Từ bỏ hoa hậu để trở thành nữ tu Dòng Kín tại Mêxicô

Từ bỏ hoa hậu để trở thành nữ tu Dòng Kín tại Mêxicô 

Esmeralda Solís Gonzáles là một cô gái Mễ Tây Cơ trẻ tuổi được giải nữ hoàng sắc đẹp ở thành phố quê mình, và giờ cô đã gia nhập Dòng Thừa Sai Thánh Thể Clare Khó Nghèo (Poor Clare Missionaries of the Blessed Sacrament).

Câu chuyện của cô tập sinh 23 tuổi này đang lan truyền chóng mặt trên mạng truyền thông xã hội, qua một bài post trên trang Facebook của Hoa hậu Mễ Tây Cơ.

Esmaralda sinh ngày 12-04-1997, trong một gia đình Công giáo tại Valle de Guadalupe, bang Jalisco. Cô hiện đang ở trong tu viện Dòng Thừa sai Thánh Thể Clare Khó nghèo ở Cuernavaca, bang Morelos, sau khi từ bỏ công việc nhà nghiên cứu dinh dưỡng.

Cô cho CNA biết, “Bạn thật sự chẳng biết đời sống tu trì là gì, cho đến khi bạn bước vào dòng. Đến giờ tôi có thể nhìn thế giới và những gì nó đem lại theo một phương diện khác. Tôi rất hạnh phúc vì mọi sự tôi có, nhưng nó không so sánh được với niềm hạnh phúc mà Chúa đặt trong lòng tôi lúc này đây.”

Cô tập sinh trẻ gặp các nữ tu Dòng Clare khoảng năm năm về trước, lúc mới14 tuổi, khi ý nghĩ sống đời tận hiến được đánh thức trong cô qua những ngày hội, và trại hè ơn gọi.

Và sau một tháng nhận định, vào tháng 3 năm 2017, cô đã lần đầu tiên nói lời “xin vâng” vào ngày lễ Truyền tin.

“Thời điểm thật hoàn hảo. Trong thời gian nhận định này, Ngài cho tôi những trải nghiệm như được làm nữ hoàng sắc đẹp, và nhiều trải nghiệm khác, ghi dấu sâu đậm và cho tôi thấy được nhiều điều về sau.”

Cô cho biết, cuộc khám phá ơn gọi như một “mũi gai nhỏ” trong đời cô.

“Tôi nhận ra rằng tôi phải để chỗ trong đời mình để biết Chúa dự định gì cho tôi. Trong tiến trình nhận định ơn gọi, có những nỗi sợ và hoài nghi, nhưng tình yêu mà Thiên Chúa tỏ bày với tôi mỗi ngày giúp tôi vượt qua bất kỳ cảm giác nản lòng nào.”

Esmeralda nói cô đã khám phá ra Chúa gọi cô phụng sự Ngài theo một cách triệt để, nghĩa là”biến đổi đời mình để mang thập giá Chúa Kitô và sống gần Chúa hơn.”

Cô nói, “Tôi mới bước vào đời sống tu trì, nhưng tôi thật sự rất hạnh phúc.”

Để khám phá ơn gọi của mình, Esmeralda đã dành nhiều thời gian cầu nguyện và làm việc bác ái, “từ thế giới hay cuộc sống bên ngoài mà nhận ra đời sống tu trì sẽ biến đổi gì cho tôi.”

Cô cũng thừa nhận, “Sự thay đổi này thật khó khăn cho gia đình tôi, bởi như thế là phải xa lìa, nhưng tôi luôn được sự ủng hộ của bố mẹ, anh chị em và những người bạn thật sự. Dù cho tôi có thể phát triển bản thân theo một cách khác, nhưng tôi cảm nhận rằng nếu Chúa cần tôi, thì tôi có thể sinh hoa trái theo một cách đặc biệt.”

Esmeralda có vài lời nhắn nhủ những người trẻ rằng, “trong bất kỳ ơn gọi nào, cũng sẽ thấy có khó khăn, nhưng nếu bạn tiến tới và nắm lấy tay Chúa, bạn sẽ luôn có thể bước một bước tiếp theo. Trong đời sống tu trì, mỗi ngày mới là một khởi đầu mới và cơ hội mới để mở mang Nước Trời. Điều này hệ tại ở nhiều hy sinh, nhưng luôn luôn có phần thưởng là sự hạnh phúc.”

Cô tập sinh trẻ cũng nói rằng “đúng là hiện thực và hạnh phúc mà thế giới trình ra cho bạn rất là hấp dẫn, nhưng cần phải hướng mắt về những gì vĩnh cửu. Không được sợ. Nếu Chúa gọi bạn, thì Ngài sẽ lo mọi sự. Bạn chỉ cầ đón nhận Ngài, với bình an, vui vẻ, và tự tin. Tôi tin rằng nỗi sợ là một lời bào chữa cho việc tránh né hạnh phúc thật mà chỉ có Chúa có thể đem lại.”

Dòng Thừa sai Thánh Thể Clare Khó nghèo là Dòng tu Giáo hoàng được chân phước María Inés Teresa Arias thành lập năm 1945 tại Cuernavaca, Mexico. Sứ mạng của dòng là khám bệnh, lo cho giới trẻ, giáo dục, linh thao, truyền giáo. Dòng đang hiện diện ở Mễ Tây Cơ, Costa Rica, Argentina, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Ý, Ireland, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia, Sierra Leone, Nigeria, Ấn Độ, và cả Việt Nam.

J.B. Thái Hòa chuyển dịch từ CNA

Nguồn tin: Phanxico

Anh chị Thụ & Mai gởi

Khám phá cuộc đời Mẹ Teresa, từ một nữ tu thành một vị Thánh

Khám phá cuộc đời Mẹ Teresa, từ một nữ tu thành một vị Thánh – ANSA

Đức Thánh Cha Phanxicô đã thông báo rằng Mẹ Têrêsa sẽ được phong thánh cùng với ba vị chân phước khác vào gần cuối năm nay sau khi các phép lạ được nhìn nhận nhờ lời chuyển cầu của các ngài.

Mẹ Têrêsa đã nổi tiếng khắp thế giới ngay khi mẹ còn sống, và cả cho đến ngày nay, hàng chục năm sau khi mẹ đã qua đời. Nhưng mẹ là ai? Và mẹ đã nên thánh thế nào?

Mẹ Têrêsa sinh ngày 26 tháng 09 năm 1910, với tên gọi Anjezë Gonxhe Bojaxhiu, trong một gia đình gốc Albania tại Skopje, một tỉnh thuộc đế quốc Ottoman lúc bấy giờ, ngày nay là thủ đô của nước Cộng hòa Macedonia . Ngay từ bé mẹ đã bị cuốn hút bởi tiểu sử của các vị thừa sai và bị thuyết phục sẽ dâng hiến đời mình cho sứ vụ thừa sai phục vụ Giáo Hội. Năm 1929 mẹ đã gia nhập dòng các nữ tu Loreto ở Ân độ với tên gọi Teresa và đã ở trong dòng này gần 20 năm, tham gia vào việc giảng dạy trong vùng Calcutta. Năm 1947 mẹ trở thành công dân Ấn độ.

Tuy vậy, cuộc đời mẹ đã thay đổi trong một chuyến xe lửa từ Calcutta đến Darjeeling vào năm 1946. Từ lâu mẹ đã quan tâm đến sự nghèo khổ cùng cực ở Calcutta. Lúc này, thình lình mẹ cảm thấy như được gọi để phục vụ những người nghèo nhất của những người nghèo và sống cùng với họ để chăm sóc họ. Để phục vụ cho mục đích này, sau khi được huấn luyện căn bản về y khoa, mẹ đã mở trường học đầu tiên của mẹ vào năm 1949. Một năm sau, mẹ được Vatican cho phép lập một dòng mới vơi tên gọi “các thừa sai bác ái”. Từ khởi đầu bé nhỏ như thế, các thừa sai bác ái đã phát triển thành một dòng với hơn 4000 nữ tu, điều hành và phục vụ trong các bệnh viện, nhà cư tru, trại mồ côi và trường học trên khắp thề giới.

Mẹ Teresa đã không sợ đặt mình trong những cách thức nguy hiểm để phục vụ những người xung quanh mình. Mẹ đã làm trung gian cho cuộc đình chiến tạm thời giữa quân đội Israel và các chiến binh Palestin trong cuộc bao vây Beirut vào năm 1982. Nhờ cuộc đình chiến  này mà 37 trẻ em đang ở trong các bệnh viện nằm trong làn tên lửa đạn được cứu sống. Mẹ được trao giải Nobel hòa bình vào năm 1979. Mẹ đã nhận giải thưởng nhưng đề nghị không tổ chức bữa tiệc mừng, thay vào đó số tiền sẽ được dùng để giúp nhũng người nghèo ở Calcutta.

Dù cho làm nhiều việc bác ái như thế, mẹ Teresa vẫn phải chiến đấu rất nhiều trong đời sống đức tin; mẹ cảm thấy như bị tách lìa khỏi Thiên Chúa và không thể tìm thấy Người trong cuốc sống. Những người tham gia vào việc cổ võ cho việc phong thánh cho mẹ đã so sánh cuộc chiến nội tâm này của mẹ, điều mẹ gọi là “đêm tối”, với tiếng kêu của Chúa Giê su trên thập giá “Lạy Chúa của con, Chúa của con, sao Ngài bỏ con?”

Ngay sau khi mẹ Têrêsa qua đời vào năm 1997, người ta đã bất đầu hồ sơ phong chân phước cho mẹ, điều mà lẽ ra chỉ được tiến hành 5 năm sau ngày qua đời. Chính Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chuẩn chước quy luật này và phong chân phước cho mẹ sau khi nhìn nhận phép lạ mẹ đã thực hiện để chũa lành một người đàn ông người Ấn độ bị ung thư.

Sau khi nhìn nhận sự khỏi bệnh kỳ diệu của một người Brazil bị ung thư nhiều bộ phận, nhờ lời cầu khẩn mẹ Têrêsa của cha sở của anh, Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ phong thánh cho mẹ vào ngày 4 tháng 9 năm nay(2016), là ngày kết thúc Năm thánh Lòng Thương xót cho những nhân viên và các thiện nguyện viên làm việc từ thiện. (RV 15/03/2016)

 Hồng Thủy OP.

From:  radio vatican

Ơn gọi của Tara Clemens, một luật sư trẻ, trở thành nữ tu dòng kín Đaminh.

Ơn gọi của Tara Clemens, một luật sư trẻ, trở thành nữ tu dòng kín Đaminh

danchuahiepthong

Ơn gọi của Tara Clemens, một luật sư trẻ, trở thành nữ tu dòng kín Đaminh Trong một thế giới mà ơn gọi tu trì ngày càng giảm sút, đời sống tu trì, đối với nhiều người, có vẻ buồn chán, khác người, cực khổ, đi ngược với mong ước sống tự do, hưởng thụ của thế giới hiện đại, thì vẫn luôn có những ơn gọi thật đẹp, là dấu chứng của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, là bằng chứng của sự tin yêu, đáp lại tiếng Chúa mời gọi, và cũng là chứng tá của những tấm lòng quảng đại, hy sinh, dưới mọi hình thức, để vun trồng ơn gọi tu trì.

Ơn gọi của Tara Clemens, hiện nay là sơ Maria Đaminh Nhập thể, cũng là một ơn gọi “khác người” nhưng thật đẹp; từ một luật sư trẻ, Clemens đã nghe theo tiếng Chúa gọi, tận hiến cho Ngài trong đời tu, và đặc biệt hơn nữa, cô đã chọn đời sống đan tu, chuyên lo việc chiêm niệm cầu nguyện.

Tara Clemens là một luật sư ở thành phố Anchorage, bang Alaska, Hoa kỳ. Clemens nguyên là một tín hữu Tin Lành, và chỉ vài tháng trước khi tốt nghiệp trường luật, cô đã gia nhập Giáo Hội Công Giáo.

Việc trở thành tín hữu Công Giáo xảy ra khá là bất ngờ với Clemens. Chỉ vài tháng trước khi tốt nghiệp đại học luật Lewis và Clark ở thành phố Portland, bang Oregon, Clemens đi cùng một người bạn, tham dự Thánh Lễ thứ sáu Mùa Chay, và ngày hôm đó. là môt bước ngoặt trong cuộc đời của cô: Clemens đã quyết định trở lại Công giáo.

Ba tháng sau đó, dù phải làm việc toàn thời gian, mỗi chiều tối, Clemens theo học về Công Giáo. Một ít tháng sau, vào dịp lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống năm 2007, Clemens hoàn toàn tin vào chân lý của Công Giáo. Clemens đã được gia nhập Giáo Hội Công Giáo vào dịp lễ Vọng Phục sinh năm 2008. Và vài tháng sau đó, dù chưa bao giờ có ý nghĩ sẽ trở thành nữ tu, cô luật sư trẻ Clemens đã đến thăm đan viện Thánh Thể. Clemens đã sống hai năm rưỡi tại đan viện, trước tiên là thỉnh sinh, và sau đó vào nhà tập. Ngày 28 tháng 5 vừa qua (năm 2017), Clemens được tuyên khấn lần đầu tại đan viện Thánh Thể của các nữ tu Đaminh ở Menlo Park, bang California, Hoa kỳ, với tên dòng là Maria Đaminh Nhập thể.

Ngày sơ Maria Đaminh được đội chiếc lúp đen trên đầu thay cho chiếc lúp trắng khi vào nhà Tập cách đây hơn một năm, vị linh mục chủ tế đã nói: “Hãy nhận lấy tấm lúp thánh này, qua đó con có thể được nhận ra như ngôi nhà cầu nguyện dành cho Chúa và đền thờ cầu nguyện cho mọi người”. Sơ Maria Đaminh ý thức được rằng trung tâm của đời sống chiêm niệm của các nữ đan sĩ Đaminh là tình yêu Chúa. Dù là một đan sĩ sống giam mình trong đan viện, không bao giờ đi ra ngoài, sơ vẫn có thể ôm trọn thế giới với tình yêu và cầu nguyện cho thế giới.

Được hỏi về việc trở thành một đan sĩ, sơ Maria Đaminh xác định: “Khi Thiên Chúa gọi chúng ta, Ngài rất kiên định”. Điều này được chứng thực trong hành trình ơn gọi của sơ Maria Đaminh.

Khi luật sư Clemens có ý định đi tu, nhưng vì số tiền hơn 100 ngàn đô la cô mượn để đi học quá lớn, và cô chưa thể thanh toán để vào nhà dòng, cô hầu như thất vọng trước khó khăn thách đố này. Chính khi đó, hội Laboure đã giúp cho Clemens giải quyết vấn đề nợ sinh viên để có thể đi tu. Laboure là một hội có trụ sở ở Minnesota, giúp đỡ cho những người có ơn gọi tu trì trả nợ, điều cản trở họ gia nhập đời tu. Hội Laboure mở một lớp khoảng từ 10 đến 25 người, những người tin là mình có ơn gọi, và tổ chức chiến dịch quyên góp giúp họ. Clemens tham dự chương trình này 2 năm.

Vào cuối khóa, cô tưởng rằng phải đợi thêm một năm nữa vì không nhận được đủ tiền quyên góp để trả nợ học. Nhưng rồi đã có hai vị ân nhân đóng góp số tiền lớn và Clemens đã được giúp trả nợ tiền học.

Như John Flanagan, giám đốc điều hành hội Laboure đã nói: “Tara Clemens đã không thực hiện hành trình ơn gọi một mình, nhưng nhiều người khắp nơi biết là họ đã làm điều gì đó để giúp Tara Clemens trở thành nữ tu Maria Đaminh”. Và ông nhận xét rằng: “Cô ta đã gập phải những khó khăn trên hành trình theo đuổi ơn gôi, nhưng cô đã đón nhận chúng với niềm tin tưởng lớn lao vào Thiên Chúa” (CNS 13/06/2017).

Hồng Thủy

Anh chị Thụ Mai gởi

HUYỀN THOẠI VỀ CHA BROCHERO, VỊ THÁNH TRÊN LƯNG LA.

HUYỀN THOẠI VỀ CHA BROCHERO, VỊ THÁNH TRÊN LƯNG LA.

Phan Sinh Trần

Thụ phong linh mục vào tháng 12 năm 1866, sau vài năm giảng dạy tại chủng viện, Cha Jose Garbriel Brochero được giao phụ trách giáo phận St. Albert rộng 200 cây số vuông, có 10.000 giáo dân, thuộc vùng núi cao, xa xôi cách trở, nước Á căn đình. Cha không chùn bước trước độ cao chớm chở, khoảng cách xa tít mù và thời tiết khắc nghiệt của địa phận nhà cho dù đó là gió, bão, tuyết vùi. Cha dong duổi khắp vùng bằng một con la, mang đến cho giáo dân các bí tích cần thiết, ngài luôn choàng áo khoác poncho và  đội mũ vành giống như các người chăn bò, cao bồi của xứ Á căn Đình.

Jose Gabriel del Rosario Brochero. Public Domain via Wikipedia.

Trên lưng la, ngài mang theo hình Đức Mẹ đồng trinh Maria, bộ dụng cụ cho thánh lễ, sách lễ, để sẵn sàng cử hành thánh lễ và trao ban các bí tích. Cha có cách nói giản dị đơn sơ làm cho giáo dân cảm được tình thương bao la vô bờ bến và như thấy được sự hiện diện mạnh mẽ của Chúa Giê Su trong cuộc đời, để rồi theo đó, họ cũng cảm thấy yêu mến Chúa giống như Cha Brochero. Ngài mang Chúa Giê Su đến cho mọi nhà, đã có hàng ngàn người từ bỏ sự độc ác, các thói xấu, thói hay cãi cọ để được trở thành con trai, con gái của Chúa, trở thành anh em với nhau.

Ngài còn thiết lập nhà tập cho những giáo dân của Ngài có cơ hội thực hành linh thao với quí cha Dòng Tên. Ngài cũng thành lập trường học cho các trẻ gái.Ngài giúp thiết lập các trạm thông tin, liên lạc bằng dây điện dẫn, Ngài tìm cách liên hệ để làm 125 dặm đường giao thông, tham gia việc thiết kế đường xe lửa cho vùng. Cha luôn quan tâm đến con chiên, với quyết tâm kiên định là ở gần đàn chiên của mình, bất kể đến một điều nào đó có thể xảy ra, cho dù có phải chịu thiệt thòi, tai hại hay nguy hiểm cho bản thân mình, ngài nói:

– Thật khốn nạn nếu Ma Quỉ cướp mất linh hồn con cái nào của tôi”

Cha Brochero luôn ở bên cạnh ngưởi nghèo khổ, bệnh tật. Ngài hy sinh, chăm sóc cho bệnh nhân bị dịch tả không chút lo sợ bị lây, trong nạn dich xảy ra vào năm 1867.

Cuối cùng, thì Ngài cũng bị lây bệnh ngặt nghèo, cha bị lây bệnh phong cùi vì thường xuyện lui tới để chăm sóc cho một bệnh nhân cùi vốn bị hắt hủi, bỏ rơi cô độc trong vùng, bệnh làm cho Ngài bị mù, điếc phải từ bỏ sứ vụ trong những năm cuối cuộc đời, ở nhờ trong nhà người chị ruột của Ngài cho đến chết. Ngài mất ngày 26 tháng Giêng năm 1914.

Ngài thầm thĩ thưa Chúa trước khi từ giã cõi đời:

– Giờ đây con có đủ mọi thứ sắp sẵn cho cuộc hành trình.

Vâng, Ngài có tình yêu thương, có đức Tin, có hoa trái phục vụ và các nhận đức kiên nhẫn chịu đựng, hy sinh khi mang vác thánh giá bịnh tật, thương tổn trong đời, tích góp làm thành nhiều món hành trang phong phú, đầy đủ, sắn sàng cho chuyến ra đi về nhà Cha Trời.  Đức Thánh Cha Francis phong thánh cho Cha Brochero vào tháng 9 năm 2013, Đức thánh Cha mô tả về Cha Brochero là “Vị mục tử ảm mùi của Chiên, trở nên nghèo khó trong đám dân nghèo” Quả thực là Ngài vẫn còn đang tiếp tục phục vụ các chiên nghèo, bệnh từ trên cao, trong số đó có thể kể đến hai điển hình sau 16 năm trước, bé Nicolas, mười một tháng tuổi, bị hôn mê trong một tai nạn xe cộ với ba lần tìm ngưng đập ở Bệnh Viện, Bé được lành mạnh sau khi Ba của bé xin Cha Brochero từ trời cao cầu bầu cho, Nay Nicolas là một thanh niên khỏe mạnh.

– Camila brusotti, lúc tám tuổi, bị hôn mê kéo dài một tháng trong bệnh viện, em bất tỉnh vì bị Dượng ghẻ và mẹ đánh, khi họ vào tù, còn lại bà Ngoại cầu nguyện với Cha Brochero và em được khỏi bệnh, khỏe mạnh đến nay là 4 năm rồi.

… Và Ngài đã chết vì mọi người, để ai sống thì đừng còn sống cho mình nữa, nhưng là cho Ðấng chết và sống lại vì họ!  (2Co rin to 5:15)

CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ ĐÃ CỨU TÔI!

CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ ĐÃ CỨU TÔI!

Chuyện thật của một người

Trần Mỹ Duyệt

          Tôi và anh quen nhau đã từ mấy chục năm rồi, và cả hai đã có một thời làm huynh trưởng trong Liên Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Nguồn Sống. Lòng nhiệt thành và hăng say với sinh hoạt Thiếu Nhi Thánh Thể của anh phải chăng phát xuất từ một niềm tin, hay đúng hơn là một “phép lạ” mà Chúa Giêsu Thánh Thể đã thực hiện để cứu anh.

     Câu chuyện này do chính anh kể, vừa kể vừa xúc động và vừa khóc nức nở. Anh đã cho phép tôi ghi lại câu chuyện này như một tâm tình tri ân, yêu mến đối với Chúa Giêsu Thánh Thể, và cũng như một thông điệp gửi cho những ai còn đang hồ nghi, hoặc không tin tưởng vào Phép Thánh Thể.

Hôm qua, sau thánh lễ sáng như thường lệ, anh cùng với tôi bước ra khỏi nhà thờ. Anh giơ tay bắt tay tôi, và như thường lệ chúng tôi vẫn trao cho nhau những câu chào hỏi xã giao. Nhưng hôm nay những câu xã giao không ngừng lại, và anh đã nói với tôi là anh muốn tôi dành cho anh ít phút để nghe anh kể một tâm sự.Tôi đồng ý, và câu chuyện được bắt đầu. Thoạt đầu anh hỏi tôi;

-Anh có tin là tôi được Chúa Giêsu Thánh Thể cứu không?

-Tôi tin là Chúa có thể cứu mọi người, nhưng trường hợp anh việc ấy xẩy ra như thế nào?

-Đây là một câu chuyện riêng tư mà nói ra không chắc mấy ai tin. Nhưng tôi muốn chia sẻ với anh hôm nay, để qua anh nhiều người cũng như tôi tin vào Chúa Giêsu Thánh Thể và được Chúa yêu thương, chở che, cứu giúp.

     Nói xong, anh bắt đầu kể lại câu chuyện thật đã xẩy ra đối với anh hơn 60 năm về trước:

-Anh biết không? Hồi còn nhỏ tôi là một thằng bé vô cùng bướng bỉnh, khó dậy, và phá phách làng xóm. Hôm ấy như thường lệ, tôi theo mọi người ra bãi bắt ngao. Thủy triều xuống phơi trắng bờ biển những con ngao tha hồ mà bắt. Tôi hăng say nhặt ngao bỏ đầy túi đựng. Không những thế, tôi muốn ra xa hơn ngoài cồn để bắt những con ngao to. Vì mải mê bắt ngao, và có lẽ vì sóng biển, gió biển lấn át khiến tôi không nghe được tiếng mọi người gọi để vào bờ vì đã đến lúc thủy triều lên.

Một mình tôi còn sót lại giữa cảnh trời nước bao la.Nước biển càng lúc càng dâng cao khiến tôi hoảng sợ.Tôi tìm một mỏn cao ở cồn cát đứng đó mà nước mắt chan hòa.Tôi bắt đầu sợ, vì nước biển đã dâng đến cổ tôi rồi. Điều đó có nghĩa là tôi sẽ bị dòng nước biển cuốn trôi trong tích tắc, vì chỗ tôi đang đứng xa bờ, mà tôi cũng không thể tự mình bơi vào bờ được!Tôi lo lắng, sợ sệt và bắt đầu hoảng loạn. Trong cơn nguy khốn ấy, trong đầu tôi bỗng lóe lên một lời nói của cha xứ đã dậy chúng tôi trong lúc học xưng tội rước lễ lần đầu. Ngài bảo chúng tôi: “Các con phải tin thật Chúa Giêsu hiện diện trong Phép Thánh Thể. Khi nào gặp sự gì nguy hiểm chúng con hãy cầu xin với Chúa.”

Thế là tôi ngửa mặt lên trời, không phải là cầu xin mà la to như vỡ lồng ngực:“Chúa Giêsu Thánh Thể ơi, xin cứu con. Con sắp chết đuối rồi!” Tôi vừa la, vừa khóc, vừa sợ!

Và như một phép lạ, tôi bỗng thấy trong bờ có bóng một người đang đi trên đó.Thế là tôi la, tôi hét để xin cứu tôi. Nhưng có lẽ tiếng sóng biển đã át tiếng la hét của tôi, và tôi đã cởi áo tôi ra, rồi phất qua, phất lại, miệng tiếp tục gào to: “Cứu tôi với! Cứu tôi với!”

Thật lạ lùng, người đó xem như đã nghe tiếng tôi và nhận ra tôi. Ông ta bơi ra chỗ tôi rồi đưa tôi vào bờ một cách an toàn. Xong chuyện ông ấy bỏ tôi lại trên bãi biển và đi mất để mặc tôi ngơ ngác không biết chuyện gì vừa xẩy ra cho mình.Vì vừa hoàn hồn sau cái chết hụt, tôi cũng chẳng để ý đến người ấy, và cũng không biết ông ấy đã khuất dạng lúc nào?Cho đến bây giờ  mỗi khi nhớ lại biến cố này, tôi cũng vẫn còn tự hỏi, ông ta là ai? Làm gì mà lại xuất hiện đúng nơi và đúng lúc tôi đang cần như vậy?!

    Trong lúc anh còn đang nghẹn ngào diễn tả giây phút được cứu sống trong gang tấc của anh, tôi nói với anh:

-Biết đâu chẳng phải là thiên thần bản mệnh của anh mà Chúa Giêsu Thánh Thể sai xuống cứu anh.

-Vâng, mà cũng biết đâu chẳng phải là chính Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở trong Nhà Tạm nhà thờ của tôi gần đấy đã đích thân cứu tôi.

-Và cũng có thể là một người nào đó vô tình đi ngang qua thấy anh và đã cứu anh?

 Rồi anh thêm:

-Nếu là Chúa Giêsu Thánh Thể hay thiên thần bản mệnh cứu tôi thì không nói gì, chứ như một người thường thì phải là người có tài bơi lội thật giỏi mới cứu được tôi.

     Nghe anh kể đến phần kết câu chuyện, chúng tôi đã có cùng một cảm nhận rằng: Nếu Chúa hiện thân hay thiên thần bản mạnh hiện thân để cứu anh thì không có gì để phải hồ nghi. Bởi Chúa có thể làm được mọi sự.Ngài cũng có thể đã ra lệnh cho thiên thần bản mệnh anh cứu anh.Nhưng nếu một ai đó đi trên bãi biển lúc bấy giờ thì người đó cũng phải là do Chúa Giêsu Thánh Thể sai đến. Bởi vì trong lúc nguy nan, chính anh đã kêu xin Ngài.

    Tôi đã đọc nhiều câu chuyện phép lạ về Phép Thánh Thể, và tôi cũng suy niệm nhiều trước Nhà Tạm, nhưng hôm nay khi nghe bạn tôi kể về trường hợp mà nó đã xẩy ra cho chính anh, trực tiếp liên quan đến Chúa Giêsu Thánh Thể, tôi bỗng thấy mình được tăng thêm đức tin. Tôi nhớ lại lời Thánh Tôma Tiến Sỹ trong khi suy niệm về Thánh Thể. Ngài viết: “Ta hãy lấy Đức Tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì!”.

     Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con tin, con thờ lậy, con yêu mến Chúa. Chỉ vì yêu thương nhân loại, yêu thương con mà Chúa đã tự hạ ẩn thân trong tấm bánh nhỏ bé để làm của ănnuôi hồn chúng con, và để ở với chúng con, để thương yêu, bao bọc chúng con như chính Chúa đã nói: “Thầy ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế!” (Mat 28:20)

   Câu chuyện của người bạn con hôm nay khiến con xác tín một lần nữa rằng qua Bí Tích Thánh Thể, Chúa vẫn ở trong con, ở với con, và đồng hành cùng con trong mọi ngày trên hành trình cuộc sống.

Lễ Minh Máu Thánh Chúa

18 tháng 6 năm 2017

KimBằngNguyễn gởi 

Chuyện đời Nữ Tu Sĩ từng là Ngôi Sao Điện Ảnh

Chuyện đời Nữ Tu Sĩ  từng là Ngôi Sao Điện Ảnh 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Một Nữ Tu sĩ sống ẩn dật, lánh đời suốt 50 năm, vừa tâm sự chuyện đời khiến dư luận sửng sốt.

Không ai có thể ngờ rằng một Nữ Tu Sĩ đã sống ẩn dật lánh đời suốt gần 50 năm lại từng là Ngôi sao Điện ảnh đang lên ở Hollywood, từng đóng cặp rất tình tứ với “Ông Hoàng Rock & Roll” Elvis Presley trên màn ảnh.

Nữ Tu sĩ Dolores Hart ở Tu viện Regina Laudis, thuộc Thị trấn Bethlehem, Bang Connecticut – USA.
Câu chuyện về một thời tuổi trẻ của Nữ tu sĩ Dolores Hart đã khiến nhiều người thấy bất ngờ thú vị, rằng trước đây Bà từng là một Ngôi sao Điện ảnh đang lên ở Hollywood, nhưng vào năm 1963, Bà đã quyết định rời xa Hollywood để trở thành một Nữ Tu sĩ.

 

 

 

 

 

 

 

 

Nữ tu Dolores Hart đã quyết định chia sẻ câu chuyện đời mình, nhằm mục đích thu hút sự chú ý của Công chúng đối với chiến dịch gây Quỹ sửa chữa Tu viện đang ngày càng xuống cấp, nơi Bà và 40 Nữ tu khác đã gắn bó gần suốt cuộc đời.


 

 

 

 

 

 

 

 

Dolores Hart (thời trẻ) và “Ông Hoàng Rock & Roll” Elvis Presley, từng cùng xuất hiện trong hai Bộ phim được thực hiện hồi Thập niên 1950-1960.


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bà Dolores (76 tuổi) lần đầu tiên chia sẻ về “một thời quá khứ huy hoàng” của mình hồi năm 2011 – khi Bà và 40 nữ Tu sĩ khác trong Tu viện đang phải đối diện với nguy cơ mái nhà chung của Họ có thể sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn vì xuống cấp, mà Tu viện không có kinh phí sửa chữa.

Các Nữ Tu đã cùng nhau nghĩ cách làm sao để có thể cứu Tu viện. Bà Dolores đã nảy ra sáng kiến viết Tiểu sử kể về những bí mật thú vị trong cuộc đời mình. Cuốn sách đã tạo được hiệu ứng tốt. Sau đó, Bà còn được mời xuất hiện trong những cuộc Diễn thuyết và trò chuyện trên Truyền Hình.

 

 

 

 

 

 

Hồi năm 2012, lần đầu tiên sau gần 5 Thập kỷ, Bà trở lại Hollywood để tham dự Lễ trao giải Oscar khi Bộ phim Tài liệu ngắn làm về cuộc đời Bà – “God is the Bigger Elvis” nhận được đề cử.


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Sau tất cả, đối với Bà Dolores, phần thưởng lớn nhất mà Bà nhận được chính là Tu viện đã có đủ kinh phí để sửa chữa.


  

 

Ngay sau khi cuốn Tiểu sử của Bà ra mắt Độc giả, Tu viện bắt đầu nhận được thư và tiền quyền góp gửi về. “Những người hâm mộ Elvis Presley đã rất quan tâm và gửi tiền quyên góp về cho chúng tôi” – Bà Dolores cho biết.

Tính đến thời điểm hiện tại, Tu viện đã có được 3 triệu đô la (65 tỉ đồng) để tu sửa. Những gì nhận được đã vượt xa mong mỏi của các Nữ Tu ở Tu viện Regina Laudis.

 

 

 

 

 

 

 

 

Dolores Hart và Elvis Presley trong phim “Loving You”. Nữ Diễn viên trẻ xinh đẹp vào vai người yêu của chàng Ca sĩ.

 

 

 

 

 

 

Trong phim, nữ Diễn viên Dolores Hart đã có nhiều cảnh tình tự với nam Ca sĩ Elvis Presley. Chính điều này đã thu hút sự quan tâm của Công chúng, một phần vì sức hấp dẫn của Elvis Presley, một phần vì hình ảnh trái ngược của một Nữ Tu sĩ trong những năm tháng Tuổi trẻ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Sau bộ phim đầu tiên đóng cặp với Elvis – “King Creole”, nữ Diễn viên Dolores Hart bắt đầu được biết tới và còn xuất hiện trong vài Bộ phim nữa, trong đó có “Loving You”, diễn cặp trở lại với Elvis Presley.

Where the Boys Are (1960) Directed by Henry Levin Shown: George Hamilton, Dolores Hart

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trong bức ảnh này, Dolores Hart xuất hiện bên nam Diễn viên George Hamilton trong phim “Where The Boys Are” (1960).


 

 

 

 

 

 

 

Dolores Hart đang trên đà trở thành một Ngôi sao Điện Ảnh thì quyết định chuyển hướng để trở thành một Nữ Tu sĩ. Trong ảnh, Dolores đang xuất hiện bên nam Diễn viên John Saxon và Nhà đầu tư Điện ảnh Serge Semenenko.

Bà Trưởng Tu viện – Nữ Tu sĩ Lucia Kuppens cho biết việc kêu gọi sự giúp đỡ từ bên ngoài vốn là việc rất khó khăn với các Nữ Tu, bởi họ đã quen với cuộc sống ẩn dật, tu kín, việc ra ngoài gặp gỡ mọi người để mong nhận được sự giúp đỡ là cả một thách thức. Giải pháp mà Nữ tu Dolores Hart thực hiện đã giúp Tu viện thoát khỏi cảnh hiểm nghèo.

Giờ đây, khi được Công chúng biết đến nhiều hơn, các Nữ Tu sĩ bắt đầu thực hiện những món đồ thủ công, đồ gốm, đồ thêu, ghi âm những bản Thánh ca … nhằm giúp tăng thêm nguồn thu cho Tu Viện.


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tu viện Regina Laudis giờ đây đã thoát khỏi nguy cơ bị đóng cửa vì xuống cấp

 

 

 

 

 

 

 

Nữ Tu sĩ Dolores của thời hiện tại


 

 

 

 

 

 

Cuộc sống thường ngày bên trong Tu viện

 

 

 

 

 

 

 

Một buổi cầu kinh chiều tại Tu viện Regina Laudis

 

 

 

 

 

 

 

Nữ tu Dolores cầu nguyện 7 lần một ngày tại Tu viện. Bà đã gắn bó với nơi này kể từ năm 25 tuổi. 

 

Toàn cảnh Tu Viện Regina Laudis

 Bên trong Nhà Thờ Tu Viện

 

 

 

 

 

 

 

 

Chăn nuôi gia súc 

 Các Nữ Tu trong giờ lao động

Bà Cố có 4 người con là Linh Mục

Bà Cố có 4 người con là Linh Mục

Bà Cố có 4 người con là Linh Mục

Bà Cố có 4 người con là Linh Mục
Gia đình có một người con tận hiến đời mình cho Chúa đã là quý, đàng này … gia đình có 7 mà lại hiến dâng đến 5. Phải chăng đó là quà tặng, là ân huệ lớn lao mà Thiên Chúa ban cho gia đình ông bà cố Liêm – Mẫn.
 
Thiên Chúa vẽ đường thẳng bằng compa để rồi mối tình giữa chàng lính nhà quan gốc Huế lại gặp cô thôn nữ hiền lành đạo đức ở mảnh đất Quảng Ngãi dấu yêu.
 

Bà Cố có 4 người con là Linh Mục

          Sinh ra trong gia đình quan Pháp làm về ngành đường sắt cũng có vai vế trong xã hội thời bấy giờ và vì công việc nên gia đình của anh chàng Phêrô Trương Đình Mẫn (sinh năm 1920) tiến vào Quãng Ngãi. Chả hiểu sao nơi mảnh đất Quảng Ngãi lại se duyên cho chị Matta Nguyễn Thị Liêm (sinh năm 1921). Ơn Chúa đã kết nối hai anh chị và rồi hoa quả sinh ra cho gia đình hai họ Trương – Nguyễn được tất cả 7 người con.

          Như đã nói, nghèo nhưng sạch, rách nhưng thơm và nhất là thụ hưởng từ truyền thống đạo đức gia đình để rồi sau khi lập gia đình, cô nàng Liêm thời bấy giờ vẫn chu toàn bổn phận của một người vợ, một người mẹ và thêm vào đó trọng trách của người nấu cơm cho cha Xứ họ Trà Câu. Lối sống đạo đức cứ ảnh hưởng và ăn dần vào đời sống của những đứa con tự khi nào không biết để rồi người con cả là nữ tu Matta Nguyễn Thị Đức tận hiến đời mình trong dòng Mến Thánh Giá Quy Nhơn.

“Chị mình đi tu chả lẽ mình không tu sao ?” Thế là Phêrô Trương Đình Tu và Giuse Trương Đình Hiền ngày ấy là hai cậu Lễ sinh của họ đạo Trà Câu – Đức Phổ (Quảng Ngãi) đã đi tu và sống thật hiền lành với 2 cái tên mà cha mẹ của 2 cậu đặt cho. Tu và Hiền đã vào Chủng Viện Quy Nhơn tu và sống thật hiền cho đến ngày nay dẫu đảm trách chức vụ chánh xứ, quản hạt và như cha Hiền hiện nay là Tổng Đại Diện giáo phận Quy Nhơn. Ai nào đó tiếp xúc với Cha Hiền sẽ nhận ra đúng là hiền với cái tên mà ông bà cố đã chọn.
 

a

Hai người anh đi tu làm cho hai người em cũng tò mò theo tới.

Người em út G.B. Trương Đình Hà năm nay cũng đã ngót nghét 57 tuổi đang làm chính xứ Thủ Lựu của giáo phận Bà Rịa thân thương. Trên cha Hà là người anh trầm tính nhưng không kém phần hài hước là Tôma Trương Đình Sơn.

Ai nào đó đã gặp Cha Sơn ắt hẳn sẽ được nghe nhiều câu chuyện tục nhưng lại thanh để góp vui cho đời. Chắc có lẽ Cha Trương Đình Sơn nhiễm máu của Cha già cố Giuse Trần Hữu Thanh (DCCT – đã về nhà Cha năm 2007 tại DCCT Thái Hà) để rồi thu thập những câu chuyện hài gửi gấm góp chút niềm vui.

Có lẽ, nếu nhắc đến Cha Toma Sơn mà không nhắc đến hành trình gần 10 năm dấn thân truyền giáo ở mảnh đất đầy gian khó Haiti.  

Sinh năm 1959, học đến lớp 6 trường làng, chú Tôma khăn gói quả mướp tìm hiểu ơn gọi tại DCCT Huế những năm 1970. Mùa hè đổ lửa 1972 đã đưa chú Sơn vào DCCT Thủ Đức cho đến ngày mất nhà mất đất.

Đường tu dù dài dù khó nhưng chú Sơn vẫn tiếp tục theo học Đại Học Sư Phạm ngành Pháp văn và vẫn giữ vững đường tu. Sau những năm tháng khó khăn, chú Sơn về giúp giáo xứ Xuân Thịnh (Vườn Ngô) những 5 năm. Thời điểm này, Cha Sơn cũng đã hướng dẫn, đào tạo nhiều ơn gọi và nay có một mầm ơn gọi đã trổ hoa là Cha Giêrônimô Nguyễn Đình Thuật đang phục vụ cho anh chị em thiểu số ở Hà Bầu – Gia Lai.
 

a

10 năm âm thầm sống ở Phú Dòng, sau đó lãnh sứ vụ linh mục và lên đường truyền giáo. Sau những ngày tháng bôn ba giữa những khó khăn của cuộc sống, hiện tại Cha Tôma sống đời mục tử nhỏ bé âm thầm bằng cách giúp các xóm giáo mà Nhà Dòng coi sóc ở Kỳ Đồng.

Phần ông bà cố, sau những năm tháng chiến tranh khốc liệt, ông bà dắt díu nhau tạm cư ở vùng Bàu Cá Trảng Bom.

5 người dấn thân vào đời sống ơn gọi, có một người con gái là chị Mađalêna Trương Thị Như lập gia đình và chị có 7 người con.

Nếu như kể về gia đình đặc biệt này ngoài người đặc biệt là ông bà cố và 5 người con đi tu và chị Như mà không kể đến chị Trương Thị Trinh quả là điều thiếu sót thật lớn. Giản đơn là chị Trinh vì chữ hiếu, vì cha mẹ và vì các chị và em nên chị sống như vậy cho đến bây giờ để thay mặt những người đi tu lo cho cha mẹ già.

Ai ai cũng biết rằng nuôi người già chả khác gì nuôi một đứa trẻ lên 5 lên 3. Cái tuổi già là cái tuổi cực chướng của cuộc đời. Có khi cho ăn rồi lại đi rêu rao rằng bị bỏ đói, có khi thuốc uống mấy cử nhưng cứ bảo “chúng nó quên tui rồi”. Và như vậy, để chăm bẵm cho những “em bé có quyền đòi hỏi” quả thật là điều nan giải.

Kinh nghiệm trong gia đình ai ai cũng biết những “em bé có quyền đòi hỏi” này khó tính như thế nào. Thà chăm trẻ con thì mình còn có quyền trên nó nhưng chăm cha mẹ già thì mình vừa chăm, vừa cực nhưng lại hoàn toàn bị tước quyền công dân trước những vị này. Chính vì thế, chị Trinh, có lẽ là người được Giáo Hội ghi công và nhắc đến vì sự hy sinh rất lớn của chị.
 

ơn gọi

Trước ánh sáng lấp lánh của một chị phụ trách cộng đoàn như chị nữ tu Matta Nguyễn Thị Đức hay rực rỡ trong những ngày kỷ niệm Ngân Khánh – Kim Khánh thì lại lóe lên hình ảnh của người em tên Trinh thay chị lo cho cha mẹ già.

Trước vẻ đẹp lung linh của 4 anh em làm linh mục và có cha Hiền làm Tổng Đại Diện của một giáo phận thì đàng sau đó lại lóe lên hình ảnh của người chị gái tần tảo lo cho cha mẹ già.

Chúa gọi ông Cố về với Chúa năm 1998 khi ông Cố thọ 78 tuổi. Và, bà Cố may mắn hơn ông, phần phúc hơn ông là hiện giờ Bà còn minh mẫn ở cái tuổi mà khối kẻ mong, vạn người muốn là gần 100 tuổi mà vẫn nhìn thấy con mình sống trọn vẹn trong đời tận hiến.
Ta hãy cùng tạ ơn Chúa với gia đình ông bà cố Mẫn – Liêm, với 5 anh chị em của gia đình này và với nhiều gia đình khác nữa đã tận tình và hết lòng dâng hiến cho Chúa 4, 3, 2 người con. Và đặc biệt, có cả gia đình hiện ở giáo xứ Dốc Mơ dâng cho Chúa 2 người con trai trong một hội dòng và coi như chả có kẻ nối dõi tông đường. Những tấm lòng tận hiến như vậy quả là hoa quả tuyệt vời dâng lên cùng Chúa. | Báo Công Giáo

Xin Chúa gìn giữ bà Cố Liêm, quý ông bà cố, quý gia đình đã quảng đại dâng cho Chúa những người con để phục vụ trong cánh đồng truyền giáo. Xin Chúa cho Hội Thánh ngày càng có thêm nhiều thợ gặt để gặt lúa về như lòng Chúa mong muốn.

Người Giồng Trôm

Cứ Xin Thì Sẽ Được, Cứ Tìm Thì Sẽ Thấy, Cứ Gõ Thì Cửa Sẽ Mở!

Cứ Xin Thì Sẽ Được, Cứ Tìm Thì Sẽ Thấy, Cứ Gõ Thì Cửa Sẽ Mở!

  • Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

… Joseph là thanh niên bất toại, tuổi hơn 30. Anh đi bằng hai đầu gối và rất nghèo. Tuy Joseph nghèo của cải nhưng không nghèo niềm tin, lòng hy vọng và nhất là tình yêu thương. Niềm hạnh phúc duy nhất và tràn trề của anh là dành trọn thời giờ để giúp đỡ tha nhân.

Joseph sinh trưởng trong gia đình ở làng nhỏ tại Auvergne (Trung Pháp). Tuổi thơ Joseph trôi qua trong bình lặng nơi khung cảnh gia đình nghèo. Sau khi học xong tiểu học, cậu bé bắt đầu làm việc giúp đỡ cha mẹ.

Không bao lâu sau cảnh thiếu ăn gây ảnh hưởng mạnh trên thân xác gầy còm của cậu bé. Joseph mất dần sức mạnh nơi hai cánh tay: không cầm nổi các vật dụng để làm việc. Cậu cũng không đứng vững nữa. Đến năm 20 tuổi thì Joseph hoàn toàn không sử dụng được đôi chân. Chàng phải bò lết hoặc đi bằng hai đầu gối.

Tàn tật vào lúc 20 tuổi, quả là thử thách nặng nề! Joseph cảm thấy đau đớn khi phải sống nương tựa vào gia đình, trong khi gia đình lại nghèo thật nghèo, cần chàng giúp đỡ một tay. May mắn Joseph là tín hữu Công Giáo nhiệt thành. Chàng sống thật niềm tin của mình. Chàng đặt trọn cuộc đời trong bàn tay Quan Phòng của THIÊN CHÚA. Thêm vào đó, Joseph rất có lòng sùng kính Đức Mẹ MARIA. Và đây là phương thuốc hiệu nghiệm cứu chàng thoát mọi chán nản thất vọng. Chàng lần hột Mân Côi hàng ngày và tìm cách giúp đỡ tha nhân thay vì sống co rút vào nỗi khổ vào cái bất hạnh của chính mình. Chàng cố gắng làm những gì có thể hầu giúp người khác và đỡ gánh nặng cho gia đình. Chàng tự sáng chế hai ống gỗ bao đầu gối và dùng đầu gối đi lại. Nhiều khi chàng đi bằng đầu gối những quãng đường dài đến 8 hay 10 cây số.

Sau đó, chàng ghi tên làm người canh gác đền thờ Đức Mẹ Orcival. Nhờ công việc này, Joseph nhận rất nhiều an ủi. Nhất là chàng hãnh diện vì được phục vụ Đức Trinh Nữ MARIA, Hiền Mẫu thiên quốc. Đền thánh này hàng năm có nhiều tín hữu hành hương đến khẩn cầu cùng Đức Mẹ MARIA. Nhưng rồi dần dần có người đến gặp Joseph, nhờ anh an ủi hoặc chỉ dạy nhiều điều họ cần biết.

Để giúp đỡ tha nhân cách đắc lực hơn, Joseph dọn đến ở với anh rể và xin đặt điện thoại riêng cho mình. Như thế, anh có thể liên lạc thẳng với các bàn giấy, dịch vụ chuyên môn hầu chỉ dẫn lại cho người khác. Anh nghiên cứu kỹ lưỡng các vấn đề liên quan đến trợ cấp xã hội, bảo hiểm v.v. Anh trở thành nhân vật quan trọng. Mỗi ngày, số người đến gặp anh đông hơn đến gặp ông trưởng phòng tòa thị trưởng thành phố.

Anh lắng nghe tâm sự, khó khăn của người khác, rồi anh tìm cách khuyên lơn, an ủi, khiến ai ai cũng cảm thấy thỏa lòng mát dạ. Tất cả những gì người ta mang đến dâng biếu, cảm tạ anh, anh phân phát lại cho người nghèo. Nhưng thường thì anh tiếp khách vào ban chiều, và đôi khi kéo dài đến nửa đêm hoặc hai giờ sáng. Nếu có ai tỏ dấu lo ngại cho sức khỏe, anh chỉ mỉm cười trả lời:

– Nếu như đó là tiếng Chúa gọi tôi thì sao?

Kinh nguyện và nhất là lòng sùng kính Đức Mẹ MARIA gìn giữ bảo trợ Joseph luôn luôn trong trạng thái vui vẻ và tin tưởng phó thác. Anh thật hạnh phúc. Và niềm hạnh phúc này anh thông truyền sang những ai có dịp tiếp xúc, tỏ bày tâm sự với anh. Anh giải thích lý do niềm vui nội tâm sâu xa:

– Không biết tôi sẽ ra sao, nếu tôi không bị tàn tật? Quả thật tàn tật trở thành kho tàng, suối nguồn hạnh phúc. Không bị tàn tật, có lẽ tôi sẽ khốn khổ. Trong khi nhờ tàn tật tôi sống tình trạng nghèo khó, thiếu thốn nhưng bù lại, tôi hạnh phúc và có thể trao hạnh phúc cho người khác.

… “Thế nên Thầy bảo anh em: Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi CHA trên Trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”(Luca 11,9-13).

(Albert Pfleger, “FIORETTI de la Vierge Marie”, Mambre Editeur-Diffuseur, 1990, trang 92-94)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt,

NGÔI SAO TRUYỀN THÔNG, LINH MỤC CA NHẠC SĨ, MARCELO ROSSI ĐÃ NHẬN LÃNH GIẢI THƯỞNG “HỒNG Y NGUYỄN VĂN THUẬN” .

NGÔI SAO TRUYỀN THÔNG, LINH MỤC CA NHẠC SĨ, MARCELO ROSSI ĐÃ NHẬN LÃNH GIẢI THƯỞNG “HỒNG Y NGUYỄN VĂN THUẬN” .

Tổng Hợp Báo Chí

Tác giả: Phan Sinh Trần

 

Là một linh mục, tuy nhiên cha Marcelo Rossi lại trở thành một ngôi sao sáng, một hiện tượng nổi bật trên các phuong tiện truyền thông đại chúng vào cuối những năm 1990. Là nghệ sĩ Ki tô giáo lớn nhất ỏ Châu Mỹ La tinh, Cha đã có trên 11 triệu album nhạc bán ra tính đến thời điểm này. Marcelo Rossi được biết nhiều bởi các nhạc điệu nhẹ nhàng, thanh thoát, vui tươi của Ngài, trình bày trong các dĩa nhạc, CD, DVD. Ngài thường xuyên xuất hiện trên các chương trình TV phát đều đặn nhiều buổi khác nhau trong các ngày cuối tuần, chương trình trên radio có tới 3 triệu người lắng nghe hàng ngày, một con số mà hiệp hội ký giả truyền thanh Brazil phải công nhận là điều kỳ diệu.

Ngài đã phát hành 27 dĩa album nhạc kể từ năm 1997.

Năm 2003, Cha Marcelo làm phim đầu tay “Maria, Mẹ Thiên Chúa”, bộ phim gây bão tố trong các rạp chiếu phim ở Brazil, đứng hạng thứ bẩy về doanh thu trong các rạp. Các Film sau đó cũng gây được nhiều chú ý, thành công về doanh số.

Năm 2006 được đánh dấu bằng dĩa nhạc “Ơn phúc của tôi – Minha Bencao” phát hành bởi hãng Sony BMG, là dĩa nhạc bán chạy nhất trong hai năm liền (dĩa kim cương), đến năm 2008, Cha phát hành các dĩa hát “Hòa Bình vâng – Paz Sim”, đứng hạng nhì, dĩa “Nói không với Bạo lực -Violencia Nao” hạng sáu về doanh số bán (dĩa bạch kim).

Linh mục Rossi, tuy có doanh số dĩa hát, phim ảnh, sách viết bán chạy hạng nhất ở Ba Tây và các nơi khác, trị giá hàng mấy chục triệu mỹ kim nhưng ngài lại sống rất đơn sơ và nghèo khó về tiện nghi vật chất. Cha thường xuất hiện trên sân khấu trong chiếc áo dòng cũ hơi bạc màu.Toàn bộ số tiền thu được đều dành cho việc xây dựng nhà Chúa, đóng góp cho quỹ truyền thông Tin Mừng và trao tặng cho người nghèo.

Xuất xứ từ thành phố Sao Paolo, nơi Ngài được sinh ra trong một gia đình Công Giáo trung lưu, cha Ngài ông Antonio Rossi, làm việc nhiều năm trong cương vị quản lý ngân hàng, mẹ, bà Wilma nội trợ. Được cha mẹ nuôi nấng tốt nhưng đến năm 16 tuổi, bị khủng hoảng đức tin, anh Marcelo quyết định không đi nhà thờ nữa, đến năm 22 tuổi, tốt nghiệp nghành giáo dục thể lý tại đại học Sao Paolo. Cùng khoảng thời gian đó, anh Rossi rất đau buồn vì hai biến cố lớn xảy ra dồn dập trong đời mình, anh mất người anh em họ trong một vụ tai nạn xe hơi rồi tiếp đến, người cô quí mến nhận được kết quả xét nghiệm với bịnh ung thư bưới ở đầu. Hai thảm kịch gia đình làm cho Marcelo quá đau xót và thương tổn nhiều, nhưng biến cố đó lại đem anh đến, kết hiệp với  Chúa, anh quay về với Hội Thánh nhờ liên hệ, sinh hoạt với một nhóm cầu nguyện Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo nọ, tiếp tục lớn lên trong ơn sủng, Marcelo bắt đầu tham gia sinh hoạt trong giáo xứ, một năm sau đó, hứng khởi bởi loạt phim truyền hình về cuộc đời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolo đệ nhị, anh quyết định dâng hiến cuộc đời cho Chúa,  tu học tại phân khoa tâm lý học ở đại học Nossa Senhora da Assunção và thần học ở đại học Salesiana de Lorena. Cha được thụ phong vào ngày 1 tháng 12 năm 1994. Cha kể:

–          Khi tôi tái khám phá Đức Tin thì Giáo Hội (Brazil) đang chìm đắm trong các vấn đề chính trị, bởi vì ảnh hưởng của Thần Học Tự Do, dạng thần học chắc chắn đã có vai trò tích cực trong thể chế độc tài, và cũng để lại khoảng trống tâm linh cho tín hữu. Đó là lúc tôi bị mất người em họ, và tôi liền đi tìm Lời Chúa để giải thoát, nhưng khi tôi đến nhà thờ thì lại phải nghe họ nói  về chính trị. Từ lúc này, tôi nhận biết ra mình phải làm gì, nghĩa là trở về với điều thiết yếu, trở về với cội nguồn của sự tốt lành, trở về với Tin Mừng đồng thời công bố Tin Mừng bằng các phương tiện truyền thông, cá biệt là âm nhạc, sợi dây dẫn truyền tốt nhất và rộng rãi nhất trong việc chia sẻ tình cảm, ngôn từ trong đời sống hàng ngày của người dân. Sử dụng âm nhạc để đáp ứng cho sự khát khao được biết Chúa, đánh thức tình yêu dành cho Hội Thánh, cho Mẹ Maria, sự sốt mến  Bí Tích Thánh Thể, tình yêu này vốn đã bị bào mòn vì sự truyền bá của các nhóm Tin Lành Ngũ Tuần và các hệ phái khác.

 

Cha trẻ Marcelo bắt đầu tăng tiến và nhiệt thành trong việc rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, như người thợ gặt cần mẫn, Cha thu hoạch được rất nhiều hoa trái đức tin, có đông những đoàn người đổ về để tham dự thánh lễ do Ngài dâng tại giáo xứ Thánh Rosalia, vùng Santo Amaro, Sao Paolo. Càng ngày con số tham dự thánh lễ càng đông, lên đến số chục ngàn, việc phụng vụ thánh lễ được dời đến và cử hành ở những chỗ có sức chứa càng lớn hơn, cứ thế giáo dân tham dự đông đúc, tăng trưởng lên, cho đến khi Ngài phải sử dụng đại lộ Liên Hiệp Quốc ở thủ đô, và ngay cả đến các sân vận động như Maracana (sân vận động có sức chứa gần 200 ngàn người, lớn nhất thế giới).

hoặc sân Morumbi (72.000 chỗ ngồi),  như là quảng trường tập họp cho các thánh lễ Misa của Ngài vốn là cao điểm của các kỳ tĩnh tâm, hội thảo truyền giảng Tin Mừng và ca ngợi Chúa. Năm 1999, đoàn đoàn, lớp lớp tín hữu cùng nhau đi tham dự buổi tập họp thờ phượng, ca ngợi có tên là “Tưởng nhớ thì có, buồn bã thì không”, con số tham dự lên đến sáu trăm ngàn người.

Năm 2011 Cha Rossi khánh thành thánh đường ở vùng ngoại ô thành phố Sao Paolo, là trung tâm thờ phượng lớn nhất Châu Mỹ La tinh. Nhà thờ chứa được 100.000 người, bao gồm 25.000 chỗ bên trong mái thượng, 75.000 chỗ bên ngoài trong một khuôn viên rộng 30 mẫu tây.

         

        

Ø  Điều gì đã khiến giáo dân tuôn đến các buổi thờ phượng và thánh lễ do cha chủ xướng. Đó là sự phấn khởi và vui thích khi mọi người có dịp “nói yêu” Chúa bằng hết con tim trong các Bài hát Tôn Vinh Chúa, có dịp đắm chìm trong tình sốt mến nồng nàn dành cho Bí tich Thánh Thể, và sự an hòa trong tình con thảo dành cho Mẹ Maria. Họ đến và nhìn xem sự đơn sơ và thánh thiện toát ra trên khuôn mặt và đời sống của Cha. Giống như đặc điểm của các buổi thờ phượng Canh Tân Đặc Sủng, tinh thần vui tươi, đơn sơ, thánh thiện bao trùm trong các buổi lễ, trong giờ chầu Thánh Thể.

            Bạn có thể cùng tham dự ở đây:

               https://www.youtube.com/watch? v=Bi_-m8WpvRA

o   “Được cùng Cha Ca Ngợi Chúa thì niềm tin củng cố, đau khổ được an ủi và vơi đi nhiều”, đó là chia sẻ của một giáo dân đang tham dự lễ đã nói với phóng viên của đài truyền hình CNN.

o   Các tham dự viên nói “Cha làm cho người ta được cháy lên lủa sốt mến”

           Làm sao cha có được ơn kỳ diệu ấy, theo chị Maria một người công giáo toàn tòng, “sự mầu nhiệm là ở trong năng lực, niềm vui và sức mạnh”, 

           những điều này chỉ có thể có được khi hoàn toàn đâm rễ tâm linh sâu và sâu thẳm trong giòng suối ơn của Chúa Thánh Thần.

o    Có nhiều tín hữu đã khóc trong sung sướng khi mình thánh Chúa do cha rước đi qua chỗ đứng của họ. Một phụ nữ trẻ gạt nước mắt nói, “Tôi đến để tạ ơn vì lời cầu nguyện của tôi đã được đáp lại, tôi vừa có được việc làm. Tôi đến thẳng đây khi tôi vừa hoàn tất xong việc từ sở làm”

Thuở ban đầu, không phải Cha Marcelo không gặp nhiều khó khăn từ phía các đấng bề trên, do mục vụ có vẻ cách tân của ngài, Các Đức Giám Mục biết sự nguy hiểm tiềm ẩn của mục vụ đang hình thành, có thể dễ dàng biến dị thành sự phụng vụ trong mớ tình cảm thái quá giống như các giáo phái tin mừng diễn dịch. Nhưng đồng thời các Ngài cũng ý thức được các kinh nghiệm của Cha Marcelo Rossi là quan trọng, bởi vì đó là phương cách đáp ứng đàu tiên trên diện rộng lớn có thể dùng để chống lại sự tan biến, thưa di, mất dần dân số Công Giáo trong lịch sử của Brazil. Chính hồng y Claudio Hummes đã nói “ Ở Brazil, người công giáo giảm dần tỉ lệ 1% mỗi năm, Năm 1991 có 83 phần trăm, nay chỉ còn 67%. Cứ một linh mục công giáo thì có 2 mục sư Tin Lành …”

Brazil được mệnh danh là quốc gia Công Giáo lớn nhất thế giới với 126 triệu tín hữu, chiếm 11% tổng số tín hữu công giáo toàn cầu. Tuy nhiên Hàng Giáo Phẩm, Hội Thánh địa phương vẫn đang phải phấn đấu với các giáo phái diễn dịch phóng khoáng Tin Mừng, những kẻ nói nhanh trên các chương trình TV lôi kéo người nghèo bị bỏ rơi vào trong các đền xây cất xô bồ, lan trân ra khắp nơi, phát triển nhiều giống như các chi nhánh của tiệm bán đồ ăn nhanh “fast food”. Họ luôn kêu gọi, khuyến dụ các bà con nghèo khổ, trong các buổi nhóm, dốc hết túi tiền khiêm nhượng của mình để giao cho họ sử dụng, họ khuyến dụ rằng, bỏ tiền cúng càng nhiều càng tốt, để được Chúa lại quả, cho nhiều hơn gấp bội.Tin Mừng đối với họ, là sự hướng dẫn mà khán giả nên làm theo, nên đầu tư tiền bạc, công sức, để được thu lợi “một vốn mười bốn lời”, mục đích đi theo Tin Mừng chỉ nhằm để có được nhiều tiền của và súc khỏe ỏ đời này, họ không lưu ý đến ơn Cứu Độ vốn là cốt yếu của Tin Mừng… Chính ở đây, Cha Marcelo và nhà thờ lớn của Ngài đã vào cuộc, phản kích những gì lạc xa ý nghĩa thực của Tin Mừng.

Vi linh mục giảng thuyết  và cũng là tác giả của những quyển sách tu dưỡng tâm tánh bán chạy nhất tại Brazil, đang trấn giữ cho Công Giáo Brazil bằng cách làm cho hội thánh Brazil được trở nên thu hút hơn, bằng cách tiếp cận sự vui tươi,thanh thản của Tin Mừng Cứu Độ. Cha nói:

–          Hầu hết các giáo xứ của chúng ta như thuộc về thế kỷ thứ tư, kiểu cách trong phụng vụ không có gì thay đổi và giáo dân cứ tản mát đi.

Và rồi, cha làm lay chuyển những thói quen cũ bằng sự giới thiệu Tin Mừng qua nhạc rock, bằng các buổi cầu nguyện giống như trên sàn của rạp hát, và dùng hết kỹ năng thông tin cách xuất sắc,  gây được ấn tượng cho cả các người chuyên nghiệp. Cha tiếp:

–          Chúng ta không thể cứ ngồi chờ cho mọi người đến nhà thờ, hội thánh phải đi ra gặp gỡ và đem họ trở về.

 Theo thời gian, khi mọi sự đã rõ ràng hơn, Giáo Hội càng ngày càng thông cảm, công nhận và chúc lành cho công việc mang tính Canh Tân Đặc Sủng của Cha Marcelo, ngày 21, tháng 10, năm 2010 Đức Thánh Cha Bê nê đic tô thứ 16 trao giải thưởng “Hồng y Nguyễn Văn Thuận – Liên đới và Phát triển 2010” cho Cha nhằm công nhận “sự tận tụy dâng hiến cho Công Giáo như một nhà truyền giảng Phúc Âm hiện đại”.

Có lẽ phần thưởng lớn nhất Chúa ban cho Cha là được cùng với Đức Thánh Cha và các bạn trẻ khắp thế giới ca ngợi Chúa Giê Su, và ngài được toại nguyện về điều này trong dịp hè năm 2013, Cha cùng với các linh mục Canh Tân Đặc Sủng chia sẻ niềm vui của sự Ca Ngợi, Thờ phượng trước hàng mấy triệu bạn trẻ qui tụ về Rio de Janeiro để tham dự ngày giới trẻ thế giới – World Youth Day.

Ngay cả trong hoạn nạn đời người, thì Chúa cũng biến nó thành niềm vui rạng rỡ cho người con yêu của Chúa. Số là khi cha tập thể dục trên máy chạy bộ thì bị tai nạn chấn thương, phải làm lễ ngồi, trên chiếc xe lăn tay, thời gian còn lại, Bác sĩ không cho phép hoạt động để hồi sức và giúp cho vết thương được mau lành. Thời gian tĩnh lặng này là lúc cha được linh hứng viết các sách mới “Đức Ái – Agape” và “ Thời quyết định – Kairos”, sách ngay lập tức được đón nhận nồng nhiệt, số bán là 10 triệu bản cho sách “Đức Ái” và 2 triệu bản cho “Thời quyết định”. Xếp hạng kỷ lục trong lich sử xuất bản của nhà Editora Globo. Toàn bộ tiền bán sách dành hết cho công tác xây dựng đền thánh “Maria Mẹ Thiên Chúa – Theotokos”

Ta biết rằng: Với những ai yêu mến Thiên Chúa, thì Người đồng công cộng tác biến mọi sự nên lành, tức là những ai đã được Người kêu gọi theo ý định của Người. (Roma 8,28 ).

Thánh lễ mới đây của cha :       https://www.youtube.com/watch? v=1QUfwE23D-c

         Nghi thức phụng vụ mới mà cha Marcelo diễn tả không chỉ dừng lại trong việc chọn lựa nhạc dùng trong phụng vụ mà đi ra ngoài luật lệ kinh điển, tạo nên một cộng đoàn Tin Mừng, khá thuần khiết, để những ai mơ ước về một giáo hội canh tân đặt nền tảng trên các cộng đoàn và sự lưu ý đến người nghèo khó, lẽ thường họ vốn không thể vượt qua vì có vô số các chia rẽ, phân cách trong các tầng lớp xã hội bao gồm từ người giầu sang cho đến người bần cùng ở đô thị, thì nay, họ có thể đến, họp thành cộng đoàn mới.

·         Ngày nay vị linh mục thể thao, người đã thiết lập kết cấu mục vụ Tin Mừng truyền thông bằng mấy ngàn cộng tác viên, người tự tay thiết lập hệ thóng “Globo” truyền hình để quảng bá niềm vui của Tin Mừng, Cha không còn phải đơn độc nữa, ngược lại, cha có nhiều bạn hữu cùng chung chí hướng. Từ những bước đi ban đầu của Cha, đi theo có nhiều các linh mục ca sĩ, nhạc sĩ, văn sĩ sáng tác khác, như linh mục dòng Thánh Tâm Fabio de Melo, hay linh mục Hewaldo Trevisan, Reginaldo Mazotti, các ngài đều trong độ tuổi tứ tuần và có bề ngoài thánh thiện đáng mến cũng như cách nói làm hứng khởi, làm phát sinh hy vọng.

·         Kỷ niệm kim khánh Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo, chúng con  Xin Chúa Giê Su kính yêu cho giáo hội các nơi và Việt Nam của chúng con cũng có thật nhiều linh mục thánh thiện như  cha Marcelo Rossi. Xin Mẹ Maria cầu cho chúng con có rất nhiều linh mục hiếu thảo trọn tình với Mẹ như cha Rossi.

Xin Thần khí Chúa canh tân bộ mặt trái đất của chúng con qua tác vụ của những tôi tớ tận tụy của Ngài!

(Phan sinh Trần, tổng hợp bài viết của News Week, USA today, Washington Post, CNN, Tạp Chí Công Giáo,… về cha Marcelo Rossi.) 

NỮ TU MỘT MẮT GIÚP TÔI THOÁT RA KHỎI TÌNH TRẠNG ĐỒNG TÍNH PÊ ĐÊ.

NỮ TU MỘT MẮT GIÚP TÔI THOÁT RA KHỎI TÌNH TRẠNG ĐỒNG TÍNH PÊ ĐÊ.

Lời chứng của Anh Paul Darrow

Phan Sinh Trần gởi

Paul Darrow, lần đầu tiên tìm đến bãi tắm biển của giới đồng tính nam ngay từ những năm mới có 15 tuổi đầu, không lâu sau đó, anh đi xe quá giang lên thành phố Nứu Ước nơi có những môi trường sinh hoạt của giới đồng tính phát triển mạnh và nhiều, thành phố cũng là nơi anh có thể theo đuổi nghề làm người mẫu tạo hình. Chính tại đây, Darow có cơ hội làm việc như một người mẫu quốc tế và dần dà đã trở nên nổi tiếng, anh có dịp cặp kè với các tài tử nổi tiếng ở các hộp đêm trong thành phố.

Những khi không ở phim trường hay phòng tập thể dục, anh luôn nhớ và thường xuyên đi săn tìm “bạn tình” đồng giới, Anh kể “tôi đã chơi bời với hàng tá, rồi đến con số hàng trăm, thậm chí sau cùng đến mấy ngàn người tình. Tôi hoàn toàn điên dại cho dù không bao giờ muốn mình ra như thế khi mà tôi trở nên vô cảm với ý niệm về tình bạn trên cả hai phương diện thân xác và linh hồn”.

Tuy nhiên, khi nạn dịch AID, dịch bệnh liệt kháng hoành hành trong giới đồng tính và cướp đi hầu hết các bạn bè của Darow, đã có đến 90 phần trăm bạn bè ra đi vì căn bệnh thế kỷ này, quả là một phép lạ khi Darow luồn lách và thoát ra khỏi bản danh sách dài của thần chết. Anh sợ bệnh dịch làm toi mạng và  quyết định dời về vùng San Francisco để làm lại cuộc đời. Tại nơi đó, anh đã gặp bạn chung sống mới,tên là Jeff, họ cùng sống trong một phòng cabin nhỏ ở quận hạt Sonoma.

Một hôm, ở nhà tình cờ Darrow khám phá ra trên chương trình TV, xuất hiện bà Sơ một mắt, nói chuyện rất thẳng thắn, được anh đặt cho hỗn danh là “ Sơ hải tặc” vì sơ có một mắt bị che bằng miếng vải nhỏ. Darrow vội gọi bạn  “Ê Jeff lại mà coi nè, mày phải coi cái màn diễn kỳ quái này” vừa nói anh vừa chỉ vào hình ảnh trên TV. Họ không biết nhân vật đang nói trong chương trình  TV, đó là Mẹ Angelica, vốn vừa bị tai biến não làm méo xệch bên má phía trái của bà, và đã phải đeo miếng bịt che cho mắt trái, tuy nhiên, thật lạ lùng! bệnh tật không làm cho Sơ chùn bước trong việc chia sẻ Tin Mừng Cứu Độ. “Jeff lại coi mau đi” tôi vừa cười vừa nhạo báng “Trời ơi, mấy người Ki tô giáo điên khùng hết biết này! Tôi cùng bạn bè nói móc Sơ, và cười nhạo bà”. Người mà sau này sẽ làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời của Darrow một cách vĩnh viễn.

Giễu cợt một hồi, Jeff rời khỏi phòng, Darrow định bấm chuyển đổi sang băng tầng TV khác, thì trong anh chợt có một điều gì đó làm phân vân và thắc mắc, “lời nói của Mẹ Angelica, vừa khôn ngoan, vừa thực tế, lại rất chân thực đánh động vào tâm trí của tôi” Mẹ nói:

–          Bạn thấy không, Chúa đã tạo tác ra Bạn để làm một người hạnh phúc vui tươi trong đời này và đời tiếp đến.

Mẹ thốt nên lời cách khó khăn từ cặp môi méo xệch và khó chuyển động nhưng một con mắt còn đang hoạt động lại bừng sáng lên và lấp lánh niềm hy vọng qua cặp kiếng bà đeo. Bà nói tiếp:

–          Ngài hằng chăm sóc cho bạn. Ngài canh chừng mọi động, tĩnh của bạn. Không một ai từng yêu mến bạn lại có thể ân cần quan tâm cho bạn đến mức độ đó.

Lời của Mẹ Angelica như rung lên một sợi dây thanh âm, có tiếng vang vọng trong tâm hồn của Darrow, làm cho Anh phải chựng lại, dáo dác nhìn quanh, và rồi,  anh chợt khám phá ra là,  kể từ hôm đó anh đã bí mật, lén lút tìm và xem lướt qua các chương trình nói chuyện của Sơ mỗi khi anh có cơ hội.

Bà sơ một mắt đó chính là Mẹ Mary Angelica thuộc dòng Đức Mẹ truyền tin, sáng lập viên của hệ thống truyền hình Công Giáo toàn cầu tên là “Lời vĩnh cửu” (EWTN),đài có số lượng khán thính giả khổng lồ, bao gồm 250 triệu gia đình ở khắp năm châu, bà đã về với Chúa vào ngày 27 tháng 3 năm 2016 sau một thời gian dài chiến đấu với các hâu chấn của cơn tai biến động mạch não. Sơ mất vào năm chin mươi hai của đời người.

Darrow làm chứng tiếp “Bà ta có sức ảnh hưởng vô cùng lớn trong đời tôi và tôi dần dần yêu mến bà nhưng tôi lại phải dấu bà khỏi sự dòm ngó ở chung quanh”, nghĩa là một khi tôi xem xong các chương trình của bà, tôi cẩn thận bấm qua đài khác trước khi tắt TV phòng khi Jeff hay ai đó bật TV lên và biết là tôi đang xem chương trình của Mẹ Angelica. Sự thì thọt, che dấu này làm tôi nhớ đến hoạt cảnh hồi còn lén lút xem các chương trình chiếu phim khiêu dâm, tôi cũng đã có cách dấu diếm tương tự như vậy vì tôi không muốn cho Jeff hay mọi người biết được rằng tôi đã xem các phim sex, các cảnh dâm ô, làm tình trên TV”.

Thực tế là ảnh hưởng của Mẹ Angelica tiếp tục gia tăng, thúc giục Darrow quay về nhà Chúa sau nhiều thập kỷ vắng mặt. Đây là một thay đổi khó khăn vì Darow biết chắc rằng mình sẽ bị mất đi nhiều bạn bè và khách hàng nếu họ thấy anh đi đến một nhà thờ Công Giáo. Trong một chừng mực nào đó thì Darrow đã nghĩ đúng, anh kể “Tôi mất khách hàng, tôi mất bạn bè. Mọi người choáng váng khi biết tin, vì tôi vốn là một người có học vấn, khá thông minh mà lại tin vào Chúa Giê Su Ki tô, đấy là ý nghĩ của những người chứng kiến, nhìn thấy tôi đi nhà thờ trở lại”. Tuy nhiên, Darrow không bao giờ ân hận về việc tốt lành đã làm, từ khi anh được Chúa đổi mới, anh đi khắp nơi chia sẻ kinh nghiệm của mình một cách công khai trong xã hội qua các buổi nói chuyện và hội thảo. Mẹ Angelica cũng hướng dẫn cho Darrow khám phá về “Can Đảm Quốc Tế”, một chương trình mục vụ được Tòa Thánh công nhận, dành riêng cho các Tín Hữu Công Giáo có khuynh hướng đồng tính luyến ái, nhằm mục đích gia tăng mối liên lạc của họ với Chúa cho thêm gần gũi, khuyến khích tình bạn trong sáng, và học sống đời sung mãn trong đức khiết tịnh. Cũng chính trong khi cộng tác với chương trình “Can Đảm Quốc Tế”, Darrow tham gia đóng phim tài liệu “Ước muốn từ đồi Vĩnh cửu – Desire from Everlasting Hills” để chia sẻ về câu chuyện thực của đời mình và niềm hy vọng tương tự mà người xem có thể tìm ra được từ Hội Thánh Công Giáo.

Về kinh nghiệm quay về với Hội Thánh Công Giáo, Anh xác nhận “ Không hề có một sự kỳ thị nào khi tôi bắt đầu hành trình trở lại Đạo. Tôi không bao giờ bị coi là một người xấu xa, tội lỗi, không bị chê bai như là một người đã làm điều xằng bậy, ngay cả trong lúc tôi xưng thú tội lỗi ở tòa cáo giải. Đạo Công Giáo quả thực như tên gọi, như lời giáo huấn, là Đạo mở rộng lòng và đón nhận mọi người”

“Tôi muốn tỏ bày tình yêu của tôi dành cho Chúa và lòng biết ơn dâng lên Ngài vì mọi sự Ngài đã làm cho tôi, Ngài không bao giờ quên tôi trong suốt mấy thập kỷ tôi quên Ngài, làm điêu nghịch phạm đến Ngài

Bí quyết nào giúp Mẹ Angelica bị tai biến đến xấu xí dị dạng lại có thể chài lưới được nhiều linh hồn giống như trường hợp của Anh Darrow vậy?

Cha Giu Se Wolfe cho biết bí quyết để cải hóa lòng người là dựa cậy vào Chúa và luôn cầu nguyện cho đương sự, nhất là “Sơ chịu mọi thống khổ hy sinh dâng lên Chúa Giê Su để được thông phần đau khổ với Chúa và để được dip cầu nguyện, cứu giúp chính linh hồn mình và các linh hồn người khác”, Cha Giu Se kể tiếp:

–          ( Khi bệnh Mẹ bị trở nặng vào những thời gian sau cùng) Mẹ Angelica chỉ thị cho các con cần làm mọi sự để cho Sơ sống không cần biết mẹ bị đau đớn, thương tổn đến mức nào …hầu hết chúng ta ít ai nghĩ đến cách hy sinh đó, chúng ta chỉ muốn Chúa mau đem chúng ta ra khỏi cơn thử thách…

–          Điều vĩ đại nhất trên thế gian, chính là Tình yêu của Thiên Chúa trao ban đến cho chúng ta qua Chúa Giê Su, và đây là điều mà Mẹ Angelica lĩnh hội, cho nên ngài muốn yêu Chúa để đáp trả lại tình Chúa. Và đó là tất cả của đời sống Sơ:

Đã có nhiều sách mô tả các kỳ công Chúa làm qua mẹ Angelica và về đời sống thánh thiện phát sinh nhiều hoa trái Thánh Linh của Mẹ, chúng tôi sẽ có dịp được trình bày trong các bài sau.

Bạn có thể xem phim “Ước muốn từ đồi Vĩnh cửu – Desire from Everlasting Hills”  ở mạng liên kết này: https://everlastinghills.org/ movie/

Phim tài liệu , tiểu sử Mẹ Angelica : https://www.youtube.com/watch? v=HjHoFI2QIEs

Chương trình nói chuyện của Mẹ Angelica, trênTV “Lời Vĩnh Cứu” :                   https://www.youtube.com/watch? v=bMfQ5kyjPi4

(Nguồn: http://www.catholicnewsagency. com/images/Mother_Angelica_ with_eye_patch_1_YouTube_ screenshot_CNA.jpg?w=640)

Hồi ức về vị linh mục tân tòng của bệnh nhân cùi, sida

Hồi ức về vị linh mục tân tòng của bệnh nhân cùi, sida 

 

Thật không thể tin vào tai mình khi nghe cha Phao Lô Nguyễn Kim Sơn báo tin Chúa đã gọi Bác sỹ, Linh mục Augustino Nguyễn Viết Chung, tu sĩ Tu Hội Truyền giáo thánh Vinh Sơn, Nazarit (Vincent De Paul), một linh mục của người nghèo, bệnh nhân sida, và bệnh nhân phong cùi. Tin đến như sét đánh, làm cho tim này nhói đau, lòng hụt hẫng, sau vài phút mọi sự mới hoàn hồn và như cuộn film tua lại những ký ức về cuộc đời một vị thánh sống. Một Phật Tử đã và tin theo Chúa Giêsu, cống hiến cả sự nghiệp bác sỹ đầy danh vọng quyền quý, hy sinh cả cuộc đời sống với và cho các anh em dân tộc nghèo khó.

Khó có thể kể hết nhân đức anh hùng mà vị linh mục sida. Mọi người gọi cha với cái tên nghe lạ tai mà rất thân thương. Cũng chẳng có gì lạ với cái tên yêu này, bởi vì cả cuộc đời bác sỹ, cha chỉ phục vụ một đối tượng với nhiều loại người: cùi, sida, bệnh nhân nghèo.

Cuộc đời cha với nhiều giai thoại của người tôi tớ phục vụ quên thân mà làm cho nhiều người thương mến, nhiều người trách. Thương vì cách cha làm, trách vì sợ cha phục vụ người nghèo quên ăn, uống, và sờ cha lây bệnh chết sớm.

Khi còn là sinh viên y khoa, mỗi ngày anh sinh viên Nguyễn Viết Chung phải đạp xích lô rong ruổi trên các con phố của Sài thành kiếm tiền ăn học. Một buổi sáng đẹp trời, anh đạp xích lô ra khỏi nhà và may mắn có một vị khách trung niên bắt xích lô đi. Sau khi chở vị khách đến nơi, thì cả buổi sáng hôm đó không có một khách nào bắt xích lô nữa. Anh sinh viên y buồn bã mong ngóng vớt vát một khách nào rồi về lên học đường. Lán thêm mà cũng chẳng có ai. Chán nản, anh cầm tờ báo mà vị khách hồi sáng bỏ lại trên xich lô. Anh say mê một bài báo viết về Cha Jean Cassaigne, người Pháp sang Việt Nam truyền giáo, ngài được phong làm Giám mục giám quản địa phận Sài Gòn dến năm 60 tuổi ngài xin về hưu sống ở trại cùi và phục vụ bệnh nhân cùi tại Di Linh. Ngẫm nghĩ về một ông tây bỏ quê hương xứ sở, gia đình đi phục vụ người cùi tại Việt Nam và anh thầm mong ước: học xong bác sỹ sẽ lên Trại Cùi Di Linh phục vụ anh em cùi. Giữ lời hứa với lòng, anh cầm cả quyết định phân về làm bác sỹ tại bệnh viện Bình Dân, một bệnh viện lớn tại Sài Gòn. Ban Giám đốc Trại cùi Di Linh họp và quyết định từ chối, không nhận Bác sỹ trẻ này với ly do khá ngộ nghĩnh: Bác sỹ này giỏi và có việc làm ở bệnh viện có tiếng nên để bác sỹ ở Thành phố để phục vụ bà con.

 

Buồn bã lê bước trở về thành phố với tấm lòng đầy thất vọng, đau buồn làm cho bác sỹ ít nói. Ở đây, chăm sóc chữa trị bệnh nhân với tấm lòng từ mẫu. Cũng như bao vị bác sỹ khác, bác sỹ Chung cũng mở cửa một phòng khám tư tại Tân Bình, từ 1600-2100 mỗi ngày. Bệnh nhân sắp hàng rồng rắn làm bác sỹ khám đến 2 giờ sáng. Nhiều người thắc mắc cứ đúng 21 giờ đóng cửa, ai khám mai đến. Bác sỹ nhẹ nhàng nói thương người ta từ xa, mãi miền Tây đến để về thì tội, nên anh khám cho họ. Bác sỹ cho biết, anh mua 1 viên Panadol 300 đồng, anh cũng lấy của bệnh nhân 300 đồng. Nhiều nhiều bệnh nhân nghèo kéo đến với phòng khám của bác sỹ Chung làm cho các phòng khám quanh đấy vắng khách. Chính vì lẽ đó mà bác sỹ bị kiện, tố cáo vì ghen tỵ. Cũng vì lý do sức khoẻ, không đủ sở hội trả tiền thuê nhà và nhường bộ để các bác sỹ khác và bác sỹ đã đóng cửa phòng khám này. Nói thế khôg có nghĩa phòng khám của anh chỉ có bệnh nhân nghèo. Anh vẫn thương hay nhắc đến một doanh nhân giàu có nức tiêng Sài Gòn, Tăng Minh Phụng. Anh cho biết, trong mắt anh, Tăng Minh Phụng đẹp lắm. Những chuyện gì anh Phụng phạm anh không quan tâm. Nhưng khi đến khám bệnh thì anh vẫn thu tiền bằng với các bệnh nhân khác. Biết vậy nên mỗi lần truyền nước Minh Phụng hay mua 10 chai và 9 chai tặng người nghèo. Sau khi đóng cửa, anh chỉ thao thức với cái ước mơ ngày nào đi phục những bệnh nhân cùi làm cho anh không còn tâm trí làm trong bệnh viện lớn mà bao sinh viên y khoa khát khao. Anh kể, một em bệnh nhân người Hoa tại Chợ Lớn, tại thời điểm đó thuốc men thiếu, lại thêm kiến thức y khoa mình chưa đủ để cứu em đó. Chính vì lý do đó mà anh cứ dằn vặt lòng mình mãi. Và anh quyết tâm đóng góp cuộc đời cho những bệnh nhận ít người chăm sóc. Dù bận rộn với công việc của một trưởng khoa, ấy thế mà, cứ mỗi chiều tan ca, anh lại chạy thẳng về trại Phong Bến sắn Binh Dương (Sông Bé) để chăm sóc bệnh nhân phong cùi.

Anh cứ miệt mài chiều đi Bến Sắn, sáng về Bình Dân. Thấy anh không còn thời gian và chỉ sợ anh đổ bệnh mà khuyên anh bỏ Bến Sắn. Anh nhẹ nhàng nói anh có kế hoạch rồi. Bẵng đi thời gian anh khoác trên vai chiếc áo thâm chùng của Dòng thánh Vinh Sơn sống khó nghèo. Anh kể, cái ngày anh chăm sóc bệnh nhân phong tại Bến Sắn khi Dì Hai nằm hấp hối thì anh ghé thăm. Anh cứ cố gắng cấp cứu cho Sơ, dù biết không thể. Sơ nói với anh: Bác sỹ cứ đi còn nhiều người đang đợi. Khi anh vừa xách túi nghề y đứng lên thì Sơ nghẻo đầu chết ngay.

Cả ngày đó, cứ lảng vảng trong đầu anh câu “còn những người khác đang đợi” là ai? Và anh quyết định đi tu. Rất ngây thơ, anh khăng khăng anh đi tu trước khi theo đạo. Thật là con người đơn sơ, chất phát. Đúng là anh quyết định đi tu trước khi được các cha Dòng tên dạy giáo lý tân tòng. Anh gia nhập đệ tử làm tu sĩ Tu Hội Truyền giáo thánh Binh Sơn và làm linh mục.

Những ngày ở nhà Nguyễn Kiệm, thứ 2 nào, cha cũng tự đi xe máy 45km đến trại Sida Mai Hoà ở Củ Chi phục vụ những bệnh nhân giai đoạn chót. Thấy cha chăm sóc các bệnh nhân dễ lây nhiễm mà có thể lấy đi mạnh sống cha mà lòng ích kỷ đã ngăn cản cha. Cha chỉ chia sẻ, anh biết cách để tự bảo vệ. Nói hay lắm! Ai có dịp chứng kiến cha khám chữa bệnh cho tại Mai Hoà hoắc nhà thờ Phú Trung thì càng lo sợ cho Cha vì cha gần gũi với từng bệnh nhân lở loét làm cho không còn khoảng cách. Tức rất dễ lây! Nhưng cha chỉ nói, anh sống là để phục vụ trong danh Đức Kitô. Trong trại sida Mai Hoà có 8 cháu nhỏ đi học về giẫm kim tiêm lây sida. Cứ thấy cha là 8 em nhỏ, chạy ùa đến ôm trầm lấy cha. Cha cho biết, các em không có cha mẹ bên cạnh nên chạy đến với anh. Nhưng cha sẽ bị lây bệnh và chết sớm thì ai lo các các bệnh nhân khác, vì còn nhiều người đang chờ cha, mà. Thú thật với em, từ ngày anh chọn theo Đức Ktiô thì anh sống là chết với Đức Kitô. Lạ lắm! Cha có khuân mặt rất kham khổ và không có nụ cười, nhưng khi tiếp xúc với các bệnh nhân sida thì khuân mặt anh tươi sáng rạng ngời. Các cha hay đùa, ai cho cha Chung một bệnh nhân cùi thì cha Chung cho 500 ngàn. Không, không, anh không có tiền. Ai cho anh thì anh cám ơn thôi, cha Chung nhanh nhẩu phân trần. Một lần tại nhà thờ Phú Trung, cha bắt nữ bệnh nhân viết cam kết không được lây bệnh cho người khác vì chúng tôi tình nguyện đến đây chữa cho cô thì không sớm thì muộn chúng tôi cũng lây nhưng nhiều người khác còn gia đình và Cô nhận thuốc và đi về. Cha tâm sự, cô này cứ khoẻ là đi lây bệnh cho người khác. Cha nói, anh bắt viết để nhắc cô thôi, chứ cô khoẻ lên lại đi lây hết người này người kya để trả thù. Vài bữa lại quay về xin viết cam kết và cha lại chữa. Sự thánh thiện là vậy.

 

Cả cuộc đời cha chỉ nghĩ đến những bệnh nhân nghèo. Mà đối tượng sida và cùi là nguy cơ lây lan rất lớn làm cho bao người ngăn cản cha. Mọi người chỉ sợ cha lây bệnh và chết sớm rồi không còn ai chăm lo cho biết bao bệnh nhân nghèo đang rất cần cha. Chứ mấy loại sida, chết sớm cho rồi. Không em! Họ cũng là con người. Anh biết anh không chữa sida được nhưng anh muốn cho họ cái chết lành. Là sao? Anh chỉ chữa bệnh xã hội để giảm bớt đau khổ phần xác và an ủi họ để họ có thể nhắm mắt ra đi mà không uất hận đời. Và có rất nhiều em, anh đã rửa tội gia nhập đạo.

Anh kể về một cô gái người Việt bị bán sang nhà chứa Campuchia. Cô bị lây bệnh sida và ước nguyện được chôn cất tại Việt Nam. Cha cứ thường đến bên hài cốt cô thầm đọc kinh cầu nguyện cho cô bé vô tội được hưởng nước trời. Những ngày phục vụ tại trại Sida Mai Hoà, cha không cho tiếp xúc với bệnh nhân vì cha giải thich sẽ có ngày bị lây. Cha cũng thế? Nhưng cha chỉ mỉm cười. Nhớ mỗi lần đi Mai Hoà cha đều ghé quán bún bò rất ngon gần Củ Chi nhưng không bao giờ ăn mà nói sáng anh ăn ở nhà Dòng rồi. Thực ra cha chỉ ăn chén cơm nguội thôi.

Những ngày cha làm bề trên nhà Nguyễn Kiệm, cha luôn quan tâm lo lắng từng anh em nhưng không bao giờ bỏ rơi các bệnh nhân nghèo. Một ngày đến giờ ăn trưa, cha không ăn và mặt mày buồn buồn, đi qua đi lại suy nghĩ gì. Bỗng cha lấy xe đi và 45 phút quay về với khuân mặt vui tươi, rạng ngời. Cha cho biết, sáng có Việt Kiều cho 5,000USD. Anh suy nghĩ xem cho ai và anh đem cho một em bé đang cần mổ tim và 2 bệnh nhân nữa. Tưởng gì. Chỉ suy nghĩ bệnh nhân nào đang cần tiền mà mất ăn mất ngủ.

Khi cha làm bề trên nhà Thánh Tâm Đà Lạt, dâng lên xong cha gọi một em đệ tử lên gặp. Nghe cha gọi em lo lắng, suy nghĩ việc gì? Cha đưa em cái áo lạnh của Cha và nói: em lấy áo lạnh của anh mặc cho ấm và đưa áo của em cho anh. Vì áo của anh dày hơn áo em. Thế là ngày nào cha cũng mặc chiếc áo gió mỏng tanh.

Khi mục vục trên Tây Nguyên đường xá đi lại khó khăn và xa xôi, cha bề trên mua lại chiếc xe hơi với giá khoảng 60 triệu. Chắc xe tàn lắm rồi. Cha Chung chửi cho một trận. Giận dỗi thế nhưng khi đi mục vụ, đi lên toà Giám mục hợp cha vẫn vui vẻ leo lên xe hơi đó. Thánh là vậy! Chửi nhưng không giận. Ngày cuối năm cha bề trên giết mấy con gà ăn chia tay các thầy về quê. Cha cũng mắng: Các em sống trong Dòng khó nghèo, các em không được sống hơn người nghèo. Ôi mấy con gà là gì. Nhưng cha chỉ thể hiện cuộc sống vì người nghèo mà làm cho anh em buồn bực. Ấy thế mà chẳng ai ghét cha.

Lạ lắm, cha làm bề trên nhà nào thì luôn có thầy xin về không đi tu nữa. Đó là điều làm cha luôn đấm ngực dằn vặt bản thân. Cha không hiểu tại sao cứ nghĩ tại mình. Mọi người giải thích có lẽ sự thật thà, ngay thẳng của cha làm cho anh em can đảm nhìn nhận ra ơn gọi của họ.

Khi cha được chuyển về Kon Tum, cha bôn ba khắp nơi phục vụ người dân tộc nghèo. Cha cho họ bò nuôi đẻ ra con cha cho họ giữ con nuôi. Cha bắt bò mẹ cho nhà lhasc nuôi lấy bò con. Có gia đình nó bán luôn bò mẹ, làm cha buồn lắm. Cha kể có anh chị ở Sài Gòn làm thợ xây giúp cha cả 20 con bò để cho các gia dinh dân tộc. Khi anh mất, cha lặn lội về dâng lễ tiễn anh ấy. Qua đó chúng ta thấy cha không bao giờ quên ơn những vị ân nhân. Cha kể, ngày cha từ Sài Gòn lên giúp trại cùi ở tây nguyên thì bị chính quyền cản trở. Anh buồn bã lắm làm đơn từ giải trình và cuối cùng anh lên ngọn núi xung quanh bảo vệ rất kỹ. Cha hỏi quý ông bà, anh chị có biết Chúa không? Họ nói Chúa là ai? Chúng tôi chưa nghe bao giờ. Thế Giàng của ông bà anh chị là ai? Tất cả họ đồng thanh trả lời bác Hồ. Từ đó cha tìm cách đến với họ nhiều hơn để nói cho họ về Chúa.

Đúng là cuộc đời cha nhiều câu chuyện lý thú nhưng không ít những sầu não. Cha đi tu, Ông Cố Cha không vui nên thường hay đến nhà Dòng Nguyễn Kiệm chửi vì bao nhiêu bác sỹ bạn cha giờ nhà lầu xe hơi còn cha cứ chiếc xe đạp cũ hoặc chiếc xe máy 82. Có vài lần, cha đạp xe đi mua thuốc, mải mê mua thuốc quay ra xe biến mất. Lủi thủi đi bộ về. Rất nhiều lần cha đi xe máy hết xăng và cầm chứng minh vì trong túi không còn xu nào. Có một anh ba gác lỡ bán xe giờ không còn gì làm nuôi vợ con đến xin cha 300 ngàn mua xe ba gác. Anh ta còn dắt đến nơi mua. Cha cẩn thận nhờ một thầy đi mua và trả tiền chứ không đưa tiền mặt. Ngày mai hắn bán luôn xe. Gặp hắn ngoài đường cha chửi quân lừa đảo. Thế mà vẫn tìm công ăn việc làm cho hắn để nuôi vợ con.

Cha luôn yêu thương chăm lo cho người nghèo, bệnh nhân. Vất vả đem họ đi chữa trị tại các bệnh viện Sài Gòn dù trong cha cũng đang bệnh cần nghỉ ngơi. Nhưng cha làm việc đên khi không còn sức thì mới đành chịu. Những ngày bệnh tật, cha âm thầm đi chữa không muốn phiền ai. Anh em trong Tu Hội Truyền giáo thánh Vinh Sơn ai cũng thương mến cha, luôn tạo điều kiện để cha tự do làm việc tông đồ bác ái theo ơn đoàn sủng của cha. Chắc chắn cũng có những khó chịu với cha vì cha hay nhường phần mình cho người khác. Cũng như người ta thấy cha mặc áo may ô vị rách thì mua cho cha mấy áo thun đẹp. Nhưng ngày mai cha cho các thầy hết. Cha cứ nói anh mặc thế này là đẹp lắm rồi. Các thầy cần mặc đẹp để đi học.

Đúng là con người cha luôn sống như lời cha nói: mình sống hơn người nghèo, mimhf xấu hổ lắm. Nay chắc chắn cha được dự phần thưởng nước trời dành cho những người Chúa chọn, người mà Chúa đã nói trong hiến chương nước trời: Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì nước trời là của họ. Chỉ cần có tinh thần thôi thì nước trời đã là của họ. Như vậy với cha sống nghèo hèn thì chắc chắn phần thưởng nước trời là của cha.

Xin cha cầu cho chúng con là những người khi sống cha luôn yêu thương, quan tâm để chúng con can đảm sống chứng nhân cho Chúa nơi anh em ngoại đạo.

Thiên Ân

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

PHÉP LẠ TRÀNG CHUỖI MÂN CÔI .


PHÉP LẠ TRÀNG CHUỖI MÂN CÔI .

(Hãy lần hạt Mân Côi mỗi ngày, Bạn và tôi sẽ bình an và hạnh phúc)

Tình ưu ái đặc biệt Đức Mẹ MARIA dành cho Tràng Chuỗi Mân Côi được tất cả mọi tín hữu Công Giáo ghi nhận trải qua không biết bao nhiêu biến cố diệu kỳ xảy ra suốt dòng thời gian.

Xin giới thiệu một trong những biến cố này.
Biến cố diễn ra trong tháng 5 năm 1961. Ông Bellis là một tín hữu Công Giáo vô cùng đạo đức và là nhân viên sở hỏa xa làm việc nơi một trong những ga xe xửa nổi tiếng nhất nước Ý.
Ngày 15-5-1961 như thường lệ, ông lái xe lửa từ thủ đô Roma trực chỉ Milano ở miền Bắc nước Ý. Bỗng chốc – do sự lầm lẫn vô ý – ông trông thấy từ đàng xa một chiếc xe lửa khác đang ngược chiều chạy thẳng về hướng của mình. Chỉ còn vỏn vẹn vài phút nữa thôi và tất cả sẽ là tai nạn thảm khốc nhất xảy ra.
Ông bắt đầu hãm tốc độ với trọn sức lực, nhưng hai chiếc xe lửa cứ lao đầu vào nhau mỗi lúc một gần hơn. Thế là ông Bellis – với tâm tình của một tín hữu Công Giáo nhiệt thành nhất – liền cho tay vào túi rút ra Tràng Chuỗi Mân Côi và siết chặt trên ngực van xin khẩn nài Đức Trinh Nữ Rất Thánh Mân Côi ra tay cứu giúp, rồi ông nhắm chặt đôi mắt lại. Nhưng khi ông mở mắt ra thì tất cả xong xuôi hết rồi. Hai chiếc xe lửa ngừng lại đối đầu nhau trong một khoảng cách chỉ vỏn vẹn gần một thước.
Tất cả mọi hành khách trên cả hai chiếc xe lửa vội vàng nhào xuống reo hò mừng rỡ trước một sự kiện quá lạ lùng. Họ đồng thanh kêu lên:
– Đúng là Phép Lạ!
Trong khi đó ông Bellis, với quả tim đập liên hồi và khuôn mặt trắng nhợt vì cảm động, tìm kiếm Tràng Chuỗi Mân Côi vì không còn trông thấy nó nữa. Không hiểu nó rơi mất nơi đâu. Ông vô cùng ngạc nhiên bởi lẽ trước đó ông còn nắm chặt Tràng Chuỗi Mân Côi trong tay đặt trên ngực rõ ràng mà! Vậy thì nó biến mất nơi đâu???
Đang đưa mắt đảo quanh tìm kiếm Tràng Chuỗi Mân Côi thì một bé trai lôi kéo sự chú ý của ông cũng như của tất cả các hành khách khác. Mọi người vẫn còn trầm trồ chiêm ngưỡng khoảng cách thật gần của hai chiếc xe lửa thì nghe cậu bé reo lên:
– Hãy đến mà xem! Hãy đến mà xem! Hãy nhìn kỹ có vật gì đó nằm giữa hai đầu chiếc xe lửa kìa!
Cậu bé la to như thế. Mọi người nhốn nháo đặt câu hỏi:
– Vật gì thế?
Thì ra trên đường rầy nằm giữa đầu hai chiếc xe lửa là Tràng Chuỗi Mân Côi của ông Bellis. Mọi người ngỡ ngàng kinh ngạc hỏi nhau:
– Làm thế nào mà Tràng Chuỗi Mân Côi lại rơi ngay chính giữa hai chiếc xe lửa như thế này???
Trước một phép lạ tỏ tường như thế tất cả mọi người đều hiểu rõ đây là cử chỉ ưu ái cách riêng Đức Trinh Nữ Rất Thánh Mân Côi dành để cứu sống người con dấu yêu và cùng với ông, cứu sống tất cả các hành khách của cả hai chiếc xe lửa.

Câu chuyện thứ hai mang nét đẹp dịu hiền khác. Trong niên sử của Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU (1873-1897) người ta đọc thấy câu chuyện sau đây.
Vào năm 1911 một mục sư tin lành người Tô-cách-lan sau khi đọc cuốn ”Truyện Một Tâm Hồn” của Thánh nữ Têrêxa liền đem lòng mộ mến vị Thánh trẻ tuổi và thường kêu xin Thánh nữ trợ giúp. Tuy nhiên, một hôm Thánh nữ Têrêxa hiện ra và nói:
– Sao Mục sư cứ xin tôi cầu nguyện cho Mục sư mà lại không muốn biết đến và khẩn cầu cùng Đức Mẹ MARIA???
Vị mục sư Tin Lành thông minh hiểu ngay rằng thật là chuyện vô lý khi khẩn cầu cùng vị thánh trẻ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU mà lại lơ-là lòng sùng kính Đức MARIA, Mẹ THIÊN CHÚA.
Kể từ ngày ấy, vị Mục sư luôn luôn thân thưa cùng Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA và cảm nghiệm trong tâm hồn tràn ngập một Tình Yêu dịu hiền khôn tả xiết. Tình Yêu mỗi ngày một lớn mãi cho đến một ngày vị Mục sư quyết định gia nhập Giáo Hội Công Giáo thánh thiện duy nhất tông truyền và trở thành vị đại tông đồ rao giảng lòng sùng kính Đức Mẹ MARIA, Hiền Mẫu Thiên quốc.

(”La Mia Messa”, volume II, 1 Aprile – 30 Giugno 2014, Anno VIII/A, Casa Mariana Editrice, trang 337-338/298)

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi