CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ ĐÃ CỨU TÔI!

CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ ĐÃ CỨU TÔI!

Chuyện thật của một người

Trần Mỹ Duyệt

          Tôi và anh quen nhau đã từ mấy chục năm rồi, và cả hai đã có một thời làm huynh trưởng trong Liên Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Nguồn Sống. Lòng nhiệt thành và hăng say với sinh hoạt Thiếu Nhi Thánh Thể của anh phải chăng phát xuất từ một niềm tin, hay đúng hơn là một “phép lạ” mà Chúa Giêsu Thánh Thể đã thực hiện để cứu anh.

     Câu chuyện này do chính anh kể, vừa kể vừa xúc động và vừa khóc nức nở. Anh đã cho phép tôi ghi lại câu chuyện này như một tâm tình tri ân, yêu mến đối với Chúa Giêsu Thánh Thể, và cũng như một thông điệp gửi cho những ai còn đang hồ nghi, hoặc không tin tưởng vào Phép Thánh Thể.

Hôm qua, sau thánh lễ sáng như thường lệ, anh cùng với tôi bước ra khỏi nhà thờ. Anh giơ tay bắt tay tôi, và như thường lệ chúng tôi vẫn trao cho nhau những câu chào hỏi xã giao. Nhưng hôm nay những câu xã giao không ngừng lại, và anh đã nói với tôi là anh muốn tôi dành cho anh ít phút để nghe anh kể một tâm sự.Tôi đồng ý, và câu chuyện được bắt đầu. Thoạt đầu anh hỏi tôi;

-Anh có tin là tôi được Chúa Giêsu Thánh Thể cứu không?

-Tôi tin là Chúa có thể cứu mọi người, nhưng trường hợp anh việc ấy xẩy ra như thế nào?

-Đây là một câu chuyện riêng tư mà nói ra không chắc mấy ai tin. Nhưng tôi muốn chia sẻ với anh hôm nay, để qua anh nhiều người cũng như tôi tin vào Chúa Giêsu Thánh Thể và được Chúa yêu thương, chở che, cứu giúp.

     Nói xong, anh bắt đầu kể lại câu chuyện thật đã xẩy ra đối với anh hơn 60 năm về trước:

-Anh biết không? Hồi còn nhỏ tôi là một thằng bé vô cùng bướng bỉnh, khó dậy, và phá phách làng xóm. Hôm ấy như thường lệ, tôi theo mọi người ra bãi bắt ngao. Thủy triều xuống phơi trắng bờ biển những con ngao tha hồ mà bắt. Tôi hăng say nhặt ngao bỏ đầy túi đựng. Không những thế, tôi muốn ra xa hơn ngoài cồn để bắt những con ngao to. Vì mải mê bắt ngao, và có lẽ vì sóng biển, gió biển lấn át khiến tôi không nghe được tiếng mọi người gọi để vào bờ vì đã đến lúc thủy triều lên.

Một mình tôi còn sót lại giữa cảnh trời nước bao la.Nước biển càng lúc càng dâng cao khiến tôi hoảng sợ.Tôi tìm một mỏn cao ở cồn cát đứng đó mà nước mắt chan hòa.Tôi bắt đầu sợ, vì nước biển đã dâng đến cổ tôi rồi. Điều đó có nghĩa là tôi sẽ bị dòng nước biển cuốn trôi trong tích tắc, vì chỗ tôi đang đứng xa bờ, mà tôi cũng không thể tự mình bơi vào bờ được!Tôi lo lắng, sợ sệt và bắt đầu hoảng loạn. Trong cơn nguy khốn ấy, trong đầu tôi bỗng lóe lên một lời nói của cha xứ đã dậy chúng tôi trong lúc học xưng tội rước lễ lần đầu. Ngài bảo chúng tôi: “Các con phải tin thật Chúa Giêsu hiện diện trong Phép Thánh Thể. Khi nào gặp sự gì nguy hiểm chúng con hãy cầu xin với Chúa.”

Thế là tôi ngửa mặt lên trời, không phải là cầu xin mà la to như vỡ lồng ngực:“Chúa Giêsu Thánh Thể ơi, xin cứu con. Con sắp chết đuối rồi!” Tôi vừa la, vừa khóc, vừa sợ!

Và như một phép lạ, tôi bỗng thấy trong bờ có bóng một người đang đi trên đó.Thế là tôi la, tôi hét để xin cứu tôi. Nhưng có lẽ tiếng sóng biển đã át tiếng la hét của tôi, và tôi đã cởi áo tôi ra, rồi phất qua, phất lại, miệng tiếp tục gào to: “Cứu tôi với! Cứu tôi với!”

Thật lạ lùng, người đó xem như đã nghe tiếng tôi và nhận ra tôi. Ông ta bơi ra chỗ tôi rồi đưa tôi vào bờ một cách an toàn. Xong chuyện ông ấy bỏ tôi lại trên bãi biển và đi mất để mặc tôi ngơ ngác không biết chuyện gì vừa xẩy ra cho mình.Vì vừa hoàn hồn sau cái chết hụt, tôi cũng chẳng để ý đến người ấy, và cũng không biết ông ấy đã khuất dạng lúc nào?Cho đến bây giờ  mỗi khi nhớ lại biến cố này, tôi cũng vẫn còn tự hỏi, ông ta là ai? Làm gì mà lại xuất hiện đúng nơi và đúng lúc tôi đang cần như vậy?!

    Trong lúc anh còn đang nghẹn ngào diễn tả giây phút được cứu sống trong gang tấc của anh, tôi nói với anh:

-Biết đâu chẳng phải là thiên thần bản mệnh của anh mà Chúa Giêsu Thánh Thể sai xuống cứu anh.

-Vâng, mà cũng biết đâu chẳng phải là chính Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở trong Nhà Tạm nhà thờ của tôi gần đấy đã đích thân cứu tôi.

-Và cũng có thể là một người nào đó vô tình đi ngang qua thấy anh và đã cứu anh?

 Rồi anh thêm:

-Nếu là Chúa Giêsu Thánh Thể hay thiên thần bản mệnh cứu tôi thì không nói gì, chứ như một người thường thì phải là người có tài bơi lội thật giỏi mới cứu được tôi.

     Nghe anh kể đến phần kết câu chuyện, chúng tôi đã có cùng một cảm nhận rằng: Nếu Chúa hiện thân hay thiên thần bản mạnh hiện thân để cứu anh thì không có gì để phải hồ nghi. Bởi Chúa có thể làm được mọi sự.Ngài cũng có thể đã ra lệnh cho thiên thần bản mệnh anh cứu anh.Nhưng nếu một ai đó đi trên bãi biển lúc bấy giờ thì người đó cũng phải là do Chúa Giêsu Thánh Thể sai đến. Bởi vì trong lúc nguy nan, chính anh đã kêu xin Ngài.

    Tôi đã đọc nhiều câu chuyện phép lạ về Phép Thánh Thể, và tôi cũng suy niệm nhiều trước Nhà Tạm, nhưng hôm nay khi nghe bạn tôi kể về trường hợp mà nó đã xẩy ra cho chính anh, trực tiếp liên quan đến Chúa Giêsu Thánh Thể, tôi bỗng thấy mình được tăng thêm đức tin. Tôi nhớ lại lời Thánh Tôma Tiến Sỹ trong khi suy niệm về Thánh Thể. Ngài viết: “Ta hãy lấy Đức Tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì!”.

     Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con tin, con thờ lậy, con yêu mến Chúa. Chỉ vì yêu thương nhân loại, yêu thương con mà Chúa đã tự hạ ẩn thân trong tấm bánh nhỏ bé để làm của ănnuôi hồn chúng con, và để ở với chúng con, để thương yêu, bao bọc chúng con như chính Chúa đã nói: “Thầy ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế!” (Mat 28:20)

   Câu chuyện của người bạn con hôm nay khiến con xác tín một lần nữa rằng qua Bí Tích Thánh Thể, Chúa vẫn ở trong con, ở với con, và đồng hành cùng con trong mọi ngày trên hành trình cuộc sống.

Lễ Minh Máu Thánh Chúa

18 tháng 6 năm 2017

KimBằngNguyễn gởi 

Chuyện đời Nữ Tu Sĩ từng là Ngôi Sao Điện Ảnh

Chuyện đời Nữ Tu Sĩ  từng là Ngôi Sao Điện Ảnh 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Một Nữ Tu sĩ sống ẩn dật, lánh đời suốt 50 năm, vừa tâm sự chuyện đời khiến dư luận sửng sốt.

Không ai có thể ngờ rằng một Nữ Tu Sĩ đã sống ẩn dật lánh đời suốt gần 50 năm lại từng là Ngôi sao Điện ảnh đang lên ở Hollywood, từng đóng cặp rất tình tứ với “Ông Hoàng Rock & Roll” Elvis Presley trên màn ảnh.

Nữ Tu sĩ Dolores Hart ở Tu viện Regina Laudis, thuộc Thị trấn Bethlehem, Bang Connecticut – USA.
Câu chuyện về một thời tuổi trẻ của Nữ tu sĩ Dolores Hart đã khiến nhiều người thấy bất ngờ thú vị, rằng trước đây Bà từng là một Ngôi sao Điện ảnh đang lên ở Hollywood, nhưng vào năm 1963, Bà đã quyết định rời xa Hollywood để trở thành một Nữ Tu sĩ.

 

 

 

 

 

 

 

 

Nữ tu Dolores Hart đã quyết định chia sẻ câu chuyện đời mình, nhằm mục đích thu hút sự chú ý của Công chúng đối với chiến dịch gây Quỹ sửa chữa Tu viện đang ngày càng xuống cấp, nơi Bà và 40 Nữ tu khác đã gắn bó gần suốt cuộc đời.


 

 

 

 

 

 

 

 

Dolores Hart (thời trẻ) và “Ông Hoàng Rock & Roll” Elvis Presley, từng cùng xuất hiện trong hai Bộ phim được thực hiện hồi Thập niên 1950-1960.


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bà Dolores (76 tuổi) lần đầu tiên chia sẻ về “một thời quá khứ huy hoàng” của mình hồi năm 2011 – khi Bà và 40 nữ Tu sĩ khác trong Tu viện đang phải đối diện với nguy cơ mái nhà chung của Họ có thể sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn vì xuống cấp, mà Tu viện không có kinh phí sửa chữa.

Các Nữ Tu đã cùng nhau nghĩ cách làm sao để có thể cứu Tu viện. Bà Dolores đã nảy ra sáng kiến viết Tiểu sử kể về những bí mật thú vị trong cuộc đời mình. Cuốn sách đã tạo được hiệu ứng tốt. Sau đó, Bà còn được mời xuất hiện trong những cuộc Diễn thuyết và trò chuyện trên Truyền Hình.

 

 

 

 

 

 

Hồi năm 2012, lần đầu tiên sau gần 5 Thập kỷ, Bà trở lại Hollywood để tham dự Lễ trao giải Oscar khi Bộ phim Tài liệu ngắn làm về cuộc đời Bà – “God is the Bigger Elvis” nhận được đề cử.


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Sau tất cả, đối với Bà Dolores, phần thưởng lớn nhất mà Bà nhận được chính là Tu viện đã có đủ kinh phí để sửa chữa.


  

 

Ngay sau khi cuốn Tiểu sử của Bà ra mắt Độc giả, Tu viện bắt đầu nhận được thư và tiền quyền góp gửi về. “Những người hâm mộ Elvis Presley đã rất quan tâm và gửi tiền quyên góp về cho chúng tôi” – Bà Dolores cho biết.

Tính đến thời điểm hiện tại, Tu viện đã có được 3 triệu đô la (65 tỉ đồng) để tu sửa. Những gì nhận được đã vượt xa mong mỏi của các Nữ Tu ở Tu viện Regina Laudis.

 

 

 

 

 

 

 

 

Dolores Hart và Elvis Presley trong phim “Loving You”. Nữ Diễn viên trẻ xinh đẹp vào vai người yêu của chàng Ca sĩ.

 

 

 

 

 

 

Trong phim, nữ Diễn viên Dolores Hart đã có nhiều cảnh tình tự với nam Ca sĩ Elvis Presley. Chính điều này đã thu hút sự quan tâm của Công chúng, một phần vì sức hấp dẫn của Elvis Presley, một phần vì hình ảnh trái ngược của một Nữ Tu sĩ trong những năm tháng Tuổi trẻ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Sau bộ phim đầu tiên đóng cặp với Elvis – “King Creole”, nữ Diễn viên Dolores Hart bắt đầu được biết tới và còn xuất hiện trong vài Bộ phim nữa, trong đó có “Loving You”, diễn cặp trở lại với Elvis Presley.

Where the Boys Are (1960) Directed by Henry Levin Shown: George Hamilton, Dolores Hart

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trong bức ảnh này, Dolores Hart xuất hiện bên nam Diễn viên George Hamilton trong phim “Where The Boys Are” (1960).


 

 

 

 

 

 

 

Dolores Hart đang trên đà trở thành một Ngôi sao Điện Ảnh thì quyết định chuyển hướng để trở thành một Nữ Tu sĩ. Trong ảnh, Dolores đang xuất hiện bên nam Diễn viên John Saxon và Nhà đầu tư Điện ảnh Serge Semenenko.

Bà Trưởng Tu viện – Nữ Tu sĩ Lucia Kuppens cho biết việc kêu gọi sự giúp đỡ từ bên ngoài vốn là việc rất khó khăn với các Nữ Tu, bởi họ đã quen với cuộc sống ẩn dật, tu kín, việc ra ngoài gặp gỡ mọi người để mong nhận được sự giúp đỡ là cả một thách thức. Giải pháp mà Nữ tu Dolores Hart thực hiện đã giúp Tu viện thoát khỏi cảnh hiểm nghèo.

Giờ đây, khi được Công chúng biết đến nhiều hơn, các Nữ Tu sĩ bắt đầu thực hiện những món đồ thủ công, đồ gốm, đồ thêu, ghi âm những bản Thánh ca … nhằm giúp tăng thêm nguồn thu cho Tu Viện.


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tu viện Regina Laudis giờ đây đã thoát khỏi nguy cơ bị đóng cửa vì xuống cấp

 

 

 

 

 

 

 

Nữ Tu sĩ Dolores của thời hiện tại


 

 

 

 

 

 

Cuộc sống thường ngày bên trong Tu viện

 

 

 

 

 

 

 

Một buổi cầu kinh chiều tại Tu viện Regina Laudis

 

 

 

 

 

 

 

Nữ tu Dolores cầu nguyện 7 lần một ngày tại Tu viện. Bà đã gắn bó với nơi này kể từ năm 25 tuổi. 

 

Toàn cảnh Tu Viện Regina Laudis

 Bên trong Nhà Thờ Tu Viện

 

 

 

 

 

 

 

 

Chăn nuôi gia súc 

 Các Nữ Tu trong giờ lao động

Bà Cố có 4 người con là Linh Mục

Bà Cố có 4 người con là Linh Mục

Bà Cố có 4 người con là Linh Mục

Bà Cố có 4 người con là Linh Mục
Gia đình có một người con tận hiến đời mình cho Chúa đã là quý, đàng này … gia đình có 7 mà lại hiến dâng đến 5. Phải chăng đó là quà tặng, là ân huệ lớn lao mà Thiên Chúa ban cho gia đình ông bà cố Liêm – Mẫn.
 
Thiên Chúa vẽ đường thẳng bằng compa để rồi mối tình giữa chàng lính nhà quan gốc Huế lại gặp cô thôn nữ hiền lành đạo đức ở mảnh đất Quảng Ngãi dấu yêu.
 

Bà Cố có 4 người con là Linh Mục

          Sinh ra trong gia đình quan Pháp làm về ngành đường sắt cũng có vai vế trong xã hội thời bấy giờ và vì công việc nên gia đình của anh chàng Phêrô Trương Đình Mẫn (sinh năm 1920) tiến vào Quãng Ngãi. Chả hiểu sao nơi mảnh đất Quảng Ngãi lại se duyên cho chị Matta Nguyễn Thị Liêm (sinh năm 1921). Ơn Chúa đã kết nối hai anh chị và rồi hoa quả sinh ra cho gia đình hai họ Trương – Nguyễn được tất cả 7 người con.

          Như đã nói, nghèo nhưng sạch, rách nhưng thơm và nhất là thụ hưởng từ truyền thống đạo đức gia đình để rồi sau khi lập gia đình, cô nàng Liêm thời bấy giờ vẫn chu toàn bổn phận của một người vợ, một người mẹ và thêm vào đó trọng trách của người nấu cơm cho cha Xứ họ Trà Câu. Lối sống đạo đức cứ ảnh hưởng và ăn dần vào đời sống của những đứa con tự khi nào không biết để rồi người con cả là nữ tu Matta Nguyễn Thị Đức tận hiến đời mình trong dòng Mến Thánh Giá Quy Nhơn.

“Chị mình đi tu chả lẽ mình không tu sao ?” Thế là Phêrô Trương Đình Tu và Giuse Trương Đình Hiền ngày ấy là hai cậu Lễ sinh của họ đạo Trà Câu – Đức Phổ (Quảng Ngãi) đã đi tu và sống thật hiền lành với 2 cái tên mà cha mẹ của 2 cậu đặt cho. Tu và Hiền đã vào Chủng Viện Quy Nhơn tu và sống thật hiền cho đến ngày nay dẫu đảm trách chức vụ chánh xứ, quản hạt và như cha Hiền hiện nay là Tổng Đại Diện giáo phận Quy Nhơn. Ai nào đó tiếp xúc với Cha Hiền sẽ nhận ra đúng là hiền với cái tên mà ông bà cố đã chọn.
 

a

Hai người anh đi tu làm cho hai người em cũng tò mò theo tới.

Người em út G.B. Trương Đình Hà năm nay cũng đã ngót nghét 57 tuổi đang làm chính xứ Thủ Lựu của giáo phận Bà Rịa thân thương. Trên cha Hà là người anh trầm tính nhưng không kém phần hài hước là Tôma Trương Đình Sơn.

Ai nào đó đã gặp Cha Sơn ắt hẳn sẽ được nghe nhiều câu chuyện tục nhưng lại thanh để góp vui cho đời. Chắc có lẽ Cha Trương Đình Sơn nhiễm máu của Cha già cố Giuse Trần Hữu Thanh (DCCT – đã về nhà Cha năm 2007 tại DCCT Thái Hà) để rồi thu thập những câu chuyện hài gửi gấm góp chút niềm vui.

Có lẽ, nếu nhắc đến Cha Toma Sơn mà không nhắc đến hành trình gần 10 năm dấn thân truyền giáo ở mảnh đất đầy gian khó Haiti.  

Sinh năm 1959, học đến lớp 6 trường làng, chú Tôma khăn gói quả mướp tìm hiểu ơn gọi tại DCCT Huế những năm 1970. Mùa hè đổ lửa 1972 đã đưa chú Sơn vào DCCT Thủ Đức cho đến ngày mất nhà mất đất.

Đường tu dù dài dù khó nhưng chú Sơn vẫn tiếp tục theo học Đại Học Sư Phạm ngành Pháp văn và vẫn giữ vững đường tu. Sau những năm tháng khó khăn, chú Sơn về giúp giáo xứ Xuân Thịnh (Vườn Ngô) những 5 năm. Thời điểm này, Cha Sơn cũng đã hướng dẫn, đào tạo nhiều ơn gọi và nay có một mầm ơn gọi đã trổ hoa là Cha Giêrônimô Nguyễn Đình Thuật đang phục vụ cho anh chị em thiểu số ở Hà Bầu – Gia Lai.
 

a

10 năm âm thầm sống ở Phú Dòng, sau đó lãnh sứ vụ linh mục và lên đường truyền giáo. Sau những ngày tháng bôn ba giữa những khó khăn của cuộc sống, hiện tại Cha Tôma sống đời mục tử nhỏ bé âm thầm bằng cách giúp các xóm giáo mà Nhà Dòng coi sóc ở Kỳ Đồng.

Phần ông bà cố, sau những năm tháng chiến tranh khốc liệt, ông bà dắt díu nhau tạm cư ở vùng Bàu Cá Trảng Bom.

5 người dấn thân vào đời sống ơn gọi, có một người con gái là chị Mađalêna Trương Thị Như lập gia đình và chị có 7 người con.

Nếu như kể về gia đình đặc biệt này ngoài người đặc biệt là ông bà cố và 5 người con đi tu và chị Như mà không kể đến chị Trương Thị Trinh quả là điều thiếu sót thật lớn. Giản đơn là chị Trinh vì chữ hiếu, vì cha mẹ và vì các chị và em nên chị sống như vậy cho đến bây giờ để thay mặt những người đi tu lo cho cha mẹ già.

Ai ai cũng biết rằng nuôi người già chả khác gì nuôi một đứa trẻ lên 5 lên 3. Cái tuổi già là cái tuổi cực chướng của cuộc đời. Có khi cho ăn rồi lại đi rêu rao rằng bị bỏ đói, có khi thuốc uống mấy cử nhưng cứ bảo “chúng nó quên tui rồi”. Và như vậy, để chăm bẵm cho những “em bé có quyền đòi hỏi” quả thật là điều nan giải.

Kinh nghiệm trong gia đình ai ai cũng biết những “em bé có quyền đòi hỏi” này khó tính như thế nào. Thà chăm trẻ con thì mình còn có quyền trên nó nhưng chăm cha mẹ già thì mình vừa chăm, vừa cực nhưng lại hoàn toàn bị tước quyền công dân trước những vị này. Chính vì thế, chị Trinh, có lẽ là người được Giáo Hội ghi công và nhắc đến vì sự hy sinh rất lớn của chị.
 

ơn gọi

Trước ánh sáng lấp lánh của một chị phụ trách cộng đoàn như chị nữ tu Matta Nguyễn Thị Đức hay rực rỡ trong những ngày kỷ niệm Ngân Khánh – Kim Khánh thì lại lóe lên hình ảnh của người em tên Trinh thay chị lo cho cha mẹ già.

Trước vẻ đẹp lung linh của 4 anh em làm linh mục và có cha Hiền làm Tổng Đại Diện của một giáo phận thì đàng sau đó lại lóe lên hình ảnh của người chị gái tần tảo lo cho cha mẹ già.

Chúa gọi ông Cố về với Chúa năm 1998 khi ông Cố thọ 78 tuổi. Và, bà Cố may mắn hơn ông, phần phúc hơn ông là hiện giờ Bà còn minh mẫn ở cái tuổi mà khối kẻ mong, vạn người muốn là gần 100 tuổi mà vẫn nhìn thấy con mình sống trọn vẹn trong đời tận hiến.
Ta hãy cùng tạ ơn Chúa với gia đình ông bà cố Mẫn – Liêm, với 5 anh chị em của gia đình này và với nhiều gia đình khác nữa đã tận tình và hết lòng dâng hiến cho Chúa 4, 3, 2 người con. Và đặc biệt, có cả gia đình hiện ở giáo xứ Dốc Mơ dâng cho Chúa 2 người con trai trong một hội dòng và coi như chả có kẻ nối dõi tông đường. Những tấm lòng tận hiến như vậy quả là hoa quả tuyệt vời dâng lên cùng Chúa. | Báo Công Giáo

Xin Chúa gìn giữ bà Cố Liêm, quý ông bà cố, quý gia đình đã quảng đại dâng cho Chúa những người con để phục vụ trong cánh đồng truyền giáo. Xin Chúa cho Hội Thánh ngày càng có thêm nhiều thợ gặt để gặt lúa về như lòng Chúa mong muốn.

Người Giồng Trôm

Cứ Xin Thì Sẽ Được, Cứ Tìm Thì Sẽ Thấy, Cứ Gõ Thì Cửa Sẽ Mở!

Cứ Xin Thì Sẽ Được, Cứ Tìm Thì Sẽ Thấy, Cứ Gõ Thì Cửa Sẽ Mở!

  • Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

… Joseph là thanh niên bất toại, tuổi hơn 30. Anh đi bằng hai đầu gối và rất nghèo. Tuy Joseph nghèo của cải nhưng không nghèo niềm tin, lòng hy vọng và nhất là tình yêu thương. Niềm hạnh phúc duy nhất và tràn trề của anh là dành trọn thời giờ để giúp đỡ tha nhân.

Joseph sinh trưởng trong gia đình ở làng nhỏ tại Auvergne (Trung Pháp). Tuổi thơ Joseph trôi qua trong bình lặng nơi khung cảnh gia đình nghèo. Sau khi học xong tiểu học, cậu bé bắt đầu làm việc giúp đỡ cha mẹ.

Không bao lâu sau cảnh thiếu ăn gây ảnh hưởng mạnh trên thân xác gầy còm của cậu bé. Joseph mất dần sức mạnh nơi hai cánh tay: không cầm nổi các vật dụng để làm việc. Cậu cũng không đứng vững nữa. Đến năm 20 tuổi thì Joseph hoàn toàn không sử dụng được đôi chân. Chàng phải bò lết hoặc đi bằng hai đầu gối.

Tàn tật vào lúc 20 tuổi, quả là thử thách nặng nề! Joseph cảm thấy đau đớn khi phải sống nương tựa vào gia đình, trong khi gia đình lại nghèo thật nghèo, cần chàng giúp đỡ một tay. May mắn Joseph là tín hữu Công Giáo nhiệt thành. Chàng sống thật niềm tin của mình. Chàng đặt trọn cuộc đời trong bàn tay Quan Phòng của THIÊN CHÚA. Thêm vào đó, Joseph rất có lòng sùng kính Đức Mẹ MARIA. Và đây là phương thuốc hiệu nghiệm cứu chàng thoát mọi chán nản thất vọng. Chàng lần hột Mân Côi hàng ngày và tìm cách giúp đỡ tha nhân thay vì sống co rút vào nỗi khổ vào cái bất hạnh của chính mình. Chàng cố gắng làm những gì có thể hầu giúp người khác và đỡ gánh nặng cho gia đình. Chàng tự sáng chế hai ống gỗ bao đầu gối và dùng đầu gối đi lại. Nhiều khi chàng đi bằng đầu gối những quãng đường dài đến 8 hay 10 cây số.

Sau đó, chàng ghi tên làm người canh gác đền thờ Đức Mẹ Orcival. Nhờ công việc này, Joseph nhận rất nhiều an ủi. Nhất là chàng hãnh diện vì được phục vụ Đức Trinh Nữ MARIA, Hiền Mẫu thiên quốc. Đền thánh này hàng năm có nhiều tín hữu hành hương đến khẩn cầu cùng Đức Mẹ MARIA. Nhưng rồi dần dần có người đến gặp Joseph, nhờ anh an ủi hoặc chỉ dạy nhiều điều họ cần biết.

Để giúp đỡ tha nhân cách đắc lực hơn, Joseph dọn đến ở với anh rể và xin đặt điện thoại riêng cho mình. Như thế, anh có thể liên lạc thẳng với các bàn giấy, dịch vụ chuyên môn hầu chỉ dẫn lại cho người khác. Anh nghiên cứu kỹ lưỡng các vấn đề liên quan đến trợ cấp xã hội, bảo hiểm v.v. Anh trở thành nhân vật quan trọng. Mỗi ngày, số người đến gặp anh đông hơn đến gặp ông trưởng phòng tòa thị trưởng thành phố.

Anh lắng nghe tâm sự, khó khăn của người khác, rồi anh tìm cách khuyên lơn, an ủi, khiến ai ai cũng cảm thấy thỏa lòng mát dạ. Tất cả những gì người ta mang đến dâng biếu, cảm tạ anh, anh phân phát lại cho người nghèo. Nhưng thường thì anh tiếp khách vào ban chiều, và đôi khi kéo dài đến nửa đêm hoặc hai giờ sáng. Nếu có ai tỏ dấu lo ngại cho sức khỏe, anh chỉ mỉm cười trả lời:

– Nếu như đó là tiếng Chúa gọi tôi thì sao?

Kinh nguyện và nhất là lòng sùng kính Đức Mẹ MARIA gìn giữ bảo trợ Joseph luôn luôn trong trạng thái vui vẻ và tin tưởng phó thác. Anh thật hạnh phúc. Và niềm hạnh phúc này anh thông truyền sang những ai có dịp tiếp xúc, tỏ bày tâm sự với anh. Anh giải thích lý do niềm vui nội tâm sâu xa:

– Không biết tôi sẽ ra sao, nếu tôi không bị tàn tật? Quả thật tàn tật trở thành kho tàng, suối nguồn hạnh phúc. Không bị tàn tật, có lẽ tôi sẽ khốn khổ. Trong khi nhờ tàn tật tôi sống tình trạng nghèo khó, thiếu thốn nhưng bù lại, tôi hạnh phúc và có thể trao hạnh phúc cho người khác.

… “Thế nên Thầy bảo anh em: Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi CHA trên Trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”(Luca 11,9-13).

(Albert Pfleger, “FIORETTI de la Vierge Marie”, Mambre Editeur-Diffuseur, 1990, trang 92-94)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt,

NGÔI SAO TRUYỀN THÔNG, LINH MỤC CA NHẠC SĨ, MARCELO ROSSI ĐÃ NHẬN LÃNH GIẢI THƯỞNG “HỒNG Y NGUYỄN VĂN THUẬN” .

NGÔI SAO TRUYỀN THÔNG, LINH MỤC CA NHẠC SĨ, MARCELO ROSSI ĐÃ NHẬN LÃNH GIẢI THƯỞNG “HỒNG Y NGUYỄN VĂN THUẬN” .

Tổng Hợp Báo Chí

Tác giả: Phan Sinh Trần

 

Là một linh mục, tuy nhiên cha Marcelo Rossi lại trở thành một ngôi sao sáng, một hiện tượng nổi bật trên các phuong tiện truyền thông đại chúng vào cuối những năm 1990. Là nghệ sĩ Ki tô giáo lớn nhất ỏ Châu Mỹ La tinh, Cha đã có trên 11 triệu album nhạc bán ra tính đến thời điểm này. Marcelo Rossi được biết nhiều bởi các nhạc điệu nhẹ nhàng, thanh thoát, vui tươi của Ngài, trình bày trong các dĩa nhạc, CD, DVD. Ngài thường xuyên xuất hiện trên các chương trình TV phát đều đặn nhiều buổi khác nhau trong các ngày cuối tuần, chương trình trên radio có tới 3 triệu người lắng nghe hàng ngày, một con số mà hiệp hội ký giả truyền thanh Brazil phải công nhận là điều kỳ diệu.

Ngài đã phát hành 27 dĩa album nhạc kể từ năm 1997.

Năm 2003, Cha Marcelo làm phim đầu tay “Maria, Mẹ Thiên Chúa”, bộ phim gây bão tố trong các rạp chiếu phim ở Brazil, đứng hạng thứ bẩy về doanh thu trong các rạp. Các Film sau đó cũng gây được nhiều chú ý, thành công về doanh số.

Năm 2006 được đánh dấu bằng dĩa nhạc “Ơn phúc của tôi – Minha Bencao” phát hành bởi hãng Sony BMG, là dĩa nhạc bán chạy nhất trong hai năm liền (dĩa kim cương), đến năm 2008, Cha phát hành các dĩa hát “Hòa Bình vâng – Paz Sim”, đứng hạng nhì, dĩa “Nói không với Bạo lực -Violencia Nao” hạng sáu về doanh số bán (dĩa bạch kim).

Linh mục Rossi, tuy có doanh số dĩa hát, phim ảnh, sách viết bán chạy hạng nhất ở Ba Tây và các nơi khác, trị giá hàng mấy chục triệu mỹ kim nhưng ngài lại sống rất đơn sơ và nghèo khó về tiện nghi vật chất. Cha thường xuất hiện trên sân khấu trong chiếc áo dòng cũ hơi bạc màu.Toàn bộ số tiền thu được đều dành cho việc xây dựng nhà Chúa, đóng góp cho quỹ truyền thông Tin Mừng và trao tặng cho người nghèo.

Xuất xứ từ thành phố Sao Paolo, nơi Ngài được sinh ra trong một gia đình Công Giáo trung lưu, cha Ngài ông Antonio Rossi, làm việc nhiều năm trong cương vị quản lý ngân hàng, mẹ, bà Wilma nội trợ. Được cha mẹ nuôi nấng tốt nhưng đến năm 16 tuổi, bị khủng hoảng đức tin, anh Marcelo quyết định không đi nhà thờ nữa, đến năm 22 tuổi, tốt nghiệp nghành giáo dục thể lý tại đại học Sao Paolo. Cùng khoảng thời gian đó, anh Rossi rất đau buồn vì hai biến cố lớn xảy ra dồn dập trong đời mình, anh mất người anh em họ trong một vụ tai nạn xe hơi rồi tiếp đến, người cô quí mến nhận được kết quả xét nghiệm với bịnh ung thư bưới ở đầu. Hai thảm kịch gia đình làm cho Marcelo quá đau xót và thương tổn nhiều, nhưng biến cố đó lại đem anh đến, kết hiệp với  Chúa, anh quay về với Hội Thánh nhờ liên hệ, sinh hoạt với một nhóm cầu nguyện Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo nọ, tiếp tục lớn lên trong ơn sủng, Marcelo bắt đầu tham gia sinh hoạt trong giáo xứ, một năm sau đó, hứng khởi bởi loạt phim truyền hình về cuộc đời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolo đệ nhị, anh quyết định dâng hiến cuộc đời cho Chúa,  tu học tại phân khoa tâm lý học ở đại học Nossa Senhora da Assunção và thần học ở đại học Salesiana de Lorena. Cha được thụ phong vào ngày 1 tháng 12 năm 1994. Cha kể:

–          Khi tôi tái khám phá Đức Tin thì Giáo Hội (Brazil) đang chìm đắm trong các vấn đề chính trị, bởi vì ảnh hưởng của Thần Học Tự Do, dạng thần học chắc chắn đã có vai trò tích cực trong thể chế độc tài, và cũng để lại khoảng trống tâm linh cho tín hữu. Đó là lúc tôi bị mất người em họ, và tôi liền đi tìm Lời Chúa để giải thoát, nhưng khi tôi đến nhà thờ thì lại phải nghe họ nói  về chính trị. Từ lúc này, tôi nhận biết ra mình phải làm gì, nghĩa là trở về với điều thiết yếu, trở về với cội nguồn của sự tốt lành, trở về với Tin Mừng đồng thời công bố Tin Mừng bằng các phương tiện truyền thông, cá biệt là âm nhạc, sợi dây dẫn truyền tốt nhất và rộng rãi nhất trong việc chia sẻ tình cảm, ngôn từ trong đời sống hàng ngày của người dân. Sử dụng âm nhạc để đáp ứng cho sự khát khao được biết Chúa, đánh thức tình yêu dành cho Hội Thánh, cho Mẹ Maria, sự sốt mến  Bí Tích Thánh Thể, tình yêu này vốn đã bị bào mòn vì sự truyền bá của các nhóm Tin Lành Ngũ Tuần và các hệ phái khác.

 

Cha trẻ Marcelo bắt đầu tăng tiến và nhiệt thành trong việc rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, như người thợ gặt cần mẫn, Cha thu hoạch được rất nhiều hoa trái đức tin, có đông những đoàn người đổ về để tham dự thánh lễ do Ngài dâng tại giáo xứ Thánh Rosalia, vùng Santo Amaro, Sao Paolo. Càng ngày con số tham dự thánh lễ càng đông, lên đến số chục ngàn, việc phụng vụ thánh lễ được dời đến và cử hành ở những chỗ có sức chứa càng lớn hơn, cứ thế giáo dân tham dự đông đúc, tăng trưởng lên, cho đến khi Ngài phải sử dụng đại lộ Liên Hiệp Quốc ở thủ đô, và ngay cả đến các sân vận động như Maracana (sân vận động có sức chứa gần 200 ngàn người, lớn nhất thế giới).

hoặc sân Morumbi (72.000 chỗ ngồi),  như là quảng trường tập họp cho các thánh lễ Misa của Ngài vốn là cao điểm của các kỳ tĩnh tâm, hội thảo truyền giảng Tin Mừng và ca ngợi Chúa. Năm 1999, đoàn đoàn, lớp lớp tín hữu cùng nhau đi tham dự buổi tập họp thờ phượng, ca ngợi có tên là “Tưởng nhớ thì có, buồn bã thì không”, con số tham dự lên đến sáu trăm ngàn người.

Năm 2011 Cha Rossi khánh thành thánh đường ở vùng ngoại ô thành phố Sao Paolo, là trung tâm thờ phượng lớn nhất Châu Mỹ La tinh. Nhà thờ chứa được 100.000 người, bao gồm 25.000 chỗ bên trong mái thượng, 75.000 chỗ bên ngoài trong một khuôn viên rộng 30 mẫu tây.

         

        

Ø  Điều gì đã khiến giáo dân tuôn đến các buổi thờ phượng và thánh lễ do cha chủ xướng. Đó là sự phấn khởi và vui thích khi mọi người có dịp “nói yêu” Chúa bằng hết con tim trong các Bài hát Tôn Vinh Chúa, có dịp đắm chìm trong tình sốt mến nồng nàn dành cho Bí tich Thánh Thể, và sự an hòa trong tình con thảo dành cho Mẹ Maria. Họ đến và nhìn xem sự đơn sơ và thánh thiện toát ra trên khuôn mặt và đời sống của Cha. Giống như đặc điểm của các buổi thờ phượng Canh Tân Đặc Sủng, tinh thần vui tươi, đơn sơ, thánh thiện bao trùm trong các buổi lễ, trong giờ chầu Thánh Thể.

            Bạn có thể cùng tham dự ở đây:

               https://www.youtube.com/watch? v=Bi_-m8WpvRA

o   “Được cùng Cha Ca Ngợi Chúa thì niềm tin củng cố, đau khổ được an ủi và vơi đi nhiều”, đó là chia sẻ của một giáo dân đang tham dự lễ đã nói với phóng viên của đài truyền hình CNN.

o   Các tham dự viên nói “Cha làm cho người ta được cháy lên lủa sốt mến”

           Làm sao cha có được ơn kỳ diệu ấy, theo chị Maria một người công giáo toàn tòng, “sự mầu nhiệm là ở trong năng lực, niềm vui và sức mạnh”, 

           những điều này chỉ có thể có được khi hoàn toàn đâm rễ tâm linh sâu và sâu thẳm trong giòng suối ơn của Chúa Thánh Thần.

o    Có nhiều tín hữu đã khóc trong sung sướng khi mình thánh Chúa do cha rước đi qua chỗ đứng của họ. Một phụ nữ trẻ gạt nước mắt nói, “Tôi đến để tạ ơn vì lời cầu nguyện của tôi đã được đáp lại, tôi vừa có được việc làm. Tôi đến thẳng đây khi tôi vừa hoàn tất xong việc từ sở làm”

Thuở ban đầu, không phải Cha Marcelo không gặp nhiều khó khăn từ phía các đấng bề trên, do mục vụ có vẻ cách tân của ngài, Các Đức Giám Mục biết sự nguy hiểm tiềm ẩn của mục vụ đang hình thành, có thể dễ dàng biến dị thành sự phụng vụ trong mớ tình cảm thái quá giống như các giáo phái tin mừng diễn dịch. Nhưng đồng thời các Ngài cũng ý thức được các kinh nghiệm của Cha Marcelo Rossi là quan trọng, bởi vì đó là phương cách đáp ứng đàu tiên trên diện rộng lớn có thể dùng để chống lại sự tan biến, thưa di, mất dần dân số Công Giáo trong lịch sử của Brazil. Chính hồng y Claudio Hummes đã nói “ Ở Brazil, người công giáo giảm dần tỉ lệ 1% mỗi năm, Năm 1991 có 83 phần trăm, nay chỉ còn 67%. Cứ một linh mục công giáo thì có 2 mục sư Tin Lành …”

Brazil được mệnh danh là quốc gia Công Giáo lớn nhất thế giới với 126 triệu tín hữu, chiếm 11% tổng số tín hữu công giáo toàn cầu. Tuy nhiên Hàng Giáo Phẩm, Hội Thánh địa phương vẫn đang phải phấn đấu với các giáo phái diễn dịch phóng khoáng Tin Mừng, những kẻ nói nhanh trên các chương trình TV lôi kéo người nghèo bị bỏ rơi vào trong các đền xây cất xô bồ, lan trân ra khắp nơi, phát triển nhiều giống như các chi nhánh của tiệm bán đồ ăn nhanh “fast food”. Họ luôn kêu gọi, khuyến dụ các bà con nghèo khổ, trong các buổi nhóm, dốc hết túi tiền khiêm nhượng của mình để giao cho họ sử dụng, họ khuyến dụ rằng, bỏ tiền cúng càng nhiều càng tốt, để được Chúa lại quả, cho nhiều hơn gấp bội.Tin Mừng đối với họ, là sự hướng dẫn mà khán giả nên làm theo, nên đầu tư tiền bạc, công sức, để được thu lợi “một vốn mười bốn lời”, mục đích đi theo Tin Mừng chỉ nhằm để có được nhiều tiền của và súc khỏe ỏ đời này, họ không lưu ý đến ơn Cứu Độ vốn là cốt yếu của Tin Mừng… Chính ở đây, Cha Marcelo và nhà thờ lớn của Ngài đã vào cuộc, phản kích những gì lạc xa ý nghĩa thực của Tin Mừng.

Vi linh mục giảng thuyết  và cũng là tác giả của những quyển sách tu dưỡng tâm tánh bán chạy nhất tại Brazil, đang trấn giữ cho Công Giáo Brazil bằng cách làm cho hội thánh Brazil được trở nên thu hút hơn, bằng cách tiếp cận sự vui tươi,thanh thản của Tin Mừng Cứu Độ. Cha nói:

–          Hầu hết các giáo xứ của chúng ta như thuộc về thế kỷ thứ tư, kiểu cách trong phụng vụ không có gì thay đổi và giáo dân cứ tản mát đi.

Và rồi, cha làm lay chuyển những thói quen cũ bằng sự giới thiệu Tin Mừng qua nhạc rock, bằng các buổi cầu nguyện giống như trên sàn của rạp hát, và dùng hết kỹ năng thông tin cách xuất sắc,  gây được ấn tượng cho cả các người chuyên nghiệp. Cha tiếp:

–          Chúng ta không thể cứ ngồi chờ cho mọi người đến nhà thờ, hội thánh phải đi ra gặp gỡ và đem họ trở về.

 Theo thời gian, khi mọi sự đã rõ ràng hơn, Giáo Hội càng ngày càng thông cảm, công nhận và chúc lành cho công việc mang tính Canh Tân Đặc Sủng của Cha Marcelo, ngày 21, tháng 10, năm 2010 Đức Thánh Cha Bê nê đic tô thứ 16 trao giải thưởng “Hồng y Nguyễn Văn Thuận – Liên đới và Phát triển 2010” cho Cha nhằm công nhận “sự tận tụy dâng hiến cho Công Giáo như một nhà truyền giảng Phúc Âm hiện đại”.

Có lẽ phần thưởng lớn nhất Chúa ban cho Cha là được cùng với Đức Thánh Cha và các bạn trẻ khắp thế giới ca ngợi Chúa Giê Su, và ngài được toại nguyện về điều này trong dịp hè năm 2013, Cha cùng với các linh mục Canh Tân Đặc Sủng chia sẻ niềm vui của sự Ca Ngợi, Thờ phượng trước hàng mấy triệu bạn trẻ qui tụ về Rio de Janeiro để tham dự ngày giới trẻ thế giới – World Youth Day.

Ngay cả trong hoạn nạn đời người, thì Chúa cũng biến nó thành niềm vui rạng rỡ cho người con yêu của Chúa. Số là khi cha tập thể dục trên máy chạy bộ thì bị tai nạn chấn thương, phải làm lễ ngồi, trên chiếc xe lăn tay, thời gian còn lại, Bác sĩ không cho phép hoạt động để hồi sức và giúp cho vết thương được mau lành. Thời gian tĩnh lặng này là lúc cha được linh hứng viết các sách mới “Đức Ái – Agape” và “ Thời quyết định – Kairos”, sách ngay lập tức được đón nhận nồng nhiệt, số bán là 10 triệu bản cho sách “Đức Ái” và 2 triệu bản cho “Thời quyết định”. Xếp hạng kỷ lục trong lich sử xuất bản của nhà Editora Globo. Toàn bộ tiền bán sách dành hết cho công tác xây dựng đền thánh “Maria Mẹ Thiên Chúa – Theotokos”

Ta biết rằng: Với những ai yêu mến Thiên Chúa, thì Người đồng công cộng tác biến mọi sự nên lành, tức là những ai đã được Người kêu gọi theo ý định của Người. (Roma 8,28 ).

Thánh lễ mới đây của cha :       https://www.youtube.com/watch? v=1QUfwE23D-c

         Nghi thức phụng vụ mới mà cha Marcelo diễn tả không chỉ dừng lại trong việc chọn lựa nhạc dùng trong phụng vụ mà đi ra ngoài luật lệ kinh điển, tạo nên một cộng đoàn Tin Mừng, khá thuần khiết, để những ai mơ ước về một giáo hội canh tân đặt nền tảng trên các cộng đoàn và sự lưu ý đến người nghèo khó, lẽ thường họ vốn không thể vượt qua vì có vô số các chia rẽ, phân cách trong các tầng lớp xã hội bao gồm từ người giầu sang cho đến người bần cùng ở đô thị, thì nay, họ có thể đến, họp thành cộng đoàn mới.

·         Ngày nay vị linh mục thể thao, người đã thiết lập kết cấu mục vụ Tin Mừng truyền thông bằng mấy ngàn cộng tác viên, người tự tay thiết lập hệ thóng “Globo” truyền hình để quảng bá niềm vui của Tin Mừng, Cha không còn phải đơn độc nữa, ngược lại, cha có nhiều bạn hữu cùng chung chí hướng. Từ những bước đi ban đầu của Cha, đi theo có nhiều các linh mục ca sĩ, nhạc sĩ, văn sĩ sáng tác khác, như linh mục dòng Thánh Tâm Fabio de Melo, hay linh mục Hewaldo Trevisan, Reginaldo Mazotti, các ngài đều trong độ tuổi tứ tuần và có bề ngoài thánh thiện đáng mến cũng như cách nói làm hứng khởi, làm phát sinh hy vọng.

·         Kỷ niệm kim khánh Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo, chúng con  Xin Chúa Giê Su kính yêu cho giáo hội các nơi và Việt Nam của chúng con cũng có thật nhiều linh mục thánh thiện như  cha Marcelo Rossi. Xin Mẹ Maria cầu cho chúng con có rất nhiều linh mục hiếu thảo trọn tình với Mẹ như cha Rossi.

Xin Thần khí Chúa canh tân bộ mặt trái đất của chúng con qua tác vụ của những tôi tớ tận tụy của Ngài!

(Phan sinh Trần, tổng hợp bài viết của News Week, USA today, Washington Post, CNN, Tạp Chí Công Giáo,… về cha Marcelo Rossi.) 

NỮ TU MỘT MẮT GIÚP TÔI THOÁT RA KHỎI TÌNH TRẠNG ĐỒNG TÍNH PÊ ĐÊ.

NỮ TU MỘT MẮT GIÚP TÔI THOÁT RA KHỎI TÌNH TRẠNG ĐỒNG TÍNH PÊ ĐÊ.

Lời chứng của Anh Paul Darrow

Phan Sinh Trần gởi

Paul Darrow, lần đầu tiên tìm đến bãi tắm biển của giới đồng tính nam ngay từ những năm mới có 15 tuổi đầu, không lâu sau đó, anh đi xe quá giang lên thành phố Nứu Ước nơi có những môi trường sinh hoạt của giới đồng tính phát triển mạnh và nhiều, thành phố cũng là nơi anh có thể theo đuổi nghề làm người mẫu tạo hình. Chính tại đây, Darow có cơ hội làm việc như một người mẫu quốc tế và dần dà đã trở nên nổi tiếng, anh có dịp cặp kè với các tài tử nổi tiếng ở các hộp đêm trong thành phố.

Những khi không ở phim trường hay phòng tập thể dục, anh luôn nhớ và thường xuyên đi săn tìm “bạn tình” đồng giới, Anh kể “tôi đã chơi bời với hàng tá, rồi đến con số hàng trăm, thậm chí sau cùng đến mấy ngàn người tình. Tôi hoàn toàn điên dại cho dù không bao giờ muốn mình ra như thế khi mà tôi trở nên vô cảm với ý niệm về tình bạn trên cả hai phương diện thân xác và linh hồn”.

Tuy nhiên, khi nạn dịch AID, dịch bệnh liệt kháng hoành hành trong giới đồng tính và cướp đi hầu hết các bạn bè của Darow, đã có đến 90 phần trăm bạn bè ra đi vì căn bệnh thế kỷ này, quả là một phép lạ khi Darow luồn lách và thoát ra khỏi bản danh sách dài của thần chết. Anh sợ bệnh dịch làm toi mạng và  quyết định dời về vùng San Francisco để làm lại cuộc đời. Tại nơi đó, anh đã gặp bạn chung sống mới,tên là Jeff, họ cùng sống trong một phòng cabin nhỏ ở quận hạt Sonoma.

Một hôm, ở nhà tình cờ Darrow khám phá ra trên chương trình TV, xuất hiện bà Sơ một mắt, nói chuyện rất thẳng thắn, được anh đặt cho hỗn danh là “ Sơ hải tặc” vì sơ có một mắt bị che bằng miếng vải nhỏ. Darrow vội gọi bạn  “Ê Jeff lại mà coi nè, mày phải coi cái màn diễn kỳ quái này” vừa nói anh vừa chỉ vào hình ảnh trên TV. Họ không biết nhân vật đang nói trong chương trình  TV, đó là Mẹ Angelica, vốn vừa bị tai biến não làm méo xệch bên má phía trái của bà, và đã phải đeo miếng bịt che cho mắt trái, tuy nhiên, thật lạ lùng! bệnh tật không làm cho Sơ chùn bước trong việc chia sẻ Tin Mừng Cứu Độ. “Jeff lại coi mau đi” tôi vừa cười vừa nhạo báng “Trời ơi, mấy người Ki tô giáo điên khùng hết biết này! Tôi cùng bạn bè nói móc Sơ, và cười nhạo bà”. Người mà sau này sẽ làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời của Darrow một cách vĩnh viễn.

Giễu cợt một hồi, Jeff rời khỏi phòng, Darrow định bấm chuyển đổi sang băng tầng TV khác, thì trong anh chợt có một điều gì đó làm phân vân và thắc mắc, “lời nói của Mẹ Angelica, vừa khôn ngoan, vừa thực tế, lại rất chân thực đánh động vào tâm trí của tôi” Mẹ nói:

–          Bạn thấy không, Chúa đã tạo tác ra Bạn để làm một người hạnh phúc vui tươi trong đời này và đời tiếp đến.

Mẹ thốt nên lời cách khó khăn từ cặp môi méo xệch và khó chuyển động nhưng một con mắt còn đang hoạt động lại bừng sáng lên và lấp lánh niềm hy vọng qua cặp kiếng bà đeo. Bà nói tiếp:

–          Ngài hằng chăm sóc cho bạn. Ngài canh chừng mọi động, tĩnh của bạn. Không một ai từng yêu mến bạn lại có thể ân cần quan tâm cho bạn đến mức độ đó.

Lời của Mẹ Angelica như rung lên một sợi dây thanh âm, có tiếng vang vọng trong tâm hồn của Darrow, làm cho Anh phải chựng lại, dáo dác nhìn quanh, và rồi,  anh chợt khám phá ra là,  kể từ hôm đó anh đã bí mật, lén lút tìm và xem lướt qua các chương trình nói chuyện của Sơ mỗi khi anh có cơ hội.

Bà sơ một mắt đó chính là Mẹ Mary Angelica thuộc dòng Đức Mẹ truyền tin, sáng lập viên của hệ thống truyền hình Công Giáo toàn cầu tên là “Lời vĩnh cửu” (EWTN),đài có số lượng khán thính giả khổng lồ, bao gồm 250 triệu gia đình ở khắp năm châu, bà đã về với Chúa vào ngày 27 tháng 3 năm 2016 sau một thời gian dài chiến đấu với các hâu chấn của cơn tai biến động mạch não. Sơ mất vào năm chin mươi hai của đời người.

Darrow làm chứng tiếp “Bà ta có sức ảnh hưởng vô cùng lớn trong đời tôi và tôi dần dần yêu mến bà nhưng tôi lại phải dấu bà khỏi sự dòm ngó ở chung quanh”, nghĩa là một khi tôi xem xong các chương trình của bà, tôi cẩn thận bấm qua đài khác trước khi tắt TV phòng khi Jeff hay ai đó bật TV lên và biết là tôi đang xem chương trình của Mẹ Angelica. Sự thì thọt, che dấu này làm tôi nhớ đến hoạt cảnh hồi còn lén lút xem các chương trình chiếu phim khiêu dâm, tôi cũng đã có cách dấu diếm tương tự như vậy vì tôi không muốn cho Jeff hay mọi người biết được rằng tôi đã xem các phim sex, các cảnh dâm ô, làm tình trên TV”.

Thực tế là ảnh hưởng của Mẹ Angelica tiếp tục gia tăng, thúc giục Darrow quay về nhà Chúa sau nhiều thập kỷ vắng mặt. Đây là một thay đổi khó khăn vì Darow biết chắc rằng mình sẽ bị mất đi nhiều bạn bè và khách hàng nếu họ thấy anh đi đến một nhà thờ Công Giáo. Trong một chừng mực nào đó thì Darrow đã nghĩ đúng, anh kể “Tôi mất khách hàng, tôi mất bạn bè. Mọi người choáng váng khi biết tin, vì tôi vốn là một người có học vấn, khá thông minh mà lại tin vào Chúa Giê Su Ki tô, đấy là ý nghĩ của những người chứng kiến, nhìn thấy tôi đi nhà thờ trở lại”. Tuy nhiên, Darrow không bao giờ ân hận về việc tốt lành đã làm, từ khi anh được Chúa đổi mới, anh đi khắp nơi chia sẻ kinh nghiệm của mình một cách công khai trong xã hội qua các buổi nói chuyện và hội thảo. Mẹ Angelica cũng hướng dẫn cho Darrow khám phá về “Can Đảm Quốc Tế”, một chương trình mục vụ được Tòa Thánh công nhận, dành riêng cho các Tín Hữu Công Giáo có khuynh hướng đồng tính luyến ái, nhằm mục đích gia tăng mối liên lạc của họ với Chúa cho thêm gần gũi, khuyến khích tình bạn trong sáng, và học sống đời sung mãn trong đức khiết tịnh. Cũng chính trong khi cộng tác với chương trình “Can Đảm Quốc Tế”, Darrow tham gia đóng phim tài liệu “Ước muốn từ đồi Vĩnh cửu – Desire from Everlasting Hills” để chia sẻ về câu chuyện thực của đời mình và niềm hy vọng tương tự mà người xem có thể tìm ra được từ Hội Thánh Công Giáo.

Về kinh nghiệm quay về với Hội Thánh Công Giáo, Anh xác nhận “ Không hề có một sự kỳ thị nào khi tôi bắt đầu hành trình trở lại Đạo. Tôi không bao giờ bị coi là một người xấu xa, tội lỗi, không bị chê bai như là một người đã làm điều xằng bậy, ngay cả trong lúc tôi xưng thú tội lỗi ở tòa cáo giải. Đạo Công Giáo quả thực như tên gọi, như lời giáo huấn, là Đạo mở rộng lòng và đón nhận mọi người”

“Tôi muốn tỏ bày tình yêu của tôi dành cho Chúa và lòng biết ơn dâng lên Ngài vì mọi sự Ngài đã làm cho tôi, Ngài không bao giờ quên tôi trong suốt mấy thập kỷ tôi quên Ngài, làm điêu nghịch phạm đến Ngài

Bí quyết nào giúp Mẹ Angelica bị tai biến đến xấu xí dị dạng lại có thể chài lưới được nhiều linh hồn giống như trường hợp của Anh Darrow vậy?

Cha Giu Se Wolfe cho biết bí quyết để cải hóa lòng người là dựa cậy vào Chúa và luôn cầu nguyện cho đương sự, nhất là “Sơ chịu mọi thống khổ hy sinh dâng lên Chúa Giê Su để được thông phần đau khổ với Chúa và để được dip cầu nguyện, cứu giúp chính linh hồn mình và các linh hồn người khác”, Cha Giu Se kể tiếp:

–          ( Khi bệnh Mẹ bị trở nặng vào những thời gian sau cùng) Mẹ Angelica chỉ thị cho các con cần làm mọi sự để cho Sơ sống không cần biết mẹ bị đau đớn, thương tổn đến mức nào …hầu hết chúng ta ít ai nghĩ đến cách hy sinh đó, chúng ta chỉ muốn Chúa mau đem chúng ta ra khỏi cơn thử thách…

–          Điều vĩ đại nhất trên thế gian, chính là Tình yêu của Thiên Chúa trao ban đến cho chúng ta qua Chúa Giê Su, và đây là điều mà Mẹ Angelica lĩnh hội, cho nên ngài muốn yêu Chúa để đáp trả lại tình Chúa. Và đó là tất cả của đời sống Sơ:

Đã có nhiều sách mô tả các kỳ công Chúa làm qua mẹ Angelica và về đời sống thánh thiện phát sinh nhiều hoa trái Thánh Linh của Mẹ, chúng tôi sẽ có dịp được trình bày trong các bài sau.

Bạn có thể xem phim “Ước muốn từ đồi Vĩnh cửu – Desire from Everlasting Hills”  ở mạng liên kết này: https://everlastinghills.org/ movie/

Phim tài liệu , tiểu sử Mẹ Angelica : https://www.youtube.com/watch? v=HjHoFI2QIEs

Chương trình nói chuyện của Mẹ Angelica, trênTV “Lời Vĩnh Cứu” :                   https://www.youtube.com/watch? v=bMfQ5kyjPi4

(Nguồn: http://www.catholicnewsagency. com/images/Mother_Angelica_ with_eye_patch_1_YouTube_ screenshot_CNA.jpg?w=640)

Hồi ức về vị linh mục tân tòng của bệnh nhân cùi, sida

Hồi ức về vị linh mục tân tòng của bệnh nhân cùi, sida 

 

Thật không thể tin vào tai mình khi nghe cha Phao Lô Nguyễn Kim Sơn báo tin Chúa đã gọi Bác sỹ, Linh mục Augustino Nguyễn Viết Chung, tu sĩ Tu Hội Truyền giáo thánh Vinh Sơn, Nazarit (Vincent De Paul), một linh mục của người nghèo, bệnh nhân sida, và bệnh nhân phong cùi. Tin đến như sét đánh, làm cho tim này nhói đau, lòng hụt hẫng, sau vài phút mọi sự mới hoàn hồn và như cuộn film tua lại những ký ức về cuộc đời một vị thánh sống. Một Phật Tử đã và tin theo Chúa Giêsu, cống hiến cả sự nghiệp bác sỹ đầy danh vọng quyền quý, hy sinh cả cuộc đời sống với và cho các anh em dân tộc nghèo khó.

Khó có thể kể hết nhân đức anh hùng mà vị linh mục sida. Mọi người gọi cha với cái tên nghe lạ tai mà rất thân thương. Cũng chẳng có gì lạ với cái tên yêu này, bởi vì cả cuộc đời bác sỹ, cha chỉ phục vụ một đối tượng với nhiều loại người: cùi, sida, bệnh nhân nghèo.

Cuộc đời cha với nhiều giai thoại của người tôi tớ phục vụ quên thân mà làm cho nhiều người thương mến, nhiều người trách. Thương vì cách cha làm, trách vì sợ cha phục vụ người nghèo quên ăn, uống, và sờ cha lây bệnh chết sớm.

Khi còn là sinh viên y khoa, mỗi ngày anh sinh viên Nguyễn Viết Chung phải đạp xích lô rong ruổi trên các con phố của Sài thành kiếm tiền ăn học. Một buổi sáng đẹp trời, anh đạp xích lô ra khỏi nhà và may mắn có một vị khách trung niên bắt xích lô đi. Sau khi chở vị khách đến nơi, thì cả buổi sáng hôm đó không có một khách nào bắt xích lô nữa. Anh sinh viên y buồn bã mong ngóng vớt vát một khách nào rồi về lên học đường. Lán thêm mà cũng chẳng có ai. Chán nản, anh cầm tờ báo mà vị khách hồi sáng bỏ lại trên xich lô. Anh say mê một bài báo viết về Cha Jean Cassaigne, người Pháp sang Việt Nam truyền giáo, ngài được phong làm Giám mục giám quản địa phận Sài Gòn dến năm 60 tuổi ngài xin về hưu sống ở trại cùi và phục vụ bệnh nhân cùi tại Di Linh. Ngẫm nghĩ về một ông tây bỏ quê hương xứ sở, gia đình đi phục vụ người cùi tại Việt Nam và anh thầm mong ước: học xong bác sỹ sẽ lên Trại Cùi Di Linh phục vụ anh em cùi. Giữ lời hứa với lòng, anh cầm cả quyết định phân về làm bác sỹ tại bệnh viện Bình Dân, một bệnh viện lớn tại Sài Gòn. Ban Giám đốc Trại cùi Di Linh họp và quyết định từ chối, không nhận Bác sỹ trẻ này với ly do khá ngộ nghĩnh: Bác sỹ này giỏi và có việc làm ở bệnh viện có tiếng nên để bác sỹ ở Thành phố để phục vụ bà con.

 

Buồn bã lê bước trở về thành phố với tấm lòng đầy thất vọng, đau buồn làm cho bác sỹ ít nói. Ở đây, chăm sóc chữa trị bệnh nhân với tấm lòng từ mẫu. Cũng như bao vị bác sỹ khác, bác sỹ Chung cũng mở cửa một phòng khám tư tại Tân Bình, từ 1600-2100 mỗi ngày. Bệnh nhân sắp hàng rồng rắn làm bác sỹ khám đến 2 giờ sáng. Nhiều người thắc mắc cứ đúng 21 giờ đóng cửa, ai khám mai đến. Bác sỹ nhẹ nhàng nói thương người ta từ xa, mãi miền Tây đến để về thì tội, nên anh khám cho họ. Bác sỹ cho biết, anh mua 1 viên Panadol 300 đồng, anh cũng lấy của bệnh nhân 300 đồng. Nhiều nhiều bệnh nhân nghèo kéo đến với phòng khám của bác sỹ Chung làm cho các phòng khám quanh đấy vắng khách. Chính vì lẽ đó mà bác sỹ bị kiện, tố cáo vì ghen tỵ. Cũng vì lý do sức khoẻ, không đủ sở hội trả tiền thuê nhà và nhường bộ để các bác sỹ khác và bác sỹ đã đóng cửa phòng khám này. Nói thế khôg có nghĩa phòng khám của anh chỉ có bệnh nhân nghèo. Anh vẫn thương hay nhắc đến một doanh nhân giàu có nức tiêng Sài Gòn, Tăng Minh Phụng. Anh cho biết, trong mắt anh, Tăng Minh Phụng đẹp lắm. Những chuyện gì anh Phụng phạm anh không quan tâm. Nhưng khi đến khám bệnh thì anh vẫn thu tiền bằng với các bệnh nhân khác. Biết vậy nên mỗi lần truyền nước Minh Phụng hay mua 10 chai và 9 chai tặng người nghèo. Sau khi đóng cửa, anh chỉ thao thức với cái ước mơ ngày nào đi phục những bệnh nhân cùi làm cho anh không còn tâm trí làm trong bệnh viện lớn mà bao sinh viên y khoa khát khao. Anh kể, một em bệnh nhân người Hoa tại Chợ Lớn, tại thời điểm đó thuốc men thiếu, lại thêm kiến thức y khoa mình chưa đủ để cứu em đó. Chính vì lý do đó mà anh cứ dằn vặt lòng mình mãi. Và anh quyết tâm đóng góp cuộc đời cho những bệnh nhận ít người chăm sóc. Dù bận rộn với công việc của một trưởng khoa, ấy thế mà, cứ mỗi chiều tan ca, anh lại chạy thẳng về trại Phong Bến sắn Binh Dương (Sông Bé) để chăm sóc bệnh nhân phong cùi.

Anh cứ miệt mài chiều đi Bến Sắn, sáng về Bình Dân. Thấy anh không còn thời gian và chỉ sợ anh đổ bệnh mà khuyên anh bỏ Bến Sắn. Anh nhẹ nhàng nói anh có kế hoạch rồi. Bẵng đi thời gian anh khoác trên vai chiếc áo thâm chùng của Dòng thánh Vinh Sơn sống khó nghèo. Anh kể, cái ngày anh chăm sóc bệnh nhân phong tại Bến Sắn khi Dì Hai nằm hấp hối thì anh ghé thăm. Anh cứ cố gắng cấp cứu cho Sơ, dù biết không thể. Sơ nói với anh: Bác sỹ cứ đi còn nhiều người đang đợi. Khi anh vừa xách túi nghề y đứng lên thì Sơ nghẻo đầu chết ngay.

Cả ngày đó, cứ lảng vảng trong đầu anh câu “còn những người khác đang đợi” là ai? Và anh quyết định đi tu. Rất ngây thơ, anh khăng khăng anh đi tu trước khi theo đạo. Thật là con người đơn sơ, chất phát. Đúng là anh quyết định đi tu trước khi được các cha Dòng tên dạy giáo lý tân tòng. Anh gia nhập đệ tử làm tu sĩ Tu Hội Truyền giáo thánh Binh Sơn và làm linh mục.

Những ngày ở nhà Nguyễn Kiệm, thứ 2 nào, cha cũng tự đi xe máy 45km đến trại Sida Mai Hoà ở Củ Chi phục vụ những bệnh nhân giai đoạn chót. Thấy cha chăm sóc các bệnh nhân dễ lây nhiễm mà có thể lấy đi mạnh sống cha mà lòng ích kỷ đã ngăn cản cha. Cha chỉ chia sẻ, anh biết cách để tự bảo vệ. Nói hay lắm! Ai có dịp chứng kiến cha khám chữa bệnh cho tại Mai Hoà hoắc nhà thờ Phú Trung thì càng lo sợ cho Cha vì cha gần gũi với từng bệnh nhân lở loét làm cho không còn khoảng cách. Tức rất dễ lây! Nhưng cha chỉ nói, anh sống là để phục vụ trong danh Đức Kitô. Trong trại sida Mai Hoà có 8 cháu nhỏ đi học về giẫm kim tiêm lây sida. Cứ thấy cha là 8 em nhỏ, chạy ùa đến ôm trầm lấy cha. Cha cho biết, các em không có cha mẹ bên cạnh nên chạy đến với anh. Nhưng cha sẽ bị lây bệnh và chết sớm thì ai lo các các bệnh nhân khác, vì còn nhiều người đang chờ cha, mà. Thú thật với em, từ ngày anh chọn theo Đức Ktiô thì anh sống là chết với Đức Kitô. Lạ lắm! Cha có khuân mặt rất kham khổ và không có nụ cười, nhưng khi tiếp xúc với các bệnh nhân sida thì khuân mặt anh tươi sáng rạng ngời. Các cha hay đùa, ai cho cha Chung một bệnh nhân cùi thì cha Chung cho 500 ngàn. Không, không, anh không có tiền. Ai cho anh thì anh cám ơn thôi, cha Chung nhanh nhẩu phân trần. Một lần tại nhà thờ Phú Trung, cha bắt nữ bệnh nhân viết cam kết không được lây bệnh cho người khác vì chúng tôi tình nguyện đến đây chữa cho cô thì không sớm thì muộn chúng tôi cũng lây nhưng nhiều người khác còn gia đình và Cô nhận thuốc và đi về. Cha tâm sự, cô này cứ khoẻ là đi lây bệnh cho người khác. Cha nói, anh bắt viết để nhắc cô thôi, chứ cô khoẻ lên lại đi lây hết người này người kya để trả thù. Vài bữa lại quay về xin viết cam kết và cha lại chữa. Sự thánh thiện là vậy.

 

Cả cuộc đời cha chỉ nghĩ đến những bệnh nhân nghèo. Mà đối tượng sida và cùi là nguy cơ lây lan rất lớn làm cho bao người ngăn cản cha. Mọi người chỉ sợ cha lây bệnh và chết sớm rồi không còn ai chăm lo cho biết bao bệnh nhân nghèo đang rất cần cha. Chứ mấy loại sida, chết sớm cho rồi. Không em! Họ cũng là con người. Anh biết anh không chữa sida được nhưng anh muốn cho họ cái chết lành. Là sao? Anh chỉ chữa bệnh xã hội để giảm bớt đau khổ phần xác và an ủi họ để họ có thể nhắm mắt ra đi mà không uất hận đời. Và có rất nhiều em, anh đã rửa tội gia nhập đạo.

Anh kể về một cô gái người Việt bị bán sang nhà chứa Campuchia. Cô bị lây bệnh sida và ước nguyện được chôn cất tại Việt Nam. Cha cứ thường đến bên hài cốt cô thầm đọc kinh cầu nguyện cho cô bé vô tội được hưởng nước trời. Những ngày phục vụ tại trại Sida Mai Hoà, cha không cho tiếp xúc với bệnh nhân vì cha giải thich sẽ có ngày bị lây. Cha cũng thế? Nhưng cha chỉ mỉm cười. Nhớ mỗi lần đi Mai Hoà cha đều ghé quán bún bò rất ngon gần Củ Chi nhưng không bao giờ ăn mà nói sáng anh ăn ở nhà Dòng rồi. Thực ra cha chỉ ăn chén cơm nguội thôi.

Những ngày cha làm bề trên nhà Nguyễn Kiệm, cha luôn quan tâm lo lắng từng anh em nhưng không bao giờ bỏ rơi các bệnh nhân nghèo. Một ngày đến giờ ăn trưa, cha không ăn và mặt mày buồn buồn, đi qua đi lại suy nghĩ gì. Bỗng cha lấy xe đi và 45 phút quay về với khuân mặt vui tươi, rạng ngời. Cha cho biết, sáng có Việt Kiều cho 5,000USD. Anh suy nghĩ xem cho ai và anh đem cho một em bé đang cần mổ tim và 2 bệnh nhân nữa. Tưởng gì. Chỉ suy nghĩ bệnh nhân nào đang cần tiền mà mất ăn mất ngủ.

Khi cha làm bề trên nhà Thánh Tâm Đà Lạt, dâng lên xong cha gọi một em đệ tử lên gặp. Nghe cha gọi em lo lắng, suy nghĩ việc gì? Cha đưa em cái áo lạnh của Cha và nói: em lấy áo lạnh của anh mặc cho ấm và đưa áo của em cho anh. Vì áo của anh dày hơn áo em. Thế là ngày nào cha cũng mặc chiếc áo gió mỏng tanh.

Khi mục vục trên Tây Nguyên đường xá đi lại khó khăn và xa xôi, cha bề trên mua lại chiếc xe hơi với giá khoảng 60 triệu. Chắc xe tàn lắm rồi. Cha Chung chửi cho một trận. Giận dỗi thế nhưng khi đi mục vụ, đi lên toà Giám mục hợp cha vẫn vui vẻ leo lên xe hơi đó. Thánh là vậy! Chửi nhưng không giận. Ngày cuối năm cha bề trên giết mấy con gà ăn chia tay các thầy về quê. Cha cũng mắng: Các em sống trong Dòng khó nghèo, các em không được sống hơn người nghèo. Ôi mấy con gà là gì. Nhưng cha chỉ thể hiện cuộc sống vì người nghèo mà làm cho anh em buồn bực. Ấy thế mà chẳng ai ghét cha.

Lạ lắm, cha làm bề trên nhà nào thì luôn có thầy xin về không đi tu nữa. Đó là điều làm cha luôn đấm ngực dằn vặt bản thân. Cha không hiểu tại sao cứ nghĩ tại mình. Mọi người giải thích có lẽ sự thật thà, ngay thẳng của cha làm cho anh em can đảm nhìn nhận ra ơn gọi của họ.

Khi cha được chuyển về Kon Tum, cha bôn ba khắp nơi phục vụ người dân tộc nghèo. Cha cho họ bò nuôi đẻ ra con cha cho họ giữ con nuôi. Cha bắt bò mẹ cho nhà lhasc nuôi lấy bò con. Có gia đình nó bán luôn bò mẹ, làm cha buồn lắm. Cha kể có anh chị ở Sài Gòn làm thợ xây giúp cha cả 20 con bò để cho các gia dinh dân tộc. Khi anh mất, cha lặn lội về dâng lễ tiễn anh ấy. Qua đó chúng ta thấy cha không bao giờ quên ơn những vị ân nhân. Cha kể, ngày cha từ Sài Gòn lên giúp trại cùi ở tây nguyên thì bị chính quyền cản trở. Anh buồn bã lắm làm đơn từ giải trình và cuối cùng anh lên ngọn núi xung quanh bảo vệ rất kỹ. Cha hỏi quý ông bà, anh chị có biết Chúa không? Họ nói Chúa là ai? Chúng tôi chưa nghe bao giờ. Thế Giàng của ông bà anh chị là ai? Tất cả họ đồng thanh trả lời bác Hồ. Từ đó cha tìm cách đến với họ nhiều hơn để nói cho họ về Chúa.

Đúng là cuộc đời cha nhiều câu chuyện lý thú nhưng không ít những sầu não. Cha đi tu, Ông Cố Cha không vui nên thường hay đến nhà Dòng Nguyễn Kiệm chửi vì bao nhiêu bác sỹ bạn cha giờ nhà lầu xe hơi còn cha cứ chiếc xe đạp cũ hoặc chiếc xe máy 82. Có vài lần, cha đạp xe đi mua thuốc, mải mê mua thuốc quay ra xe biến mất. Lủi thủi đi bộ về. Rất nhiều lần cha đi xe máy hết xăng và cầm chứng minh vì trong túi không còn xu nào. Có một anh ba gác lỡ bán xe giờ không còn gì làm nuôi vợ con đến xin cha 300 ngàn mua xe ba gác. Anh ta còn dắt đến nơi mua. Cha cẩn thận nhờ một thầy đi mua và trả tiền chứ không đưa tiền mặt. Ngày mai hắn bán luôn xe. Gặp hắn ngoài đường cha chửi quân lừa đảo. Thế mà vẫn tìm công ăn việc làm cho hắn để nuôi vợ con.

Cha luôn yêu thương chăm lo cho người nghèo, bệnh nhân. Vất vả đem họ đi chữa trị tại các bệnh viện Sài Gòn dù trong cha cũng đang bệnh cần nghỉ ngơi. Nhưng cha làm việc đên khi không còn sức thì mới đành chịu. Những ngày bệnh tật, cha âm thầm đi chữa không muốn phiền ai. Anh em trong Tu Hội Truyền giáo thánh Vinh Sơn ai cũng thương mến cha, luôn tạo điều kiện để cha tự do làm việc tông đồ bác ái theo ơn đoàn sủng của cha. Chắc chắn cũng có những khó chịu với cha vì cha hay nhường phần mình cho người khác. Cũng như người ta thấy cha mặc áo may ô vị rách thì mua cho cha mấy áo thun đẹp. Nhưng ngày mai cha cho các thầy hết. Cha cứ nói anh mặc thế này là đẹp lắm rồi. Các thầy cần mặc đẹp để đi học.

Đúng là con người cha luôn sống như lời cha nói: mình sống hơn người nghèo, mimhf xấu hổ lắm. Nay chắc chắn cha được dự phần thưởng nước trời dành cho những người Chúa chọn, người mà Chúa đã nói trong hiến chương nước trời: Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì nước trời là của họ. Chỉ cần có tinh thần thôi thì nước trời đã là của họ. Như vậy với cha sống nghèo hèn thì chắc chắn phần thưởng nước trời là của cha.

Xin cha cầu cho chúng con là những người khi sống cha luôn yêu thương, quan tâm để chúng con can đảm sống chứng nhân cho Chúa nơi anh em ngoại đạo.

Thiên Ân

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

PHÉP LẠ TRÀNG CHUỖI MÂN CÔI .


PHÉP LẠ TRÀNG CHUỖI MÂN CÔI .

(Hãy lần hạt Mân Côi mỗi ngày, Bạn và tôi sẽ bình an và hạnh phúc)

Tình ưu ái đặc biệt Đức Mẹ MARIA dành cho Tràng Chuỗi Mân Côi được tất cả mọi tín hữu Công Giáo ghi nhận trải qua không biết bao nhiêu biến cố diệu kỳ xảy ra suốt dòng thời gian.

Xin giới thiệu một trong những biến cố này.
Biến cố diễn ra trong tháng 5 năm 1961. Ông Bellis là một tín hữu Công Giáo vô cùng đạo đức và là nhân viên sở hỏa xa làm việc nơi một trong những ga xe xửa nổi tiếng nhất nước Ý.
Ngày 15-5-1961 như thường lệ, ông lái xe lửa từ thủ đô Roma trực chỉ Milano ở miền Bắc nước Ý. Bỗng chốc – do sự lầm lẫn vô ý – ông trông thấy từ đàng xa một chiếc xe lửa khác đang ngược chiều chạy thẳng về hướng của mình. Chỉ còn vỏn vẹn vài phút nữa thôi và tất cả sẽ là tai nạn thảm khốc nhất xảy ra.
Ông bắt đầu hãm tốc độ với trọn sức lực, nhưng hai chiếc xe lửa cứ lao đầu vào nhau mỗi lúc một gần hơn. Thế là ông Bellis – với tâm tình của một tín hữu Công Giáo nhiệt thành nhất – liền cho tay vào túi rút ra Tràng Chuỗi Mân Côi và siết chặt trên ngực van xin khẩn nài Đức Trinh Nữ Rất Thánh Mân Côi ra tay cứu giúp, rồi ông nhắm chặt đôi mắt lại. Nhưng khi ông mở mắt ra thì tất cả xong xuôi hết rồi. Hai chiếc xe lửa ngừng lại đối đầu nhau trong một khoảng cách chỉ vỏn vẹn gần một thước.
Tất cả mọi hành khách trên cả hai chiếc xe lửa vội vàng nhào xuống reo hò mừng rỡ trước một sự kiện quá lạ lùng. Họ đồng thanh kêu lên:
– Đúng là Phép Lạ!
Trong khi đó ông Bellis, với quả tim đập liên hồi và khuôn mặt trắng nhợt vì cảm động, tìm kiếm Tràng Chuỗi Mân Côi vì không còn trông thấy nó nữa. Không hiểu nó rơi mất nơi đâu. Ông vô cùng ngạc nhiên bởi lẽ trước đó ông còn nắm chặt Tràng Chuỗi Mân Côi trong tay đặt trên ngực rõ ràng mà! Vậy thì nó biến mất nơi đâu???
Đang đưa mắt đảo quanh tìm kiếm Tràng Chuỗi Mân Côi thì một bé trai lôi kéo sự chú ý của ông cũng như của tất cả các hành khách khác. Mọi người vẫn còn trầm trồ chiêm ngưỡng khoảng cách thật gần của hai chiếc xe lửa thì nghe cậu bé reo lên:
– Hãy đến mà xem! Hãy đến mà xem! Hãy nhìn kỹ có vật gì đó nằm giữa hai đầu chiếc xe lửa kìa!
Cậu bé la to như thế. Mọi người nhốn nháo đặt câu hỏi:
– Vật gì thế?
Thì ra trên đường rầy nằm giữa đầu hai chiếc xe lửa là Tràng Chuỗi Mân Côi của ông Bellis. Mọi người ngỡ ngàng kinh ngạc hỏi nhau:
– Làm thế nào mà Tràng Chuỗi Mân Côi lại rơi ngay chính giữa hai chiếc xe lửa như thế này???
Trước một phép lạ tỏ tường như thế tất cả mọi người đều hiểu rõ đây là cử chỉ ưu ái cách riêng Đức Trinh Nữ Rất Thánh Mân Côi dành để cứu sống người con dấu yêu và cùng với ông, cứu sống tất cả các hành khách của cả hai chiếc xe lửa.

Câu chuyện thứ hai mang nét đẹp dịu hiền khác. Trong niên sử của Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU (1873-1897) người ta đọc thấy câu chuyện sau đây.
Vào năm 1911 một mục sư tin lành người Tô-cách-lan sau khi đọc cuốn ”Truyện Một Tâm Hồn” của Thánh nữ Têrêxa liền đem lòng mộ mến vị Thánh trẻ tuổi và thường kêu xin Thánh nữ trợ giúp. Tuy nhiên, một hôm Thánh nữ Têrêxa hiện ra và nói:
– Sao Mục sư cứ xin tôi cầu nguyện cho Mục sư mà lại không muốn biết đến và khẩn cầu cùng Đức Mẹ MARIA???
Vị mục sư Tin Lành thông minh hiểu ngay rằng thật là chuyện vô lý khi khẩn cầu cùng vị thánh trẻ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU mà lại lơ-là lòng sùng kính Đức MARIA, Mẹ THIÊN CHÚA.
Kể từ ngày ấy, vị Mục sư luôn luôn thân thưa cùng Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA và cảm nghiệm trong tâm hồn tràn ngập một Tình Yêu dịu hiền khôn tả xiết. Tình Yêu mỗi ngày một lớn mãi cho đến một ngày vị Mục sư quyết định gia nhập Giáo Hội Công Giáo thánh thiện duy nhất tông truyền và trở thành vị đại tông đồ rao giảng lòng sùng kính Đức Mẹ MARIA, Hiền Mẫu Thiên quốc.

(”La Mia Messa”, volume II, 1 Aprile – 30 Giugno 2014, Anno VIII/A, Casa Mariana Editrice, trang 337-338/298)

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

CHÚA CỨU CHỮA CHO NGÔI TRƯỜNG BỊ XUỐNG CẤP TRẦM TRỌNG.

 CHÚA CỨU CHỮA CHO NGÔI TRƯỜNG BỊ XUỐNG CẤP TRẦM TRỌNG.

Phan Sinh Trần

Năm 1974, cha Michael Scanlan, thuộc dòng Phan-xi-cô khó khăn, nhận chức chủ tịch trường cao đẳng Steubenville thuộc hệ thống Đại Học Cao Đẳng của Hội Thánh Công Giáo Hoa Kỳ, trường đang trong tình trạng bị xuống cấp thảm hại, bị lỗ lã tài chánh, sinh viên của trường, ngoài giờ học thường dùng thời gian để làm các điều phản luân lý như tụ tập đàn đúm rồi làm tình với nhau, rủ rê lôi kéo chúng bạn sử dụng chích choác ma túy, và cùng nhau đi la cà các quán bar để nốc rượu cho đến lúc say khướt. Tình hình tệ hại tới mức các ứng viên cho chức vụ chủ tịch hội đồng trường Steubenvilled, những người nộp đơn trước cha Scanlan, khi được phỏng vấn ứng viên cho công việc làm này, họ đều có chung một nhận định, đó là, nếu được trở thành chủ tịch thì họ sẽ đóng một hoặc nhiều bộ phận trong trường, duy chỉ có Cha Scanlan là chủ trương cải tổ nhà trường thay vì phải đóng cửa nó. Được hội đồng nhất trí bầu chọn làm vị chủ tịch hội đồng quản trị mới, Cha Scanlan liền bắt tay vào việc cải tổ ngôi trường.

 Trong ba tháng đầu tiên, ngài thường dùng bữa ngay tại các nhà ăn sinh viên, chơi tennis, banh bầu dục, banh chầy, bóng rổ với các bạn sinh viên, Ngài tham dự bất kỳ buổi họp mặt party vui choi nào mà Ngài biết được dù họ có muốn mời ngài đến tham dự hay không mặc kệ, kinh nghiệm này cho Cha sự hào hứng nhưng cũng cho thấy tình trạng bết bát của môi trường, ngài càng đoan chắc một cách tỏ tường rằng những đề nghị cải cách là tuyệt đối cần kíp cho đời sống sinh viên của nhà trường:

–          Trường Cao Đẳng Steubenville cần sự đổi mới, canh tân theo đức tin công giáo một cách sâu sắc và sự trỏ về với căn tính (theo tinh thần thánh) Phan-xi-cô của mình.


Vốn có nhiều kinh nghiệm về Canh Tân đổi mới, Cha liền tổ chức các nhóm Canh Tân Đặc Sủng, tương tự như các tập thể nhỏ mà Cha từng tổ chức khi ngài còn là một giám đốc Chủng viện của dòng thánh Phan-xi-cô. Đây sẽ là các nhóm hạt nhân cho công trình cải tổ của Trường. Cha cũng giành lấy công tác phụng vụ của ngày Chúa Nhật, trong các Thánh Lễ, ngài kết hợp việc ca ngợi Canh Tân Đặc Sủng với các bài giảng thuyết có sức tác động làm lay tỉnh tấm lòng người tham dự. Ngài thiết lập chế độ  “tổ dân phố” đòi hỏi sinh viên tham gia, chương trình này có tính bặt buộc cho mọi sinh viên của Trường, đó là các nhóm nhỏ chuyên chú vào việc phát triển cá nhân và cộng đoàn. Tổ trưởng là các em sinh viên tích cực, đạo dức hoặc nhân viên của Trường. Cha cũng thiết lập một trung tâm Canh Tân Đặc Sủng ở ngay trong khuôn viên trường, làm nơi tổ chức các khóa tĩnh tâm, hội thảo giúp sinh viên tiến xa trong sự hiểu biết về Chúa và đâm rễ sâu trong đức tin Công Giáo. Trung tâm bắt đầu tổ chức các buổi hội thảo vào mùa hè, thu hút được người trẻ đang theo học trong trường cao đẳng đến tham dự, Cha Scanlan thường xuyên nói chuyện ở các buổi hội thảo này.

Khởi đi từ năm 1975 ngay tại khuôn viên trường, Cha Scanlan tổ chức hội thảo hè dành cho các linh mục và trong năm sau, tổ chức hội thào phúc âm công giáo cho giới trẻ học sinh trung học. Từ ngày đó cho đến hôm nay, sinh hoạt trở thành đều đặn mỗi năm, hè về, đã có 55.000 ngàn học sinh và người lớn tham dự các trại hè thảo luận ở 31 đại học Phan-xi-cô trên 16 tiểu bang của Hoa Kỳ và Gia nã đại.

Mặc dù đã có những sự thay đổi chiến lược nêu trên, tuy nhiên, trường cao đẳng Steubenville vẫn còn phải tiếp tục tranh đấu để sống còn. Sau năm đầu tiên, tính từ lúc Cha Scanlan về nhận chức chủ tịch hội đồng và áp dụng các cải cách, tình trạng không khả quan hơn, con số tân sinh viên ghi danh theo học đã ở mức thấp nhất trong lịch sử của trường, đã có 5 nhân viên cao cấp nhất hoặc họ chán nản xin từ chức hoặc bị cho nghỉ việc, các phân khoa bắt đầu mất dần niềm hy vọng cuối cùng nơi tài lãnh đạo của linh mục Scanlan. Mặc cho khó khăn chồng chất, Cha Scanlan càng kiên trì trông cậy nơi ơn không ngoan soi sáng của Chúa Thánh Thần dành cho mình và cương quyết tiếp tục thúc đẩy việc cải cách nhà trường, đặc biệt là về nội dung các khóa học, ngài cũng giới thiệu trở lại phân khoa Thần Học với chương trình học phong phú, Thần Học mau chóng trở thành môn chánh được sinh viên tìm đến ghi danh nhiều nhất ở trường. Ngài cũng trực tiếp trông coi việc phát triển các chương trình hậu đại học, với học vị tiến sĩ cho môn Kinh Tế Quản trị và Thần học, điều này giúp cho trường được công nhận danh hiệu Đại Học vào năm 1980. (Năm 1985 trường được đổi tên là Đại học Phan-xi-cô của thành phố Steubenville).

Cha Scanlan nhận định “Trường Cao Đẳng phải thường xuyên làm mới lại mình. Nó được kêu gọi để tự diễn tả một cách liên tục những giá trị vinh cửu trong thời hiện tại, cho những con người thời nay vốn đối diện với cuộc sống hiện đại. Chính đây là nơi  mà một trường cao đẳng có thể đáp ứng cho các nhu cầu mà các cơ quan tôn giáo khác không làm được. Nguyên tắc đổi mới ở Steubenville được đặt căn bản trên tố chất luôn mới mẻ của Chúa”.

Từ đó, Đại Học Phan-xi-cô đã tiếp tục phát triển và có thêm nhiều uy tín, sĩ số sinh viên theo học được gia tăng và lên đến con số trên 2600 sinh viên hàng năm, Trường tổ chức hàng trăm buổi hội thảo giúp canh tân đổi mới đời sống, làm gia tăng thêm niềm tin Đạo, lòng yêu mến cuộc đời nơi các bạn trẻ. Steubenville nổi tiếng vì giúp tạo nên vài Nhà Thần Học, Chuyên viên Giáo Lý và Doanh Nhân lớn, tầm cỡ thế giới. Hiện nay,  trường có chuyên khoa Thần Học với các bộ môn học thuộc vào loại phong phú nhất trong số các trường đại học Công Giáo  Hoa Kỳ. Ngày nay, ngôi trường Steubenville nhỏ bé được ghi danh trên bản đồ là địa chỉ của một nhà trường Công Giáo cách tân của Hoa Kỳ. Nó cũng được dùng làm tiêu chuẩn cho các trường đại học khác noi theo.Đến phiên mình, các trường này tiếp tục công việc huấn luyện nên các nhà lãnh đạo công giáo trứ danh, hầu hết đều vươn tới cùng một kết quả tốt đẹp giống như những gì trường Phan-xi-cô đã làm được. Steubenville đã có một ảnh hưởng tuyệt vời cho nền văn hóa Công Giáo ở Hoa Kỳ và trên thế giới. Làm sao mà sự thay đổi tốt đẹp này đã diễn ra? Điều này đã cần đến một linh mục sẵn lòng đáp trả sự thôi thúc của Chúa Thánh linh để chuyển đổi ngôi trường của hội hè, chơi bời thành ra một trương đại học công giáo tốt nhất thời nay.

Cha Vincent Michael Scanlan là ai mà tạo nên một kỳ tích tuyệt diệu như vậy?

Cha Scanlan thuộc dòng Phan-xi-cô khó khăn, Ngài đã ở cương vị chủ tịch đại học công giáo Phan-xi-cô, Steubenville, tiểu bang Pennsylvania trong 26 năm trường.

Khi còn bé Scanlan tuy rất thông minh nhưng lại không chú tâm vào thứ hạng xuất sắc đầu lớp cho bằng cậu muốn được có thêm các sinh hoạt hào hứng được tổ chức trong cộng đồng. Tuy nhiên các sư huynh dòng Thánh Tâm đã có một ảnh hưởng tốt tới đức tin, tính hạnh của Scanlan, đặc biệt là sư huynh Bertin Ryan, người mà Scanlan cho rằng “đã kết hợp tiêu chuẩn cao nhất về đức hạnh, học vấn uyên thâm trong một phong cách đáng mến, với một sức mạnh thân thiện khôn cưỡng”. Được ảnh hưởng trong một thời gian lâu dài bới sư huynh Bertin, em Scanlan mau chóng để cho đức tin làm chuyển hóa và thay đổi cuộc sống của mình. Sự thay đổi toàn diện này làm cho em Scanlan vượt qua bản tính thờ ơ và nhanh chóng tiến đến vị trĩ đứng đầu lớp. Scanlan tốt nghiệp hạng danh dự ở trường trung học Coindre Hall và sau đó theo học tại trường cao đẳng Williams.

Tuy nhiên, tại đây anh bị khủng hoảng đức tin khi chứng kiến sự hoài nghi, và tình trạng thiên về hiện thực trần thế của các giáo sư, Scanlan bắt đầu nghi ngờ sự hiện hữu của Thượng Đế, rồi trong một thời điểm bị hoang mang lòng tin, Scanlan đã rời khỏi sân trường, anh tiến bước, đi vào một khu rừng bên cạnh trường, anh ở lại trong nơi thanh tịch đến nửa ngày, anh thề hứa sẽ không đi ra khỏi đó cho đến khi Chúa cho anh ơn biết phân định, ơn nhận biết tỏ tường về sự hiện hữu thật của Chúa. Chính vào buổi chiều tối hôm đó, Scanlan cảm nhận có sự hiện diện rất sống động và tốt lành của Chúa, kinh nghiệm này định hướng toàn bộ cuộc đời của anh, nó cũng giúp cho anh tìm về lại đức tin Công Giáo với một nguồn sinh lực mới mẻ.

Tiếp tục việc học, Scanlan theo học tại đại học luật Havard, trong niên học thứ hai, Một hôm nọ, đang khi đi bộ từ nhà nguyện để trở về trường sau thánh lễ sáng, Scanlan lại cảm thấy sự hiện diện của Chúa một lần nữa.Trong giây phút đó, Scanlan biết rằng Chúa muốn kêu gọi anh trở thành một linh mục Công Giáo. Anh rất ngỡ ngàng trước sự mạc khải của Chúa nhưng anh đã thưa vâng không do dự, anh cũng biết rằng mình cần phải hoàn thành việc học luật trước đã.

Ra trường, phục vụ trong không lực, nha quân pháp, làm việc rất giỏi, luật sư Scanlan chưa hề bị thua một vụ kiện nào, anh mau chóng trở thành một quan tòa của Không lực Hoa Kỳ. Cho dù đang thành công lớn trong nghề nghiệp, Scanlan cảm thấy ý muốn của Chúa cho mình là ra đi và gia nhập một dòng tu để phục vụ cho cộng đoàn dân Chúa. Một lần nữa anh Scanlan thưa vâng với Chúa, anh đi thăm dò để có một nơi chốn tu trì và phục vụ dân Chúa thích hợp với ơn gọi của mình, tìm hiểu ở dòng Tên, dòng Đa Minh và cuối cùng theo ý Chúa, anh chọn dâng hiến đời mình trong dòng Phan Sinh. Tháng 5, năm 1964 Scanlan thụ phong linh mục dòng ba của thánh Phan-xi-cô khó khăn.

Năm1970,  cha nhận được thêm ơn Chúa Thánh Linh trong dịp tĩnh tâm Ngũ Tuần tại Đan Viện Ann Arbor và bắt đầu trở nên lãnh đạo hàng đầu của làn sóng ngũ tuần, tiền thân của phong trào Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo, Cha có một đời sống dồi dào ân sủng Chúa Thánh Linh, trong tình yêu bền chặt với Chúa Giê Su, ngài thường dành thời gian ưu tiên tối đa cho việc cầu nguyện kết hợp với Chúa, dành nhiều giờ, nhất là vào lúc bắt đầu một ngày mới, trước Thánh Thể Chúa. Ngay từ khi còn là một sinh viên ngài luôn tìm cầu ý Chúa trong bất kỳ việc gì cần giải quyết. Cha Davis, bề trên tỉnh dòng Phan Sinh, trong cùng cộng đoàn với Cha Scanlan, kể lại:

–          Cha dậy sớm hơn và trước hầu hết mọi người trong nhà của chúng tôi, ngài ở lại trong nhà nguyện trước giờ chầu Thánh Thể sớm hôm. Ngài luôn có bản Chương Trình Công tác của Ngày hôm đó, Ngài sẽ chăm chú cầu nguyện hỏi Chúa “Rồi con sẽ làm gì với điều này đây?” Bất cứ quyết định nào của Cha luôn bắt nguồn, xuất xứ từ Chúa.

Niềm vui Canh Tân Đặc Sủng của Cha luôn trào dâng ra cho người khác và tạo nên một phản ứng dây chuyền làm vui tươi, thánh hóa cả môi trường, Giáo sư dạy môn thần học của trường, tiến sĩ Hann cho biết:

–          Hồi đó, vợ tôi chưa phải là người Công Giáo, cô ta bị xảy thai, Cha Scanlan cầu nguyên đặt tay cho cô. Kết quả bất ngờ là …không những chỉ có người vợ của tôi mà cả gia đình, chả bao lâu sau, đều được hồi phục sức khỏe thể lý và tinh thần. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, vợ tôi tin phục và có cảm nghiệm tốt về đạo Công Giáo, Kimberly vốn chưa phải là một tín hữu công giáo, nay cô muốn cải đạo và xin trở thành một tín hữu Công Giáo. Hann nói tiếp:

–          Ngài có trực giác nhạy bén, sức mạnh siêu nhiên từ gốc nguồn (của Chúa) xuất ra. Ngài như đang cai quản 12 chi tộc của Steubenville, giống như tổ phụ Gia Cóp khi xưa đã chăn dắt dân tộc Israel, Ngài luôn dẫn dắt mọi sinh hoạt, nào là công tác cho sinh viên, điều hợp các phân khoa, nào giúp linh hướng, linh đạo , giải tội, đặt tay cầu nguyện cho bất kỳ ai có ước muốn… Ngài là một người luôn ở trong sự cầu nguyện và điều này có ảnh hưởng lan tỏa ra cho người khác”   

 

Sau đây là các chia sẻ của Sơ Ann, cộng tác viên của Cha Scanlan, Sơ cho biết:

–          Việc đầu tiên của Cha là luôn đặt Chúa ở trước hết, và luôn tìm ý Chúa trong mọi quyết định về phát triển của ngôi trường. Ngài dặn dò người thư ký, xin hoãn lại tất cả các giờ hẹn cho đến khi Ngài cầu nguyện xong, cho đến khi Chúa chỉ rõ các yêu cầu cần thiết của ngày hôm đó…

–          Cha luôn hỏi Chúa “Làm sao con làm cho nó hoạt động đây?” không phải là cha không có tài, không có năng khiếu, và khả năng. Ngài có thể sử dụng chúng, nhưng điều cốt yếu là Ngài luôn muốn được lệ thuộc vào Chúa. Điều này ghi khắc dấu ấn về thái độ tin thác vào Chúa của Cha, sâu đậm trong tâm tôi, trong mọi việc tôi làm giờ đây, tôi không thể làm mà không có giờ lâu trước nhan thánh Chúa để lãnh hội ý Chúa và biết rõ tôi dành ưu tiên cho công việc theo cách thế đúng đáng nhất.

    … ngõ hầu Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự. (1Corinto 15:28)

Cha Scanlan mất ngày 7 tháng 1 năm 2017 sau một thời gian đau ốm. Cha Sheridan, chủ tịch đương nhiệm của đại học Phan-xi-cô, kể lại rằng:

–          Cha Scanlan đã làm chương trình “ Đại Học Phan-xi-cô tường trình” trên đài truyền hình Công Giáo “Lời Vĩnh Cửu”, EWTN (Đài TV công giáo lớn nhất thế giới được truyền dẫn đến 250 triệu gia đình, trong 140 quốc gia khắp năm châu) trong mười tám năm trường, đến nay thì chương trình đã được 23 tuổi, là chương trình thảo luận về thần học lâu đời nhất của đài EWTN. Ngài viết 16 quyển sách về các đề tài tâm linh, là lãnh đạo tiêu biểu của Phong Trào Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo, Ngài đã thuyết giảng hàng ngàn buổi ở Hoa Kỳ và hải ngoại, dẫn dắt vô số người vào trong mối tương quan mật thiết với Chúa Giê Su Ki tô và Hội Thánh Công Giáo. Điều mà có lẽ, tất cả chúng ta sẽ nhớ nhiều nhất, với thái độ biết ơn, dành cho người cha tinh thần quý mến của chúng ta.

Ông George Weigel, một chuyên viên cao cấp, giám đốc trung tâm nghiên cứu Công Giáo về Đạo Đức và Chính Sách Công đã phát biểu ý kiến:

–          Cha Michael Scanlan là một máy phát năng lượng Phúc Âm, người biết rằng việc canh tân giáo dục cao học Công Giáo là yếu tố rất thiết yếu của công trình Tân Phúc Âm hóa. Tư cách chứng nhân, cách sống quá nhiệt thành, và khả năng nói Tin Mừng một cách hoan hỉ đã là đóng góp chính không chỉ cho đại học Phan-xi-cô nhưng là cho Hội Thánh Công Giáo ở Hoa Kỳ và cho hội thánh trên toàn thế giới

Sơ Ann sau mấy mươi năm làm việc chung với Cha Scanlan, trong mục vụ Canh Tân tại trường Steubenville đã tóm gọn về phương cách Cha đã tiến hành để có thể thay đổi hoàn cảnh cho một người như sau:

–          Một là ngài luôn dâng đương sự và tình trạng của họ lên cho Chúa trong một thời kỳ cầu nguyện liên lỉ sâu dài.

–          Hai là ngài có cách để đem người đó tới với Chúa Giê Su làm gia tăng Đức Tin của họ, và đến phiên họ sẽ lại đi giúp đỡ cho người khác.                    

Ngài xây đắp tình thân của họ cùng với Chúa Giê Su và trong Chúa Giê Su. Ngài không giảng dậy, Ngài sống điều cần giảng.

 Vì chúng tôi không rao giảng chính mình, song là Đức Kito Giê Su, Ngài là Chúa, còn chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em,  vì Đức Giê Su (2Cô rin tô 4:5)

Xin Chúa Giê Su qua tác vụ của Chúa Thánh Linh, cho Hội Thánh Việt Nam, Hội Thánh Toàn Cầu có thêm nhiều linh mục khả kính như cha Michael Scanlan.

Bạn có thể tìm hiểu thêm về hoạt động của Cha Scanlan ở đây:

http://www.ncregister.com/ daily-news/the-man-who- rebuilt-steubenville

https://franciscan.edu/ FatherMike

http://www.iccrs.org/en/fr- michael-scanlan-tor-may-rest- in-peace/

https://www.youtube.com/watch? v=M1G1e1zFzBM

Khóc thương một bác sỹ, linh mục Sida

Khóc thương một bác sỹ, linh mục Sida

Chủ nhật – 14/05/2017

Thật không thể tin vào tai mình khi nghe cha Phao Lô Nguyễn Kim Sơn báo tin Chúa đã gọi Bác sỹ, Linh mục Augustino Nguyễn Viết Chung, tu sĩ Tu Hội Truyền giáo thánh Vinh Sơn, Nazarit (Vincent De Paul), một linh mục của người nghèo, bệnh nhân sida, và bệnh nhân phong cùi. Tin đến như sét đánh, làm cho tim này nhói đau, lòng hụt hẫng, sau vài phút mọi sự mới hoàn hồn và như cuộn film tua lại những ký ức về cuộc đời một vị thánh sống. Một Phật Tử đã và tin theo Chúa Giêsu, cống hiến cả sự nghiệp bác sỹ đầy danh vọng quyền quý, hy sinh cả cuộc đời sống với và cho các anh em dân tộc nghèo khó. 

 

 

 

 

 

 

 

 

Khóc thương một bác sỹ, linh mục Sida

Khó có thể kể hết nhân đức anh hùng mà vị linh mục sida. Mọi người gọi cha với cái tên nghe lạ tai mà rất thân thương. Cũng chẳng có gì lạ với cái tên yêu này, bởi vì cả cuộc đời bác sỹ, cha chỉ phục vụ một đối tượng với nhiều loại người: cùi, sida, bệnh nhân nghèo.

Cuộc đời cha với nhiều giai thoại của người tôi tớ phục vụ quên thân mà làm cho nhiều người thương mến, nhiều người trách. Thương vì cách cha làm, trách vì sợ cha phục vụ người nghèo quên ăn, uống, và sờ cha lây bệnh chết sớm.

  1. Khi còn là sinh viên y khoa, mỗi ngày anh sinh viên Nguyễn Viết Chung phải đạp xích lô rong ruổi trên các con phố của Sài thành kiếm tiền ăn học. Một buổi sáng đẹp trời, anh đạp xích lô ra khỏi nhà và may mắn có một vị khách trung niên bắt xích lô đi. Sau khi chở vị khách đến nơi, thì cả buổi sáng hôm đó không có một khách nào bắt xích lô nữa. Anh sinh viên y buồn bã mong ngóng vớt vát một khách nào rồi về lên học đường. Lán thêm mà cũng chẳng có ai. Chán nản, anh cầm tờ báo mà vị khách hồi sáng bỏ lại trên xich lô. Anh say mê một bài báo viết về Cha Jean Cassaigne, người Pháp sang Việt Nam truyền giáo, ngài được phong làm Giám mục giám quản địa phận Sài Gòn dến năm 60 tuổi ngài xin về hưu sống ở trại cùi và phục vụ bệnh nhân cùi tại Di Linh. Ngẫm nghĩ về một ông tây bỏ quê hương xứ sở, gia đình đi phục vụ người cùi tại Việt Nam và anh thầm mong ước: học xong bác sỹ sẽ lên Trại Cùi Di Linh phục vụ anh em cùi. Giữ lời hứa với lòng, anh cầm cả quyết định phân về làm bác sỹ tại bệnh viện Bình Dân, một bệnh viện lớn tại Sài Gòn. Ban Giám đốc Trại cùi Di Linh họp và quyết định từ chối, không nhận  Bác sỹ trẻ này với ly do khá ngộ nghĩnh: Bác sỹ này giỏi và có việc làm ở bệnh viện có tiếng nên để bác sỹ ở Thành phố để phục vụ bà con.
  2. Buồn bã lê bước trở về thành phố với tấm lòng đầy thất vọng, đau buồn làm cho bác sỹ ít nói. Ở đây, chăm sóc chữa trị bệnh nhân với tấm lòng từ mẫu. Cũng như bao vị bác sỹ khác, bác sỹ Chung cũng mở cửa một phòng khám tư tại Tân Bình, từ 1600-2100 mỗi ngày. Bệnh nhân sắp hàng rồng rắn làm bác sỹ khám đến 2 giờ sáng. Nhiều người thắc mắc cứ đúng 21 giờ đóng cửa, ai khám mai đến. Bác sỹ nhẹ nhàng nói thương người ta từ xa, mãi miền Tây đến để về thì tội, nên anh khám cho họ. Bác sỹ cho biết, anh mua 1 viên Panadol 300 đồng, anh cũng lấy của bệnh nhân 300 đồng. Nhiều nhiều bệnh nhân nghèo kéo đến với phòng khám của bác sỹ Chung làm cho các phòng khám quanh đấy vắng khách. Chính vì lẽ đó mà bác sỹ bị kiện, tố cáo vì ghen tỵ. Cũng vì lý do sức khoẻ, không đủ sở hội trả tiền thuê nhà và nhường bộ để các bác sỹ khác và bác sỹ đã đóng cửa phòng khám này. Nói thế khôg có nghĩa phòng khám của anh chỉ có bệnh nhân nghèo. Anh vẫn thương hay nhắc đến một doanh nhân giàu có nức tiêng Sài Gòn, Tăng Minh Phụng. Anh cho biết, trong mắt anh, Tăng Minh Phụng đẹp lắm. Những chuyện gì anh Phụng phạm anh không quan tâm. Nhưng khi đến khám bệnh thì anh vẫn thu tiền bằng với các bệnh nhân khác. Biết vậy nên mỗi lần truyền nước Minh Phụng hay mua 10 chai và 9 chai tặng người nghèo. Sau khi đóng cửa, anh chỉ thao thức với cái ước mơ ngày nào đi phục những bệnh nhân cùi làm cho anh không còn tâm trí làm trong bệnh viện lớn mà bao sinh viên y khoa khát khao. Anh kể, một em bệnh nhân người Hoa tại Chợ Lớn, tại thời điểm đó thuốc men thiếu, lại thêm kiến thức y khoa mình chưa đủ để cứu em đó. Chính vì lý do đó mà anh cứ dằn vặt lòng mình mãi. Và anh quyết tâm đóng góp cuộc đời cho những bệnh nhận ít người chăm sóc. Dù bận rộn với công việc của một trưởng khoa, ấy thế mà, cứ mỗi chiều tan ca, anh lại chạy thẳng về trại Phong Bến sắn Binh Dương (Sông Bé) để chăm sóc bệnh nhân phong cùi.
  3. Anh cứ miệt mài chiều đi Bến Sắn, sáng về Bình Dân. Thấy anh không còn thời gian và chỉ sợ anh đổ bệnh mà khuyên anh bỏ Bến Sắn. Anh nhẹ nhàng nói anh có kế hoạch rồi. Bẵng đi thời gian anh khoác trên vai chiếc áo thâm chùng của Dòng thánh Vinh Sơn  sống khó nghèo. Anh kể, cái ngày anh chăm sóc bệnh nhân phong tại Bến Sắn khi Dì Hai nằm hấp hối thì anh ghé thăm. Anh cứ cố gắng cấp cứu cho Sơ, dù biết không thể. Sơ nói với anh: Bác sỹ cứ đi còn nhiều người đang đợi. Khi anh vừa xách túi nghề y đứng lên thì Sơ nghẻo đầu chết ngay.
  4. Cả ngày đó, cứ lảng vảng trong đầu anh câu “còn những người khác đang đợi” là ai? Và anh quyết định đi tu. Rất ngây thơ, anh khăng khăng anh đi tu trước khi theo đạo. Thật là con người đơn sơ, chất phát. Đúng là anh quyết định đi tu trước khi được các cha Dòng tên dạy giáo lý tân tòng. Anh gia nhập đệ tử làm tu sĩ Tu Hội Truyền giáo thánh Binh Sơn và làm linh mục.
  5. Những ngày ở nhà Nguyễn Kiệm, thứ 2 nào, cha cũng tự đi xe máy 45km đến trại Sida Mai Hoà ở Củ Chi phục vụ những bệnh nhân giai đoạn chót. Thấy cha chăm sóc các bệnh nhân dễ lây nhiễm mà có thể lấy đi mạnh sống cha mà lòng ích kỷ đã ngăn cản cha. Cha chỉ chia sẻ, anh biết cách để tự bảo vệ. Nói hay lắm! Ai có dịp chứng kiến cha khám chữa bệnh cho tại Mai Hoà hoắc nhà thờ Phú Trung thì càng lo sợ cho Cha vì cha gần gũi với từng bệnh nhân lở loét làm cho không còn khoảng cách. Tức rất dễ lây! Nhưng cha chỉ nói, anh sống là để phục vụ trong danh Đức Kitô. Trong trại sida Mai Hoà có 8 cháu nhỏ đi học về giẫm kim tiêm lây sida. Cứ thấy cha là 8 em nhỏ, chạy ùa đến ôm trầm lấy cha. Cha cho biết, các em không có cha mẹ bên cạnh nên chạy đến với anh. Nhưng cha sẽ bị lây bệnh và chết sớm thì ai lo các các bệnh nhân khác, vì còn nhiều người đang chờ cha, mà. Thú thật với em, từ ngày anh chọn theo Đức Ktiô thì anh sống là chết với Đức Kitô. Lạ lắm! Cha có khuân mặt rất kham khổ và không có nụ cười, nhưng khi tiếp xúc với các bệnh nhân sida thì khuân mặt anh tươi sáng rạng ngời. Các cha hay đùa, ai cho cha Chung một bệnh nhân cùi thì cha Chung cho 500 ngàn. Không, không, anh không có tiền. Ai cho anh thì anh cám ơn thôi, cha Chung nhanh nhẩu phân trần. Một lần tại nhà thờ Phú Trung, cha bắt nữ bệnh nhân viết cam kết không được lây bệnh cho người khác vì chúng tôi tình nguyện đến đây chữa cho cô thì không sớm thì muộn chúng tôi cũng lây nhưng nhiều người khác còn gia đình và Cô nhận thuốc và đi về. Cha tâm sự, cô này cứ khoẻ là đi lây bệnh cho người khác. Cha nói,  anh bắt viết để nhắc cô thôi, chứ cô khoẻ lên lại đi lây hết người này người kya để trả thù. Vài bữa lại quay về xin viết cam kết và cha lại chữa. Sự thánh thiện là vậy.
  6. Cả cuộc đời cha chỉ nghĩ đến những bệnh nhân nghèo. Mà đối tượng sida và cùi là nguy cơ lây lan rất lớn làm cho bao người ngăn cản cha. Mọi người chỉ sợ cha lây bệnh và chết sớm rồi không còn ai chăm lo cho biết bao bệnh nhân nghèo đang rất cần cha. Chứ mấy loại sida, chết sớm cho rồi. Không em! Họ cũng là con người. Anh biết anh không chữa sida được nhưng anh muốn cho họ cái chết lành. Là sao? Anh chỉ chữa bệnh xã hội để giảm bớt đau khổ phần xác và an ủi họ để họ có thể nhắm mắt ra đi mà không uất hận đời. Và có rất nhiều em, anh đã rửa tội gia nhập đạo.
  7. Anh kể về một cô gái người Việt bị bán sang nhà chứa Campuchia. Cô bị lây bệnh sida và ước nguyện được chôn cất tại Việt Nam. Cha cứ thường đến bên hài cốt cô thầm đọc kinh cầu nguyện cho cô bé vô tội được hưởng nước trời. Những ngày phục vụ tại trại Sida Mai Hoà, cha không cho tiếp xúc với bệnh nhân vì cha giải thich sẽ có ngày bị lây. Cha cũng thế? Nhưng cha chỉ mỉm cười. Nhớ mỗi lần đi Mai Hoà cha đều ghé quán bún bò rất ngon gần Củ Chi nhưng không bao giờ ăn mà nói sáng anh ăn ở nhà Dòng rồi. Thực ra cha chỉ ăn chén cơm nguội thôi.
  8. Những ngày cha làm bề trên nhà Nguyễn Kiệm, cha luôn quan tâm lo lắng từng anh em nhưng không bao giờ bỏ rơi các bệnh nhân nghèo. Một ngày đến giờ ăn trưa, cha không ăn và mặt mày buồn buồn, đi qua đi lại suy nghĩ gì. Bỗng cha lấy xe đi và 45 phút quay về với khuân mặt vui tươi, rạng ngời. Cha cho biết, sáng có Việt Kiều cho 5,000USD. Anh suy nghĩ xem cho ai và anh đem cho một em bé đang cần mổ tim và 2 bệnh nhân nữa. Tưởng gì. Chỉ suy nghĩ bệnh nhân nào đang cần tiền mà mất ăn mất ngủ.
  9. Khi cha làm bề trên nhà Thánh Tâm Đà Lạt, dâng lên xong cha gọi một em đệ tử lên gặp. Nghe cha gọi em lo lắng, suy nghĩ việc gì? Cha đưa em cái áo lạnh của Cha và nói: em lấy áo lạnh của anh mặc cho ấm và đưa áo của em cho anh. Vì áo của anh dày hơn áo em. Thế là ngày nào cha cũng mặc chiếc áo gió mỏng tanh.
  10. Khi mục vục trên Tây Nguyên đường xá đi lại khó khăn và xa xôi, cha bề trên mua lại chiếc xe hơi với giá khoảng 60 triệu. Chắc xe tàn lắm rồi. Cha Chung chửi cho một trận. Giận dỗi thế nhưng khi đi mục vụ, đi lên toà Giám mục hợp cha vẫn vui vẻ leo lên xe hơi đó. Thánh là vậy! Chửi nhưng không giận. Ngày cuối năm cha bề trên giết mấy con gà ăn chia tay các thầy về quê. Cha cũng mắng: Các em sống trong Dòng khó nghèo, các em không được sống hơn người nghèo. Ôi mấy con gà là gì. Nhưng cha chỉ thể hiện cuộc sống vì người nghèo mà làm cho anh em buồn bực. Ấy thế mà chẳng ai ghét cha.
  11. Lạ lắm, cha làm bề trên nhà nào thì luôn có thầy xin về không đi tu nữa. Đó là điều làm cha luôn đấm ngực dằn vặt bản thân. Cha không hiểu tại sao cứ nghĩ tại mình. Mọi người giải thích có lẽ sự thật thà, ngay thẳng của cha làm cho anh em can đảm nhìn nhận ra ơn gọi của họ.
  12. Khi cha được chuyển về Kon Tum, cha bôn ba khắp nơi phục vụ người dân tộc nghèo. Cha cho họ bò nuôi đẻ ra con cha cho họ giữ con nuôi. Cha bắt bò mẹ cho nhà lhasc nuôi lấy bò con. Có gia đình nó bán luôn bò mẹ, làm cha buồn lắm. Cha kể có anh chị ở Sài Gòn làm thợ xây giúp cha cả 20 con bò để cho các gia dinh dân tộc. Khi anh mất, cha lặn lội về dâng lễ tiễn anh ấy. Qua đó chúng ta thấy cha không bao giờ quên ơn những vị ân nhân. Cha kể, ngày cha từ Sài Gòn lên giúp trại cùi ở tây nguyên thì bị chính quyền cản trở. Anh buồn bã lắm làm đơn từ giải trình và cuối cùng anh lên ngọn núi xung quanh bảo vệ rất kỹ. Cha hỏi quý ông bà, anh chị có biết Chúa không? Họ nói Chúa là ai? Chúng tôi chưa nghe bao giờ. Thế Giàng của ông bà anh chị là ai? Tất cả họ đồng thanh trả lời bác Hồ. Từ đó cha tìm cách đến với họ nhiều hơn để nói cho họ về Chúa.
  13. Đúng là cuộc đời cha nhiều câu chuyện lý thú nhưng không ít những sầu não. Cha đi tu, Ông Cố Cha không vui nên thường hay đến nhà Dòng Nguyễn Kiệm chửi vì bao nhiêu bác sỹ bạn cha giờ nhà lầu xe hơi còn cha cứ chiếc xe đạp cũ hoặc chiếc xe máy 82. Có vài lần, cha đạp xe đi mua thuốc, mải mê mua thuốc quay ra xe biến mất. Lủi thủi đi bộ về. Rất nhiều lần cha đi xe máy hết xăng và cầm chứng minh vì trong túi không còn xu nào. Có một anh ba gác lỡ bán xe giờ không còn gì làm nuôi vợ con đến xin cha 300 ngàn mua xe ba gác. Anh ta còn dắt đến nơi mua. Cha cẩn thận nhờ một thầy đi mua và trả tiền chứ không đưa tiền mặt. Ngày mai hắn bán luôn xe. Gặp hắn ngoài đường cha chửi quân lừa đảo. Thế mà vẫn tìm công ăn việc làm cho hắn để nuôi vợ con.

Cha luôn yêu thương chăm lo cho người nghèo, bệnh nhân. Vất vả đem họ đi chữa trị tại các bệnh viện Sài Gòn dù trong cha cũng đang bệnh cần nghỉ ngơi. Nhưng cha làm việc đên khi không còn sức thì mới đành chịu. Những ngày bệnh tật, cha âm thầm đi chữa không muốn phiền ai. Anh em trong Tu Hội Truyền giáo thánh Vinh Sơn ai cũng thương mến cha, luôn tạo điều kiện để cha tự do làm việc tông đồ bác ái theo ơn đoàn sủng của cha. Chắc chắn cũng có những khó chịu với cha vì cha hay nhường phần mình cho người khác. Cũng như người ta thấy cha mặc áo may ô vị rách thì mua cho cha mấy áo thun đẹp. Nhưng ngày mai cha cho các thầy hết. Cha cứ nói anh mặc thế này là đẹp lắm rồi. Các thầy cần mặc đẹp để đi học.

Đúng là con người cha luôn sống như lời cha nói: mình sống hơn người nghèo, mimhf xấu hổ lắm. Nay chắc chắn cha được dự phần thưởng nước trời dành cho những người Chúa chọn, người mà Chúa đã nói trong hiến chương nước trời: Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì nước trời là của họ. Chỉ cần có tinh thần thôi thì nước trời đã là của họ. Như vậy với cha sống nghèo hèn thì chắc chắn phần thưởng nước trời là của cha.

Xin cha cầu cho chúng con là những người khi sống cha luôn yêu thương, quan tâm để chúng con can đảm sống chứng nhân cho Chúa nơi anh em ngoại đạo.

Thiên Ân

Một người đã từng khinh miệt những người đi lễ nhà thờ – bây giờ trở thành linh mục.

Giuse Thẩm Nguyễn
 

(EWTN News/CNA) Mặc dù vào lứa tuổi thanh thiếu niên, Juan Jose Martinez đã mang trong lòng mối thù hận chống lại Giáo Hội, nhưng hôm nay Juan Jose Martinez đã trở thành một linh mục và nói rằng mình đã khám phá ra “Thiên Chúa thật sự hiện hữu và muốn trở thành một linh mục của Chúa.”

Hiện nay cha Juan Jose đang phục vụ tại Giáo Phận Almeira, Tân Ban Nha, nhớ lại rằng “Vào những buổi sáng Chúa Nhật tôi thường đứng ở hành lang trên lầu nhà mình và nhổ nước miếng xuống những người đi lễ. Tôi nói với họ rằng Giáo Hội là một giáo phái chỉ muốn tiền.”

Cha mẹ của Juan Jose không phải là người Công Giáo và cũng chẳng bao giờ dạy dỗ con mình về tôn giáo cả. Cha Juan Jose đã nói rằng thực ra mình cũng chẳng biết tại sao lại ghét đạo như vậy dựa trên cái ý niệm là Giáo Hội và Thiên Chúa chỉ là “một tổ chức đa quốc gia với nhiều chi nhánh ở khắp mọi nơi để kiếm tiến, giống một giáo phái vậy.”

“Tôi nhất định chống đạo. Tôi là học sinh đầu tiên trong trường tôi và trong thành phố Carboneras, thị trấn Almeria không bao giờ chịu học về tôn giáo và môn thay thế tôn giáo của tôi là môn Đạo đức. Cuối cùng cả lớp đều học môn Đạo đức, không còn ai học môn Tôn giáo cả.”

Cha Juan Jose đã không thể ngờ được rằng mình lại chính là người giúp các bạn cũ trở về với Giáo Hội. Cha nhớ rất rõ cái ngày đầu tiên cha tới một nhà thờ Công Giáo với ý định là đến để diễu cợt những người đã mời mình.

“Một ngày vào tháng Giêng năm 1995, một số bạn cùng lớp rủ tôi tham dự một buổi cầu nguyện Canh Tân Đặc Sủng. Dĩ nhiên tôi nói với họ là tôi không đi vì tôi không muốn họ tẩy não tôi. Nhưng họ cứ kiên trì mời tôi mãi cả tháng trời, cuối cùng thì tôi nể tình mà đi theo họ. Tôi nhớ hôm đó là vào ngày Thứ Năm của Tháng Hai, năm 1995, lần đầu tiên tôi bước vào nhà thờ.”

Một cái hộp vàng.

Khi tới nơi tôi thấy rất nhiều các bạn của tôi cũng có mặt ở đó và tôi rất đỗi ngạc nhiên là “tất cả họ đều chăm chú nhìn vào chiếc hộp vàng đặt ở phía cuối nhà thờ. Tôi không biết là hộp gì nhưng cứ nghĩ chắc là hộp đựng tiền của linh mục giáo xứ.”

Sau này tôi biết chiếc hộp vàng đó chính là Nhà Tạm.

Cha Juan Jose nói rằng mình muốn chọc quê các bạn bởi vì “tôi nghĩ họ đã bị điên rồi. Tôi muốn chọc cười họ lắm nhưng vì lịch sự nên tôi cố nén lại và tôi quyết định sẽ trở lại vào Thứ Năm tuần kế tiếp để tìm dịp diễu cợt họ.”

Và cứ thế, qua nhiều ngày Thứ Năm tham dự, cha Juan Jose đã không còn ác cảm với Giáo Hội và tôn giáo nữa.

Cha Juan Jose đã tâm sự với đài CNA rằng “Vị linh mục chính xứ lúc ấy là người rất khôn ngoan giúp đỡ mọi người và dần dần tình yêu của Chúa đã thấm nhập vào tâm hồn tôi. Và rồi vào tuổi 15, tôi bắt đầu hát lễ, điều này có nghĩa là tôi sẽ tham dự Thánh Lễ vào những ngày Thứ Bẩy. Tôi lại cảm thấy thích ngồi trước Nhà Tạm và dần dà tôi nhận ra sự hiện diện của Chúa và Chúa yêu tôi. Tôi bắt đầu yêu Chúa. Nhóm Canh Tân Đặc Sủng, nhóm mà tôi đến để diễu cợt đã giúp tôi rất nhiều.”

“Mắt tôi được mở ra và tôi đã thấy Thiên Chúa không phải là truyện thần thoại, nhưng Chúa hiện hữu, Ngài nâng đỡ và hướng dẫn tôi. Tôi cảm nghiệm rằng Thiên Chúa yêu tôi rất nhiều và chính Ngài đã gọi tôi.”

“Con là của Chúa để Chúa dùng con theo ý Ngài”

Cha Juan Jose đã được rửa tội và rước lễ lần đầu theo mong ước của ông bà nội nhưng mà vẫn chưa cảm thấy gắn bó với Chúa nhiều. Cho mãi đến khi được chịu phép Thêm Sức thì “tôi mới cảm thấy có sự hoán cải và đó chính là món quà tuyệt vời Chúa ban. Tôi đã thưa với Chúa rằng: Con là của Chúa để Chúa dùng con theo ý Ngài! Hôm ấy có sự hiện diện của mẹ tôi, nhưng cha tôi thì không đến. Đó chính là giây phút tuyệt vời trong đời khi tôi lãnh nhận Chúa Thánh Thần và biết phó thác đời mình cho Chúa.”

Thế rồi chàng thiếu niên Juan Jose đã không ngớt trăn trở với tiếng gọi để trở thành linh mục. Chàng đã thưa với Chúa rằng “Con không muốn và xin đừng quấy rầy con nữa.” Cuối cùng thì Juan Jose đã đầu hàng và quyết định theo Chúa để trở thành linh mục.

Cha Juan Jose nhớ lại vào một buổi chiều Thứ Bẩy, chàng thanh niên 17 tuổi lúc ấy, nói với bố mình là muốn đi tu. Thế là ông bố nổi giận đánh cho một trận và đe rằng “muốn chết thì hãy làm linh mục.”

Gia đình của Juan Jose không hiểu được vì sao mà ngài lại muốn trở thành linh mục. Ông bố hứa sẽ trả tiền học phí để Jose theo học đại học ở Hoa Kỳ nhưng sẽ không cho tiền nếu vào học ở chủng viện.

Trong lúc khó khăn như thế, cha Juan Jose đã nhớ lại lời cầu xin của Thánh Teresa of Avila “Xin đừng để bất cứ điều gì làm bạn bị phiền lo, làm bạn sợ hãi. Chỉ Thiên Chúa thôi mới thỏa mãn tất cả những gì bạn cần” và khi ông bố đã nguôi cơn nóng giận thì cha đến ôm hôn bố mình và nói “Con biết là bố sẽ phản ứng như thế, nhưng con cũng biết là một ngày nào đó bố sẽ hiểu.”

Đón chào.

Ông bố của Jose còn phản ứng mạnh hơn nữa là đe đọa sẽ tố cáo cha xứ nếu ngài còn tiếp tục giúp con ông suy tư về ơn gọi tu trì. “Bố tôi đã cố gắng làm mọi thứ để ngăn cản tôi, nhưng Thiên Chúa mạnh mẽ hơn nhiều.”

Để nghe lời bố, cha Juan Jose đã không vào chủng viện, nhưng bắt đầu học ngành sư phạm tại Đại Học Almeria. Qua nhiều năm kiên trì tiếp tục với ơn gọi làm linh mục, vào một ngày của tháng Năm, năm 1999, mẹ của cha báo tin là ông bố đã đồng ý cho cha vào chủng viện. Khi nghe tin vui cha đã bật khóc và “Tôi còn nhớ là khi tôi đến báo tin cho cha xứ, ngài đã ôm chầm lấy tôi.”

Thế là vào tháng Chín, năm 2000, Jose đi vào chủng viện.

Vào năm 2006, cha Juan Jose đã được thụ phong Linh Mục tại nhà thờ chính tòa Almeria, có cả bố của ngài cũng tham dự.

Cha Juan Jose chia sẻ, “Dĩ nhiên bố tôi không muốn tôi làm linh mục vì ông cố chấp lắm, nhưng khi thấy tôi hạnh phúc theo lý tưởng của mình thì bố tôi cũng phải chấp nhận dù ông không thể hiểu nổi.”

Đặc biệt là cách đây hai năm,trước khi chết, “ bố tôi đã nhận phép sức dầu cho bệnh nhân và chính tôi là người đã ban phép sức dầu cho ông.”

“Khi có ai đó nói với tôi là họ không tin vào Thiên Chúa, tôi luôn nói với họ rằng cả tôi cũng đã không tin vào Ngài. Nhưng đó là sự sai lầm của tôi bởi vì tôi đã khám phá ra niềm hạnh phúc tuyệt vời mà Thiên Chúa ban cho tôi. Nếu bạn cảm thấy không hạnh phúc, thì hãy xin Chúa giúp bạn bởi vì chỉ có Chúa mới ban cho bạn niềm hạnh phúc thật mà thôi.”

Giuse Thẩm Nguyễn

CÂU CHUYỆN HOÁN CẢI CỦA ÔNG Dr. SCOTT HAHN

CÂU CHUYỆN HOÁN CẢI CỦA ÔNG Dr. SCOTT HAHN – Jesus Mary Joseph I Love You Save Souls  

Mục sư Tin Lành, người Mỹ tên là Scott Hahn

Scott Hahn, sinh năm 1957, lấy tiến sĩ thần học Thánh Kinh năm 1992. Ông đã có 10 năm làm mục sư phục vụ trong giáo hội Trưởng Lão và dạy học tại nhiều chủng viện của anh em Tin Lành. Ông đã tìm hiểu Đức tin Công giáo và chính thức trở về vào Đêm Phục sinh năm 1986.

 Scott Hahn đã viết nhiều tác phẩm cũng như chia sẻ ở nhiều nơi trên thế giới về hành trình trở về của mình. Những tác phẩm và các cuộc nói chuyện của ông đã và đang là nguồn cảm hứng cho hằng ngàn người Tin Lành cũng như những người đang xa rời đức tin Công giáo quay trở về.

Hiện nay tiến sĩ Scott Hahn đang là giáo sư thần học tại trường Đại học thánh Phanxicô ở Ohio, nước Mỹ. Từ tháng 7 năm 2012 đến nay, ông được mời làm cố vấn cho Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin của Tòa Thánh.

Scott Hahn đã lập gia đình với Kimberly và sinh được 6 người con. Vợ ông là tín hữu tin Lành nhưng sau này cũng trở về Công giáo như ông.

Video clip này được Ban LBTM-GPXL dịch và lồng tiếng với sự cho phép của Mạng lưới truyền thông Công giáo quốc tế EWTN (www.ewtn.com)

Nguồn: http://dcvxuanloc.net/muc-vu/truyen-giao/hanh-trinh-tro-ve-tien-si-scott-hahn.html

CÂU CHUYỆN HOÁN CẢI CỦA ÔNG SCOTT HAHN

Thật là điều sung sướng và ngạc nhiên cho tôi khi được chia sẻ về vấn đề tại sao tôi coi Giáo Hội Công Giáo La Mã là một gia đình của Thiên Chúa mà Người muốn tất cả con cái của Người cùng chia sẻ.

Đức Fulton Sheen có nói, không có đến 100 người ở Hoa Kỳ ghét Giáo Hội Công Giáo, dù rằng có đến hàng triệu người ghét những gì mà họ lầm tưởng về Giáo Hội Công Giáo và các giáo huấn. Và thật may mắn, tôi thuộc về hạng người thứ hai. Vì trong nhiều năm tôi chống đối Giáo Hội Công Giáo, và tôi hoạt động đắc lực để đưa người Công Giáo ra khỏi Giáo Hội. Nhưng qua sự nghiên cứu và cầu nguyện, tôi thấy rằng Giáo Hội Công Giáo La Mã có nền tảng dựa trên Kinh Thánh.

NGƯỜI THIẾU NIÊN TRỞ VỀ VỚI CHÚA GIÊSU

Đó là điều tôi muốn chia sẻ với quý vị hôm nay. Nó khởi đầu bằng một cảm nghiệm hoán cải của tôi khi ở trung học. Tôi không lớn lên trong một gia đình Kitô Giáo vững mạnh. Chúng tôi không đến nhà thờ thường xuyên, và do đó tôi không đạo đức lắm. Điều mà Thiên Chúa đã dùng trong cuộc đời tôi là một tổ chức có tên Young Life, một tổ chức nhằm đến với các thiếu niên không thuộc tôn giáo nào, và một người tên Jack đặc biệt làm quen với tôi và chia sẻ với tôi Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô. Điều đó đã ảnh hưởng mạnh đến cuộc đời tôi.

Những năm đầu trung học, tôi thề hứa và nhận Đức Giêsu Kitô vào tâm hồn; tôi xin Người là Đấng cứu độ và là Chúa của tôi. Tôi trao cho Người những tội lỗi của tôi và tôi nhận lại ơn tha thứ và sự cứu độ. Đó là một sự khác biệt lớn lao cho tôi. Vì phải đánh đổi với biết bao bạn bè, nhưng Thiên Chúa đã bù đắp điều đó bằng cách cho tôi các người bạn thật, những người bạn trong Đức Kitô.

Jack là người dạy tôi biết yêu mến Thiên Chúa và cũng dạy tôi đọc Kinh Thánh và không chỉ đọc mà còn nghiên cứu, và không chỉ nghiên cứu mà còn đắm chìm trong đó-đọc đi đọc lại từ đầu cho đến cuối. Vào lúc xong trung học, tôi đã đọc trọn bộ Kinh Thánh đến hai ba lần. Và tôi trở nên say mê Kinh Thánh. Kết quả là tôi trở nên rất tin tưởng vào một vài điều kể sau.

Trước hết, ngoài việc đọc Kinh Thánh, Jack còn chia sẻ với tôi các văn bản của Martin Luther, của John Calvin, và tôi trở nên một Kitô Hữu Tin Lành đầy tin tưởng, không chỉ là một Kitô Hữu Duy Kinh Thánh, nhưng còn tin rằng cho đến khoảng năm 1500 Phúc Âm đã bị thất thoát giữa những mê tín dị đoan thời trung cổ và tất cả các công việc trần tục mà Giáo Hội Công Giáo chấp nhận. Và vì vậy, điều tin tưởng đầu tiên của tôi là giúp những người Công Giáo nhìn ra sự đơn giản của Phúc Âm Chúa Giêsu Kitô, để cho họ thấy rằng trong Kinh Thánh, chỉ cần chấp nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế và là Chúa, và tất cả chỉ cần có vậy. Không có những phô trương như Đức Maria, các thánh, luyện ngục, các việc sùng kính, chỉ cần xin Đức Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Thế.

Lúc bấy giờ, tôi có quen với một thiếu nữ người Công Giáo, và chúng tôi rất thân thiện. Nhưng tôi biết cuộc tình của chúng tôi sẽ chẳng đi đến đâu nếu cô ta vẫn giữ đạo Công Giáo. Do đó, tôi đưa cho cô một cuốn sách thật dầy của Loraine Boettner có tựa đề là Đạo Công Giáo La Mã. Cuốn này nổi tiếng là đả kích đạo Công Giáo. Nó gồm bốn trăm năm mươi trang đầy những xuyên tạc và dối gạt về Giáo Hội Công Giáo. Nhưng lúc bấy giờ tôi không biết, bởi vậy tôi thành thật chia sẻ với cô ta. Cô ấy đọc từ đầu đến cuối. Hè năm ấy, cô viết cho tôi và nói: “Cám ơn đã cho tôi cuốn sách này; tôi sẽ không bao giờ đi lễ nữa.” Tôi kể ra điều này với ít nhiều xấu hổ và hối hận, tuy nhiên tôi muốn cho quý vị thấy sự thành thật của nhiều Kitô Hữu Duy Kinh Thánh khi chống đối Giáo Hội Công Giáo. Tôi mường tượng rằng nếu miếng bánh mà họ thờ phượng trên bàn thờ không phải là Thiên Chúa, thì họ là những người thờ ngẫu tượng, họ là người ngoại giáo, họ đáng thương và đáng chống đối. Nếu Đức giáo hoàng ở La Mã không phải là vị đại diện 
bất khả ngộ của Đức Kitô mà đã ràng buộc hàng trăm triệu người Công Giáo trong các tín điều và việc đạo đức, thì ông ta là một bạo chúa. Ông ta đơn giản thực sự là một nhà lãnh đạo tinh thần độc tài. Và vì tôi không nghĩ ngài là vị đại diện bất khả ngộ, nên tôi thấy thật có lý để giúp người Công Giáo cũng có cái nhìn như tôi mà từ bỏ Giáo Hội.

Trong dòng họ của tôi, người duy nhất theo Công Giáo là bà ngoại thân yêu của tôi. Bà rất im lặng, rất khiêm tốn, rất đạo đức, tôi phải thú nhận như vậy. Và bà còn là một người Công Giáo sốt sắng. Khi bà từ trần, cha mẹ tôi trao cho tôi các vật tùy thân của bà. Tôi lướt qua sách kinh và sách lễ của bà, và tôi tìm thấy cỗ tràng hạt. Tất cả những thứ ấy chỉ làm tôi buồn nôn. Tôi biết bà tin thật nơi Đức Giêsu, nhưng tôi tự hỏi tất cả những thứ này có nghĩa gì. Do đó tôi kéo đứt chuỗi tràng hạt và ném vào thùng rác. Tôi nghĩ chuỗi hạt này không khác gì bùa chú mà sau cùng bà đã được giải thoát. Đó là khía cạnh thứ hai của cái nhìn của tôi: là những người này có lẽ có ít nhiều đức tin nhưng bị vây phủ bởi những giả trá, và do đó họ cần yêu quý Kitô Hữu Duy Kinh Thánh để giúp họ giải thoát.

Sau đó, khi tốt nghiệp trung học, tôi quyết định không những theo đuổi làm mục sư mà còn nghiên cứu thần học nữa. Quyết định này là kết quả của bài luận văn vào cuối năm trung học. Tôi viết một bài tựa đề Sola Fide. Đó là chữ La tinh có nghĩa Chỉ Nhờ Đức Tin. Đó chính là câu mà Martin Luther đã dùng để khởi động phong trào Cải Cách Tin Lành. Ông nói rằng chúng ta được công chính hóa, chúng ta được chính trực với Thiên Chúa chỉ nhờ đức tin, chứ không bởi bất cứ công việc nào mà chúng ta thi hành. Với ông, đó là vấn đề mà giáo hội sẽ đứng vững hay suy sụp. Và vì lý do đó, Giáo Hội Công Giáo đã sụp và Giáo Hội Tin Lành vùng dậy. Tôi viết bài luận văn đó với sự xác quyết rằng, nếu bạn sai lầm ở điểm này, bạn sẽ sai lầm bất cứ gì khác. Nếu bạn nói rằng đức tin phải thêm cái này cái nọ, bạn đã làm vẩn đục chân lý đơn giản của Phúc Âm. Và do đó tôi bước vào đại học với sự tin tưởng mãnh liệt ấy.

NHỮNG NĂM ĐẠI HỌC

Bốn năm đại học của tôi bao gồm ba môn chính là Triết Học, Thần Học Trong Kinh Thánh và Kinh Tế Học. Nhưng tôi cũng dành thời giờ để sinh hoạt trong tổ chức Young Life. Tôi muốn đền ơn Thiên Chúa vì Người đã dùng tổ chức Young Life để đưa tôi đến với Đức Kitô. Do đó, trong bốn năm đại học tôi tận tụy đến với các thiếu niên không biết gì về Đức Kitô, và tôi thú nhận rằng trong số các em ấy có cả các em Công Giáo trong trường trung học tôi làm việc. Sau một vài lớp học hỏi Kinh Thánh tôi khám phá rằng không chỉ các em này không biết đến Đức Giêsu Kitô, mà trên thực tế tất cả các em học sinh Công Giáo tôi gặp đều không biết gì về những điều Giáo Hội Công Giáo dạy bảo. Nếu có một hai em biết, thì chúng cũng không biết lý do tại sao. Các em không có một chút lý luận gì để hỗ trợ cho đức tin của các em. Do đó thay đổi quan điểm của các em này theo nhãn quan Phúc Âm của Martin Luther, nhãn quan bài Công Giáo, thì dễ như bắt vịt trong lồng. Các em không chuẩn bị, không được học hỏi, không có khả năng tự vệ.

Tôi không nhớ rõ những gì đã xảy ra trong mười lăm, hai mươi, hai mươi lăm năm qua, nhưng khi nhìn lại các em này và tự hỏi không biết các em có phải là những vật thí nghiệm trong một loại thử nghiệm giáo lý nào đó hay không, mà người ta nghĩ rằng có thể bỏ qua việc dạy bảo các học thuyết cần phải tin và các lý lẽ hỗ trợ cho các học thuyết ấy. Nhưng thật là như vậy. Tôi thấy nhiều em đã từ bỏ Giáo Hội và tôi chiêu dụ các em trong một ý nghĩa nào đó của một đức tin chân chính tốt lành, nhưng tôi cũng chiêu dụ các em chỉ vì chính tôi cũng bị sai lạc.

Vào năm thứ ba hoạt động trong tổ chức Young Life, tôi rủ một cô đẹp nhất trong tổ chức là Kimberly cùng hợp tác với tôi để chiêu dụ các thiếu niên không thuộc một giáo hội nào cả. Chúng tôi cùng nhau hoạt động trong hai năm và có cảm tình với nhau. Đôi khi chúng tôi cãi nhau như anh em trong nhà khi thảo luận một vài phương cách để chiêu dụ các thiếu niên. Nhưng chúng tôi ngày càng thực sự tôn trọng nhau, do đó vào năm cuối đại học tôi ngỏ ý muốn lấy cô làm vợ. Chúng tôi làm đám cưới ngay sau khi tốt nghiệp đại học. Cả hai chúng tôi đều có cùng một quan điểm. Chúng tôi muốn cùng nhau thi hành thừa tác vụ, chúng tôi muốn chia sẻ tin mừng của Chúa Kitô, chúng tôi muốn khai phá Kinh Thánh và làm cho dân chúng mến mộ.

NHỮNG NĂM HUẤN LUYỆN LÀM MỤC SƯ

Sau khi đám cưới khoảng một hai tuần, chúng tôi vào trường huấn luyện (Công Giáo gọi là chủng viện). Thật là một cảm nghiệm lớn lao khi cùng nhau học hỏi để lấy bằng cử nhân thần học. Tôi lấy cấp bằng ba năm tại chủng viện Gordon-Conwell ở Boston ; vợ tôi lấy bằng hai năm. Sau cùng cả hai chúng tôi đều có cử nhân và tôi đứng nhất lớp. Tôi nói ra điều đó không phải vì kiêu ngạo, nhưng cho thấy tôi theo đuổi việc học này với một kiểu cách trả thù nào đó. Những ai biết tôi ở chủng viện họ đều biết tôi rất nhiệt thành. Tôi dùng bất cứ thời giờ nào rảnh rỗi để đọc và học hỏi Kinh Thánh, hay các sách về Kinh Thánh nhằm trưng ra các ý nghĩa của Kinh Thánh. Nếu không đọc sách hay học hỏi, tôi lại đến các tiệm sách cũ để tìm kiếm tài liệu. Kimberly và tôi trải qua ba năm thật tuyệt vời. Nhưng một vài điều đã xảy ra mà tôi cần phải kể ra đây vì hồi tưởng lại tôi thấy đó là những kinh nghiệm đáng nhớ trong đời.

Điều thứ nhất là môn học mà Kimberly theo học năm thứ nhất, đó cũng là lớp mà tôi đã theo học năm trước có tên là Đạo Đức Học Kitô Giáo. Tiến sĩ Davis cho mọi người chia thành các nhóm nhỏ để thảo luận về nhiều đề tài. Có nhóm về vấn đề phá thai, có nhóm về chiến tranh nguyên tử, có nhóm về án tử hình. Một tối kia, vợ tôi cho biết nhóm của cô nghiên cứu về vấn đề ngừa thai. Tôi nhớ lúc ấy tự nhủ thầm, “Tại sao lại ngừa thai?”

Năm trước khi tôi học lớp này, không có ai muốn ghi tên vào nhóm và tôi cho Kimberly biết như vậy. Cô ấy trả lời, “Thì có thêm ba người nữa ghi tên và hôm nay chúng em gặp mặt nhau lần đầu tiên. Có một tên được bầu làm trưởng nhóm, và hắn ta công bố kết quả các cuộc nghiên cứu ngay trước khi bắt đầu. Hắn nói, ‘Tất cả chúng ta đều biết là Tin Lành, là Kitô Hữu Duy Phúc Âm, việc ngừa thai thì không có gì trở ngại, tôi muốn nói là một khi chúng ta không dùng dụng cụ ngừa thai mà có thể đưa đến phá thai như I.U.D., v.v.’ Hắn còn nói thêm là chỉ những người tự nhận mình là Kitô Hữu mà chống ngừa thai nhân tạo là người Công Giáo, và hắn cho biết, ‘Dĩ nhiên, họ lý luận rằng vì họ dưới quyền của một Giáo Hoàng độc thân và được hướng dẫn bởi các linh mục độc thân không muốn nuôi con nít nhưng muốn các cha mẹ Công Giáo đẻ thật nhiều để họ có thể tuyển chọn các linh mục và nữ tu. Chỉ có vậy!'”

Kiểu cách lý luận đó không thuyết phục nổi Kimberly. Cô ấy hỏi, “Bạn có chắc đó là những lý luận mà người Công Giáo đưa ra hay không?” Và tôi đoán là anh chàng đó không trả lời nổi, nên nói, “Nếu vậy thì cô muốn tự mình đi tìm hiểu sao?” Đừng nói kiểu đó với Kimberly. Cô ấy trả lời, “Được,” và cô ta quyết tâm tự mình tra cứu. Một tuần lễ trôi qua và Terry, bạn tôi, chặn tôi ngay trong hành lang và nói, “Anh phải nói chuyện với bà xã; cô ta đào xới được một số chi tiết lý thú về ngừa thai.” Chi tiết lý thú về ngừa thai? Ngừa thai thì có gì là lý thú? Và Terry nói, “Cô ấy là vợ anh; anh phải tìm ra sự thật.” “Được rồi, để tôi sẽ hỏi cô ấy.”

Bữa cơm tối hôm đó, tôi hỏi vợ, “Terry nói về chuyện gì đó em?” Và Kimberly trả lời, “Em tìm thấy rằng mãi cho đến năm 1930, bất cứ nhánh Tin Lành nào cũng chống với việc ngừa thai dựa trên căn bản Kinh Thánh.” Sau đó tôi nói, “Thôi mà, có lẽ chỉ một vài thế kỷ còn sót lại vết tích của chế độ La Mã, nhưng anh không rõ.” Và cô ta nói, “Em sẽ tìm ra cho bằng được.”

Thêm một tuần nữa trôi qua, Terry chặn tôi lại và nói, “Các lý luận của vợ anh rất hợp lý.” Tôi hỏi, “Lý luận chống với việc ngừa thai có trong Kinh Thánh?” Terry đáp, “Anh phải nói chuyện với cô ấy.” “Được, tôi sẽ nói chuyện với cô ấy.” Quý vị thấy rằng lúc nào tôi cũng nghĩ là mình giỏi hơn vợ.

Do đó tôi nêu lên vấn đề và cô ta đưa cho tôi một cuốn sách. Đó là cuốn “Birth Control & The Marriage Covenant” (Kiểm Soát Sinh Sản và Giao Ước Hôn Nhân) của John Kippley. Sách mới được tái xuất bản, đổi tên là “Sex & The Marriage Covenant.” Bạn có thể mua cuốn này tại nhà xuất bản Couple to Couple League ở Cincinnati . Tôi bắt đầu đọc sách này với nhiều lý thú vì với khả năng nghiên cứu riêng tôi, đã đọc trọn bộ Kinh Thánh một vài lần, tôi tin rằng nếu bạn muốn biết Thiên Chúa, bạn phải hiểu về giao ước, vì giao ước là ý nghĩa chính trong tất cả Kinh Thánh. Do đó khi cầm sách lên, tôi thích thú khi thấy chữ ‘giao ước’ ở tựa đề, Kiểm Soát Sinh Sản và Giao Ước Hôn Nhân. Tôi mở sách ra và bắt đầu đọc, và tôi nói, “Khoan đã, Kimberly, ông này là người Công Giáo. Em muốn anh phải đọc sách của một người Công Giáo sao?” Và một tư tưởng chợt nảy ra ngay lúc đó, Người Công Giáo làm gì mà để chữ ‘giao ước’ ngay trong tựa đề? Họ đã chộp cái ý niệm đẹp đẽ của tôi từ lúc nào?

Và rồi tôi bắt đầu đọc. Sau hai ba chương tôi bắt đầu thấy tác giả có lý, do đó tôi vội ném sách lên bàn. Tôi thực sự không muốn thấy tác giả này hơn tôi. Nhưng tôi lại cầm lên và đọc tiếp. Các lý luận của ông thật có ý nghĩa. Từ Kinh Thánh, từ giao ước, ông cho thấy hành vi hôn nhân không chỉ là hành vi thể xác; nó là một hành vi tinh thần mà Thiên Chúa đã hoạch định để qua đó giao ước hôn nhân được làm mới lại. Và trong tất cả các giao ước, bạn có cơ hội để làm mới lại giao ước ấy, và hành vi canh tân giao ước là một hành vi hay một giây phút của ơn sủng. Khi bạn canh tân giao ước, Thiên Chúa ban cho ơn sủng, và ơn sủng là sự sống, ơn sủng là sức mạnh, ơn sủng là chính tình yêu của Thiên Chúa. Ông Kippley cho thấy làm thế nào trong giao ước hôn nhân, Thiên Chúa đã hoạch định để giao ước ấy cho thấy sức mạnh ban-sự-sống của tình yêu. Chính trong giao ước hôn nhân cả hai trở nên một, và Thiên Chúa đã hoạch định như vậy để khi cả hai trở nên một, và họ kết hợp mật thiết đến nỗi chín tháng sau bạn phải đặt tên cho nó. Và đứa bé được thụ thai, hiện thân của sự nên một mà Thiên Chúa đã kết hợp hai người qua hành vi hôn nhân. Đó là tất cả những gì mà Thiên Chúa đã hoạch định giao ước hôn nhân. Thiên Chúa phán, “Chúng ta hãy dựng con người trong hình ảnh và giống chúng ta,” và Thiên Chúa, là ba trong một, đã dựng nên con người, nam và nữ, và nói, “Hãy sinh sôi nẩy nở.” Hai người trở nên một và khi hai trở nên một, cái nên một ấy là đứa trẻ thứ ba, và sau đó họ trở nên ba trong một. Bắt đầu tôi thấy được các ý nghĩa, và tác giả cũng đưa ra nhiều lý luận khác. Khi đọc xong cuốn sách, tôi bị thuyết phục.

Điều làm tôi khó chịu chút ít là chỉ có Giáo Hội Công Giáo La Mã là Giáo Hội duy nhất còn duy trì giáo huấn cổ xưa có nguồn gốc từ Kinh Thánh, bởi vì trong năm 1930, Anh Giáo tách rời khỏi truyền thống này và bắt đầu cho phép ngừa thai, và không lâu sau đó mọi nhánh chính khác trên mặt đất này thực tế đã chịu thua trước áp lực vũ bão của cuộc cách mạng tình dục. Vào thập niên 1960 và 70, chính giáo phái của tôi, The Presbyterian Church in The United States of America (Hội Thánh Niên Trưởng Tại Hoa Kỳ), không chỉ tán thành ngừa thai nhưng cả việc phá thai theo yêu cầu và toàn quốc giúp quỹ cho việc phá thai, và điều đó làm tôi kinh hoàng.

Trong năm thứ ba và năm sau cùng ở chủng viện, một vài điều xảy ra tiêu biểu cho sự khủng hoảng của tôi. Tôi đang nghiên cứu về giao ước và nghe có một thần học gia khác cũng nghiên cứu về giao ước, là Giáo Sư Shepherd ở Philadelphia dạy tại Chủng Viện Westminster. Tôi biết về ông Shepherd chỉ vì ông đang bị kết án là rối đạo. Người ta nói rằng sự rối đạo của ông bắt nguồn từ sự hiểu biết về giao ước. Do đó tôi kiếm một vài tài liệu của ông, một số bài viết, và đọc qua. Tôi khám phá thấy rằng Giáo Sư Shepherd cũng đi đến cùng một kết luận mà việc nghiên cứu đã dẫn tôi đến.

Trong thế giới Tin Lành, ý tưởng giao ước được hiểu một cách thực tế như đồng nghĩa với hay có thể hoán đổi với chữ khế ước. Khi bạn có giao ước với Thiên Chúa, cũng giống như có khế ước. Bạn trao cho Thiên Chúa tội lỗi của bạn; Người trao Đức Kitô cho bạn, và mọi sự chỉ là trao đổi đức tin để được cứu độ.

Nhưng càng nghiên cứu tôi càng thấy người Do Thái xưa, và trong Sách Thánh, một giao ước khác với một khế ước cũng như một hôn nhân khác với sự mãi dâm. Trong khế ước bạn trao đổi tài sản, trong khi với giao ước bạn trao đổi con người. Trong khế ước bạn nói, “Đây là của bạn và đó là của tôi,” nhưng Sách Thánh cho thấy trong giao ước bạn nói, “Tôi là của bạn và bạn là của tôi.” Ngay cả khi Thiên Chúa giao ước với chúng ta, Người nói, “Ta sẽ là Thiên Chúa của ngươi và ngươi sẽ là dân của ta.” Sau khi nghiên cứu tiếng cổ Do Thái, tôi thấy rằng chữ ‘Am, có nghĩa người dân, đúng nghĩa là người bà con, gia đình. Ta sẽ là Thiên Chúa và cha của ngươi; ngươi sẽ là gia đình ta, con cái ta. Như thế giao ước tạo thành các mối giây thân thuộc hợp thành một gia đình với Thiên Chúa.

Tôi đọc các bài của Giáo Sư Shepherd, và ông cũng nói cùng một điều: giao ước của chúng ta với Thiên Chúa có nghĩa là phận làm con. Tôi nghĩ, “Nếu vậy thì đúng.” Tôi tự hỏi sự rối đạo ở đây gồm có gì. Sau đó có người nói với tôi, “Ông Shepherd đang đặt ra vấn đề sola fide.” Cái gì! Không thể nào được. Vì đây là Phúc Âm mà. Đó là chân lý đơn giản của Đức Kitô. Người đã chết vì tội lỗi; tôi tin ở Người. Người cứu độ tôi, rõ ràng và đơn giản; nó đã xong rồi. Sola fide? Ông ấy đặt vấn đề đó sao? Không thể nào được.

Tôi gọi điện thoại cho ông. Tôi nói, “Tôi vừa mới đọc xong những điều ông viết về giao ước; nó thật có ý nghĩa. Tôi cũng đi đến cùng một kết luận. Nhưng tại sao điều này lại dẫn ông đến việc đặt lại vấn đề học thuyết sola fide của Luther?” Trong cuộc nói chuyện, ông tiếp tục cho thấy rằng ý niệm về công chính hóa của Luther thì rất hạn hẹp. Nó có nhiều sự thật nhưng cũng thiếu sót nhiều sự thật.

Khi cúp điện thoại, tôi theo đuổi điều này thêm một chút và khám phá thấy rằng đối với Luther, và có thể nói với tất cả mọi Kitô Hữu Duy Phúc Âm và Tin Lành, Thiên Chúa là một quan tòa, và giao ước là khuôn viên tòa án mà tất cả chúng ta là tội phạm. Nhưng vì Đức Kitô đã chịu hình phạt của chúng ta, chúng ta có sự công chính của Người, và Người gánh lấy tội lỗi của chúng ta, do đó chúng ta không bị trừng phạt; chúng ta được công chính hóa. Với Luther, nói cách khác, sự cứu độ là một trao đổi hợp pháp, nhưng với Phaolô trong thư Rôma, thư Galát, sự cứu độ là như vậy, nhưng còn hơn thế nữa. Nó không chỉ là một trao đổi hợp pháp vì giao ước không hướng về một tòa án La Mã mà hướng về một căn phòng gia đình Do Thái. Thiên Chúa không chỉ là một ông tòa; Thiên Chúa là một người cha, và phán quyết của Người thì nhân từ của một người cha. Đức Kitô không chỉ là người đại diện cho một nạn nhân vô tội đã gánh lấy tội lỗi, hình phạt của chúng ta; Người là trưởng tử trong các anh chị em. Người là anh cả trong gia đình, và 
Người thấy chúng ta tán loạn, như đứa con hoang đàng, như phiến loạn tách rời khỏi đời sống gia đình của Thiên Chúa. Và qua giao ước mới, Đức Kitô không chỉ trao đổi trong ý nghĩa pháp luật; Đức Kitô đã ban cho chúng ta tư cách làm con của chính Người để chúng ta thực sự trở nên con cái Thiên Chúa.

Khi tôi chia sẻ điều này với các bạn tôi, tất cả đều nói, “Phải, đó là Phaolô.” Nhưng khi tôi tiếp tục đi vào các văn bản của Luther và Calvin, tôi không còn thấy điều đó. Họ huấn luyện tôi để nghiên cứu Sách Thánh, nhưng trong tiến trình, trong một ý nghĩa, tôi khám phá rằng có những kẽ hở hiển nhiên trong sự giảng dạy của họ. Do đó tôi đi đến kết luận rằng sola fide thì sai lầm. Thứ nhất, chỉ vì trong Kinh Thánh chẳng có chỗ nào nói đến điều đó cả. Thứ hai, vì Luther đã thêm vào chữ “chỉ” trong bản dịch sang tiếng Đức, trong thư Roma 3, dù rằng ông biết rất rõ là chữ “chỉ” không có trong bản văn tiếng Hy Lạp. Không thấy chỗ nào mà Thánh Thần đã linh ứng cho các tác giả Kinh Thánh để nói rằng chúng ta được cứu độ chỉ bởi đức tin. Thánh Phaolô dạy rằng chúng ta được cứu độ bởi đức tin, nhưng trong thư Galát ngài nói rằng chúng ta được cứu độ bởi đức tin hoạt động trong đức ái. Và đó không phải là phương cách sinh hoạt của một gia đình hay sao? Người cha không bao giờ nói với con cái rằng, “Này mấy đứa, vì các 
con ở trong gia đình này còn mấy đứa bạn con không ở trong nhà này, nên các con không phải làm việc, các con không phải vâng lời, các con không phải hy sinh vì các con đã được miễn. Các con sẽ được hưởng thừa kế bất kể các con hành động thế nào.” Đó không phải là kiểu cách hành động.

Bởi đó tôi thay đổi ý nghĩ và trở nên rất băn khoăn. Một trong những giáo sư sáng giá của tôi là Tiến Sĩ John Gerstner, từng nói rằng “nếu chúng ta sai lầm về sola fide, tôi sẽ quỳ gối bên ngoài điện Vatican ở Rôma sáng ngày mai để sám hối.” Lúc bấy giờ chúng tôi cười, thật là khoe khoang. Nhưng ông đã đưa ra điểm quan trọng; đây là điểm mà từ đó tất cả các học thuyết khác phát sinh. Và nếu chúng tôi sai lầm, chúng tôi phải tìm hiểu xem còn có những chỗ nào sai lầm nữa. Tôi băn khoăn, nhưng không quá lo lắng. Lúc bấy giờ tôi dự định sang Tô Cách Lan để theo học Đại Học Aberdeen về giao ước, vì ở Tô Cách Lan, thần học về giao ước được phát sinh và khai triển. Và tôi nóng lòng muốn sang học ở bên ấy. Do đó tôi không đặc biệt lưu tâm đến việc giải quyết vấn đề này, vì nói cho cùng, đó có thể là mục tiêu của luận án tiến sĩ của tôi.

Sau đó bỗng dưng chúng tôi được tin rằng sự thay đổi của chúng tôi về lý thuyết ngừa thai đã đưa đến sự thay đổi nơi Kimberly về cơ thể và sinh lý; cô ta có thai. Và nước Anh không tài trợ cho trẻ em Hoa Kỳ sinh ra ở nơi đây nên chúng tôi phải nhìn lại hoàn cảnh và nhận ra rằng chúng tôi chưa đủ khả năng để sang Tô Cách Lan. Chúng tôi phải chờ một năm, nhưng chúng tôi phải làm gì khi sắp sửa đến ngày mãn khóa? Chúng tôi không biết chắc; chúng tôi bắt đầu cầu nguyện.

LÀ MỤC SƯ CỦA HỘI THÁNH Ở VIRGINIA

Tiếng điện thoại reo. Một hội thánh ở Virginia , một hội thánh nổi tiếng mà tôi đã nghe biết nhiều, gọi tôi và nói, “Ông có nghĩ đến việc xuống đây để làm mục sư ở đây không?” Điều này có nghĩa giảng một bài dài, hướng dẫn một lớp Kinh Thánh, trả lời các câu hỏi của những người “bô lão” (elders). Tôi nhận lời và xuống đó, giảng một bài, hướng dẫn học Kinh Thánh, gặp gỡ trong một cuộc họp. Họ nói, “Thật tuyệt vời; chúng tôi muốn ông ở đây. Chúng tôi sẽ trả ông hậu hĩnh để ông có thể theo học tối thiểu 20 giờ một tuần về Kinh Thánh và thần học. Tuy nhiên, chúng tôi muốn ông giảng tối thiểu 45 phút mỗi sáng Chúa Nhật để khai mở cho chúng tôi về Ngôi Lời.” Bạn có thể tưởng tượng một linh mục Công Giáo mà giảng 45 phút thì được gì? Trong tuần tới cả nhà thờ đều vắng tanh. Ở đây, họ yêu cầu tôi giảng tối thiểu 45 phút. Tôi nói, “Nếu các ông bà muốn thì trói tay tôi lại.” Và họ nói, “Chúng tôi muốn ông nhận chìm chúng tôi trong Lời Chúa,” và vì thế tôi bắt đầu.

Điều đầu tiên tôi nói về giao ước. Điều thứ hai là chấn chỉnh những hiểu lầm về giao ước để cho họ thấy giao ước có nghĩa là gia đình. Điều thứ ba tôi cho họ thấy rằng gia đình của Thiên Chúa thì có nhiều ý nghĩa hơn cho chúng ta và những gì Đức Kitô đã thi hành hơn bất cứ điều gì trong Kinh Thánh. Thiên Chúa là Cha, Thiên Chúa là Con, và Thiên Chúa qua Thánh Thần đã biến chúng ta thành một gia đình với Người. Và một khi tôi bắt đầu giảng giải điều này, dạy điều nọ, nó lan tràn như cháy rừng. Nó lan qua giáo xứ; bạn có thể thấy nó ảnh hưởng đến hôn nhân và gia đình.

Thật phấn khởi. Điều thứ bốn tôi dạy họ về phụng vụ, giao ước và gia đình, và nói rằng trong Kinh Thánh giao ước được cử hành qua việc phụng tự là nơi gia đình Thiên Chúa tụ tập để ăn tiệc để cử mừng sự hy tế của Đức Kitô. Trong bài giảng cũng như trong lớp dạy tôi đề nghị có lẽ chúng ta phải có bữa tiệc gia đình, sự hiệp thông. Tôi dùng cả chữ “Thánh Lễ” (Eucharist). Họ chưa bao giờ nghe chữ này cả. Tôi nói, “Có lẽ hàng tuần chúng ta phải cử mừng vì được là giao ước của Thiên Chúa-gia đình qua sự hiệp thông.” “Ông nói gì?” Tôi trả lời, “Thay vì dùng bài giảng làm tâm điểm, tại sao chúng ta không dùng bài giảng như phần mở đầu và chuẩn bị để đi vào việc ăn mừng chúng ta là gia đình của Chúa?” Họ thích ngay.

Nhưng một ông đứng lên hỏi, “Hàng tuần à? Ông biết là thân quá hóa nhờn; ông có chắc là chúng ta phải thi hành điều đó hàng tuần không?” Tôi trả lời, “Thử nghĩ coi. Có thể nào ông nói với vợ ông là anh chỉ yêu em bốn lần trong một năm? Cưng ơi, nói cho cùng, thân quá hóa nhờn. Ông biết là ông muốn được vợ ông hôn nhiều hơn bốn lần một năm chứ.” Ông nhìn tôi và nói, “Tôi hiểu ông muốn nói gì.”

Khi chúng tôi thay đổi phụng vụ, chúng tôi cảm thấy một sự thay đổi trong cảm nghiệm đời sống của giáo xứ cũng như trong gia đình. Và khi càng dạy họ về giao ước, tôi thật phấn khởi để thấy họ càng thèm khát muốn biết hơn nữa.

Trong khi đó, tôi cũng dạy một vài giờ tại một trường trung học Kitô Giáo địa phương cũng thuộc về hội thánh này. Có những học sinh thật sáng dạ chưa bao giờ thấy, và họ cũng nhiệt tình hưởng ứng ý tưởng về giao ước. Tôi khởi sự dạy một môn về lịch sử cứu độ, và lúc đầu, họ lo lắng vì môn này quá mơ hồ, tất cả những địa danh, tên tuổi còn chưa đọc đúng chứ nói gì đến ý nghĩa của những chữ ấy. Bởi đó tôi nói với các em, “Một khi các em nghĩ về giao ước như gia đình, điều đó thật đơn giản.” Tôi dẫn các em qua hàng chuỗi giao ước trong Cựu Ước mà từ đó dẫn đến Đức Kitô. Trước hết, chúng ta có giao ước giữa Thiên Chúa và ADong; đó là một hôn nhân, một mối giây thân thiết. Giao ước thứ hai giữa Thiên Chúa với ông Nôe. Đó là một gia đình, một dòng họ với ông Nôe, bà vợ, ba người con trai và ba nàng dâu; tất cả tạo thành một gia đình với Thiên Chúa, một gia đình đức tin. Sau đó trong thời ông Abraham chúng ta thấy gia đình Thiên Chúa phát triển cho đến mức nó trở thành một gia đình bộ lạc. Kế đó giao ước mà Thiên Chúa thiết lập với ông Môsê và Israel với 12 chi tộc đã trở thành một quốc gia, nhưng qua giao ước họ trở nên một gia tộc của Thiên Chúa. Cho đến sau cùng, khi Đức Kitô thiết lập giao ước mới. Thay vì gia đình Thiên Chúa chỉ gồm một dân tộc, đó là sự cao trọng đặc biệt của Tân Ước, tôi dạy các em, giờ đây chúng ta có một gia đình quốc tế, một gia đình trên toàn quốc – một gia đình phổ quát của chung (catholic family).

Một em giơ tay hỏi, “Nếu chúng ta thực sự phát triển điều này thì sẽ giống như cái gì?” Tôi vẽ hình kim tự tháp lên bảng và nói, “Hãy coi đó như một đại gia đình với hình ảnh người cha và mẹ ở những mức độ khác nhau, và tất cả chúng ta là anh chị em trong Đức Kitô.” Tôi nghe có tiếng xì xầm ở cuối lớp, “Em thấy nó giống Giáo Hội Công Giáo.” Tôi trả lời, “Không, không! Điều tôi nói với các em là giải pháp cho các vấn đề, là thuốc giải độc.” Sau đó, trong bữa ăn trưa cô Rebecca đến với tôi và nói, “Chúng em làm cuộc biểu quyết ở cuối lớp; tất cả đều nhất trí nghĩ rằng thầy sẽ trở thành một người Công Giáo La Mã.” Tôi mắc nghẹn, “Đừng nói vậy. Thầy không muốn mất việc, nhưng Rebecca này, điều tôi nói với các em thì không phải là đạo Công Giáo; nó là thuốc giải độc cho chất độc của đạo Công Giáo.” Cô ta đứng đó, nhìn đăm đăm, “Tất cả đều đồng ý là thầy sẽ trở nên một người Công Giáo.” Và cô quay lưng bỏ đi.

Tôi sững sờ. Chiều hôm ấy khi về đến nhà, tôi bước vào bếp, thấy Kimberly đứng gần tủ lạnh, tôi nói, “Em không thể tưởng được điều Rebecca nói với anh hôm nay!” “Cái gì nữa đây, một chuyện khác nữa của Rebecca hay sao?” Tôi trả lời, “Cô ấy đến với anh trong khi ăn trưa và tuyên bố rằng họ làm một cuộc biểu quyết ở cuối lớp và tất cả đồng ý rằng anh sẽ trở nên một người Công Giáo. Em có thể tưởng tượng được không, anh mà là người Công Giáo sao được?” Nhưng vợ tôi không cười. Cô ta đứng đó, nhìn chòng chọc vào tôi và hỏi, “Không phải vậy sao?” Như có ai cầm dao đâm sau lưng, tôi nói, “Em biết anh là một tín đồ của Calvin, một người Tin Lành, một người chống Công Giáo. Anh đã phân phát biết bao nhiêu sách của Boettner; anh đã làm nhiều người Công Giáo bỏ Giáo Hội. Anh đã quá quen với Martin Luther.” Cô ta đứng đó và nói, “Thì vậy, nhưng đôi khi em tự hỏi không biết anh có phải là người Luther đi ngược hay không.” Tôi không biết nói gì hơn.

Chậm rãi tôi trở về phòng đọc sách, đóng cửa rồi khóa lại, tôi thả mình xuống ghế và thực sự nghiền ngẫm. Tôi lo sợ. Một người Luther đi ngược. Đối với tôi, lúc đó có nghĩa đối nghịch với sự cứu độ. Tôi lo sợ. Có lẽ tôi đọc sách quá nhiều nhưng ít cầu nguyện, do đó tôi bắt đầu cầu nguyện nhiều hơn. Tôi bắt đầu đọc thêm nhiều sách chống đối đạo Công Giáo, nhưng tất cả chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Bởi đó tôi quay về với các tài liệu Công Giáo và tìm hiểu.

GIÁO SƯ CHỦNG VIỆN HỘI THÁNH NIÊN TRƯỞNG

Trong khi đó một thảm kịch xảy ra. Tôi được một chủng viện tìm đến, một chủng viện của hội thánh Presbyter, và họ hỏi tôi có muốn dạy các chủng sinh với môn Phúc Âm Thánh Gioan không. Tôi trả lời, “Dĩ nhiên là có.” Bởi đó từ Phúc Âm Thánh Gioan tôi bắt đầu chia sẻ tất cả về giao ước, về gia đình của Thiên Chúa, về ý nghĩa thực sự của việc tái sinh. Trong khi nghiên cứu tôi khám phá ra rằng tái sinh không có nghĩa là chấp nhận Đức Giêsu Kitô như Cứu Chúa của mình và xin Người chiếm ngự tâm hồn mình-dù đó là điều quan trọng và bất cứ tín hữu nào, Công Giáo hay không, phải xem Đức Giêsu Kitô là Cứu Chúa và có sự tương giao cá biệt với Người. Nhưng tôi khám phá thấy rằng điều Chúa Giêsu muốn nói trong Gioan đoạn 3 khi Người nói rằng anh em phải được sinh ra lần nữa. Người quay lại và nói rằng anh em phải được sinh ra trong nước và thần khí. Trong chương trước đó Người mới được thanh tẩy bằng nước và Thánh Thần ngự xuống trên Người. Và ngay khi Người chấm dứt nói với ông Nicôđêmô về sự cần thiết để tái sinh trong nước và Thánh Thần, câu kế đến nói rằng Đức Giêsu và các môn đệ đi làm phép rửa cho dân chúng. Tôi dạy rằng tái sinh là một hành vi giao ước, một bí tích, một canh tân giao ước bao gồm phép rửa. Tôi chia sẻ điều này với các sinh viên; họ tin là như vậy.

Trong khi đang chuẩn bị bài giảng và diễn thuyết về Gioan chương 3, tôi đào sâu vào Gioan chương 6. Tôi không biết có bao nhiêu quý vị từng nghiên cứu về Phúc Âm Thánh Gioan. Nhưng đó là cuốn Phúc Âm phong phú nhất trong tất cả. Nhưng Gioan chương 6 là chương tôi thích nhất trong bốn cuốn Phúc Âm. Ở đó tôi khám phá những điều mà tôi đã từng đọc trước đây nhưng không bao giờ thấy. Hãy lắng nghe. “Đức Giêsu nói với họ, ‘Thật Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không ăn thịt của con người và uống máu Người anh em không có sự sống trong mình. Ai ăn thịt và uống máu Thầy sẽ có sự sống đời đời và Thầy sẽ cho người chỗi dậy vào ngày sau hết, vì thịt Thầy thật là của ăn và máu Thầy thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu Thầy thì ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy.'” Tôi đã đọc câu đó; tôi đọc lại câu đó; tôi nhìn đến câu đó ở mười khía cạnh khác nhau. Tôi mua tất cả các cuốn sách viết về đoạn đó, các chú giải về Gioan. Tôi không thể biết làm thế nào để hiểu cho đúng.

Tôi được huấn luyện để giải thích điều đó trong một ý nghĩa tượng trưng; Đức Giêsu đang dùng một biểu tượng. Thịt và máu thực sự chỉ là một biểu tượng của thân thể và máu của Người. Nhưng càng nghiên cứu, tôi càng nhận thấy rằng sự giải thích đó chẳng có ý nghĩa gì cả. Tại sao? Bởi vì ngay khi những người Do Thái nghe điều Đức Giêsu nói, họ bỏ đi. Cho đến lúc ấy, hàng ngàn người đang theo Ngài, và bỗng dưng đám đông ấy ghê tởm với điều Người nói, “Thịt Thầy thật là của ăn, máu Thầy thật là của uống,” và tất cả họ bỏ đi. Hàng ngàn môn đệ bỏ Người. Nếu Đức Giêsu có ý định coi đó chỉ là biểu tượng, có lẽ Ngài sẽ nói, “Khoan đã, Thầy chỉ muốn nói điều ấy với ý nghĩa tượng trưng.” Nhưng Người đã không làm điều đó; quả thật, Người làm gì?

Phúc Âm cho thấy Người quay về nhóm mười hai, và nói với họ, “Anh em cũng bỏ Thầy sao?” Người không nói, “Anh em có hiểu là Thầy chỉ muốn nói điều đó như một biểu tượng thôi sao?” Không! Người nói sự thật giải thoát chúng ta, Thầy từng giảng dạy sự thật. Anh em sẽ làm gì với điều đó?

Ông Phêrô đứng lên và nói: “Chúng con sẽ đến với ai? Chỉ có Thầy mới có lời hằng sống và chúng con tin như vậy.” Điều ông Phêrô nói, “Chúng con sẽ đến với ai?” có nghĩa rằng, “Thầy Giêsu ơi, chúng con cũng không hiểu điều Thầy nói, nhưng Thầy có còn một rabbi nào khác để có thể giới thiệu không? Thầy biết, chúng con phải đến với ai bây giờ? Thật quá trễ cho chúng con; chúng con tin bất cứ gì Thầy nói ngay cả khi chúng con không thực sự hiểu hết, và nếu Thầy nói chúng con phải ăn thịt và uống máu của Thầy, thì thế nào Thầy cũng ban cho chúng con ơn sủng cần thiết để chấp nhận các lời Thầy theo giá trị bề mặt.” Chúa Giêsu không muốn nói điều đó theo nghĩa biểu tượng.

Khi bắt đầu nghiên cứu điều này, tôi bắt đầu nhận thấy rằng đó là điều thuyết phục người Prebyter tin rằng tái sinh có nghĩa được thanh tẩy, nhưng làm thế nào tôi có thể thuyết phục họ rằng, chúng ta phải thực sự ăn thịt Người và uống máu Người được? Sau đó tôi để ý hơn về bữa tiệc ly và sự hiệp thông. Tôi thấy rằng Đức Giêsu không bao giờ dùng chữ “giao ước” trong khi cuộc đời rao giảng. Người cẩn thận để dành chữ ấy cho đến khi thiết lập Thánh Thể và Người nói, “Chén này là máu của giao ước mới.” Nếu giao ước có nghĩa là gia đình thì điều gì biến chúng ta thành một gia đình? Chia sẻ thịt và máu. Do đó nếu Đức Kitô hình thành một giao ước mới, đó là một gia đình mới, thì Người sẽ cung cấp gì cho chúng ta? Thịt mới và máu mới. Tôi bắt đầu thấy lý do tại sao Giáo Hội tiên khởi hoặc trong vòng 700 năm đầu, không ai tranh luận về ý nghĩa của những lời Chúa Giêsu nói. Tất cả các giáo phụ tiên khởi chấp nhận lời của Chúa Giêsu theo giá trị bề mặt và các ngài tin tưởng cũng như dạy rằng Đức Kitô thực sự hiện diện t
rong Thánh Thể. Tôi thực sự lo sợ; tôi không biết phải quay về với ai.

Rồi một tối kia, bỗng dưng một tình tiết xảy ra ở chủng viện mà tôi không kịp chuẩn bị. Một sinh viên cựu Công Giáo tên là John giơ tay hỏi. Anh ta mới trình bầy xong chủ đề về Công Đồng Trentô. Nếu quý vị nhớ, Công Đồng Trentô (còn gọi là Triđentinô) là một phản ứng chính thức của Giáo Hội Công Giáo đối với Martin Luther và phong trào Cải Cách.

Trong khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ, anh trình bầy Công Đồng Trentô theo một quan niệm thuận lợi. Anh đưa ra những lý luận thực sự dựa trên Kinh Thánh. Sau đó anh đảo ngược tình thế đối với tôi. Các sinh viên được hỏi anh ta một vài câu. Anh nói, “Thưa giáo sư Hahn, tôi có thể hỏi giáo sư một câu không? Giáo sư biết Luther thực sự đưa ra hai khẩu hiệu, không những câu sola fide (chỉ có đức tin), mà còn câu thứ hai ông ta dùng để nổi lên chống với Rôma là sola Scriptura, chỉ có Kinh Thánh. Câu hỏi của tôi là, “Chỗ nào trong Kinh Thánh dạy điều đó?”

Tôi nhìn anh bối rối. Tôi có thể cảm thấy mồ hôi đang nhỏ trên trán. Tôi thường kiêu hãnh khi hỏi các giáo sư những câu hỏi khó khăn nhất, nhưng chưa bao giờ tôi được nghe câu này cả. Và tôi nghe mình nói những lời mà trước đây chưa bao giờ tôi nói như thế; tôi trả lời, “Này anh John, thật là một câu hỏi ngớ ngẩn.” Anh ta không nản chí rút lui. Anh nhìn tôi và nói, “Hãy cho tôi một câu trả lời ngớ ngẩn.” Tôi nói, “Được, để tôi xem.” Tôi bắt đầu vung vít, “2 Timôtê 3:16 là mấu chốt: ‘Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính, nhờ vậy, người của Thiên Chúa được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành…'” Anh nói, “Khoan đã, điều đó chỉ nói là Kinh Thánh được linh hứng và có lợi; nó không nói là CHỈ có Sách Thánh được linh hứng hay tốt hơn nữa, chỉ Sách Thánh thì có lợi cho những điều đó. Chúng ta cần những điều khác nữa như sự cầu nguyện,” và rồi anh nói, “Còn 2 Thessalônica 2:15 thì sao?” Tôi hỏi, “Cái gì nữa đây?” Anh nói, “Trong đó, Phaolô nói với dân thành Thessalônica rằng họ phải kiên vững, họ phải bám lấy các truyền thống mà Phaolô đã dạy họ qua thư văn hay truyền khẩu.” Tôi sững sờ, không chuẩn bị. Tôi đánh trống lảng, “Thôi, chúng ta đi sang các câu hỏi khác; tuần sau tôi sẽ trả lời câu ấy.”

Tôi không nghĩ là các sinh viên biết tôi hoang mang như thế nào. Khi lái xe về nhà tối hôm ấy, tôi nhìn lên trời hỏi Chúa, tại sao chưa bao giờ con nghe câu hỏi đó? Tại sao chưa bao giờ con tìm thấy câu trả lời? Hôm sau, tôi bắt đầu gọi điện thoại cho các thần học gia trên khắp thế giới, họ là các giáo sư cũ của tôi. Tôi hỏi, “Chỗ nào trong Kinh Thánh dạy về sola Scriptura? Chỗ nào dạy rằng Kinh Thánh là thẩm quyền duy nhất của chúng ta?” Có một ông trả lời, “Thật là một câu hỏi ngớ ngẩn.” Tôi nói, “Vậy ông hãy cho tôi một câu trả lời ngớ ngẩn đi.”Tôi tiếp tục theo đuổi. Một giáo sư mà tôi rất kính trọng, là thần học gia của Oxford , nói với tôi, “Anh Scott này, anh đừng mong tìm thấy minh chứng về sola Scriptura trong Kinh Thánh, vì đó không phải là điều Kinh Thánh bày tỏ. Đó là sự thừa nhận của chúng ta; đó là sự phỏng đoán của chúng ta khi tiếp cận với Kinh Thánh.” Câu nói đó khiến tôi thấy kỳ cục; tôi hỏi, “Nhưng thưa giáo sư, điều đó có vẻ kỳ quặc vì chúng ta thường nói rằng chúng ta chỉ tin những gì Kinh Thánh dạy, nhưng chính Kinh Thánh lại không dạy rằng chúng ta chỉ phải tin những gì Kinh Thánh nói. Sự thừa nhận của chúng ta không được dạy trong Kinh Thánh. Điều đó giống như chúng ta đang cắt đứt cái cành mà chúng ta đang ngồi trên đó”. Sau đó ông ấy nói, “Nhưng chúng ta còn chọn lựa nào khác?” Thật là một câu trả lời.

Một người bạn tôi, là thần học gia, gọi tôi và nói, “Scott, tôi nghe rằng anh đang lưu ý đến đức tin Công Giáo, điều đó có thật không?” “Ồ, không, tôi không thực sự lưu ý đến đức tin Công Giáo.” Sau đó tôi quyết định đặt câu hỏi với anh ta. Tôi nói, “Anh Art ơi, đối với anh đâu là trụ cột và nền tảng chân lý?” Và anh nói, “Đối với tất cả chúng ta, Kinh Thánh là trụ cột và nền tảng chân lý.” Tôi đáp, “Nếu vậy tại sao Kinh Thánh trong thư 1 Timôtê 3:15 lại dạy rằng trụ cột và nền tảng chân lý là giáo hội, gia đình đức tin?” Một sự im lặng và anh nói, “Tôi nghĩ là anh đang gài tôi với câu hỏi đó.” Và tôi trả lời, “Tôi nghĩ là tôi đang bị kẹt với rất nhiều vấn đề.” Anh nói, “Cho tôi biết giáo hội nào, hả Scott? Có quá nhiều hội thánh mà.” Tôi nói, “Này Art, có bao nhiêu hội thánh thực sự thi hành công việc là trụ cột và nền tảng của chân lý? Tôi muốn nói, là một hội thánh dám nói rằng ‘Chúng tôi là trụ cột và nền tảng của chân lý; hãy nhìn đến chúng tôi và các bạn sẽ được nghe Đức Kitô nói và giảng dạy’? Có bao n
hiêu ứng viên cho công việc đó? Tôi biết chỉ có một. Tôi biết chỉ có Giáo Hội Công Giáo dạy rằng họ được thành lập bởi Đức Kitô; họ đã có khoảng 2,000 năm và đang rêu rao điều khủng khiếp tương tự như trong 1 Timôtê 3:15″.

Cho đến lúc ấy, tôi không rõ phải làm gì. Tuy nhiên, một ngày kia tôi nhận được điện thoại từ ban giám đốc chủng viện nơi tôi dạy. Ông Steve rủ tôi đi ăn trưa. Tôi không rõ lý do. Tôi nghĩ, “Chắc tiếng đồn đã đến tai ông giám đốc rằng mình đang dạy những điều mà có lẽ của Công Giáo.” Khi gặp ông, tôi lo sợ và thiếu tự tin. Ông cho biết ban giám đốc đã đồng ý quyết định, vì các lớp tôi dạy quá xuất sắc, vì nhiều người ghi tên theo học, nên họ hỏi tôi có muốn làm giám đốc chủng viện ở tuổi 26 hay không. Tôi không thể tin được. Ông nói, “Chúng tôi sẽ để anh dạy những môn anh thích. Anh có thể thuê thêm nhân viên nếu cần. Chúng tôi sẽ trả tiền cho anh theo đuổi chương trình tiến sĩ về thần học.” Tôi nói, “Có chương trình tiến sĩ thần học nào gần đây không?” Ông nói, “Đại Học Công Giáo.” Tôi nghĩ, ồ không được. Tôi không muốn học trường đó; hiện giờ tôi đang muốn trốn tránh cái viễn ảnh đó. Thực sự thì tôi không nói với ông như vậy. Ông kết luận, “Vậy anh thử cầu nguyện về điều đó xem sao?” Tôi nói, “Tôi sẽ cầu ng
uyện, nhưng tôi nghĩ tôi đã biết câu trả lời. Và thật kỳ cục, tôi nghĩ là tôi sẽ từ chối và không thể giải thích được lý do tại sao, bởi vì chính tôi cũng không rõ.”

Khi về đến nhà, Kimberly đang đợi tôi. Cô nói, “Ông ấy muốn gì?” Tôi trả lời, “Ông ấy yêu cầu anh làm giám đốc.” “Anh đừng có đùa.” Tôi trả lời, “Không. Anh không đùa” “Anh trả lời sao?” Tôi nói, “Không.” “Anh nói gì?” Tôi nói, “Anh không nhận.” “Tại sao anh lại nói vậy?” Tôi nói, “Em ơi, ngay bây giờ anh còn chưa rõ những điều anh dạy. Ngay bây giờ anh không rõ Kinh Thánh dạy gì, và anh biết là một ngày nào đó anh sẽ đứng trước mặt Đức Giêsu Kitô để chịu phán xét, và điều đó không dễ để anh nói với Chúa rằng, ‘Chúa ơi, con chỉ dạy những gì con được học hỏi.’ Ngài sẽ cho anh thấy những gì là chân lý trong Kinh Thánh và anh phải trung thành với điều mà Chúa đã chỉ cho anh.” Cô ta bước đến bên tôi, quàng tay ôm tôi và siết chặt. Rồi cô ấy nói, “Anh ơi, đó là điều em yêu anh, đó là lý do tại sao em lấy anh, nhưng, chúng ta phải cầu nguyện thêm.” Cô ấy biết điều đó có nghĩa gì: Nó có nghĩa không chỉ từ chối lời đề nghị, nhưng còn có nghĩa từ bỏ công việc tốt đẹp làm mục sư  của một nhà thờ đang phát triển. Tôi th
ích cả hai công việc ấy.

PHỤ TÁ QUẢN TRỊ CHO HIỆU TRƯỞNG

Chúng tôi không biết phải làm gì. Trong tháng Bảy chúng tôi không còn biết đến những gì xảy ra chung quanh. Sau khi cầu nguyện nhiều, chúng tôi quyết định phải trở về thành phố với mái trường xưa nơi chúng tôi lần đầu gặp gỡ. Khi về đó, tôi xin việc ở nhiều nơi, nhưng trường này thuê tôi làm phụ tá quản trị cho ông hiệu trưởng. Trong hai năm tôi làm việc ở đây, đó là thời gian lý tưởng vì tôi làm việc ban ngày và ban tối được tự do theo đuổi công việc nghiên cứu.

Trong vòng hai năm, tôi đọc qua hàng trăm cuốn sách, và lần đầu tiên bắt đầu nghiên cứu các thần học gia Công Giáo cũng như các học giả Kinh Thánh. Và tôi sửng sốt trước các quan điểm thật sâu sắc của họ, và hơn thế nữa, các quan điểm ấy phù hợp với những điều tự tôi khám phá. Tôi không thể tin được rằng các khám phá lạ thường, mới mẻ mà tôi vất vả có được thì họ lại cho là đương nhiên như vậy, và điều đó làm tôi áy náy.

Có những lúc tôi bước ra khỏi thư phòng và đọc cho Kimberly nghe rồi nói, “Em nghe đoạn này và đoán thử tác giả.” Vì cô ta cũng là một thần học gia trong một ý nghĩa nào đó, và cô quá bận rộn với việc chăm sóc con cái nên không có nhiều thời giờ. Nhưng cô cũng ngồi xuống lắng nghe và tôi hỏi, “Em nghĩ đó là ai?” Cô trả lời, “Chà! Hay quá. Nghe như một trong những bài giảng của anh ở Virginia . Em muốn nghe lại hết sức.” Tôi nói, “Đó là văn kiện Gaudium et Spes của công đồng Vatican II. Đó là Giáo Hội Công Giáo.” Cô gay gắt, “Em không muốn nghe điều đó.” Tôi nói, “Em thấy đó, đoạn văn nói về phụng vụ này thật tuyệt vời. Anh không rõ, nhưng anh nghĩ có lẽ Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên người Anh Giáo.” Đó mới nửa đường về nhà. Cô ta nhìn tôi, nước mắt lưng tròng và nói, “Người Anh Giáo! Em là một người Presbyter, cha của em là mục sư Presbyter, chú của em là một mục sư Prebyter, chồng em từng là một mục sư Presbyter, anh trai của em muốn trở thành mục sư, và chính em cũng muốn trở thành mục sư. Em không mu
ốn là một người Anh Giáo.” Vào lúc đó, cô cảm thấy bị bỏ rơi, bị phản bội.

Tôi nhớ đến điều đó vì một vài tháng sau, sau khi đọc thêm nhiều, một tối kia tôi đến nói với vợ, “Kimberly, anh chưa chắc chắn, nhưng anh bắt đầu nghĩ rằng có lẽ Thiên Chúa kêu gọi anh để trở thành một người Công Giáo La Mã.” Trông cô ta càng tuyệt vọng hơn. Cô nói, “Có thể nào chúng ta trở nên người Anh Giáo không? Giáo phái nào cũng được ngoại trừ Công Giáo.” Quý vị Công Giáo từ nhỏ không thể nào hiểu được điều này. Quý vị không thể biết được sự sợ hãi như thế nào khi nghĩ đến phải bơi qua sông Tiber , khi phải thần phục Đức Giáo Hoàng. Cô ta ngày càng tuyệt vọng. Cô bắt đầu cầu xin để có ai đó cứu vớt chồng cô-có thể là giáo sư, thần học gia hay bạn hữu nào đó.

HÀNH TRÌNH ĐẾN VỚI ĐẠO CÔNG GIÁO

Sau cùng thì điều đó xảy đến. Một ngày kia tôi nhận được điện thoại từ Gerry, người bạn thân từ khi ở chủng viện. Một môn sinh Phi Beta Kappa về văn học Hy La và Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp. Anh là sinh viên duy nhất ở chủng viện cùng với tôi chủ trương rằng, theo sự tin tưởng xa xưa của Tin Lành, Đức Giáo Hoàng từng là người phản-Kitô. Chúng tôi từng sát cánh nhau chống đối mọi sự tương nhượng thấy được trong các nhánh Tin Lành anh em. Tôi đọc cho anh ấy nghe một đoạn từ cuốn sách của Cha Bouyer. Anh nói, “Chà, thật phong phú và sâu xa. Ai viết đó?” Tôi nói, “Louis Bouyer.” “Bouyer? Tôi chưa bao giờ nghe cả, ông ấy là gì?” Tôi hỏi, “Anh muốn nói gì?” “Có phải là một người Methodist không?” Tôi nói, “Không.” “Một người Baptist?” “Không.” “Vậy là người Lutheran sao? Hắn là gì?” Tôi nói, “Ông ấy là một người Công….” “Xin lỗi, tôi nghe không rõ.” Tôi nói, “Ông ấy là Công Giáo La…” “Khoan đã, hình như điện thoại nghe không rõ. Tôi nghe anh nói ông ấy là Công Giáo.” Tôi nói, “Gerry này, tôi nói ông ấy là Công Giáo và thực sự là Công Giáo, và tôi từng đọc rất nhiều sách của người Công Giáo.”

Bất thình lình như dòng thác Niagara tuôn trào, tôi nói một hơi, “Tôi từng đọc Danielou, và Ratzinger, và de Lubac, và Garrigou-Lagrange và Congar, và tất cả đều thật phong phú; anh cũng phải nghiên cứu họ.” Gerry nói, “Từ từ. Này Scott, có lẽ linh hồn anh đang bị nguy hiểm.” Tôi nói, “Gerry, tôi có thể gửi cho anh tên của những cuốn đó không?” Anh nói, “Dĩ nhiên, tôi sẽ đọc, sẽ làm bất cứ gì để cứu anh khỏi cái cạm bẫy này. Và tôi sẽ cho anh tên những cuốn khác.” Anh kể ra khoảng mười cuốn sách chống đối Công Giáo. Tôi nói, “Gerry, tôi từng đọc các cuốn này rồi, tối thiểu một hai lần.” Anh nói, “Vậy hãy gửi cho tôi tên các cuốn sách ấy,” và tôi đã gửi cho anh.

Khoảng một tháng sau, chúng tôi sắp xếp để nói chuyện lâu trên điện thoại. Kimberly thì càng phấn khởi hơn; ít ra một hiệp sĩ Phi Beta Kappa trong áo giáp sáng loáng đã đến để giải cứu chồng cô khỏi nanh vuốt của đạo Công Giáo. Do đó cô ta hồi hộp chờ đợi khi cuộc nói chuyện chấm dứt, và tôi cho cô biết là Gerry thật khích động vì anh ta đang đọc tất cả những thứ đó và bắt đầu nghiêm trọng để ý đến lời của tôi. Cô nói, “Ô hay quá, em biết là anh ấy sẽ giúp mình mà.”

Điều đó tiếp diễn trong ba bốn tháng. Chúng tôi nói chuyện điện thoại “long distance” hai ba tiếng, có khi đến bốn tiếng đồng hồ để thảo luận về thần học và Kinh Thánh cho đến ba bốn giờ sáng. Kimberly thật vui mừng và cám ơn Gerry vì anh ấy đã quá lo lắng cho tôi.

Một đêm kia, tôi bước vào phòng ngủ khoảng hai ba giờ sáng; cô ta vẫn thức. Đèn đã tắt, nhưng cô ấy ngồi trên giường và hỏi, “Sao thế nào?” Tôi nói, “Tốt lắm.” “Nói cho em nghe đi.” Tôi nói, “Gerry thì hầu như say sưa và khích động về những chân lý trong Kinh Thánh mà Giáo Hội Công Giáo đề ra.” “CÁI GÌ!” Tôi không thể thấy rõ khuôn mặt của cô ấy, nhưng tôi cảm được nó xệ xuống khi cô chùn người xuống tấm nệm, úp mặt vào gối và nức nở. Tôi cũng không thể choàng tay lên người vợ tôi; cô ta thực sự bị tổn thương và bị bỏ rơi.

Một ít sau Gerry lại gọi tôi và nói, “Nghe đây, tôi hơi lo sợ. Các bạn tôi cũng vậy. Chúng ta đừng coi thường điều này. Tôi đã nói chuyện với Tiến Sĩ John Gerstner, đây là một người Presbyter có bằng cấp ở Harvard, một thần học gia chuyên bài bác Công Giáo. Ông ta sẽ gặp chúng mình nếu muốn.” Chúng tôi sắp xếp để Gerry, Tiến Sĩ Gerstner và tôi gặp nhau trong sáu tiếng đồng hồ, cùng nhau đi qua Cựu Ước bằng tiếng cổ Do Thái, Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp, và các tài liệu và công đồng trong lịch sử Giáo Hội. Sau sáu giờ đồng hồ, Gerry và tôi hy vọng sẽ thoát khỏi vũng nước nhờ bậc kỳ tài này. Thay vào đó, điều mà chúng tôi khám phá ra là Giáo Hội Công Giáo hầu như không cần đến một sự tự vệ nào cả. Giống như một con sư tử; chỉ cần đưa ra khỏi chuồng là đủ. Chúng tôi đưa ra các giảng dạy của Giáo Hội và các văn bản trong Kinh Thánh, và chúng tôi cảm thấy là ông ấy không thể trả lời cho bất cứ câu hỏi nào. Sau cùng, chúng tôi hầu như kinh ngạc tự hỏi, “Điều này có nghĩa gì?” Không ai trong chúng tôi biết được. Các mô
n sinh bài bác Công Giáo tích cực nhất đang tự hỏi không biết Thiên Chúa có phải là một người Công Giáo hay không-chúng tôi thật kinh sợ.

Trong khi đó tôi gửi đơn xin việc đến Đại Học Marquette vì tôi nghe họ có một vài thần học gia nổi tiếng có nền tảng trên giao ước đang nghiên cứu về Giáo Hội và thực hiện được nhiều điều tốt đẹp. Ngay trước khi tôi được trả lời là họ chấp nhận và được học bổng, tôi đến thăm một vài linh mục trong vùng. Tôi lo sợ. Tôi thi hành điều đó vào ban đêm để không ai thấy. Tôi cảm thấy mình dơ bẩn và ô uế khi bước vào nhà xứ. Tôi ngồi xuống và sau cùng nêu lên vài câu hỏi, mỗi linh mục đều nói với tôi. “Hãy nói về điều gì đó ngoài vấn đề thần học.” Không một linh mục nào muốn thảo luận về các thắc mắc của tôi. Một trong các linh mục thực sự nói rằng, “Ông nghĩ đến vấn đề trở lại đạo sao? Đừng, đừng làm vậy. Kể từ công đồng Vatican II chúng tôi không khuyến khích điều đó. Điều tốt nhất ông có thể thi hành cho Giáo Hội là hãy trở nên một mục sư tốt lành.” Tôi nói, “Thưa Cha,…” “Đừng, hãy gọi tôi là Mike.” Tôi trả lời, “OK, Mike. Tôi không xin ông bẻ tay tôi và buộc tôi vào đạo. Tôi nghĩ là Chúa gọi tôi.” Ông ấy nói, “
Nếu bạn muốn sự giúp đỡ của tôi thì bạn đã đến lầm người.”

Sau khoảng bốn năm lần gặp gỡ như vậy, tôi thật hoang mang. Tôi chia sẻ điều này với vợ tôi. Cô ấy nói, “Anh phải đến một trường Công Giáo để theo học toàn thời gian, là nơi anh có thể nghe từ nguồn tin đáng tin cậy, là nơi anh biết chắc là Giáo Hội Công Giáo mà anh tin thì vẫn còn hiện hữu.” Cô ta nói đúng. Do đó sau khi cầu nguyện nhiều và chuẩn bị, chúng tôi di chuyển sang Milwaukee là nơi tôi hoàn tất chương trình tiến sĩ trong hai năm.

Hai năm đó là những năm học hỏi dồi dào nhất chưa từng có và cũng là quãng thời gian phong phú nhất để cầu nguyện. Dù rằng tôi thấy mình ở giữa các chủng sinh mà ở đó tôi thực sự là một người Tin Lành duy nhất bảo vệ các giáo huấn của Giáo Hội chống với những tấn công của chính người Công Giáo. Thật kỳ lạ, Tỉ như, sự giảng dạy của Đức Gioan Phaolô thì thật phù hợp Kinh Thánh và đầy tính cách giao ước. Tôi giải thích điều này cho họ. Nhưng không nhiều thần học gia có thể lĩnh hội một cách đầy đủ. Tôi thực sự vui thích với quãng thời gian ấy. Nhưng đồng thời có vài điều đã xảy ra, thực sự có hai điều.

Thứ nhất, tôi bắt đầu lần chuỗi. Tôi thực sự lo sợ khi thi hành điều này. Tôi xin Chúa đừng bực mình khi tôi thử. Tôi bắt đầu đọc kinh, và khi đọc tôi cảm thấy trong tâm hồn điều mà tôi biết trong tâm trí: tôi là con cái của Thiên Chúa. Tôi không chỉ có Thiên Chúa là Cha và Đức Kitô là người anh; tôi còn có Mẹ của Người cho chính tôi.

Một người bạn nghe biết điều tôi đang suy nghĩ về Giáo Hội Công Giáo gọi điện thoại cho tôi và nói: “Anh có thờ Đức Maria như những người Công Giáo không?” Tôi nói, “Họ không thờ Đức Maria; họ vinh danh Đức Maria.” “Vậy có gì khác biệt?” Tôi nói, “Để tôi giải thích. Khi Đức Kitô chấp nhận lời mời gọi của Chúa Cha để làm xuống thế người, Người chấp trách nhiệm vâng phục luật lệ, được tóm lược trong Mười Điều Răn. Có một điều răn nói rằng, ‘Phải tôn kính cha mẹ.'” Tôi nói thêm, “Trong tiếng cổ Do Thái, chữ ‘kaboda’ (tôn kính), có nghĩa vinh danh, dành bất cứ vinh dự và sự tôn kính nào của mình cho cha mẹ. Đức Kitô đã chu toàn lề luật ấy một cách tuyệt hảo hơn bất cứ ai khác bằng cách dành vinh dự của Người cho Cha trên trời và dành vinh dự của một vị chúa để vinh danh Mẹ Người. Tất cả những gì chúng tôi thi hành khi lần chuỗi là bắt chước Đức Kitô là Người đã vinh danh Mẹ Người với chính sự vinh hiển của Người. Chúng tôi vinh danh Đức Maria với sự vinh hiển của Đức Kitô.”

Điều thứ hai xảy ra khi tôi âm thầm lẻn vào nhà nguyện dưới tầng hầm ở Marquette, Gesu. Ở đó có 
Thánh Lễ ban trưa và chưa bao giờ tôi dự lễ. Tôi ngồi ở ghế sau cùng. Tôi không quỳ. Tôi không bái gối, tôi cũng không đứng. Tôi là một quan sát viên, tôi đến đó để theo dõi. Nhưng tôi thật ngạc nhiên khi thấy 40, 50, 60, 80 hay 100 người đến tham dự Thánh Lễ buổi trưa, họ là những người bình thường đến nhà nguyện, bái gối, qùy cầu nguyện. Sau đó có tiếng chuông và tất cả đứng dậy. Thánh Lễ bắt đầu. Trước đây tôi chưa bao giờ thấy.

Phụng Vụ Lời Chúa thật dồi dào, không chỉ có các bài đọc. Tôi nghĩ trong Thánh Lễ ngày thường họ đọc Kinh Thánh dài hơn ngày Chúa Nhật. Nhưng lời kinh của họ thấm đẫm ngôn ngữ Kinh Thánh và các trích dẫn từ Isaia và Egiêkien. Tôi ngồi đó tự nhủ, “Đó là Giêkaria; đó là Êgiêkien. Chà! Như thể KinhThánh đi vào đời sống và nhảy múa ngay trên cung thánh và nói, ‘Đây là chỗ của tôi.'”

Sau đó phần Phụng Vụ Thánh Thể bắt đầu. Tôi nhìn xem và lắng nghe khi linh mục đọc lời thánh hiến và nâng bánh thánh lên cao. Vào lúc đó, tôi phải thú nhận là giọt hồ nghi sau cùng không còn nữa. Tôi nhìn đến Mình Thánh và nói, “Lạy Chúa và Thiên Chúa của con.” Khi dân chúng tiến lên rước lễ, tôi thực sự đầm đìa nước mắt, “Chúa ơi, con muốn có Chúa. Con muốn hiệp thông trọn vẹn với Chúa. Chúa đã đến tâm hồn con. Chúa là Cứu Chúa và là Chúa của con, nhưng giờ đây con nghĩ Chúa muốn đến với lưỡi con và bao tử của con, đi vào thân thể con cũng như linh hồn con cho đến khi sự hiệp thông chấm dứt.”

Sau Thánh Lễ, dân chúng ở lại đôi phút để cảm tạ sau đó họ ra về. Và hiển nhiên, tôi bước ra ngoài tự hỏi, tôi đã làm điều gì vậy? Nhưng ngày hôm sau, tôi trở lại, và ngày sau nữa, sau nữa. Tôi không thể nói với một linh hồn nào. Tôi không thể nói với vợ tôi. Nhưng trong một hoặc hai tuần lễ tôi bị thu hút. Tôi hoàn toàn trong cuộc tình với Đức Kitô và sự Hiện Diện Thực Sự của Người trong Thánh Thể. Điều đó trở thành nguồn gốc và cao điểm cũng như tuyệt đỉnh của mỗi ngày, và tôi vẫn không thể nói điều đó với bất cứ ai.

Rồi một ngày kia Gerry gọi tôi. Chính anh đã đọc hàng trăm cuốn sách. Anh gọi tôi để thông báo, “Vợ tôi và tôi quyết định sẽ trở thành người Công Giáo vào Phục Sinh này (1986)” Tôi lớn tiếng, “Ê Gerry. Lẽ ra anh phải ngăn chặn tôi trở lại đạo Công Giáo; bây giờ anh lại đi trước tôi sao? Chơi vậy thì không đẹp.” Anh nói, “Nghe đây Scott, tôi không biết anh còn có những thắc mắc nào hay chống đối nào, nhưng tất cả các câu hỏi của chúng ta đều được trả lời.” Tôi trả lời, “Tôi cũng vậy.” Anh nói, “Thấy chưa, tôi đâu có tò mò.”

Sau khi gác máy điện thoại, tự nhiên tôi chợt nảy ra ý nghĩ rằng sự trì trệ việc vâng phục đối với tôi cũng giống như bất tuân phục. Thiên Chúa đã nói rõ trong Kinh Thánh về Đức Maria, về Đức Giáo Hoàng, ngay cả về Luyện Ngục từ thư 1 Corintô 3:15 và tiếp đó, về các thánh như người trong gia đình của Thiên Chúa, như anh chị em trong Đức Kitô. Tôi giải thích cho các bạn tôi nghe về ý nghĩa chính của Gia Đình Thiên Chúa mà đó là điều có ý nghĩa nhất trong đức tin Công Giáo. Đức Maria là mẹ của chúng ta, Đức Giáo Hoàng là người cha tinh thần, các thánh như anh chị, Thánh Lễ là một bữa tiệc gia đình, các ngày lễ giống như ngày kỷ niệm sinh nhật hay thành hôn. Chúng ta là gia đình của Chúa. Tôi không phải là một đứa mồ côi; tôi có mái nhà. Tôi chưa về đến nhà. Tôi bắt đầu xin Chúa, “Chúa muốn con làm gì? Gerry thì đang chuẩn bị gia nhập. Chúa muốn con làm gì?” Và Thiên Chúa lại xoay sang hỏi tôi, “Con muốn làm gì?” Tôi nói, “Con muốn về nhà. Con muốn rước Chúa trong Thánh Thể.” Và tôi cảm thấy như Chúa nói với tôi
, “Thầy đâu có cản con.” Do đó tôi suy nghĩ, tốt hơn mình nên nói chuyện này với vợ.

Bởi đó tôi đi xuống nhà và nói, “Kimberly, em không thể đoán được điều mà vợ chồng Gerry đang sửa soạn thi hành”. “Điều gì?” Lúc bấy giờ cô không còn hy vọng gì nữa. “Họ sẽ trở nên người Công Giáo vào Phục Sinh này (1986).” Cô nhìn tôi và thở dài-cô ấy biết tôi rất rõ và vẫn yêu tôi-cô nói, “Rồi sao? Điều đó có gì khác biệt đâu? Anh đã từng hứa là anh không gia nhập Công Giáo cho đến năm 1990 là sớm nhất.” Tôi trả lời, “Phải, em đã nhắc anh điều đó; đúng vậy, anh đã hứa như vậy. Nhưng anh có thể được miễn cho điều đó nếu em cảm…” “Không, không, đừng…” “Em sẽ cầu nguyện cho anh điều đó chứ?” “Anh đừng dùng vấn đề cầu nguyện để tránh lời hứa.” Tôi nói, “Nhưng Kimberly này, em không muốn nghe điều ấy, em không muốn đọc về điều ấy, em không muốn thảo luận về điều ấy. Nhưng đối với anh, việc trì trệ vâng phục một điều mà Thiên Chúa đã cho biết quá rõ thì cũng giống như bất tuân phục.” Tôi biết Kimberly yêu tôi nhiều nên không bao giờ để tôi hay áp lực tôi phải không vâng lời Thiên Chúa. Cô ấy nói, “Em sẽ cầu n
guyện về điều đó, nhưng em bảo cho anh biết, em cảm thấy bị phản bội. Em cảm thấy bị bỏ rơi. Chưa bao giờ trong đời em cảm thấy cô đơn như vậy. Tất cả các ước mơ của em đều tiêu tan vì vấn đề này.” Nhưng cô ấy đã cầu nguyện và Thiên Chúa chúc lành cho cô. Kimberly trở lại và nói, “Đây là điều đau lòng nhất trong đời, trong hôn nhân của chúng ta, nhưng em nghĩ đó là điều Thiên Chúa muốn em thi hành.”

Vào lễ đêm Phục Sinh 1986, cô thực sự theo tôi đến tham dự Thánh Lễ là nơi tôi được lãnh nhận các bí tích tháp nhập: rửa tội với điều kiện, xưng tội lần đầu, thêm sức và rước lễ. Khi trở về chỗ ngồi, hình như vợ tôi khóc, tôi choàng tay qua người cô và chúng tôi bắt đầu cầu nguyện. Chúa nói với tôi, “Thầy đâu có bắt con trở thành một người Công Giáo mà quên đi tình yêu của con dành cho Kimberly, vì Thầy yêu cô ấy nhiều hơn con. Thầy yêu cầu con trở nên người Công Giáo vì tình yêu của con. Vì con không có sức mạnh để yêu thương cô ấy nhiều như Thầy muốn con yêu vợ con, Thầy sẽ ban cho con những gì còn thiếu sót trong Thánh Thể.” Tôi nghĩ, “Chúa ơi, xin Chúa làm ơn giải thích điều đó cho vợ con đi.” Và tôi cảm thấy một sự bình an từ từ đến khi Chúa nói, “Đến lúc ấy, Thầy sẽ nói; con lui đi chỗ khác. Con không phải là Thần Khí; con không thể thay đổi tâm hồn vợ con.” Trong những ngày tháng kế đó, cô ta vẫn không thay đổi. Thật khó khăn.

Sau cùng tôi nhận dạy học trong vài năm ở một trường thuộc Joliet. Ngay trước khi dọn nhà, một điều mà Thiên Chúa đã để xảy ra. Chúng tôi có đứa con thứ ba, Hannah. Khi Hannah được thụ thai, tôi thật lo sợ. Có nhiều lý do để lo sợ nhưng chưa bao giờ tôi lo như thế vào sáng Chúa Nhật nọ, khi Kimberly mang thai khoảng bốn tháng. Chúng tôi đứng trong nhà thờ thuộc hội thánh của cô và hát câu cuối cùng, và cô quay sang tôi. Mặt cô trắng nhợt và nói, “Em không khoẻ, em đang bị ra máu.” Cô ngồi xuống rồi nằm dài trên băng ghế trong khi mọi người bắt đầu rời cung thánh. Tôi hoảng hốt. Tôi không biết phải làm gì; cô trắng nhợt như một thây ma. Tôi chạy đến điện thoại công cộng gọi cho bác sĩ sản khoa. Tôi hỏi, “Ông ấy ở đâu?” “Chúng tôi không biết bác sĩ đi đâu. Vào cuối tuần, ông ấy thường đi xa.” “Có cách nào bà báo cho ông ấy được không?” “Chúng tôi sẽ báo cho bác sĩ và nếu ông ấy còn ở đây ông ấy sẽ gọi cho ông.” Tôi thực sự hoảng hốt. Tôi bắt đầu cầu xin Thánh Gerard, cầu xin bất cứ ai. Tôi cũng xin Đức Giêsu Ki
tô giúp chúng tôi. Mười hay mười lăm giây đồng hồ sau, có tiếng điện thoại reo. Tôi nhắc máy, “Ông Scott đó hả?” “Phải.” “Đây là bác sĩ.” Tôi hỏi, “Ông đang ở đâu vậy?” Ông ấy hỏi lại, “Ông đang ở đâu?” Tôi nói, “Tôi đang ở ngoại ô thành phố trong một thị xã đặc biệt.” “Ở đâu?” “Ở trong nhà thờ này.” “Chỗ nào trong nhà thờ nào?” “Tôi ở ngay bên ngoài cung thánh gần máy điện thoại công cộng.” Ông trả lời, “Thật không thể tin được. Tôi vừa mới đến thăm nhà thờ đó sáng nay. Tôi đang ở dưới tầng hầm. Tôi sẽ lên đó ngay.” Ông bước lên cầu thang chỉ sau bốn năm giây đồng hồ. Ông hỏi, “Bà ấy đâu?” Tôi nói, “Kia, nằm ở đằng kia.” Ông chạy lại và bắt đầu nghe ngóng. Chúng tôi đưa Kimberly ra xe và chạy vội đến nhà thương Thánh Giuse. Kimberly được thoát chết cũng như tính mạng của em bé, và nhờ đó Hannad được chào đời.

Tôi cảm thấy rằng Chúa quá gần gũi với chúng tôi và với hôn nhân của chúng tôi mà dường như đang đổ vỡ. Tôi cầu nguyện, “Chúng con phải làm gì với đứa nhỏ này?” Ngay sau khi sinh Hannah, Kimberly đến với tôi và nói, “Em không biết rõ lý do, nhưng Thiên Chúa khiến em nghĩ rằng Hannah sẽ là một đứa con của sự hòa giải. Em không rõ điều đó có nghĩa gì.” Chúng tôi ôm nhau và cầu nguyện cho điều đó.

Sau khi Hannah chào đời, Kimberly đến với tôi. Cô nói, “Em không rõ lý do, nhưng em nghĩ  Thiên Chúa muốn em để Hannah rửa tội trong Giáo Hội Công Giáo.” Tôi nói, “Cái gì!” Cô ấy nói, “Em không rõ nhưng thật là như vậy.” Chúng tôi cùng tham dự nghi thức rửa tội. Đức Ông Bruskewitz, vị linh mục đã đưa tôi vào Công Giáo, thật là một người của Chúa. Giờ đây ngài là Đức Giám Mục ở Lincoln và ngài cử hành nghi thức quá tốt đẹp, tràn ngập truyền thống và Kinh Thánh, đến nỗi vào giữa nghi thức khi ngài đọc, “Allêluia, allêluia,” theo như kinh phụng vụ, Kimberly hầu như nhẩy nhổm lên và nói, “Allêluia! Ồ tôi xin lỗi.” Ngài trả lời, “Không sao, tôi cũng mong người Công Giáo làm như vậy; điều đó hay chứ.”

Một kết quả của việc cử hành nghi thức rửa tội là Kimberly sao chụp lại nghi thức và gửi cho gia đình, bạn hữu của cô. Nhưng cô ấy vẫn chưa sẵn sàng bước vào những tranh luận. Cô bắt đầu đọc và cầu nguyện. Càng ngày tôi càng cố gắng không can thiệp vào hành trình tâm linh của cô ta

CHUYẾN THĂM VATICAN Ở RÔMA

Tôi muốn đề cập đến một điều. Cha tôi trừ trần vào tháng Mười Hai vừa qua (1990), ông là người dạy tôi âu yếm gọi Thiên Chúa là “Cha.” Vào tháng Giêng, ông bố vợ mời tôi cùng với ông và nhóm của ông đến Vatican để được gặp riêng Đức Gioan Phaolô II,  nhóm này đang hoạt động chống với làn sóng đồi trụy khiêu dâm đang xâm nhập vào Đông Âu. Bố vợ tôi, một mục sư Presbyter, mời tôi gặp Đức Giáo Hoàng? Tôi nhận lời. Do đó tháng Giêng vừa qua, tôi không chỉ gặp Đức Giáo Hoàng trong một nhóm nhỏ, mà tôi còn được mời để tham dự Thánh Lễ của ngài trong nguyện đường riêng. Tôi chỉ cách ngài có vài bước và cảm được sự cầu nguyện của ngài. Bạn có thể nghe được lời cầu nguyện của ngài với đầu gục xuống trong đôi bàn tay, mang vác gánh nặng của Giáo Hội với tất cả tâm hồn.

Khi ngài công bố mầu nhiệm đức tin, tôi tự nhủ một quyết tâm, thực sự là hai: hàng ngày đi sâu vào Thánh Lễ hơn nữa và cầu cho Đức Giáo Hoàng trong công việc của ngài. Nhưng quyết tâm thứ hai là chia sẻ với anh chị em trong Đức Kitô về Đức Thánh Cha, và về phương cách mà Đức Kitô đã ban ơn cho chúng ta với một gia đình tuyệt vời, với Đức Trinh Nữ Maria sẽ trở nên Mẹ tinh thần chúng ta, với Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là người cha tinh thần dẫn dắt tất cả chúng ta đến sự thờ phượng Cha trên trời, với các thánh là anh chị chúng ta, để nhận biết chúng ta là gia đình của Thiên Chúa, nhưng trên hết mọi sự, qua Thánh Thể nhận biết chúng ta đang quy tụ chung quanh bàn tiệc như người nhà của Thiên Chúa, con cái của Người. Thật là một đặc ân chúng ta đang có; thật là một ơn phước mà Người đã trao ban!

PT TRẦN VĂN NHẬT chuyển dịch

Nguồn: www.nguoitinhuu.com)


“Vào thời cuối, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện các vị đại thánh trỗi vượt hơn các thánh trước kia” . “Các thánh này sẽ là những tướng tinh nhuệ  đương đầu chiến đấu với quân địch khắp nơi. Khí giới của các Ngài sẽ là lòng tôn sùng Mẹ Maria… các Ngài sẽ có thể “một tay tiêu diệt đối phương một tay kiến thiết thành trì” (Thánh Louis de Montfort, “Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria” Số 48.)

“Mọi xác phàm đều như cỏ dại,
vinh quang của nó như hoa cỏ ngoài đồng,
cỏ dại cháy khô, hoa thì tàn,
còn Lời Chúa tồn tại muôn đời.”

Anh chị Thụ & Mai gởi