ơi, đó là điều em yêu anh, đó là lý do tại sao em lấy anh, nhưng, chúng ta phải cầu nguyện thêm.” Cô ấy biết điều đó có nghĩa gì: Nó có nghĩa không chỉ từ chối lời đề nghị, nhưng còn có nghĩa từ bỏ công việc tốt đẹp làm mục sư  của một nhà thờ đang phát triển. Tôi th
ích cả hai công việc ấy.

PHỤ TÁ QUẢN TRỊ CHO HIỆU TRƯỞNG

Chúng tôi không biết phải làm gì. Trong tháng Bảy chúng tôi không còn biết đến những gì xảy ra chung quanh. Sau khi cầu nguyện nhiều, chúng tôi quyết định phải trở về thành phố với mái trường xưa nơi chúng tôi lần đầu gặp gỡ. Khi về đó, tôi xin việc ở nhiều nơi, nhưng trường này thuê tôi làm phụ tá quản trị cho ông hiệu trưởng. Trong hai năm tôi làm việc ở đây, đó là thời gian lý tưởng vì tôi làm việc ban ngày và ban tối được tự do theo đuổi công việc nghiên cứu.

Trong vòng hai năm, tôi đọc qua hàng trăm cuốn sách, và lần đầu tiên bắt đầu nghiên cứu các thần học gia Công Giáo cũng như các học giả Kinh Thánh. Và tôi sửng sốt trước các quan điểm thật sâu sắc của họ, và hơn thế nữa, các quan điểm ấy phù hợp với những điều tự tôi khám phá. Tôi không thể tin được rằng các khám phá lạ thường, mới mẻ mà tôi vất vả có được thì họ lại cho là đương nhiên như vậy, và điều đó làm tôi áy náy.

Có những lúc tôi bước ra khỏi thư phòng và đọc cho Kimberly nghe rồi nói, “Em nghe đoạn này và đoán thử tác giả.” Vì cô ta cũng là một thần học gia trong một ý nghĩa nào đó, và cô quá bận rộn với việc chăm sóc con cái nên không có nhiều thời giờ. Nhưng cô cũng ngồi xuống lắng nghe và tôi hỏi, “Em nghĩ đó là ai?” Cô trả lời, “Chà! Hay quá. Nghe như một trong những bài giảng của anh ở Virginia . Em muốn nghe lại hết sức.” Tôi nói, “Đó là văn kiện Gaudium et Spes của công đồng Vatican II. Đó là Giáo Hội Công Giáo.” Cô gay gắt, “Em không muốn nghe điều đó.” Tôi nói, “Em thấy đó, đoạn văn nói về phụng vụ này thật tuyệt vời. Anh không rõ, nhưng anh nghĩ có lẽ Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên người Anh Giáo.” Đó mới nửa đường về nhà. Cô ta nhìn tôi, nước mắt lưng tròng và nói, “Người Anh Giáo! Em là một người Presbyter, cha của em là mục sư Presbyter, chú của em là một mục sư Prebyter, chồng em từng là một mục sư Presbyter, anh trai của em muốn trở thành mục sư, và chính em cũng muốn trở thành mục sư. Em không mu
ốn là một người Anh Giáo.” Vào lúc đó, cô cảm thấy bị bỏ rơi, bị phản bội.

Tôi nhớ đến điều đó vì một vài tháng sau, sau khi đọc thêm nhiều, một tối kia tôi đến nói với vợ, “Kimberly, anh chưa chắc chắn, nhưng anh bắt đầu nghĩ rằng có lẽ Thiên Chúa kêu gọi anh để trở thành một người Công Giáo La Mã.” Trông cô ta càng tuyệt vọng hơn. Cô nói, “Có thể nào chúng ta trở nên người Anh Giáo không? Giáo phái nào cũng được ngoại trừ Công Giáo.” Quý vị Công Giáo từ nhỏ không thể nào hiểu được điều này. Quý vị không thể biết được sự sợ hãi như thế nào khi nghĩ đến phải bơi qua sông Tiber , khi phải thần phục Đức Giáo Hoàng. Cô ta ngày càng tuyệt vọng. Cô bắt đầu cầu xin để có ai đó cứu vớt chồng cô-có thể là giáo sư, thần học gia hay bạn hữu nào đó.

HÀNH TRÌNH ĐẾN VỚI ĐẠO CÔNG GIÁO

Sau cùng thì điều đó xảy đến. Một ngày kia tôi nhận được điện thoại từ Gerry, người bạn thân từ khi ở chủng viện. Một môn sinh Phi Beta Kappa về văn học Hy La và Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp. Anh là sinh viên duy nhất ở chủng viện cùng với tôi chủ trương rằng, theo sự tin tưởng xa xưa của Tin Lành, Đức Giáo Hoàng từng là người phản-Kitô. Chúng tôi từng sát cánh nhau chống đối mọi sự tương nhượng thấy được trong các nhánh Tin Lành anh em. Tôi đọc cho anh ấy nghe một đoạn từ cuốn sách của Cha Bouyer. Anh nói, “Chà, thật phong phú và sâu xa. Ai viết đó?” Tôi nói, “Louis Bouyer.” “Bouyer? Tôi chưa bao giờ nghe cả, ông ấy là gì?” Tôi hỏi, “Anh muốn nói gì?” “Có phải là một người Methodist không?” Tôi nói, “Không.” “Một người Baptist?” “Không.” “Vậy là người Lutheran sao? Hắn là gì?” Tôi nói, “Ông ấy là một người Công….” “Xin lỗi, tôi nghe không rõ.” Tôi nói, “Ông ấy là Công Giáo La…” “Khoan đã, hình như điện thoại nghe không rõ. Tôi nghe anh nói ông ấy là Công Giáo.” Tôi nói, “Gerry này, tôi nói ông ấy là Công Giáo và thực sự là Công Giáo, và tôi từng đọc rất nhiều sách của người Công Giáo.”

Bất thình lình như dòng thác Niagara tuôn trào, tôi nói một hơi, “Tôi từng đọc Danielou, và Ratzinger, và de Lubac, và Garrigou-Lagrange và Congar, và tất cả đều thật phong phú; anh cũng phải nghiên cứu họ.” Gerry nói, “Từ từ. Này Scott, có lẽ linh hồn anh đang bị nguy hiểm.” Tôi nói, “Gerry, tôi có thể gửi cho anh tên của những cuốn đó không?” Anh nói, “Dĩ nhiên, tôi sẽ đọc, sẽ làm bất cứ gì để cứu anh khỏi cái cạm bẫy này. Và tôi sẽ cho anh tên những cuốn khác.” Anh kể ra khoảng mười cuốn sách chống đối Công Giáo. Tôi nói, “Gerry, tôi từng đọc các cuốn này rồi, tối thiểu một hai lần.” Anh nói, “Vậy hãy gửi cho tôi tên các cuốn sách ấy,” và tôi đã gửi cho anh.

Khoảng một tháng sau, chúng tôi sắp xếp để nói chuyện lâu trên điện thoại. Kimberly thì càng phấn khởi hơn; ít ra một hiệp sĩ Phi Beta Kappa trong áo giáp sáng loáng đã đến để giải cứu chồng cô khỏi nanh vuốt của đạo Công Giáo. Do đó cô ta hồi hộp chờ đợi khi cuộc nói chuyện chấm dứt, và tôi cho cô biết là Gerry thật khích động vì anh ta đang đọc tất cả những thứ đó và bắt đầu nghiêm trọng để ý đến lời của tôi. Cô nói, “Ô hay quá, em biết là anh ấy sẽ giúp mình mà.”

Điều đó tiếp diễn trong ba bốn tháng. Chúng tôi nói chuyện điện thoại “long distance” hai ba tiếng, có khi đến bốn tiếng đồng hồ để thảo luận về thần học và Kinh Thánh cho đến ba bốn giờ sáng. Kimberly thật vui mừng và cám ơn Gerry vì anh ấy đã quá lo lắng cho tôi.

Một đêm kia, tôi bước vào phòng ngủ khoảng hai ba giờ sáng; cô ta vẫn thức. Đèn đã tắt, nhưng cô ấy ngồi trên giường và hỏi, “Sao thế nào?” Tôi nói, “Tốt lắm.” “Nói cho em nghe đi.” Tôi nói, “Gerry thì hầu như say sưa và khích động về những chân lý trong Kinh Thánh mà Giáo Hội Công Giáo đề ra.” “CÁI GÌ!” Tôi không thể thấy rõ khuôn mặt của cô ấy, nhưng tôi cảm được nó xệ xuống khi cô chùn người xuống tấm nệm, úp mặt vào gối và nức nở. Tôi cũng không thể choàng tay lên người vợ tôi; cô ta thực sự bị tổn thương và bị bỏ rơi.

Một ít sau Gerry lại gọi tôi và nói, “Nghe đây, tôi hơi lo sợ. Các bạn tôi cũng vậy. Chúng ta đừng coi thường điều này. Tôi đã nói chuyện với Tiến Sĩ John Gerstner, đây là một người Presbyter có bằng cấp ở Harvard, một thần học gia chuyên bài bác Công Giáo. Ông ta sẽ gặp chúng mình nếu muốn.” Chúng tôi sắp xếp để Gerry, Tiến Sĩ Gerstner và tôi gặp nhau trong sáu tiếng đồng hồ, cùng nhau đi qua Cựu Ước bằng tiếng cổ Do Thái, Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp, và các tài liệu và công đồng trong lịch sử Giáo Hội. Sau sáu giờ đồng hồ, Gerry và tôi hy vọng sẽ thoát khỏi vũng nước nhờ bậc kỳ tài này. Thay vào đó, điều mà chúng tôi khám phá ra là Giáo Hội Công Giáo hầu như không cần đến một sự tự vệ nào cả. Giống như một con sư tử; chỉ cần đưa ra khỏi chuồng là đủ. Chúng tôi đưa ra các giảng dạy của Giáo Hội và các văn bản trong Kinh Thánh, và chúng tôi cảm thấy là ông ấy không thể trả lời cho bất cứ câu hỏi nào. Sau cùng, chúng tôi hầu như kinh ngạc tự hỏi, “Điều này có nghĩa gì?” Không ai trong chúng tôi biết được. Các mô
n sinh bài bác Công Giáo tích cực nhất đang tự hỏi không biết Thiên Chúa có phải là một người Công Giáo hay không-chúng tôi thật kinh sợ.

Trong khi đó tôi gửi đơn xin việc đến Đại Học Marquette vì tôi nghe họ có một vài thần học gia nổi tiếng có nền tảng trên giao ước đang nghiên cứu về Giáo Hội và thực hiện được nhiều điều tốt đẹp. Ngay trước khi tôi được trả lời là họ chấp nhận và được học bổng, tôi đến thăm một vài linh mục trong vùng. Tôi lo sợ. Tôi thi hành điều đó vào ban đêm để không ai thấy. Tôi cảm thấy mình dơ bẩn và ô uế khi bước vào nhà xứ. Tôi ngồi xuống và sau cùng nêu lên vài câu hỏi, mỗi linh mục đều nói với tôi. “Hãy nói về điều gì đó ngoài vấn đề thần học.” Không một linh mục nào muốn thảo luận về các thắc mắc của tôi. Một trong các linh mục thực sự nói rằng, “Ông nghĩ đến vấn đề trở lại đạo sao? Đừng, đừng làm vậy. Kể từ công đồng Vatican II chúng tôi không khuyến khích điều đó. Điều tốt nhất ông có thể thi hành cho Giáo Hội là hãy trở nên một mục sư tốt lành.” Tôi nói, “Thưa Cha,…” “Đừng, hãy gọi tôi là Mike.” Tôi trả lời, “OK, Mike. Tôi không xin ông bẻ tay tôi và buộc tôi vào đạo. Tôi nghĩ là Chúa gọi tôi.” Ông ấy nói, “
Nếu bạn muốn sự giúp đỡ của tôi thì bạn đã đến lầm người.”

Sau khoảng bốn năm lần gặp gỡ như vậy, tôi thật hoang mang. Tôi chia sẻ điều này với vợ tôi. Cô ấy nói, “Anh phải đến một trường Công Giáo để theo học toàn thời gian, là nơi anh có thể nghe từ nguồn tin đáng tin cậy, là nơi anh biết chắc là Giáo Hội Công Giáo mà anh tin thì vẫn còn hiện hữu.” Cô ta nói đúng. Do đó sau khi cầu nguyện nhiều và chuẩn bị, chúng tôi di chuyển sang Milwaukee là nơi tôi hoàn tất chương trình tiến sĩ trong hai năm.

Hai năm đó là những năm học hỏi dồi dào nhất chưa từng có và cũng là quãng thời gian phong phú nhất để cầu nguyện. Dù rằng tôi thấy mình ở giữa các chủng sinh mà ở đó tôi thực sự là một người Tin Lành duy nhất bảo vệ các giáo huấn của Giáo Hội chống với những tấn công của chính người Công Giáo. Thật kỳ lạ, Tỉ như, sự giảng dạy của Đức Gioan Phaolô thì thật phù hợp Kinh Thánh và đầy tính cách giao ước. Tôi giải thích điều này cho họ. Nhưng không nhiều thần học gia có thể lĩnh hội một cách đầy đủ. Tôi thực sự vui thích với quãng thời gian ấy. Nhưng đồng thời có vài điều đã xảy ra, thực sự có hai điều.

Thứ nhất, tôi bắt đầu lần chuỗi. Tôi thực sự lo sợ khi thi hành điều này. Tôi xin Chúa đừng bực mình khi tôi thử. Tôi bắt đầu đọc kinh, và khi đọc tôi cảm thấy trong tâm hồn điều mà tôi biết trong tâm trí: tôi là con cái của Thiên Chúa. Tôi không chỉ có Thiên Chúa là Cha và Đức Kitô là người anh; tôi còn có Mẹ của Người cho chính tôi.

Một người bạn nghe biết điều tôi đang suy nghĩ về Giáo Hội Công Giáo gọi điện thoại cho tôi và nói: “Anh có thờ Đức Maria như những người Công Giáo không?” Tôi nói, “Họ không thờ Đức Maria; họ vinh danh Đức Maria.” “Vậy có gì khác biệt?” Tôi nói, “Để tôi giải thích. Khi Đức Kitô chấp nhận lời mời gọi của Chúa Cha để làm xuống thế người, Người chấp trách nhiệm vâng phục luật lệ, được tóm lược trong Mười Điều Răn. Có một điều răn nói rằng, ‘Phải tôn kính cha mẹ.'” Tôi nói thêm, “Trong tiếng cổ Do Thái, chữ ‘kaboda’ (tôn kính), có nghĩa vinh danh, dành bất cứ vinh dự và sự tôn kính nào của mình cho cha mẹ. Đức Kitô đã chu toàn lề luật ấy một cách tuyệt hảo hơn bất cứ ai khác bằng cách dành vinh dự của Người cho Cha trên trời và dành vinh dự của một vị chúa để vinh danh Mẹ Người. Tất cả những gì chúng tôi thi hành khi lần chuỗi là bắt chước Đức Kitô là Người đã vinh danh Mẹ Người với chính sự vinh hiển của Người. Chúng tôi vinh danh Đức Maria với sự vinh hiển của Đức Kitô.”

Điều thứ hai xảy ra khi tôi âm thầm lẻn vào nhà nguyện dưới tầng hầm ở Marquette, Gesu. Ở đó có 
Thánh Lễ ban trưa và chưa bao giờ tôi dự lễ. Tôi ngồi ở ghế sau cùng. Tôi không quỳ. Tôi không bái gối, tôi cũng không đứng. Tôi là một quan sát viên, tôi đến đó để theo dõi. Nhưng tôi thật ngạc nhiên khi thấy 40, 50, 60, 80 hay 100 người đến tham dự Thánh Lễ buổi trưa, họ là những người bình thường đến nhà nguyện, bái gối, qùy cầu nguyện. Sau đó có tiếng chuông và tất cả đứng dậy. Thánh Lễ bắt đầu. Trước đây tôi chưa bao giờ thấy.

Phụng Vụ Lời Chúa thật dồi dào, không chỉ có các bài đọc. Tôi nghĩ trong Thánh Lễ ngày thường họ đọc Kinh Thánh dài hơn ngày Chúa Nhật. Nhưng lời kinh của họ thấm đẫm ngôn ngữ Kinh Thánh và các trích dẫn từ Isaia và Egiêkien. Tôi ngồi đó tự nhủ, “Đó là Giêkaria; đó là Êgiêkien. Chà! Như thể KinhThánh đi vào đời sống và nhảy múa ngay trên cung thánh và nói, ‘Đây là chỗ của tôi.'”

Sau đó phần Phụng Vụ Thánh Thể bắt đầu. Tôi nhìn xem và lắng nghe khi linh mục đọc lời thánh hiến và nâng bánh thánh lên cao. Vào lúc đó, tôi phải thú nhận là giọt hồ nghi sau cùng không còn nữa. Tôi nhìn đến Mình Thánh và nói, “Lạy Chúa và Thiên Chúa của con.” Khi dân chúng tiến lên rước lễ, tôi thực sự đầm đìa nước mắt, “Chúa ơi, con muốn có Chúa. Con muốn hiệp thông trọn vẹn với Chúa. Chúa đã đến tâm hồn con. Chúa là Cứu Chúa và là Chúa của con, nhưng giờ đây con nghĩ Chúa muốn đến với lưỡi con và bao tử của con, đi vào thân thể con cũng như linh hồn con cho đến khi sự hiệp thông chấm dứt.”

Sau Thánh Lễ, dân chúng ở lại đôi phút để cảm tạ sau đó họ ra về. Và hiển nhiên, tôi bước ra ngoài tự hỏi, tôi đã làm điều gì vậy? Nhưng ngày hôm sau, tôi trở lại, và ngày sau nữa, sau nữa. Tôi không thể nói với một linh hồn nào. Tôi không thể nói với vợ tôi. Nhưng trong một hoặc hai tuần lễ tôi bị thu hút. Tôi hoàn toàn trong cuộc tình với Đức Kitô và sự Hiện Diện Thực Sự của Người trong Thánh Thể. Điều đó trở thành nguồn gốc và cao điểm cũng như tuyệt đỉnh của mỗi ngày, và tôi vẫn không thể nói điều đó với bất cứ ai.

Rồi một ngày kia Gerry gọi tôi. Chính anh đã đọc hàng trăm cuốn sách. Anh gọi tôi để thông báo, “Vợ tôi và tôi quyết định sẽ trở thành người Công Giáo vào Phục Sinh này (1986)” Tôi lớn tiếng, “Ê Gerry. Lẽ ra anh phải ngăn chặn tôi trở lại đạo Công Giáo; bây giờ anh lại đi trước tôi sao? Chơi vậy thì không đẹp.” Anh nói, “Nghe đây Scott, tôi không biết anh còn có những thắc mắc nào hay chống đối nào, nhưng tất cả các câu hỏi của chúng ta đều được trả lời.” Tôi trả lời, “Tôi cũng vậy.” Anh nói, “Thấy chưa, tôi đâu có tò mò.”

Sau khi gác máy điện thoại, tự nhiên tôi chợt nảy ra ý nghĩ rằng sự trì trệ việc vâng phục đối với tôi cũng giống như bất tuân phục. Thiên Chúa đã nói rõ trong Kinh Thánh về Đức Maria, về Đức Giáo Hoàng, ngay cả về Luyện Ngục từ thư 1 Corintô 3:15 và tiếp đó, về các thánh như người trong gia đình của Thiên Chúa, như anh chị em trong Đức Kitô. Tôi giải thích cho các bạn tôi nghe về ý nghĩa chính của Gia Đình Thiên Chúa mà đó là điều có ý nghĩa nhất trong đức tin Công Giáo. Đức Maria là mẹ của chúng ta, Đức Giáo Hoàng là người cha tinh thần, các thánh như anh chị, Thánh Lễ là một bữa tiệc gia đình, các ngày lễ giống như ngày kỷ niệm sinh nhật hay thành hôn. Chúng ta là gia đình của Chúa. Tôi không phải là một đứa mồ côi; tôi có mái nhà. Tôi chưa về đến nhà. Tôi bắt đầu xin Chúa, “Chúa muốn con làm gì? Gerry thì đang chuẩn bị gia nhập. Chúa muốn con làm gì?” Và Thiên Chúa lại xoay sang hỏi tôi, “Con muốn làm gì?” Tôi nói, “Con muốn về nhà. Con muốn rước Chúa trong Thánh Thể.” Và tôi cảm thấy như Chúa nói với tôi
, “Thầy đâu có cản con.” Do đó tôi suy nghĩ, tốt hơn mình nên nói chuyện này với vợ.

Bởi đó tôi đi xuống nhà và nói, “Kimberly, em không thể đoán được điều mà vợ chồng Gerry đang sửa soạn thi hành”. “Điều gì?” Lúc bấy giờ cô không còn hy vọng gì nữa. “Họ sẽ trở nên người Công Giáo vào Phục Sinh này (1986).” Cô nhìn tôi và thở dài-cô ấy biết tôi rất rõ và vẫn yêu tôi-cô nói, “Rồi sao? Điều đó có gì khác biệt đâu? Anh đã từng hứa là anh không gia nhập Công Giáo cho đến năm 1990 là sớm nhất.” Tôi trả lời, “Phải, em đã nhắc anh điều đó; đúng vậy, anh đã hứa như vậy. Nhưng anh có thể được miễn cho điều đó nếu em cảm…” “Không, không, đừng…” “Em sẽ cầu nguyện cho anh điều đó chứ?” “Anh đừng dùng vấn đề cầu nguyện để tránh lời hứa.” Tôi nói, “Nhưng Kimberly này, em không muốn nghe điều ấy, em không muốn đọc về điều ấy, em không muốn thảo luận về điều ấy. Nhưng đối với anh, việc trì trệ vâng phục một điều mà Thiên Chúa đã cho biết quá rõ thì cũng giống như bất tuân phục.” Tôi biết Kimberly yêu tôi nhiều nên không bao giờ để tôi hay áp lực tôi phải không vâng lời Thiên Chúa. Cô ấy nói, “Em sẽ cầu n
guyện về điều đó, nhưng em bảo cho anh biết, em cảm thấy bị phản bội. Em cảm thấy bị bỏ rơi. Chưa bao giờ trong đời em cảm thấy cô đơn như vậy. Tất cả các ước mơ của em đều tiêu tan vì vấn đề này.” Nhưng cô ấy đã cầu nguyện và Thiên Chúa chúc lành cho cô. Kimberly trở lại và nói, “Đây là điều đau lòng nhất trong đời, trong hôn nhân của chúng ta, nhưng em nghĩ đó là điều Thiên Chúa muốn em thi hành.”

Vào lễ đêm Phục Sinh 1986, cô thực sự theo tôi đến tham dự Thánh Lễ là nơi tôi được lãnh nhận các bí tích tháp nhập: rửa tội với điều kiện, xưng tội lần đầu, thêm sức và rước lễ. Khi trở về chỗ ngồi, hình như vợ tôi khóc, tôi choàng tay qua người cô và chúng tôi bắt đầu cầu nguyện. Chúa nói với tôi, “Thầy đâu có bắt con trở thành một người Công Giáo mà quên đi tình yêu của con dành cho Kimberly, vì Thầy yêu cô ấy nhiều hơn con. Thầy yêu cầu con trở nên người Công Giáo vì tình yêu của con. Vì con không có sức mạnh để yêu thương cô ấy nhiều như Thầy muốn con yêu vợ con, Thầy sẽ ban cho con những gì còn thiếu sót trong Thánh Thể.” Tôi nghĩ, “Chúa ơi, xin Chúa làm ơn giải thích điều đó cho vợ con đi.” Và tôi cảm thấy một sự bình an từ từ đến khi Chúa nói, “Đến lúc ấy, Thầy sẽ nói; con lui đi chỗ khác. Con không phải là Thần Khí; con không thể thay đổi tâm hồn vợ con.” Trong những ngày tháng kế đó, cô ta vẫn không thay đổi. Thật khó khăn.

Sau cùng tôi nhận dạy học trong vài năm ở một trường thuộc Joliet. Ngay trước khi dọn nhà, một điều mà Thiên Chúa đã để xảy ra. Chúng tôi có đứa con thứ ba, Hannah. Khi Hannah được thụ thai, tôi thật lo sợ. Có nhiều lý do để lo sợ nhưng chưa bao giờ tôi lo như thế vào sáng Chúa Nhật nọ, khi Kimberly mang thai khoảng bốn tháng. Chúng tôi đứng trong nhà thờ thuộc hội thánh của cô và hát câu cuối cùng, và cô quay sang tôi. Mặt cô trắng nhợt và nói, “Em không khoẻ, em đang bị ra máu.” Cô ngồi xuống rồi nằm dài trên băng ghế trong khi mọi người bắt đầu rời cung thánh. Tôi hoảng hốt. Tôi không biết phải làm gì; cô trắng nhợt như một thây ma. Tôi chạy đến điện thoại công cộng gọi cho bác sĩ sản khoa. Tôi hỏi, “Ông ấy ở đâu?” “Chúng tôi không biết bác sĩ đi đâu. Vào cuối tuần, ông ấy thường đi xa.” “Có cách nào bà báo cho ông ấy được không?” “Chúng tôi sẽ báo cho bác sĩ và nếu ông ấy còn ở đây ông ấy sẽ gọi cho ông.” Tôi thực sự hoảng hốt. Tôi bắt đầu cầu xin Thánh Gerard, cầu xin bất cứ ai. Tôi cũng xin Đức Giêsu Ki
tô giúp chúng tôi. Mười hay mười lăm giây đồng hồ sau, có tiếng điện thoại reo. Tôi nhắc máy, “Ông Scott đó hả?” “Phải.” “Đây là bác sĩ.” Tôi hỏi, “Ông đang ở đâu vậy?” Ông ấy hỏi lại, “Ông đang ở đâu?” Tôi nói, “Tôi đang ở ngoại ô thành phố trong một thị xã đặc biệt.” “Ở đâu?” “Ở trong nhà thờ này.” “Chỗ nào trong nhà thờ nào?” “Tôi ở ngay bên ngoài cung thánh gần máy điện thoại công cộng.” Ông trả lời, “Thật không thể tin được. Tôi vừa mới đến thăm nhà thờ đó sáng nay. Tôi đang ở dưới tầng hầm. Tôi sẽ lên đó ngay.” Ông bước lên cầu thang chỉ sau bốn năm giây đồng hồ. Ông hỏi, “Bà ấy đâu?” Tôi nói, “Kia, nằm ở đằng kia.” Ông chạy lại và bắt đầu nghe ngóng. Chúng tôi đưa Kimberly ra xe và chạy vội đến nhà thương Thánh Giuse. Kimberly được thoát chết cũng như tính mạng của em bé, và nhờ đó Hannad được chào đời.

Tôi cảm thấy rằng Chúa quá gần gũi với chúng tôi và với hôn nhân của chúng tôi mà dường như đang đổ vỡ. Tôi cầu nguyện, “Chúng con phải làm gì với đứa nhỏ này?” Ngay sau khi sinh Hannah, Kimberly đến với tôi và nói, “Em không biết rõ lý do, nhưng Thiên Chúa khiến em nghĩ rằng Hannah sẽ là một đứa con của sự hòa giải. Em không rõ điều đó có nghĩa gì.” Chúng tôi ôm nhau và cầu nguyện cho điều đó.

Sau khi Hannah chào đời, Kimberly đến với tôi. Cô nói, “Em không rõ lý do, nhưng em nghĩ  Thiên Chúa muốn em để Hannah rửa tội trong Giáo Hội Công Giáo.” Tôi nói, “Cái gì!” Cô ấy nói, “Em không rõ nhưng thật là như vậy.” Chúng tôi cùng tham dự nghi thức rửa tội. Đức Ông Bruskewitz, vị linh mục đã đưa tôi vào Công Giáo, thật là một người của Chúa. Giờ đây ngài là Đức Giám Mục ở Lincoln và ngài cử hành nghi thức quá tốt đẹp, tràn ngập truyền thống và Kinh Thánh, đến nỗi vào giữa nghi thức khi ngài đọc, “Allêluia, allêluia,” theo như kinh phụng vụ, Kimberly hầu như nhẩy nhổm lên và nói, “Allêluia! Ồ tôi xin lỗi.” Ngài trả lời, “Không sao, tôi cũng mong người Công Giáo làm như vậy; điều đó hay chứ.”

Một kết quả của việc cử hành nghi thức rửa tội là Kimberly sao chụp lại nghi thức và gửi cho gia đình, bạn hữu của cô. Nhưng cô ấy vẫn chưa sẵn sàng bước vào những tranh luận. Cô bắt đầu đọc và cầu nguyện. Càng ngày tôi càng cố gắng không can thiệp vào hành trình tâm linh của cô ta

CHUYẾN THĂM VATICAN Ở RÔMA

Tôi muốn đề cập đến một điều. Cha tôi trừ trần vào tháng Mười Hai vừa qua (1990), ông là người dạy tôi âu yếm gọi Thiên Chúa là “Cha.” Vào tháng Giêng, ông bố vợ mời tôi cùng với ông và nhóm của ông đến Vatican để được gặp riêng Đức Gioan Phaolô II,  nhóm này đang hoạt động chống với làn sóng đồi trụy khiêu dâm đang xâm nhập vào Đông Âu. Bố vợ tôi, một mục sư Presbyter, mời tôi gặp Đức Giáo Hoàng? Tôi nhận lời. Do đó tháng Giêng vừa qua, tôi không chỉ gặp Đức Giáo Hoàng trong một nhóm nhỏ, mà tôi còn được mời để tham dự Thánh Lễ của ngài trong nguyện đường riêng. Tôi chỉ cách ngài có vài bước và cảm được sự cầu nguyện của ngài. Bạn có thể nghe được lời cầu nguyện của ngài với đầu gục xuống trong đôi bàn tay, mang vác gánh nặng của Giáo Hội với tất cả tâm hồn.

Khi ngài công bố mầu nhiệm đức tin, tôi tự nhủ một quyết tâm, thực sự là hai: hàng ngày đi sâu vào Thánh Lễ hơn nữa và cầu cho Đức Giáo Hoàng trong công việc của ngài. Nhưng quyết tâm thứ hai là chia sẻ với anh chị em trong Đức Kitô về Đức Thánh Cha, và về phương cách mà Đức Kitô đã ban ơn cho chúng ta với một gia đình tuyệt vời, với Đức Trinh Nữ Maria sẽ trở nên Mẹ tinh thần chúng ta, với Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là người cha tinh thần dẫn dắt tất cả chúng ta đến sự thờ phượng Cha trên trời, với các thánh là anh chị chúng ta, để nhận biết chúng ta là gia đình của Thiên Chúa, nhưng trên hết mọi sự, qua Thánh Thể nhận biết chúng ta đang quy tụ chung quanh bàn tiệc như người nhà của Thiên Chúa, con cái của Người. Thật là một đặc ân chúng ta đang có; thật là một ơn phước mà Người đã trao ban!

PT TRẦN VĂN NHẬT chuyển dịch

Nguồn: www.nguoitinhuu.com)


“Vào thời cuối, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện các vị đại thánh trỗi vượt hơn các thánh trước kia” . “Các thánh này sẽ là những tướng tinh nhuệ  đương đầu chiến đấu với quân địch khắp nơi. Khí giới của các Ngài sẽ là lòng tôn sùng Mẹ Maria… các Ngài sẽ có thể “một tay tiêu diệt đối phương một tay kiến thiết thành trì” (Thánh Louis de Montfort, “Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria” Số 48.)

“Mọi xác phàm đều như cỏ dại,
vinh quang của nó như hoa cỏ ngoài đồng,
cỏ dại cháy khô, hoa thì tàn,
còn Lời Chúa tồn tại muôn đời.”

Anh chị Thụ & Mai gởi

“VIẾT CHUNG” CHO ĐỜI !

 “VIẾT CHUNG” CHO ĐỜI !

Có thể nói, dẫu rằng âm thầm nhỏ bé nhưng khi biết được chàng bác sĩ mang cái tên thân thương Nguyễn Viết Chung ai ai đều cảm nhận đó là một cuộc đời hay đúng hơn là một ơn gọi đặc biệt. Sau một thời gian tìm hiểu, tu học, Nguyễn Viết Chung được “thay tên đổi dạ”.

Khi lên 18 tuổi, nhân đọc một bài báo nói về cái chết của Ðức Cha Jean Cassaigne tại trại phong Di-Linh, cậu Chung cảm thấy cuộc sống đó quá tốt đẹp và vô tình Ðức Cha Jean Cassaigne đã trở thành thần tượng của cậu. Khi nhắc lại đoạn đời đó, cha Chung cho biết là ngài được rao giảng Tin Mừng bằng đời sống, chứ không phải bằng lời nói. Từ đó cậu Chung có ý nguyện học làm bác sĩ để phục vụ bệnh nhân phong như Ðức Cha Jean Cassaigne.

Linh mục Augustinô Nguyễn Viết Chung nguyên là một bác sĩ Phật giáo, chuyên môn về Da Liễu. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình Phật giáo và chính bản thân Cha là một Phật Tử. Thế nhưng rồi, niềm tin vào Đức Kitô mãnh liệt đã lôi cuốn cuộc đời của chàng để rồi chàng trở thành linh mục của Chúa vào ngày lễ truyền tin 25.3.2003. Ngày hồng phúc này, Giáo hội trao tác vụ Linh mục cho thầy Augustinô Nguyễn Viết Chung qua lễ đặt tay của Giám mục Giuse Vũ Duy Thống tại nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài gòn.

Và rồi, sau ngày lãnh sứ vụ linh mục, Cha Augustino đã dấn thân vào công cuộc truyền giáo bằng cả tấm lòng của mình. Những nơi nghèo, những nơi cưu mang những mảnh đời bất hạnh không nơi nương tựa đều thấy thấp thoáng hình ảnh của Cha.

Bản thân tôi, may mắn được biết đến Cha và gặp Cha trong thời gian Cha phục vụ anh chị em ở Mai Hòa. Với tất cả tấm lòng, tuần nào cũng thế, Cha đều hiện diện với anh chị em bệnh nhân và cùng với các nữ tử Bác Ái Vinh Sơn để chăm lo sức khỏe thể xác lẫn tinh thần và nhất là ban Bí Tích cho anh chị em bệnh nhân. Nếu không cẩn thận, rất dễ nhận ra người ơn của Mai Hòa là bệnh nhân ở trong đó bởi đơn giản một hình ảnh gầy guộc nhỏ luôn ở cạnh bên bệnh nhân.

Một thời gian dài phục vụ ở Mai Hòa, vâng lời Bề Trên, Cha Augustino đã lên miền ngược để sống với anh chị em dân tộc thiểu số. Máu truyền giáo cũng như bản chất yêu thương người nghèo sẵn có trong Cha để rồi Cha không chỉ hội nhập nhưng Cha đồng thân đồng phận với những mảnh đời nghèo. Giản đơn rằng trong người của Cha Chung giờ đây đã quá nặng mùi chiên.

Điều mà những người thân quen dễ nhận ra nhất nơi Cha đó là Cha không chỉ nặng mà nhiễm cả mùi chiên, máu chiên vào trong người của Cha rồi. Được biết cách đây 4 năm, căn bệnh phổi trong người của Cha trở chứng làm cho Cha ngày thêm mệt mỏi, như người khác, Cha có thể về Nhà Mẹ để nghỉ ngơi an dưỡng hay có thể đến cộng đoàn nào đó để nghỉ ngơi. Nhưng không, tấm lòng miệt mài say mê truyền giáo và sống chết với người dân tộc không làm Cha thay đổi chí khí và ý chí. Vẫn cứ ngày ngày dong duỗi bụi trần của vùng đất nghèo Kontum mà ở.

Lần gặp sau cùng giữa tôi với Cha là bữa cơm trưa đạm bạc. Sức khỏe yếu nên Cha đã dùng bữa trưa chỉ với nửa tô hủ tiếu xoàng. Anh và vị ân nhân hết sức đặc biệt và lặng thầm cùng chung chia với Cha tô hủ tiếu như chung chia tấm lòng với người mục tử thân thương. Chia tay Cha rồi nhưng hình bóng gầy guộc nhỏ của Cha vẫn còn đâu đó. Giản đơn rằng đàng sau tấm thân gầy guộc nhỏ đó lại ẩn chứa một tấm lòng bao dung và bao la của người mục tử nhân lành.

Người ta vẫn thường nói với nhau cái tên gắn liền với thân phận. Và, có lẽ điều này rất đúng và quá đúng với con người mang tên Viết Chung.

Viết Chung nghĩa là viết cả cuộc đời mình và không chỉ viết riêng mà viết chung cho những mảnh đời bất hạnh bằng nét đẹp của tình yêu Giêsu, của trái tim mục tử nhân lành nơi Cha.

Giờ này, Cha đã ra đi rồi, ắt hẳn Cha không cần những lời ca tụng vì những lời ca tụng chẳng thêm gì cho Cha. Nếu như muốn vinh vang và ca tụng chắc có lẽ Cha đã tiếp tục đi theo con đường bác sĩ để dễ kiếm tiền và dư kiếm tiền như bao người khác chứ không đi theo con đường theo Chúa đầy vất vả và chông gai và nhất là đời linh mục của Cha lại còn nghèo mãi.

Bản thân tôi cũng chẳng ca tụng Cha, đơn giản giờ này không phải là giờ ca tụng nhưng giờ này là giờ lắng đọng nhất ta cùng nhìn lại những ơn lành kỳ diệu mà Thiên Chúa đã thực hiện trên đời Cha. Giờ này, cùng với Cha, ta tạ ơn Chúa vì biết bao nhiêu hồng ân mà Thiên Chúa đã thêu dệt trên đời Cha để Cha Viết Chung cái tình yêu mang tên Giêsu đến cho những người Cha gặp gỡ.

Xin Cha thương cầu nguyện để khi chúng con nhớ đến Cha là nhớ đến hình ảnh của vị mục tử nặng mùi chiên để rồi chúng con cũng nhiệt tình lên đường tiếp bước con đường truyền giáo mà Cha đã đi. Xin cho đời con trở thành cây viết để viết nên những nét đẹp, viết nên tình yêu Giêsu cho những ai chúng con gặp gỡ.

2 tháng 10 ngày, vị mục tử nhân lành đã đặt tay ban Thánh Chức Linh Mục đã về nhà Cha. Và hôm nay, 70 ngày sau, người thụ nhân lãnh sứ vụ cũng đã đi theo vị truyền chức cho mình.

Ra đi là đau đớn, ra đi là mất mát, ra đi là thương tiếc nhưng trong niềm tin, giờ đây Cha Augustino và Đức Cố Giám mục Giuse Thông Vi Vu đã có một chỗ trong Nhà của Thiên Chúa. Cha và Đức Cha đi trước và rồi một ngày nào đó chúng con cũng theo sau. Điều mà chúng con cần và tha thiết nài xin đó là khi Cha Augustino và Đức Cố Giuse Thông Vi Vu ở gần Nhan Thánh Chúa, xin nhớ đến con kẻ có tội và cầu nguyện cho con để mai ngày chúng con cũng được hưởng tôn nhan Chúa cùng Đức Cha Giuse và Cha Augustino.

Xin Cha thương cầu nguyện cho chúng con.

Tác giả:  Người Giồng Trôm

Từ đảng viên Cộng sản đến Linh mục

 Từ đảng viên Cộng sản đến Linh mục

Theo cơ quan Tín Vụ Á Châu thì ơn gọi linh mục và tu sĩ ở Trung Cộng đang tăng tiến, bất chấp việc tuyền truyền chủ nghĩa cộng sản vô thần và tình hình mất tự do tôn giáo. Một cuộc nghiên cứu được thực hiện bởi Viện Các Khoa Xã Hội Học ở Bắc Kinh cho thấy trên 60% sinh viên ở Bắc Kinh và Thượng Hải tỏ ra thiên về Kitô giáo. Ở vào một thời điểm Đảng Cộng Sản ở Trung Hoa đang trải qua cơn khủng hoảng về căn tính của nó thì chỉ còn một ít người tin tưởng vào những lý tưởng của Mao Trạch Đông mà thôi, chứ nhiều người thuộc đảng này đang âm thầm tỏ ra chú trọng tới tôn giáo và đức tin Kitô giáo.

Sau đây là một câu truyện có thật về một đảng viên cộng sản năng nổ, một sinh viên thuộc miền bắc xứ sở này, đã trở thành một vị linh mục Công giáo (vì mục đích an ninh nên các địa danh và tên tuổi xin được giữ kín). (Nhân dịp Thủ Tướng Phan Văn Khải của nhà nước Việt Nam vừa chấm dứt chuyến viếng thăm Hoa Kỳ tuần thứ bốn của Tháng Sáu 2005 vừa rồi theo lời mời của Tổng Thống Bush, câu truyện đây được phổ biến vào lúc này thật là thích hợp, để cho thấy rằng hạnh phúc đích thực của con người nói riêng và của xã hội loài người nói chung không phải chỉ nguyên bởi bánh : kinh tế và chính trị mà chính là bởi niềm tin, bởi Đấng Tối Cao, bởi Đấng làm chủ lịch sử loài người, Đấng được ĐTC GPII gọi là “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần”).

Tên tôi là Bao Yuanjin và là một linh mục ở miền bắc Trung Hoa. Tôi làm linh mục mấy năm trước đây. Tôi được rửa tội 11 năm trước. Trước đó, tôi là một người vô thần, và thực sự là một tay năng nổ của Đảng Cộng Sản Trung Hoa. Ở đại học, tôi đã lãnh đạo các thành viên Cộng Sản trẻ thuộc phân khoa của tôi. Lòng tôi có nhiều dự án và tư tưởng cho tương lai, thế nhưng không có một sự nào trong những thứ ấy liên quan tới Thiên Chúa hết, bởi vì, đối với tôi, Ngài thậm chí không hiện hữu. Gia đình tôi chỉ có bà của tôi theo Tin Lành mà thôi. Khi tôi còn là một đứa nhỏ, tôi đã có lần nghe bà nói về Giêsu: Bà nói rằng Giêsu là con Thiên Chúa. Thế nhưng tôi chẳng có chú ý gì tới tôn giáo. Vấn đề giáo dục theo vô thần là những gì bắt buộc ở Trung Hoa, từ tiểu học lên đến đại học. Tâm trí của tôi đầy những lý thuyết về vô thần và tôi nghĩ rằng vấn đề tin tưởng vào Thiên Chúa là một cái gì đó trẻ con, thậm chí là một cái gì đó hơi ngu ngốc nữa.

Vào năm thứ tư đại học của mình, tôi đã gia nhập đảng Cộng Sản. Dân chúng ở Trung Hoa ghi danh nhập đảng này theo niềm xác tín chẳng có bao nhiêu, hầu hết để “làm bạn” hầu một ngày kia có thể giúp họ tìm việc làm hay giúp họ khi họ gặp rắc rối. Đời sống của tôi trong tổ Cộng Sản chẳng tốt cũng không xấu. Nhóm sinh viên chúng tôi tỏ ra tử tế với mọi người, chăm chỉ chuyên cần và khéo léo tổ chức tất cả mọi loại sinh hoạt.

Thế nhưng, tôi đã bị dội lại bởi sự kiện là, ở Đảng Cộng Sản này, tất cả những vấn đề ấy, cho dù là tốt đẹp đi nữa, vẫn thực hiện không phải cho người khác mà là cho chính mình mà thôi, cho việc thăng tiến nghề nghiệp của mình mà thôi. Rồi vấn đề dối trá nữa: đặc tính chính yếu của chúng tôi là dối trá, ở chỗ, hết mọi người đều nói dối và hết mọi người đều biết đến những thứ dối trá ấy, song tất cả chúng tôi vẫn cứ dối trá như nhau. Chẳng hạn, ở hết mọi cuộc họp tổ đều có giây phút để thú nhận và tự kiểm (được gọi chính xác là “phê bình kẻ khác và phê bình bản thân”). Thực ra chẳng có vấn đề tự kiểm gì cả và cũng chẳng có ai thực sự là phê bình kẻ khác nữa.

Có một loại trao đổi chính thức đã được ấn định, một thứ trao đổi thậm chí có thể trở thành hình thức tâng bốc xua nịnh. Chẳng hạn, người ta có thể nói với người trưởng tổ rằng: ‘Thưa tổ trưởng, tôi cần phải phê bình một điều tổ trưởng không làm đúng. Tổ trưởng đã làm quá nhiều cho chúng tôi. Đúng thế, làm việc là điều quan trọng, nhưng sức khỏe của tổ trưởng cũng quan trọng nữa. Tổ trưởng cần phải để ý đến sức khỏe để còn làm việc hơn nữa cho cộng đồng”. Vào những lúc như thế, từ lòng tôi vang lên tiếng nói: “Thật là điêu ngoa, đúng là dối trá!”. Thế nhưng, tôi cũng phải làm như vậy thôi.

Sau đó ít lâu tôi bị bệnh. Tôi thường có những cơn ác mộng làm tôi thức giấc. Vào một đêm kia, tôi đã mơ thấy rằng tôi tìm thấy được một cái hộp; tôi đã mở ra và thấy một cuốn sách trong đó. Đó là một cuốn Thánh Kinh, sáng rực. Tôi tỉnh dậy và nhớ lại rằng bà của tôi là người duy nhất đã nói với tôi về Thánh Kinh. Tôi nhớ lời bà nói rằng Giêsu là đấng toàn năng. Bởi thế tôi nghĩ rằng nếu Giêsu là đấng toàn năng thì ngài có thể chữa tôi lành. Và vì vậy tôi đã tìm đến một nhà thờ trong vùng và thấy một ngôi nhà thờ Tin Lành. Tuy nhiên, một đảng viên cộng sản bị cấm không được tin tưởng vào bất cứ một tôn giáo nào. Nên tôi đã kín đáo đi gặp những người Tin Lành. Vừa ra trường, nhờ Đảng đỡ đầu, tôi mau chóng tìm được một việc làm ngon lành ở một thành phố lớn. Trước khi nhận nhiệm vụ, hãng đó đã cho tôi lấy 1 tháng về thăm gia đình của tôi thuộc một miền khác. Vào cuối tháng nghỉ hè này, có một người bạn – sau này tôi mới khám phá ra là Công giáo – đã trao cho tôi 10 cuốn băng nhựa ghi những bài giảng của một vị linh mục Trung Hoa. Sau khi nghe những cuộc băng nhựa ấy, một trận chiến đã bắt đầu giằng co trong tâm khảm của tôi: tôi nghĩ rằng có lẽ Thiên Chúa thực sự hiện hữu; có lẽ Công giáo thực sự là một đạo đích thật…Thế nhưng, đồng thời tôi nhớ đến tất cả mọi lý thuyết về vô thần đã được học hỏi ở học đường và đại học. Tôi bị khống chế bởi một cơn buồn thảm đồng thời sợ rằng nếu tôi chấp nhận đức tin Công giáo tôi sẽ liều mình mất việc làm của tôi. Tôi không biết phải làm sao. Đó là ngày tôi phải trở về thành phố để thi hành công việc của mình. Tôi đã mua vé xe buýt rồi.

Lần đầu tiên trong đời tôi hướng về Đức Bà và nói cùng người rằng: “Hỡi Thánh Maria, nếu bà thực sự hiện hữu, nếu đức tin Công giáo là những gì chân thực, nếu bà muốn tôi trở thành người Công giáo, thì xin ban cho tôi một dấu hiệu, đó là, ngày mai, trong chuyến đi của tôi, hãy để cho một cái gì đó quan trọng xẩy ra, một tai nạn chẳng hạn, mà tôi còn sống sót, thì tôi sẽ tin”. Giờ đây, tôi nghĩ rằng tôi đã rất ư là điên khùng khi thách đố Thiên Chúa, đã thử ngài kiểu đó. Thế nhưng, vào lúc bấy giờ thì đó là lời cầu nguyện duy nhất nẩy lên trong tâm trí tôi mà thôi.

Ngày hôm sau, một tai nạn thực sự đã xẩy ra, ở chỗ, bánh xe ở đằng trước phía bên phải của chiếc xe buýt nổ tung khi chúng tôi đang đi xuống dốc với tốc độ nhanh. Chiếc xe buýt đâm vào lề và lật ngược bốn bánh lên trời. Tất cả chúng tôi đều sống sót, thế nhưng chúng tôi đã phải gắng gõi hết sức để chui ra khỏi chiếc xe bẹp dúm qua những cửa sổ của nó. Tôi kinh hoàng trước tai nạn này, nhưng tôi không chú ý lắm tới dấu hiệu đó. Sau vài tiếng đồng hồ chờ đợi, hãng xe buýt cho một chiếc xe khác tới và chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình của mình. Tuy nhiên, tai nạn ấy đã làm cho chúng tôi mất thời gian tính. Khi chúng tôi tới được trạm xe buýt – chuyến đi của tôi vẫn phải tiếp tục bằng xe lửa – thì đã quá trễ và vé xe lửa đã bán hết sạch. Người ta sắp hàng dài trước quay bán vé, và mọi người nói với chúng tôi rằng chỉ còn có những vé cho chuyến xe lửa trong vòng 3 ngày nữa thôi.

Tôi cảm thấy mất tinh thần và chán nản, vì tôi quá trễ việc làm đầu tiên của mình và vào ngày đầu tiên làm việc của mình. Tôi nghĩ đến việc cầu nguyện cùng Đức Bà một lần nữa rằng: “Xin giúp tôi mua được vé xe lửa. Nếu bà giúp tôi lần này nữa, tôi thề sẽ theo bà!” Trong khi chờ đợi ở một hàng dài, tôi đã mất hết hy vọng. Đùng một cái, một người đàn ông xuất hiện hô to lên rằng: “Đây là vé cho thành phố … Vé cho ngày hôm nay. Ai muốn mua tấm vé này?” Đó là điểm đến của tôi. Tôi liên mua ngay lập tức. Người này nói rằng ông ta vừa lấy được vé ấy cho một người bạn vừa gọi cho ông ta nói rằng họ không thể đến đúng giờ. Người bạn ấy xin ông ta hãy trả vé lại, thế nhưng, vì chuyến xe lửa sẽ rời trong vòng 40 phút nên quá trễ để được hoàn tiền lại do đó mà ông ta đã hỏi quanh quanh xem để cố gắng bán tấm vé đó cho người nào đó. Đó là một dấu hiệu nhỏ, nhưng là dấu hiệu ban đầu – bước đầu tiên cho cuộc trở lại của tôi.

Sau khi nhận việc, tôi đã tìm đến một Nhà Thờ Công Giáo để dự Lễ, song bao giờ cũng âm thầm kín đáo. Dần dần, tôi hiểu thêm về đức tin Công giáo, để rồi cuối cùng tôi đã xin rửa tội. Khi tìm được đức tin Công Giáo, tôi đã tìm thấy một cộng đoàn dân chúng đơn thành và tốt lành, nơi không có gì là gian dối. Tôi đã tìm được một số bạn bè thực sự. Tôi đã được giải thoát, ở chỗ, tôi không còn cần phải dối trá nữa. Dân chúng thực sự kiểm điểm họ và thậm chí nhận định về vị linh mục nữa. Tôi bắt đầu thấy được ánh sáng và hiểu rằng tôi đã thấy được ý nghĩa của cuộc sống. Tuy nhiên, để rửa tội, tôi cần phải thắng vượt một trở ngại lớn, đó là việc tôi làm thành viên của Đảng Cộng Sản.

Một đảng viên Cộng Sản là một người vô thần; một Kitô hữu là người tin vào Thiên Chúa: không thể nào vừa là người Công giáo vừa là đảng viên Cộng Sản. Ngay cả vị linh mục dạy đạo cho tôi cũng nói rằng tôi cần phải rời bỏ Đảng Cộng Sản. Thế nhưng, tôi không đủ can đảm để làm điều này, bởi vì, tôi sợ rằng việc rời bỏ Đảng tôi sẽ phải chấp nhận những hậu quả khủng khiếp, ở chỗ có thể bị mất việc làm hay thậm chí có thể bị bách hại nữa. Đảng Cộng Sản ở Trung Hoa kiểm soát tất cả mọi sự, bởi thế, để dứt tình với nó có nghĩa là một cách nào đó làm mất đi tất cả mọi niềm hy vọng được sống một cuộc đời yên hàn; có nghĩa là cảm thấy như mình trở thành một kẻ xa lạ. Trong Đảng Cộng Sản Trung Hoa có một qui luật là mỗi đảng viên đóng góp một số tiền hằng tháng nào đó cho Đảng. Nếu một người không đóng góp trong vòng 6 tháng liền thì bị trừng phạt và đôi khi còn bị đuổi ra khỏi Đảng nữa. Vì tôi không đủ can đảm để công khai rời bỏ Đảng nên tôi đã nghĩ đến cách ra khỏi đảng bằng cách ấy, bởi thế tôi đã không đóng góp gì trong vòng 6 tháng. Thế nhưng lại chẳng có gì xẩy ra cả, vì không hề cho tôi biết, người tổ trưởng, vì thấy tôi không đóng đã đóng cho tôi! Tôi không biết tại sao anh ta lại làm thế. Anh ta là một loại người bình thường, không tốt cũng chẳng xấu. Có lẽ anh ta nghĩ rằng tôi đã quên và ứng trước để tôi trả lại cho anh ta sau chăng; có lẽ anh ta không muốn các viên chức cấp trên của anh ta thấy rằng có những “kẻ chểnh mảng” ở tổ của anh ta, khiến anh ta bị phê bình khiển trách hay chăng. Cuối cùng, tôi chỉ còn một chọn lựa duy nhất đó là đi theo đường lối chính thức, và tôi đã viết một bức thư để xin bỏ Đảng. Tuy nhiên, tôi đã không đủ can đảm để nộp bức thư này. Tôi đã quyết định nhiều lần trình bức thư ấy, để rồi cuối cùng tôi đã không thực hiện nổi. Có lần tôi đã vận dụng tất cả lòng can đảm của mình để đi thẳng tới viên chức Đảng mà trao bức thư của mình cho người này. Ông ta không nói được một lời nào, vì đó là lần đầu tiên ông ta thấy có một người dám từ chối ở lại trong CCP (Đảng Cộng Sản Trung Hoa). Ông ta hoàn toàn không thể nào hiểu nổi.

Cuối cùng tôi đã được lãnh nhận phép rửa. Và với bí tích này, tôi đã bắt đầu hoan hưởng được niềm an bình sâu xa. Sau đó ít lâu, tôi đã gặp một người bạn cũ trong tổ của mình. Chúng tôi đã là bạn với nhau ngay cả trước khi gia nhập Đảng nữa. Anh ta nghe rằng tôi đã rời Đảng và trở thành một Kitô hữu. Anh ta bảo tôi rằng tôi rất can đảm và thêm rằng anh ta sẽ không bao giờ có thể can đảm như thế.

Sau khi trở thành một người Công Giáo, tôi đã tiếp tục tham dự Thánh Lễ mỗi Chúa Nhật, thế nhưng với một cộng đồng hầm trú không được chính quyền nhìn nhận. Có lần một nữ tu nói với tôi rằng: Tại sao em không theo Chúa Giêsu trọn vẹn hơn để làm linh mục? Tôi đáp ngay là “không”. Không có ai tin tưởng ở trong gia đình tôi cả và việc trở thành linh mục là việc khó khăn. Là người con trai đầu lòng, theo truyền thống Trung Hoa, tôi buộc phải nâng đỡ cha mẹ tôi khi các vị về già. Việc tôi vào chủng viện, thì kẻ thù đầu tiên của tôi sẽ là cha mẹ tôi.

Sáu tháng sau, khi đang cầu nguyện trong phòng, tôi nghe thấy tiếng gọi: “Hãy theo Ta”. Bấy giờ không có ai trong phòng cả. Tận đáy lòng tôi hiểu rằng chính Chúa Giêsu đã gọi tôi, thế nhưng tôi quá ư là run sợ, bởi vì, việc trở thành linh mục – thuộc Giáo Hội hầm trú – nghĩa là từ bỏ tất cả mọi sự, từ bỏ gia đình, việc làm, lao mình vào nguy hiểm, ôm lấy Thập Giá, chịu khổ ải, bị tù đầy. Tôi đã đáp lại là không. Thế nhưng, vì việc từ chối này mà tôi không còn được bình an nữa, khi tôi trở thành một kẻ khắc khoải khôn nguôi và mất đi tất cả mọi niềm vui. Tôi không muốn theo Chúa Giêsu vì tôi có một công ăn việc làm tốt, một đời sống bình lặng. Thế nhưng, tôi đã không thể nào chống cưỡng được tiếng Chúa gọi. Thế là tôi đã cầu xin cho được một việc làm khác ở một thành phố xa xôi. Có thế, tôi mới có thể bỏ việc làm của tôi một cách âm thầm kín đáo hơn, và mới có thể nhập chủng viện. Tôi đã làm việc ở thành phố ấy gần 2 năm trời, để kiếm được nhiều bao nhiêu có thể, dành dụm mọi sự để giành tiền cho cha mẹ tôi, rồi cuối cùng theo tiếng gọi của Chúa Giêsu. Tôi biết rằng tôi yếu đuối nên tôi đã nguyện cầu rằng: “Lạy Chúa Giêsu, nếu Chúa muốn, Chúa có thể làm con trung thành sống đời môn đệ của Chúa đến muôn đời. Điều này sẽ là một phép lạ rất cả thể”.

Tôi đã sống 5 năm ở chủng viện thuộc Giáo Hội hầm trú. Đời sống rất ư là khó khăn và nguy hiểm. Thức dậy vào lúc 5 giờ sáng. Sau buổi suy niệm nửa tiếng, chúng tôi cử hành Thánh Lễ và nguyện kinh thần vụ. Sau điểm tâm, chúng tôi thu dọn và bắt đầu học. Chúng tôi lên giường nghỉ vào lúc 10 giờ đêm. Đời sống ở chủng viện chui là một đời sống khá khó khăn, ở chỗ, chúng tôi sống ở một ngôi nhà miền quê của một tín hữu giành cho chúng tôi.Thế nhưng, khi chúng tôi nghe tin cảnh sát khám phá ra chúng tôi thì chúng tôi buộc phải thoát thân và định cư ở một nơi khác. Trong năm năm, chúng tôi đã đổi chỗ tất cả là 3 lần. Chủng sinh chúng tôi chẳng những phải lo thu dọn mà còn phải nấu nướng, dọn bữa cho mọi người nữa. Về vấn đề vật chất, cuộc sống thật là khó khăn: lương thực thì ít, rau cũng ít, hiếm khi có thịt ăn; phòng ở chật chội, không có chỗ nào là dư thừa cả. Thế nhưng, lòng tôi lại cảm thấy bằng an, thậm chí hết sức vui vẻ, khác với những gì tôi cảm thấy trước đó. Chủng sinh với nhau rất thân thiện và sống tình huynh đệ với nhau. Một khi mọi người lúc nào cũng tỏ ra yêu thương nhau thì việc thắng vượt khó khăn thật là dễ dàng.

Sau 5 năm học hỏi, ngày chịu chức linh mục đã tới. Bấy giờ tình hình căng thẳng xẩy ra trong giáo phận của tôi, và chúng tôi liều mình bị cảnh sát tống giam. Bởi thế chúng tôi đã cử hành lễ truyền chức vào lúc 4 giờ sáng. Lúc ấy mọi người ở Trung Hoa đang ngủ, kể cả cảnh sát nữa. Cho dù đời sống là người Công Giáo có khó khăn, đức tin của chúng tôi thực sự kiên cường. Điều này cũng là nhờ gương sáng của các vị linh mục trong ngục tù. Một thí dụ nhỏ, đó là, ở tỉnh của tôi, vào năm 1983, khi Trung Hoa bắt đầu thực hiện những cải cách cả thể về kinh tế, chỉ có 3 gia đình Công giáo. Giờ đây, sau gần 20 năm, con số đã lên tới trên 4 ngàn. Thật sự là máu tử đạo trở nên hạt giống mọc lên các Kitô hữu mới. Đối với cả tôi nữa, sức mạnh của tôi chính là Chúa Giêsu. Người đã nói rằng “Không phải các con đã chọn Thày, song Thày đã chọn các con” (Jn 15:16). Dọc theo con đường này, tôi gặp Thập Giá, nhưng cũng gặp cả niềm vui và an bình nữa. Với ơn Người trợ giúp, tôi mãi mãi theo Người, thắng vượt bất cứ những gì là khó khăn xẩy ra cho tôi. 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 26/6/2005

Anh chị Thụ & Mai gởi

CHÚA GIÚP CHÚNG TÔI CẮT CƠN NGHIỆN NHƯ THẾ NÀO ?

CHÚA GIÚP CHÚNG TÔI CẮT CƠN NGHIỆN NHƯ THẾ NÀO ?

Phan Sinh Trần

Kinh nghiệm được Chúa chữa lành bênh nghiện ngập ở mỗi người, trong mỗi hoàn cảnh đều khác nhau, có khi rất dễ dàng, có khi đòi hỏi nỗ lực vượt qua các khó khăn, chìm nổi qua nhiều cơn thử thách, cám dỗ. Mời bạn cùng tham khảo các trường hợp được Chúa chữa nhờ lòng tin vào uy lực vô song của Chúa qua các nhân chứng vốn trước đây từng nhiện ngập và bị trói buộc trong các thói quen sử dụng rượu, ma túy, thuốc là hay bị nghiện sex.

CẮT CƠN NGHIỆN RƯỢU

Lời chứng của Bà Gertrud Thiessen từ Đức Quốc.

Tôi là một người thuộc loại thích rượu chè dàn đúm, Thoạt đầu tôi chỉ “làm” một chai cho vui bạn vui bè, sau đó tiếp tục lần hai, lần kế và rồi tôi uống hết đợt này đến đợt khác cho đến tối khuya, tới khi tôi say khướt. Ngày hôm sau tôi cảm thấy mệt mỏi kinh khủng, tôi phải ngủ vùi và không thể làm việc. Sau một ngày dài nghỉ ngơi, tôi cảm thấy khỏe khoắn vào ngày hôm sau, tinh thần phấn chấn,vào chiều tối, tôi muốn tìm cảm giác lạ qua các buổi tụ tập, thế là mọi sự lại tái diễn một lần nứa. Điều này cứ thế tiếp diễn vào các ngày thử hai hoăc thứ ba của mỗi chu kỳ. Tôi thực lòng muốn từ bỏ rượu, nhưng mà tôi không thể làm được.

Vào tháng Ba, tôi đi tham dự kỳ tĩnh tâm do Cha Gia Cô Bê Manjackal hướng dẫn ở Menden. Được đánh động, tôi đã xưng tội lần đầu kể từ bốn mươi năm qua, xưng thú hết mọi tội lỗi trong đời, lạ lùng thay Chúa không chỉ tha tội mà còn giải thoát tôi khỏi sự trói buộc của rượu chè. Tôi tự dưng, được tự do khỏi bị ám ảnh, lôi kéo của rượu vào quyền lực tai hại của nó. Từ ngày dứt rượu cho đến nay là hai năm rưỡi rồi, tôi không cảm thấy bứt rứt, thèm muốn khi nhìn thấy rượu, ngay cả khi mọi người chung quanh tôi đều uống cả. Tôi cảm thấy sự thể thật là tuyệt diệu. Tôi cảm ơn và ca ngợi Cứu Chúa. A lê lu ia.

Lời chứng của anh Jaroslaw Kolowrocki từ thành phố Torun, Ba Lan.

Tôi bị bệnh trầm cảm lâm sàng, tôi sử dụng đủ loại thuốc trị trầm cảm, tôi cũng uống nhiều thuốc trị liệu về rối loạn tâm lý, tuy nhiên chúng không có ích lợi gì mà có khi còn làm cho tôi bị nặng hơn. Tôi nốc quá nhiều rượu, tôi đã từng tự nhủ “không có rượu thì đời còn gì đáng sống !”.

Vào tháng 9, năm 2008, tôi đi tham dự tĩnh tâm tại Torun Ba Lan, qua sự cầu nguyện của Cha Manjackal, Chúa đến thăm tôi trong quyền lực của Thần Khí, Chúa đến và chữa lành cho tôi khỏi bệnh. Ngài lấy đi các buồn sầu, tuyệt vọng của tôi, ngài xóa hết các vết thương tích, Ngài ghé lại gần tôi vả lắng nghe tôi than thở, Ngài ban cho tôi một đời sống mới, đổ tràn vào đời tôi tình yêu không thể nào thấu suốt hết được của Ngài, cho tôi niềm vui được làm con Chúa.

Sau khóa tĩnh tâm, tôi đi tham khảo với Bác sĩ tâm lý trị liệu và bỏ hết các thứ thuốc đang dùng vì chả còn các thôi thúc, dằn vặt của cơn thèm rượu, chúng tan biến đi đâu hết cả rồi. Cuối kỳ tĩnh tâm tôi được mời sinh hoạt trong Nhóm Canh Tân Đặc Sủng nơi tôi có thể lớn lên trong Đức Tin và phục vụ cho các nhu cầu của người khác. Xin một lần nữa cảm tạ và ngợi khen Chúa.

CẮT CƠN GHIỀN MA TÚY

 Anh Giuse Liêm, Sydney, Australia, được chữa khỏi tình trạng ghiền ma túy 10-2013

Anh Giuse Liêm là 1 người nghiện ma túy từ rất nhiều năm và có những suy nghĩ hoàn toàn tuyệt vọng. Và sau một thời gian anh đã phải  vào tù vì những tội lỗi của mình gây ra. Anh cảm thấy vô vọng, anh nghĩ cuộc đời mình đã kết thúc tại đây trong trại giam. …

Đến một ngày anh được mãn hạn tù, gia đình đã hướng dẫn anh đến với buổi tĩnh tâm Thánh Linh. Ngay ngày hôm đó, anh Liêm đã được Chúa chạm đến và biến đổi anh. Anh đã rơi nước mắt vào ngay lúc đó, anh đã khóc và khóc rất nhiều.Vì niềm tin và vì cảm nhận được tình yêu của Chúa, anh đã đáp trả tình yêu của mình với Chúa bằng cách anh đã đứng dậy cùng với Chúa chiến đấu với sự dữ mà từ bỏ ma túy …và anh quyết  làm lại cuộc đời mới. Đến nay anh đã từ bỏ ma túy được 3 năm 4 tháng, anh đi khắp nơi làm chứng về tình yêu và quyền năng của Chúa.

Nghe trực tiếp:    https://youtu.be/4puq-lqczEE

           Lời chứng của chị Helena Olívia B. Dragão Santos, tại Fatima ngày 6-12-2009

 …Tôi và chồng tôi đều nghiện ma túy. Tôi sử dụng ma túy, sống trên vỉa hè đường phố, hành nghề mãi dâm và ăn xin. Tôi ngủ nghỉ ở vỉa hè, sau khi che chắn thân thể bằng mấy cái thùng các tông, gối đầu bằng bao ny lông đựng đầy rác bên trong mà tôi đã lấy ra từ các thùng rác. Tôi dùng đồ ăn thừa vất đi từ các thùng rác hoặc đồ ăn được người ta đưa cho. Tôi bị nhiễm HIV và viêm gan siêu vi C. Đời tôi cứ như thế kéo lê cho đến khi tôi được vào trung tâm cải hóa, tuy nhiên hết trung tâm này lại đến trung tâm khác, họ không bao giờ có thể trị dứt bệnh nghiện ma túy cho tôi. Ở trung tâm “Maior Reencentro” tôi gặp người mà sau này là chồng tôi, anh cũng bị HIV và bênh viêm gan C, chúng tôi yêu nhau và quyết định dời khỏi trung tâm.

Tôi về sống ở nhà cha mẹ của anh, anh là con một trong nhà, gia đình chồng là người có đạo Công Giáo, thực là khó có thể chấp nhận cho tôi làm con dâu, nhưng họ đã làm điều này. Mẹ chồng của tôi đi tham dự thánh lễ và lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày, tôi và chồng cũng làm theo như vậy, tham dự lễ Misa và lần hạt ngày ngày.

Qua việc chuyên cần cầu nguyện, Chúa chữa lành cho chúng tôi được khỏi nhiều thứ bệnh, bệnh ghiền ma túy, ghiền hút thuốc lá, bịnh trầm cảm. Tôi sinh ra trong viện mồ côi ở Angola, tôi không có giấy tờ để được sinh sống hợp pháp ở đây (nước Bồ Đào Nha), Chúa an bài cho gia đình chồng của tôi lo liệu giấy tờ cho tôi được xuôi chảy, chúng tôi được làm phép cưới trong nhà thờ, được lãnh nhận bí tích thanh tẩy. Chúa cũng tuôn đổ xuống ơn lành cho khỏi căn bệnh nan y HIV với thử nghiệm âm tính.

Cám ơn Chúa Mẹ cho tôi được khỏi bệnh và phục sinh trong một đời sống mới !!

Ngợi khen Chúa, Cám ơn Chúa Giê Su.

Lời chứng của Anh Ricardo Baia. Nước Bồ Đào Nha.

(Cha Gia Cô Bê đang đặt tay cho Ricardo Baia. Anh tuyên bố từ bỏ hút thuốc lá và bỏ bật lửa bao thuốc vào cái giỏ mây đặt dưới đất.)

 Tôi tên là Ricardo Baia, 28 tuổi, cư ngụ ở thành phố Guarda.

Tôi bị nghiện ma túy nhiều năm qua, tôi cũng hút thuốc rất nhiều. Tôi đi cai nghiện nhiều lần, nhưng, sau khi rời trung tâm cai về nhà, tôi lại lao vào cơn nghiện kế tiếp. Tôi biết rằng cả gia đình chịu rất nhiều khổ sở vì mình, tôi biết mình rất ích kỷ, tôi biết hết và tôi muốn hoán cải, thay đổi hiện trạng mà không thể làm được. Không có cách nào thoát ra khỏi nghịch cảnh, giống như trường hợp giao tranh bị thua ngay từ trận đấu đầu tiên, cho dù tôi tìm đủ mọi phương cách để thoát khỏi cơn nghiện ngập, tôi không thể thắng nó! Điều này có thực đúng không ?

    –   Không, điều đó không hoàn toàn đúng, vì “đối với Chúa Giê Su của tôi thì không có gì là không thể”, tội nghiệp cho tôi khi không biết về Ngài sớm hơn,  trước đây! Tôi chỉ gặp được Ngài vào tháng năm 2010 khi tôi tham dự tĩnh tâm của Cha Gia Cô Bê tại thánh đường Sameiro ở Braga, do má tôi thúc ép đi dự. Ngay ở đó, tôi được Chúa chữa lành bệnh nghiện thuốc lá, tôi không còn hút thuốc nữa.

Nhưng sự chữa lành thực sự xảy ra vài tháng sau đó, trong kỳ tĩnh tâm tiếp theo của Cha Gia Cô Bê, ở Viseu tháng 10, 2010. Lần này Chúa Giê Su đụng chạm vào trái tim tôi, Ngài chữa lành tim tôi, lần đầu tiên tôi có thể nhìn bằng cặp mắt tâm linh. Ngài gỡ bỏ cườm trong mắt tâm linh, vốn làm cho tôi bị mù lòa trong quá nhiều năm trường, kéo dài lê thê, cho tôi được nhận ra tình thương của Ngài, tiếp nhận Ngài là cứu Chúa duy nhất của đời mình. Chính trong ngày tĩnh tâm hôm đó, tôi cảm được, tình yêu của Ngài dành cho, sự bình an của Ngài ban cho và ơn canh tân Ngài tặng cho.

Không bao giờ tôi sử dụng ma túy nữa. Tôi còn được Chúa chữa lành khối u và bệnh viêm dạ dày do hậu quả của độc tố trong chất ma túy và trong nhiều viên thuốc uống, tôi không còn bị đau nhói trong bao tử nữa. Hơn thế nữa, Chúa Giê Su chữa tôi khỏi mọi thói xấu của ngày tháng cũ vì kể từ kỳ tĩnh tâm này, tôi không còn uống rượu nữa, không còn phạm tội dâm trên thân thể mình nữa. Con cám ơn Chúa Giê Su kính yêu!

 CẮT CƠN NGHIỆN SEX

Lời chứng của anh Hrvoje Zeugnis , Nước Crotia.
Năm nay con được 28 tuổi, trước khi Cha cầu nguyện cho, con bị bệnh rối loạn sinh lý. Con chưa hề có bạn gái và luôn phạm tội tà dâm trên thân thể của mình. Khi nhìn thấy các cô gái trên đường phố, con tưởng tượng ra họ sẽ thỏa mãn các ước muốn suy đồi của mình. Con xem rất nhiều các phim con heo, phim làm tình trên Internet. Con không thể ngủ được vào ban đêm. Con nói dối cha mẹ, còn trong lòng con thì lúc nào cũng sợ hãi, và hay tưởng tượng ra các tai họa không bao giờ xảy đến. Con gian dối với Cha Mẹ và mọi người khác.

Một ngày nọ, người cô họ trong gia quyến đã năn nỉ, khuyên con viết thơ trình bày với Cha Gia Cô Bê, Manjackal, con đã viết email cho Cha. Từ khi được Cha cầu nguyện và hồi âm cho con, lạ lùng thay, con không còn phạm tội nữa, con không còn sợ hãi vô cớ,  không nói dối với gia đình hoặc bạn bè nữa.

Ngày hôm nay, nếu có nghe thấy người ta chửi thề, con cảm thấy đáng buồn. Con không thích tìm đến những nơi ồn ào, nhưng lại yêu thích sự cầu nguyện vì từ đó con có được thêm sức mạnh, khích lệ trong cuộc đời. Con có thể tập trung vào công việc tốt hơn, không bị ác mộng ban đêm. Và con nhận biết rằng Chúa là Đấng toàn năng, mạnh mẽ nhất, Đấng tràn đầy tình yêu và lòng thương cảm. Con cám ơn Chúa Giê Su vì tất cả những gì Ngài đang ban tặng cho con. 

Lời chứng của chị Saska Queragic, nước Slovenia.

Tôi tên Saska, một người rất cực đoan, hung dữ vì khi còn bé, ở trong nhà tôi thường bị cha mẹ đối xử cách thô bạo. Cho đến khi tôi tham dự tĩnh tâm do Cha Gia Cô Bê hướng dẫn vào năm 2008, ở thành phố Kurescek.trong giờ chầu thánh thể Chúa chữa cho tôi khỏi bệnh nhức đầu và đau lưng. Hơn nữa, Chúa chữa tôi khỏi bệnh hiếu chiến, dữ tợn một khi tôi chấp nhận tha thứ cho cha mẹ của tôi. Tôi còn được Chúa giải thoát khỏi căn bịnh tà dâm, xúc phạm đến chính thân thể mình, khỏi tình trạng ghiền rượu, ghiền hút thuốc lá. Ngài cũng xóa hết các nỗi lo sợ và buồn chán.

Tôi nay tham dự thường xuyện các khóa hội thào, tĩnh tâm, cứ mỗi năm Chúa lại ban thêm cho các sự dạy dỗ mới làm tăng trưởng đời sống Ki tô hữu. Con gái duy nhất của tôi, Isabel cũng được Chúa chữa khỏi bệnh hiếu động, la hét, mạnh chân, mạnh tay. Cám ơn Chúa Giê Su, Ngợi khen Chúa Giê Su.

Lời chứng của anh Piotr, từ nước Balan.

Thưa cha Gia Cô Bê, con xin cảm ơn Chúa Giê Su đã chữa lành con khỏi chứng “đồng tính luyến ái” qua sự đặt tay cầu nguyện của Cha, Con tham dự kỳ tĩnh tâm tại Elblag năm nay và phải nói là cả cuộc đời con đã thay đổi trọn vẹn, thay đổi hoàn toàn. Con ước gì, lời chứng của con đến được với những ai mà trong đời họ, đã có cùng một hoàn cảnh như con. Đức Giê Su cứu Chúa của ta có toàn quyền để làm nên sự thay đổi đời. Chính cuộc đời con là một minh chứng hùng hồn cho điều này. Một cách thận trọng, con xin nói rằng, “Đồng tính Luyến Ái” là một điều đại dối trá đưa đàng, chỉ lối cho những người bất mãn đến sự vô nghĩa mông lung.

Tôi được biết có biết bao nhiêu người đồng tính, họ đi tìm kiếm sự trợ giúp và cuối cùng đã kết liễu đời mình trong vô vọng. Con ước nguyện được là dụng cụ trong tay Chúa để mang sự chữa lành của Chúa đến cho người cần. Con xin cầu nguyện cho họ và tin tưởng rằng Chúa sẽ cho con có thời giờ và năng lực để làm việc chung với họ, những người không được khỏe mạnh về tinh thần. Xin Chúa chúc lành cho Cha.
CẮT NGHIỆN THUỐC LÁ.

Lời chứng của anh Kader Serge Sanou , Pháp Quốc

Tôi tên Serve Sanou, tôi viết lời chứng này để chứng minh về những ơn phúc Chúa đã làm cho tôi qua việc lắng nghe cấc bài học từ Internet.

Tôi bắt đầu hút thuốc vào năm 2006, cũng như đã có nhiều tật xấu khác nhưng đến năm 2009, trong một buổi cầu nguyện canh thức, tôi được ơn hoán cải, tôi được Chúa giải thoát khỏi tội lỗi và từ bỏ nhiều tật xấu nặng nề  như tội gian dâm, tội tự xúc phạm đến thân xác, tuy nhiên tôi vẫn còn tật hút thuốc lá. Điều này làm tôi luôn day dứt trong lòng, vì Lời Chúa nói rất rõ ràng “thân thể con là đền thờ của Chúa Thánh Thần.

Tôi cố gắng từ bỏ tật ghiền mà không làm được, cho đến một hôm, tôi nghe lời làm chứng về ơn thay đổi của Cha Gia cô Bê trên mạng Internet, khi Chúa giúp cha khỏi tật hút thuốc lá, Khi ấy tôi tự nhủ, Chúa có thể chữa cho tôi giống như vậy, tuy nhiên chỉ một lúc sau, tôi bị nản chí và hút thuốc trở lại. Rồi ngày hôm sau, tôi lại được nghe lời làm chứng của một người khác tên là Richie, khi đó tôi nói với chính mình rằng Chúa có thể chữa cho tôi, rồi như có một giọng nói nhẹ nhàng thủ thỉ vào tim, “Thần khí giúp đỡ cho những yếu hèn của ta”, một nhận thức tỏ tường về hiện tình diễn ra trong tâm trí tôi và tôi biết đích xác mình sẽ làm gì! Tôi đứng dậy, cầm lấy gói thuốc lá, bóp méo bao thuốc trong tay, tôi đi về phía toilet, vừa đi tôi vừa cầu nguyện “Lậy Chúa Thánh Thần con hướng lên tới Ngài hôm nay để khẩn cầu Ngài giúp đỡ, vì Lời Chúa đã nói rằng Thần Khí Chúa đến để trợ giúp cho những kẻ yếu đuối là chúng con. Vì đã nhiều năm qua, con cố gắng mà chưa từ bỏ được bệnh ghiền thuốc lá. Xin hãy đến cứu giúp con”. Rồi tôi ném bao thuốc lá vào bồn cầu. “ Xin Ngài thương xót con và giải cứu con”.

Kể từ ngày 4 tháng 12 năm 2011 cho đến nay tôi không hề hút một điếu thuốc nào nữa…Tôi xin làm chứng để vinh danh Chúa.

Lời chứng của Ông Justino de Sousa Moreira, 60 tuổi – Penafiel, Nước Bồ Đào Nha.

Tôi đã ghiền thuốc trong 45 năm trường. Vào buổi tĩnh tâm lần thứ tư mà tôi có dịp tham dự với Cha Gia Cô Bê Manjackal, tháng 6, năm 2010 ở Fatima. Trong ngày cuối, được Cha mời gọi, mọi người tiến lên và từ bỏ thói quen xấu, họ làm động tác tượng trưng cho quyết tâm, đó là vất bỏ các vật sử dụng cho thói xấu vào một cái thùng gần chỗ bàn thờ. Tâm trí tôi bồn chồn, cứ như là lời khuyên của Cha đang dành riêng cho chỉ một mình tôi vậy, tôi cảm thấy mình cần dứt bỏ thói nghiện thuốc lá. Tôi liền đứng dậy, đi lên, tôi ném vào thùng tất cả số thuốc lá và máy quẹt lửa, được Cha cầu nguyện chữa lành cho, tôi đã không bao giờ hút thuốc nữa kể từ ngày hôm đó cho dến nay.  Ngợi khen Chúa!.

Lời chứng của Ông Armando Marques de Sousa, 70 tuổi,   ở Meirinhas-Fatima. – Nước Bồ Đào Nha.

Vào buổi tĩnh tâm Canh Tân Đặc Sủng ngày 22 tháng 2 năm 2009 ở tại Fatima, tôi được khỏi bệnh đau ở tay và lưng. Tôi rất vui mừng trong ngày Chúa Nhật hôm đó, cũng là ngày kỷ niệm sinh nhật của tôi. Sau khi tĩnh tâm, đời sống của tôi đổi mới. Tôi không hút thuốc lá nữa, cho dù trước đó tôi nghiện rất nặng, hút tới ba bao thuốc mỗi ngày và không còn phải đi đến tiệm cà phê để hút thuốc và ngồi la cà ở đó cho tới một giờ sáng. Tôi không còn ước muốn đi đốt phí thì giờ, sinh lực ở tiệm cà phê.

 Nếu bạn đang bị một đam mê nghiện ngập nào đó lôi kéo, dù nó nặng đến đâu, dù chiến thắng nó có khó đến đâu thì Chúa Giê Su vẫn có thể giải cứu cho Bạn, Xin hãy tin tưởng vào tình thương bao la và quyền năng linh nghiệm của Ngài, bạn hãy thân thưa với Ngài,

Chúa ơi, xin cứu con.

Con hoàn toàn tín thác vào Lòng Thương Xót vô bờ bến của Ngài.

Con ngóng đợi Lời Chúa đã hứa “Ai xin sẽ được, Ai tìm sẽ thấy”

Xin chữa lành cho bệnh nghiện ngập của con

Và nhất là ban cho con một đời sống mới được làm con Chúa.

Được sống trong bình an và ân sủng của Chúa,

Vì Chúa đã chịu chết chỉ để cứu chúng con khỏi tội lỗi và các hậu quả của nó.

Chúa đã chết để cho chúng con được sống một đời sung mãn, yêu thương.

Xin Chúa thương xót con.

  Bạn có thể liên lạc với quí Cha, quí hội đoàn để được giúp đỡ, nhất là bạn có thể tham dự tĩnh tâm Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo, tĩnh tâm Coursillo…, xin đan cử một vài trang liên lạc của các cha linh hướng Canh Tân Đặc Sủng :

http://mariathanhlinh.net/ home_vn/?page_id=185

http://www.khoi-nguon.com/ index.php?option=com_content& view=article&id=1706&Itemid= 469

https://radioltxc.org/2017/03/ 07/lm-peter-le-thanh-quang-3/

Cha Giuse Trần đình Long linh hướng về Lòng Thương Xót Chúa, Giáo điểm Tin Mừng, Huyện Nhà Bè, Sài Gòn.

http://tinthac.net

Nhà tĩnh tâm hướng thiện La vang của cha Phanxico Xavier Trần An (84 97 316 68 60). Cai nghiện bằng cách đọc Lời Chúa, cầu nguyện và sinh hoạt tập thể.

Bạn cũng có thể liên lạc xin Cha Gia Cô Bê Manjackal và cộng tác viên cầu nguyện để cùng hiệp thông trong lời nguyện với bạn, thư điện tử liên lạc: jmanjackal@yahoo.com

Xin Chúa dẫn dắt Bạn tìm đến và tìm được sự Chữa Lành nơi Lòng Thương Xót vô bờ bến của Chúa.

THẰNG KHÙNG* (Thanh Ngang Trên Thập Tự Giá)

THẰNG KHÙNG (Phùng Quán)

THẰNG KHÙNG*
(Thanh Ngang Trên Thập Tự Giá)

Một buổi vào giữa trưa, tôi đang ngồi đun bếp, thì cửa liếp xịch mở. Tôi ngẩng lên, ngồi lặng đi một lúc khá lâu. Tôi bật gọi, cổ nghẹn tắc:

– Trời… Tuân!

Phải, người đang đứng trước mặt tôi là Nguyễn Tuân. Da mặt vàng úa và hơi phù nề. Cặp kính cận vành đồng rỉ xanh và hai gọng được thay bằng hai vòng dây gai xe. Cái miệng vẫn rộng nhưng không còn tươi nữa. Cặp môi nhợt nhạt vì thiếu máu. Như bừng tỉnh, tôi loạng choạng đứng dậy. Và hai chúng tôi ôm chặt lấy nhau lúc nào không biết. Phút chốc hai gương mặt dãi dầu, bầm dập khổ nạn trần gian, đẫm lệ. Tôi thì thầm qua nước mắt:

– Thế mà đã gần mười năm rồi… Mười năm tốt đẹp nhất của một đời người…

Tuân cười buồn:

– Chắc cậu không tin mình còn có ngày trở về?

– Ừ…, cậu gầy yếu quá… Người của sách vở, của mộng mơ… Cậu đâu được chuẩn bị để nhận một đòn chí mạng như vậy…

Tuân ngồi xuống cạnh bếp lửa, hơ hơ hai bàn tay gầy guộc, nói:

– Sức thích nghi vô tận cũng là một điều bí ẩn của con người, cậu ạ.

Tôi thổi cơm, rán cá, nấu canh chua. Hai đứa ngồi ăn ngay bên bếp.

– Nghĩ cho cùng, không có cái rủi nào lại không chứa sẵn ít nhiều cái may. – Tuân nói – Có lẽ nhờ vậy mà con người mới có thể tồn tại trong những hoàn cảnh nghiệt ngã nhất.

– Cậu thử nói cái may cậu tìm thấy trong mười năm qua xem nào – tôi hỏi.

– Trước hết, mình có dịp suy gẫm thêm về cuốn tiểu thuyết mình định viết, vì đã viết được hai chương đầu như cậu biết. Thực tế mười năm đã chỉ cho mình thấy nội dung cuốn tiểu thuyết của mình quá hiền lành, quá nông cạn. Theo mình, nếu không có mười năm lưu đày ở Sibir, tài năng của Dostoievsky không đạt đến độ viên mãn như vậy. Mình tin, nếu viết lại, cuốn tiểu thuyết của mình sẽ hay hơn, sâu sắc hơn rất nhiều. Nó sẽ là Kỷ niệm ngôi nhà những người chết của mình. Hai nữa, nhờ mười năm qua mình đã tự học được tiếng Nga. Bây giờ mình có thể đọc được Dostoievsky từ nguyên bản. Nhưng điều may mắn này mới là quan trọng hơn cả : trong mười năm qua, mình đã sống giữa những con người vô cùng phong phú và phức tạp, chất liệu sống vàng ròng cho các nhà văn. Mình chỉ đơn cử với cậu một người…

“… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.

Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính. Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta.

Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc. Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi “thằng khùng” (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.

Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài. Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc. Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:

– Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?

Anh ta chấp tay khúm núm thưa:

– Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.

Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc… Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, “đầu chày, đít thớt, mặt bù loong” cũng phải rơm rớm nước. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…

Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau.

Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại:

– Anh Tuân này – không rõ anh ta biết tên mình lúc nào – sống ở đây anh thèm cái gì nhất?

– Thèm được đọc sách – mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.

– Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? – anh ta hỏi.

– Voltaire! – một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong Tội ác và trừng phạt.

Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:

– Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?

Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.

Mình trả lời anh ta:

– Tôi thích nhất là Candide.

– Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?

Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:

– Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.

Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…

Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống: “Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!”.

– Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! – anh nói.

Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:

– Anh là ai vậy?

Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:

– Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.

Rồi anh ta tiếp:

– Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…

Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn – ngu ngơ, đần độn như thường ngày. Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình mới biết.

Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… – những người tù nói, giọng buồn.

Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.

Giám thị hỏi:

– Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?

Mình nói:

– Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.

Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…

Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:

– Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…

Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.

Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.

Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.

Giám thị hỏi:

– Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.

Mình nói:

– Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.

Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…

Phùng Quán ghi theo lời kể của Nguyễn Tuân**

 

Thằng Khùng trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh (1912-1971) của Nhà thờ lớn Hà Nội.)

** Nguyễn Tuân có bút hiệu là Tuân Nguyễn. Anh vẫn muốn giữ tên mình làm bút hiệu nhưng vì đã có nhà văn Nguyễn Tuân, tác giả “Vang Bóng Một Thời” nên anh đành đổi ngược là Tuân Nguyễn.

Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912 – 1971)
Cha chính Hà Nội
Tấm gương can trường

Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.

Cậu Vinh, một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh về âm nhạc, ca hát. Cậu biết kính trên, nhường dưới, trong xứ đạo, ai cũng quý yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là Cố Hương, một cha người Pháp tên là Dépaulis giới thiệu cậu lên học tại trường Puginier Hà Nội. Năm 1928, cậu học Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, Phú Xuyên, Hà Tây.

Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại Chủng viện St Sulpice, Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở Limoges.

Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp và tiếp tục học tập. Ngài học Văn Khoa-Triết tại Đại Học Sorbone, học sáng tác và hòa âm tại Nhạc viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của ngài đã làm cho nhiều người Pháp tưởng lầm ngài là phụ nữ nên cứ chào: Bonjour Madame! Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ bé đó là một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng là tính cương trực, dưới nụ cười là ý chí sắt son.

Sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập dòng khổ tu Biển Đức tại Đan Viện Ste Marie.

Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize – Thịnh, Bề trên Giáo phận đã bổ nhiệm ngài làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài xin Bề trên lập dòng Biển Đức ở Việt Nam, nhưng không thành.

Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc lập, không nệ Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn Hà Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đòi đặt ghế của ông trên cung thánh và bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam xuống dưới lòng nhà thờ. Vì lòng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh cương quyết không chịu. Tướng De Lattre rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập bàn quát tháo, đe dọa. Cha Vinh cũng đập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha Khuê đã chuyển cha Vinh làm giáo sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; ngài khiêm tốn vâng lời. Ngài cũng giảng dạy Văn Triết ở trường Chu Văn An.

Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa chủng sinh đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo phận Hà Nội, dù biết hoàn cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính, kiêm Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.

Ngài tổ chức lớp học giáo lý cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh, đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức thành nhóm nhỏ tại phòng khách Tòa Giám Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nhà préau, và ngồi ra cả ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn, những tín hữu khô khan trở thành đạo đức nhiệt thành, ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều người gia nhập đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.

Khi cha Vinh đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra chỉ thị phải treo ảnh lãnh tụ thay vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng cửa.

Thời bấy giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo sư, nên đã đề nghị Đức Cha Khuê cử cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài. Một hôm, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp tùng: “Đến giờ này mà còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?”. Ít lâu sau trường Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.

Biết tài năng và kiến thức âm nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ xem lại những bản nhạc, bài ca họ mới viết.

Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, và là một nhạc sĩ toàn tài. Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm thật tuyệt, chính ngài là người Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở Hà Nội. Ngài có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học tập chu đáo nên đã sáng tác và để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh trình bày bản hợp tấu ‘Ở Dưới Vực Sâu’ nhân cuộc đón tiếp phái đoàn Việt Nam do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.

Ngài cộng tác với Hùng Lân sáng tác ‘Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít’. Sáng tác nhiều nhạc phẩm lớn: ‘Mở Đường Phúc Thật’, ‘Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi’, ‘Ôi GiaVi’, ‘Lạy Mừng Thánh Tử Đạo’. Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh 23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh Tâm Giêsu. Ngài còn viết những bài ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài ‘Bước Tới Đèo Ngang’ của Bà Huyện Thanh Quan.

Hằng tuần ngài đến dạy nhạc, xướng âm và tập hát bên chủng viện Gioan. Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn.

Ngài tổ chức và chỉ huy dàn đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh Thể từ Hàm Long về Nhà Thờ Lớn Hà Nội.

Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và thế giới thấy là ở Việt Nam đạo Công giáo vẫn được tự do hành đạo và tổ chức được những lễ nghi long trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, chính quyền tự động cho người đến chăng dây, kết đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đòi nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số tiền chi phí lớn về vật liệu và tiền công. Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người của Nhà nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự động bắc thang, chăng dây treo bóng điện màu trang trí ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn. Cha xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn bảo vệ chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên cơ sở tôn giáo, không đồng ý, nhưng họ cứ làm. Để phản đối, cha Căn liền cho kéo chuông nhà thờ cấp báo, giáo dân kéo đến quảng trường nhà thờ rất đông ủng hộ cha xứ, hai bên to tiếng. Cha Căn gọi Cha Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh luận không kết quả, cha Vinh kéo những người của Nhà nước đang leo thang chăng đèn xuống, rồi chính ngài leo lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai bàn tay nắm lại, hai cườm tay đặt lên nhau, làm dấu hiệu còng tay số 8, và nói lớn: “Tự do thế này à!” Vụ giằng co lộn xộn kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc trang trí không thành.

Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét xử. Tòa án Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo. Cha Chính Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân” (!).

Sau phiên tòa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị chuyển đi nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là trại “Cổng Trời”, nơi dành riêng cho các tù nhân tử tội.

Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, ngài còn được ở chung với các tù nhân khác, nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, vì thế ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà lim tối. Mấy tháng sau được ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi: “Tại sao bị cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?” Ngài đáp: “Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi phải làm bổn phận mình!”.

Ở tù đói rét là đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già nấu muối, khi chia cơm phải cân đong từng chút một… Một lần cha Vinh nhận được gói bưu kiện do cha Cương, quản lý Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có ít thức ăn, lương khô và vài đồ dùng cá nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân thương gọi ngài là ‘bố’.

Ngay trong nhà tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ trưởng đánh đập tù nhân, ngài lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng này xông đến giang tay đánh, ngài đưa tay gạt, anh ta ngã khụy. Từ đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh giỏi võ, mọi người phải nể vì.

Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.

Vì không khuất phục được ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không qua một thủ tục pháp lý án lệnh nào, đã biến thành 12 năm tù kiên giam, xà lim, biệt giam và án tử. Năm 1971, khi ngài từ trần không ai được biết, một năm sau, chính quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản lý Nhà Chung: “Ông Vinh đã chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!”.

Suốt đời mình, trong mọi tình huống cha Chính Vinh làm tròn trách vụ của mình. Ngài đã mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện cũng như khó khăn. Vượt mọi thử thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền, luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo Hội.

Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.

TGP Hà Nội

Thầy Uông Đại Bằng gởi

Nét Đẹp Của Người Ngồi Xuống…!

 Nét Đẹp Của Người Ngồi Xuống…!

            Tôi lặng lẽ bước theo các Ngài vì tôi biết họ sẽ đến với người nghèo. Trời trưa nắng gay, nắng gắt len lỏi qua cái lùm cây đi vào sâu trong khu vườn rậm. Những bước chân dài vững chãi vừa đi vừa liến thoắng những câu chuyện mà không phải ai nghe cũng hiểu vì phải cần người phiên dịch.

            Kế hoạch sẽ thăm ba căn nhà gần nhà thờ mà được cho là nghèo khó đau khổ nhất.           

Ghé căn nhà đầu tiên vì không được báo trước nên chủ nhà cứ lúng ta lúng túng vì cái nghèo, vì sợ bất kính. Ngay cả ghế để mời khách ngồi cũng không có. Gia đình có 5 đứa con, hai đứa con gái phải bỏ học ở độ tuổi 15, 17 để đi Sài Gòn tìm việc làm. Thử hỏi cái độ tuổi ấy thì làm được việc gì ngoài việc ở đợ. Vì nghèo quá họ đành nhắm mắt xuôi tay để con bôn ba nơi xứ lạ đất khách quê người mưu sinh. Đứa thứ thì bị nhiễm chất độc màu da cam lơ ngơ lẩn ngẩn. Hai đứa con trai nhỏ một 10 tuổi, một 13 tuổi mắt sáng quắc được cho là thông minh, học hành tốt. Hai vợ chồng làm thuê làm mướn. Cuộc sống lắm đắng nhiều cay.

            Đức Tổng loay hoay, các cha lựng sựng một lúc cũng mượn được vài cái ghế để ngồi. Ngài ân cần hỏi thăm từng thành viên trong gia đình, tên, tuổi, tên thánh. Sâu trong đáy mắt Ngài có sự đồng cảm xót thương khi nghe chuyện của con bé bị nhiễm chất độc màu da cam. Hai cậu bé nhỏ thì Ngài mời đến hỏi chuyện thân tình. Ngài khuyên đi học tiếng anh. Chạm vào đứa bé Ngài nói sau này học tốt làm linh mục; xoa đầu đứa lớn Ngài nói còn con làm Giám Mục.

Hai đứa nhỏ có đôi mắt sáng long lanh. Ngài đã để lại cho họ hình ảnh và tấm lòng Mục tử. Người chủ lặn lội đi tìm chiên. Người Cha đi tìm kiếm thăm viếng những đứa con cù bất cù bơ nghèo khổ. Ngài đã ngồi xuống để họ được đụng chạm vào một Đức Ki-tô giữa đời thường. Họ được bám víu vào lòng thương xót của của đấng chuyển thông từ Ngài. Tâm điểm của cuộc viếng thăm là tất cả hiệp ý trong lời kinh để dâng lên Chúa gia đình đau khổ này là hiện thân của gia đình thánh tâm ngày xưa. Nhờ sự cầu bầu của Đức trinh nữ Maria và sự bảo trợ của thánh Giuse họ sẽ tiếp tục dìu dắt nhau trên đường lữ thứ.        

Lội qua thêm một quãng đồng để thăm gia đình thứ hai. Không cái nghèo nào giống cái nghèo nào. Không cái khổ nào được đặt rõ tên họ để xưng. Họ chìm nghỉm trong bế tắc. Hai vợ chồng độ tuổi ngoài 50. Nhà mười đứa con. Sáu người lớn đã có gia đình ra riêng cũng không khá giả để giúp đỡ. Còn bốn đứa nhỏ thì một đứa 15 tuổi tôi đoán chắc do sốt bại liệt. Không đi được chỉ bò, không biết nói. Lúc Đức Tổng và các Cha bước vào nhà thì mọi thứ chăn màn bừa bộn trên chiếc giường , căn nhà nhỏ xíu đủ cái bàn thờ Chúa và cái gường nằm chắn ngang lối. Không có ghế ngồi Đức Tổng tươi cười vén ngay chiếc áo dòng ngồi xuống nền gạch rồi vời đứa bé bị tật đến. Thoạt đầu nó phản kháng không muốn bò ra. Nhưng với ánh nhìn yêu thương  và nụ cười thân thiện thằng bé bò ra ngoài cửa sát bên Ngài vỗ tay mừng. Đức Tổng hỏi chuyện và người mẹ kể. Nó kêu mẹ không biết bị sao từ nhỏ đến giờ năm nay 15 tuổi rồi. Nó ra dấu kêu đi kéo hai cái chân nó ra giống mẹ nó để nó được đứng lên đi. Mẹ em bảo không có tiền nó chỉ vào túi. Người mẹ ngậm ngùi. Ai cũng cảm thương.

Càng cảm thương hơn khi nhìn thấy người cha với cái chân sưng to vù. Ngài chỉ vào hỏi có đi bệnh viện chăm sóc không? Câu chuyện của họ là anh té từ nốc nhà xuống và bị thương phải nằm viện nhưng vì không tiền nên về. Đức Tổng  ngồi lại bên thềm nhà nghèo khó này rất lâu. Tôi tin rằng Ngài đang tận hưởng cuộc gặp gỡ một Đức Ki-tô không lành lặn với đầy thương tích. Ngài đang rất sung sướng vì được đụng chạm vào gia đình Nazaret khó nghèo. Ngài đang lắng đọng tâm hồn để chiêm ngưỡng và đang chìm ngập trong biển lòng thương xót của Chúa Cha. Tôi đọc được từ trái tim Mẹ Giáo Hội niềm cảm thông sâu sắc với đứa con ngụp lặn trong biển đời đau khổ. Tôi thấy họ run lên vì sung sướng khi đã được đụng chạm vào nhau, nỗi đau đang được vơi đi niềm hạnh phúc dạt dào đang được lan tỏa. Thánh giá nào rồi cũng dẫn đến vinh quang. Phía trước là vầng hào quang của nến phục sinh đang tỏa rạng. Rồi đây tình thương sẽ được phủ đầy trên nóc nhà này, bao trùm những con người khốn khổ hôm nay. Giọt sữa mẹ Giáo Hội đang chắt chiu cho họ nguồn sống. Tôi tin vậy!           

Căn nhà thứ ba chúng tôi đến. Thực ra nó chỉ là một túp lều. Một người Mẹ già đơn độc, thân hình còm cõi bệnh tật. Đang ngồi lặng buồn trên chiếc võng. Nhìn theo nấm mộ sát bên nhà. Khi bước đến Đức Tổng đã khòm xuống để hỏi chuyện rất gần và rất gần. Tôi đã nuốt cảm được tấm tình Người cha qua cuộc thắm viếng này. Căn lều nhỏ bé rách nát là một chứng tích cho tình người te tua tan nát trong cách sống và cách hành xử của gia đình và những con người trong gia đình thời nay. Đang sống trong năm thánh gia đình làm cho tôi liên tưởng đến một điều thân phận của người phụ nữ sao mà buồn thảm thế. Bà lão có chồng và sinh mười đứa con, sinh họ ra và nuôi lớn, họ lập gia đình, ông qua đời. Tuổi già lủi thủi trong túp lều lộng gió. Lâu lâu đứa A ở xa về ghé cho cho trăm ngàn. Cô đơn quá, quạnh quẽ quá, tuổi già lay lắt, buồn hắt buồn hiu. Một bộ mặt khác của Đức Ki-tô. Bộ mặt này hằn lên những nếp nhăn lởn vởn phía trước chút màu khói buồn tênh.

Đức Tổng cúi xuống để nâng bà lên, để trò chuyện. Ngài hỏi tên thánh như để khắc sâu vào lòng. Ngài nói thánh Maria đẹp lắm vì hôm nay là Lễ Truyền Tin. Cầu nguyện cùng Đức Maria cho bà có được bình an trong tâm hồn. Ngài hỏi và nhắc nhở bà thường xuyên lần chuỗi, chạy đến với Đức Mẹ để Mẹ sẽ bầu cử cùng Chúa và cùng đích là được hưởng hạnh phúc bất tận đời sau. Mọi người hòa mình vào lời kinh để cùng cầu xin ơn an lành. Ra đi Đức Tổng đã để lại chút lòng thương xót của Thiên Chúa giàu lòng xót thương. Tôi thấy giọt nước mắt lăn dài trên má người đàn bà đau khổ này. Giọt nước mắt sung sướng vì được mẹ Giáo Hội ôm vào lòng xoa dịu. Bà đang tận hưởng khi Đức Tổng nói “Hẹn gặp lại”. Tôi tin chắc rằng mọi người sẽ gặp lại nhau trong lòng Cha từ ái.

            Chúng tôi một đoàn gồm có cả người lớn và trẻ con đã tận mắt nhìn thấy “Nét đẹp của Người ngồi xuống”: Ngồi xuống để đụng chạm vào nỗi thống khổ của người khác; Ngồi xuống để được gần gũi hơn; Ngồi xuống để cảm nhận một lần thân phận của người khác để cảm thông và chia sớt; Ngồi xuống để cái tôi bé nhỏ lại và hình ảnh Đức Ki-tô được vươn lên cao và đi xa vào giữa lòng thế giới.

            Xin cho mọi người luôn biết ngồi xuống và ngồi xuống để nét đẹp rạng tỏa cho đời, để tình yêu thương được lên ngôi giữa cái thế giới còn quá khác biệt hôm nay.

            Tiểu Hổ – Gp Cần Thơ

——-

VÒNG TAY SONG NGUYỀN gởi

Tĩnh Tâm Thánh Linh, Mùa Chay Lưới Về Nhiều Cá Lớn.

Tĩnh Tâm Thánh Linh, Mùa Chay Lưới Về Nhiều Cá Lớn.

 Tác giả: Tân Trần

Ba ngày tĩnh tâm M ùa Chay vào ngày 24, 25, 26 th áng ba năm 2017, tại Houston được Chúa cho tới 3 con cá lớn thuộc loại nặng ký và ngoại cỡ, kế đến số cá nhỡ cũng đến chục con, còn loại cá con như trường hợp của chúng tôi, có lẽ không thể kể cho hết. Cám ơn Chúa về một kỳ bội thu. Cuộc tĩnh tâm được tổ chức như thường lệ tại Giáo xứ St. Christopher, thành phố Houston, Texas, do Cha Giuse Lê Thu làm chánh xứ. Phụ trách chương trình, Cha Phê rô – Ma ri a Bùi Công Minh, giảng thuyết có quý cha Duy An Nguyễn Hùng, Cha Đoàn đình Bảng, Cha Trần Sơn Steven, Dòng Chúa Cứu Thế, Cha Andre Đỗ Hiến.

Các Cha nhấn mạnh đến sự kiện Chúa Cha đã chọn chúng ta và để ý đến ta từ muôn thuở, trước khi ta được sinh ra. Chúa Cha gởi Người Con duy nhất trên Thiên Đàng đến trần gian chịu vô vàn sỉ nhục, đau đớn để gánh tội cho ta. Ngài đem đến vô số cơ hội để mở sự mù lòa cho ta, chữa tình trạng bại hoại của ta, được có Chúa và ơn cứu độ của Ngài là một niềm vui lớn lao rất tuyệt vời. Niềm vui đó ở đây ngay vào giờ này dành cho bất kỳ ai mở lòng đón nhận ơn, Chúa đang chờ đợi ta, Mẹ đang khuyến khích ta hãy đến, hãy quay về với địa vị làm con Thiên Chúa vốn rất giầu có và phong phú …

Tĩnh tâm đã thu vào lưới nhiều cá, con cá kình loại một là trường hợp của một em thanh niên khoảng 16 tuổi vô thần, không tin vào sự hiện diện của Thượng Đế. Em vẫn thường tuyên bố “ làm gì có Thượng Đế hiện hữu, there is no God existing”. Tuy nhiên, em nể Mẹ và bà Ngoại thường xuyên năn nỉ em rằng, hãy đi tham dự tĩnh tâm mùa Chay. Em chịu  đến cho có vì tham dự một kỳ tĩnh tâm nói tiếng Việt mà em “không hiểu gì mấy”, em thấy có đông “người Việt Nam, họ đang ca ngợi Đức Chúa” trong tinh thần hăng say quá, không khí cũng hào hứng và vui cho họ, nhưng không thoải mái lắm đối với em. Nhưng rồi, khi tiến lên đến gần bàn thờ, nơi đang để mặt nhật chầu Chúa Thánh Thể, thì em cảm thấy nơi đây không bình thường như mình nghĩ, có sự hiện diện thật của một ai đó mà sức nóng ấm lan tỏa trong luồng ánh sáng chói, cho dù đèn chiếu ở hội trường không được mạnh lắm. Sự hiện diện của vị này là thực vì có một quyền năng nào đó đang hiện diện chung quanh em rất khó diễn tả cho đủ. Rồi khi em được Cha đặt tay thì em ngả ra và được nghỉ ngơi ra trong Chúa. Em cảm được như có ai đó đang nói với em, “Chúa Giêsu yêu em – Jesus love you” kèm theo có quà tặng là sự vui mừng và bình an bao phủ, làm cho em không thể nào phủ nhận được sự hiên diện của Chúa Giêsu kính yêu. Em hứa từ nay sẽ luôn đi theo Chúa giống như trường hợp của Mẹ và Bà Ngoại vốn là đạo Phật nhưng nay đã theo Chúa. Em cảm thấy “Chúa Giêsu thật là cool !”

Con cá to thứ hai là một chị trẻ tuổi, đang chuẩn bị đám cưới theo chồng tương lai. Chị làm chứng về hành trình đức tin của mình:

  • Tôi vốn xuất thân từ một gia đình rất sùng mộ Đạo Phật, Mẹ tôi đi Chùa và tụng kinh, làm công quả thường xuyên. Tôi thề là không bao giờ làm dấu thánh giá hay cầu nguyện với Chúa cho dù có yêu Anh và phải lấy chồng theo đạo Công Giáo. Năm ngoái, tôi và Anh gặp khó khăn trong việc làm, chúng tôi đi tìm kiếm việc khắp nơi nhưng không làm sao cho Anh có việc làm, dù đã cầu trời khẩn Phật nhiều. Kẹt quá, tôi đành nghe lời mấy chị bạn Thánh Linh đi tham dự tĩnh tâm. Các chị nói, “em có mất gì đâu, hãy cứ đi cho biết sự linh nghiệm của Chúa”. Tôi đi và thực sự tôi đã có niềm vui gặp gỡ Chúa, rồi sau kỳ tĩnh tâm, người chồng tương lại có được việc làm mà anh ước muốn. Chúa cho tôi được biết sự hiệu nghiệm của việc cầu khấn với Chúa và gia nhập Đạo Chúa thật là tốt, Chúa rất linh nghiệm. Tôi đã có lúc bằng lòng đi theo Chúa như đã hứa nguyện với Chúa khi trước, nếu Chúa giúp giải quyết cho công việc của Anh được như ý thì tôi xin theo làm con của Chúa. Tuy nhiên, ma quỷ cũng đánh phá chúng tôi không ngớt. Khi tôi xin đi học lớp Giáo lý Công Giáo Tân Tòng thì bao nhiêu là khó khăn, thử thách dồn nhau tuôn đến, rắc rối nhiều quá. Lớp thì tôi bị gia đình mình ngăn cản theo Đạo Công Giáo.  Tôi tự nhủ, theo Chúa phiền phức quá, bị đánh phá dữ dội quá, cho nên tôi dừng lại, thôi không muốn theo Chúa nữa. Rồi các chị trong nhóm Thánh Linh ở Austin Texas, năm nay lại đến, rủ rê tôi tham dự Khóa Thánh Linh lần thứ hai. Ngày đầu tôi né, không muốn Cha dặt tay, không muốn mình bị ngã té và đầu phục Chúa vì theo Chúa bị đánh phá khổ quá. Sang đến ngày thứ hai thì có niềm vui và an tịnh ở trong tôi. Khi Cha cho mọi người bịt mắt bằng một giải nhựa đen và diễn lại cảnh của người mù khi xưa đã được Chúa cho thấy trở lại, được sáng mắt… Tôi được các anh chị phục vụ dẫn đường, giống như người mù ở gần thành Giê ri cô khi xưa, tôi đi từ ghế, dò dẫm tiến lên và  đụng chạm vào ảnh Lòng thương xót Chúa thì tôi bừng mở trí hiểu là Chúa yêu tôi và các thử thách đang gặp phải có là gì đâu so với tình yêu và quyền năng của Chúa. Từ lúc đó, tôi muốn được Chúa thay đổi tôi, lòng bức rứt vì đã mù lòa không thấy Chúa, rồi bỏ Chúa là đấng lúc nào cũng yêu tôi và mong tôi quay về với tình yêu thương của Chúa. Tôi đã khóc rất nhiều, ăn năn vì sự bội nghĩa, vô ơn và thiếu lòng tin của mình. Tôi chịu để cho Cha đặt tay cầu nguyện, khi Cha đặt tay, có một luồng điện nóng chạy qua đầu tôi, rồi Chúa cho tôi được ngả ra, nằm khóc hồi lâu trong sự vui mừng vì có Chúa yêu mến tôi. Đêm hôm đó tôi ngủ một giấc thật là ngon không còn trăn trở nữa. Giờ đây, tôi lâng lâng như đang ở trên mây. Tôi biết là dù có khó khăn nào, Chúa cũng đi cùng với tôi và giúp tôi vượt qua trở ngại, giúp tôi được làm người con hiếu thào của Chúa. Tôi như được sáng mắt và biết rõ là mình sẽ không thể nào sống mà không có Chúa và tình yêu của Đáng đáng kính yêu. Lúc trước tôi theo Chúa vì có chuyện cần nhờ, xong chuyện thì thôi “đường con con đi, đường Chúa, Chúa đi”. Còn bây giờ, tôi theo Chúa vì tôi yêu Chúa, yêu sự dậy dỗ của Lời Chúa và không thể thiếu vắng Người trong gia đình tương lai của tôi.

Con cá lớn thứ ba của vụ mùa thu hoạch là một chị đã theo Chúa một thời gian độ mươi năm, nhưng nay không còn tin vào Chúa như xưa. Lòng tin mai một và sa sút gần hết, gia đình Chị M. không được vui vẻ, thường xuyên gây gỗ và giữa vợ chồng không còn một chút quyến luyến nào. Không khí trong gia đình rất ngột ngạt, căng thẳng, nhạt nhẽo, lạnh lùng, không thể nào chịu nỗi, chị bị căng thẳng thần kinh và mất ngủ thường xuyên, uống thuốc an thần vẫn không ngủ được, đau buồn dồn nén làm cho chị không còn muốn sống nữa. Chị tự nhủ:

  • Khi nào đứa con út lên đại học thì chị sẽ tự kết liễu cuộc đời vô nghĩa của mình. Cuộc sống này vô vị và đau khổ nhiều quá mà.

Chị được một Chị bạn lôi kéo đi tham dự tĩnh tâm. Ngay trong giờ phút đầu tiên, các bài hát của Ca Đoàn sao mà diễn tả đúng tâm trạng của Chị “Con cần Chúa giữa bao đau khổ tiếp nối triền miên”. Khi Cha cho mọi người bịt mắt để diễn cảm  lại tình trạng người mù thành Giê ri cô được Chúa cho sáng mát, Chị bừng tỉnh và tự hỏi tại sao mình không tìm đến Chúa và đặt trọn vẹn hoàn cảnh của mình vào tay vị Cứu tinh và Bác sĩ tài giỏi số một là Chúa Giêsu. Chị cảm thấy mình quá dại dột khi bỏ Chúa, nước mắt tuôn không dứt. Khi được Cha đặt tay, thì chị ngã ra và cảm thấy có Chúa ôm ấp như Ngài an ủi cho các đau thương của mình. Một sự bình an xâm chiếm tâm hồn làm cho chị dễ dàng tha thứ cho người chồng mà chị nghĩ rằng đã và đang gây đau khổ quá sức chịu đựng của mình. Đã mấy năm qua, chị chưa bao giờ cảm thấy thư thái như hiện giờ. Đêm đó, chị ngủ một giấc đã đời không cần đến thuốc men sau nhiều đêm không ngủ đủ giấc cho dù đã sử dụng nhiều loại thuốc ngủ. Sáng ngày sau khi Chị đang ngồi ca nguyện nhớ đến Chúa, một chị trong Nhóm Thánh Linh chạy đến, thủ thỉ vào tai “Chị bị đau lưng lâu năm rồi, phải không? Để em cùng cầu nguyện với Chị”, ‘nói rồi chị ôm tôi và cầu nguyện trong tiếng lạ. Lưng của tôi nhẹ tênh và nay tôi có thể nhảy múa ca ngợi Chúa mà không thấy đau hay nhức mỏi nữa. Chúa chữa lành cho tôi cả về thể lý lẫn tinh thần. Tôi sẽ không dám bỏ Chúa nữa”.

TINH TAM THANH LINH

Vể việc Chúa chữa lành bịnh trong thân xác trong kỳ tĩnh tâm Canh Tân Đặc Sủng này, đã có một bác đau chân rất nặng đến nỗi con cái, bác sĩ  khuyến cáo không nên bước ra khỏi gường nhưng về phần Bác, Bác nói  “không đi ca ngợi Chúa thì thèm khát không chịu nổi” và Bà cố lết đi. Lạ thay đến nơi Bác nhảy múa, tôn vinh Chúa hăng hái, mà chẳng thấy cơn đau trước đây vốn dĩ, luôn bộc phát mỗi khi cử động, nay bác có thể nhảy mừng, đi khắp phòng và quì gối mà không bị đau đớn. Bác lên trước cử tọa làm chứng và hoan hỉ tung hô quyền nằng kỳ diệu của Chúa dành cho hết mọi người tham dự trong đó có Bác.

Kỳ công khác của Chúa, Ngài chữa cho một thiếu nữ bị bệnh trầm cảm được có cảm giác trở lại. Em kể, trước đây đã mấy năm, tự nhiên em cảm thấy buồn chán, cô độc. Người Em không có cảm giác gì, ngơ ngơ như không có hồn, Em phải nghỉ học, nghỉ làm, Có khi sực tỉnh, em chỉ ước sao được trở lại đời thường như các bạn cùng trang lứa mà không được. Không có đêm nào Em ngủ được an giấc vì sợ hãi. Khi được Cha đặt tay cầu nguyện thì Chúa cho em tỉnh táo, không còn tư lự và buồn bã nữa. Em thấy mình luôn có niềm vui nhẹ nhàng và chạy quanh mong giúp cho mọi người qua việc chụp hình giúp họ lưu lại những thời khắc đáng ghi nhớ của một mùa Tĩnh Tâm đầy ắp sự phấn khich, chụp ảnh vào trong chính iphone, smart phone của mỗi người. Em thật là tươi tắn, một ngày qua, lúc nào Em cũng cười, ăn ngon và ngủ thẳng giấc. Trông Em xinh xắn như một cô thiếu nữ mười tám, đôi mươi.

CHA BUI C MINH

Có ba Chị thuộc diện “Một Mẹ nuôi con – Single Mom”, do chồng qua đời hay bỏ nhà ra đi, tham dự trong khóa Tĩnh Tâm. Các Chị được ơn bằng an, yêu mến Chúa và quyết tâm giới thiệu về Chúa sau khóa tĩnh tâm cho con cái, cho chúng biết đấng nào làm cho họ không còn sợ hãi, buồn bã, thất vọng, không còn than thân trách phận nhưng can đảm, vui mừng, bằng an vác thánh giá theo chân Chúa trong việc phục vụ người thân yêu. Họ muốn làm chứng là chỉ có Chúa mới có thể làm cho họ nên vui tười như vậy mà thôi, không người phàm hay thần thánh nào khác có thể làm điều tương tự.

Một Bác trai lên chia sẻ với cử tọa rằng mình đã từng phạm tội trong mẫy chục năm trường với con số nhiều hơn hết mọi người trong phòng cộng lại, nhưng ngày thứ hai Bác đã khóc ăn năn, đến ngày thứ ba thì khóc vì cảm kích sự nhân từ của Chúa và chấp nhận để cho Chúa tẩy rửa, thay đổi mình hoàn toàn trong đời sống mới. Bác cho biết đã bị đốn ngã sự cao ngạo và chai lì trong tội nhờ sự thương xót vô bờ bến của Chúa, chính thực đây cũng là ơn đổi mới đời sống trong thần khí Thiên Chúa, ơn tiêu biểu mà hâu hết mọi người tham dự đều lãnh nhận đươc trong niềm vui phấn khởi:

  • Nhưng ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rôma 5:20).

Kế đến, Chúa ban cho một bác được khỏi bệnh đau đầu. Một anh thanh niên to cao, lực lưỡng trông rất mạnh mẽ, hai cánh tay anh xâm trổ nhiều hình, nhưng lại hiền khô, luôn mỉm cười tươi vì được ơn yêu mến Chúa và ơn hiền hòa vui mừng. Ba thanh niên khác được Chúa chữa khỏi căn bệnh thế kỷ, “ghiền xì ke” trong các khóa tĩnh tâm Thánh Linh trước đây cũng đứng lên làm chứng cho tình thương xót của Chúa.

Thiết nghĩ, cũng phải kể đến ơn an bài của Chúa qua sự yểm trợ của cả Giáo Xứ St. Christopher về tinh thần và vật chất, sự hy sinh, ân cần của các Bác, các Anh Chị Em trong nhóm phục vụ nhà ăn, họ làm các món ăn vừa ngon vừa nóng sốt và phong phú hấp dẫn với lệ phí hoàn toàn tùy lòng hảo tâm, không có lệ hạn. Công việc phục vụ được chuẩn bị quá chu đào từ 5-6 tuần trước đó. Món ăn rất vừa miệng, thực khách ai cũng khen tấm tắc.

Trong dịp tĩnh tâm này, các em thanh niên thuộc thế hệ thứ hai của nhóm Canh Tân giáo xứ Ngôi Lời chúng tôi đến tham dự khá đông đủ. Họ đều được chịu phép rửa trong Chúa Thánh Linh hoặc được gia tăng tình yêu Chúa cao độ, chúng tôi rất kỳ vọng ở điều này vì Nhóm rất cần sự mới mẻ, tươi trẻ để thay đổi sự xưa cũ và chậm chạp của cả nhóm, kết quả là, theo sự sắp đặt của Chúa, Ngài gởi các em trẻ trung, mới toanh tới với các Nhóm. Các em nhận được các câu Lời Chúa ý nghĩa trong Thánh Lễ.

Tôi vừa cất tiếng kêu lên cùng CHÚA, Chúa liền đáp lại từ núi thánh của Người.

Tôi nằm xuống và tôi thiếp ngủ, rồi thức dậy, vì CHÚA đỡ nâng tôi. (Thánh Vịnh 3: 5-6)

Rồi ra, tôi sẽ có dịp trở lại với quí Bạn, tường trình, một khi trong ơn Chúa các em mới, trẻ trung nảy sinh muôn vàn hoa trái Thánh Linh thánh thiện, vui tươi, hiền hòa , tiết độ nhất là các hoạt động mới mẻ  tạo sinh khí cho cả Nhóm Thánh Linh chúng tôi ở Giáo Xứ Ngôi Lời.  Cám ơn Chúa, tôi tin chắc rằng mình sẽ có dịp hầu chuyện cùng quí Bạn !

Cũng không quên hẹn gặp nhau trong kỳ tĩnh tâm tháng 9, 2017 dịp lễ Lao Động tại giáo xứ Đức Mẹ La Vang, Houston.

 Xin Chúa Thánh Thần ban muôn vàn hoa trái Canh Tân Đặc Sủng trên chúng mình.

God bless you

thanks,

Tân Trần

Linh mục Nguyễn Viết Chung

Linh muc Nguyễn Viết Chung

(Trong bài Đức Tin Là Một Hồng Ân)

 Tác giả : Phùng Văn Phụng

Một ngày vào năm 1973, các báo ở Sài gòn đồng loạt đưa tin về cái chết của Jean Cassaigne, một người Pháp, nguyên là Giám Mục Sài gòn nhưng lại qua đời tại một trại phong ở Di Linh, một nơi đèo heo hút gió trên đường từ Sài gòn đi Đà Lạt. Nguyễn Viết Chung đọc tiểu sử của vị cố Giám Mục trên báo và không hiểu do đâu anh lại mong muốn được nên giống ngài ở chỗ phục vụ người cùng khổ cho đến hơi thở cuối cùng. Anh chẳng biết gì về Đạo Công giáo, thế mà Đức Cha Cassaigne lại là thần tượng của anh.

Năm 1974. Chung học Y Khoa Đại Học Sài gòn. Tại đây anh gặp người công giáo đầu tiên trong đời anh, giáo sư bác sĩ Lichtenberger người Bỉ, dạy môn Mô phôi học. Chung ngưỡng mộ sự uyên bác khoa học vô song của ông. Các bài giảng vô cùng sinh động và phong phú của nhà khoa học uyên thâm một cách lạ lùng làm cho Chung mê mẩn. Chung kinh ngạc khám phá vị giáo sư khả kính này là một Linh Mục dòng tên. Anh thường cùng các bạn trường Y đến nhà thờ để xem Giáo sư Lichtenberger dâng lễ.

Những năm học Y khoa không phải là dễ dàng đối với Nguyễn Viết Chung anh phải làm thêm nhiều việc nặng nhọc kể cả đạp xích lô để kiếm tiền ăn học và phụ giúp gia đình.

Năm 1984, bác sĩ Chung khi đó 29 tuổi, xin được bổ nhiệm lên trại phong Di Linh để thực hiện giấc mơ lớn nhất của đời anh. Nhưng theo đúng thủ tục hành chánh thì anh phải trình diện và chịu sự điều động của Sở Y tế Lâm Đồng. Bà trưởng phòng ngạc nhiên hỏi:

– Anh có điên không hay là anh bị cùi?

– Nếu tôi cùi thì bà đã thấy rồi.Còn có điên hay không thì tôi không biết, nhưng điều tôi biết là tôi mong muốn phục vụ những người cùi.

Từ ngày 01-7-1986 anh về làm việc tại phòng chống sốt rét của tỉnh Đồng Nai cho tới năm 1989. Từ năm 1990-1992 đổi về làm tại phòng xét nghiệm của bịnh viện da liễu Sài gòn. Ở đây anh xin học thêm chuyên khoa da liễu, vì anh không bao giờ anh quên mộng ước của mình.

Năm 1993 Bác sĩ Chung tình nguyện lên công tác tại trại Phong Bến Sắn, Bình Dương. Tại đây, anh làm việc hăng say như để đạt được tâm nguyện của mình giống như Đức Giám Mục Cassaigne trong việc phục vụ bịnh phong cùi. Anh hết sức tận tụy không nề hà. Nhưng dù như thế anh vẫn thấy mình thua xa các nữ tu nữ tử Bác ái trong việc yêu thương phục vụ người bịnh. Các nữ tu luôn nhẫn nại lắng nghe phục vụ người bịnh hết lòng, không bao giờ làm họ buồn tủi. Tinh thần hy sinh, quảng đại đó khiến cho anh cảm phục. Anh cho rằng muốn có được tinh thần yêu thương người nghèo khổ như thế, anh phải trở thành một người giống như các nữ tu. Anh chưa phải là người công giáo, nên anh không thể hiểu được tinh thần làm việc của các Sơ. Anh cũng muốn được phục vụ với tinh thần giống như các Sơ.

Ngày 28-8-1993 bác sĩ Chung đến gặp Cha Hoàng văn Đoàn, dòng tên, tại Bình Dương xin học giáo lý tân tòng. Ngày 15 tháng 5 năm 1994 bác sĩ Chung được cha chính xứ Bến Sắn, Linh mục Trần Thế Thuận làm lễ rửa tội cho anh tại nhà nguyện trại phong Bến Sắn. Nhưng bác sĩ Chung không hài lòng khi chưa được trở nên giống các Sơ để có thể yêu thương phục vụ người nghèo. Ở tuổi tứ tuần theo đuổi ơn gọi tu sĩ là một điều quá khó khăn.

Ngày 15.9.1994 bác sĩ Chung trở thành tập sinh lớn tuổi nhất của dòng Vinh Sơn nam số 40 đường Trần Phú, Đà Lạt. Ngày lễ truyền tin 25.3.2003 Giáo hội trao tác vụ Linh mục cho thầy Augustinô Nguyễn Viết Chung qua lễ đặt tay của Giám mục Giuse Vũ Duy Thống tại nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài gòn.

Ngày 3.4.2003, Linh Mục Nguyễn Viết Chung quay về trại phong Bến sắn dâng Thánh lễ tạ ơn trong sự hân hoan của các bịnh nhân phong với sự hiện diện của cha sở Bến sắn, người mà 9 năm trước đây đã làm lễ rửa tội cho cha. Vẫn thái độ khiêm nhường, yêu thương và cung kính với các người bịnh vẫn xưng mình là “con” khi nói chuyện với các bịnh nhân lớn tuổi.

Tháng 3 năm 2009 tôi có về Sài gòn có dẫn người cháu đến thăm Linh mục Nguyễn Viết Chung, cha dong dỏng cao, hơi ốm, nói năng nhỏ nhẹ: “ “con” cũng chỉ là cái máng để hứng lấy tình yêu thương của mọi người để mang đến cho những người kém may mắn”.

Nhà văn Hương Vĩnh có viết: “Ba vị đã tác động mạnh mẽ trên ơn gọi của cha Chung là Giám mục Jean Cassaigne, Linh mục Lichetenberger và Dì hai Loan ( phục vụ trại phong Bến Sắn 17 năm, chết vì bịnh ung thư ở tại trại này). Cả ba cùng có mẫu số chung – như lời cha Chung – đó là họ đã rao giảng Tin Mừng cho cha bằng cuộc sống chứ không phải bằng lời nói.

Trong bài “Nguyễn Viết Chung và tiếng gọi của Chân Thiện Mỹ” cố Giáo sư Trần Duy Nhiên đã viết trong đoạn kết của bài này như sau:

“Thiên Chúa đã đến trong cuộc đời Nguyễn Viết Chung bằng những bước đi nhè nhẹ. Nhưng mỗi lần Ngài đến là Ngài để lại dấu ấn sâu sắc trong một tâm hồn biết lắng nghe. Giữa bao nhiêu thần tượng trên thế gian. Nguyễn Viết Chung biết chắt lọc một vài khuôn mẫu định hướng cho cuộc đời mình: Đức Cha Cassaigne, Cha Lichtenberger, Dì Hai Loan.. đấy là chưa kể đến nhiều người khác trong đó có thân mẫu của mình một người mẹ đã suốt đời âm thầm chịu đựng cho đến khi mù lòa. Giữa các gương mặt ấy có một nhân vật gần giống như Nguyễn Viết Chung: Linh Mục Bác sĩ Marcel Lichtenberger. Thế nhưng con đường Chúa dẫn hai vị đi thì hoàn toàn trái ngược nhau. Năm 25 tuổi Cha Lichtenberger vì tình yêu Thiên Chúa thúc bách phải đến với những con người bất hạnh tại Trung Hoa. Và trước những thương tích của Chúa Kitô thể hiện trên hình hài các bịnh nhân, cha đã trở về ngồi lại trên ghế nhà trường để rồi trở thành bác sĩ năm 48 tuổi. Ngược lại, bác sĩ Nguyễn Viêt Chung tốt nghiệp bác sĩ năm 25 tuổi, thế rồi muốn chia sẻ trọn vẹn sự khốn cùng của bịnh nhân nên rốt cục đã gặp Chúa Kitô chiụ đóng đinh trong những con người bất hạnh. Và điều này khiến cho vị bác sĩ tận tâm kia từ bỏ mọi sự để trở thành Linh Mục của Chúa vào tuổi 48.”

 Phùng Văn Phụng

ĐỨC MẸ CỨU GIA ĐÌNH TÔI KHỎI NẠN THỜ CÚNG DỊ THẦN

 CANH TÂN ĐẶC SỦNG KHẮP NƠI – LỜI CHỨNG TỪ THÀNH PHỐ MUMBAI,  ẤN ĐỘ ( Bài 1)

______________________________ ________________________

ĐỨC MẸ CỨU GIA ĐÌNH TÔI KHỎI NẠN THỜ CÚNG DỊ THẦN

MARIA AN DO

Bà Maria Sê-bat-chien Worli,           

      Thành phố Mumbai, Ấn Độ.

Cha Mẹ của tôi là những người Công Giáo biết kính sợ Chúa, họ đi lễ và đọc kinh thường xuyên; Chúa cho gia đình tôi có một công việc kinh doanh, đó là công việc chế tạo máy dụng cụ cho các phòng thí nghiệm, Công việc làm ăn phát triển nhanh chóng, cơ xưởng đã tăng lên được 30-35 người thợ, dưới quyền điều khiển của cha tôi. Nhưng dần dà, theo đà công việc bận rôn, chúng tôi đã không có thời giờ dành cho việc cầu nguyện, thưa chuyện với Chúa. Cha tôi vốntrước đây rất sốt sắng đến với Chúa thì nay lại thoái thác và nói “làm việc cũng là thờ phuơng” rồi ông bị cuốn hút luôn vào trong công việc kinh doanh tất bật.

Trong thời gian đó, mọi người lưu ý đến sự kiện các máy móc vốn có tổn phí hàng trăm ngàn rupee, tuy chúng đã được kiểm tra, cho chạy thử ở thành phố Mumbai trước khi được xuất xưởng, nhưng khi chở đến nơi của khách, máy mócthường hay bị nổ tung khi chúng tôi cho máy chạy để nghiệm thu trước mặt khách hàng. Sự lạ đó như một bí mậtkhông rõ nguyên nhân, rồi đến các Công nhân bắt đầu tự ý bỏ việc đi khỏi xưởng làm cho việc kinh doanh càng bị lỗ lãnhiều hơn. Ngày nọ, một công nhân đi coi bói về báo lại cho Cha tôi rằng những sự thiệt hại, thua lỗ là do công việc kinh doanh bị ếm chú bởi các thày phù thủy. Ông ta mời Cha tôi cùng đi đến thày pháp vào lần gặp kế tiếp. Thoạt đầu Cha tôi do dự và từ chối vì không tin vào pháp thuật, nhưng rôi, khi hỏi ý một người có niềm tin tôn giáo thì Cha tôi lại bị khuyên làm điều sai lạc, ông kia xúi dục “cứ việc đi tìm hiểu xem sao”. Thế là ông đã đi gặp người thày. Không phải chỉ gặp một lần mà sau đó, ông còn gặp tới ít nhất là 35 lần với nhiều thày pháp khác nhau, tất cả đều vô vọng, không giải quyết được các vấn nạn trong kinh doanh. Có người còn chỉ cho ông đi đến đền thờ Ajmer Meera Dattar, vợ của Thần Shiva (tượng thần có mười tay và thường được tạc cho cưỡi trên lưng một con cọp), sẽ cứu giúp trong mọi trường hợp vô hy vọng. Đó là lần thử cuối, ông tiêu nhiều tiền trong tất cả các lần thăm viếng những chỗ đó và càng làm cho phí tổn trong xưởng gia tăng lên, có lần một người lên đồng đòi phải sát tế súc vật, ba tôi cũng đã cúng tiến như lời dặn nhưng tất cả đều không làm cho tình hình khá lên chút nào. Thánh vịnh đoạn 16, câu 4 nói:

–     Sự đau đớn của những kẻ theo thần khác Sẽ gia tăng gấp bội…

Đây thực sự là điều xẩy ra trong trường hợp của gia đình chúng tôi. Sự trục trặc gia tăng lên gấp nhiều lần và không gì có thể cứu chúng tôi khoát khỏi những khổ sở đó… cho đên khi Cha Mẹ tôi đi viếng nhà thờ ở Irla trong dịp những ngày lễ trọng.

Ngay vào ngày đầu tiên, khi Mẹ của tôi đến viếng tượng Đức Mẹ được trang điểm đẹp đẽ cho việc tôn kính Mẹ trong dịp lễ, Bà chỉ nhìn thấy mặt Đức Mẹ không có tròng mắt, tuy ngạc nhiên nhưng mẹ tôi giũ kín điều đó trong lòng. Rồi trong ngày  tiếp theo, Bà thăm viếng cùng tượng Đức Mẹ, thì lại thấy Đức Mẹ như đang tỏ ra buồn bực, hai mắt của Mẹ tròn xoe như những viên bi, Đức Mẹ tỏ ra rất không vui lòng, bức xúc. Hoảng hốt khi được mục kích những điều xảy ra, mẹ tôi chạy đi tìm các sơ trong giáo xứ để tìm hiểu tại sao ban tổ chức lễ đã thay đổi  tượng kính Đức Mẹ vào mỗi ngàycủa dịp Lễ như vậy? Câu trả lời của Sơ là không hề có việc đó, nhưng sơ có nói thêm với Mẹ của tôi, có thể Đức Mẹ đã muốn nói điều gì đó với bà  và chúng ta cần phải ngồi trong nhà thờ, cầu nguyện để được rõ về những hiện tượng đã xảy ra. Rồi cả hai người đi  đến nhà thờ và cầu nguyện trong nước mắt ăn năn, xin cho được hiểu biết đường lối phải theo. Khi họ đi ra khỏi nhà thờ, mắt họ nhìn trúng ngay ở bảng thông báo, một chữ to, in đậm, “Đặc Sủng”,  nó tiếp tục chớp nháy trong mắt của họ. Mẹ tôi nghe tiếng Đức Mẹ truyền dạy “Hãy đi tới nhóm cầu nguyện Đặc Sủng”

Ngày thứ năm hôm đó, chúng tôi đi đến nhà thờ “Chúa Chiên lành” thuộc giáo xứ nhà, khu Bungalow số bốn, quận Andheri, để tham dự nhóm cầu nguyện Canh Tân Đặc Sủng, cũng ngay chiều hôm đó, có một thông báo về chương trình tiếp cận của nhóm mục vụ “Nguồn Nước Sống – Jeevan Jal”. Mẹ tôi hỏi thăm những người khác về chương trình này, một bà tốt lành đã lưu ý rằng Chúa sử dụng sư huynh Trevor để thuyết giảng về Lời của Ngài ở trong sách Kinh Thánh và nhiều người được chữa lành hay được giải thoát khỏi các trói buộc của Ma Quỷ. Thật đúng với những gì mà chúng tôi đang mong ước và chúng tôi cảm nhận được rằng, cuối cùng thì Chúa đã dùng Mẹ Maria để chỉ cho chúng tôi con đường đến với Chúa Giê Su.

Chúng tôi đã tham dự chương trình “Tiếp Cận” và cuộc đời của chúng tôi được thay đổi hoàn toàn. Một thời gian sau, tất cả các kẻ thù nghịch, tranh cạnh với chúng tôi đều làm hòa, trở thành bạn hữu. Chúa bắt đầu làm những điều kỳ diệu trong đời chúng tôi qua việc chữa lành và giải thoát chúng tôi khỏi các mối quan hệ, tương giao tội lỗi. Kể từ khi đó chúng tôi không hề bỏ Chúa và tiếp tục phục vụ trong nhóm cầu nguyện Canh Tân Đặc Sủng Jeevan Jal.

PEREIRA

SỰ ĐỔI ĐỜI CỦA  TÔI                          Ông Hillary Pereira,
Ghatkopar, Mumbai

Trước khi tiếp nhận Chúa Giê Su tôi sống theo cách của tôi, đời sống tôi chỉ có 3 thứ nối với nhau, nhảy Disco – uống rượu – họp mặt, tôi đàn đúm với chúng bạn vào mỗi ngày nghỉ cuối tuần ở quán nhậu. Tôi lê bước về nhà rất khuya, có khi đến 4 giờ sáng.

Vì tôi là người Công Giáo, nên tôi nghĩ rằng, mình có nhiệm vụ đi tham dự lễ vào Chúa Nhật, thế là đủ rồi. Nhưng rồi, bỗng nhiên các bạn tôi rời xứ sở đi làm ở nơi khác, họ đã bỏ tôi ở lại một mình. Vào một ngày thứ tư nọ, cảm thấy nhàm chán không có việc gì làm, lại thêm một người bạn cứ nài nỉ nhiều lần, cho nên tôi nhận lời đi đến tham dự một buổi thờ phượng Nguồn nước sống – Jeevan Jal”. Đề tài giảng dạy ngày hôm đó là “Tình Yêu của Thiên Chúa”. Tôi còn nhớ mình chọn một ghế ở bao lơn để không ai nhìn thấy, từ lúc đầu của buổi mít ting, tôi cảm thấy có một cảm giác khác lạ đang xảy ra trong tâm tư tôi. Khi sư huynh Trevor bắt đầu giảng Lời của Chúa, tôi bị đụng chạm cách mãnh liệt, đặc biệt là khi ông ta dẫn chứng thư La Mã 5:8

–     Còn Thiên Chúa thì lại thi thố lòng yêu mến của Người đối với ta thế này: là Đức Ki tô đã chết vì ta, ngay lúc ta còn là tội nhân!

Từ khoảnh khắc đó cuộc đời tương lại của tôi thay đổi, nó không bao giờ còn giống như xưa nữa.

Cũng có lúc tôi muốn quay đầu trở lại với nếp sống cũ, rồi mọi sự bắt đầu chìm vào nếp cũ, đâu hoàn đó chăng?

Mọi sự rất tốt trong một thời gian cho đến khi bạn tôi về thăm và định rằng chúng tôi cần đi với nhau như xưa, họ chỉ ở Mumbai có vài ngày và tôi không thể trả lời không khi họ mời đi chơi, tôi cùng  đi vũ trường Disco “động đất”, tuy nhiênkhi đến nơi, tôi chỉ lấy một chỗ ở trong góc và ngồi chờ ở đó trong suôt thời gian các bạn tôi quay cuồng trên sàn nhảy. Chẳng bao lâu sau, tôi nhận ra là mình rất không vui, và sợ hãi, tôi mong sao cho bạn mình mau chóng quay lại chỗ ngồi, sau một thời gian chờ đợi dài, vào lúc 1 giờ sáng, tôi đứng lên để đi tìm họ. Khi tôi từ ban công trên lầu nhìn xuống dưới, chỗ sàn nhảy, tôi giật mình, trong khoảng vài giây, ánh đèn chớp nhiều mầu sắc thay đổi, trông giống như một ngọn lửa lớn lóe lên, còn những người đang hò hét thích thú và cười giòn dã thì giống như tiếng kêu gào xin được cứu giúp cho thoát ra khỏi nơi đó. Tôi bị choáng vì những gì đã nhìn thấy và nghe rõ. Bấy giờ, tôi thực sự kinh hoàng, lòng đầy sợ hãi, tôi bắt đầu khóc thầm…

–     Còn lũ đớn hèn, bội tín, vô luân, sát nhân, dâm dật, và gian dối hết thảy, thì phần của chúng là nơi vũng lửa sinh diêm, đó là cái chết thứ hai  (Khải huyền 21:8)

 Cuối cùng, tôi cũng tìm ra được các bạn hữu và khẩn khoản xin họ đưa tôi về nhà. Về đến nhà, tôi lại càng khóc nhiều vì sự sợ hãi phát sinh từ những hình ảnh đã mục kích, vào lúc đó, thậm chí tôi than trách Chúa của tôi, vì sao Ngài lại đểcho sự số xẩy ra như vậy mà không dừng chân tôi khỏi phải  đi vào sàn khiêu vũ Disco ngay từ lúc đầu. Sau một lúc lâu, những giọt lệ vơi dần, tôi liền nghe thấy Chúa nói một cách dịu dàng ở  trong tâm hồn của tôi, “Regina, ta muốn chỉ cho con thấy nơi mà ta đã nhặt con ra khỏi”. Tôi lờ mờ nhận ra rằng vào lúc đó Chúa cho tôi thấy một thoáng nhìn, chớp lên, hình ảnh của hỏa ngục. Chỉ từ khi đó tôi mới hoàn toàn ý thức việc “được Chúa cứu” thì có giá trị ngần nào. Tôi ca ngợi và cảm ơn Chúa vì đời sống mới trong Chúa Giê Su đang được Ngài ban cho tôi.

–     Cho nên ai ở trong Đức Ki tô, kẻ ấy là tạo thành mới: cũ đã qua đi, và này mới đã thành sự!

(Nguồn: http://www.jeevanjal.org/ jeevanjal/testimonies.html).

Các phép lạ mới và ít được biết đến của cha Thánh Piô

Các phép lạ mới và ít được biết đến của cha Thánh Piô

“Cha Piô”, tên gọi đơn giản nhưng thân thuộc mà tín hữu khắp nơi trên thế giới dùng để gọi cha Thánh Piô thành Pietrelcina. Cha Piô sinh ngày 25 tháng 5 năm 1887, với tên Francesco Forgione, trong một gia đình Công giáo đạo hạnh ở Pietrelcina, Italia.

Vào năm 15 tuổi, cha gia nhập dòng capuchinô và trở thành Linh mục. Trong suốt cuộc đời, cha Piô được biết đến như là một nhà huyền bí, được mang 5 dấu thánh của Chúa Giêsu trong suốt 50 năm – các vết thương ở chân tay và cạnh sườn như Chúa Giêsu đã bị đóng đinh. Nhiều phép lạ và dấu lạ đã được thực hiện bởi cha Piô như các vụ chữa lành, đọc được nội tâm, bay lên và thậm chí xuất hiện ở hai nơi khác nhau trong cùng thời gian. Ngài là một trong những vị thánh vẫn đang thực hiện nhiều phép lạ trong Giáo hội cho đến ngày nay, cho những ai xin ngài khấn cầu.

Còn cha John Paul Zeller là một thừa sai dòng Phanxicô Ngôi lời vĩnh cửu và là một thừa sai Lòng thương xót đến từ thành phố Birmingham, tiểu bang Alabama, Hoa kỳ. Cha đang giữ một thánh tích hạng nhât của cha Piô và đã tận mắt chứng kiến những lần chữa lành qua lời cầu bầu của cha Piô với thánh tích cầm trên tay. Đối với cha Zeller, cha Piô là một vị thánh bầu cử rất quyền thế. Cha Zeller kể lại rằng ban đầu cha không có lòng kính mến đặc biệt đối với cha Piô.

Cha luôn tưởng tượng ra cha Piô rất là nghiêm khắc và sợ xin ngài cầu bầu vì sợ cha Piô cũng nghiêm khắc với cha. Nhưng vào năm 2004, sau khi cha Pio được Thánh Giao hoàng Gioan Phaolô II tuyên phong hiển thánh, cha Zeller đã hành hương đến thành phố San Giovanni Rotondo, nơi cha Pio đã phục vụ trong thánh chức Linh mục phần lớn thời gian ởđó, và lòng yêu kính đối với cha thánh Piô đã gia tăng từ đó. Cha Zeller đột nhiên cảm thấy mình có mối liên hệ với cha Piô, vì thánh nhân đã chọn ngài chứ không phải ngài chọn thánh nhân. Giờ đây cha nhận ra cha Piô thật sự là một tu sĩ vui vẻ. Cha nghĩ là cha Piô có vẻ nghiêm khắc là vì “thánh nhân biết khi nào người ta không ăn năn hoán cải.” Người ta nói là Cha Piô có thể ngửi được mùi của tội. Cha lo lắng cho ơn cứu độ của các linh hồn và mang lòng thương xót và tha thứ của Chúa đến cho các linh hồn của dân chúng.

Sau khi học biết về cuộc đời của cha Piô, cha Zeller được đánh động và lấy hết can đảm để xin các bề trên tu viện ở San Giovanni cho cha một thánh tích của cha Piô. Cha bề trên đã đồng ý và tặng cho cha Zeller không chỉ một, nhưng tới hai mảnh băng thấm máu mà cha Piô buộc quanh vết thương của các dấu thánh. Sau khi nhận được thánh tích của cha Piô, cha đã tặng cho cộng đoàn của cha, được Mẹ Angelica, người sáng lập mạng lưới truyền  hình Công giáo thành lập và được phép giữ cho mình thánh tích còn lại. Cha mang thánh tích này theo mình mọi lúc. Là giám đốc hành hương của trung tâm Mạng lưới truyền hình Lời vĩnh cửu, cha có nhiều cơ hội cầu nguyện với nhiều người. Cha cầu nguyện với các tín hữu hành hương và có những trường hợp, theo cha, có sự chữa lành nhờ lời cầu bầu của cha Piô.

Một trường hợp xảy ra vào gần giữa năm ngoái (2016), trong một buổi cử hành chữa lành ở đền thánh Thánh Thể ở Hanceville vào ngày lễ Đức Mẹ Fatima, khi cha và 2 Linh mục khác đã dùng hai băng vải thánh tích của cha Pio để cầu nguyện trên dân chúng. Khi họ đang cầu nguyện, một phụ nữ bị đau thần kinh tọa tiến lên và cha đã cầu nguyện cho bà. Sau  đó, phụ nữ này trở lại và cho cha biết là sau khi trở về chỗ ngồi, cơn đau của bà đã biến mất. Một trường hợp khác, không lâu sau khi nhận được thánh tích, cha Zeller đang trò chuyện với vài người bạn thì nhận ra đứa con gái 12 tuổi của một người bạn đang đau đớn vì bị viêm tai và dường như không thể lành.

Cha Zeller hỏi đứa bé xem ngài có thể cầu nguyện trên cô với thánh tích không. Cô bé trả lời được. Cha Zeller cho người mẹ và cô gái thấy thánh tích. Khi cha vừa đặt thánh tích đụng tai của cô gái và bắt đầu cầu nguyện, cô bé trượt khỏi tay cha và ngã xuống đất. Cha Zeller không kịp đỡ cô bé vì nghĩ có chuyện gì xảy ra với cô. Khi cha đang lo sợ thì mẹ cô bé rất bình tĩnh, bà tin đó là hoạt động của Chúa Thánh Thần. Nhưng từ lúc đó cô bé không còn bị viêm tai nữa. Một trường hợp của một phụ nữ bị bệnh tim đã 40 năm cũng được chữa lành sau khi được cha đặt thánh tích của cha Pio trên bà và cầu nguyện. Cha Zeller nhấn mạnh rằng không phải là cha, nhưng việc chữa lành là nhờ lời cầu bầu của cha thánh Piô. (CNA 22/09/2016)

Hồng Thủy

Anh chị Thụ & Mai gởi

Chứng Nhân Lòng Thương xót Chúa

 Chứng Nhân Lòng Thương xót Chúa

Maria Kim Nhung

Đã từ lâu, tôi có nghe nói đến Lòng Thương Xót Chúa. Chuyện kể về Nữ tu Faustina được thị kiến và mạc khải bởi Chúa Giêsu. Kinh Lòng Thương Xót Chúa và Tuần Cửu Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa cũng đã được phổ biến. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã dành Chúa Nhật thứ nhất sau lễ Phục Sinh để Kính Lòng Thương Xót Chúa.

Kinh Lòng Thương Xót Chúa chưa được phổ biến rộng rãi, nên nhiều người trong chúng ta chưa quan tâm đúng mức và cũng chưa biết rõ lắm. Tôi cũng nằm trong thành phần đó. Quyển sách Nhật ký Lòng Thương Xót Chúa của Thánh Nữ Faustina tôi cũng đã mua, Kinh Lòng Thương Xót Chúa tôi cũng sẵn có, còn đọc… thì từ từ, khi nào người ta đọc thì mình đọc theo! Sách thì dầy quá, ngại đọc lắm! Tôi cũng đã đọc nhiều chuyện kể về những chứng nhân Lòng Thương Xót Chúa, nhưng đọc thì đọc, tôi cũng chẳng quan tâm gì lắm! Ngay cả chị bạn gần nhà, kể tôi nghe rằng: Má chị và chị chiều nào cũng vậy, khoảng 3 giờ chiều, hai mẹ con cùng nhau đọc Kinh Lòng Thương Xót Chúa. Kết quả thật bất ngờ: Má chị đã đi lại được sau 6 tháng nằm liệt giường! Nghe cho biết vậy thôi, chứ thực sự tôi cũng chảng mấy quan tâm đến việc mà chị bạn tôi cho là một phép lạ!

Cho đến gần đây, chính tôi được Chúa chữa lành, việc này đã là một bước ngoặt trong niềm tin của tôi, một ngã rẽ trong cuộc đời tôi, khiến tôi không thể không tin, tôi viết lại những lời chia sẻ này như là một lời tạ tội với Chúa , đồng thời để ngợi khen Lòng Thương Xót Chúa mà tôi chính là người đã được Chúa đoái thương. Bây giờ thì tôi đã hiểu câu “Jesus, I Trust In You” dòng chữ dưới tấm ảnh, tạm dịch “Lạy Chúa Giêsu, con tin cậy Chúa”. Hiểu rất rõ và cũng vô cùng thấm thía!

Cách đây hai năm, tôi bị đau cổ tay và các ngón tay ở bàn tay phải. Tôi đi khám Bác sĩ gia đình, Bác sĩ cho tôi uống nhiều loại thuốc Tây, kể cả tôi được gửi đi vật lý trị liệu. Cơn đau vẫn không thuyên giảm. Hàng đêm tôi phải vật vã với cơn đau. Tây y không kết quả, tôi tìm đến Đông y. Tôi phải uống những chén thuốc đen quánh, đặc sệt, đắng nghét, mà tôi rất ghét! Nhưng vì những cơn đau hành hạ từng đêm, tôi phải nhắm mắt, nhắm mũi mà ực từng ngụm. Hết thang thuốc này tới thang thuốc kia, mà cơn đau vẫn không thuyên giảm! Tôi cũng tìm đến các nhà châm cứu, Tây, Ta, Tàu đũ hết. Cũng chẳng bớt chút nào! Cuối cùng Bác sĩ đề nghị giải pháp cuối cùng: mổ! Nghe đến giải pháp này, tôi rùng mình, ớn lạnh! Vì thú thật tôi rất sợ mổ. Thà đau, chết bỏ chứ mổ thì… cho tôi cám ơn! Nhưng, nhiều khi cơn đau hành hạ, chịu không nỗi, đã có lúc tôi định liều một phen, chịu mổ để khỏi chịu đau! Nhưng rồi lại ngần ngại, cuối cùng thì, thà chịu đau hơn bị mổ! Cơn đau vẫn làm khổ tôi từng đêm. Cơn đau cũng hạn chế mọi khả năng xử dụng bàn tay phải, ảnh hưởng đến viêc làm của tôi trong hảng… Tôi sút giảm thể lực và bi quan vô cùng. Trong tận cùng nỗi đau, tôi chợt nhớ đến Chúa, nhớ lại chuyện của bà mẹ chị bạn được Chúa chữa lành bệnh bại liệt… Tôi tự nghĩ, sao mình không chạy đến Chúa? Bại liệt Chúa còn chữa lành huống chi tay đau, “chuyện nhỏ”? Bảy, tám Bác sĩ ngoài đời, tốn bao nhiêu tiền mà cũng không chữa được tay mình, sao không chạy đến Bác sĩ Giêsu, có tốn đồng xu cắc bạc nào đâu, Bác sĩ Giêsu chỉ cần mình có Lòng Tin thôi! Còn chờ gì nữa!

Từ hôm ấy, tôi bắt đầu đọc Kinh Lòng Thương Xót Chúa mỗi ngày. Cứ khoảng 3 giờ chiều, dù ở nhà hay tại nơi làm việc, tôi cũng đọc kinh. Sau đó, tôi mời gọi chồng, con tôi cùng đọc chung với tôi trong những ngày nghỉ, đọc kinh tại nhà. Khoảng hai tháng sau thì đến Tuần Cửu Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa (tuần Cửu Nhật bắt đầu từ Thứ Sáu Tuần Thánh, kết thúc vào Chúa Nhật thứ nhất sau Lễ Phục Sinh, tức là Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa) Tôi gia tăng lòng Tin và khẩn thiết nài xin Chúa chữa lành tay tôi. Kết quả thật khả quan: tay tôi bớt đau, cử động nhẹ nhàng, xoay trở dễ dàng và không còn bị đau về đêm như trước đây nữa! Bác sĩ Giêsu thật tuyệt vời! Ngài đã nghe lời tôi kêu xin, Ngài đã chữa lành cho tôi – cơn đau mà tôi đã phải khốn khổ vì nó suốt hai năm qua – không phải uống thuốc, không phải tốn tiền, không bận tâm gì cả! Thật ra tôi chỉ bỏ ra MƯỜI PHÚT mỗi ngày, cùng với LÒNG TIN vào Tình Yêu của Chúa. Thế thôi!

Alleluia! Alleluia! Bây giờ thì tôi tin, tin tuyệt đối! Và tôi cũng cầu mong mọi người cùng có lòng tin như tôi! Tôi xin là một nhân chứng sống cho Chúa qua sự kiện Chúa đã chữa lành tay tôi! Bây giờ thì tôi thấm thía lời một bài Thánh Ca nào đó “Có Thần Linh nào như là Gia-vê? Mỗi khi khẩn cầu, có Ngài ngay bên…” Thật vậy, Chúa ở ngay bên cạnh chúng ta, sẵn sàng nghe lời ta kêu xin, vậy mà chúng ta thật vô tâm. Chúng có một nguồn hổ trợ vô cùng phong phú, vậy mà chúng ta không biết, không xử dụng trong cuộc sống của mình!

Qua “câu chuyện thật đời tôi” mà tôi vừa chia sẻ, tôi ước mong mọi người hãy hưởng ứng đọc kinh Lòng Thương Xót Chúa mỗi ngày, với niềm tin rằng Chúa hiện diện bên cạnh chúng ta, luôn mở rộng vòng tay chờ đón tất cả các con tìm về bên Trái Tim Yêu Thương vô bờ của Người!

Maria Kim Nhung

Anh chị Thụ & Mai gởi