httpv://www.youtube.com/watch?v=s_U5n3uqX5M
Đức Cha Khảm chia sẻ về cuộc đời ĐHY P.X Nguyễn Văn Thuận
httpv://www.youtube.com/watch?v=s_U5n3uqX5M
Đức Cha Khảm chia sẻ về cuộc đời ĐHY P.X Nguyễn Văn Thuận
Tôi Tớ Chúa ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận
Đức Tin là động lực của Hy Vọng.
Thánh Phanxicô Salêsiô cầu nguyện một mình sốt sắng trước Mình Thánh Chúa trong đêm tối đã nêu gương Đức Tin vào Chúa Giêsu Thánh Thể cho người ngoại giáo, cũng như Thánh Phêrô Veren đã lấy máu đào của mình viết lên hai chữ “Tôi Tin”. Riêng anh Shirley – một công nhân Công giáo – đã âm thầm sống đức tin trong hảng xưởng, khiến ông giám đốc cảm kích mà theo đạo Công giáo.
Còn Thánh Phaolồ Miki và các bạn tử đạo đã ươm trồng cây Đức Tín cho các tín hữu Nhật Bản trong 200 năm cấm đạo dữ dội, khiến họ kiên trì giúp nhau giữ đạo, mặc dù không có giáo sĩ hướng dẫn.
Riêng Giáo Hội Việt Nam, trong ba trăm năm, Tổ Tiên chúng ta đã anh dũng nêu gương Đức Tin bằng cái chết của trên 130.000 vị Tử Đạo. Các ngài gồm đủ mọi thành phần trong xã hội và chịu đủ mọi cực hình dã man.
Ban Biên Tập
Trong bóng tối giáo đường
(Thánh Phanxicô Salêsiô)
Vào những buổi chiều tà nhà thờ vắng vẻ, thánh Phanxicô Salêsiô thường đến trước Chúa Giêsu Thánh Thể sốt sắng cầu nguyện.
Một hôm đang lúc mãi mê cầu nguyện thì ngài nghe tiếng sột soạt trong bóng tối. Tưởng là kẻ trộm, ngài vụt đứng dậy cất tiếng hỏi: “Ai?” Một bóng lạ mặt tiến đến gần ngài và nói: “Thưa Đức Giám Mục, con không có đạo, con nghe Đức Giám mục giảng về Chúa Giêsu Thánh Thể, nhưng con không tin. Vì thế hôm nay, thừa lúc chiều tối, con lẻn vào nhà thờ, rình xem thử Đức Giám Mục viếng Mình Thánh Chúa như thế nào? Con thú thực: con đã thấy rõ đức tin của Đức Giám Mục. Giờ đây con vững vàng tin…”
Tuyên xưng bằng máu
Đức tin là con mắt thần, là sức mạnh vũ bão. Người có đức tin trông thấy điều mà những kẻ khác không thể trông thấy, làm được những cái kẻ khác không thể làm được.
Khi đứng trước lưỡi gươm trần của tên đao phủ đang đưa lên cao, Thánh Phêrô Veren vẫn hiên ngang tuyên bố: “Tôi tin”. Khi miệng bị chém không thể nói được nữa, ngài vẫn bình tĩnh lấy ngón tay thấm máu đang chảy ràn rụa trên ngực và viết lên mặt đất, nơi ngài sắp gục ngã làm của lễ, hai chữ: “Tôi Tin”.
Đúng như lời Thánh Kinh: “Sự chiến thắng của tôi chính là đức tin kiên vững”.
Đức tin của anh công nhân
Ông giám đốc của một xưởng kỹ nghệ chuyên sản xuất nông cụ, không tin có Thiên Chúa và cũng chẳng tin vào tinh thần trách nhiệm của các công nhân trong xưởng. Sáng hôm ấy, hơn 1000 công nhân trong xưởng nghe nói ông giám đốc đã lên đường đi công tác nơi xa, mà sớm lắm cũng một tháng sau mới trở về, nhưng đến tối ông âm thầm về lại xưởng.
Sáng ngày hôm sau, ông đứng trên văn phòng ở lầu hai quan sát các công nhân làm việc. Bộ mặt thực của mỗi người đều bị lộ: ai ai cũng lười biếng, nhác nhớn, duy chỉ một anh công nhân lúc nào cũng làm việc tận tụy, hăng say. Tên anh là Shirley, người Công giáo duy nhất của xưởng.
Hôm sau các công nhân nghe rằng, ông giám đốc đã hoãn chuyến đi vì trở ngại kỹ thuật! Riêng Shirley, chàng được gọi lên văn phòng:
– Anh Shirley, tôi hết lòng khen ngợi anh, anh là một công nhân tốt. Tôi không thấy đức tin của anh, nhưng nhìn qua công việc lao động và thái độ sống của anh, tôi cũng hiểu được phần nào…
Mấy tháng sau, các công nhân nghe tin ông giám đốc bắt đầu học giáo lý Công giáo.
Ba câu hỏi của giáo dân Nhật Bản
Giáo hội Nhật Bản rất anh dũng. Họ có nhiều vị Tử Đạo rất oanh liệt, chẳng hạn như Thánh Phaolô Miki và 25 bạn đồng đội đã bị bắt và bị treo trên những cây thập tự giá đối diện với bờ biển trên một chiếc tàu… Tuy phải gia hình đau đớn, Phaolô Miki và các bạn vẫn vui tươi và không ngừng giảng đạo cho những kẻ đến xem. Các Ngài kêu gọi họ ăn năn trở lại, tha thứ cho những ai sỉ nhục và kết án mình.
Thái độ đó khiến nhiều người đến xem điên tiết. Họ lấy giáo đâm chết tu sĩ Miki và các bạn. Hôm ấy là ngày 5.2.1597, ngay giữa một thời kỳ bắt bớ khá gắt gao, nhưng vẫn còn có tính cách địa phương.
Cuộc bắt bớ này, đến năm 1613 thì lan ra khắp mọi nơi và mọi chỗ. Năm đó chiếu chỉ của Daifusanna vừa được ban hành, Giáo Hội Nhật Bản liền rơi vào tình trạng nguy kịch. Dấu hiệu mở màn là cuộc xử tử công khai 50 Đấng Tử Đạo ở Nagasaki ngày 22.9.1622.
Cuộc bách hại trở nên dã man và ác liệt trên đất Kiu-shu vào những năm 1636-1638 sau khi quân sĩ của Shimbara, một viên tướng Công giáo đứng lên bảo vệ đức tin và sinh mạng, bị đánh tan hoàn toàn: gần 35.000 người Công giáo bị giết trong cuộc nổi dậy ấy.
Các vua Nhật tưởng đã diệt được đạo Công giáo tận gốc rể. Bên ngoài, các nước cũng nghĩ rằng đức tin của giáo dân Nhật còn quá non yếu, khó đương đầu nổi cơn bắt đạo gắt gao như vậy, nhất là với chính sách bế quan tỏa cảng của các vua Nhật, chính sách cấm các nhà truyền giáo đặt chân lên đất Phù Tang.
Thế nhưng thực tế lại khác. Vì các Kitô hữu không có linh mục, không Thánh lễ, không thánh đường, đã anh dũng ngoan cường sống đạo tới 200 năm sau, đến khoảng giữa thế kỷ XIX, thời Minh Trị Thiên Hoàng, khi các nhà truyền giáo lại được đặt chân lên đất Nhật.
Sau đây là một chứng tích hùng hồn cụ thể:
Một hôm, cha Petitjean đi đến giảng đạo tại Nagasaki trước mặt một số đông người Nhật. Nghĩ rằng họ toàn là lương dân nên sau bài giảng, ngài tươi cười hỏi: “Có ai thắc mắc gì không?” Một người đưa tay chất vấn:
– Chúng tôi muốn được hỏi ông ba điều, yêu cầu ông trả lời cho chúng tôi có hay không?
– Tốt lắm, xin quí vị cứ đặt câu hỏi.
Họ hỏi cha Petitjean: “Các ông có tin Đức Mẹ đồng trinh không? Các ông có vâng lời và thông hiệp với Đức Thánh Cha không? Là linh mục, các ông có giữ mình đồng trinh và sống độc thân không?”
Cha Petitjean đáp: “Có”.
Và họ nói: “Vậy thì mấy trăm người chúng tôi đây với ông là đồng đạo. Chúng tôi toàn là Công Giáo cả!”
Cha Petitjean hết sức bàng hoàng, ngạc nhiên, như từ cung trăng rơi xuống. Cha con âu yếm ôm nhau, không cầm được nước mắt vì quá sung sướng cảm động. Nhà truyền giáo hỏi:
– Bấy lâu nay có ai giảng dạy cho anh chị em không?
– Thưa cha, không có ai suốt hai thế kỷ rồi!
– Vậy thì sao anh chị em còn sống đạo sốt sắng đến thế?
– Thưa Cha, đó là nhờ ông bà Tổ Tiên chúng con truyền lại, sau là nhờ chúng con biết âm thầm cầu nguyện, dạy giáo lý cho con em, đoàn kết yêu thương đùm bọc nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác.
– Nhưng tại sao anh chị em lại đặt cho cha ba câu hỏi vừa rồi?
– Thưa cha, vì ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ: sau này có ai đến giảng đạo, chúng con phải cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà đánh giá xem họ có phải là những nhà thừa sai chân chính không. Nay chúng con quá đỗi vui mừng vì các cha đích thực là những người được Hội Thánh sai đến. Chúng con sẽ nghe lời các cha và giữ vững Đức Tin Tổ Tiên chúng con truyền lại.
Đức Tin Tiên Tổ
Suốt ba thế kỷ liền, kể từ năm 1533, Phúc Âm của Chúa đến Việt Nam cùng với Thánh giá Chúa. Biết bao tín hữu Chúa bị lưu đày, bị chiếm đoạt tài sản, lẩn lút sống trong rừng sâu nước độc, cam chịu mọi đau khổ để trung thành với Đức Tin.
Cho đến cuối thế kỷ XIX, người ta có thể tính được trên 130.000 đấng thuộc mọi thành phần đã được diễm phúc Tử Đạo. Trong số đó có 117 vị đã được các Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, Piô X và Đức Piô XII phong lên bậc Chân Phước. Và ngày 19.6.1988 Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã tôn phong các ngài lên bậc Hiển Thánh.
Chúng ta có thể chia ra như sau: Đời Trịnh Doanh: 2 vị. Đời Trịnh Sâm: 2 vị. Đời Cảnh Thịnh: 2 vị. Đời Minh Mạng: 57 vị. Đời Thiệu Trị: 3 vị. Đời Tự Đức: 51 vị.
Thành phần các Thánh ấy gồm có: 8 Giám mục. 50 Linh mục. 16 Thầy giảng. 1 Chủng sinh. 42 Giáo dân.
Gương sống đạo của Tổ Tiên chúng ta
Đây là chi tiết các khổ hình đã dành cho các ngài như sau: Có những giáo xứ (ở Quảng Trị) bị lính lùa vào nhà thờ rồi chất rơm chung quanh đốt cháy tất cả. Các nữ tu Nhà Dòng Mến Thánh Giá Phan Rang bị vứt xuống giếng và lấp đất chôn sống đi. Có những thiếu nữ Công giáo non yếu bị đưa về Huế phạt gia hiệu, phơi nắng ngày này sang ngày khác rồi chặt một ngón tay trước khi đánh đập và tha về.
Ngoài ra, gương 12 vị Chánh trương, trùm trưởng khắp nơi bị đưa về Huế, giam trên thành Lồi (bức thành người Chàm xưa đắp lên để đánh với người Việt Nam, xa thị xã độ 10 cây số). Các ông phải bứt cỏ nuôi voi cho nhà vua cho đến khi chết dần chết mòn tất cả; nay 12 ngôi mộ của các ông vẫn còn nguyên vẹn dưới chân thành ấy.
Duới đây, xin ghi lại vắn tắt gương sống của một vài vị để soi chiếu cho chúng ta:
– Những vị có chức vụ trong nhà nước hoặc quân đội như: Thánh Micae Hồ Đình Hy làm quan Thái bộc tới Hàm tam phẩm. Thánh Phaolô Tống Viết Bường làm chức Thị vệ. Thánh Phanxicó Trần Văn Trung và Thánh Giuse Lê Đăng Thị làm cai đội. Thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ là một lý trưởng gương mẫu liêm khiết.
Các vị này là những công dân tận tụy với chức vụ, trung thành với Tổ quốc và nhân dân, nhưng chỉ vì không bỏ đạo mà phải chịu án tử hình.
– Những giáo dân lãnh trách nhiệm tông đồ trong hội đồng giáo xứ như: Thánh Giuse Nguyễn Vân Lưu, Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh, Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông, Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, Thánh Antôn Nguyễn Đích và Thánh Matthêu Nguyễn Văn Phượng.
– Một phụ nữ Công giáo Việt Nam đã anh dũng tuyên xưng đức tin là Thánh Anê Lê Thị Thành.
– Những anh hùng vô danh từ Nam chí Bắc. Đó là các cụ ông, cụ bà trước đây đã bị bắt bớ, giam cầm, tra tấn rồi bị người ta rạch mặt lấy mực tàu xâm lên trên má hai chữ “Tả đạo” để dù đi đến đâu, nhân dân ai cũng nhận ra đây là những người theo đạo tả; nhưng đối với giáo dân, đây là biểu tượng của Đức Tin kiên cường sáng chói.
“Chúng ta hãy ca tụng những bậc vĩ nhân, những bậc tiền bối của chúng ta”. (Giảng viên 44, 1).
5 Chiếc Bánh Và 2 Con Cá
4. Chiếc Bánh Thứ Tư
Sức mạnh độc nhất của tôi:
Phép Thánh Thể
Quanh bàn tiệc Thánh Thể được thực hiện và được tỏ bày sự hiệp nhất hài hòa của Hội Thánh, mầu nhiệm hiệp thông truyền giáo, trong đó mọi người nhận thấy mình là con Chúa và là anh chị em trong một đại gia đình. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 7)
“Trong tù cha có dâng lễ được không?“, đó là câu hỏi mà bao nhiêu lần nhiều người đã hỏi tôi. Và thực sự họ có lý, vì Thánh Thể là kinh nguyện đẹp nhất, là đỉnh cao của cuộc đời Chúa Giêsu. Mỗi khi tôi trả lời “có”, thì tôi đã biết ngay câu hỏi tiếp sau: “Làm sao cha kiếm ra rượu lễ, bánh lễ?”
Lúc tôi bị bắt, tôi phải đi ngay và đi tay không. Hôm sau tôi được phép viết về nhà để xin đồ cần dùng nhất như áo quần, kem đánh răng, v.v… Hàng đầu tiên, tôi viết: “Xin gửi cho tôi ít rượu thuốc trị bịnh đường ruột“. Bên ngoài, giáo dân hiểu ngay. Hôm sau, ông trưởng ban chấp pháp cầm đến một ve nhỏ bên ngoài có dán giấy đề chữ “thuốc trị bịnh đường ruột” và bánh lễ xé nhỏ bỏ trong một cái lọ chống ẩm, ông ta hỏi:
– Ông có bị bịnh đường ruột không?
– Có.
– Ðây là thuốc bên ngoài gửi vào cho ông!
Không bao giờ tôi vui bằng hôm đó: từ đấy mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay, tôi dâng thánh lễ.
Tuy nhiên cách dâng lễ mỗi nơi mỗi khác. Dưới hầm tàu thủy chở tôi ra miền Bắc, ban đêm tôi ngồi giữa mấy bạn tù, bàn thờ là túi cói đựng đồ, dâng lễ thánh Phanxicô quan thầy của tôi và cho các bạn chịu lễ. Lúc ở trại Vĩnh Quang tôi phải dâng lễ trong góc cửa ban sáng lúc người ta đi tắm sau giờ thể dục. Lúc đã quen với thời khóa biểu của trại, tôi dâng lễ ban đêm, vì chúng tôi được chia thành từng đội 50 người, ngủ chung trên một láng gỗ, mỗi người được 50 cm, đầu đụng nhau, chân quay ra ngoài. Chúng tôi đã tự thu xếp để năm anh em Công giáo nằm quanh tôi. Ðến 9 giờ rưỡi đêm, nghe tiếng kẻng là tắt đèn và mọi người phải nằm trong mùng muỗi cá nhân; tôi ngồi cúi sát xuống để dâng lễ thuộc lòng. Tôi đưa tay dưới mùng để chuyển Mình Thánh cho anh em chịu lễ. Chúng tôi nhặt giấy nylon bọc bao thuốc hút để làm những túi nhỏ đựng Mình Thánh. Như thế Chúa Giêsu luôn ở giữa chúng tôi. Chúng tôi tin một sức mạnh: Thánh Thể. Thịt Máu Chúa làm cho chúng tôi sống, “Ta đã đến là để chúng được có sự sống, và có một cách dồi dào” (Ga 10, 10). Như manna nuôi dân Do Thái đi đường về Ðất hứa, Thánh Thể sẽ nuôi con đi cùng đường Hy vọng (Ga 6, 53).
Mỗi tuần, sáng thứ Sáu có một buổi học tập, tất cả 250 anh em phải tham dự. Ðến lúc xả hơi, các bạn Công giáo thừa dịp đó mang các túi nylon đựng Mình Thánh đến chia cho bốn đội kia, mỗi người thay nhau mang trong túi áo một ngày.
Ai cũng biết có Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở giữa trại tù với họ. Chính Ngài an ủi, xoa dịu những khổ đau thể xác và tinh thần; chính Ngài thêm can đảm chịu đựng cho họ. Ban đêm, họ thay phiên nhau làm giờ thánh. Sự hiện diện thinh lặng của phép Thánh Thể biến đổi họ cách lạ lùng. Nhiều người Công giáo trở lại sống đạo đức hơn; nhiều anh em không Công giáo, Phật giáo tìm hiểu Phúc âm và lãnh phép Thánh tẩy trong trại cải tạo, hoặc sau lúc được tự do. Không có gì cưỡng lại được tình yêu Chúa Giêsu. Ðêm tối của ngục tù trở thành ánh sáng, hạt giống đã đâm chồi dưới đất đang lúc trời giông tố phong ba. Những ơn trọng này do Chúa Giêsu Thánh Thể chứ không phải do sức loài người.
Trong chín năm biệt giam, tôi dâng lễ một mình lúc 3 giờ chiều, giờ Chúa Giêsu hấp hối trên Thánh giá. Tôi ở một mình nên có thể hát tiếng Latinh, tiếng Việt, tiếng Pháp… Tôi luôn mang Mình Thánh trong mình “như Cha ở trong con và con ở trong Cha”.
Ðó là những thánh lễ đẹp nhất của đời tôi. Kinh Lauda Sion, Pange Lingua, Adoro Te, Te Deum và nhiều kinh Việt ngữ, mặc cho tiếng loa trước cửa từ 5 giờ sáng đến 11 giờ rưỡi đêm. Tôi cảm nghiệm cách đặc biệt một sự bình an, một niềm vui trong tâm hồn vì Chúa Giêsu, Ðức Mẹ và thánh Giuse ở với tôi. Tôi hát Salve Regina, Salve Mater, Regina Coeli, v.v… hiệp với toàn thể Hội thánh. Mặc cho Hội thánh bị vu cáo, chống đối, tôi hát “Này con là đá… Ta hãy nguyện xin cho Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô”…
Chúa Giêsu đã nuôi dưỡng dân chúng theo Người trên sa mạc; trong phép Thánh Thể Chúa Giêsu tiếp tục làm của ăn ban sự sống muôn đời.
Mỗi lúc dâng lễ, đọc lời truyền phép, với tất cả tâm hồn, tôi làm lại lời “giao ước mới, giao ước vĩnh cửu” với Chúa Giêsu. Không phải để sống an nhàn, nhưng để bắt đầu một cuộc cách mạng, đổi mới nhân loại, được máu Chúa cứu chuộc, sống xứng đáng phẩm giá con Thiên Chúa, trong văn hóa của tình thương và sự sống.
Trong Thánh Thể chúng tôi loan truyền sự chết của Chúa Giêsu và tuyên xưng sự sống lại của Ngài. Có lúc buồn nản vô cùng, tôi nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên Thánh giá: Ngài không giảng dạy, thăm viếng, chữa lành bệnh tật; Ngài hoàn toàn bất động. Ðối với con mắt loài người, cuộc đời Chúa Giêsu là vô ích, là thất bại. Nhưng đối với đôi mắt Thiên Chúa, chính giây phút ấy lại là giây phút quan trọng nhất của đời Ngài, vì trên Thánh giá Ngài đã đổ máu mình để cứu chuộc nhân loại.
Chúa Giêsu là mẫu gương của tình yêu tuyệt đối với Ðức Chúa Cha và các linh hồn. Ngài đã cho tất cả, yêu thương đến cùng (Ga 13, 1), cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng và nói lên tiếng “hoàn tất” (Ga 19, 30).
Khi nhìn thấy đoàn lũ theo Ngài, Ngài nói: “Tôi thương xót dân này” (Mt 15, 32). Ngài đã làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều để nuôi họ. Ðây là dấu hiệu loan báo phép Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập về sau.
Các bạn trẻ thân mến,
Mời các bạn nghe lời Ðức Thánh Cha: Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, trong phép Thánh lễ; giữa những sự bất trắc, những hoang mang trong cuộc đời mỗi ngày, các bạn hãy noi gương hai môn đệ trên đường về Emmau… Hãy cầu xin Chúa Giêsu, để dọc các nẻo đường về bao nhiêu xóm nhỏ Emmau của thời đại ta, Ngài ở lại với các bạn. Ngài phải là sức mạnh của các bạn, là trung tâm của các bạn, là hy vọng trường cửu của các bạn. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 7)
Biệt giam tại trại Phú Khánh, Nha Trang,
1-9-1976
Lễ các Thánh Tử Ðạo Việt Nam
CẢI TẠO NGƯỢC
Trích EPHATA 634
Dưới đây là một trích đoạn trả lời phỏng vấn ông Nguyễn Hoàng Đức với đài RFA:
“Tôi đã từng làm trong Phòng Tôn Giáo của Bộ Công An. Trong Phòng ấy người ta có “đối sách” về Đức Cha mà sau này là Hồng Y Nguyễn Văn Thuận. Ông bị chuyển đổi từ miền Nam ra với cái tội rất to là vì ông là cháu của Ngô Đình Diệm và trở về Sàigòn làm Phó Tổng Giám Mục theo ý là lót ổ để lên Tổng Giám Mục.
Và ông cứ thế bị chuyển ra ngoài Bắc. Trong thời gian ông ấy bị cầm cố ở Hà Nội ( có nghĩa là không ở tù ) tức là được giữ trong mật viện. Có một đội trông ông ta, nhưng tôi là một cán bộ cũng khá lâu năm, một sĩ quan khá lâu năm nên tôi đề nghị để tôi ra học tiếng Pháp với cha, trên tinh thần là luyện tiếng Pháp chứ không phải để trông cha. Cụ thể là như thế…
Sau khi học tiếng Pháp với ngài thì tôi cảm nhiễm tinh thần của Đức Cha. Sau này thì tôi thôi việc, lý do là sau khi xảy ra sự kiện Thiên An Môn tôi không còn muốn làm công an nữa, vì tôi làm ở Cục Chống Phản Động nên biết dễ phải đi đàn áp và tôi đã xin chuyển ngành nhưng không được, tôi xin thôi việc cũng không cho. Tôi vẫn cứ bỏ việc.
Sau khi vào Sàigòn tôi làm cho dầu khí Việt Nam. Tôi có đi một số các Nhà Thờ, Nhà Thờ trung tâm Đức Bà, Nhà Thờ Kỳ Đồng… Sau khi ra Hà Nội thì tôi được mặc khải trong một giấc mơ là tôi đi Nhà Thờ và tôi có rửa tội.
Đúng đêm tôi rửa tội ở Nhà Thờ lớn thì cha Ngân, bây giờ trở thành Giám Mục, bảo với cha Hùng, hiện nay đang học bên Ý hay bên Pháp gì đấy, mời tôi viết diễn giải về Đức Tin, và tôi có viết bài “Con đường Đức Tin qua cây cầu FX. Nguyễn Văn Thuận”. Bài này đã gởi qua Tòa Thánh và nằm trong hồ sơ và đã được cha Sỹ đang ở Việt Nam xin đưa chữ ký vào những bản dịch khoảng 4, 5 thứ tiếng. Tôi hiểu là việc phong Thánh cần phải có phép lạ. Phép lạ thứ nhất là Đức Tin. Phép lạ thứ hai là chữa bệnh. Phép lạ thứ ba là mồ mả phát. Tôi là một trong những phép lạ về Đức Tin.”
NGUYỄN HOÀNG ĐỨC – RFA link
Nhà văn Nguyễn Hoàng Đức nguyên là công an, từng học tiếng Pháp với Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận. Anh đã viết một chuyên luận về: “Hành trình Đức Tin qua cây cầu FX. Nguyễn Văn Thuận” để mô tả lại quá trình biến đổi tình cảm, tâm lý và đến với Chúa của anh. Tài liệu đó hiện đang được Bộ Phong Thánh ở Roma lưu giữ xem như một phép lạ Đức Tin.
Được Hội Đồng Công Lý và Hòa Bình Tòa Thánh Vatican mời qua Rôma làm chứng về Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận nhân dịp lễ kết thúc điều tra phong Chân Phúc cấp Giáo Phận. Ngày 2.7.2013 anh lên đường sang Rôma, nhưng đã bị công an ngăn chặn và thu hộ chiếu tại sân bay Nội Bài mà không có lý do rõ ràng.
Đức cố Hồng Y sống 13 năm trong ngục tù Cộng Sản, một số sự việc trong đời sống tù đày đã được ngài kể lại trong “Năm chiếc bánh và hai con cá”, tác phẩm được dịch ra 8 thứ tiếng, để phục vụ các tham dự viên ‘Những Ngày Giới Trẻ’ tại Paris năm 1997. Mời bạn đọc xem lại vài trích đoạn sau:
Có lúc Chúa dùng Giáo Dân để dạy tôi cầu nguyện
Thời gian bị quản thúc ở Giang Xá, có ông lão nhà quê, tên là ông quản Kính, từ Giáo Xứ Ðại Ơn lẻn vào thăm tôi. Tôi không bao giờ quên được lời ông khuyên tôi: “Thưa cha, cha không hoạt động tông đồ được thì xin cha cầu nguyện cho Hội Thánh; ở trong tù cha đọc một kinh hơn một nghìn kinh cha đọc lúc ở ngoài tự do !”
Ðức Mẹ còn sử dụng cả người cộng sản để nhắc tôi cầu nguyện
Ông Hải đã từng ở tù, nằm cùng buồng với tôi để mật thám tôi, sau đã thành bạn của tôi. Trước ngày ông ta ra về, ông đã hứa với tôi: “Nhà tôi ở Long Hưng, chỉ cách La Vang 3km, tôi sẽ đi La Vang cầu nguyện cho anh”.
Tôi tin lòng thành thật của anh bạn, nhưng tôi hoài nghi làm sao một người cộng sản mà đi cầu nguyện Ðức Mẹ cho tôi ! Sáu năm sau, đang lúc tôi ở biệt giam, tôi đã được một bức thư của ông Hải, lạ lùng thật ! Lạ hơn nữa là lời lẽ của ông như sau: “Anh Thuận thân mến, tôi đã hứa với anh, tôi sẽ đi cầu nguyện Ðức Mẹ La Vang cho anh. Mỗi Chủ Nhật, nếu trời không mưa, lúc nghe chuông La Vang, tôi lấy xe đạp vào trước đài Ðức Mẹ, vì chiến tranh bom đạn đã đánh sập Nhà Thờ rồi. Tôi cầu nguyện thế này: Thưa Ðức Mẹ, tôi không có đạo, tôi không thuộc kinh nào cả. Nhưng tôi đã hứa sẽ đi cầu nguyện Ðức Mẹ cho anh Thuận, nên tôi đến đây. Xin Ðức Mẹ biết anh Thuận cần gì thì cho anh ấy”.
Tôi hết sức cảm động. Tôi đọc đi đọc lại rồi đặt thư xuống nhắm mắt lại: “Lạy Mẹ, Mẹ đã dùng anh cộng sản này để dạy con cầu nguyện; chắc Mẹ đã nhậm lời anh ấy, con mới còn sống đây !” ( Ảnh chụp Đức Hồng Y Thuận và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 tại Roma )
Ở trại giam Phú Khánh, một đêm tôi đau quá, thấy một người gác đi qua, tôi kêu: “Tôi đau quá, xin anh thương tình cho tôi thuốc !” Anh ta đáp: “Ở đây chẳng có thương yêu gì cả, chỉ có trách nhiệm“.
Ðó là bầu khí chúng tôi ở trong tù.
Lúc tôi bị biệt giam, trước tiên người ta trao cho năm người gác tôi: đêm ngày có hai anh trực. Cứ hai tuần đổi một tổ mới, để khỏi bị tôi làm nhiễm độc. Một thời gian sau không thay nữa, vì “cấp trên” nói: “Nếu cứ thay riết thì sở công an bị nhiễm độc hết !”
Thực thế, để tránh nhiễm độc, mấy anh không nói với tôi, họ chỉ trả lời “có” hoặc “không”. Họ tránh nói chuyện với tôi. Buồn quá ! Tôi muốn lịch sự vui vẻ với họ, họ vẫn lạnh lùng. Phải chăng họ ghét “cái mác phản động” nơi tôi: Tất cả áo quần đều đóng dấu hai chữ lớn “cải tạo”, kể từ ngày bước chân vào trại Vĩnh Quang ở Bắc Việt.
Tôi phải làm thế nào ?
Một đêm đông lạnh quá, không ngủ được, tôi nghe một tiếng nhắc nhủ tôi: “Tại sao con dại thế ? Con còn giàu lắm: Con mang tình thương Chúa Giêsu trong tim con. Hãy yêu thương họ như Chúa Giêsu đã yêu con”.
Sáng hôm sau, tôi bắt đầu mến họ, yêu mến Chúa Giêsu trong họ, tươi cười với họ, trao đổi đôi ba câu nói… Tôi thuật lại những chuyến đi ra nước ngoài, cuộc sống, văn hóa, kinh tế, khoa học kỹ thuật, tự do dân chủ ở Canada, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Pháp, Ðức, Úc, Áo, v.v… Những câu chuyện đó kích thích tính tò mò của họ, giục họ đặt nhiều câu hỏi. Tôi luôn luôn trả lời…
Dần dần chúng tôi trở thành bạn. Họ muốn học sinh ngữ Anh, Pháp… tôi giúp họ. Từ từ mấy chiến sĩ gác tôi trở thành học trò của tôi ! Bầu khí nhà giam đổi nhiều, quan hệ giữa họ với tôi tốt đẹp hơn. Thậm chí cả những ông xếp công an, thấy tôi đối xử chân thành, không những họ xin tôi giúp các chiến sĩ học hành ngoại ngữ, nhưng họ còn gửi anh khác đến học.
Tôi sống theo lời Chúa Giêsu dạy: “Ðiều gì con làm cho một người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính mình Ta”. Khi nào có hai hay ba người hợp nhau vì danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ”.
Hát kinh “Veni Creator”
Một hôm một ông xếp hỏi tôi:
– Ông nghĩ thế nào về tờ tuần báo “Người Công Giáo” ?
– Nếu viết đúng cả nội dung cả hình thức thì có lợi; nếu ngược lại thì không thêm đoàn kết, lại còn thêm chia rẽ, bất lợi cho cả người Công Giáo và cho cả nhà nước.
– Làm thế nào cải thiện tình trạng ấy ?
– Những cán bộ phụ trách về tôn giáo phải hiểu đúng mỗi tôn giáo thì việc đối thoại, tiếp xúc các chức sắc mỗi tôn giáo cũng như các tín hữu mới có tính cách xây dựng, tích cực và tạo nên thông cảm giữa đôi bên.
– Ông có thể giúp được không ?
– Nếu các vị muốn, tôi có thể viết một cuốn Lexicon ( từ điển bỏ túi ) gồm những danh từ thông dụng nhất trong tôn giáo, từ A đến Z, chừng nào các vị có giờ rảnh, tôi sẽ giải thích rõ ràng, khách quan. Hy vọng các vị có thể hiểu lịch sử, cơ cấu, sự phát triển và hoạt động của Giáo Hội…
Họ đã trao giấy mực cho tôi, tôi đã viết cuốn “lexicon” đó, bằng tiếng Pháp, Anh, Ý, Latinh, Tây Ban Nha, và Trung Quốc với phần giải thích bằng Việt ngữ. Dần dà tôi có cơ hội giải thích hoặc giải đáp thắc mắc, tôi chấp nhận làm sáng tỏ những chỉ trích về Giáo Hội. “Lexicon” ấy trở thành một cuốn giáo lý thực hành.
Ai cũng muốn biết Viện Phụ là gì, Thượng Phụ là gì, Công Giáo khác Anh Giáo, Tin Lành, Chính Thống Giáo chỗ nào ? Tài chánh của Tòa Thánh từ đâu mà có ? Có bao nhiêu tu sĩ, giáo dân làm việc trong giáo triều, huấn luyện Tu Sĩ, Giáo Sĩ thế nào ? Giáo Hội phục vụ nhân loại thế nào ? Tại sao Giáo Hội gồm có nhiều dân tộc, sống qua nhiều thời đại cũng bị bắt bớ, tiêu diệt, cũng mang nhiều khuyết điểm mà vẫn tồn tại ? Ngang đây là đến biên giới của siêu nhiên, của sự quan phòng của Thiên Chúa… Cuộc đối thoại từ A đến Z giúp xóa tan một số hiểu lầm, một số thành kiến, có những lúc trở nên thú vị và hấp dẫn. Tôi tin tưởng có nhiều người cởi mở, muốn tìm hiểu và với những biến chuyển trong thời đại ta, đã có những tầm nhìn mới mẻ và xây dựng.
Thời kỳ biệt giam ở Hà Nội, tôi được biết có 20 chiến sĩ nam nữ trẻ học tiếng Latinh với một cựu Tu Sĩ, để có thể đọc các tài liệu của Giáo Hội. Trong số mấy anh gác tôi có hai anh trong nhóm học Latinh. Trông thấy bài vở, tôi nhận thấy họ học tốt. Một hôm, một trong hai anh ấy hỏi tôi:
– Ông có thể dạy tôi một bài hát tiếng Latinh không ?
– Có nhiều bài hay tuyệt, nhưng biết anh thích bài nào ?
– Ông hát cho tôi nghe, tôi sẽ chọn.
Tôi đã hát Salve Regina, Veni Creator, Ave Maris Stella… Các bạn biết anh ta chọn bài nào không ? Anh ta chọn bài Veni Creator ( Xin Chúa Ngôi Ba đoái thương viếng thăm… ). Tôi đã chép trọn cả bài cho anh ta và anh ta học thuộc lòng. Mỗi sáng quãng 7 giờ, tôi nghe anh ta chạy xuống thang gỗ, ra sân tập thể dục, rồi múc nước vừa tắm vừa hát: Veni Creator Spiritus… Tôi rất cảm động, làm sao mỗi sáng trong nhà tù cộng sản lại có một cán bộ hát kinh “Veni Creator” cho mình nghe !
Nguồn: Diễn Đàn Người Giáo Dân
httpv://www.youtube.com/watch?v=Xgnp9aV8h3I
httpv://www.youtube.com/watch?v=kUk3lwBTyXU&feature=player_embedded
Phép Lạ của ĐHY Nguyễn Văn Thuận
(báo Công Giáo CNA đã đăng chi tiết 12-11-2010)
Được khỏi bệnh nhờ cầu nguyện xin ơn với ĐHY Nguyễn Văn Thuận
Ngày 12 tháng 11 năm 2010, đài EWTN và báo điện tử Công Giáo CNA đã đăng chi tiết về phép lạ của ĐHY Nguyễn Văn Thuận tại Denver, Colorado như sau:
Các bác sĩ đã tuyên bố anh Joseph Nguyễn đã chết sau khi tim của anh ngừng đập và chấn đồ não hòan tòan ngưng chạy. Nhưng trong khi họ đang viết giấy chứng tử thì gia đình của anh đã cất lời kinh kêu cầu lên ĐHY Nguyễn Văn Thuận. Được biết cố ĐHY Nguyễn Văn Thuận là một tôi tớ Chúa đang được cứu xét trong lịch trình phong thánh tại Roma.
Ngày hôm nay thì anh Joseph Nguyễn đã trở lại chủng viện để tiếp tục chương trình học làm linh mục. Khi nhìn tờ giấy chứng tử của chính mình bây giờ đã đóng dấu “VOID” (Vô Hiệu), sau 32 ngày hôn mê, anh chỉ có thể kể lại hai biến cố trong khỏang thời gian dài mà anh mô tả như là một “Giấc ngủ tuyệt vời.”
Thoi thóp trên giừơng bệnh giữa cái sống và cái chết kéo dài nhiều tuần lễ trong năm 2009, anh Joseph chỉ nhớ lại đã được gặp Đức Hồng Y François Xavier Nguyễn Văn Thuận hai lần.
Vị Hồng Y đáng tôn kính người Việt Nam này đã qua đời năm 2002. Năm 2007 Ngài được Đức Giáo Hoàng Benedict XVI nhắc nhở tới trong thông điệp “Spe Salvi” (Niềm Hy Vọng Cứu Rỗi), trong đó gương chứng nhân của 13 năm tù đày của ngài đã được đề cao. Tháng 10 vừa qua, Vatican đã bắt đầu thủ tục điều tra phong Thánh cho Ngài.
Mặc dù anh Joseph Nguyễn chưa bao giờ gặp mặt ĐHY, nhưng gia đình anh đã biết ngài từ khi ngài còn là một linh mục thuờng. Cha của anh là người khá thân thiết với ĐHY, coi ngài như là một ‘người nhà’.
Khi ĐHY trở thành Tổng Giám Mục Saigon thì mối liên hệ với gia đình anh càng trở nên thắm thiết hơn và sau khi ngài trở thành một tù nhân của chế độ Cộng Sản thì ông nội của anh cũng đã từng bị giam chung với đức Tổng một thời gian.
Năm 1975, gia đình anh Joseph Nguyễn di cư tới Hoa Kỳ, và anh Joseph đã được sinh ra ở đây.
Anh Joseph được kể nhiều về cuộc sống anh hùng của cố ĐHY Nguyễn Văn Thuận và trân quí thông điệp hòa bình và hy vọng của Ngài. Nhưng anh không bao giờ tưởng tượng là anh sẽ phải mô tả chi tiết về cuộc sống riêng của mình, và cái kinh nghiệm của sự chết gần kề, cho các nhà điều tra của ủy ban phong thánh.
Sự thể khởi đầu vào tháng Tám năm 2009, lúc đó Joseph đang học năm thứ 3 tại chủng viện. Anh được giao việc thăm viếng và đưa Mình Thánh cho các bệnh nhân tại các bệnh viện. Vào đầu mùa Thu thì anh bắt đầu có vài triệu chứng bị cúm. Nhưng cơn bệnh trở nên trầm trọng,và anh xin nghỉ để về nhà dưỡng bệnh.
Trong cuộc phỏng vấn với CNA, anh kể lại: “Tôi nhớ đó là ngày 01 tháng mười, tôi không hiễu tại sao mà mình không thở được.” Cha anh chở anh đến bệnh viện, anh còn tỉnh táo để làm thủ tục nhập viện, nhưng sau đó thì không còn nhớ gì nữa.
Anh chỉ được nghe kể lại về những gì đã xảy ra trong ngày anh chết, biết rằng cha mẹ của anh vẫn không mất hy vọng và cầu nguyện nhiệt thành với ĐHY Nguyễn Văn Thuận. Anh cũng nghe kể rằng trong ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi, trong lúc hôn mê, anh bắt đầu dứt bỏ các ống truyền nước khỏi mình một cách hung bạo cho tới khi cha của anh đặt một chuổi mân Côi vào tay thì anh mới nguôi.
Một lần thứ hai cơ thể của anh cũng đã ngừng sống, nhưng lần này thì người ta đợi chứ không tuyên bố khai tử anh. Tuy nhiên mọi người cũng nghĩ rằng cơ hội phục hồi thì dường như là vô vọng.
Khi Joseph tỉnh lại 32 ngày sau, anh không còn nhớ chi tiết gì về những cơn đau đớn cả. Một bác sĩ giải thích là anh đã bị ‘cúm heo’ H1N1 kèm với bệnh viêm phổi nặng.
Khi bắt đầu nói chuyện được, Joseph cho biết anh đã gặp ĐHY Thuận 2 lần.
“Trong thời gian hôn mê của tôi, tôi chỉ nhớ có hai điều, ” anh nói.”Hai điều duy nhất tôi nhớ là hai lần thấy Đức Hồng Y Thuận hiện ra… ĐHY đã hiện ra với tôi hai lần.”
Joseph nói rằng anh không chỉ nhìn thấy Ngài mà thôi, nhưng với những tình tiết sống động mà anh mô tả về “lúc linh hồn rời khỏi xác”, anh đã thực sự gặp gỡ và nói chuyện với Đức Hồng Y. Mặc dù anh không thể tiết lộ chi tiết của câu chuyện, anh nghĩ hai lần ấy đã xảy ra trong lúc mà các bác sĩ quan sát thấy các hoạt động của não và cơ thể của anh ngưng họat động.
“Sau lần gặp gỡ thứ hai với ĐHY”, anh nói, “Thì tôi tỉnh dậy.” Anh hòan tòan “không có ý tưởng về những gì đã xảy ra,” hay tại sao anh đã “có những ống dây cuốn chằng chịt khắp người”, đặc biệt là các ống ở cổ làm anh không nói được.
Các bác sĩ đã nghĩ rằng anh cần phải mất nhiều tháng hoặc có thể là nhiều năm trước khi anh có thể nói, đi, hoặc học lại. Nhưng chỉ trong vài ngày là anh đã nói chuyện và thở bình thường, và các y tá phải lo đi tìm anh khắp nơi quanh cơ sở phục hồi.
Anh cũng bất ngờ được người em gái của ĐHY Nguyễn Văn Thuận đang sống ở bên Canada gọi điện thoại sang, bà đã gửi tặng cho anh ta một chuỗi tràng hạt của ĐHY.
Joseph đã trở lại chủng viện vào đầu học kỳ sau đó, một sự kiện khác xa với việc các bác sĩ chuẩn đóan là anh phải mất hai năm để phục hồi sức khỏe.
Sau đó thì tiếng đồn về phép lạ lan truyền ra, anh Joseph đã cung cấp thông tin cho các nhân viên làm việc cho vụ án phong chân phước của ĐHY tại Roma. Nhưng ngòai việc đóng góp đó, anh chủng sinh trẻ tuổi này bây giờ chỉ nhắm vào một mục tiêu duy nhất trước mặt là chức linh mục. Khi anh trở lại chủng viện, Joseph một lần nữa đã được giao nhiệm vụ phục vụ tại bệnh viện.
Trong khi anh giữ kín đáo về khía cạnh phép lạ của mình, Joseph đã rất nhiệt tình nói chuyện về các công việc hiện tại bệnh viện. Anh cho biết tình trạng hôn mê và kinh nghiệm phục hồi của anh đã giúp anh đem hy vọng và niềm an ủi đến cho bệnh nhân.
Những bệnh nhân này dù không biết về cuộc hội ngộ bí ẩn của anh với một vị thánh, hoặc biết về cuộc sống lại ngoạn mục từ cõi chết của anh. Nhưng điều quan trọng hơn là khi họ nhìn thấy vết sẹo trên cổ họng của anh, họ biết rằng anh hiểu được họ. “Thực là mãn nguyện khi có thể bước vào một căn phòng và nói… Quí ông bà không phải chịu đựng những đau khổ như thế này một mình đâu, bởi vì chính tôi cũng đã trải qua đó… nằm ngay tại giường bệnh như thế này”
Joseph coi những kinh nghiệm của anh đã đem đến một “đức hy vọng” trong lòng của anh và cung cấp cho anh một thông điệp mà anh hy vọng sẽ có thể chia sẻ với những người trong hoàn cảnh tuyệt vọng. “Đó là có một ĐHY Thuận trong cuộc sống”.
Trần Mạnh Trác ……………………………….
Seminarian may owe his life to Cardinal Van Thuan’s intercession
By Benjamin Mann, Staff Writer CATHOLIC NEWS AGENCY
Seminarian Joseph Nguyen
Denver, Colo., Nov 12, 2010 / 06:30 am (CNA/EWTN News).- Doctors said Joseph Nguyen was dead. His heart rate was dropping beyond recovery, and all brain activity was gone. But while they wrote his death certificate, Joseph’s parents were asking an old family friend for help: a Vietnamese cardinal who is being considered for beatification.
Joseph Nguyen has since re-enrolled in seminary. He’s seen his own death certificate, now stamped “VOID.” He has only two memories of the 32-day coma, which he says felt otherwise like a “great night’s sleep.”
During the weeks that he hovered between life and death in 2009, Joseph says he had two encounters with Cardinal Francois-Xavier Nguyen Van Thuan.
The revered Vietnamese Cardinal died in 2002. In 2007 he received a prominent mention in Pope Benedict XVI’s encyclical “Spe Salvi,” where the Holy Father cited his exemplary Christian witness during his 13 years as a political prisoner. His cause for beatification began in 2007 as well. In October 2010, the Vatican began its own inquiry into his possible sainthood.
Long before anyone thought to declare him a saint, the future cardinal was simply a priest– often celebrating private Masses in the homes of some Vietnamese faithful. Although Joseph Nguyen never met Cardinal Van Thuan during his earthly life, his father’s family knew “Father Van Thuan” quite well. They thought of the priest “almost like a family member.”
That family bond deepened when Cardinal Van Thuan became Archbishop of Saigon, and subsequently a prisoner of the Communist regime.
In 1975, Joseph Nguyen’s parents immigrated from Southeast Asia to the United States, where their son was later born. Joseph knew about Cardinal Van Thuan’s heroic life, and appreciated his message of peace and hope. But the young seminarian never imagined he would be describing details of his own life, and near-death, to investigators for the cardinal’s canonization.
It began in August 2009, during Joseph’s third year in the seminary. He was assigned to hospital work, visiting and counseling the sick, as well as bringing the Eucharist to Catholic patients. Early in the fall, he caught what he thought was only a common seasonal flu. When the illness worsened, he asked for leave from the seminary to recover at home.
“I remember October 1st,” he recounted to CNA. “I had no idea why I was gasping for air.” His father drove him to the hospital, where he checked himself in. But Joseph has no memory of that event, or the emergency tracheotomy he received after losing the ability to breathe.
Later, he would hear about the day he was pronounced dead, while his parents kept hope alive and prayed fervently for Cardinal Van Thuan’s intercession. He would also hear about how, on the feast of Our Lady of the Rosary, while still comatose, he began violently pulling the tubes from his body, stopping only when his father placed a rosary in his hand.
He’d also learn about the second time his body seemed to be shutting down. That time, no one declared his death. They’d already seen one seemingly impossible recovery.
When Joseph awoke, after 32 days, he knew nothing about any of this. A doctor explained he had fallen ill not only with a seasonal flu, but also the H1N1 “Swine Flu,” and severe pneumonia. Friends and family later told him the details of his month in the coma.
But when he could speak again, Joseph had his own story to tell.
“During my coma, there are only two things I remember,” he said. “The only two things I remember are two visions of Cardinal Van Thuan … He appeared to me twice.”
Joseph said he not only saw, but actually met and spoke with Cardinal Van Thuan, during two vivid incidents he described as a “separation of soul and body.” Although he said he couldn’t reveal the details of the ecounters, he did say that he suspected that they occurred while his doctors were observing his loss of brain activity and decline in vital signs.
“Soon after the second visit” with the cardinal, he said, “I woke up from the coma.” He had “no idea what had happened,” or why he had “all these tubes and wires” coming out of his body, particularly the tube in his neck that kept him from speaking.
Doctors thought it would be months or years before he could speak, walk, or study. But within days he was talking and breathing normally, racing his nurses around the rehabilitation room.
He also received an entirely unexpected phone call from Cardinal Van Thuan’s sister in Canada, who ended up giving him one of her brother’s rosaries.
Joseph returned to the seminary at the beginning of the following semester– a far cry from the two years his doctors had advised him to wait.
As others learned about Cardinal Van Thuan’s possible involvement in Joseph’s healing, he ended up providing information to officials working on the cardinal’s cause for beatification in Rome. Apart from that contribution, though, the young seminarian just wants to move forward toward the goal of ordination. When he returned to the seminary, Joseph was assigned once again to hospital duties.
While he was reticent about some potentially miraculous aspects of his healing, Joseph spoke enthusiastically about his current hospital work. He said his coma and recovery experience have allowed him to give hope and comfort to patients.
Those patients don’t need to know about his mysterious meetings with a possible saint, or his breathtaking return from death. What matters more is to see the scar on his throat, and know he understands. “It’s very fulfilling to be able to walk into a room and say … ‘You don’t have to feel this alone, because I’ve been there’ – physically, there, in that hospital bed.”
Joseph recalled that his experiences in the coma instilled “the virtue of hope” in his heart, giving him a message he hopes to share with those in desperate circumstances. “That’s Cardinal Van Thuan in my life,” the future priest reflected.
Căn phòng lưu niệm kỷ vật của vị Tôi Tớ Chúa cố Hồng Y Phanxico Xaviê Nguyễn văn Thuận
Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Hộp thuốc chữa bệnh
Căn phòng lưu niệm kỷ vật của Vị Tôi Tớ Chúa cố Hồng Y Phanxico Xaviê Nguyễn văn Thuận ở Tu viện Cellitinnen thuộc Tổng giáo phận Köln (Cologne), đã được Đức Hồng Y Gioakim Meisner, Tổng giám mục Cologne làm phép khánh thành hôm 26.10.2013.
Căn phòng kỷ niệm này lưu giữ bảo quản những vật lưu niệm, mà đức cố Hồng Y Phanxico Nguyễn văn Thuận sau khi qua đời đã trối lại cho nhà Dòng. Mối liên hệ của đức cố Hồng Y với nhà Dòng có bề dầy lịch sử từ những năm 50 của thế kỷ trước. Số là khi còn là linh mục trẻ sang du học bên Roma, vào những dịp nghỉ hè, ngài hay sang nhà Dòng Cellitinnen bên Đức để học tiếng Đức cùng giúp việc mục vụ linh hướng dâng Thánh lễ Misa cho nhà Dòng.
Mối dây liên lạc đó đức cố Hồng Y nhà ta luôn quan tâm chăm sóc đều đặn cả sau sau khi trở về quê hương Việt Nam làm giáo sư chủng viện làm giám đốc Chủng viện, làm Cha Chính Tổng giáo phận Huế, làm Giám mục Nha Trang, thời kỳ bị tù giam giữ và thời gian sang sinh sống lưu vong bên Roma cho tới khi đước Chúa gọi trở về đời sau ngày 16.09.2002.
Mối dây liên lạc tình nghĩa con người đó giữa ngài với nhà Dòng thật linh thiêng đạo đức cùng thắm thiết. Chính vì thế, ngài đã trối lại cho nhà Dòng những kỷ vật cá nhân của ngài, như lời cám ơn mối thịnh tình nhà Dòng đã trao tặng ngài từ mấy chục năm qua.
Trong tiến trình Gíao Hội lập dự án phong Á Thánh cho ngài, nhà Dòng đã dành một căn phòng 40 mét vuông chỉ để trưng bày trong tủ kính bảo quản những di vật của Tôi Tớ Chúa cố Hồng Y Phanxico Xaviê Nguyễn văn Thuận đã để lại.
Căn phòng này không chỉ để tôn vinh Tôi Tớ Chúa cố Hồng Y Phanxico Xaviê Nguyễn văn Thuận, nhưng còn hơn thế nữa. Đến thăm căn phòng kỷ vật này, người hành hương còn học hỏi được gương sống nhân đức của vị Tôi Tớ Chúa còn lưu lại qua chứng từ những vật dụng ngài đã dùng để thờ phượng kính mến Chúa.
Một di vật qúi báu không phải chỉ theo khía cạnh lịch sử, nhưng ẩn chứa thâm sâu lòng đạo đức của ngài là chiếc hộp với hai lọ hộp dầu cù là đựng rựơu lễ, chiếc khăn lễ, chiếc muỗm, mà thân nhân gia đình ngày xưa gửi vào nhà tù tiếp tế nuôi ngài.
Năm 2000 trong tuần tĩnh tâm mùa chay cho Giáo triều Roma với Đức Thánh Cha Gioan Phaolo đệ nhị, mà bây là Á Thánh và ngày 27.04.2014 sắp tới sẽ được tôn phong lên bậc Hiển Thánh, ngài đã giảng nói về những chiếc hộp thăm nuôi đó như sau. „ Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã sống giờ phút tột đỉnh trong cuộc đời trần thế của Ngài: món qùa tuyệt vời biểu lộ tình yêu đối với Chúa Cha và với chúng ta được bày tỏ qua hy tế trao ban chính Mình và Máu Ngài.
Chúa để lại cho chúng ta giờ phút tột đỉnh ấy để tưởng niệm Ngài, chứ không phải giờ phút khác, cho dù giờ phút đó có chói sáng rạng ngời thế nào đi nữa, như lúc Chúa hiển linh hoặc một trong những phép lạ của Ngài. Nghĩa là Ngài để lại trong Hội Thánh sự hiện diện tưởng niệm của giờ phút tột đỉnh của tình yêu thương và đau khổ trên thập gía mà Chúa Cha đã biến nó thành vĩnh cửu và để sống nhờ Ngài, để sống và chết như Ngài.
Chúa Giêsu muốn Hội Thánh tưởng niệm Ngài và sống những tâm tình cũng như những đòi hỏi của việc tưởng niệm ấy qua sự hiện diện sinh động của Ngài. „ Các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy“ ( cf 1 Cr 11,24)
Trở lại kinh nghiệm của tôi. Khi bị bắt, tôi phải đi tay không, đi ngay lập tức. Ngày hôm sau, tôi được phép viết cho những người thân để xin những thứ cần thiết nhất như quần áo, kem đánh răng…Tôi viết:“ Xin vui lòng gửi cho tôi một chút rượu thuốc để chữa bệnh đường ruột“. Các tín hữu hiểu ngay. Họ gửi cho tôi mội chai nhỏ đựng rượu lễ, bên ngoài có ghi „ thuốc chữa bệnh đường ruột“, còn bánh lễ thì họ giấu trong một ống nhỏ chống ẩm thấp.
Giám thị hỏi tôi:
– „ Ông bị bệnh đường ruột_
– Phải.
– Đây, có ít thuốc cho ông đây.“
Tôi không bao giờ có thể diễn tả hết niềm vui lớn lao của tôi: mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước trên lòng bàn tay, tôi cử hành Thánh Lễ, và đó cũng là bàn thờ, là nhà thờ chính tòa của tôi.
Đó là liều thuốc đích thực cho linh hồn và thân xác tôi: „ Thuốc trường sinh bất tử, thuốc giải độc để khỏi chết, nhưng luôn được sự sống trong Chúa Giêsu“ , như Thánh I-Nha-xiô thánh Antiokia đã nói.
Mỗi làn như thế tôi được dịp giang tay và đóng đinh mình vào Thập gía với Chúa Giêsu và cùng với Ngài uống chén đau khổ nhất. Mỗi ngày, khi đọc lời truyền phép với tất cả tâm hồn, tôi làm lại một giao ước mới, một giao ước vĩnh cửu giữa tôi và Chúa Giêsu, hòa lẫn Máu Ngài với máu của tôi. Đó là những Thánh Lễ đẹp nhất trong đời tôi.“ ( Hồng Y Phanxico Xaviê Nguyễn văn Thuận, Chứng nhân hy vọng, Các bài giảng tĩnh tâm cho giáo triều Roma, mùa chay 12.- 18. tháng Ba năm toàn xá 2000, Dân Chúa Âu châu 2001, trang 166 )
Những di vật lịch sử của người tù Tổng Giám mục Phanxico Xavie Nguyễn văn Thuận hiện còn được lưu để cho tham quan cùng học nhớ đến gương sống đức tin vào Chúa của một chứng nhân niềm hy vọng trong căn phòng kỷ niệm ở nhà Dòng Cellitinnen, Koeln.
„ Con phải cố gắng không ngừng để mỗi ngày con đổi mới, để máy thu thanh của thế gian bắt được làn sóng Tin Mừng do con phát âm, đem tiếng con vào tận mỗi tâm hồn, mỗi gia đình. Con hãy nên người của thời đại.“ ( Phanxico Nguyễn văn Thuận, Đường hy vọng số 661.)
Địa chỉ liên lạc tới thăm Căn phòng
Stiftung der Celittinen zur hl. Maria
Graseggerstrasse 105
50737 Koeln- Longerich
Tel. 0049 (0) 221-974514-51
Herr Diakon W. Allhorn: 0221- 97451420
Email: [email protected]
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Linh đạo của người tù Giám mục Phanxico Xavie Nguyễn văn Thuận.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
3/1/2014
Trong căn phòng lưu giữ những kỷ vật của Tôi Tớ Chúa cố Hồng Y Phanxico Nguyễn văn Thuận có cuốn sách mỏng cũ kỹ bản in lần thứ nhất: Năm chiếc bánh và hai con cá. Tập sách mỏng này do người tù Phanxico Xavie Nguyễn văn Thuận trong suy tư cầu nguyện đã được Chúa soi sáng viết ra thành chữ nghĩa trong nhà tù ở Cây Vông, Phú Khánh, ngày 08.12 1975. Nội dung những suy niệm của người tù trong hoàn cảnh khốn khó tuyệt vọng là linh đạo cho đời sống trong nhà tù của mình. Linh đạo đó của người tù Phanxico Xavie Nguyễn văn Thuận bây giờ đọc lại người ta khám phá ra đó là bản hùng ca trong tương quan chiều dọc thẳng đứng hướng lên trời cao, chiều ngang đường chân trời vươn ra tới lòng xã hội con người nơi sinh sống, và con đường chiều hướng về nội tâm bản thân lòng mình. Linh đạo đó người tù Giám mục Phanxico Xavie Thuận có lẽ đã lấy cảm hứng từ sách Khải huyền của Thánh Gioan diễn tả thị kiến trên trời nói về 24 vị Kỳ Mục: „ Khi Con Chiên đã lãnh cuốn sách, thì bốn Con Vật hai mươi bốn Vị Kỳ Mục phủ phục xuống trước mặt Con Chiên, mỗi vị tay cầm đàn, tay năng chén vàng đầy hương thơm, tức là những lời cầu nguyện của các Thánh.“ (Khải huyền 5, 8). Dựa theo con số 24 trong Kinh Thánh người tù Giám mục Phanxico Xavie đã hòa lẫn trong suy tư cầu nguyện sáng tác thành 24 lời cầu nguyện như 24 ngôi sao con đường linh đạo trong bài suy niệm thứ bảy về con cá thứ hai:
Hai mươi bốn ngôi sao
1* Con muốn thực hiện một cuộc cách mạng: canh tân thế giới. Hoài bảo lớn lao đó, sứ mệnh cao đẹp đó, Chúa trao cho con; con thi hành với “quyền lực Chúa Thánh Thần”. Mỗi ngày con chuẩn bị lễ Hiện Xuống mới quanh con.
2* Con xúc tiến một chiến dịch: làm cho mọi người hạnh phúc. Con hy sinh mình từng giây phút với Chúa Giêsu, để đem an bình trong tâm hồn, phát triển thịnh vượng cho các dân tộc. Ðường lối tu đức thầm kín và thiết thực!
3* Con nắm vững một đường lối tông đồ: “Thí mạng vì anh em”, vì không có tình yêu nào lớn lao hơn (x. Ga 15, 13). Con hao mòn từng giây phút và sẵn sàng tiêu hao để chinh phục anh em về với Chúa.
4* Con hô một khẩu hiệu: “Tất cả hiệp nhất”, hiệp nhất giữa các người Công Giáo, hiệp nhất giữa các Kitô hữu, hiệp nhất giữa các dân tộc. Như Chúa Cha và Chúa con là một (x. Ga 17, 22-23).
5* Con tin một sức mạnh: Thánh Thể. Thịt máu Chúa sẽ làm cho con sống, “Ta đã đến, là để chúng được có sự sống và có một cách dồi dào” (Ga 10, 10). Như manna nuôi dân Do Thái đi đường về Ðất hứa, Thánh Thể sẽ nuôi con đi cùng đường Hy vọng (x. Ga 6, 53).
6* Con mang một đồng phục, nói một ngôn ngữ: Bác ái. Bác ái là chứng tích để biết con là môn đệ Chúa (x. Ga 13, 35), là dấu hiệu rẻ mà khó kiếm nhất. Bác ái là sinh ngữ số một mà thánh Phaolô cho là cao trọng hơn tiếng nói của loài người và các thiên thần, là ngôn ngữ độc nhất sẽ tồn tại trên thiên đàng (x. 1 Cor 13, 1).
7* Con nắm một bí quyết: Cầu nguyện. Không ai mạnh bằng người cầu nguyện, vì Chúa đã hứa ban tất cả. Khi các con hiệp nhau cầu nguyện có Chúa ở giữa các con (x. Mt 18, 20). Cha tha thiết khuyên con ngoài giờ kinh, hãy cầu nguyện mỗi ngày tối thiểu một giờ, nếu được hai giờ càng tốt. Không phải là mất mát vô ích đâu! Trên quãng đường cha đi, cha đã thấy lời thánh Têrêxa Avila ứng nghiệm: “Ai không cầu nguyện, không cần ma quỉ lôi kéo, sẽ tự mình sa xuống hỏa ngục”.
8* Con giữ một nội qui: Phúc âm. Ðó là hiến pháp trên tất cả mọi hiến pháp, là hiến pháp Chúa Giêsu đã để lại cho các tông đồ (x. Mt 4, 23). Hiến pháp ấy không khó khăn, phức tạp, gò bó như các hiến pháp khác; ngược lại, linh động, nhân hậu, làm phấn khởi tâm hồn con. Một vị thánh ngoài Phúc âm là “thánh giả”.
9* Con trung thành theo một vị lãnh đạo là Chúa Kitô và đại diện của Ngài: Ðức Giáo Hoàng, các Giám mục, kế vị các thánh tông đồ (x. Ga 20, 22-23). Hãy sống và chết vì Hội thánh như Chúa Kitô. Ðừng nghĩ chết vì Hội thánh mới hy sinh. Sống vì Hội thánh cũng đòi hỏi nhiều hy sinh.
10* Con có một tình yêu: Mẹ Maria. Thánh Gioan Maria Vianney đã nói: “Mối tình đầu của tôi là Mẹ Maria”. Nghe Mẹ sẽ không lầm lạc, hoạt động vì Mẹ sẽ không thất bại, làm vinh quang Mẹ sẽ được sống đời đời.
11* Con có một sự khôn ngoan: Khoa học Thánh giá (x. 1 Cor 2, 2). Nhìn Chúa Giêsu trên thánh giá, con giải quyết ngay được vấn đề đang khiến con xao xuyến. Thánh giá là tiêu chuẩn để chọn lựa và quyết định, tâm hồn con sẽ bình an.
12* Con có một lý tưởng: Hướng về Chúa Cha, một người Cha đầy yêu thương. Cả cuộc đời Chúa Giêsu, mọi tư tưởng, hành động đều nhắm một hướng: “Ðể cho thế gian biết là Ta yêu mến Cha, và như Cha truyền dạy Ta sao, Ta làm như vậy” (Ga 14, 31), “Ta hằng làm những sự đẹp lòng Người” (Ga 8, 29).
13* Con chỉ có một mối lo sợ: Tội lỗi. Triều đình hoàng đế Hy Lạp đã nhóm họp để bàn cách trả thù thánh Gioan Kim Khẩu bởi ngài đã khẳng thắn khiển trách bà hoàng hậu.
Kế hoạch I: Bỏ tù. Nhưng ông ấy sẽ được dịp cầu nguyện, chịu khó vì Chúa như ông hằng mong muốn.
Kế hoạch I: Lưu đày. Nhưng đối với ông ấy, đâu cũng là đất Chúa.
Kế hoach III: Tử hình. Ông sẽ được tử đạo, chúng ta sẽ thỏa mãn nguyện vọng của ông: được về với Chúa.
Tất cả kế hoạch I, II, III, không làm cho ông khổ đau, ngược lại ông sẽ vui sướng chấp nhận.
Kế hoạch IV: Chỉ có một điều ông khiếp sợ nhất, gớm ghét nhất là tội lỗi, nhưng bắt ông phạm không được.
Nếu con chỉ sợ tội, thì không ai mạnh hơn con.
14* Con ôm ấp một ước nguyện: “Nước Cha trị đến, ý Cha được thành sự, dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6, 10). Dưới đất lương dân biết Chúa như trên trời. Dưới đất mọi người khởi sự yêu nhau như trên trời. Dưới đất đã bắt đầu hạnh phúc như trên trời. Con sẽ nỗ lực thực hiện nguyện vọng ấy. Khởi sự đem hạnh phúc thiên đàng cho mọi người ngay từ trần thế.
15* Con chỉ thiếu một điều: “Có gì đem bán mà cho kẻ khó, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo Ta!” (Mt 10, 21), nghĩa là con phải dứt khoát. Chúa cần hạng tình nguyện thoát ly!
16* Con dùng một phương pháp tông đồ hữu hiệu: tiếp xúc để hòa mình, nhập thể với mọi người để hiểu, để nghe, để yêu mọi người. Tiếp xúc hữu hiệu hơn giảng, hơn viết sách. Tiếp xúc giữa người với người, lòng bên lòng, bí quyết bền đỗ, bí quyết thành công.
17* Con chỉ có một việc quan trọng nhất, Maria đã chọn phần tốt nhất: “Ngồi bên Chúa” (x. Lc 10, 41-42). Nếu con không sống nội tâm, nếu Chúa Giêsu không phải là linh hồn các hoạt động của con thì … Con thấy nhiều, hiểu nhiều rồi, cha miễn nói.
18* Con chỉ có một của ăn: “Thánh ý Chúa Cha” (x. Ga 4, 34), nghĩa là con sống, con lớn lên bằng ý Chúa, con hành động do ý Chúa. Ý Chúa như thức ăn làm con sống mạnh, vui; ngoài ý Chúa con chết.
19* Con chỉ có một giây phút đẹp nhất: Giây phút hiện tại (x. Mt 6, 34; Gc 4, 13-15). Sống tron tình yêu Chúa cách trọn vẹn, đời con sẽ tuyệt đẹp nếu kết tinh bằng từng triệu giây phút đẹp nhất. Con thấy đơn sơ, không phải khó!
20* Con chỉ có một tuyên ngôn: “Phúc thật tám mối”. Trên núi, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Bát phúc” (x. Mt 5, 3-12). Hãy sống như vậy, con sẽ nếm được hạnh phúc rồi rao truyền cho mọi người con gặp.
21* Con chỉ có một công việc quan trọng: Bổn phận, không kể lớn hay nhỏ, vì lúc ấy “con làm việc của Cha con” trên trời. Ngài chỉ định cho con thực hiện chương trình của Ngài trong lịch sử (x. Lc 2, 49; Ga 17, 4). Làm bổn phận là đường lối tu đức chắc chắn nhất. Nhiều người bày vẽ một lối tu đức rắc rối, rồi phàn nàn là khó!
22* Con chỉ có một cách nên thánh: Ơn Chúa và ý chí con (x. 1 Cor 15, 10). Chúa không bao giờ thiếu ơn; con có đủ ý chí không?
23* Con chỉ có một phần thưởng: Thiên Chúa (x. Mt 25, 21, 23; 2 Tim 4, 7-8; Kh 2, 26-28; 3, 21-22). Khi Chúa hỏi Tôma Aquinô: “Con viết rất đúng về Ta, con muốn phần thưởng nào? – “Con chỉ muốn Chúa!”
24* Con có một Tổ Quốc.
Một nước Việt Nam,
Một dân tộc Việt Nam,
Một tâm hồn Việt Nam,
Một văn hóa Việt Nam,
Một truyền thống Việt Nam.
Là người Công Giáo Việt Nam
Con phải yêu Tổ quốc gấp bội.
Chúa dạy con, Hội thánh bảo con,
Cha mong giòng máu ái quốc,
Sôi trào trong huyết quản con.“
Xin mời cùng đến thăm viếng Căn Phòng, và học hỏi linh đạo của người tù Giám mục Phanxico Xavie Nguyễn văn Thuận.
Địa chỉ liên lạc tới thăm Căn phòng
Stiftung der Celittinen zur hl. Maria
Graseggerstrasse 105
50737 Koeln- Longerich
Tel. 0049 (0) 221-974514-51
Herr Diakon W. Allhorn: 0221- 97451420
Email: [email protected]
Tháng kính Thánh cả Giuse 03.2014
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hy vọng
Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài.
Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống.
Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp
Sống mỗi phút cho tốt đời sẽ thánh.
Đường hy vọng do mỗi chấm hy vọng.
Đời hy vọng do mỗi phút hy vọng.
Sách “Đường Hy Vọng và Dẫn Giải”
(Câu 978 trang 385)
Cố Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận
THẬP ĐẠI BỊNH
(Ghi lại bài nói chuyện của Đức Tổng Giám mục Phanxicô
Xaviê Nguyễn Văn Thuận với giới trẻ Việt Nam tại Strasbourg, Pháp, chiều
ngày 12.9.1998)
Giới thiệu
Muốn thành công trước hết phải chữa trị tận gốc mười (10) chứng bịnh làm băng hoại xã hội ngày nay.
Cuộc sống cộng đồng và Giáo hội, không những ở Việt Nam mà ngay cả ở hải ngoại, hiện đang có những bất ổn. Không hoặc chưa phát huy được nét tích cực của mình. Do đâu ?
Có rất nhiều căn nguyên. Những căn nguyên này là những chứng bịnh vừa nguy hiểm vừa truyền nhiễm đang hoành hành trong xã hội, và có cơ nguy làm cho cuộc sống xã hội băng rã. Tôi qui chúng lại thành mười bệnh lớn: Thập đại bịnh.
1. Bệnh quá khứ cục bộ
Bệnh này thể hiện qua tâm trạng chỉ nhớ và khen cái quá khứ của mình mà thôi và đóng khung lại trong đó. Ngày tôi bị đưa đi tù ra Bắc, thỉnh thoảng gặp giáo dân và ai cũng hớn hở tâm sự: “Thưa cha, chúng con thấy sung sướng nhất là thời còn Đức khâm sứ . Chúng con đi rước kiệu đầy đường phố, quanh cả bờ hồ Hoàn Kiếm, và thấy Đức khâm sứ quỳ trên chiếc xe, tay cầm Mình Thánh Chúa, mặt ngài sáng láng đỏ hồng như mặt trời. Không biết bao giờ chúng con mới trở lại được như thời kỳ có Đức khâm sứ!”. Ta không quên quá
khứ, vì đó là bài học kinh nghiệm, nhưng ta không dừng lại đó, ta nhìn tương lai để xây dựng còn đẹp hơn xưa.
Bà con chỉ sống trong quá khứ, mong trở về quá khứ. Mà thời gian thì bao giờ quay trở lại !
Tôi đi nhiều nơi, gặp nhiều anh chị em tới một tuổi nào đó. Chén thù chén tạc bên nhau than thở: “Biết bao giờ bọn mình trở lại được thời Cộng hoà. Mọi thứ rẻ mạt. Lương tháng mấy nghìn. Một tạ gạo giá chỉ mấy trăm bạc. Sướng thiệt !”.
Ta đang ở năm 1998, làm sao mà lùi lại 1960 được !
Do vậy mà chúng ta đâm ra thiển cận. Thay vì nhìn tới thì lại nhìn lui. Giống như người lái xe, không nhìn đằng trước mà cứ chăm chăm vào kính chiếu hậu để ngắm xe sau. Vậy làm sao mà tiến được.
Mà dù thế nào thì mình vẫn phải sống. Quá khứ không bao giờ trở lại. Và thời gian thì cứ tiến mãi.
Nhìn lại gương Chúa Giêsu. Từ trời cao xuống thế, Ngài cứ nhắm tới, một mạch đi tới và cứ nói: “Thầy sẽ lên thành Giêrusalem chịu nạn”. Ngài dư biết cuộc tử nạn sẽ rất đau đớn, nhưng vẫn đi tới, chấp nhận. Bởi qua cái đau khổ đó con người được cứu độ.
Cũng vậy, nếu chúng ta muốn cho Đất nước và Giáo hội mình tiến, thì phải nhìn về tương lai. Không quên quá khứ, vì đó là bài học cho tương lai. Nhưng đừng có viễn mơ lui lại quá khứ.
Mỗi người, mỗi thời đại đều có cái hay, cái đẹp. Phải làm sao biết khai triển cái hay cái đẹp đó cho hiện tại đang sống, chứ đứng đó mà than thở tiếc nuối thì ích gì ! Nhìn quá khứ để tạ ơn Chúa, để sám hối. Nhìn hiện tại để hăng say phục vụ với trách nhiệm – Nhìn tương lai với hy vọng.
2. Bệnh tiêu cực bi quan
Những người mang bệnh này cứ chỉ trích kinh niên. Khi nào cũng có chuyện để chỉ trích. Một người làm cả đám phá. Một chính đảng lên thì các đảng khác xúm nhau phá. Phải đạp nó xuống thì mình mới lên được chứ !
Bệnh chỉ trích phát sinh từ lòng ích kỷ hoặc kiêu căng. Một biểu hiện song hành của bệnh này là người chỉ trích thường hay thiếu tự tin.
Người tiêu cực cái gì cũng chỉ trích. Nhưng khi được yêu cầu đưa đề nghị thì “để xem đã”, hoặc có ai đưa ra đề nghị gì thì lại lắc đầu “không làm nổi đâu” !
Người tiêu cực thì bất cứ một cơ hội nào cũng là một tai họa cho mình (for the pessimists every opportunity is a calamity). Trái lại, người lạc quan thì bất cứ tai họa nào cũng là một cơ hội cho mình (for the optimists every calamity is an opportunity).
Người ta kể câu chuyện: Một công ty lớn gởi hai đại diện sang một nước Phi châu để nghiên cứu thị trường tiêu thụ giày dép. Trở về điều trần, một vị lắc đầu: Thưa quý vị, không có cách gì tiêu thụ được; người dân ở đó chỉ đi chân đất, có ai đi giày dép đâu ! Trong khi đó vị kia lại hớn hở: Thưa quý vị, chuyến này chúng ta thắng lớn; cả một lục địa mênh mông chưa có ai có giày dép để đi cả !
Người tích cực thì lạc quan. Kẻ tiêu cực bi quan. Tùy theo cách nhìn mà vấn đề nẩy sinh. Người Pháp nói: Đừng trách rằng tối; tối là vì mình không chịu thắp đèn lên thôi ! Đức Gioan Phaolô II kêu gọi: “Đừng sợ”, vì ta tin vào Thiên Chúa quyền năng và yêu thương, ta tin con người có thiện chí, ta tin vào mình có Chúa giúp.
3. Bệnh phô trương chiến thắng
Làm gì cũng chỉ nhắm chuyện phô trương là chính. Bệnh này tiếng pháp gọi là triomphalisme; người Mỹ cũng có từ ngữ show up.
Thỉnh thoảng đây đó đọc trên những bản tin sinh hoạt cộng đoàn thật nức lòng: Đại lễ tổ chức vô cùng thành công, cuộc rước kéo dài cả nửa cây số, nhiều chục cha đồng tế, bữa tiệc kết thúc thật linh đình, bà con vô cùng hoan hỉ, chưa có bao giờ và có ai tổ chức được lớn như thế … Nhưng hết tiệc ra về rồi là hết. Đại lễ hôm qua hôm nay thành quá khứ xa lơ. Cảm xúc hôm qua hôm nay gọi mãi chẳng thấy về ! Hãy cai chứng bệnh phô trương, vì cái chiều
sâu thực sự ít ai quan tâm. Ta bảo sáng danh Chúa, nhưng xét cho kỹ Chúa mấy phần trăm, ta mấy phần trăm?
Có những điều không cần phải phô trương. Nhưng nó sẽ từ từ thấm vào lòng người, người ta sẽ hiểu. Người ta hiểu, nhưng đồng thời người ta cũng có tự ái. Càng huyênh hoang, càng làm cho người ta ghét. Mà thành công đâu phải do mình tài giỏi gì. Nhưng mọi chuyện là nhờ ơn Chúa. Như vậy mình càng không có lý do gì để phô trương. Lúc đang huyênh hoang thì chính là lúc nguy hiểm nhất, tai hại nhất, vì đó là lúc mình mất cảnh giác. Khi nào thấy sau một cuộc lễ, có nhiều người ăn năn trở lại, Cộng đoàn hiêp nhất hơn, sốt sắng hơn, đó là dấu thành công thực sự.
4. Bệnh cá nhân chủ nghĩa
Các nhà phân tích cho hay người Âu châu bị bệnh này nặng hơn. Nhưng mình cũng không kém. Thời đại này đâu đâu cũng nghe người ta hô hào đoàn kết (Solidarité). Mà xem ra càng hô hào đoàn kết chừng nào, thì bệnh cá nhân lại nặng chừng nấy !
Biểu hiện của bệnh này: Mình là nhất, là trung tâm của vũ trụ. Mình chiếm độc quyền, ngay cả độc quyền thờ Chúa, độc quyền yêu Nước. Không muốn ai chia sẻ với mình, vì sợ người ta hơn. Người ta không tiếp tay với mình thì trách. Nhưng khi tiếp tay thì lại chỉ muốn họ đứng sau lưng mình mà thôi.
Cá nhân chủ nghĩa phát sinh từ lòng ích kỷ. Kính Chúa, yêu người thực chất là vì mình, vì lợi cho mình chứ chẳng phải vì Chúa vì người gì cả.
Người ta kể chuyện vui: Một số Hồng y và Giám mục ngồi ăn cơm chung với Đức Thánh Cha. Có mấy vị hỏi ngài: Thưa ĐTC, nghe nói có bí mật Fatima, ĐTC có thể nói cho chúng con nghe được không. ĐTC bảo: Bí mật mà, nói sao được. Nghe thế các ngài càng tha thiết: ĐTC đừng sợ, chúng con cam đoan sẽ dấu rất kỹ, không hở miệng. Sau năm lần bảy lượt nghe năn nỉ, ĐTC mỉm cười trả lời: Đức Mẹ Fatima bảo rằng đóng cửa Đức Mẹ Lộ-Đức lại !
Câu chuyện khôi hài này muốn nói lên cái cá nhân chủ nghĩa của con người ngày nay. Đức Mẹ Fatima sợ Đức Mẹ Lộ Đức nổi tiếng hơn và do đó khách hành hương đến viếng đông hơn nên đề nghị dẹp Lộ-Đức.
Chẳng đâu xa xôi. Quanh ta cũng không thiếu thí dụ. Hai nhà thờ cạnh nhau, chuông bên này kêu thì bên kia phải làm sao để kêu hơn. Câu chuyện nầy có thật. Một giáo xứ xin Đức cha cho một quả chuông. Về đánh lên thì bà con giáo xứ bên cạnh sốt ruột khó chịu, liền cùng nhau kéo xin phép đổi một quả chuông lớn hơn. Khệ nệ mang về, đánh lên thì ai nấy thất vọng. Tưởng chuông lớn hơn thì tiếng phải hay hơn. Ai dè âm thanh của chuông thường đã được định chuẩn sẵn; theo nốt nhạc, cái chuông mới trùng một nốt nhạc với chuông cũ!
Trong Giáo hội có một điểm quan trọng, đó là tính đa diện (Pluralité). Giáo hội không đòi hỏi phải đồng bộ, nhưng trân trọng nét cá biệt của mỗi giáo hội địa phương. Khác nhau hầu bổ túc cho nhau, chứ không phải để rồi tôi đi đường tôi anh đi đường anh.
5. Bệnh lười biếng tránh né
Triệu chứng của bệnh này là sợ tốn sức tốn của, sợ liên lụy, a dua: ai mạnh thì hùa theo. Khi nói thì rất hăng, nhưng vào việc thì viện đủ lý do để che đậy cái hèn nhát và lười biếng của mình. Giữa đại hội thì phát biểu thật hùng hồn, lúc phân việc thì lẩn đâu mất.
Trong đội tù của tôi trước đây có một ông cũng từ miền Nam ra. Mỗi lần họp anh ta phát biểu ào ạt. Đụng chuyện gì cũng dơ tay phát biểu. Nói huyên thuyên mà thường lạc đề. Đến lúc chia việc thì im re. Riết anh em trong tổ ngán. Nên mỗi lần anh ta dơ tay phát biểu là anh em đồng loạt hô: Im mà nghe, đài Mát-cơ-va phát !
Chuyện kể hai nhà thông thái nọ muốn tìm hiểu xem thành phố Rôma có mấy người làm việc. Họ bắt đầu bằng một chuỗi phân tách loại trừ. Trước tiên trừ đi con số trẻ em chưa đến tuổi làm việc, đến số người bệnh tật, số người ở tù, rồi số dân biểu nghị sĩ quanh năm suốt tháng chỉ cãi nhau và dơ tay bỏ phiếu bất tín nhiệm chính phủ, số người làm nghề phê bình đá bóng… Cứ thế mà trừ, kỳ cùng chỉ còn lại hai người làm việc, đó là hai nhà thông thái. Nhưng rồi một ông lên tiếng ngay: tôi từ nãy giờ tính toán quá mệt rồi, nên chi tôi bầu anh làm việc tiếp để tôi nghỉ !
Để xây dựng cộng đoàn có trăm công ngàn việc. Việc gì cũng đáng làm. Chẳng cần phải ngồi ghế lãnh đạo mới là làm việc. Việc nào cũng có thể nên thánh, miễn là làm cho tới nơi tới chốn.
Khi ở Dublin một tháng để học hỏi về Đạo binh Đức Mẹ tôi may mắn được gặp người sáng lập, ông Frank Duff. Tôi háo hức, tưởng sẽ diện kiến một nhân vật quốc tế tiếng tăm; người mà các Hồng y, Giám mục khắp nơi đều phải ngồi nghe. Nhưng không ngờ, ông chỉ là một cụ già đưa thư. Hàng ngày khiêm tốn đạp chiếc xe cọc cạch ra bưu điện mang thư về cơ quan, bỏ vào hộp thư của gần một ngàn chi nhánh Đạo binh ở Dublin. Ngưởi ta nói công việc của ông bây giờ chỉ có thế; có tuổi rồi không còn giữ vai trò quan trọng nào nữa; nhưng khi ai cần ý kiến thì ông sẵn sàng đóng góp và hướng dẫn giải quyết.
Đấy, công việc đưa thư hèn mọn có làm giảm tư cách con người đâu!
6. Bệnh chuẩn mực trần tục
Lấy tinh thần, não trạng trần tục làm chuẩn mực cho cuộc sống mình. Làm việc Chúa, nhưng không theo tinh thần Phúc Âm mà lại dùng tiêu chuẩn hoàn toàn trần tục để chuẩn định. Người công giáo kiểu đó thường hay trở thành công giáo tùy thời: Thịnh thì công giáo, suy thì chối. Công giáo vụ lợi: Có mùi vật chất thì tới, không thì miễn. Công giáo danh dự: Chỉ siêng năng xuất hiện khi có lễ lạc được mời lên ghế danh dự, không thì biệt tăm chẳng bao giờ thấy.
Nhiều khi chẳng phải là bản chất, chẳng tội lỗi gì, nhưng là vì mình đua đòi. Chính đua đòi này làm cho cuộc đời khổ sở. Sang đây thấy người ta có xe đẹp, nhà rộng; mình đua đòi muốn hơn người nên phải nô lệ cho công việc, cả nhà làm việc quá mức.
Và chuẩn mực trần thế thường được căn cứ theo báo chí, truyền thanh truyền hình. Báo bảo cái gì hay là hay, cái gì số đông theo là tốt…mặc dù những cái đó không hợp với lương tâm.
Năm ngoái tôi ghé Na Uy tới thăm một bà giáo sư giữ một ghế thứ trưởng trong nội các. Na Uy đa số theo Tin lành và Giáo hội này, như tại các nước Tin lành khác, phải tùy thuộc thế quyền. Bà phàn nàn: nguy quá cha ơi, Giáo hội chúng tôi đang sa lầy trong vòng kềm toả dư luận. Chính phủ ra lệnh cho Giáo hội; Quốc hội ra lệnh (bằng đạo luật) cho chính phủ; mà
đạo luật thì lại hình thành do áp lực dư luận truyền thông; vừa rồi chính phủ mới cách chức hai mục sư vì họ chống lại việc phá thai!
Một số cơ quan truyền thông chửi bới Đức Giáo hoàng, kết ngài vào tội thiếu thực tế, thiếu tiến bộ. Nhưng khi Đức Giáo hoàng đến với giới trẻ thì hàng triệu anh chị em trẻ lại tuôn đến với ngài. Tất cả chỉ vì ngài là người dám nói lên sự thật, bất chấp dư luận. Tuổi trẻ hôm nay đang bị chao đảo trong một thế giới khủng hoảng niềm tin và giá trị. Nên chi họ cần
người tín cẩn dám nói thẳng cho họ đâu là điều đúng, đâu là sai. Cái khó và nguy hiểm của ngày hôm nay là người ta phạm tội, nhưng lại bắt cả nhà nước và Giáo hội coi đó là nhân đức. Chẳng hạn như chuyện đồng tính luyến ái. Dư luận đang bắt mọi giới phải xem đó là chuyện hợp luân thường đạo lý. Giáo hội thương cảm, nhưng Giáo hội cần nói sự thật. Đức Thánh cha nói: “không cần ai bỏ phiếu cho sự thật” vì sự thật vẫn là sự thật.
7. Bệnh đợi chờ phép lạ
Cứ chờ cứ đợi người khác, mà bản thân mình chả chịu làm gì. Mình có làm thì Chúa mới giúp được chứ. Chúa sinh ra mình không cần hỏi ý mình, nhưng để cứu mình Ngài phải cần đến sự cộng tác của ta.
Có bà suốt ngày cầu với Chúa: Con bao nhiêu ngày tháng hy sinh cho cộng đoàn. Nấu cơm, nấu chè, hết việc này đến chuyện nọ. Đâu cũng có mặt. Giúp ngày không đủ tranh thủ giúp đêm giúp thêm giờ nghỉ ! Con chỉ xin Chúa có một điều, vậy mà Chúa không chịu đoái nghe. – Chứ con xin điều gì ? – Dạ xin Chúa cho con trúng vé số, chỉ cần trúng một lần độc đắc thôi ! – Ừ mà Chúa cũng đang đợi bà đây ! – Dạ Chúa đợi gì con đây ? – Thì Ta đang đợi bà mua vé số !
Trong một vụ lụt xe cứu thương rảo khắp phố phường kêu gọi người dân rời nhà di chuyển lên nơi cao để tránh nước lũ. Ông bố của một gia đình bảo với con cháu: Tụi bây đứa nào đi thì đi, còn tao không đi; tin tưởng phó thác vào Chúa thì sao Ngài bỏ rơi được. Nước lũ tới, dâng cao. Ghe cấp cứu lại kêu gào tản cư gấp. Ông già kê bàn kê ghế leo lên rồi giục: Mẹ con
bây đi thì đi nhanh lên, tao không. Nước tiếp tục dâng cao, ông già leo lên mái nhà ngồi. Máy bay trực thăng lượn qua lượn lại, thả dây kêu gọi ông di tản. Ông nhất quyết không đi, bởi tin rằng có Chúa che chở. Và nước ngập cuốn ông đi luôn. Ông gặp thánh Phêrô. Thánh Phêrô hỏi sao lại dạt vào đây. Ông già bực bội trách cứ, tại sao con đặt hết tin tưởng vào Chúa mà Ngài không cứu sống, lại để con chết trôi chết nổi thế này và ông yêu cầu thánh Phêrô mở cửa đưa ông vào Thiên đàng cấp tốc. Thánh Phêrô ngạc nhiên đáp lại: Chúa có cứu ông chứ! Ông có nghe đài báo tin không ? – Có. Ông nghe xe cứu thương kêu gọi không ? – Có. Ông có thấy ghe máy, trực thăng đến cứu không ? – Có. Tại sao ông bảo Chúa bỏ ông ?
8. Bệnh tùy hứng vô định
Người không có lý tưởng rõ ràng. Đời vô định hướng. Ai xúi thì nhắm mắt làm theo, bất kể hay dở, khôn dại. Xong rồi phủi tay. Chẳng có dự án và chẳng có một người nào làm lý tưởng cho đời mình. Đây là loại người tùy hứng.
Người ta hay nói đời là một giấc mơ. Nhưng đời có thật là một giấc mơ không ? Mơ là chuyện mộng, không bắt buộc phải hiện thực. Nhưng đời trái lại là cuộc sống thực tế của mỗi người, bắt mình phải hoàn thành.
Thánh Kinh nói đến giấc mơ của Thánh Giuse. Ông mơ thiên thần báo phải đem Hài nhi và mẹ người trốn sang Ai Cập. Cái đặc biệt ở đây là Giuse đã thực hiện giấc mơ đó và nhờ vậy Chúa Giêsu thoát chết.
Người trẻ cần có lý tưởng và phải thực hiện cho bằng được. Nhưng phải định hướng cho trúng. Truyện kể có người khi còn trẻ quyết tâm sẽ thay đổi cả thế giới. Khi đứng tuổi thấy mình chả thay đổi được ai, bèn chuyển mục tiêu gần hơn: sẽ thay đổi gia đình mình. Đến khi về già quay lại thấy mình cũng chả thay đổi được gia đình, mới nhận chân ra rằng muốn thay đổi gia đình hay thế giới trước hết phải thay đổi chính con người của mình đã !
9. Bệnh sống vô trách nhiệm
Triệu chứng: thờ ơ trước những khó khăn của Hội thánh và Quê hương, trước những đau khổ của người khác. Chả thấy mình có trách nhiệm gì cả. Hoá ra những người mắc bệnh này chẳng hiểu gì về phép Rửa, chẳng còn nhớ gì sứ mạng được trao qua phép Rửa đó. Qua phép Rửa, được làm con Chúa, đó là Hồng ân, và phép Thêm sức làm cho ta nên chiến sĩ của Chúa đó là trách nhiệm, mỗi người chúng ta được trao ban cả Nước Trời trong lòng mình, đồng thời cũng được giao phó sứ mạng phải loan báo cho mọi người về Nước Trời mình đang mang. Vì không ý thức và quan tâm nên họ giữ đạo hời hợt, sống đạo một cách vô trách nhiệm.
Ngày xưa cha Hậu (cố Olivier) ở Sàigòn thường nói với bổn đạo: Anh chị em phải biết, mình quả thật sung sướng vì được Chúa cho cả Nước Trời trong lòng. Anh chị em cũng giống như một người mang trong mình vé số độc đắc đã trúng mà chưa lãnh. Và bổn phận của anh chị em là chia sẻ ân huệ và niềm vui đó cho người khác.
Mỗi người trong xã hội đều có trách nhiệm riêng. Chứ không phải giáo dân thì cứ đổ cho cha xứ, linh mục thì đổ cho giám mục, giám mục lại chỉ tay về Giáo hoàng. Như thế Giáo hoàng lại đổ cho Chúa à ! Thái độ phủi tay không giải quyết được gì. Mà mỗi người, tùy vị trí và hoàn cảnh riêng, trước hết phải xắn tay nắm lấy mà giải quyết nhiệm vụ của mình.
10. Bệnh bè phái chia rẽ
Đây là căn bệnh trầm kha nhất. Vô cùng nguy hiểm vì nó thường là căn nguyên của các bệnh khác.
Một cơ thể mà các tế bào chống nhau thì làm sao sống được. Nội bộ một cộng đoàn mà chưa hợp tác với nhau được thì đừng nên bàn chuyện đấu tranh, giải phóng. Ai ở thôn quê đều biết hoàn cảnh cấy lúa. Một mảnh ruộng cần cả chục người cấy suốt ngày. Lưng đội trời nóng cháy da, tay xé lúa nhấn xuống bùn, bẩn và mệt. Nhưng cũng miếng ruộng đó chỉ cần một người thôi là chỉ trong vòng vài ba tiếng đồng hồ là nhổ sạch. Xây khó, phá rất dễ.
Một cách hay nhất để tránh và chữa bệnh này là lắng nghe người khác, sẵn sàng chấp nhận cái khác của người. Câu chuyện tổng thống Lincoln nước Mỹ là một bài học. Trong cuộc chiến Nam Bắc, ngày nọ trước ba quân ông xuống lệnh hành quân. Một anh sĩ quan phản đối và cho rằng Lincoln điên khi hạ lệnh đó. Có người vào báo cáo. Lincoln cả giận. Nhưng thay vì tức khắc cho thi hành kỷ luật đối với thuộc viên, ông cho mời người đó vào. Và sau khi nghe trình bày phải trái, Lincoln đổi ý, trao trách nhiệm lớn cho vị sĩ quan đó. Ông
biết lắng nghe nên đã tránh được đổ vỡ lớn cho binh sĩ và quốc gia.
Trong một giáo phận, một cộng đoàn, một hiệp hội, việc làm tổn thương, mất giờ để giải quyết nhất của Giám mục, của những người có trách nhiệm, là chứng bệnh triền miên bè phái, chia rẽ – mà những người mắc bịnh thường vẫn tưởng mình đạo đức. Có nhiều người “phạm tội vì Chúa”: lấy lý do “vì Chúa” mà loại trừ kẻ khác, không thuộc phe
ta. Người Pháp đã nếm kinh nghiệm cay đắng tai hại của bịnh nầy nên có câu châm
ngôn: “Đừng vì kính mến Chúa mà chống kẻ khác”. Chúa Giêsu biết trước điều nầy nên Ngài tha thiết cầu xin trước giờ tử nạn: “Lạy Cha, xin cho chúng nên một như Cha ở trong con và con ở trong Cha, để thế gian tin Cha đã sai con” (Gioan. 17, 21). Nếu ta không hiệp nhất thì thế gian không tin. Lời ông Gandhi đáng cho ta suy nghĩ: “Tôi yêu Chúa Kitô, nhưng tôi không yêu người Kitô hữu vì họ không giống Chúa Kitô”.
Tác giả: HY. Nguyễn Văn Thuận
ĐỨC HỒNG Y PX. NGUYỄN VĂN THUẬN
Bài giảng Lễ giỗ lần thứ 10 Đức Hồng Y tại
Nhà Thờ Tây Ninh, ngày 15.9.2012
nguồn: Ephata 528
Quý Cha và anh chị em thân mến,
Ngày hôm nay, 15.9.2012, nhân lễ kính Đức Mẹ Bảy Sự Thương Khó, hay còn gọi Đức Mẹ Sầu Bi, chúng ta cùng nhau tập trung từ nhiều nơi về đây, cử hành Lễ giỗ lần thứ 10 của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tuy ngày mai 16.9.2012 mới là ngày chính thức ngài được Chúa gọi về.
Chẳng phải tình cờ, hay ngẫu nhiên xảy ra sự trùng hợp này. Trái lại, vì trong suốt cuộc đời nơi trần thế, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê đã luôn sống kết hợp vô cùng chặt chẽ với Mẹ Maria, qua từng chặng Đường Hy Vọng. Cho nên, Lễ giỗ Đức Hồng Y hôm nay thật là phù hợp với ngày Lễ kính Đức Mẹ Sầu Bi.
Tôi muốn nhân dịp này chia sẻ với tất cả mọi người hiện diện trong nhà thờ này, về Mẹ Maria trong cuộc đời của Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê. Những lời chia sẻ sau đây có lẽ không có gì mới lạ đối với những người quen nghe nói, hay đọc những tác phẩm của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê, hay về ngài. Tôi chỉ xin nhắc lại một số sự kiện và chứng từ, mà tôi ghi nhớ về mối tương quan sống động giữa Đức Hồng Y và Mẹ Maria. Lời lẽ trích dẫn có thể không chính xác, nhưng hi vọng vẫn giữ nguyên được ý nghĩa. Và vì đây là bài chia sẻ
có tính tự phát.
Ngay từ thuở thơ ấu, Bà Nội và Bà Cố đã rót vào tâm hồn ngài tình yêu mến Đức Mẹ qua những buổi kinh tối, lần hạt, cùng nhắn nhủ chí tình. Sau mỗi buổi đọc kinh chung, Bà Nội của ngài còn dâng lên Mẹ thêm một chuỗi Mai Khôi để cầu nguyện cho các Linh mục. Đặc biệt, gia đình Bà Cố rất sùng kính Đức Mẹ La Vang, luôn khuyên nhủ con cháu trông cậy và cầu nguyện cùng Mẹ La Vang. Ngài ghi nhớ rất kỹ ấn tượng này từ thuở thiếu thời.
Nhân dịp Kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ La Vang ( 1798 – 1998 ), Văn Phòng Mục Vụ cho người Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, bảo trợ cho tổ chức Đại Hội Thánh Mẫu La Vang ( 21 – 22.8.1998 ), tại Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Vô Nhiễm, thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ. Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê, lúc bấy giờ vẫn là Tổng Giám Mục, được mời đến thuyết giảng cho Đại Hội. Tôi có bổn phận tiếp đón ngài từ Rôma sang, tại nhà xứ Giáo Xứ Mẹ Việt Nam ( Maryland ).
Khi Đức Tổng Giám Mục Phanxicô Xaviê vừa đến nhà xứ, ngài liền hỏi xin một tờ giấy và cây bút, rồi lui về phòng riêng. Lát sau, ngài ra và tặng cha Chánh xứ Phêrô Nguyễn Thanh Long một bản kinh viết tay. Đây là bản Kinh Đức Mẹ La Vang. Kinh này do cha Giuse Maria Nguyễn Văn Thích sáng tác và được báo Vì Chúa in ra vào năm 1938. Kinh Đức Mẹ La Vang có lời văn bình dị, chan chứa tình cảm đạo đức chân thành của người Giáo Dân Việt Nam, gồm có 50 câu, được mở đầu và kết thúc bằng hai câu này ( xin xem toàn bài thơ phía cuối
bài này ):
Lạy ơn Đức Mẹ La Vang,
Xin nghe con mọn thở than mấy lời.
Và cũng từ kinh này, Đức Hồng Y đã giảng dạy và sau đó viết ra tập sách “Sứ điệp Đức Mẹ La Vang,”mà điểm được nhấn mạnh là việc cầu nguyện với Mẹ Maria trong đời sống Đức Tin.
Những điều vừa kể cho phép nói rằng tình yêu mến Mẹ Maria, qua lời kinh nguyện truyền thống, đã được khắc ghi vào tâm khảm của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê từ thuở niên thiếu, đặc biệt nhất là đối với Đức Mẹ La Vang.
Nhờ vậy, không ai lấy làm ngạc nhiên, khi ngài thường lập lại danh ngôn của Thánh Gioan Maria Vianney: “Đức Mẹ Vô Nhiễm là mối tình đầu của tôi .” Ý lực này được ngài chọn
làm tiêu đề cho “Con cá thứ nhất” trong tác phẩm do ngài viết ra, gồm những suy tư xuất phát từ gian nan và thử thách, mang tựa đề “Năm Chiếc bánh Và Hai Con Cá”.
Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê có kể lại rằng thuở còn du học ở Rôma, ngài đã đến hành hương Đức Mẹ Lộ Đức. Khi cầu nguyện, ngài nghe như có tiếng Đức Mẹ nói trong lòng mình: “Mẹ không hứa ban cho con hoan lạc, vui vẻ, mà ban cho con đau khổ và thử thách.”
Thế nhưng sau khi tốt nghiệp và trở về quê hương, ngài được bổ nhiệm làm Cha Giáo, rồi Giám Đốc Chủng Viện, sau đó là Cha Chính Địa Phận và kế tiếp là Giám Mục Việt Nam tiên khởi của Giáo Phận Nha Trang. Thụ phong Giám Mục vào năm 1967, tức chưa đầy hai năm sau khi Công Đồng Chung Vatican II kết thúc, ngài thừa hưởng tinh thần đổi mới và cập nhật hóa ( aggiornamento ) đời sống và sứ mạng của Hội Thánh Công Giáo. Chính vì thế ngài đã hăng say hoạt động Mục Vụ và Tông Đồ. Nhờ tài năng và đức độ, ngài mở mang các Chủng Viện, khích lệ các ơn gọi tận hiến, phát triển và tổ chức các phong trào, đoàn thể,
đồng thời mở rộng công tác bác ái, nhất là cứu trợ nạn nhân chiến cuộc. Với thời gian, hoạt động Mục Vụ và Tông Đồ của ngài gặt hái liên tiếp những thành qủa với tầm tương lai rạng rỡ, làm cho nhiều người trong cũng như ngoài Giáo Hội phải kính phục.
Sau đó, có dịp trở lại Lộ Đức, ngài thưa với Mẹ: “Những gì Mẹ nhắn nhủ trước đây với con,
hình như chỉ đúng cho Thánh nữ Bernadette, hơn là cho con.”
Và đến ngày 15.8.1975, ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, ngài được mời đến Dinh Độc Lập, nay là Dinh Thống Nhất, để phải bất ngờ chấp nhận khởi sự một cuộc hành trình đầy băn khoăn, gian khổ và thử thách kéo dài 13 năm tiếp theo. Hành trang ra đi ngoài chiếc áo dòng chỉ có một chuỗi hạt Mai Khôi.
Thời gian bị quản chế ở Cây Vông, Nha Trang, là trạm dừng chân thứ nhất, ngài đã bắt chước Thánh Phaolô khi ở trong tù vẫn tiếp tục viết thơ cho các Giáo Đoàn và tín hữu của mình. Ngài đã nghĩ ra cách viết ngắn gọn và súc tích những huấn từ linh đạo. Ngài liều lĩnh làm như thế vì trong hoàn cảnh nào ngài cũng muốn như được sống gần gũi với Giáo Phận, các tín hữu và những người thân yêu của mình.
Chưa đầy một năm, tác phẩm “Đường Hy Vọng” chào đời, gom kết lại những “lá thư” được viết trên những tờ lịch cũ. “Đường Hy Vọng” gồm 24 chương hay 24 chủ đề, trong đó có một chương dành riêng về Mẹ Maria. Tác phẩm này đã trở thành cuốn sách cơ bản cho Linh Đạo Hy Vọng của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê.
Sau này được tự do, có người hỏi ngài: “Trong tù, chắc Đức Cha có nhiều thì giờ cầu nguyện ?” Ngài trả lời: “Vậy ai muốn cầu nguyện thì cứ vào tù !” Thực ra, đã nhiều lần ngài tâm sự rằng có những lúc thể xác yếu đuối, mệt nhọc và đói khát, thêm vào đó là tinh thần căng thẳng, việc cầu nguyện cũng không dễ dàng gì. Nhiều khi ngài cố gắng lắm mới
đọc được Kinh Kính Mừng hay Kinh Hãy Nhớ, nhiều khi chỉ biết kêu lên hai tiếng Ave Maria, Ave Maria… Tuy vậy ngài không bao giờ dám sao lãng việc cậy trông vào Đức Mẹ.
Khi cuộc thử thách cam go dâng lên cao độ, ngài đã dám kêu xin: “Thưa Mẹ, nếu con không còn làm được gì hữu ích cho Giáo Hội, thì xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho con được chết để sựhy sinh được trọn vẹn. Còn nếu Mẹ thấy con còn có thể giúp ích cho Hội Thánh, thì cho con một dấu chỉ: Cho con được tự do vào một trong các ngày lễ của Đức Mẹ”. Sau này ngài thú nhận rằng không biết mình có phạm tội thách đố Đức Mẹ hay không ! Không những chính mình sống cầu nguyện, ngài cũng không bỏ lỡ cơ hội nào để xin người khác cầu nguyện cho ngài.
Chuyện kể lại rằng có một người cán bộ quản giáo mà ngài quen biết khi còn ở tù, bị chuyển đổi công tác hay được về quê nghỉ phép gì đó ( chi tiết này tôi không còn nhớ chính xác nữa ). Ngài đã nhờ: “Khi anh về, anh nhớ ghé đến La Vang và cầu xin Đức Mẹ cho tôi”. Người cán bộ này giữ lời hứa và đã đến Đức Mẹ La Vang ở Quảng Trị và nói: “Thưa Đức Mẹ, tôi không có đạo, nhưng ông Thuận nhờ tôi tới đây để cầu xin cho ông ấy. Ông Thuận
muốn gì thì Đức Mẹ cho ông ấy được toại nguyện.”
Đến ngày 21.11.1988, một cán bộ đến gặp ngài:
–
Ông Thuận, ông ăn cơm chưa ?
–
Chưa. Tôi đang nấu.
–
Ăn cơm xong, ăn mặc sạch sẽ để đi gặp lãnh đạo.
–
Lãnh đạo nào ạ ?
–
Tôi không biết. Tôi chỉ làm theo lệnh cấp trên.
Cơm trưa xong, ngài được đưa đến Nhà Khách Chính Phủ. Sau cái bắt tay xã giao, ông Mai Chí Thọ, lúc bấy giờ là Bộ trưởng Bộ Nội Vụ, nói:
– Ông Thuận, ông có nguyện vọng gì không ?
– Tôi muốn được tự do.
– Bao giờ ?
– Ngày hôm nay.
Thấy ông Bộ trưởng có vẻ bối rối, ngài nói tiếp:
– Tôi ở tù trải qua 3 đời Đức Giáo Hoàng là Phaolô Đệ lục, Gioan Phaolô Đệ nhất và Gioan Phaolô Đệ nhị. Và thời gian ở tù của tôi cũng đã trải qua 4 đời Tổng Bí Thư Liên Xô:
Breznev, Andropov, Chernenkô và Gorbachev.
– Đúng ! Đúng !
Nói vậy rồi ông Bộ trưởng quay sang nói với người cán bộ:
– Hãy làm cho ông Thuận được toại nguyện.
Hôm đó chính là ngày Lễ Đức Mẹ Dâng Mình vào Đền Thánh và ngài được tự do, ra khỏi ngục tù.
Thưa quí Cha và anh chị em,
Trước đây và đặc biệt sau thời điểm này, Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê luôn rao giảng về lòng sùng kính cũng như cậy trông nơi Đức Mẹ. Ngài cũng đã sáng tác nhiều thơ kinh
dâng Đức Mẹ, nhất là vào những ngày Lễ kính Đức Mẹ. Chúng ta hãy tìm đọc hai tác phẩm do chính ngài biên soạn “Cầu Nguyện Hi Vọng” và “Chứng Nhân Hi Vọng” như là sách thiêng liêng để cảm nghiệm sâu sắc về tình Mẹ Maria, vì Mẹ là Thầy dạy về Đức Tin, Đức Mến và Đức Cậy.
Hôm qua là ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá, hôm nay là ngày lễ Đức Mẹ Sầu Bi, ngày mai là ngày Chúa gọi Đức Hồng Y về Nhà Cha. Chúng ta hãy hồi tưởng hình ảnh Đức Mẹ cùng với Thánh Gioan Tông Đồ đứng dưới chân Thánh Giá Chúa Kitô. Gần vào lúc Ơn Cứu Chuộc lên đỉnh điểm, Chúa trăn trối: “Này là Mẹ con” rồi “Đây là con Mẹ”.
Chúng ta ước mơ thấy một lần nữa, nơi Thiên Đường Chúa cũng nói như thế với Mẹ Maria và Đức Hồng Y, vị Tông Đồ nhiệt thành của Chúa đã sống trọn vẹn làm chứng nhân cho niềm hy vọng vào Chúa.
Chuẩn bị bước vào Năm Đức Tin, chúng ta cùng hiệp thông, cộng tác với Giáo Xứ, Giáo Phận và toàn thể Giáo Hội để khởi sự công cuộc Tái Rao giảng Tin Mừng từ bản thân, gia đình đến xã hội. Vì đây là mệnh lệnh của Đức tin Công Giáo.
Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê đã từng nói, Bí Tích Thánh Thể là món quà quí báu nhất mà Chúa đã ban tặng cho nhân loại. Ngoài ra Đức Maria cũng là một món quà quí báu khác, đồng hành với Chúa Kitô. Vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội, Mẹ Nhân Loại và
là Mẹ Các Thánh. Chính Mẹ đã từng nói tại tiệc cưới Cana: “Người bảo gì các con
cứ làm như thế.”
Công cuộc Tái Rao Giảng Tin Mừng muốn được hiệu quả nhờ Ơn Chúa phải bám tựa vào Hai Món Quà này như là nguồn sống đồng thời là nguồn tin yêu và hy vọng để chúng ta nhận lấy và truyền ban. Chúng ta nguyện xin Thánh Ý Chúa được thực hiện tốt đẹp như long mong ước của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.
“Giờ đây, nhờ lời bầu cử của Ngài và theo Thánh Ý Chúa, xin Chúa ban cho chúng con được ơn đang khẩn cầu, với niềm hy vọng thấy Ngài sớm được vinh hiển trên bàn thờ” để Danh
Cha được cả sáng và Nước Cha trị đến. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN,
ghi lại bài giảng của Lm. Giuse Trần Kim Thiện
tại Lễ giỗ 10 năm ngày mất của Đức Hồng Y PX. Nguyễn Văn Thuận
tại Nhà Thờ Tây Ninh, Giáo Phận Phú Cường, ngày 15.9.2012
Đức Cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận: chứng nhân tình yêu và hi vọng
July 20, 2012
WHĐ (19.07.2012) – Hãng thông tấn Zenit đã có cuộc trò chuyện với tiến sĩ Waldery Hilgeman, cáo thỉnh viên trong tiến trình phong chân phước cho Đức Cố hồng y Phanxicô Xaviê. Khi được hỏi về điều gì gây chú ý nhất trong cuộc đời của ngài, ông nói: “Điều đánh động tôi trong linh đạo của ngài là tình yêu liên lỉ đối với tha nhân. Ngài bị cầm tù và khi ở trong tù, ngài vẫn không ngừng yêu thương những người bách hại ngài, từ những viên chức cao nhất của chế độ đến anh lính canh thấp bé nhất”.
Đức hồng y Văn Thuận là Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Sài Gòn khi thành phố này bị cộng sản kiểm soát năm 1975. Không lâu sau đó, ngài bị giam giữ trong trại cải tạo suốt 13 năm. Theo tiến sĩ Hilgeman, ngài là một tù nhân phải chịu sự bất công, “theo nghĩa là đã không có sự tố cáo thực sự, cũng không có xử án, kể cả bản án. Do đó có thể nói rằng đối với chúng tôi, ngay cả việc ngài bị tố cáo về tội gì cũng là một vấn đề. Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, có nhiều khía cạnh dẫn đến việc coi vị giám mục này là người nguy hiểm cho chế độ, một chế độ trống rỗng như chế độ cộng sản. Tuy nhiên đã không có sự tố cáo chính thức nào.”
Trong thời gian bị giam cầm, ngài đã bí mật viết những sứ điệp cho các tín hữu, nhiều năm sau này được gom góp lại và xuất bản. Trong những sứ điệp này, Đức hồng y Văn Thuận nhận ra ngay từ đầu rằng “Thiên Chúa đòi hỏi ngài hiến dâng tất cả cho Chúa, từ bỏ mọi sự và sống cho Chúa”. Hilgeman nói: “Vì Đức hồng y đã hiểu được rất mạnh mẽ điều này – đặc biệt trong giai đoạn bị cầm tù – là: công việc của Chúa là chính Chúa. Là tổng giám mục phó, ngài đã sống cho những công việc của Chúa. Và ngài nhận ra rằng khi bị cầm tù, Chúa đòi hỏi ngài rời bỏ công việc để chỉ sống cho Chúa mà thôi”.
Về những giai thoại trong thời gian Đức hồng y bị cầm tù, tiến sĩ Hilgeman nhắc lại sự hoán cải của nhiều lính cai tù. Ông nói: “Bằng tình yêu hoàn toàn cho họ, Đức hồng y đã cho thấy thế nào là tình yêu của Đức Kitô. Không được giảng, không thể trực tiếp nói với những người này về Đức Kitô, nhưng bằng mẫu gương của Đức Kitô nhập thể, ngài đã có thể hoán cải họ, đây là điều rất độc đáo”. Do bối cảnh chính trị của Việt Nam, thật khó để phỏng vấn những người lính canh này, nhưng vị cáo thỉnh viên cho biết chứng từ của những người này có thể được đưa vào tiến trình điều tra.
Đức hồng y Nguyễn Văn Thuận được ra khỏi trại giam năm 1988 mặc dù vẫn bị quản thúc tại gia. Ngài được phép đi Rôma năm 1991 nhưng không được trở lại Việt Nam cho đến năm 2001 khi ngài được vinh thăng hồng y. Nói về những đóng góp của Đức hồng y trong tư cách là Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Công Lý và Hòa Bình, tiến sĩ Hilgeman cho rằng Chúa đã chuẩn bị cho Đức hồng y vào tác vụ của ngài tại giáo triều Rôma. “Có thể nói rằng với việc ngài đến Rôma, chúng ta hiểu rõ hơn những biến cố trong đời ngài. Vai trò của Hội Đồng Tòa Thánh về Công Lý và Hòa Bình là vai trò cực kỳ nhạy cảm, vì phải quan tâm nhiều đến kinh tế, công lý, nạn đói trên thế giới, hòa bình, tình liên đới và những điều tương tự; nghĩa là bao hàm toàn bộ giáo huấn xã hội của Giáo Hội. Do đó, một giám mục đến từ một xã hội rất nghèo như Việt Nam lúc đó, và là người đã từng bị cầm tù, đã trải nghiệm nơi chính bản thân sự bất công của thế gian chỉ vì mình là người công giáo. Chắc chắn là Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho Đức hồng y rất tốt để ngài làm nhiệm vụ tại Rôma”.
Đức hồng y Nguyễn Văn Thuận đã qua đời tại Rôma vào tháng 9 năm 2002 vì bệnh ung thư. Nói về tiến trình phong chân phước, tiến sĩ Hilgeman cho biết đã phỏng vấn trên 130 nhân chứng, từ các hồng y và giám mục cho đến tu sĩ và giáo dân. Theo ông, tiến trình đang diễn ra rất tốt.
Về việc nhiều tín hữu đạo đức hi vọng Đức hồng y Nguyễn Văn Thuận sẽ được phong thánh, vị cáo thỉnh viên suy nghĩ những lời Đức hồng y nói về hi vọng: “Trong các tác phẩm và bài viết của ngài, có một từ mà ngài thường xuyên nhắc đến, và xem ra những chứng nhân cũng nói như thế khi đến trước Tòa án Rôma, đó là Hi Vọng, đừng đánh mất hi vọng vào Chúa. Và có lẽ ngài sẽ được gọi là vị thánh của hi vọng
nguồn: Từ Maria Thanh Mai gởi