Tâm sự của một người trở lại đạo

Nguồn:   Anna Tran
 

Có Ngài bên con , con không sợ cô đơn 
Tâm sự của một người trở lại đạo

Từ lúc nhỏ nhìu khi buộc miệng biết gọi hai tiếng “ Lạy Chúa “ , lúc nhỏ chỉ biết đến Chúa là những cái gọi là nhồi sọ , nào là những người có đạo họ ko có nguồn gốc , họ ko có ông bà tổ tiên … và … , chỉ cần nghe đến người có đạo là sợ chạy mất dép mà nhìu khi dị ứng không muốn đến gần bên họ ( những con người có đạo )

Tôi xuất thân từ một gia đình hai bên nội ngoại là thờ cúng ông bà và tổ tiên , nguồn gốc của tôi là ông bà và tổ tiên của tôi , nên khi tôi nghe những người lớn nói người có đạo họ không thờ cúng tổ tiên , ông ba chết đến cấy nhang cũng sợ Chúa mà ko thắp nổi , để bàn thờ nguội lạnh , tự nhiên lúc đó tôi cảm thấy ghê sợ những người có đạo , lúc nào cũng tư tưởng ở với họ thì tôi sẽ bị nhiễm những cái xấu đó của họ , nhiều lắm ….

Bản thân tôi cũng rất ít khi đi chùa dù gia đình tôi là một gia đình nguồn gốc Phật Giáo , mẹ tôi là một phật tử , bà hàng ngày đi chùa đều đặn để xin cho các con và chồng ba được bình an , nhưng tôi lại khác bà , tôi khác bà nhiều cái lắm , tôi biết Phật rất hiền từ và độ lượng , nhưng bản thân tôi cũng ko hiểu vì sao đứng trước Phật tôi lại ko xin được điều gì và đầu óc của tôi rỗng toét

Rồi đến một ngày gọi là hoàn toàn vô vọng , tôi lang thang ra biển , đi như người ko định hướng được , tôi vô tình lại nhìn thấy một khuôn viên rất rộng rãi và đẹp , tò mò tôi dừng xe nhìn lại , tôi thấy một bức tượng một người phụ nữ bồng một người con , cảm giác lúc đó vừa tò mò vừa hiếu kì , nên tôi chạy xe vào xem đó là tượng đó như nào và ai thờ tượng đó .

Vô tới nơi tôi nhìn thẳng vô bức tượng , và chính bức tượng đã làm tôi ấn tượng , tôi đứng nhìn bức tượng , tự nhiên bao nhiu nổi âu lo buồn phiền trong người tự nhiên thầm theo tôi gởi đến bức tượng đó , bức tượng người Mẹ đang bồng người con , sự cuốn hút một cách lạ lùng .

Về đến nhà hình ảnh bức tượng người Mẹ bồng người con cứ in đậm trong người tôi , hôm sau tôi quyết qua lại nơi đó , lần qua lại này tôi lại thấy một người phụ nữ mang áo màu xám , đầu đội khăn kiểu chụp hết phần đầu , tôi mạnh dạn bước đến hỏi chuyện , 
Tôi : Cô ơi cho cháu hỏi với , 
Cô : cô quay lại , uh con cứ hỏi đi 
Tôi : cô cho con hỏi mình thờ ai ri cô , mà con thấy toàn bông với hoa mà ko thấy thờ trái cây kẹo bánh rứa Cô
Cô : con mới qua đây lần đầu hả con – tôi bảo dạ
Cô bảo đây là Mẹ Maria đang bồng Chúa Giesu , tôi giật bấn người , tôi hỏi lại Mẹ Maria là bên những người có đạo hả Cô , Cô bảo đúng rồi con , hình như Cô hỉu được những gì tôi muốn hỏi thêm …. rồi hình ảnh người Mẹ bồng người con đó cứ in đậm vào tâm trí của tôi ko rời .

Một điều gì đó rất lạ lùng , mỗi khi tôi bùn tôi lại qua tìm Mẹ . Lúc đó trong tôi đã hình thành một Đức Tin rất lớn , từ khi đó Đức tin trong tôi bắt đầu trở nên rõ ràng và mạnh mẽ , mùa hè tháng 5 /2016 tôi tự mình tìm đến nhà thờ , cảm giác đầu tiên tôi bước chân vào nhà thờ , vâng chính cái cảm giác ấy lại lập lại lên tôi một lần nữa , nhìn lên Thập Giá mà tim tôi tự nhiên nhói đau , trong lòng tôi quyết phải nhờ ai đó nói cho tôi hỉu “ người đàn ông bị treo trên thập giá “ đó là ai , nhưng mãi đến tháng 10 tôi mới theo học giáo lí và tìm hỉu .

Có lẽ tôi là nhờ ơn Chúa , tôi học và tôi tìm hiểu , tôi biết được kiến thức về Ngài qua Cha và cô giảng viên giáo lí , tôi hiểu và tôi càng thấy yêu Ngài và Mẹ nhìu hơn nhiều hơn , tôi mới hỉu được vì sao Ngài bị đóng đinh trên Thập Giá , tôi may mắn được Chúa trao ban cho tôi anh chồng sắp cưới có tên Thánh Joseph anh chi bảo cho tôi rất nhìu về giáo lí về những cái mà tôi chưa biết .

Trong tư tưởng và tâm trí của tôi , tôi biết lúc nào Ngài cũng bên tôi “ Con yêu dấu của Ta , Ta sẽ luôn ở bên con .”

Gia đình tôi không cấm tôi trở lại Đạo , vì họ biết họ có cấm cũng ko được , bạn bè tôi con bảo theo đạo là bỏ ông bà tổ tiên , vì họ không hỉu chuyện nên tôi ko chấp họ , nếu đến một ngày nào đó họ chịu ngồi xuống nghe tôi nói , tôi sẽ nói cho họ thật nhìu về Chúa của tôi – Đấng đã Cứu Chuộc Tôi .

Rồi ngày hạnh phúc nhất đời tôi cũng đến ngày 11/6/2017 , tôi đã chính thức gia nhập vào hội Thánh Chúa và tôi vinh dự được Đức Cha rửa tội cho tôi và tôi được vinh dự mang tên Vị Thánh Anna làm bổn mạng . Hôm nay đây tôi lại gia nhập Ca Đoàn , một tuần 2 buổi tôi lên nhà thờ tập hát , đến Chúa Nhật tôi lại đến nhà thờ hát lễ , tôi được nghe Cha giảng đuọc hát lễ , tôi được hát để ca ngợi Danh Ngài .

Nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng lên con , cho con ơn khôn ngoan để con biết những việc con làm , cho con biết mà học đức tính khiêm nhường và những việc bát ái , Lạy Cha yêu dấu của con , con yêu mến Cha , Nguyện cho danh Cha cả sáng , nước Cha trị đến , ý Cha Thể hiện dưới đất cũng như trên trời , xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày và tha nợ chúng con . Amen

Anna Trần Thị Hồng Loan
23/11/2017

Image may contain: 2 people, people smiling

Phút lâm chung con người nhìn thấy gì !?

From facebook:  Phan Thị Hồng added 4 new photos — with Hoang Le Thanhand Đào Nguyên.
Phút lâm chung con người nhìn thấy gì !?

Mỗi người sinh ra đã sẵn nằm trong vòng quay của sinh lão bệnh tử. Đối với nhiều người thì cái chết là một bi kịch song đối với những người có niềm tin vào cõi vĩnh hằng và vòng tay của Đức Chúa Trời thì cái chết ấy đã không còn quá đỗi sợ hãi, …

Ảnh: Sơ Cecilia sau thời gian chống chọi với căn bệnh ung thư phổi đã nở nụ cười rạng rỡ trên môi trước khi trút hơi thở cuối cùng.Sơ Cecilia từ lâu đã vật lộn với căn bệnh ung thư phổi, không thể nói chuyện và chỉ có thể ra hiệu bằng cử động yếu ớt. Vào giây phút cuối cùng trước khi ra đi, sơ đã nở nụ cười mãn nguyện, khiến những người xung quanh không khỏi xúc động.

Xin giới thiệu cùng các bạn bài tóm tắc cô đọng cuốn sách “Hồi ức về cái chết” của Tiến sĩ Raymond Moody, ông chú ý đến hiện tượng về trải nghiệm cận kề cái chết, sau đó ông bắt đầu thu thập dữ liệu cho công trình nghiên cứu, cuốn “Hồi ức về cái chết ” chính là kết quả mấy chục năm miệt mài nghiên cứu của ông.

Cầu mong một sự nhẹ nhàng, an lành và mãn nguyện khi chúng ta rời khỏi cuộc đời để về thế giới bên kia !
*

Giây Phút Trước Khi Chết Con Người Sẽ Nhìn Thấy gì? ông chú ý đến hiện tượng về trải nghiệm cận kề cái chết, sau đó ông bắt đầu thu thập dữ liệu cho công trình nghiên cứu, cuốn “Hồi ức về cái chết ” chính là kết quả mấy chục năm miệt mài nghiên cứu của ông.
10 Thể Nghiệm Thần Kỳ Nhất

Người tóm lược: Thôi Chân Tri 
Dịch giả: Việt Nguyên

Tiến sĩ Raymond Moody, nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ đã nghiên cứu 150 trường hợp trải qua trạng thái “chết lâm sàng” sau đó hồi sinh trở lại. Sau khi tập hợp những nghiên cứu trong vài thập kỷ ông đã xuất bản cuốn “Hồi ức về cái chết” nhằm giúp con người vạch ra chân tướng của cái chết.

Có một sự tương đồng không thể xem nhẹ trong lời kể của những người đã “trải nghiệm cận kề cái chết” này, đại khái có thể quy về mười điểm sau:

1. Biết rõ về tin mình sẽ chết – Họ tự mình nghe thấy bác sĩ hoặc người khác có mặt tại nơi đó tuyên bố rõ ràng về cái chết của mình. Anh ấy sẽ cảm thấy cơ thể trở nên yếu ớt đến cùng cực.

2. Trải nghiệm niềm vui – “Trải nghiệm cận kề cái chết ” ban đầu sẽ có cảm giác yên bình và thanh thản, khiến con người thấy vui sướng. Đầu tiên sẽ cảm thấy đau, nhưng nỗi đau này chỉ lóe lên rồi qua đi, sau đó sẽ thấy mình lơ lửng trong một không gian tăm tối, một cảm giác dễ chịu mà chưa từng được trải nghiệm bao bọc lấy anh.

3, Âm thanh kỳ lạ – Khi “sắp chết”, hoặc lúc “chết đi” khi có một âm thanh kỳ lạ bay tới. Một phụ nữ trẻ cho biết cô nghe đã thấy một giai điệu giống như một khúc nhạc và đó là một khúc nhạc tuyệt vời.

4, Tiến nhập vào lỗ đen – Có người phản ánh rằng họ cảm giác bất ngờ bị kéo vào một không gian tối. Họ bắt đầu có cảm giác, giống như một khối hình trụ không có không khí, cảm giác như một vùng quá độ, vừa là đời này, vừa là một nơi xa lạ nào khác.

5, Linh hồn thoát xác – Chợt thấy mình đang đứng ở một nơi nào đó ngoài cơ thể mình, quan sát cái vỏ thân người của mình. Một người đàn ông chết đuối nhớ lại anh đã tự mình rời khỏi cơ thể, đơn độc trong một không gian, thấy mình tựa giống một chiếc lông.

6. Ngôn ngữ bị hạn chế – Họ dùng hết sức mình để nói cho người khác biết hoàn cảnh khó khăn của mình nhưng không ai nghe thấy lời họ nói. Một người phụ nữ nói rằng: Tôi đã cố gắng nói chuyện với họ, nhưng không ai có thể nghe thấy.

7, Thời gian như biến mất – Trong trạng thái thoát xác, cảm giác về thời gian như biến mất. Có người hồi tưởng lại rằng trong khoảng thời gian đó anh đã từng ra vào cơ thể mình rất nhiều lần.

8. Các giác quan vô cùng nhạy cảm – Thị giác và thính giác nhạy cảm hơn trước. Một người đàn ông nói rằng ông chưa bao giờ nhìn rõ đến như vậy. Trình độ thị lực đã được nâng cao đáng kinh ngạc.

9. “Người” khác đến đón – Lúc đó xung quanh xuất hiện một người “Người” khác. “Người” này hoặc là tới giúp họ quá độ tới đất nước của người chết một cách bình yên, hoặc là tới nói với họ rằng hồi chuông báo tử vẫn chưa vang lên, cần quay về trước đợi thêm một thời gian nữa.

10. Nhìn lại kiếp nhân sinh – Lúc này người trong cuộc sẽ nhìn lại toàn cảnh bức tranh cuộc sống đời mình. Khi bản thân họ mô tả lại thời gian ngắn ngủi giống như “cảnh nọ nối tiếp cảnh kia, chuyển động theo trật tự thời gian các sự việc xảy ra, thậm chí các bức ảnh nối tiếp nhau, một vài cảm giác và cảm xúc đều như được thể nghiệm lại một lần nữa.

Tiến sĩ Raymond Moody là một học giả và khoa học gia nổi tiếng thế giới, ông lần lượt giành được hai học vị tiến sĩ về triết học và y học. Ông nghiên cứu sâu về lý luận học, logic học và ngôn ngữ học, sau đó ông lại chuyển hướng đam mê sang nghiên cứu y học, và quyết tâm trở thành một học giả về bệnh tâm thần. Trong khoảng thời gian này ông chú ý đến hiện tượng về trải nghiệm cận kề cái chết, sau đó ông bắt đầu thu thập dữ liệu cho công trình nghiên cứu, cuốn “Hồi ức về cái chết ” chính là kết quả mấy chục năm miệt mài nghiên cứu của ông.

Từ khi cuốn sách “Hồi ức về cái chết” ra mắt từ năm 1975, nó đã đạt mức doanh thu kỷ lục toàn cầu với hơn 100 triệu bản, chỉ riêng tại Đài Loan đã tiêu thụ 13 triệu bản và được biết đến như một siêu phẩm bán chạy nhất. Cuốn sách đã thay đổi khái niệm về sự sống và cái chết của những người bình thường, đưa nghiên cứu “Trải nghiệm cận kề cái chết” vào một bước ngoặc mới, chính thức xâm nhập vào tầm nhìn giới y học phương Tây chủ lưu.

Nhằm khích lệ thành quả nghiên cứu khoa học nhiều năm qua và nỗ lực không mệt mỏi cho việc phổ cập công việc, năm 1988 ông đã được trao “Giải thưởng Chủ nghĩa Nhân đạo Thế giới” tại Đan Mạch.

Image may contain: 1 person, smiling
Image may contain: one or more people and people sitting
Image may contain: 2 people, people sleeping and indoor
Image may contain: one or more people and people sitting
 
Hoang Le Thanh
Hoang Le Thanh Cảm ơn bài đăng tóm tắc cuốn sách “Hồi ức về cái chết” và lời cầu mong:
“Cầu mong một sự nhẹ nhàng, an lành và mãn nguyện khi chúng ta rời khỏi cuộc đời để về thế giới bên kia !” của bạn Phan Thị Hồng.
Thiết nghĩ, chỉ có những con người hiểu sâu về chân giá trị cuộc sống và một cuộc đời nhân bản mới có thể ra đi một cách nhẹ nhàng, êm ái!
*
Lời cầu mong mọi người thanh thản đón nhận cái chết như một sự đương nhiên mà ai cũng một lần trãi nghiệm, đồng thời cũng nhắc nhở cho những con người độc ác, đen tối hãy biết ăn năn, hối cải để cuộc đời đáng sống và có giá trị hơn !!!
Cảm ơn bạn!

 
V Phung Phung
V Phung Phung     Sáng nay có tham dự lớp Tân tòng, xin ghi lại một câu rất ý nghĩa trong bài đầu tiên của lớp Tân tòng, nói về Đức tin: Đức tin là bảo đảm phu’c lộc mà mình hy vọng, là chứng minh những thực tại mà mình không xem thấy (Do thái 11,1)

Đời linh mục !

  Đời linh mục !

“Tôi xin những người nào, mà khi còn sống, tôi không giúp đỡ được gì, hãy tha lỗi cho tôi”

Tôi xin những người nào, mà khi còn sống, tôi đã nêu gương xấu, hãy tha lỗi cho tôi”                       

   (Jean Cassaigne )

LINH MỤC VIỆT NAM HÔM NAY ĐANG TRONG CƠN LỐC TỰ DO CÓ PHẦN KHÔNG LÀNH MẠNH …

(Bài viết của Đức Giám Mục Anphong NGUYỄN HỮU LONG).

Nguy cơ của linh mục là được giáo dân quý mến thái quá, coi linh mục như Chúa : “Cha nói là Chúa nói”, “Ai vâng lời cha là vâng lời Chúa”, muốn chào cha thì phải “xin phép lạy cha”!… Điều đó dễ khiến linh mục quên mất sự dòn mỏng, yếu đuối, bất xứng… của mình.

– Đó đây, thỉnh thoảng, đã có những lời bình phẩm linh mục này hách dịch, cha kia ăn nói linh tinh, lối sống không phù hợp… Một phần lỗi, phải nhận rằng do giáo dân đã quá đề cao linh mục. Xin đừng nâng linh mục lên cao quá, để rồi thất vọng khi thấy linh mục không được như mình mong đợi

Anh chị em muốn thương yêu linh mục đúng cách thì xin lưu ý mấy điểm sau đây :

– Hãy cầu nguyện cho các linh mục. Linh mục cần lời cầu nguyện lắm, vì sứ vụ và trách nhiệm của linh mục rất nặng nề. Nhiều khi anh chị em xin linh mục cầu nguyện cho mình, mà quên cầu nguyện cho linh mục.

– Hãy tôn kính linh mục vì là người thay mặt Chúa hướng dẫn giáo dân. Nhưng hãy tôn kính cách đúng mực, bình dị, thân tình, chứ đừng thần thánh hóa, khép nép, sợ hãi, tâng bốc. Linh mục là người của Chúa và của mọi người, chứ không phải của riêng ai.

– Hãy nâng đỡ tinh thần cho linh mục. Linh mục cũng cần sự nâng đỡ, nhất là trong những lúc gánh nặng của sứ vụ đè trên đôi vai và trong tâm hồn. Tôi xin anh chị em quan tâm nâng đỡ tinh thần, chứ không phải vật chất, cho các linh mục. Chỉ chú trọng nâng đỡ vật chất sẽ có thể làm thoái hóa linh mục.

– Hãy cộng tác cách chân thành, tích cực và hữu hiệu, để linh mục chu toàn sứ vụ của mình. Linh mục chẳng thể làm được gì nếu không có giáo dân đồng tâm hiệp lực.

Lời của Mẹ Têrêsa Calcutta, người rất quý mến linh mục. Mẹ khuyên thế này:

“XIN CHA DÂNG THÁNH LỄ NÀY

NHƯ THÁNH LỄ ĐẦU TIÊN,

NHƯ THÁNH LỄ CUỐI CÙNG,

VÀ NHƯ THÁNH LỄ DUY NHẤT

CHỈ CÓ MỘT LẦN TRONG ĐỜI”.

(Gm Anphong Nguyễn Hữu Long – Giám mục Phụ tá Hưng Hóa)

Đức Cha Jean Cassaigne 

Bên cạnh Làng Cùi Di-Linh, tỉnh Lâm Ðồng, có ngôi mộ của Ðức Giám Mục Jean Cassaigne (Gioan Sanh,) vị sáng lập giáo xứ và làng cùi tại Di-Linh. Trên bia mộ Ðức Giám Mục De Cassaigne, có khắc hai dòng chữ sau đây:

“Tôi xin những người nào, mà khi còn sống, tôi không giúp đỡ được gì, hãy tha lỗi cho tôi”

“Tôi xin những người nào, mà khi còn sống, tôi đã nêu gương xấu, hãy tha lỗi cho tôi”

Ngay sau khi Ðức Cha Jean Cassaigne tấn phong Cha Simon Hòa Hiền (cựu Giám Mục Ðịa Phận Ðàlạt) năm 1955, thay vì về lại Pháp là nơi Ðức Cha Cassainge đã lớn lên, Ngài đã trở lại để vui sống với anh em bệnh nhân trại cùi, một làng nhỏ chính tay Ngài tạo dựng mấy mươi năm về trước. Tại làng nhỏ bé này, Ngài vừa làm Cha sở, Thầy giảng, Giám đốc, Y tá, chăm nom chu đáo cho tất cả bệnh nhân mọi tôn giáo, trẻ già, với sự cộng tác nhiệt thành của các sơ dòng Bác Ái Vinh Sơn. Ngài quyết tâm sống chết với con cái cùi hủi của Ngàị

Trong cuốn “Lạc Quan Trên Miền Thượng” [1] do Linh Mục Giuse Phùng Thanh Quang viết vội vào năm 1972 về cuộc đời hy sinh cho người cùi của Ðức Cha Cassaigne, lúc Ðức Cha Cassaigne đang đau quằn quại thê thảm với những cơn đau khủng khiếp cuối đời. Một đời hy sinh thật cao quý của Ðức Cha Cassaigne mà có lẽ nay còn rất ít người có biết và nhớ đến.

Cha Cassaigne được thụ Phong chức Linh Mục năm 1925 tại chủng viện Rue du Bac của Paris. Qua Sài Gòn ngay sau đó và nhận nhiệm sở thí điểm truyền giáo vùng ma thiêng nước độc Di Linh (DJIRING) năm 1927. Ngài đã yêu thương những người “Mọi cùi” đến độ đã sống giữa người cùi, tắm rửa, săn sóc cho những người cùi, đã thương yêu họ cho đến khi họ chết. Cha Cassaigne đã kể một câu chuyện có lần Ngài giúp những người cùi thức ăn gồm có gạo, muối, và thịt naị Có một bà cùi hàng tuần đến lấy phần ăn, nhưng tuần đó không thấy đến. Cha Cassaigne đến lều tranh tìm bà thì thấy bà ta sắp chết với mủ nhớt nhầy nhụa, mùi hôi thối không chịu được xông ra từ mảnh thân héo tàn đáng thương xót nàỵ. Cha vội lo dạy bà những điều về Thiên Chúa và hỏi bà ta có muốn Cha rửa sạch những tội lỗi để bà được lên Trời sau khi chết không? Người cùi đáng thương đồng ý được rửa tội và nói với Cha Cassaigne rằng:

“Cau dờng! Ăn rơp kăh dơ mê dỡ ăn gũh rê hơ trồ”
” Ông lớn ơi! Tui sẽ nhớ đến ông khi tôi ở trên Trời”

Cái chết tội nghiệp nhưng tốt lành của bà Thượng cùi đã làm khích động thật sâu xa tâm hồn Tông Ðồ của vị Linh Mục Thừa Saị Câu nói “Tôi sẽ nhớ Cha khi được ở trên Trời” là viên đá đầu tiên được đặt xuống để khởi đầu công cuộc thành lập làng cùi tại Di Linh.

Trong khoảng thời gian đó, ở miền Trung cũng như ở miền Nam nước Việt cũng có những trại cùi với số người bệnh tương đối ít. Trong khi ở vùng đất xa xôi có đến hàng trăm người cùi, lại không có chỗ cho họ ở. Theo lời Linh Mục Phùng Thanh Quang kể lại.

Một ngày cuối Thu năm 1928, trong chuyến đi thăm một làng Thượng xa, đang băng qua rừng vắng thì bỗng có tiếng chân nhiều người dồn dập từ trong vùng tối âm u, nhiều giọng la ú ớ kêu Ngài dừng lại. Những bóng dáng quái dị xuất hiện như một đoàn ma đói. Thân hình xác xơ, kẻ mất tay, người sức mũi, miệng chảy nước lòng thòng và tất cả hầu như què quặt. Họ mặc dù có người khập khiểng, có người vừa bò vừa lết, và đói, cố đuổi theo Cha bao vây lấy Ngài và tất cả đồng gào lên thảm thiết:

“Ơ cau dơng! Ơ cau dơng! Dăn nđàc sơngit bol hi!”
Ới ông lớn! Ới ông lớn! Xin thương xót chúng tôi!

Rồi tất cả sụp lạy Ngài và khóc rống. Cha Cassaingne vừa sợ hãi, vừa mủi lòng. Thì ra đây là nhóm người cùi bị xóm làng kinh tởm đuổi đi, họ tụ tập từng nhóm ngoài rừng xa, sống lây lất qua ngày để chờ chết. Có lẽ họ đã nghe lời đồn đãi về ông lớn làm thuốc và hay thương giúp người cùi này. Họ chờ Cha trên khúc đường vắng để nhờ Cha giúp đỡ. Vài ngày sau, đó, việc lập làng cùi Di Linh được xúc tiến ngay [3] Trong bài thuyết trình của Cha Cassaigne tại Sài Gòn năm 1943 về bệnh cùi khủng khiếp như thế nào, Ngài viết:

Ở xứ Thượng cũng như hầu hết các xứ vùng nhiệt đới, nơi mà sự ăn ở sạch sẽ và phương pháp vệ sinh ít được lưu ý, thì con số người mắc bệnh cùi khá cao. Khi mà có thể còn làm việc được thì người mắc bệnh cùi vẫn còn được sống chung với gia đình. Nhưng đến khi thân tàn ma dại không làm gì được nữa, nhất là khi các vết ung thối bắt đầu phá miệng lở loét ra, mủ máu vấy đầy khiến những người chung quanh nhờm gớm kinh tởm không chịu được, thì dân làng đưa họ vào rừng, cất cho họ một túp lều tranh để người cùi ở lại đó một mình sống chết sao mặc kệ! Rồi yếu liệt cô đơn trong túp lều hiu quạnh, người cùi không còn sức làm gì nữa để kiếm ăn vì tay chân cụt mất rồi! Họ sẽ chết dần chết mòn một cách thảm khốc, sẽ gục ngã ở một xó kẹt nào đó rồi chết đi vì đói lạnh, mà chẵng có ai hay biết…”

Trước khi mắc bệnh, mỗi lần thuyết trình đến đây, cha Cassaigne không sao cầm được nước mắt, phần thì thấy thương những người xấu số, phần thì chắc Ngài cảm thấy lo âu sợ sệt như linh cảm thấy trước định mệnh sẽ đến, Ngài run sợ như chính mình đang mắc chứng bệnh nan y nàỵ

Các việc làm nhân đức của Cha Jean Cassaigne đã đưa Ngài từ một căn lều tranh để phục vụ người hủi tới tận tai Tòa Thánh La Mã. Ngài được bổ nhiệm chức Giám Mục và Ngài phải tuân lệnh Toà Thánh về làm việc tại Ðiạ Phận Sài Gòn. Trong hơn 14 năm giữ chức vụ này, Ðức Giám Mục Cassaigne đã đôn đốc thực hiện công cuộc bác ái, cứu trợ vật chất, ủy lạo tinh thần cho những người gặp cảnh bất trắc nghèo khó, di cư tị nạn, không phân biệt địa phương hay tôn giáọ. Vì nhớ đám dân cùi, Ngài xin từ nhiệm chức Giám Mục Sài Gòn để trở về băng bó vết thương tinh thần và vật chất cho những đứa con cùi hủi của Ngài tại làng cùi Di Linh.

Vì sống một đời sống quá khắc khổ trong rừng nên Ðức Cha đã mang nhiều bịnh nặng. Từ năm 1929, Ngài đã mắc bịnh sốt rét rừng. Năm 1943, bịnh cùi đã đến với Ngài vì sống gần gũi với người bịnh; từ năm 1957, bịnh lao xương làm không thuốc chữa Ngài đau đớn, và năm 1964, bịnh lao phổi trở lại hành hạ thân Ngàị. Ðức Cha đau đớn tột cùng với những cực hình thể xác, nhưng luôn luôn vững lòng chấp nhận để xin Chúa thương mà giảm bớt cái đau của những người hủi tại Việt Nam. Những ai may mắn sống gần Ðức Cha thường được nghe Người nói:

– “Ðời tôi chỉ có ba ước nguyện: được chịu đựng, chịu đau, và chịu chết ở đây, giữa những người Thượng của tôi”
(Je ne demande que trios choses: tenir, souffrir, et mourir ici, au milieu de mes Montagnards).

Chúa đã nhận lời cầu xin của Ðức Cha, đã cho Ngài mang lấy bốn chứng bệnh nan y. Ðã giúp sức cho Ngài chịu đựng quá lâu dài. Những ngày cuối cùng tuy đau đớn, nhưng Người vẫn đọc kinh cầu nguyện cho nước Việt Nam, cho các người cùi. Người nói:

“Suốt 47 năm dài, Cha đã sống giữa các con, đã sống tại Việt Nam này, và đã dâng hiến tất cả cho các con. Giờ đây, Cha không tiếc một điều gì về sự dâng hiến toàn diện ấy”.

Theo lời từ biệt của ông Nguyễn Thạch Vân, đọc trong lễ an táng Ðức Cha Cassaigne tại Di Linh ngày 11 tháng 5, năm 1973 kể lại, Cha Cassaigne còn nói:

“Việt Nam chính là quê hương của Cha, bởi vì Chúa muốn như vậy”.

Khi nói đến câu: “Nước Việt Nam là quê hương của tôi”. Ðức Cha chấp tay như để cầu nguyện, và Ngài khóc! Ðây là giòng lệ Thánh cầu nguyện của một Tông đồ Truyền giáo, đã tận hiến đời mình cho lớp người khốn khổ, bất hạnh nhất trên cõi đời này.

Năm 1972, Ðức Cha đã được trao tặng Ðệ Tứ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương trên giường bệnh và đã qua đời tại Di-Linh ngày 31-10-1073

From: Do Tan Hung & Nguyễn Kim Bằng

MẸ TERESA CALCUTTA

MẸ TERESA CALCUTTA

 Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

Chứng từ của đức cha Angelo Comastri về mẹ Teresa Calcutta (1910-1997), sáng lập viên dòng các Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái.  Đức Tổng Giám Mục Angelo Comastri đại diện Tòa Thánh đặc trách đền thánh Đức Mẹ Loreto, miền Bắc nước Ý.

…. Từ lúc còn trẻ, tôi đã có nhiều liên hệ thân tình với mẹ Teresa Calcutta.  Một lần gặp tôi, mẹ đưa đôi mắt trong suốt và sâu thẳm nhìn tôi rồi đột ngột hỏi:

–          Con cầu nguyện mỗi ngày mấy giờ?

Ngạc nhiên trước câu hỏi bất ngờ, tôi lúng túng tìm cách chống chế:

–          Con tưởng mẹ sẽ nhắc nhở con sống bác ái, yêu thương giúp đỡ người nghèo chớ!  Đàng này mẹ hỏi con cầu nguyện mỗi ngày mấy giờ?

Mẹ Teresa liền nắm chặt hai bàn tay tôi, rồi siết mạnh như thông truyền cho tôi điều mẹ hằng ấp ủ trong lòng.  Mẹ nói:

–          Con à, nếu không có Thiên Chúa hỗ trợ, chúng ta quả thật quá nghèo để có thể giúp đỡ người nghèo.  Con nên nhớ: Mẹ chỉ là phụ nữ nghèo luôn cầu nguyện.  Chính trong khi cầu nguyện mà Thiên Chúa đặt Tình Yêu Ngài vào lòng mẹ và nhờ thế, mẹ có thể giúp đỡ người nghèo. Con nhớ cho kỹ nhé: Mẹ giúp đỡ người nghèo vì mẹ hằng cầu nguyện, mẹ cầu nguyện luôn luôn!

Tôi không bao giờ quên cuộc gặp gỡ lần đó.  Sau này, chúng tôi còn gặp nhau nhiều lần nữa..  Năm 1979, mẹ Teresa được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình.  Giải thưởng khiến mẹ gần như khép nép và trở nên nhỏ bé trong bàn tay Thiên Chúa.  Mẹ Teresa đi Oslo, thủ đô Na Uy, lãnh giải thưởng mà trong tay nắm chặt tràng chuỗi Mân Côi.  Người ta trông thấy những ngón tay mẹ thô kệch và xấu xí, vì lao công vất vả và vì thường xuyên chăm sóc các trẻ em, những người bệnh tật, già yếu và nghèo nàn.  Biết rõ thế nên không ai nỡ trách mẹ dám công khai bày tỏ lòng kính mến Trinh Nữ MARIA trong một xứ sở toàn tòng là tín hữu tin lành Luther!

Trên đường trở về từ Oslo, mẹ Teresa Calcutta dừng lại tại Roma.  Các ký giả chen chúc chờ đợi gặp mẹ trong khuôn viên nhỏ bé của ngôi nhà cộng đoàn các nữ tu thừa sai bác ái ở Monte Celio.  Mẹ Teresa không để cho các ký giả tấn công.  Trái lại, mẹ tiếp họ như những người con.  Mẹ nhẹ nhàng đặt vào tay mỗi người một ảnh đeo Đức Mẹ Vô Nhiễm.  Các ký giả ráo riết bao vây mẹ để chụp hình và để phỏng vấn.  Một ký giả táo bạo hỏi:

–          Thưa mẹ, năm nay mẹ 70 tuổi.  Khi mẹ qua đời thế giới cũng sẽ như trước!  Vậy đâu có gì thay đổi sau bao nhiêu cực nhọc?

Mẹ Teresa đăm đăm nhìn chàng ký giả trẻ tuổi và nở một nụ cười thật tươi, nụ cười như một cái vuốt ve trìu mến, rồi mẹ từ tốn nói:

–          Anh thấy đó, tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có thể thay đổi thế giới.  Tôi chỉ tìm cách trở thành một giọt nước trong, một giọt nước lóng lánh rạng ngời Tình Yêu Thiên Chúa, thế thôi.  Anh cho là quá ít sao?

Chàng ký giả trẻ tuổi lúng túng…  Các ký giả khác đứng im không nhúc nhích.  Mẹ Teresa thản nhiên tiếp tục cuộc đối thoại:

–          Anh cũng nên cố gắng trở thành một giọt nước trong, như thế, sẽ có hai giọt nước trong.  Anh lập gia đình chưa?

–          Dạ rồi, chàng ký giả đáp.

–          Vậy anh cũng nên nói với vợ và như thế chúng ta sẽ là ba giọt nước trong.  Anh có con chưa?

–          Thưa mẹ, ba đứa!

–          Tốt lắm.  Vậy anh cũng nên nói với các con anh, và như thế, tất cả chúng ta sẽ là sáu giọt nước trong!

Năm 1988 mẹ Teresa Calcutta đến thăm tôi ở Porto Santo Stefano, một thị trấn nằm gần Roma.  Năm ấy tôi là cha sở của họ đạo.

Tôi còn nhớ như in cuộc gặp gỡ.  Hôm đó là ngày 18 tháng 5, một ngày tuyệt đẹp của tháng Hoa dâng kính Đức Mẹ.  Bầu trời trong xanh.  Trên biển, sóng nước lăn tăn như nhí nhảnh tươi cười.  Mẹ Teresa lặng lẽ chiêm ngắm cảnh đẹp rồi đột ngột nói với chúng tôi:

–          Cảnh vật nơi đây tuyệt đẹp.  Sống trong một khung cảnh tuyệt đẹp, quí vị cũng phải nhớ chăm sóc cho linh hồn mình thật đẹp!

Vào cuối buổi Canh Thức Cầu Nguyện tối hôm đó, xảy ra một câu chuyện như sau.  Một kỹ nghệ gia giàu có trong vùng muốn dâng cúng ngôi biệt thự sang trọng của ông để mẹ Teresa tiếp đón những người bị bệnh liệt kháng.  Ông cầm trong tay bộ chìa khóa và muốn trao ngay cho mẹ.  Nhưng mẹ Teresa nói:

–          Tôi phải cầu nguyện và suy nghĩ trước đã, vì tôi không biết có nên đưa các bệnh nhân liệt kháng vào một nơi chốn giàu sang để chăm sóc không.  Biết đâu sẽ làm cho họ đau khổ gấp đôi!

Mọi người thầm cảm phục sự dè dặt khôn ngoan của mẹ.  Tuy nhiên, nhiều người cho là mẹ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng.  Do đó, một người cảm thấy có bổn phận khuyên mẹ:

–          Thì mẹ cứ nhận chìa khóa đi, rồi sẽ tính sau!

Nhưng mẹ Teresa quyết liệt trả lời:

–          Không, thưa ông không.  Những gì tôi không cần đều trở thành gánh nặng! 

Câu nói của mẹ làm tôi nhớ đến thánh Bonaventura viết về thánh Phanxicô thành Assisi như sau:
“Người đời yêu giàu sang thế nào Phanxicô cũng yêu khó nghèo như thế!”

… Năm 1991, cũng vào một ngày tuyệt đẹp trong tháng Năm, mẹ Teresa Calcutta lại đến thăm tôi ở Massa Maritima, cách Roma không xa.  Mẹ cho tôi biết ý định mở một nhà dành cho các Nữ Tu Chiêm Niệm Thừa Sai Bác Ái.  Mẹ giải thích:

–          Các nữ tu cầu nguyện trước Nhà Tạm có Mình Thánh Chúa, sẽ chiếu tỏa ra chung quanh ánh sáng của lòng nhân hậu.  Chúng ta cần có những con tim trong sạch để tiếp đón TÌNH YÊU!  Những con tim thật trong sạch!

Từ Massa Maritima chúng tôi dùng trực thăng để đưa mẹ Teresa đến đảo Isola d’Elba, tham dự một buổi Cầu Nguyện.  Ngồi trên trực thăng, tôi chỉ cho mẹ thấy những địa điểm quan trọng của đảo… Bỗng chốc, một người trong nhóm đến quỳ bên cạnh tôi run rẩy thú nhận:

–          Thưa cha, con không rõ chuyện gì xảy đến cho con.  Con có cảm tưởng chính Thiên Chúa đang nhìn con qua cái nhìn của người phụ nữ này! 

Quay sang mẹ Teresa, tôi lập lại lời người đàn ông vừa nói.  Mẹ Teresa nhẹ nhàng đáp:

–          Xin cha nói với ông ta, đã từ lâu lắm rồi, Thiên Chúa vẫn nhìn ông.  Nhưng chính ông đã không nhận ra Ngài!  THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU!  Rồi nhìn sang người đàn ông, mẹ Teresa giơ tay siết mạnh tay ông, và trao cho ông một vài ảnh đeo Đức Mẹ, như những nụ hôn đượm đầy hương thơm của TÌNH YÊU THIÊN CHÚA!

Đó là vài hình ảnh sống động của mẹ Teresa Calcutta: đơn sơ, hiền dịu, khiêm tốn, trong sáng và chiếu tỏa TÌNH YÊU THIÊN CHÚA!

Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

Langthangchieutim gởi

Phép lạ Hiroshima – Nhật Bản.

 Phép lạ Hiroshima – Nhật Bản.

– Các tu sỹ dòng Tên sống sót sau vụ ném bom nguyên tử nhờ lần hạt Mân Côi.

Đã 70 năm trôi qua, kể từ khi lần đầu tiên và duy nhất, vũ khí hạt nhân nổ ở Hiroshima ngày 06-8, và Nagasaki ngày 09-8-1945.

Cuộc tấn công nguyên tử lên thành phố Hiroshima đã giết hại khoảng 80 ngàn người ngay lập tức, ngoài ra cũng chịu trách nhiệm cho khoảng 130 ngàn cái chết khác, hầu hết là dân thường. Cuộc tấn công vào thành phố cảng Nagasaki đã giết hại ngay lập tức khoảng 40 ngàn người, và hủy hoại 1/3 thành phố.

Bốn tu sỹ dòng Tên sống gần tâm nổ của quả bom thả xuống Hiroshima, nhưng họ đã sống sót qua thảm họa, và phóng xạ đã gây nên cái chết của hàng ngàn người suốt nhiều tháng sau đó cũng không có tác hại gì trên họ.

Các linh mục dòng Tên gồm Hugo Lassalle, Hubert Schiffer, Wilhelm Kleinsorge, và Hubert Cieslik, đang ở trong nhà xứ của nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời, một trong số ít những toà nhà đứng vững sau vụ nổ hạt nhân này.

Cha Cieslik viết trong nhật ký rằng họ chỉ bị thương nhẹ do các mảnh kính vỡ, nhưng không chịu bất kỳ tác hại nào từ năng lượng nguyên tử cả.

Bác sỹ chăm sóc cho họ sau đó đã cảnh báo rằng phóng xạ mà họ hứng phải sẽ gây nên các tổn thương nghiêm trọng, bệnh tật và cái chết không xa.

Nhưng chuẩn đoán này không bao giờ ứng nghiệm. Không một biến chứng nào xảy ra, và vào năm 1976, cha Schiffer dự Đại hội Thánh Thể ở Philadelphia, và kể về chuyện đời mình. Cha xác nhận rằng 3 tu sỹ dòng Tên khác vẫn còn sống mà không bị bệnh tật gì. Đã có vài chục bác sỹ, khám đi khám lại hơn 200 lần, nhưng vẫn không dò thấy bất kỳ dấu vết phóng xạ nào trong người các cha dòng Tên này.

Cả 4 cha đều tin chắc rằng họ đã được Chúa và Đức Trinh nữ Maria che chở.  ‘Chúng tôi sống thông điệp Fatima và lần hạt mỗi ngày.’

J.B. Thái Hòa  chuyển ngữ

Anh chị Thụ & Mai gởi

Chạm vào vạt áo Chúa

Chứng từ chia sẻ sau khi hết bịnh băng huyết.

 Chạm vào vạt áo Chúa

Suốt từ năm 2008 đến 2014 tôi bị bệnh băng huyết, tôi có cục bướu xơ cứng ở dạ con nên mỗi tháng khi hành kinh, tôi bị xuất huyết xối xả, phải vào bệnh viện cấp cứu và tiếp máu. Bác sĩ không mổ vì nói bướu còn nhỏ, chờ đến sau 50 tuổi nó sẽ tự động teo, nhưng tôi phải sống trong tình trạng mỗi tháng xuất huyết gần cả tuần.

Có một lần tôi vào phòng cấp cứu nặng, bác sĩ nói «chỉ cần đến trễ một giờ là chết, vì không đủ máu vào tim». Chỉ số máu của phụ nữ bình thường là 200, tôi chỉ có 60. Tôi gầy nhom, xanh xao như chiếc lá vàng vì thiếu máu trầm trọng. Tôi nghĩ làm vì không đủ sức ra khỏi nhà. Giữa tháng 7 nóng nảy mà tôi mặc áo măng-tô mùa đông, tay mang găng tay, cổ quấn khăn quàng nhưng vẫn lạnh căm căm và run lẩy bẩy, tôi không ăn uống được, chỉ thèm một miếng thịt bò bít-tếch.

Tôi phải lót bao rác đen trên giường nằm vì máu chảy liên tục. Tôi thều thào, tôi không còn sức nói chuyện, mệt lã người, tôi nằm liệt, không nhúc nhích.

Lúc đó tôi chưa rửa tội, chưa biết Chúa, tôi chỉ biết bám vào cha Diệp. Tôi khấn với cha Diệp rất đơn sơ, qua một tấm hình trên Thời Báo.

Khi ở phòng cấp cứu, tôi gặp một bác sĩ trẻ, ông chích một mũi thuốc, máu cầm tức khắc. Mũi thuốc này tốn 1000$, bảo hiểm trả 800$ và tôi trả phần còn lại. Cứ ba tháng, tôi chích một lần. Tôi khỏe mạnh và đầy đủ máu trở lại trong vòng năm năm từ 2008 đến 2013. Thời gian này tôi rất kính mến cha Diệp, cha đã cứu tôi qua được cảnh thập tử nhất sinh. Nhưng bác sĩ cho biết, không thể chích thuốc cầm máu này mãi, nó sẽ làm thay đổi kích thích tố và có nhiều phản ứng phụ. Ông khuyên ngưng chích một lần. Và thật là tai hại, tôi bị băng huyết lại, lại đi cấp cứu, lại chích thuốc cầm máu.

Tháng 9 năm 2014, vợ chồng tôi đi học giáo lý, thầy Lâm dạy giáo lý khuyên chúng tôi nên về nhà xem phim «Chúa Giêsu» để biết cuộc đời và cái chết của Ngài.

Lần đầu tiên trong đời chúng tôi xem phim Chúa. Khi đến đoạn «người đàn bà bị bệnh hoại huyết ngồi bên đường nắm vạt áo Chúa Giêsu khi Ngài đi ngang qua, và bà lành bệnh.» Tôi nghe Chúa nói câu: «Đức tin của con đã cứu con», tôi bật khóc vì chính tôi cũng đang bị bệnh giống bà. Tôi ngưng đoạn phim đó, vừa khóc rưng rức vừa đặt tay mình vào màn hình có vạt áo Chúa trong phim, tôi kể với Chúa: «Chúa Giêsu Kitô ơi, 2000 năm trước Chúa đã chữa lành cho người đàn bà này thoát chết, thì bắt đầu từ hôm nay, bằng quyền năng vô song của Chúa, xin Chúa chữa lành cho con vĩnh viễn, để con không bị tái lại, để con không phải bị chích thuốc và không đi cấp cứu. Nếu con chết lúc này khi chưa được vô đạo thì làm sao con có thể viết lại chứng từ về giấc mơ Chúa dặn dò, nhất định Chúa muốn con phải sống để làm chứng cho Chúa, con tin chắc chắn như vậy.»

Và thật lạ lùng, bàn tay tôi bỗng dưng nóng hổi, khắp người tôi như có ngọn lửa âm ỉ hâm nóng toàn thân. Và tâm linh tôi trở nên rất mạnh mẽ, tôi thầm thì với Ngài: «Con đặt trọn vẹn niềm tin vàp Đấng Tối Cao chữa lành cho con qua lời cầu bàu của cha Diệp.»

Từ tháng 9 năm 2014 đến tháng 12-2016, tôi đã hoàn toàn khỏe mạnh, không chích thuốc, không vào cấp cứu, tôi đủ máu để sống, hăng say làm việc, vui tươi hớn hở, tôi cảm nghiệm như có một sức mạnh vô hình bao quanh tôi.

Và tôi giữ lời hứa với Chúa, nhiệt tình đi nhiều nơi chia sẻ ơn Chúa.

Tình cờ ngày 13 tháng 11-2016, tôi chia sẻ ơn lành này cho chị Tuyết và nhóm tân tòng vô đạo năm 2015 ở nhà thầy Lâm, cha mẹ đỡ đầu của tôi. Chị Tuyết cho tôi biết, Hồng con gái của chị cũng đang bị bệnh băng huyết 7 tháng nay, cứ ra vào nhà thương và đang trầm trọng, xanh xao như xác chết. Nhưng Hồng không chịu chích thuốc theo toa bác sĩ vì một mũi thuốc 1000 đồng đắt quá. Chị Tuyết sợ con gái chết, chị khóc lóc đau khổ vì không biết làm sao cứu con mình được sống khỏe mạnh lại như xưa. Tôi rủ chị đi nhà thờ St-Marc của cộng đồng Việt Nam, đặt tay chị vào vạt áo tượng Chúa, tôi khấn nguyện và kêu chị cùng đọc theo: «Lạy Chúa là Cha nhân lành, năm 2014 Chúa đã chữa cho con, từ hôm nay xin Chúa chữa lành bệnh băng huyết cho Hồng con của chị Tuyết bằng đôi tay ấm áp ân cần tuyệt diệu của Chúa. Con cầu xin điều này nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen».

Hai tuần sau, ngày 27 tháng 11-2016, Hồng đã có sức khỏe và đi Mỹ thăm bà con với chị Tuyết. Ngày 10 tháng 12, chị Tuyết vừa điện thoại cho tôi vừa khóc, chị cho biết, «bác sĩ đã thử máu cho Hồng và nói tốt, ông đã cho Hồng đi làm lại. Chị cho biết Hồng đã vui tính lại vì suốt 7 tháng qua phải nằm nhà.»

Cảm tạ Chúa giàu lòng thương xót đã chữa lành bậnh tật cho con và con cũng xin Chúa chữa lành bệnh tật cho Hồng để Hồng bình phục hoàn toàn, không tái phát lại.

Rất yêu kính Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.

Anna Maria Phanxicô Dung Nguyễn

12-12-2016

From: Hang nguyen & Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Luyện Ngục Ở Đâu

Luyện Ngục Ở Đâu

L.m. Mark, CMC

* Kinh Thánh không nói rõ Luyện ngục ở đâu, nhưng chắc chắn phải có một nơi nào đó để giam giữ các linh hồn cần thanh tẩy trước khi vào Thiên đàng.

* Giáo hội dạy: “Luyện ngục là một nơi và là một tình trạng thanh tẩy tạm thời mà nhiều linh hồn phải chịu phạt ở đó” (FCD p.482).
– Luyện ngục ở trong lòng đất:

* Theo ý kiến chung các nhà thần học như Thánh Augustinô, thánh Bêđa, Bellarminô… thì Luyện ngục ở trong lòng trái đất.

* Theo thánh Tôma Aquinô thì “Ý kiến có thể nhận được, và thấy hợp với những lời các thánh được mạc khải tư là Luyện ngục có hai nơi: một nơi dành chung cho các linh hồn, nơi này gần hoả ngục hơn; một nơi dành riêng cho một số trường hợp không thông thường, từ nơi này nhiều linh hồn được phép hiện về” (Purgatory p. 9).

* Thánh nữ Têrêsa Avila thương các linh hồn Luyện ngục cách đặc biệt. Bà hay giúp các linh hồn bằng lời cầu nguyện, hi sinh và việc từ thiện. Ðể thưởng công, Thiên Chúa thường cho bà được thấy các linh hồn lúc ra khỏi Luyện ngục về Thiên đàng. Các linh hồn này từ lòng đất đi ra. Bà thánh viết: ” Tôi được tin một Bề trên Tỉnh dòng mà tôi quen biết đã qua đời. Khi còn sống ngài đã giúp tôi nhiều. Dù vị tu sĩ này được coi là có nhiều nhân đức, nhưng tôi thấy cần cầu nguyện cho linh hồn ngài, bởi ngài làm Bề trên trong thời gian 20 năm, nên tôi e ngại nhiều về việc săn sóc các linh hồn đã được trao phó cho ngài. Phiền muộn, tôi đi tới nhà Nguyện dâng lên Chúa chút việc lành đã làm, và van nài công nghiệp vô cùng của Chúa, xin giải thoát linh hồn vị Bề trên này khỏi Luyện ngục. Trong khi tôi đang sốt sắng khẩn nài như vậy, tôi thấy vị Bề trên này từ lòng đất đi lên phía bên phải tôi, rồi lên thẳng Thiên đàng cách vui vẻ. Vị Bề trên này đã cao tuổi, nhưng tôi thấy dáng người như ở tuổi ba mươi, vẻ mặt rạng ngời ánh sáng. Thị kiến này xảy ra rất ngắn, nhưng tôi không nghi ngờ chút nào về sự thật tôi đã được thấy. Dù ở xa chô ngài qua đời, đôi khi tôi cũng cảm thấy cái chết của ngài, nước mắt ngài chảy ra và khiêm tốn phó mình cho Thiên Chúa.

“Một nữ tu dòng tôi, qua đời chưa được hai ngày, khi chúng tôi đang đọc kinh nguyện cho chị, tôi thấy linh hồn chị đi từ lòng đất lên thẳng Thiên đàng.

“Cũng trong tu viện này, một nữ tu khác quãng 18 đến 20 tuổi mới qua đời. Chị thật là một mẫu gương sốt sắng, kỉ luật và nhân đức. Ðời chị đã chịu nhiều đau khổ, bệnh nạn cách rất kiên trì. Tôi không nghi ngờ gở khi thấy cuộc sống như vậy, nghĩ rằng chắc sẽ khỏi phải vào Luyện ngục. Tuy nhiên, sau khi chị qua đời mười lăm phút, lúc chúng tôi đang cầu cho chị trong nhà Nguyện, tôi thấy linh hồn chị từ lòng đất bay thẳng về trời” (Purgatory p. 11-13).

* Theo hạnh tích thánh Lui Bertrand dòng thánh Ðaminh do cha Antist cùng dòng và sống cùng thời với thánh nhân viết trong cuốn Acta Sanctorum kể rằng: ngày 10 tháng Mười năm 1557, khi thánh Bertrand trông coi tu viện tại Valenti, cả thành phố bị ôn dịch. Cơn dịch khủng khiếp lan nhanh như vũ bão đe dọa sinh mạng mọi người. Trong tu viện của ngài có cha Clement ước ao được chết cách thật thánh thiện, đã xưng tội chung với thánh nhân, cha còn nói: Thưa cha, nếu con chết bây giờ, con sẽ hiện về cho cha biết tình trạng của con ở đời sau”. Cha Clement đã chết thật. Ðêm hôm sau ngài hiện về với thánh nhân. Cha nói rằng cha đang ở trong Luyện ngục để đền một số tội nhẹ, và nhờ thánh nhân xin cộng đồng tu viện cầu cho mình. Thánh Bertrand lập tức đi xin anh em cầu nguyện và dâng thánh lễ cho cha Clement. Sáu ngày sau, một người dân trong thành, không hay biết gì về cha Clement đã qua đời, đã tới xưng tội với cha Betrand, cho biết là linh hồn cha Clement mới qua đời đã hiện về với mình. Ông thấy đất mở ra, và linh hồn cha Clement bay thẳng về trời giống như một ngôi sao rực sáng” (Purgatory p. 13-14).

* Trong hạnh tích bà thánh Madalena de Pazzi, cha linh hồn bà là Cepari dòng Tên có ghi lại rằng: Bà thánh đã được chứng kiến một nữ tu trong dòng chết ít lâu trước. Một hôm, khi thánh nữ đang qùi chầu Mình Thánh, ngài thấy linh hồn nữ tu đã qua đời từ Luyện ngục trong lòng đất đi lên. Nữ tu khoác chiếc áo choàng lửa, bên trong là chiếc áo choàng sáng láng che chở cho nữ tu khỏi nóng rát. Nữ tu qùi hàng giờ tại chân bàn thờ, thờ lạy Chúa ẩn mình trong hình bánh. Ðây là giờ đền tội cuối cùng trước khi nữ tu được bay thẳng về trời”.

– Ðền tội tại nơi phạm lỗi:

Ngoài nơi nhất định là trong lòng đất như trên, một vài Chân phước còn cho biết thêm: Không những bị phạt trong Luyện ngục, mà có khi còn bị phạt tại một nơi nào đó, có khi gần mồ mả, gần bàn thờ Mình Thánh Chúa, có khi trong căn phòng nơi có người cầu nguyện cho mình, có khi ngay tại nơi linh hồn đã phí phạm thời giờ khi còn sống.

* Chân phước Frances Thánh Thể đã thấy linh hồn các nữ tu chịu cực hình ngay tại phòng ngủ, tại nơi hát kinh của Tu viện, nơi các nữ tu đã phạm lỗi ngày trước.

* Chân phước Benađô Colagno dòng Tên thấy một linh hồn bị phạt 43 năm tại một đường phố thành Rôma.

Bàn tay linh hồn hiện về in vào tường trước khi trở lại Luyện ngục. Hình trên hiện còn giữ tại Nhà thờ Luyện ngục tại Rôma

L.m. Mark, CMC

Anh chị Thụ & Mai gởi

QUYỀN NĂNG CỦA LỜI CHÚA

QUYỀN NĂNG CỦA LỜI CHÚA

Pha-mát là tên cướp nổi danh tại một vùng ở Ấn Ðộ. Hắn và đồng bọn thường cướp đoạt và tẩu thoát rất nhanh khi đã lấy của hay giết người.

Một ngày nọ Pha-mát vào cướp một ngôi nhà. Sau khi đã lấy của, hắn nhìn lại một lần chót trước khi bước ra. Hắn thấy một cuốn sách nhỏ bìa đen, giấy thật mỏng, hắn nhặt bỏ túi vì cho là để dùng quấn thuốc lá hút rất tốt.

Mỗi buổi tối hắn xé ra một trang giấy cuốn thuốc lá và hút. Một hôm hắn nhận thấy mảnh giấy xé ra có chữ in thật nhỏ. Tò mò, hắn cầm lên đọc trước khi cuốn thuốc lá hút. Hắn đọc mãi thành thói quen. Tối nào cũng đọc trước khi hút thuốc rồi đi ngủ.
Một buổi tối sau khi đọc xong trang sách, hắn bỗng để lại trang sách trong cuốn sách đó và quì gối xin Chúa Giêsu tha tội và cứu hắn như Chúa đã cứu tên cướp khi xưa cùng bị treo bên cạnh Chúa… Sau đó, hắn cảm thấy bình an vô cùng.

Hôm sau hắn ăn mặc tử tế, đến trình diện trạm cảnh sát ở gần nhà hắn. Ai cũng ngạc nhiên. Hắn kể lại từ đầu và vui vẻ chờ tòa xử án, không sợ hãi gì cả. Hắn bị tù mấy năm.

Trong thời gian ở tù, hắn cứ tiếp tục đọc phần còn lại của cuốn sách nhỏ ấy và còn kể lại cho các bạn tù nghe nữa. Dần dần hắn giúp cho nhiều người tù cũng biết đến Chúa Giêsu và tin nhận Ngài.

Hắn đã đọc cuốn sách nào vậy? Ðó chính là cuốn Thánh Kinh Tân Ước. Chỉ có cuốn sách này mới thay đổi được tên cướp ghê gớm như Pha-mát.

Quyền năng của Lời Chúa thật là huyền nhiệm. Vì vậy Thánh Kinh được gọi là Lời Sống.

Sưu Tầm

Anh chị Thụ & Mai gởi

THÁNH THỂ TRONG CUỘC SỐNG TÍN HỮU

Tình CHÚA Cứu Độ không ngơi

Quay lại bên CHÚA …đời đời trường sinh

…………………………………… 

THÁNH THỂ TRONG CUỘC SỐNG TÍN HỮU

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Vâng, đúng thế! ”THIÊN CHÚA yêu thương thế gian đến độ gởi Con Duy Nhất xuống trần, để bất cứ ai tin vào Ngài thì không bị hư mất nhưng được sống đời đời”, Gioan 3,16.

Ngay từ thiếu nữ tôi đã quay lưng với THIÊN CHÚA và sống cuộc đời buông thả, tự chọn mình làm trung tâm cuộc sống. Tôi phải xấu hổ thú nhận:

– Tình trạng sống tội lỗi của thế gian lôi cuốn quyến dũ tôi hơn sự thanh khiết thánh thiện của Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Cứ thế dòng đời trôi qua hết ngày này sang ngày khác.

Thỉnh thoảng có vài cơ hội xuất hiện và nhóm bạn bè kéo tôi trở lại nhà thờ tham dự Thánh Lễ. Tôi có mặt lấy lệ và hoàn toàn dửng dưng của kẻ ngoài cuộc. Thế nhưng tận thâm tâm, tôi vẫn không bỏ quên tất cả nền giáo dục tôn giáo hấp thụ từ thơ bé trong một gia đình Công Giáo đạo đức.

Thế rồi mọi sự đảo lộn hết vào tháng 6 năm 1982. Mẹ chồng tôi bị ung thư sắp chết. Vào cùng thời điểm này Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (1978-2005) viếng thăm mục vụ Scotland. Mẹ chồng sống như kẻ vô thần, nghĩa là không tin tưởng gì ráo trọi. Nhưng bà lại là người rất tốt. Vì thế tôi rất thương mến quí trọng mẹ chồng. Vì quí mến mẹ, nên với tư cách tín hữu Công Giáo, tôi cảm thấy xôn xao dằn vặt với ý nghĩ:
Chả lẽ mẹ ra đi về thế giới bên kia mà không hề biết có Đấng Cứu Thế từng hiến dâng mạng sống để cứu chuộc loài người sao?

Thương mẹ chồng, tôi muốn cứu linh hồn mẹ bằng mọi giá.

Rồi bác sĩ trịnh trọng loan báo hung tin: bà chỉ còn vỏn vẹn một tuần để sống! Toàn thể gia đình chúng tôi cùng tha thiết kêu xin THIÊN CHÚA cứu sống mẹ. Riêng tôi, tôi tức tốc đến nhà thờ cầu nguyện cho mẹ chồng.

Trong vòng một tiếng đồng hồ, tôi quì gối trước Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể cầu xin cho mẹ chồng thoát chết và ăn năn trở lại cùng THIÊN CHÚA. Tôi cầu nguyện với trọn tâm lòng và làm một cuộc giao kèo với Chúa. Trong giây phút nồng nhiệt tột độ tôi sẵn sàng đánh đổi mạng sống để xin cho mẹ chồng được sống.

Tôi đâu ngờ chỉ một giờ quì cầu nguyện trước Thánh Thể ấy đã tuôn đổ bao ơn lành xuống trên cả 2 mẹ con tôi.

THIÊN CHÚA thật khôi hài! Ngài không cất mạng sống tôi đi để trao cho mẹ chồng. Nhưng Ngài biến đổi mạng sống tôi, cùng lúc, Ngài giải thoát và lay động cuộc sống mẹ chồng. Mẹ chồng khỏi hẳn bệnh ung thư và xuất viện. Các bác sĩ ngỡ ngàng trước cuộc khỏi bệnh lạ lùng của mẹ chồng tôi.

Khỏi bệnh, mẹ chồng tôi thay đổi hẳn cuộc sống. Mẹ sống tình vợ chồng mặn mà thắm thiết, lợi dụng thời gian sống bên nhau để làm đẹp lòng nhau. Mẹ sống thêm một năm tràn đầy tình thương. Sau đó mẹ qua đời trong ân nghĩa cùng Chúa nơi nhà thương Thánh Columbus ở Edinburgh.

Về phần tôi, cuộc sống cũng đổi khác. Nhờ kinh nghiệm tỏ tường Tình Yêu THIÊN CHÚA, tôi gia tăng tình thương đối với chồng con. Rồi tôi nhận ơn an bình sâu thẳm, niềm an bình tôi chưa bao giờ hưởng nếm trước đó.

Tôi cũng được ơn yêu thích cầu nguyện và ơn ăn năn tội. Tôi nhớ lại thời gian sống buông thả chìm đắm trong tội lỗi. Tôi thật lòng thống hối và xin THIÊN CHÚA tha thứ mọi tội lỗi. Ơn Chúa không dừng lại nơi riêng tôi nhưng còn đổ tràn trên toàn thể gia đình. Chúng tôi tiếp tục sống trong ơn nghĩa Chúa cho đến hôm nay.

Giờ đây khi hồi tưởng quá khứ, tôi thâm tín sâu xa:

–         Chỉ duy nhất THIÊN CHÚA mới thực hiện những điều Ngài làm cho cuộc đời chúng tôi. Chỉ lòng nhân lành THIÊN CHÚA mới có thể biến đổi tâm lòng chúng tôi và tiếp tục biến đổi mãi. Ước chi cuộc sống mỗi người là lời tôn vinh THIÊN CHÚA và là chứng tá cho Tình Yêu cứu độ của THIÊN CHÚA đối với loài người.

–         Chứng từ của bà Maria Bartlett sống tại Kinross miền Tayside bên nước Scotland.

     … ”Khốn thay kẻ nào đào sâu giấu kỹ, không để cho THIÊN CHÚA thấy ý định của mình. Khốn thay ai hành động trong bóng tối và tự nhủ: ”Ai thấy được, ai biết được ta?” .. Vì thế, THIÊN CHÚA phán thế này: “Từ nay Giacóp sẽ không còn phải xấu hổ, từ nay nó sẽ không còn bẽ mặt thẹn thùng, vì khi Giacóp nhìn thấy nơi nó những công trình tay Ta đã làm, nó sẽ tuyên xưng danh Ta là thánh, sẽ tuyên xưng Đấng Thánh của Giacóp là Thánh, và sẽ kính úy THIÊN CHÚA của Israel. Những người tâm trí lầm lạc sẽ có được sự hiểu biết, và những kẻ ương ngạnh sẽ chấp nhận lời răn dạy”(Sách Isaia 29,15+22-24).
(Sister Patricia Proctor, OSC, ”201 Inspirational Stories of The Eucharist”, Franciscan Monastery of Saint Clare, Spokane, Washington, 2004, trang 62-63)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Nguồn Đài Vatican

(http://www.oecumene.radiovaticana.org)

Anh chị Thụ & Mai gởi

CHỨNG TỪ CỦA THẦY PHÊRÔ HỒ VĂN QUÂN, DCCT (Tu Hiệu Lêônard)

CHỨNG TỪ CỦA THẦY PHÊRÔ HỒ VĂN QUÂN, DCCT (Tu Hiệu Lêônard)

#GNsP – Tôi là Phêrô Hồ Văn Quân, sanh ngày 24-09-1937 tại ấp Long-An, Xã Long-Phú, Quận Long-Mỹ, Tỉnh Rạch Giá. Tôi lớn lên thời chiến tranh đầy lo âu sợ hãi. Hồi nhỏ tôi được đi học trường Họ Trà Lòng do các Nữ Tu Dòng Chúa Quan Phòng dạy. Tới năm 1951, vì muốn đi Chủng Viện, nên tôi phải trốn tránh rời khỏi quê và theo Cậu là Thầy Jean Dòng Thánh Gia Banam đi học nơi cậu dạy là Kon-Pong-Cham. Cũng tại đây tôi được chịu phép Thêm Sức ngày 22-04-1951 do ĐC Joseph Chapalier, GM Nam Vang. Từ năm 1952-1956, tôi về Banam học chuẩn bị vào Đệ Tử Dòng Thánh Gia. Nhưng bị đau bệnh quá nên phải trở về Việt-Nam. Khỏi bệnh, tôi muốn vào dòng khổ tu, nhưng nội tôi không cho vì thấy tôi yếu quá.

Sau đó tôi xin vào DCCT tại Sài-gòn. Khi vào DCCT, tôi lại rất khỏe, lao động tốt. Đến ngày 17-03-1958 tôi được đi Đàlạt vào Nhà Tập. Cha Giáo Tập là Cha Camille Dubé, Cha Phó là Cha Andrê Nguyễn Quang Kiêm. Trong năm Nhà Tập, nhiều lần chúng tôi được đi dạo vùng Blao và Phi-Yang. Có lần Cha Giáo Tập hỏi ai muốn đi Phi-Yang. Tôi dơ tay xung phong vì tôi thấy người Thượng thật đáng thương, tuy các Thầy Già nói ở đó rất nguy hiểm. Tôi khấn dòng ngày 19-03-1959 thì ngày 21-03-1959 tôi được phân công đi Phi-Yang. Tôi tới Phi-Yang ngày 22-03-1959 ở với Cha Antoine Lapointe và Thầy Nicôla Đền. Thầy Nicôla Đền lo tổng quát, còn tôi đi phá rừng với anh em dân tộc để học tiếng. Khi Cha Benoit thay thế Cha Lapointe đi nghỉ ở Canada, tôi xin ngài cho tôi tiếp tục học tiếng, thì ngài nói bắt buộc phải học tiếng. Sau đó tôi được phân công về trung-tâm vừa dạy tiếng Việt cho các em dân-tộc vừa làm giám thị.

Vào năm 1962, chiến trận lây lan, công việc mệt nhọc là di dân về chỗ an toàn. Tập trung về một điểm như ở Dà-Mpao thì lạixảy ra bệnh tật như ỉa chảy vàsởi nơi trẻ em. Người thượng lại không biết kiêng cữ. Cho nên tôi vừa phải đưa các em đi nhà thương vừa phải đưa các em đi chôn. Có ngày tôi phải chôn tới 10 em. Rất khổ tâm. Tôi chịu không nổi muốn xin nghỉ một chút, nhưng các cha nói: Thầy nghỉ, ai lo?

Chiến tranh càng ngày càng khốc liệt, chúng tôi càng ngày càng lao đao với dân. Một địa điểm tập trung lớn là Srê-Dờng (bao gồm dân Bơtong, Kềng-Dà, Ryông-Tô, Phi-Sur) trở thành bãi chiến trường và bị xóa sổ (1968). Cha Tài, từ 1960 ở Phi-Yang rồi Koya, Liên-Khương, Srê-Dờng, kiêm Dà-Mrac, Nreng, Kon-Pang, Kon-Phang, Atô, đến sau Phục-Sinh 1969, ngài rủ tôi đi tìm một chỗ mới cho đàn em sau này. Tôi đồng ý ngay. Những gì tiếp diễn sau đó, phần lớn anh em đã biết, tôi không kể lại chi tiết ở đây. Tôi chỉ có thể nói là tôi tin Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng tôi từng bước và Pleikly là Đất Hứa, vì Chúa đã “làm gấp ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay dám nghĩ tới.” (Ep 3,20)

Tới Pleikly ngày 10-10-1969, chúng tôi cùng ở trong căn phòng dành cho dê vì không có chỗ ở trong nhà nào cả. Chúng tôi cùng đi làm và đi học tiếng với dân. Đến Giáng Sinh năm đó chúng tôi dọn qua một căn nhà sàn cất tạm xong trong Pleikly. Tôi và anh Tín thường cùng đi làm ruộng làm rẫy với dân. Năm 1970, Cha Tài mua một máy cày tay hiệu Kubota cho hai anh em tôi làm nông, mục đích thử nghiệm xem có thể sử dụng cho anh em Jarai không. Chúng tôi cày thử trên đất rẫy đến đầu năm 1971 thì thử nghiệm trên đất ruộng. Chúng tôi thấy cần phải cải tiến nhiều mới sử dụng được cái máy cày tay đó. Nhưng chưa kịp cải tiến thì xảy ra chiến sự tháng 3 năm 1971. Tôi chạy thoát còn Thầy Đàn, Mầu, Tín bị bắt đem vào rừng. Bề Trên cho tôi ở nhà Huế. Năm 1972 gặp “mùa hè đỏ lửa” lại chạy về Đà-Nẵng, rồi chạy vào Sài-Gòn và về Vĩnh Long giúp Đệ Tử.

Đến năm 1973, tôi trở lại với anh em ở Pleikly. Thời này theo sự hướng dẫn của Cha Phán, tôi cùng với anh em lập ra những tổ sản xuất. Riêng tôi phụ trách tổ các Bà Góa làm lò than. Khi lập các tổ sản xuất Jarai thì gặp sự tranh chấp đất đai với người Kinh. Lò than các bà góa chúng tôi bị người Kinh phá. Chúng tôi lại còn phải đấu tranh cho quyền lợi của bà con Jarai bị cướp xén đồ viện trợ, bị dồn vào những khu vực cằn cỗi thiếu thốn, bị xâm phạm tài sản. . . Chính Quyền lúc đó cuối cùng phải nhượng bộ và chính tôi đã đưa những người bị dồn dân trở về làng cũ.

Sau năm 1975, mọi đều như bế tắc và vô cùng khó khăn. Ai cũng sống trong lo âu. Điều đó khiến sức khoẻ tinh thần và thể xác tôi sa sút. Tôi tìm về quê Sóc Trăng trị bệnh và nương tựa lúc khó khăn vì ở quê tôi quen nhiều người hơn, hy vọng sống thanh thản và dễ dàng hơn. Nhưng rồi cũng nảy sinh nhiều khó khăn khác. Cha tôi tuy quen mà vẫn phải năn nỉ ông Chủ Tịch có việc chi cho tôi làm trong khoảng thời gian 3-4 tháng. Lúc đầu Ông cho tôi vào giúp anh kinh tài ấp. Ông cho tôi đi học khóa thống kê chỉnh lý bản đồ và đi các xã của Huyện Thạnh Trị để chỉnh lý bản đồ Huyện. Lúc đó tôi thấy nhẹ thở đôi chút. Xong việc trở về Xã thì họ phân công tôi làm tài chánh Xã. Lúc đó các linh-mục đi lại còn rất khó khăn. Trong khi tôi được tự do đi lại hơn, nên tôi đến được nhiều ấp Công Giáo củng cố đức tin cho họ. Cha tôi thấy ruộng đất họ chia ra hết nên tính lên miền Đông kiếm đất cao phá rừng làm vườn để dưỡng già. Năm 1982, gia đình lên Xã Phú Lý kiếm đất. Đất đồi sỏi đá chỉ trồng chuối và mì. Đất trũng khai phá làm ruộng. Đến năm 1983, Cha tôi mua được một cái nhà ở Phú Dòng để cho mẹ tôi và cháu Thịnh ở cho nó đi học. Phần đất ở Xã Phú Lý nhằm ngay lòng hồ Trị An, nên đến năm 1985 phải di tản. Trong thời gian đó, tôi vẫn ở lại làm việc ở Xã. Cơm ăn trộn mì tối đa. Mấy lần tôi cũng đấu tranh đòi quyền lợi cho dân nhưng không thành công. Tôi xin nghỉ việc. Họ không cho. Tôi cũng có liên lạc với anh em trong Dòng ở Vĩnh Long, Cái Tàu. Đến năm 1984, tôi đào nhiệm lên Phú Lý giúp cha mẹ. Ở dó có Thầy Hội đang phục vụ. Na7m 1985, tôi bị đau gan siêu vi B phải về Sàigòn nằm bệnh viện Chợ Quán có Cha Giám Tỉnh Thao giúp đỡ. Đến năm 1987, tôi lại phải vào bệnh viện Chợ Quán vì sốt rét. Sau khi ra viện thì cha tôi qua đời, Tôi về sống với mẹ và các em, đi bán sinh tố kiếm tiền để giỗ 100 ngày cho cha tôi.

Tôi thấy Chúa thương tôi vô cùng. Qua bao nhiêu năm tháng chỉ có hai bàn tay trắng, Chúa vẫn dưỡng nuôi chúng tôi. Sau khi cha tôi qua đời, Nhà Dòng bảo tôi dẫn anh em đi Pleikly thử. Tôi lên Pleikly thấy anh chị em Jarai ồ ạt trở lại trong lúc tình hình vẫn rất khó khăn. Tôi xin anh Tín gửi cho cha Bề Trên ít chữ cho tôi được trở lại Pleikly. Để chia sẻ gánh nặng với anh Tín nên ngày 29-11-1993 tôi nhận chức Phó Tế vĩnh viễn. Tôi vừa trông coi nhà cửa vừa hướng dẫn giáo lý dự tòng và hôn nhân cho cả Kinh lẫn Thượng. Tôi cũng tham gia thanh tẩy cho người lớn và trẻ em.

Tạ ơn Chúa và Nhà Dòng vô cùng, vì tôi học hành chẳng có gì, sức khoẻ chẳng được bao nhiêu mà Chúa lại ban cho tôi các ơn rất trọng đại, nhất là ơn được anh chị em dân tộc cho tôi được tin vào Chúa Quan Phòng.

Cha Abuna Nirwan, người Iraq, thoát chết dưới tay bọn khủng bố Hồi giáo

 Cha Abuna Nirwan, người Iraq, thoát chết dưới tay bọn khủng bố Hồi giáo

Cha Abuna Nirwan, người Iraq, thoát chết dưới tay bọn khủng bố Hồi giáo – Abuna Nirwan là một linh mục người Iraq, thuộc dòng Phanxicô. Trước khi được thụ phong linh mục, Nirwan đã theo học ngành y khoa và trở thành bác sĩ. Năm 2004, cha Nirwan được gửi đến Thánh địa Israel và được các nữ tu dòng thánh Đaminh Mân Côi, do mẹ Marie Alphonsine Danil Ghattas thành lập, tặng một thánh tích của mẹ Marie Alphonsine và một chuỗi Mân Côi mẹ đã từng dùng để lần hạt. Cha Nirwan luôn mang theo chuỗi Mân Côi này bên mình.

 

 

 

 

 

 

 Cha Abuna Nirwan, người Iraq, thoát chết dưới tay bọn khủng bố Hồi giáo

Năm 2009, trong tiến trình điều tra phong chân phước cho mẹ Marie Alphonsine, Tòa Thánh đã yêu cầu tiến hành khai quật thi hài của mẹ Marie Alphonsine. Thông thường việc này do giám mục địa phương thực hiện và ngài cần chỉ định một bác sĩ hiện diện khi khai quật. Cha Nirwan đã được yêu cầu thực hiện việc khai quật và làm báo cáo y khoa. Phép lạ đã được Đức giáo hoàng Biển đức XVI chấp nhận. Vào năm 2015, mẹ Marie Alphonsine đã được Đức giáo hoàng Phanxicô phong lên bậc hiển thánh. 

Trước đó, vào ngày 14 tháng 7 năm 2007, trên đường từ Israel về thăm gia đình ở Iraq, cha Nirwan đã bị bọn khủng bố Hồi giáo ở Iraq bắt, nhưng cha được thoát chết nhờ cầu khẩn với mẹ Marie Alphonsine. Cha Nirwan đã kể lại kinh nghiệm phi thường này trong một bài giảng như sau: “Khi đó việc đi lại bằng máy bay không được cho phép. Phương tiện di chuyển là xe hơi. Tôi định là sẽ đến Baghad trước, rồi từ đó sẽ đi về Mosul, nơi cha mẹ cha tôi đang sống. Người tài xế taxi lo sợ vì tình hình ở Iraq. Có một gia đình 3 người, gồm người cha, người mẹ và một bé gái 2 tuổi, đã xin đi cùng chúng tôi. Tài xế taxi cho cha biết là họ đã xin ông điều này và tôi cũng không thấy có gì trở ngại. Họ là những người Hồi giáo. Tài xế là Kitô hữu. Tôi nói với họ là xe có đủ chỗ và họ có thể đi với chúng tôi. Khi xe dừng lại ở một cây xăng, thêm một chàng trai Hồi giáo xin quá giang để đến Mosul. Vì thấy là vẫn còn chỗ nên chúng tôi đồng ý cho anh ta đi cùng. 

Biên giới giữa Giordan và Iraq bị đóng cho đến rạng sáng. Khi mặt trời mọc, ngừoi ta mới mở rào chắn và khoảng 50 hay 60 chiếc xe bắt đầu chầm chậm nối đuôi nhau đi qua. Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình. Sau một giờ đồng hồ, chúng tôi đến trạm kiểm soát. Chúng tôi chuẩn bị passport. Chúng tôi dừng lại. Người tài xế nói: “Tôi sợ nhóm người này.” Trước đây nó là một trạm kiểm soát quân sự nhưng các thành viên của một tổ chức khủng bố Hồi giáo đã giết các quân nhân và chiếm quyền kiểm soát nơi này. 

Khi đến lượt chúng tôi, họ hỏi chúng tôi passport và họ không yêu cầu chúng tôi xuống xe. Họ mang passport của chúng tôi vào văn phòng. Một người trở ra và nói với tôi: ‘Chào cha, chúng ta đi đến chỗ điều tra. Mọi người có thể đi vào văn phòng.’ Tôi trả lời: ‘Tốt lắm! Nếu chúng ta phải đi thì chúng ta sẽ đi.’ Chúng tôi đã đi bộ khoảng 15 phút cho đến cái lều mà họ chỉ cho tôi. 

Khi chúng tôi đến đó, hai người đàn ông bịt mặt đi ra. Một người một tay cầm máy quay phim, tay kia cầm con dao. Còn người kia có râu, tay cầm cuốn kinh Coran. Họ đi đến gần chúng tôi và một người hỏi tôi: ‘Cha ở đâu đến?’ Tôi trả lời là tôi đến từ Giordania. Rồi ông ta hỏi tài xế. Rồi quay qua chàng trai đi cùng chúng tôi, kẹp cổ anh ta từ phía sau và đâm chết anh ta. Họ trói tay tôi lại rồi nói: ‘Cha nè, chúng tôi đang quay lại tất cả việc này cho al Jazeera. Cha muốn nói điều gì không?’. Họ cho tôi một phút để cầu nguyện. 

Sau đó người đàn ông đó đẩy tôi quỳ xuống và nói: ‘ông là một linh mục, máu của ông không được đổ ra trên đất vì nó là một sự phạm thánh.’ Do đó, ông ta đi lấy một cái xô và trở lại để cắt cổ tôi. Tôi không nhớ tôi đã đọc kinh nào cầu nguyện trong lúc đó. Tôi rất là sợ hãi và đã nói với mẹ Marie Alphonsine: ‘Nó không cần thiết là lúc con mang mẹ đi với con. Nếu nó cần thiết là Chúa đưa con đi, con sẵn sàng, nhưng nếu không phải là như thế, con xin mẹ đừng để ai khác phải chết.’ 

Người đàn ông đã dùng tay giữ chặt đầu tôi, giữ vai tôi và giơ con dao lên. Sau vài giây im lặng, ông ta hỏi tôi: ‘Ông là ai?’ Tôi trả lời: ‘Một tu sĩ.’ Ông ta nói tiếp: ‘Tại sao tôi không thể hạ con dao xuống? Ông là ai?’ Rồi không đợi cho tôi có giờ trả lời, ông ta nói: ‘Cha và tất cả mọi người có thể trở về xe.’ Chúng tôi đã trở về chiếc xe taxi. 

Từ lúc đó tôi không còn sợ hãi. Tôi biết là một ngày kia tôi sẽ chết, nhưng ngay bây giờ tôi biết rõ nó sẽ chỉ đến khi Chúa muốn. Từ lúc đó tôi không còn sợ hãi điều gì hay sợ hãi người nào. Những điều xảy ra với tôi sẽ do ý Chúa và Người sẽ cho tôi sức mạnh để vác lấy Thánh giá của Người. Điều cần là có đức tin. Chúa chăm lo cho những ai tin vào Người.” 

(RadioVaticana 16.05.2017)