Thánh Biển Đức (480-547)- Cha Vương

 Cha Vương

 Chúc Bạn và gia đình một ngày an lành nhé. Hôm nay Giáo hôm mừng kính Thánh Biển Đức (Benedict), mừng Bổn Mạng đến những ai chọn Ngài làm quan thầy. Hãy cầu nguyện cho nhau. Nếu Bạn muốn đi tour Tổng Tu Viện Bênêdíctô ở Montecassino bên Ý thì hãy vào linh sau đây. Mình đã có cơ hội đến đó. Tuyệt đẹp!!! Thánh Bênêdíctô, cầu cho chúng con.

Cha Vương

Thứ 5: 11/07/2024

Thánh Biển Đức (480-547), Ngài sinh năm 480 trong một gia đình lỗi lạc ở Nursia, Umbria thuộc miền trung nước Ý, anh em song sinh cùng với nữ thánh Scholastica, theo học tại Rôma và ngay từ khi còn trẻ, ngài đã thích đời sống đan viện. Lúc đầu, ngài là một vị ẩn tu sống trong một cái hang ở Subiaco, xa lánh thế giới nhiều chán nản mà lúc bấy giờ giặc ngoại giáo đang lan tràn, Giáo Hội bị phân chia bởi ly giáo, dân chúng đau khổ vì chiến tranh, đạo lý ở mức độ thấp nhất. Sau đó không lâu, ngài thấy không thể sống cuộc đời ẩn dật ở gần thành phố, dù lớn hay nhỏ, do đó ngài đi lên núi cao, sống trong một cái hang và ở đó ba năm. Trong một thời gian, một số đan sĩ chọn ngài làm vị lãnh đạo, nhưng họ cảm thấy không thể theo được sự nghiêm nhặt của ngài. Tuy nhiên, đó cũng là lúc ngài chuyển từ đời sống ẩn tu sang đời sống cộng đoàn. Ngài có sáng kiến quy tụ các nhánh đan sĩ khác nhau thành một “Ðại Ðan Viện”, đem lại cho họ lợi ích của sự hợp quần, tình huynh đệ, và luôn luôn thờ phượng dưới một mái nhà. Sau cùng, ngài khởi công xây dựng một đan viện nổi tiếng nhất thế giới ở núi Cassino, cũng là nơi phát sinh dòng Bênêđích.

Cũng từ đó, một quy luật từ từ được hình thành nói lên đời sống cầu nguyện phụng vụ, học hỏi, lao động chân tay và sống với nhau trong một cộng đoàn dưới một cha chung là đan viện trưởng. Sự khổ hạnh của Thánh Bênêđích được coi là chừng mực, và đời sống bác ái của ngài được thể hiện qua sự lưu tâm đến những người chung quanh. Trong thời Trung Cổ, tất cả các đan viện ở Tây Phương dần dà đều sống theo Quy Luật Thánh Bênêđích.

Thánh nhân qua đời ngày 21 tháng 3 năm 547 tại Monte Cassino, nước Ý. Thánh nhân được cho táng trong cùng một ngôi mộ với em của ngài là Thánh nữ Scholastica dưới bàn thờ chính của đan viện Monte Cassino, nước Ý. Thánh tích của thánh nhân hiện đang giữ tại đan viện Monte Cassino và một phần tại đan viện Saint Bernoit-sur-Loire tại Fleury, nước Pháp.

Lễ mừng kính ngài vào ngày 11 tháng 7 theo nghi lễ Roma, còn dòng Biển Đức thì cử hành lễ kính vào ngày 21 tháng 3 hàng năm để kỷ niệm ngày Thánh Nhân qua đời.

(Nguồn: Người Tín Hữu Online)

Mời Bạn:

❦  Hãy áp dụng câu châm ngôn của ngài vào những công việc hàng ngày : “Ora et Labora” (Cầu nguyện và Lao động).

❦  Suy niệm những câu đáng ghi nhớ trên huy hiệu kính thánh Bênêdíctô:

+ Chớ gì chúng con được củng cố bởi sự hiện diện của Chúa vào giờ chúng con chết!

+ Chớ gì Thánh giá của Chúa là ánh sáng cho con!

+ Hãy cút đi, hỡi Xatan, đừng gợi ý cho ta về những sự hào nhoáng của thế gian! Ngươi thèm khát sự dữ ư? Ngươi hãy uống lấy nọc độc của ngươi!

Câu nào đánh động Bạn nhất?

From: Do Dzung

Con Nguyện Theo Ngài – Thanh Hoài  

Các vị tử đạo Trung Hoa-Cha Vương

Xin Chúa là sức mạnh và là nguồn an ủi đồng hành với bạn trong cơn bão táp của cuộc sống nhé. Mình sẽ cầu nguyện cho bạn và tất cả những nạn nhân của cơn bão Beryl hôm nay.

Cha Vương

Ngày hôm nay 9/7, Giáo hội cử hành thánh lễ tôn kính các vị tử đạo Trung Hoa. Các ngài là những người đã nêu gương anh dũng trong đời sống đức tin Kitô giáo dọc theo lịch sử của đất nước này. Thánh Augustinô Zhao Rong, đã anh dũng tử đạo để minh chứng đức tin, là một trong số 122 tín hữu Công giáo đã hy sinh suốt từ năm 1648 đến năm 1930.

Vào năm 1815, một giám mục tên Gioan Gabriel Đufresse bị bắt. Lúc ấy, việc thực hành đạo Kitô bị coi là một hành vi chống lại luật lệ của đất nước Trung Hoa. Một anh lính Trung Hoa canh giữ đức giám mục rất đỗi khâm phục ngài bởi sự bình thản và lòng kiên nhẫn đối với cuộc bách hại. Sau khi giám mục Đufresse bị giết, người lính này đã xin gia nhập Giáo hội. Anh được chịu phép Thanh tẩy và nhận tên là Augustinô. Sau này, Augustinô gia nhập chủng viện và học làm linh mục.

Thụ phong linh mục chẳng bao lâu, Augustinô cũng bị bắt vì là Kitô hữu. Người ta đã tra tấn Augustinô dữ dội hầu làm cho ngài chối bỏ niềm tin vào Đức Kitô. Thế nhưng, những đau khổ ấy lại chỉ giúp cho Augustinô Zhao Rong thêm can đảm và làm xác tín hơn niềm tin của ngài. Augustinô Zhao Rong bị lên án tử và tên ngài được ghi vào danh sách các tín hữu Trung Hoa anh dũng đã hy sinh mạng sống để làm chứng cho niềm tin của mình.

Danh sách các vị anh hùng này bao gồm 76 giáo dân, một số em thiếu nhi thậm chí mới bảy tuổi, 8 chủng sinh, 24 linh mục và 6 giám mục. Trong số này, có 88 vị là người gốc Trung Hoa và 34 vị là các nhà truyền giáo đến từ nhiều quốc gia khác nhau, nhưng các vị đã nhận Trung Hoa là quê hương của mình.

Chúng ta hãy noi gương thánh Augustinô Zhao Rong và các bạn tử đạo Trung Hoa. Như các ngài, chúng ta hãy sống niềm tin của mình cách vui tươi. Chúng ta hãy can đảm sống cho sự thật dù đôi lúc đó không phải là điều dễ thực hiện.

(Dịch giả: Đa Minh M Nguyễn Xuân Lộc, CMC)

HIỆP LỄ: BIỂN ĐỜI GIÔNG TỐ – HIỆP LỄ CHÚA NHẬT 12 TN B. Lm Thái Nguyên 

Thánh Antôn Maria Zacaria (1502-1539)

Mến chào một ngày mới, hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Antôn Maria Zacaria (1502-1539), Linh mục. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 05/07/2024

CUỘC ĐỜI CỦA THÁNH ANTÔN MARIA ZACARIA: Năm 1509, Antôn Maria Zacaria mở mắt chào đời trong một gia đình đạo đức, quyền quí tại Crémone. Thánh nhân ngay từ lúc còn nhỏ đã có lòng thanh  sạch, đã yêu quí đức khiết tịnh một cách cương quyết, sâu xa. Ngài cảm nghiệm Lời Chúa trong tám mối phúc thật:” Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”( Mt 5, 8 ).Thánh nhân có tâm hồn trong trắng, luôn hướng về Chúa và yêu thương các kẻ nghèo hèn, bần cùng đúng như Lời Chúa dậy:” Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”( Mt 5,7 ). Thánh nhân có trí thông minh sáng suốt, con đường học vấn của Người bắt đầu và đang rực rỡ huy hoàng, nhưng Người lại tuân theo ý Chúa:”…Hãy về bán hết của cải, phân chia cho người nghèo khó và đi theo Ta”. Chính vì ý thức sâu xa Lời Chúa và có tâm hồn hướng về Chúa, muốn tận hiến cuộc đời mình cho một mình Chúa, thánh nhân đã cố gắng trau dồi kiến thức thánh: triết học, thần học và tu đức học. Với ơn Chúa giúp, với sự cố gắng, phấn đấu không mệt mỏi, thánh Antôn Maria Zacaria đã được lãnh nhận sứ vụ linh mục. Với thánh chức, thánh nhân đã cùng với Bartôlômêô Ferrariô và Giacôbê Morigia lập tu hội triều vào năm 1533 có tên là hội thánh Phaolô và nhóm nữ tu thiên thần vào năm 1535 để cùng nhau sống tinh thần huynh đệ Tin Mừng. Với tinh thần huynh đệ Phúc Âm, thánh nhân đã chu toàn bổn phận và rao giảng, loan truyền Lời Chúa chống ảnh hưởng tai hại của bè rối Luther. Thánh nhân có tinh thần phục vụ cao vời và có một lòng yêu mến Chúa sâu xa, yêu mến Bí Tích Thánh Thể và khuyến khích nhiều người sùng kính, tôn vinh Thánh Thể Chúa.

THÁNH ANTÔN MARIA ZACARIA RA ĐI VỀ VỚI CHÚA KHI TUỔI ĐỜI MỚI CÓ 36: Ngày 5 tháng 7 năm 1539 thánh nhân đã ra đi về với Chúa an bình sau nhiều tháng năm nhiệt thành với sứ vụ tại Crémone, thọ 36 tuổi. Với tuổi đời còn trẻ, còn nhiều hăng say, Chúa đã cất Ngài về để chiêm ngưỡng thánh nhan Chúa mãi mãi. Thánh nhân đã về với Chúa như Lời Chúa nói: ”Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, để anh em ra đi, thu được kết quả, và kết quả anh em được lâu bền”( Ga 15, 16 ). Đức Thánh Cha Lêô XIII đã cất nhắc Ngài lên bậc hiển thánh vào năm 1807 vì lòng nhiệt thành truyền giáo và tinh thần cầu nguyện vượt bậc của Ngài.

(Nguồn: Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)

Thánh Antôn Maria Giacaria thường nói với các môn sinh: “Đặc tính của những tâm hồn đại lượng là phục vụ không mong phần thưởng, chiến đấu không chờ lương bổng. Hãy tiến tới không ngừng và hướng tới sự hoàn thiện cao cả hơn. Hãy nói với Chúa Giêsu bị đóng đinh về tất cả những gì bạn thấy và lãnh ý Người, cho mình và cho người khác”.

❦  Noi gương thánh nhân hôm nay mời bạn hãy rao giảng Tin Mừng bằng cách cho đi nhưng không mong đền đáp nhé.

From: Do Dzung

Chúa Là Đấng Từ Bi – Thánh Vịnh 102 

Thánh Tô-ma tông đồ-Cha Vương

Hôm nay 03/07 Giáo hội mừng kính Thánh Tô-ma tông đồ, ông Thánh Hồ nghi, mừng lễ bổn mạng đến những ai chọn Ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 4: 03/07/2024

Thánh Thomas Tông Đồ được mô tả như một con người sáng suốt, thực tế và quả cảm theo Phúc  m của Gioan. Ông có biệt danh là Didymô nghĩa là song sanh. Thomas đoán chắc những việc lớn lao sẽ diễn ra ở Jérusalem dịp lễ Vượt Qua “Chúng ta hãy cùng đi để chết với Người” (Gn 11, 6)

Thật tội nghiệp cho Thánh Tôma! Chỉ có một câu nói của ngài mà bị gán cho cái tên “Tôma Hồ Nghi” trong suốt 20 thế kỷ. Nhưng nếu ngài nghi ngờ thì ngài cũng đã tin. Lời ngài tuyên xưng đã trở thành một phát biểu đức tin trong Tân Ước: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” (x. Gioan 20:24-28), và lời ấy đã trở thành lời cầu nguyện được đọc cho đến tận thế. Cũng nhờ ngài mà Kitô Hữu chúng ta có được lời nhận định của Ðức Giêsu: “Anh tin là vì anh đã thấy Thầy. Phúc cho những người không thấy mà tin” (Gioan 20:29).

Thánh Tôma cũng nổi tiếng vì sự can đảm của ngài. Có thể điều ngài nói là do bốc đồng—vì ngài cũng bỏ chạy như các tông đồ khác khi Ðức Giêsu bị bắt bớ— nhưng chắc chắn ngài đã không giả dối khi nói lên ý muốn cùng chết với Ðức Giêsu. Ðó là khi Ðức Giêsu đề nghị đến Bêtania sau khi Lagiarô từ trần. Vì Bêtania rất gần với Giêrusalem, điều đó có nghĩa phải đi bộ ngang qua phần đất của kẻ thù và rất có thể sẽ bị giết chết. Nhận biết sự kiện này, Thánh Tôma nói với các tông đồ khác, “Chúng ta hãy cùng đi để chết với Thầy” (Gioan 11:16b).

Thánh Tôma còn được nhắc đến khi Ðức Giêsu hiện ra sau Phục Sinh, tại Hồ Tibêria khi bắt được nhiều cá một cách lạ lùng. Truyền thống nói rằng, sau biến cố Hiện Xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần, các Tông Ðồ đi rao giảng khắp nơi, và Thánh Tôma đã loan truyền Tin Mừng cho người Parthia, Medes  và Persia (Ba Tư); sau cùng ngài đến Ấn Ðộ, đem Ðức Tin cho dân chúng ở vùng ven biển Malaba, mà giáo đoàn đông đảo ấy tự nhận họ là “Kitô Hữu của Thánh Tôma” theo lễ điển Malabar còn làm chứng tá cho tương truyền ấy. Ngài đã chấm dứt cuộc đời qua sự đổ máu cho Thầy mình, đã bị đâm bằng giáo cho đến chết năm 72 ở nơi gọi là Calamine.

Trong các hình của thánh nhân tay cầm một cây thước thợ nề mà theo tương truyền thánh nhân đã xây cung điện cho vua Guduphara ở Ấn Độ. Lễ kính thánh nhân ngày 03 tháng 7 là ngày chuyển dời thánh tích của thánh nhân về Edessa ở Mesopotamia.

(Nguồn: “Điển Ngữ Các Thánh” của cố linh mục Hồng Phúc, CSsR)

❦  Trong ngày hôm nay hay mỗi khi Bạn cảm thấy mệt mỏi và bất lực về một vấn đề nào đó, mời Bạn, nếu có thể, hãy nhắm mắt lại và thốt lên lời tuyên xưng đức tin của Thánh Tô-ma: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Bạn có thể coi câu này như là lời chân thật từ đáy lòng của mình và lập đi lập lại nhiều lần để đón nhận sự bình an của Chúa.

From: Do Dzung

Thánh Ca | Tôi Tin 

Kính Thánh Thánh Juniperô Serra (Tây Ban Nha—1713, Mexico—1784)-Cha Vương

Ngày Thứ 2 tràn đầy sức mạnh và ân sủng của Chúa nhé. Hôm nay Giáo Hội mừng Kính Thánh Thánh Juniperô Serra (Tây Ban Nha—1713, Mexico—1784). Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 1/07/204

Miguel Jose Serra sinh ở đảo Majorca Tây Ban Nha, và lấy tên Junipero khi gia nhập Dòng Phanxicô. Ðược thụ phong linh mục năm 1737, ngài dạy triết thần ở Ðại Học Lulliana cho đến năm 1749 thì ngài chuyển sang công việc truyền giáo ở Tân Thế Giới và được gửi sang Mễ Tây Cơ.

Vào năm 1768, Cha Serra tiếp quản công cuộc truyền giáo của các linh mục dòng Tên (là những người đã bị chính quyền trục xuất cách sai lầm) trong tỉnh California Hạ và Thượng, lúc bấy giờ California là một tỉnh của Mễ Tây Cơ. Là một tông đồ hoạt động không biết mệt, Cha Serra trách nhiệm phần lớn cho việc thành lập và phát triển Giáo Hội ở vùng ven biển phía Tây của Hoa Kỳ khi phần đất này vẫn còn là khu vực truyền giáo.

Cuộc đời truyền giáo của Cha Junipero là một cuộc chiến chống với giá lạnh và đói khát, với các nhà lãnh đạo quân sự không có cảm tình và ngay cả bị nguy hiểm đến tính mạng vì những người da đỏ. Ðể duy trì tinh thần truyền giáo hăng say ấy, ngài cầu nguyện hàng đêm, có khi từ nửa đêm cho đến sáng.

Tổng cộng, ngài đã sáng lập hai mươi mốt trung tâm truyền giáo, và hoán cải hàng ngàn người da đỏ. Những người tân tòng không những được học biết đức tin, mà còn được dạy bảo cách trồng trọt, chăn nuôi cũng như thủ công nghệ.

Vì sự lao nhọc trong việc tông đồ, ngài từ trần ngày 28 tháng Tám 1784. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước năm 1988. Ngày 23 tháng Chín 2015, tại đền thánh Đền Thánh Quốc Gia Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tuyên phong ngài là hiển thánh.

LỜI BÀN: Lời trung thực nhất để diễn tả về Thánh Junipero là sự nhiệt huyết. Tinh thần đó xuất phát từ sự cầu nguyện chân thành và ý chí bất khuất. Châm ngôn của ngài là “luôn luôn tiến bước, đừng bao giờ lùi”.

From: Do Dzung

Dâng Hiến Đời Con | Angelo Band 

Thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô-Cha Vuong

Hôm nay Giáo hội mừng kính trọng thể 2 thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô, mừng lễ bổn mạng đến những ai chọn Phê-rô và Phao-lô làm quan thầy nhé. Chúc mừng, chúc mừng!

Cha Vương

Thứ 7: 29/06/2024

Sơ lược tiểu sử Thánh Phê-rô:

. Sinh tại Bethsaida, xứ Galilê, làm nghề đánh cá

. Thánh Phêrô là tông đồ trưởng trong số mười hai thánh tông đồ của Chúa Giêsu.

. Luôn có mặt trong những biến cố quan trọng trong đời Chúa Giêsu

. Thánh Phêrô được Chúa trao cho quyền cai quản Hội Thánh.

. Tử đạo tại Rôma năm 64 dưới thời Hoàng Đế Nêron (chịu đóng đinh ngược)

. Ngôi mộ Ngài theo truyền thống ngự dưới chân tòa thánh Vatican

Sơ lược tiểu sử Thánh Phao-lô:

. Sinh vào thập niên đầu của công nguyên, tức là cùng thời với Chúa Giêsu.

. Thánh Phaolô có tên là Saolô, tuy là người Do thái, thuộc chi họ Benjamin, nhưng Saolô sinh ra và lớn lên ở Tarsus, thủ phủ của tỉnh Cicilia, nay là miền nam Thổ nhĩ kỳ.

. Ngài vóc dáng thấp bé, nhưng thông minh vượt xa những người cùng lứa tuổi. Lúc nhỏ được giáo dục ở Tarsus là một trung tâm nổi tiếng về văn hoá và triết học. Lớn lên, Saolô được gởi lên Giêrusalem, học với Thầy Gamaliel Cả, theo những tiêu chuẩn khắt khe nhất của nhóm Biệt phái.

. Saolô là một người lỗi lạc trong lãnh vực văn chương và triết học của cả ba nền văn hóa chính thời đó là Hy lạp, La tinh và Do thái. Ngài thuộc lòng Kinh Thánh của người Do thái, tức là bộ Cựu Ước. Saolô hết sức nhiệt thành đối với truyền thống của cha ông.

. Tuy là biệt phái, xét theo lề luật, nhưng ngài đã trở lại đạo khoảng 33/35.

. Sau khi bị cầm tù lần thứ hai tại Rôma, có lẽ ngài đã bị chém đầu vào khoảng năm 67 tại Aquas Salvias, (theo truyền thống—độ 5km về hướng nam Rôma, ba năm sau khi Thánh Phê-rô tử đạo), và được mai táng trên đường Ostia, nơi đây, người ta xây vương cung thánh đường thánh Phaolô-ngoại thành.

“Phê-rô và Phao-lô là hai tông đồ khác nhau như nước với lửa: Phê-rô là dân đánh cá ít học, Phao-lô thuộc tầng lớp trí thức; Phê-rô theo Chúa ngay từ đầu, còn Phao-lô là ‘đứa con đẻ non’ (x. 1Cr 15,8) mãi sau này mới theo Chúa; Phê-rô gắn bó với Ki-tô hữu gốc Do Thái, còn Phao-lô rao giảng cho dân ngoại. Khác nhau về gốc gác, về quan điểm truyền giáo, thế nhưng, trong Đức Giê-su, cùng với Đức Giê-su và vì Đức Giê-su, Đấng cả hai quý mến hơn mọi sự trên đời, Phê-rô và Phao-lô hiệp nhất trong một công trình chung: xây dựng Hội thánh của Đức Giê-su bằng lòng nhiệt thành hăng say rao giảng, bất chấp đòn vọt, tù đày, như thánh Phao-lô đã thốt lên: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16). Hai vị còn giống nhau trong cái chết hy sinh mạng sống cho Đấng mình yêu: Phê-rô bị đóng đinh ngược đầu xuống đất, Phao-lô bị chém đầu.

Nhớ rằng Hội thánh chủ ý mừng hai vị tông đồ trong một ngày lễ chính là để nêu cao tinh thần hiệp nhất trong công cuộc xây dựng Hội thánh. Bạn có quyết gạt bỏ những bất đồng để cùng hiệp nhất xây dựng gia đình, cộng đoàn, giáo xứ, đoàn thể… không?”

 (Trích: 5 phút suy niệm)

Lạy Chúa, hai Thánh Phê-rô và Phao-lô đã theo Chúa đến cùng và sống trong tinh thần hiệp nhất để xây dựng Hội thánh của Chúa, xin cho con biết gạt bỏ hận thù, kỳ thị, tranh chấp, nghi kị, kết án lẫn nhau… để cộng tác với Chúa xây dựng gia đình, cộng đoàn, giáo xứ… mỗi ngày một tốt đẹp hơn.

From: Do Dzung

T. Phêrô & Phaolô (29-6) – Thánh Vịnh 33 – ĐÁP CA – Ca sĩ: Công Minh

 

THÁNH PHÊRÔ VÀ THÁNH PHAOLÔ TÔNG ĐỒ – Lm Giuse Đinh Tất Quý

 Lm Giuse Đinh Tất Quý

Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ trọng thể kính hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô.

  1. Trước hết là Thánh Phêrô

Chẳng cần phải nói dài anh chị em cũng có thể thấy được rằng Phêrô là một trong ba môn đệ, nói đúng hơn trong ba Tông đồ được Chúa ưu ái một cách đặc biệt hơn những tông đồ khác.  Ông được Chúa cho tham dự vào hầu hết những biến cố quan trọng trong cuộc đời công khai của Chúa.

Tính tình ông nóng bỏng, bộc trực và đôi lúc hơi liều lĩnh.

Nói về ông, người ta không thể không nhắc đến cái vết thật đen trong cuộc đời của Ông.  Đó là việc ông đã chối Chúa.  Alain một nhà tư tưởng lớn của Pháp đã viết những lời như thế thật chua cay về biến cố này: “Tôi hình dung ra ông ta đang ở trên Thiên đàng, đầu đội triều thiên hào quang sáng chói nhưng mỗi khi nhớ đến ‘dzụ’ ấy, chắc ông còn phải đỏ mặt.”  Lý do, ông viết tiếp: “Tông đồ Phêrô trong hoàn cảnh lúc đó đã lẩn trốn như thỏ hay như chuột” Lời nhận định hơi chua chát một chút nhưng nó cho chúng ta thấy tính cách nghiêm trọng của vấn đề.  Vì Phêrô là Thủ lãnh các tông đồ, thủ lãnh nhóm 12 và nhất là trước đó Chúa đã cảnh cáo ông.

Tuy nhiên bên cạnh những cái không tốt đó chúng ta lại thấy nơi Phêrô có nhiều đức tính đáng nể phục.  Chính những đức tính sáng chói này sẽ làm lu mờ đi những cái tầm thường nơi con người của ông để rồi qua đó ông đã xứng đáng với sự tín nhiệm của Chúa khi Chúa đã đặt ông làm nền tảng Giáo Hội.

Đầu tiên chúng ta phải nói về lòng quảng đại.  Tin Mừng ghi thật rõ, vừa khi được Chúa gọi ông nhanh nhẹn bỏ điều mà sau này ông ‘kể công’ với Chúa là tất cả mọi sự.

Bên cạnh lòng quảng đại chúng ta còn thấy ở nơi Ông một đức tin chân thành.

Đàng khác trên con đường theo Chúa ông còn có một đức tính hiếm hoi này mà những người khác ít ai có được đó là lòng gắn bó keo sơn với Chúa.  Sau Phép lạ bánh hóa nhiều, Chúa có giảng một bài giảng về bánh hằng sống.  Bài giảng đó đã đánh dấu một khúc ngoặt mới trong cuộc đời công khai của Chúa.

“Lạy thầy, bỏ thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có lời ban sự sống đời đời.”

Nhưng đức tính mà tôi cảm phục nhất trong cuộc đời của Ông đó là lòng khiêm nhường.  Sách Tu đức gọi đức Khiêm nhường là nền tảng mọi nhân đức.  Đôi khi người ta cũng còn gọi đức khiêm nhường là mẹ các nhân đức.  Đọc trong Kinh Thánh tôi thấy ít nhất có ba lần ông đã biểu lộ sự khiêm nhường rất cụ thể như thế này.

Lần thứ nhất là khi Chúa cho các ông bắt được một mẻ cá lạ.  Trong khi các môn đệ khác chỉ có thái độ cầm chừng thì Phêrô đã đến quì trước mặt Chúa và thưa với Người: “Lạy Thầy, xin tránh xa con ra vì con là một người tội lỗi.”  Ông ý thức được cái thân phận yếu đuối của mình trước sự hiện diện của Chúa.

Lần thứ hai là khi Chúa quở mắng ông một cách thật nặng lời nhưng ông không một chút sĩ diện.  Ông đón nhận tất cả như một bài học để ông sửa mình.

Lần thứ ba được ghi ở trong sách Tông đồ công vụ.  Giữa Phêrô và Phaolô có sự bất đồng về việc những người Dothái trở lại.  Phêrô đã cố gắng nhịn nhục để giữ được bầu khí hoà dịu giữa hai người.

  1.  Còn Phaolô

Tin Mừng không nói một câu nào về Ông.  Chúng ta chỉ được biết về ông sau khi Chúa Giêsu đã về trời.  Xét về con người của ông thì chúng ta thấy ông có nhiều điểm hơn hẳn Phêrô.  Ông là một con người có học thức – Là học trò của Giáo sư Kinh Thánh nổi tiếng Gamaliel.  Gia đình ông thuộc loại khác giả.  Đặc biệt ông là người có tước Công dân La mã.  Ông không thuộc nhóm 12.  Ông là một tông đồ sinh sau đẻ muộn nhưng là một tông đồ đặc biệt.

Ông xuất hiện không như một người về phe với Chúa, nhưng như một kẻ đối đầu.  Tệ hơn, như một kẻ thù: Chúng ta còn nhớ thật rõ câu truyện ông tình nguyện đi Đamas để lùng bắt và tiêu diệt những người mang danh Kitô hữu.

Thế nhưng cũng chính từ cuộc lùng bắt những người Kitô hữu này Chúa đã chinh phục ông.  Cuộc chinh phục rất đột xuất làm cho nhiều người cảm thấy như không thể tin được.  Thế nhưng đó lại là công việc của Chúa.

Chúa chọn ông để sai ông đi rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại.

Muốn hiểu cuộc đời theo Chúa của Ông như thế nào chúng ta hãy đọc lại Sách Tông đồ công vụ và nhất là những bức thư nổi tiếng ông còn để lại.

III.          Bài học

 1.Uy quyền của Chúa:  Chúa muốn làm gì thì làm.

Xét về nhiều phương diện thì Phêrô thiếu hẳn những đức tính của một người lãnh đạo thế nhưng Chúa đã chọn ông, đặt ông làm thủ lãnh của Giáo Hội.  Đó là công việc của Chúa.

Phaolô cũng thế: Từ một kẻ thù Chúa đã biến ông thành một người bạn, một người tình.  Từ một người đi lùng bắt những người theo Chúa mà giết đi.  Chúa đã biến ông trở thành người rao giảng về Người và sẵn sàng chết vì người.  Về phương diện trần thế chẳng khi nào chúng ta thấy được như thế.

  1. Bài học về lòng yêu mến Chúa

Câu truyện tại bờ biển Galilêa sau khi Chúa sống lại.  Phêrô đã tuyên xưng không phải đức tin, nhưng là lòng yêu mến của Ông.

Phaolô đã viết những lời thật cảm động sau đây: “Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô.  Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo….  Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay chiều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (Xem 2 Tm 4, 6-8 Rm 8, 18-19.32.33.38.39)

  1. Bài học về sự gắn bó và lòng trung thành đối với Chúa.

Nhìn lại cuộc đời theo Chúa của Phêrô chúng ta thấy ông đã sẵn sàng để cho Chúa uốn nắn, mài dũa ông như thế nào.  Rất nhiều lần Chúa đã trách mắng ông, thậm chí có lần Chúa đã gọi ông là “Đồ Satan”, thế nhưng Phêrô vẫn luôn một lòng một dạ trung thành để rồi sau này ông có thể viết cho đoàn chiên Chúa trao cho Ông như thế này: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em” (1Pr 1, 15) – Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền. (1Pr 2, 9)

Còn đối với Phaolô thì chúng ta khỏi cần phải nói: Sau khi được Chúa kêu gọi trên con đường ông đi Damas, ông đã vào ẩn mình trong hoang địa.  Ở đó Chúa đã tôi luyện ông để ông trở nên giống Chúa đến nỗi Ngài có thể tự hào: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi.  Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.  Và Ngài khuyên những ai tin Chúa: “Anh em đã nhận Đức Ki-tô Giê-su làm Chúa, thì hãy tiếp tục sống kết hợp với Người.”  Vào cuối đời ông đã để lại những lời này cho người môn đệ yêu quí của ông: “Còn cha, cha sắp phải đổ máu ra làm lễ tế.  Đã đến giờ cha phải ra đi.  Cha đã chiến đấu trong một trận chiến cao đẹp, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững được đức tin.  Giờ đây cha chỉ còn đợi trông vòng hoa dành cho người công chính.  Chúa là vị Thẩm phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho cha trong ngày ấy và không phải chỉ cho tôi mà còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.”

Lm Giuse Đinh Tất Quý

From: Langthangchieutim

Thánh Cyril ở Alexandria (376?-444) – Cha Vuong

Tràn đầy bình an và yêu thương trong Chúa hôm nay nhé. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Cyril ở Alexandria (376?-444), Giám Mục tiến sĩ Hội Thánh. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 27/6/24

St Cyril of AlexandriaThánh Cyril sinh năm 376 tại Alexandria, xứ Ai cập. Ngài là cháu của Ðức Theophilus, thượng phụ của Alexandria. Sau khi học xong kinh điển và thần học, ngài được chính bác của mình tấn phong linh mục và tháp tùng Ðức Theophilus đến Constantinople để tham dự Thượng Hội Ðồng Oak nhằm truất phế Ðức Gioan Chrysostom (sau này mới biết là bị kết tội oan).

Khi Ðức Theophilus từ trần vào năm 412, ngài lên kế vị bác của mình sau cuộc tranh đấu với phe ủng hộ người đối thủ là Timotheus. Ngay sau khi lên ngôi, Ðức Cyril bắt đầu tấn công lạc thuyết Novatianô với việc đóng cửa các nhà thờ; đuổi những người Do Thái ra khỏi thành phố; và phản bác một số hành động của quan đầu tỉnh Orestes là người theo phe Novatianô.

Vào năm 430, Ðức Cyril lại xung đột với Nestorius, thượng phụ của Constantinople, là người cho rằng Ðức Maria không phải là Mẹ Thiên Chúa vì Ðức Kitô là Thiên Chúa chứ không phải con người, hậu quả là không thể dùng chữ theotokos (người-mang-Thiên-Chúa) áp dụng cho Ðức Maria. Ðức Cyril thuyết phục được Ðức Giáo Hoàng Celestine I triệu tập một công đồng ở Rôma nhằm lên án Nestorius, và chính ngài cũng hành động tương tự trong công đồng Alexandria.

Vào năm 431, Ðức Giáo Hoàng Celestine ra lệnh cho Ðức Cyril truất phế Nestorius. Trong Ðại Công Ðồng Ephêsô lần thứ ba, với sự tham dự của hai trăm giám mục và dưới sự chủ tọa của Ðức Cyril, công đồng đã lên án mọi giáo thuyết của Nestorius là sai lầm trước khi Ðức TGM Gioan ở Antiôkia và bốn mươi hai môn đệ ủng hộ giáo thuyết của Nestorius kịp đến tham dự. Khi thấy mọi sự đã lỡ, họ tổ chức một công đồng riêng để truất phế Ðức Cyril. Hoàng Ðế Theodosius II bắt giữ cả hai người, Ðức Cyril và Nestorius nhưng sau đó đã trả tự do cho Ðức Cyril khi các đại diện của đức giáo hoàng xác nhận các quyết định của công đồng.

Hai năm sau, Ðức TGM Gioan, đại diện cho các giám mục ôn hòa ở Antiôkia, đã ký kết một thỏa ước với Ðức Cyril và cùng lên án Nestorius. Trong quãng đời còn lại, Ðức Cyril đã viết nhiều luận án làm sáng tỏ học thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi và mầu nhiệm Nhập Thể nhằm ngăn chặn lạc thuyết Nestorius và Pelagian khỏi ăn sâu vào cộng đồng Kitô Hữu.

Ngài là thần học gia sáng chói nhất của truyền thống Alexandria. Văn bút của ngài có đặc tính chính xác về tư tưởng, lập trường rõ ràng, và lý luận sắc bén. Các văn bản của ngài gồm các nhận định về Thánh Gioan, Thánh Luca, và ngày lễ Ngũ Tuần, các luận thuyết về thần học tín lý, cũng như các thư từ và bài giảng. Ngài mất năm 444 tại Alexandria, Ai Cập; thánh tích hiện còn tại Alexandria. Thánh Cyril ở Alexandria được Đức Giáo Hoàng Leo XIII tuyên xưng là Tiến sĩ của Hội Thánh vào năm 1882 và lễ kính vào ngày 27 tháng 6. (Nguồn: Người Tín Hữu online)

From: Do Dzung

GIÊSU, CHÚA BÊN CON – Lumen Choir 

Mừng kính trọng thể Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả (Gioan Baotixita).

Chúc bình an! Hôm nay 24/06, Giáo Hội mừng kính trọng thể Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả (Gioan Baotixita). Ngài là con của bà Elizabeth và tiên tri Zacharia, đấng tiền hô, đấng đã làm phép rửa cho Chúa Kitô, đấng tử đạo đầu tiên khi Tin Mừng được rao giảng. Thánh Gioan Baotixita có hai ngày lễ kính trong lịch phụng vụ, ngày 24 tháng 6 là ngày sinh nhật và ngày 29 tháng 8 là ngày tử đạo. Chúng ta cùng hát Chúc Mừng Sinh Nhật Ngài đi nào!

Cha Vương

Thứ 2: 24/06/2024

Ðức Giêsu gọi Gioan là người cao trọng nhất trong tất cả mọi người và là người đến trước Ngài: “Ta nói với các ngươi, trong những người sinh ra bởi phụ nữ, không ai cao trọng hơn Gioan…” Nhưng có lẽ Thánh Gioan sẽ hoàn toàn đồng ý với điều Ðức Giêsu nói thêm sau đó: “Tuy nhiên, người nhỏ nhất trong nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông ta” (Luca 7:28).

Có một thời gian Thánh Gioan sống trong sa mạc, là vị ẩn tu. Ngài loan báo nước trời đã gần đến, và mời gọi mọi người hoán cải đời sống.

Mục đích của ngài là chuẩn bị con đường cho Ðức Giêsu. Ngài nói, phép rửa của ngài là để ăn năn sám hối. Nhưng Ðấng sắp đến sẽ rửa với Thần Khí và lửa. Gioan không xứng đáng để xách dép cho Người. Thái độ của Thánh Gioan đối với Ðức Giêsu là: “Ngài phải gia tăng; tôi phải nhỏ đi” (Gioan 3:30).

Trong khi thanh tẩy những kẻ tội lỗi, Thánh Gioan đã khiêm tốn nhận ra Ðấng Thiên Sai và nói: “Tôi cần được thanh tẩy bởi Ngài” (Mt 3:14b). Nhưng Ðức Giêsu nhất định, “Hãy tiếp tục thi hành, vì như vậy chúng ta mới giữ trọn đức công chính” (Mt 3:15b). Ðức Giêsu, một con người đích thực và khiêm tốn cũng là Thiên Chúa hằng hữu, đã sẵn sàng thi hành bổn phận của bất cứ người Do Thái tốt lành nào. Thánh Gioan như vậy đã công khai đi vào tập thể của những người đang chờ đợi Ðấng Thiên Sai. Nhưng khi tự trở nên một phần tử của cộng đồng đó, ngài quả thực thuộc về Ðấng Cứu Tinh.

Sự cao trọng của Thánh Gioan, một địa vị then chốt trong lịch sử cứu chuộc, được nhận thấy qua tường thuật của Thánh Luca về sự sinh hạ và các biến cố sau đó của Thánh Gioan – cả hai yếu tố này đều xảy ra song song với cuộc đời của Ðức Giêsu. Thánh Gioan thu hút được rất nhiều người đến bờ sông Giođan, và một số người đã coi ngài như Ðấng Thiên Sai. Nhưng ngài luôn luôn chỉ đến Ðức Giêsu, ngay cả một số môn đệ của ngài cũng được sai đến để trở thành các môn đệ đầu tiên của Ðức Giêsu.

Có lẽ Thánh Gioan không nghĩ là Nước Trời được hoàn tất một cách tuyệt hảo trong sứ vụ rao giảng của Ðức Giêsu. Vì bất cứ lý do gì, (trong khi ở tù) ngài đã sai các môn đệ đến hỏi Ðức Giêsu xem có phải Người là Ðấng Thiên Sai hay không. Câu trả lời của Ðức Giêsu cho thấy Ðấng Thiên Sai mang hình ảnh Người Tôi Tớ Ðau Khổ trong sách tiên tri Isaia. Chính Thánh Gioan cũng đã chia sẻ trong sự đau khổ của Ðấng Cứu Tinh, ngài đã chết vì sự trả thù của Herodias.

(Trích Gương Thánh Nhân – ns Người Tín Hữu online)

Bạn rút ra bài học gì cho mình khi đọc qua tiểu sử của thánh nhân? Hãy áp dụng vào cuộc sống hằng ngày nhé.

From: Do Dzung

Nuns playing HAPPY BIRTHDAY on Piano

Kính 2 thánh Gioan Fisher và Thánh Tôma More

Cuối tuần an lành. Hôm nay Giáo Hội mừng kính 2 thánh Gioan Fisher và Thánh Tôma More. Mừng bổn mạng đến những ai chọn cách ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

  1. THÁNH GIOAN FISHER, Giám Mục (1469 – 1535)

Gioan Fisher, chào đời năm 1469 tại Yorkshire, Anh quốc. Gioan tốt nghiệp Đại Học Cambridge, thụ phong linh mục vào năm 1491, và lấy bằng Tiến Sĩ Thần Học năm 1501. Sau đó, cha Gioan dạy học tai Cambridge, đồng thời cũng là cha giải tội trong hoàng cung và làm linh hướng cho nữ hoàng Margaret, mẹ của vua Henry VIII. Là một nhà giáo ưu tú, và cũng là một thần học gia, ngài thân quen với giới trí thức và chính trị thời bấy giờ, nổi bật là Erasmus và Thomas More.

Nhờ tài đức song toàn, năm 1504 cha Gioan được đặt làm hiệu trưởng trường Đại Học Cambridge, và được chọn làm Giám mục giáo phận Rochester, một giáo phận nhỏ và nghèo nhất nước Anh thời đó. Hai ngày sau, ngài được chỉ định làm thành viên trong hội đồng của hoàng đế nước Anh.

Trong suốt 30 năm coi sóc giáo phận, Giám mục Gioan đã dùng tất cả tài lực phục vụ đoàn chiên, giảng dạy lời Chúa, và đặc biệt lưu tâm đến đời sống tâm linh của các linh mục.

Là người cương trực, thẳng thắn ngài cùng với thánh Thomas More phản đối việc làm sai trái của vua Henry VIII, khi vua ly dị vợ, ly khai với Tòa thánh, lập giáo hội Anh quốc, tự xưng là thủ lãnh nên bị giam ngục mà không xét xử trong 14 tháng.

Vào năm 1535, Đức giáo hoàng Phaolô III tấn phong ngài làm hồng y, điều này khiến vua Henry VIII càng thêm tức giận và đã tìm cách vu oan ngài về tội phản quốc. Cuối cùng, vị giám mục bị kết tội và bị hành quyết vào ngày 22/ 6/1535. Ngày hành quyết, ông đòi mặc bộ y phục đẹp nhất vì “Đây là ‘ngày cưới’ của tôi!”. Mang theo cuốn Phúc Âm, ông đến bục hành hình; tại đó, ông cầu nguyện, “Lạy Chúa, xin ban cho con một lời ủi an để con có thể tôn vinh Chúa trong giờ cuối cùng của đời mình”. Và mở Tin Mừng, ông đọc, “Sự sống đời đời, là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất, chân thật; và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, Đức Giêsu Kitô”. Ông nói, “Đúng thế”; “Đây là lời đủ cho tôi sống đến giờ này”. Trong vài phút, ông đã chết. Đó là Thánh Giám mục Gioan Fisher và đó cũng là nguồn gốc lịch sử lý do ly khai của anh em Anh giáo.

  1. THÁNH THOMAS MORE (1477-1535)

Thomas More sinh tại Luân Đôn năm 1477, là một luật sư, một nhà văn, và một học giả danh tiếng. Thân phụ Thomas More cũng từng là một luật gia và là một quan tòa. Đến tuổi trưởng thành, Thomas More kết hôn, có bốn người con, và dành nhiều thời giờ cho việc giáo dục con cái.

Là người học cao hiểu rộng, Thomas More phát triển sự nghiệp mau chóng, và được chọn vào Nghị Viện khi mới 22 tuổi. Là một luật sư nổi tiếng, Thomas More gây được sự chú ý của vua Henry VIII và được chọn làm Quan Chưởng Ấn kế vị Đức Hồng Y Wolsey.

Trong thời gian vua Henry VIII nhất định duy trì lập trường của ông về vấn đề hôn nhân khi kết hôn lần thứ hai và từ chối quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng, đồng thời tuyên bố ly khai khỏi Tòa thánh, thành lập Anh giáo, Thomas More đã từ chức và kiên quyết chống lại hành động sai trái của nhà vua. Sau đó, cũng giống như Giám mục Gioan Fisher, Thomas More bị tống giam và bị kết án là phản quốc vì không công nhận Henry VIII là thủ lãnh tối cao của Giáo Hội Anh. Khoảng 15 tháng sau, ngài bị đem ra xét xử. Trước toà, Thomas More khẳng đinh rõ là ngài không thể hành động trái với lương tâm. Không muốn bị khuất phục trước sự khẳng khái và cương trực của Thomas More, toà đã kết án tử hình thánh nhân. Trên đoạn đầu đài, Thomas More tuyên bố với đám đông rằng ngài chết như “một tôi trung của nhà vua – nhưng trước hết là tôi trung của Thiên Chúa”. Ngài bị hành quyết ngày 06/ 7/ 1535.

Năm 1935, Đức Piô XI tôn phong Đức giám mục Gioan Fisher và Thomas More lên bậc hiển thánh. Vào năm 2000, Đức Gioan Phaolô II đặt Thánh Thomas More là Bổn mạng của các luật sư và chính trị gia công giáo.

Mừng lễ hai thánh Gioan Fisher và Thomas More, xin cho chúng ta luôn trung thành sống và bảo vệ đức tin. Đồng thời sẵn sàng tận dụng thời gian và khả năng Chúa ban để học biết về Chúa cũng như làm chứng cho chân lý của Chúa trong cuộc sống hàng ngày. (Nt. Maria Thu Hằng, OP tóm lược)

From; Do Dzung

PHÓ THÁC – Nhạc Thánh Ca | Bảo Thy Officical

Thánh Luy Gonzaga (09-03-1568-21-06-1591)- Cha Vương

Hôm nay 21/06 Giáo hội mừng kính thánh Luy Gonzaga, quan thầy của giới trẻ và các sinh viên. Chúc mừng chúc mừng những ai có tâm hồn trẻ trung nhé!

Cha Vương

Thứ 4: 19/06/2024

Thánh Luy Gonzaga chào đời ngày 09-03-1568 trong một gia đình quyền quý và danh  giá, thuộc xứ Castiglione, miền bắc nước Ý. Cha ngài là bá tước Ferdinand, người muốn hướng Luy vào nghề binh nghiệp; còn mẹ ngài là một người đạo đức, biết dạy con yêu mến Chúa, sùng kính đức Maria và thương giúp người nghèo. Với gương sáng đạo hạnh của người mẹ, thánh Luy đã sớm khát khao bước đi trên con đường trọn lành như Chúa muốn. Chúng ta có thể tóm lược cuộc đời thánh nhân qua hai điểm sau:

(1) Sùng kính và dâng hiến cuộc đời cho Đức Maria—Nhờ hương thơm thánh thiện của người mẹ, thánh Luy đã sớm có lòng sùng kính Đức Maria cách đặc biệt. Tại Florence, vào năm 1577, thánh nhân đã khấn giữ mình trinh trong trước tượng Đức Mẹ Đồng Trinh, tại nhà nguyện Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ. Ngài luôn lánh xa mọi dịp tội, hay bất cứ sự gì có thể làm cho mình cắt đứt mối hiệp thông thân tình với Thiên Chúa. Ngài chuyên chăm cầu nguyện, sống nghiêm nhặt và khắc khổ. Sau khi trở về quê nhà Castiglione, ngài còn tăng thêm các việc lành đạo đức, và coi đó như một bổn phận: quỳ đọc kinh Nhật Tụng về Đức Mẹ, các Thánh Vịnh sám hối và các kinh nguyện khác. Ngày 15-08-1583, đang khi cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ trong nhà thờ, thánh Luy cảm thấy như mình được Chúa kêu gọi dâng hiến cuộc đời cho Ngài trong đời sống tu trì. Sau đó, thánh nhân quyết định bước theo tiếng gọi của Chúa và  gia nhập dòng Tên, dù bị người cha phản đối. Có thể nói, cuộc đời thánh Luy đã trao hiến hoàn toàn cho Đức Mẹ và để cho Mẹ dẫn dắt đời mình theo Thiên Ý. Do đó, người ta thường gọi thánh nhân là “Thiên thần con”.

(2) Hy sinh phục vụ—Bước vào nhà dòng, thánh Luy chỉ muốn quên mình, sống khiêm tốn, nhiệt tâm phục vụ cộng đoàn, thươ`ng giúp những người nghèo hèn và bệnh tật. Ngài làm các công việc nhỏ nhặt như: làm bếp, rửa chén bát, lau nhà… hầu như thánh nhân không nề hà công việc gì, dù công việc đó có khó khăn, nặng nhọc và nguy hiểm đến tính mạng. Năm 1591, nước Ý lâm vào cảnh đói kém và cơn bệnh dịch lan tràn tại Roma và các vùng khác đã làm cho nhiều người chết. Trước cảnh khốn cùng của người dân, thánh Luy cùng với nhiều người khác đi quyên góp quần áo, thực phẩm và thuốc men để giúp đỡ những ai đang gặp gian nguy. Với những người đang hấp hối trên đường phố, thánh nhân đưa đến bệnh viện, tận tình chăm sóc, tắm rửa và giúp họ lãnh nhận các bí tích sau cùng. Chính lòng bác ái với người khác, nên thánh nhân cũng bị nhiễm bệnh. Trên giường bệnh, thánh nhân đã viết thư cho mẹ với tất cả niềm trin ân và niềm tin tưởng vào Chúa: “Thưa mẹ, con thú thật với mẹ rằng: mỗi khi con suy nghĩ về lòng tốt của Chúa, giống như biển không đáy không bờ, linh hồn con như rơi xuống vực sâu ấy, chìm trong cảnh bao la bát ngát, lạc lõng và không biết đáp lại làm sao, vì sau một thời gian làm việc vắn vỏi và sơ  sài như thế mà con đã được Chúa ban cho nghỉ ngơi muôn đời”. Ngày 21-06-1591, thánh Luy lãnh nhận các bí tích sau cùng, và ra đi bình an khi mới 23 tuổi đời. Đức Giáo Hoàng Phaolô V tuyên phong chân phước cho ngài vào ngày 19-10-1605; và ngày 31-12-1726, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XIII đã nâng ngài lên bậc hiển thánh.

Lạy Chúa! Chúa đã ban cho thánh Luy Gonzaga đầy hương thơm thánh thiện, luôn giữ mình trinh trong, tôn sùng Đức Maria và thương giúp kẻ nghèo. Nhờ lời chuyển cầu của thánh nhân, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết giữ mình khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, sống yêu thương và quảng đại phục vụ anh chị em. Amnen.

(Nguồn: Simonhoadalat—hạnh các thánh)

From: Do Dzung

Thánh Ca: Têrêxa một tâm hồn, một con đường – Trình bày: Đình Trinh 

SỐNG THÁNH MỖI NGÀY TẬP A

SỐNG THÁNH MỖI NGÀY TẬP A
15/6
THÁNH GERMAINE COUSIN (1579-1601)
Ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời (Mt 18: 4)
 
Germaine là một thiếu nữ quê mùa sinh năm 1579 tại làng Pibrac, gần Toulouse, Pháp. Vì mẹ mất sớm, bị người cha ghét bỏ và mẹ ghẻ thật tàn nhẫn, nên Germaine lớn lên trong hoàn cảnh đau khổ. Vì không muốn Germaine chung đụng với con riêng của mình, bà mẹ ghẻ bắt Germaine phải ngủ trong chuồng súc vật hoặc dưới gầm cầu thang, lúc nào cũng phải làm việc, dù ăn uống rất kham khổ. Lúc 9 tuổi, Germaine đã phải đi chăn cừu. Bất kể lao nhọc và bất công, Germaine luôn vui lòng chấp nhận mọi sỉ nhục. Cô thích đi chăn cừu, vì đó là dịp để cầu nguyện và truyện trò với Thiên Chúa.

Cô rất đạo đức và siêng năng tham dự Thánh Lễ. Mỗi sáng nghe chuông đổ, dù đang chăn cừu, cô vội vã cắm cây gậy xuống đất và chạy đến nhà thờ, phó thác đàn cừu cho sự chăm sóc của các thiên thần. Chưa bao giờ đàn cừu bị nguy hại vì sói rừng khi vắng mặt cô, dù ở cạnh khu rừng. Người ta kể rằng, có lần cô đã đi trên mặt nước, chạy băng qua sông để kịp giờ dự lễ. Germaine quá nghèo để có thể chia sẻ vật chất cho người khác. Nhưng tình yêu tha nhân của cô luôn luôn được thể hiện qua sự giúp đỡ bất cứ ai cần đến cô, và nhất là các trẻ em trong làng, là những người được cô dạy họ biết kính sợ Thiên Chúa.

Bấy giờ, sự thánh thiện của Germaine bắt đầu được dân làng chú ý. Nhưng cô vẫn bị trừng phạt vì đã chia sẻ thức ăn cho người ăn xin. Có lần vào mùa đông, bà mẹ ghẻ nghi ngờ cô giấu miếng bánh trong vạt áo, nhưng khi mở ra bà chỉ thấy những bông hoa thật đẹp của mùa hè rơi xuống đất. Gia đình bắt đầu nhận ra sự thánh thiện của cô và mời cô vào sống ở trong nhà, nhưng Germaine xin được tiếp tục cuộc sống như trước.

Năm 1601, cô 22 tuổi, người ta tìm thấy cô nằm chết trên đống rơm dưới gầm cầu thang. Thi hài của cô được chôn trong nhà thờ ở Pibrac. 43 năm sau, khi tân trang nhà thờ, người ta vô tình khai quật mộ của cô và thấy thân xác của cô vẫn còn nguyên vẹn. Sau khi được trưng bày cho mọi người kính viếng trong một năm trời, thi hài của cô được chôn cất trong gian cung thánh. Nhiều phép lạ đã xảy ra nhờ lời chuyển cầu của cô. Ðức Giáo Hoàng Piô IX phong chân phước cho cô ngày 7/5/1864 và tôn phong cô lên bậc hiển thánh ngày 29/6/1867; và đặt Thánh Germaine Cousin làm quan thầy của các thiếu nữ ở thôn quê.

Lạy Chúa, Lời Chúa đã dạy kẻ lớn nhất trong Nước Trời là kẻ hạ mình xuống như em nhỏ. Xin cho chúng con luôn sống đơn sơ, phó thác, khiêm nhường và yêu thương các trẻ thơ, nhất là những người bất hạnh, đói rách, bơ vơ. Amen.
 
 
15/6
THÁNH LUIGI MARIA PALAZZOLO, LM (1827-1886)
Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm (Mt 25: 36)
 
Thánh Luigi Maria Palazzolo sinh ngày 10/12/1827 tại Bergamo, bắc Ý, là con út trong gia đình khá giả có 8 người con trai. Cuộc sống thời niên thiếu của Luigi gặp nhiều khó khăn, khi hầu hết trong số 8 anh em đều chết sớm, và khi Luigi lên 10 tuổi thì người cha cũng qua đời. Luigi được mẹ giáo dục chu đáo, đặc biệt về lòng bác ái đối với người nghèo và các bệnh nhân.

Đáp lại tiếng Chúa gọi, thầy Luigi Palazzolo thụ phong Linh mục tại giáo phận Bergamo năm 1850 khi 23 tuổi, và được trao nhiệm vụ giáo dục các trẻ em bị bỏ rơi. Sau đó, cha Luigi thành lập một số trại trẻ mồ côi, và Hội của thánh nữ Dorothy, ở khu đông dân và nghèo nàn để chăm sóc các trẻ nữ bị quên lãng.

Kinh nghiệm sau thời gian làm việc, cha Luigi thấy rằng cần phải có sự hợp tác của các nữ giáo chức có chuyên môn để chăm sóc các trẻ nữ, nên năm 1869, cùng với Đấng Đáng Kính Maria Teresa Gabrieli, cha Luigi thành lập Dòng Nữ tu Người nghèo (Sisters of the Poor).

Linh mục Luigi Maria Palazzolo qua đời ngày 15/6/1886 tại nhà mẹ của dòng ở Bergamo. Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII vốn là một Linh mục cùng giáo phận Bergamo, phong chân phước cho ngài ngày 19/3/1963 và ĐGH Phanxicô tôn phong ngài lên bậc hiển thánh ngày 15/5/2022.

Lạy Chúa, Chúa đến để ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người và tỏ bày ưu ái với những ai bị tổn thương về thể xác lẫn tinh thần. Xin cho chúng con quan tâm chăm sóc những người đói nghèo, bệnh tật vì họ cũng là một chi thể của Chúa. Amen.
 
 
15/6
TÔI TỚ CHÚA ORLANDO CATANII (+1226)
Hãy về bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người nghèo khó (Mt 19: 21)
 
Orlando Catanii, còn gọi là Roland, là một bá tước. Ông là một người giàu có và cũng là hậu duệ của một gia đình quý tộc. Một ngày vào năm 1213 Thánh Phanxicô Assisi đã thuyết giảng về hậu quả của những thú vui thế tục gây ra cho linh hồn và Orlando cũng là một trong số khán giả. Bài giảng của Thánh Phanxicô Assisi đã lay động Orlando và ông quyết định sống đẹp lòng Thiên Chúa.

Ông bày tỏ mong muốn của mình với Thánh Phanxicô và xin lời khuyên. Thánh Phanxicô đã chờ đợi một thời gian để biết ý định thực sự của Orlando và sau đó đến thăm cung điện của Orlando tại Núi La Verna và khuyên Orlando các nguyên tắc nên sống. Orlando quyết định phân phát của cải cho người nghèo vùng La Verna. Theo gợi ý của thánh Phanxicô, Orlando cho xây dựng một nhà thờ và một tu viện ở đó. Về sau, một nhà nguyện được xây thêm.

Orlando gia nhập Dòng Ba Phanxicô và được thánh Phanxicô làm linh hướng. Orlando đã tách mình ra khỏi thế gian, nhiệt tâm làm việc bác ái. Sau khi qua đời năm 1226, Orlando được an táng tại nhà nguyện trên núi La Verna.

Lạy Chúa, không ai làm tôi hai chủ. Xin cho chúng con tìm kiếm mọi sự vĩnh cửu trên quê trời, là nơi chúng con được hưởng sự sống đời đời.Amen.
 
 
15/6
TÔI TỚ CHÚA PHÊRÔ LAMBERT DE LA MOTTE, GM – ĐẤNG SÁNG LẬP DÒNG MẾN THÁNH GIÁ VN (1624-1679)
Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo (Mt 16: 24)
 
Phêrô Lambert de la Motte sinh ngày 28/1/1624 tại Giáo xứ Thánh Giacôbê (Saint Jacques), Lisieux, vùng hạ Normandie, Tây Bắc nước Pháp, là anh cả của 7 chị em trong một gia đình quý tộc, nhận thánh Phêrô làm quan thầy khi rửa tội. Ngài học trung học tại trường của Dòng Tên ở Caen. Sau khi tốt nghiệp trung học, Lambert tiếp nối nghề nghiệp của cha và thi vào trường luật, trở thành luật sư năm 1646 và làm việc tại Nghị viện Paris, Tòa án Thuế vụ, Trung tâm Xã hội Rouen.

Tuy nhiên, chí hướng của ngài vẫn thiên về các sinh hoạt tôn giáo và công tác xã hội. Cuối cùng, ngài quyết định từ bỏ nghề luật sư để đi vào con đường tu tập, trở thành một giáo sĩ thừa sai cho vùng Đông Á. Ngài đi tu và thụ phong Linh mục ngày 27/12/1655. Ngày 29/7/1658, Đức Giáo Hoàng Alexander VII ban hành Đoản Sắc bổ nhiệm Tân Giám mục Lambert de la Motte và Francois Pallu làm Đại Diện Tông Tòa tại Việt Nam.
 
Giám mục Lambert được cử làm Đại diện Tông Tòa miền truyền giáo Đàng Trong, từ Sông Gianh trở vào miền nam và 5 tỉnh thuộc Trung quốc. Vậy là hai Giám mục Lambert de la Motte và Francois Pallu thành lập Hội Thừa sai Paris: Mission Étrangères de Paris từ ngày đó, năm 1658. Tuy nhiên, mãi đến ngày 11/6/1660, lễ tấn phong Giám mục cho Linh mục Lambert de la Motte mới được Tổng Giám mục Victor Le Bouthilier cử hành tại Nguyện Đường Dòng Đức Mẹ Đi Viếng, Paris.

Ngày 27/11/1660 Giám mục Lambert với hai Linh mục rời Marseille và ngày 22/8/1662 đến Juthia, Thái Lan, là trung tâm truyền giáo cho các giáo phận Đàng Trong và Đàng Ngoài, vì tình hình chính trị và bách hại tại Việt Nam. Tại đây, năm 1664, Giám mục Lambert triệu tập Công đồng địa phương, gọi là Công nghi Juthia, lo việc thành lập một chủng viện chung cho vùng Đông Nam Á và đặt nền tảng vững chắc cho công cuộc truyền giáo tại Đàng Ngoài, Đàng Trong. Ngày 17/1/1665 Đức cha Lambert làm Giám quản Tông toà giáo phận Đàng Ngoài. Ngày 19/1/1665 Đức cha Pallu lên đường đi Âu châu và đến Roma năm 1667. Đầu năm 1667, được vua Thái Lan ban đất, ngài xây dựng chủng viện Thánh Giuse.

Ngài là Ông tổ Hàng Giáo sĩ Việt Nam khi phong chức cho Linh mục Việt Nam đầu tiên là thầy Trang, 28 tuổi, tại Juthia ngày 3/3/1668. Ngài đã phong chức cho 15 Linh mục Việt Nam gồm 11 người Đàng Ngoài và 4 người Đàng Trong. Ngày 14/2/1670, Đức cha Lambert tổ chức Công nghị Phố Hiến, Hưng Yên nhấn mạnh việc đào tạo hàng Giáo sĩ bản xứ và lập Dòng Mến Thánh Giá. Ngày 19/2/1670 Giám mục Lambert nhận lời khấn của 2 nữ tu tiên khởi là Anê và Paula tại Phố Hiến, Đàng Ngoài là ngày chính thức khai sinh Dòng Mến Thánh Giá Việt Nam; và Đàng Trong tháng 12/1671 tại An Chỉ. Ngày 15/1/1672, Đức cha Lambert chủ tọa Công nghị Faifo, Hội An để vạch đường hướng cho công cuộc truyền giáo.

Giám mục Lambert qua đời ngày 15/6/1679 tại Juthia, Thái Lan và an táng tại nhà thờ Thánh Giuse. Tháng 9/2009, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã đệ trình hồ sơ lên Tòa Thánh xin phong chân phước  cho hai vị Giám mục Lambert de la Motte và Giám mục Francois Pallu vì những đóng góp to lớn của các ngài đối với Giáo hội Công giáo Việt Nam.

Lạy Chúa, Tôi Tớ Chúa Giám mục Lambert đã nói: “Tôi chỉ tha thiết một điều là chết đi cho trần gian và sống cho một mình Thiên Chúa”. Xin cho chúng con yêu mến Giáo Hội, yêu mến các vị mục tử vì đoàn chiên và yêu mến sự sống đời đời của chúng con, nên phải lo tìm kiếm Nước Trời. Amen.

Nguyễn Cả

 From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen