|
Việc phong thánh Chân Phước Gioan Phaolô II sắp xẩy ra Bùi Hữu Thư nguồn: Vietcatholic.net |
|||
Hồng Y Re cho rằng điều này sẽ được công bố trong năm 2013 hay 2014 ROME, ngày 11, tháng 1, 2013 (Zenit.org) – Bộ trưởng về hưu của Thánh Bộ Giám Mục nói Chân Phước Gioan Phaolô II có lẽ sẽ được phong thánh trong năm nay hay năm tới. Đức Hồng Y Giovanni Battista Re tiên đoán như vậy khi giới thiệu trong tuần Đức Hồng Y nói: “Nếu không được trong năm nay thì sẽ trong năm tới . Ngài giải thích là đã có thêm một phép lạ được gán cho sự cầu bầu của Đức Giáo Hoàng người Ba Lan, “chắc chắn là có một phép lạ có giá trị cho việc phong thánh cho ngài.” Các chuyên gia của Bộ Phong Thánh đang duyệt xét các phép lạ này. Đức Hồng Y nói: “Thời gian duyệt xét có thể rất ngắn ngủi,” thánh bộ phong thánh đang nghiên cứu ba hay bốn phép lạ “để đánh giá xem phép lạ nào vững vàng nhất.” Hồng Y Re giải thích: “Các vụ chữa lành đang được định giá bới một ủy ban gồm bẩy bác sĩ, là thành viên của một cơ quan y khoa chuyên về nội khoa, Giới chức Vatican đã về hưu cho hay các bác sĩ này được xếp hạng là “rất cứng rắn và tỉ mỉ”, họ sẽ không coi một vụ chữa lành là một phép lạ nếu có một bệnh tật tương đương có thể được trị liệu bình thường cũng có hiệu quả. Ngài nói: “Bẩy bác sĩ của uỷ ban này phải đồng ý đây là một trường hợp không thể giải thích được, về phương diện nhân loại và khoa học.” |
“Những xác Thánh không hư nát”,


của bà được mở ra dưới sự chứng kiến của mọi người trong đó có tôi. Di hài của
Thánh Bernadette trong trang phục yêu thích của bà không hề có mùi xú uế. Khuôn
mặt, bàn tay và cẳng tay lộ ra bên ngoài. Đầu của bà nghiêng sang một bên,
miệng hé mở có thể nhìn thấy hàm răng trắng. Hai tay đặt trên ngực, vẫn giữ
được lớp da hoàn hảo”. Gia đình của Thánh Bernadette đã làm lễ tắm rửa, thay
quần áo và quan tài cho bà. Di hài của bà được đặt vào một vị trí mới sâu trong
nhà mồ.
đồng nghĩa với việc mộ của bà được mở ra một lần nữa. Việc này bị gián đoạn đến
năm 1919 vì cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Điều kinh ngạc là ở lần khai
quật này, di hài của bà vẫn nguyên vẹn.
ba, mộ bà được mở ra. Di hài được đưa vào một quan tài bằng pha lê cho mọi
người chiêm ngưỡng và quàn tại nhà nguyện ở Nhà thờ Lourder cho đến tận ngày
nay vẫn còn, nếu có dịp xin mời các bạn đến thăm để được tận mắt chứng kiến.

Phước cho ngài, khi mở quan tài để kiểm tra thì phát hiện xác chết của ngài
không hề mảy may hư nát và thối rữa. Thời gian sau, ngài được tôn phong Chân
Phước (Beautification) .
pha lê bên dưới bàn thờ chính của Đền thờ Thánh Phêrô để dân chúng có thể kính
viếng và chiêm ngắm. Nét mặt ngài vẫn giữ nguyên sức sống và cơ thể không hề bị
tẩm ướp bằng bất cứ loại hóa chất nào. Hầm mộ cũ trước đây nơi đặt quan tài của
ngài bây giờ đã được thế chỗ bằng quan tài của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II.


học vấn. Mặc dù thế Ngài vấn được thụ phong Linh mục, vì lòng rất ngoan đạo
(1815).
vượt qua được nhiều cám giỗ, nếu hội đồng giáo xứ không yêu cầu, Ngài đã vào
dòng kín. Ngài mất vào ngày 4.8.1859 và được an táng tại thành Ars.
các Linh Mục.
một đảo ở Trung Quốc trong quan tài bằng gỗ. Khoảng 2 tháng rưỡi sau, người ta
khai quật mộ ngài để di chuyển, thấy thánh thể vẫn như lúc sống. Hiện nay di
hài 400 năm tuổi của ngài vẫn còn nguyên và được lưu giữ tại thành Goa (Ấn Độ).


nguyện, Đức Mẹ Maria đã tín nhiệm giao cho mệnh lệnh loan tin cho thế giới. Đó
là một huy hiệu với dòng chữ: “Lạy Mẹ Maria, vô nhiễm nguyên tội, xin cầu
xin và che chở chúng con“.



người con đã thị kiến thấy một vòng hào quang quanh mặt trời, trong tâm điểm
của mặt trời bà thấy được mọi chuyện quá khứ, vị lai của nhân
phong á thánh vào ngày 30.5.1920.


còn bốc mùi của hương hoa hồng như thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Thánh Martinô
de Porrés…nhưng không liệt kê ra ở đây vì chưa kiếm thấy tài liệu hình ảnh.
đường San Giovanni Rotondo (miền Nam nuớc Ý) cho dân chúng kính viếng.
hành khi xác của thánh Piô được đưa ra trưng bầy. Xác của Cha thánh Piô được
khai quật hôm 3/3/2008 cho thấy còn trong tình trạng “vừa phải” sau 40 năm chôn
cất. Từ ngày có đến nay một nhóm chuyên gia gồm bác sĩ và chuyên ngành hóa chất
đã làm việc tận tình đễ duy trì và tái thiết xác ngài hầu giữ xác lâu dài và
bảo tồn để cho dân chúng đến kính viếng.
một Thầy Dòng lạ lùng của thế kỷ XX:
đanh trên thánh giá, nghĩa là ngực, hai bàn tay và hai bàn chân bị đâm thủng
qua, và hằng ngày máu từ các vết thương đó chảy nhỉ ra làm ướt đẫm các khăn
băng và cả áo quần, khiến ngài vô cùng đau đớn;
vừa có mặt tại Milanô (miền Bắc Ý), vừa có mặt tại Rôma (miền Trung Ý) để cứu
vớt những người tự tử, và đồng thời cha lại ngồi giải tội ở Tu Viện của cha tại
miền Nam Ý.



Thánh Silvestrê I,
Thánh Silvestrê I,
Giáo Hoàng (270-335)
Ngày 31/12

Thánh Silvestrê sinh vào khoảng năm 270 tại La Mã.
Năm 314, sau khi vua Constantinô trở lại, Giáo Hội được tự do và chấm dứt cơn bách hại kéo dài suốt hai thế kỷ trong toàn đế quốc La Mã, linh mục Silvestrê được bầu lên ngôi Giáo Hoàng (314).
Ngài đảm trách cai quản Hội Thánh giữa thời thuận tiện, ngài đã nỗ lực hoạt động để tổ chức lại Giáo Hội cho có quy củ.Ngài sửa đổi luật lệ, đặt nền móng cho lâu đài phụng vụ Kitô Giáo bằng cách ban nhiều sắc lệnh và cách thức cử hành các nghi lễ. Ngoài ra, ngài còn khuyến khích việc xây cất nhiều thánh đường, trong đó có đại thánh đường Phêrô tại Rôma và thánh đường Chúa Cứu Thế tại Latran. Nhưng việc vĩ đại nhất dưới triều đại của ngài là đã triệu tập công đồng chung lần đầu tiên cho toàn thể Giáo Hội ở Nicée vào năm 326 để kết án bè rối Ariô và bệnh vực thiên tính của Chúa Giêsu.
Sau 22 năm chèo lái con thuyền Hội Thánh, ngài ngã bệnh và qua đời ngày 21/12/335.
Maria Thanh Mai gởi
Lễ Các Thánh Anh Hài
Lễ Các Thánh Anh Hài
28 Tháng Mười Hai
Hêrôđê “Ðại Ðế”, là vua xứ Giuđêa nhưng không được dân chúng mến chuộng vì ông làm việc cho đế quốc La Mã và ông rất dửng dưng đối với tôn giáo. Vì lý do đó ông luôn cảm thấy bất an và lo sợ bất cứ đe dọa nào đối với ngai vàng của ông. Ông là một chính trị gia giỏi và là một bạo chúa dám thi hành những việc tàn bạo. Ông giết chính vợ ông, anh của ông và hai người chồng của cô em, đó chỉ là sơ khởi.
Phúc Âm theo Thánh Mátthêu 2:1-18 kể cho chúng ta câu chuyện sau: Hêrôđê “thật bối rối” khi các nhà chiêm tinh đến từ đông phương hỏi về “vị vua mới sinh của người Do Thái,” mà họ đã thấy ngôi sao của người. Và các vị chiêm tinh được cho biết
trong Sách Thánh Do Thái có đề cập đến Bêlem, là nơi Ðấng Cứu Tinh sẽ chào đời.
Một cách xảo quyệt, Hêrôđê dặn họ là hãy báo cho ông biết sau khi tìm thấy vị
vua ấy để ông cũng “đến thần phục.” Các nhà chiêm tinh đã tìm thấy Hài Nhi Giêsu, họ dâng Ngài các lễ vật, và được thiên thần báo mộng về ý định thâm độc của Hêrôđê và khuyên họ hãy thay đổi lộ trình trên đường về. Sau đó Thánh Gia trốn sang Ai Cập.
Hêrôđê vô cùng tức giận và “ra lệnh tàn sát tất cả các con trai từ hai tuổi trở xuống ở Bêlem và vùng phụ cận.” Vì Bêlem là một thành phố nhỏ, số trẻ bị giết có lẽ khoảng 20 hay 25. Sự kinh hoàng của việc thảm sát và sự tuyệt vọng của các cha mẹ đã
khiến Thánh Mátthêu trích dẫn lời tiên tri Giêrêmia: “Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Raken khóc thương con mình…” (Mt 2:18). Bà Raken là vợ của ông Giacóp. Bà than khóc ở Rama là nơi người Do Thái bị tập trung lại sau khi bị người Assyria bắt làm tù binh.
Lời Bàn
Hai mươi trẻ em thì chỉ là số ít, so với sự diệt chủng và sự phá thai trong thời đại chúng ta. Nhưng dù đó chỉ là một người, chúng ta cũng phải nhớ đến tạo vật quý trọng nhất mà Thiên Chúa đã dựng trên mặt đất — đó là con người, được tiền định để sống đời đời và được chúc phúc nhờ sự chết và sự sống lại của Ðức Giêsu.
Lời Trích
“Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự sống ngay cả trước khi chúng con có thể hiểu biết” (Lời Nguyện Trên Lễ Vật, Lễ Các Thánh Anh Hài).
Maria Thanh Mai gởi
Thánh Gioan Tông Ðồ
Thánh Gioan Tông Ðồ
27 Tháng Mười Hai
Chính Thiên Chúa là người mời gọi, và nhân loại đáp lời. Trong Phúc Âm, lời mời gọi
ông Gioan và ông Giacôbê (James), người anh của ông, được bắt đầu rất đơn giản,
cũng như lời mời gọi ông Phêrô và Anrê: Ðức Giêsu gọi họ; và họ theo Ngài. Sự
đáp ứng mau mắn được miêu tả rõ ràng. Các ông Giacôbê và Gioan “đang ở
trên thuyền, cùng với người cha là ông Zêbêđê vá lưới. Ðức Kitô gọi họ, và ngay
lập tức họ bỏ thuyền và từ giã người cha mà theo Ngài” (Mátthêu 4:21b-22).
Ðức tin của ba ngư dân — Phêrô, Giacôbê và Gioan — đã được phần thưởng, đó là được làm bạn với Ðức Giêsu. Chỉ ba vị này được đặc ân là chứng kiến sự Biến Hình, sự
sống lại của con gái ông Giairút, và sự thống khổ trong vườn Giệtsimani của Ðức
Giêsu. Nhưng tình bằng hữu của ông Gioan còn đặc biệt hơn nữa. Truyền thống coi
ngài là tác giả cuốn Phúc Âm Thứ Tư, dù rằng hầu hết các học giả Kinh Thánh
thời nay không cho rằng vị thánh sử và tông đồ này là một.
Phúc Âm Thánh Gioan đề cập đến ngài như “người môn đệ được Ðức Giêsu yêu quý”
(x. Gioan 13:23; 19:26; 20:2), là người được ngồi cạnh Ðức Giêsu trong bữa Tiệc
Ly, và là người được Ðức Giêsu ban cho một vinh dự độc đáo khi đứng dưới chân
thánh giá, là được chăm sóc mẹ của Ngài. “Thưa bà, đây là con bà… Ðây là
mẹ con” (Gioan 19:26b, 27b).
Vì ý tưởng thâm thuý trong Phúc Âm của ngài, Thánh Gioan thường được coi như con đại bàng thần học, cất cánh bay cao trong một vùng mà các thánh sử khác không đề cập đến. Nhưng các cuốn Phúc Âm thật bộc trực ấy cũng tiết lộ một vài nét rất nhân
bản. Ðức Giêsu đặt biệt hiệu cho ông Gioan và Giacôbê là “con của sấm sét.” Thật khó để hiểu được ý nghĩa chính xác của biệt hiệu này, nhưng chúng ta có thể tìm thấy chút manh mối trong hai biến cố sau.
Biến cố thứ nhất, như được Thánh Mátthêu kể lại, bà mẹ của hai ông Giacôbê và Gioan xin cho hai con của bà được ngồi chỗ danh dự trong vương quốc của Ðức Giêsu — một người bên trái, một người bên phải. Khi Ðức Giêsu hỏi họ có uống được chén mà Ngài sẽ uống và chịu thanh tẩy trong sự đau khổ mà Ngài sẽ phải chịu không, cả
hai ông đều vô tư trả lời, “Thưa có!” Ðức Giêsu nói quả thật họ sẽ được chia sẻ chén của Ngài, nhưng việc ngồi bên tả hay bên hữu thì Ngài không có quyền. Ðó là chỗ của những người đã được Chúa Cha dành cho. Các tông đồ khác đã phẫn nộ trước tham vọng sai lầm của người anh em, và trong một dịp khác Ðức Giêsu đã dạy họ về bản chất thực sự của thẩm quyền: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người” (Mt 20:27-28).
Một dịp khác, những “người con của sấm sét” hỏi Ðức Giêsu rằng họ có thể
khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt những người Samaritan lạnh nhạt không, vì họ
không đón tiếp Ðức Giêsu đang trên đường đến Giêrusalem. Nhưng Ðức Giêsu đã
“quay lại và khiển trách họ” (x. Luca 9:51-55).
Vào ngày đầu tiên của biến cố Phục Sinh, bà Mađalêna “chạy đến ông Simon Phêrô và
người môn đệ mà Ðức Giêsu yêu dấu, và bà bảo họ, ‘Người ta đã đem Chúa ra khỏi
trong mộ; và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu?” (Gioan 20:2). Gioan
nhớ rằng, chính ngài và Phêrô cùng đi cạnh nhau, nhưng “người môn đệ kia
chạy nhanh hơn ông Phêrô nên đến mộ trước nhất” (Gioan 20:4b). Ông không
bước vào mộ, nhưng đợi ông Phêrô và để ông này vào trước. “Sau đó người
môn đệ kia mới bước vào, và ông đã thấy và đã tin” (Gioan 20:8).
Sau biến cố Sống Lại, ông Gioan đang ở với ông Phêrô thì phép lạ đầu tiên xảy ra — chữa một người bị tật từ bẩm sinh — và việc đó đã khiến hai ông bị cầm tù. Cảm
nghiệm kỳ diệu của biến cố Sống Lại có lẽ được diễn tả hay nhất trong sách Công
Vụ Tông Ðồ: “Nhận thấy sự dũng cảm của ông Phê-rô và ông Gio-an và biết
rằng hai ông là những người bình dân, không có học thức, nên họ rất ngạc nhiên,
và họ nhận ra rằng hai ông là những người theo Ðức Giêsu” (CVTÐ 4:13).
Thánh Sử Gioan đã viết cuốn Phúc Âm vĩ đại, cũng như các lá thư và Sách Khải Huyền. Cuốn Phúc Âm của ngài là một công trình độc đáo. Ngài nhìn thấy sự vinh hiển và thần thánh của Ðức Giêsu ngay trong các biến cố ở trần gian. Trong bữa Tiệc Ly, ngài diễn tả Ðức Giêsu với những lời phát biểu như thể Ðức Giêsu đã ở thiên đàng. Ðó là cuốn Phúc Âm về sự vinh hiển của Ðức Giêsu.
Lời Bàn
Quả thật, đó là một hành trình thật dài để thay đổi từ một người khao khát muốn có uy quyền và muốn sai lửa từ trời xuống thiêu đốt, cho đến một người đã viết những
dòng chữ sau: “Phương cách để chúng ta biết được tình yêu là Ngài đã hy
sinh mạng sống vì chúng ta; do đó, chúng ta cũng phải hy sinh mạng sống mình vì
anh em” (1 Gioan 3:16).
Lời Trích
Có câu chuyện người ta thường kể, là “các giáo dân” của Thánh Gioan quá chán
chường với bài giảng của ngài vì ngài luôn luôn nhấn mạnh rằng: “Hãy
yêu thương nhau.” Dù câu chuyện này có thật hay không, đó là nền tảng
của văn bút Thánh Gioan. Những gì ngài viết có thể được coi là tóm lược của
Phúc Âm: “Chúng ta đã biết và đã tin vào tình yêu mà Thiên Chúa dành
cho chúng ta. Thiên Chúa là tình yêu, và ai ở trong tình yêu thì ở trong Thiên
Chúa, và Thiên Chúa ở trong họ” (1 Gioan 4:16).

Maria Thanh Mai gởi
Thánh Stêphanô
tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa.’ Ðề nghị trên
được mọi người tán thành. Họ chọn ông Stêphanô, một người đầy lòng tin và đầy
Thánh Thần,…” (CVTÐ 6:1-5)
Thánh Phêrô Canisius
Thánh Phêrô Canisius
(1521- 1597)
21 Tháng Mười Hai
Cuộc đời đầy năng lực của Thánh Phêrô Canisius phải đánh đổ bất cứ ấn tượng nào cho rằng cuộc đời của các thánh thì nhàm chán. Thánh nhân đã sống 76 năm với một nhịp độ không thể nói gì khác hơn là phi thường, ngay cả trong thời đại thay đổi mau chóng của chúng ta. Là một người được Thiên Chúa ban cho nhiều tài năng, thánh nhân là gương mẫu tuyệt hảo của một người sống cho phúc âm đã phát triển tài năng vì Thiên Chúa.
Ngài là một trong những khuôn mặt quan trọng trong giai đoạn cải cách của Giáo Hội Công Giáo ở nước Ðức. Vai trò của ngài thật quan trọng đến nỗi ngài thường được gọi là “vị tông đồ thứ hai của nước Ðức” mà cuộc đời của ngài thường được sánh với cuộc đời của Thánh Boniface trước đây.
Mặc dù thánh nhân thường cho mình là lười biếng khi còn trẻ, nhưng sự biếng nhác đó không được lâu, vì khi 19 tuổi ngài đã lấy bằng cử nhân của một đại học ở Cologne. Sau đó không lâu, ngài gặp Cha Peter Faber, người môn đệ đầu tiên của Thánh Ignatius Loyola (Y Nhã), và cha đã ảnh hưởng ngài nhiều đến nỗi ngài đã gia nhập Dòng Tên khi vừa mới được thành lập.
Trong giai đoạn này ngài đã tập luyện được một thói quen mà sau này trở thành nếp sống của cuộc đời ngài — không ngừng học hỏi, suy niệm, cầu nguyện và sáng tác. Sau khi thụ phong linh mục năm 1546, ngài nổi tiếng qua công trình soạn thảo các văn bản của Thánh Cyril Alexandria và Thánh Leo Cả. Ngoài khuynh hướng suy tư về văn chương, thánh nhân còn hăng say trong việc tông đồ. Người ta thường thấy ngài đi thăm bệnh nhân và người bị tù đầy, ngay cả khi ngài được giao cho các trách nhiệm khác mà đối với nhiều người để chu toàn công việc ấy cũng đã hết thì giờ.
Năm 1547, thánh nhân được tham dự vài khoá họp của Công Ðồng Triđentinô, mà sau này các sắc lênh của công đồng ấy được giao cho ngài hiện thực hóa. Sau một thời gian được bài sai việc giảng dạy ở trường Messina của Dòng Tên, thánh nhân được giao cho sứ vụ truyền giáo ở Ðức — cho đến mãn đời. Ngài dạy tại một vài trường đại học và góp phần chính yếu trong việc thiết lập nhiều trường học và chủng viện. Ngài viết sách giáo lý giải thích đức tin Công Giáo cho những người bình dân để họ dễ hiểu — một công việc rất cần thiết trong thời ấy.
Nổi tiếng là vị rao giảng, thánh nhân thường lôi cuốn giáo dân đến chật cả nhà thờ qua tài hùng biện của ngài về Phúc Âm. Ngài còn có tài ngoại giao, và thường làm
người hòa giải giữa các bè phái tranh chấp. Trong các thư từ ngài để lại (tất
cả đến tám bộ) người ta thấy các lời lẽ khôn ngoan của ngài khi khuyên nhủ
người dân thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội.
Trong thời gian ấy, ngài cũng viết các lá thư bất thường chỉ trích các vị lãnh đạo
trong Giáo Hội — tuy nhiên luôn luôn với một tâm tình đầy yêu thương, và thông
cảm.
Năm 70 tuổi, thánh nhân bị liệt, nhưng ngài vẫn tiếp tục rao giảng và viết lách với
sự trợ giúp của một thư ký cho đến khi ngài từ trần vào sáu năm sau đó, ngày
21-12-1597.
Lời Bàn
Nỗ lực không mệt mỏi của Thánh Phêrô Canisius là một gương mẫu thích hợp cho những ai muôán góp phần canh tân Giáo Hội hay cho sự thăng tiến ý thức luân lý trong chính phủ hay trong thương trường. Ngài được coi là một trong các vị sáng lập ngành báo chí Công Giáo, và rất có thể là gương mẫu cho các ký giả hay thông
tín viên Công Giáo. Các người trong lãnh vực sư phạm có thể nhìn thấy ngài như
một đam mê muốn truyền lại chân lý cho thế hệ mai sau. Dù chúng ta có nhiều khả
năng để cho đi, như Thánh Phêrô Canisius đã từng làm, hoặc không có tài cán gì
để đóng góp, như bà goá trong Phúc Âm (x. Luca 21:1-4), điều quan trọng là cho
đi tất cả những gì chúng ta có. Chính trong phương cách ấy mà thánh nhân đã trở
nên gương mẫu cho mọi Kitô Hữu trong thời đại thay đổi nhanh chóng này mà chúng ta được kêu gọi đến trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian.
Lời Trích
Khi được hỏi là ngài có làm việc quá sức hay không, Thánh Phêrô Canisius trả lời,
“Nế u bạn có nhiều việc phải làm thì với sự trợ giúp của Thiên Chúa bạn sẽ
có thì giờ để thi hành tất cả những điều ấy.
Maria Thanh Mai gởi
Thánh Elizabeth ở Áo & Thánh Ðaminh ở Silos
Chân Phước Anthony Grassi
Chân Phước Anthony Grassi
(1592-1671)
18 Tháng Mười Hai
Anthony mồ côi cha khi lên 10 tuổi, nhưng ngài đã học được nơi người cha sự sùng kính Ðức Mẹ Loreto. Khi còn là học sinh trung học, ngài thường đến nhà thờ của các
cha Oratorian, và gia nhập dòng này khi mới 17 tuổi.
Từng nổi tiếng là một học sinh giỏi, nên không bao lâu ngài được mệnh danh là
“cuốn tự điển sống” trong cộng đồng tu sĩ, ngài có thể hiểu Kinh thánh và thần học cách mau chóng. Trong một thời gian, ngài bị dằn vặt bởi sự quá đắn đo cân nhắc, nhưng cho đến khi cử hành Thánh Lễ đầu tiên, sự bình thản đã chiếm ngự toàn thể con người ngài.
Vào năm 1621, khi 29 tuổi, Anthony bị sét đánh khi đang cầu nguyện trong nhà thờ ở Loreto. Ngài được đưa vào bệnh viện, và ai cũng nghĩ là ngài sẽ chết. Một vài
ngày sau, khi tỉnh dậy, ngài nhận ra rằng căn bệnh đau bao tử dai dẳng của ngài
đã biến mất. Quần áo cháy nám của ngài được tặng cho nhà thờ Loreto như một kỷ
niệm biến cố lớn trong đời.
Quan trọng hơn nữa, ngài cảm thấy cuộc đời mình lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa. Sau đó, hàng năm ngài đều hành hương đến Loreto để dâng lời cảm tạ.
Ngài cũng nổi tiếng là cha giải tội đơn sơ và thẳng thắn, lắng nghe người xưng tội,
và chỉ bảo họ sống phù hợp với lương tâm. Năm 1635, ngài được chọn làm bề trên
Tu Viện Fermo, và được tái đắc cử nhiều nhiệm kỳ cho đến khi ngài qua đời. Ngài
là vị bề trên trầm lặng và hiền từ không biết thế nào là khắt khe. Nhưng quy luật của dòng luôn được ngài duy trì và buộc mọi tu sĩ phải tôn trọng.
Ngài từ chối các chức vụ dân sự ở ngoài xã hội, và dùng thời giờ để đi thăm người
đau yếu, người hấp hối hay bất cứ ai cần đến sự giúp đỡ của ngài. Khi về già, ngài được Chúa ban cho ơn nhận biết tương lai, là một ơn sủng ngài dùng để cảnh giác hay khuyên bảo người khác. Nhưng tuổi tác cũng đem lại nhiều thử thách. Ngài phải chấp nhận sự mất mát các khả năng bên ngoài. Trước hết là khả năng rao giảng, là điều đương nhiên xảy đến khi ngài bị rụng răng. Sau đó, ngài không còn nghe xưng tội được nữa. Sau cùng, sau một lần bị ngã, ngài phải nằm liệt giường. Chính đức tổng giám mục phải đến ban Mình Thánh cho ngài hằng ngày. Một trong những công việc sau cùng của ngài là hoà giải được sự tranh cãi kịch liệt giữa hai thầy dòng.
nguồn: Maria Thanh Mai gởi
Thánh Lucia
thánh quan thầy của mình. Các sách cổ viết dài dòng nhưng rất ít chi tiết liên
hệ đến truyền thuyết. Các sách mới đây cũng dài dòng dẫn chứng một sự kiện là
những truyền thuyết này không có trong lịch sử. Chỉ có một chi tiết về Thánh
Lucia còn sót lại đến ngày nay, đó là người cầu hôn với thánh nữ vì bị từ chối
nên đã tố cáo ngài là Kitô Hữu, do đó ngài bị xử tử ở Syracuse thuộc Sicily vào
năm 304. Nhưng cũng đúng là tên của thánh nữ đã được nhắc đến trong lời cầu
nguyện Rước Lễ Lần Ðầu, có những địa danh và một bài dân ca mang tên thánh nữ,
và qua bao thế kỷ, hàng chục ngàn thiếu nữ đã hãnh diện chọn ngài làm quan
thầy.
nay, nhiều thói tục của xã hội đã ngăn cản chúng ta sống xứng đáng là người
theo Ðức Kitô.
người đi rao giảng khắp nơi, sống trong một dân tộc nô lệ và đã bị tiêu diệt
cách đó 200 năm. Người từng là một người thợ mộc, từng bị chính dân của Người
kết án và chết trên thập giá. Với tất cả tâm hồn, Lucia tin tưởng rằng chính
Người đã sống lại từ cõi chết. Thiên Chúa đã minh chứng tất cả những gì Người
nói và hành động. Ðể làm chứng cho đức tin ấy, thánh nữ đã thề giữ mình đồng
trinh.
trắng trước khi thành hôn là một lý tưởng cổ hủ của người Rôma, ít người còn
giữ nhưng không ai kết án lý tưởng ấy. Tuy nhiên, ngay cả cô ta không muốn kết
hôn thì điều đó thật quá đáng. Chắc cô ta phải có điều gì xấu xa cần giấu diếm,
như miệng lưỡi thế gian thường đồn đãi.
đạo. Ngài muốn trung thành với tấm gương của các đấng ấy, cũng như theo gương
của người thợ mộc, là Người mà ngài tin là Con Thiên Chúa.
thực sự là một nữ anh thư, hơn hẳn mọi người, là một hứng khởi vô tận cho bạn
và cho mọi Kitô Hữu. Sự can đảm sống luân lý của người thiếu nữ Sicilian tử đạo
ấy đã tỏa sáng như để soi dẫn giới trẻ ngày nay cũng như giới trẻ trong thời
đại ấy.
Chân Phước Honoratus Kosminski
Chân Phước Honoratus Kosminski
(1829 – 1916)
10 Tháng Mười Hai
Ngài sinh ở Biala Podlaska (Ba Lan), và học về kiến trúc tại trường Nghệ Thuật ở Warsaw. Khi Wenceslau lên 16 tuổi thì mồ côi cha. Vì bị tình nghi là có tham gia trong nhóm phản loạn, ngài bị bắt và bị cầm tù từ tháng Tư 1846 đến tháng Ba năm sau. Năm 1848, ngài gia nhập dòng Phanxicô và lấy tên Honoratus Kosminski. Năm 1855 ngài giúp Chân Phước Mary Angela Truszkowska thành lập dòng Nữ Tu Felix.
Năm 1860, Cha Honoratus làm giám đốc một tu viện ở Warsaw. Ngài dành mọi nỗ lực trong việc rao giảng, hướng dẫn tinh thần các đệ tử sinh và giải tội. Ngoài ra ngài còn làm việc không biết mệt cho dòng Ba Phanxicô.
Cuộc cách mạng năm 1864, nhằm lật đổ Nga hoàng Alexander III, đã bất thành đưa đến việc đàn áp các dòng tu ở Ba Lan. Các tu sĩ Capuchin bị đẩy ra khỏi Warsaw và buộc phải sống ở Zakroczym, là nơi Cha Honoratus tiếp tục sứ vụ của ngài và thành lập 16 tu hội nam cũng như nữ, mà các thành viên không phải mặc áo tu sĩ cũng như không phải sống trong khuôn viên của tu hội. Họ sinh hoạt giống như các tổ chức dòng ba bây giờ. Cho đến nay, vẫn còn mười bảy tu hội ấy hoạt động.
Các văn bản của Cha Honoratus thì vô số kể: 42 tập bài giảng, 21 tập thư tín và 52 ấn bản thần học về sự khổ hạnh, sự sùng kính Ðức Maria, về lịch sử, về mục vụ — chưa kể các thư từ ngài viết cho các tu hội mà ngài sáng lập.
Vào năm 1906, một vài giám mục tìm cách đưa các tu hội ấy dưới thẩm quyền của họ; Cha Honoratus chống lại quyết định đó để bảo vệ sự độc lập của các tu hội, và ngài bị cách chức giám đốc vào năm 1908. Sau đó, ngài khuyên các thành viên của các tu hội hãy vâng phục quyết định của Giáo Hội dù tương lai có ra sao.
Một người đương thời với ngài cho biết, Cha Honoratus “luôn luôn bước đi trong con đường của Thiên Chúa.” Vào năm 1895, ngài được bổ nhiệm làm Tổng Ðại Diện cho các tu sĩ Capuchin ở Ba Lan.
Ngài được phong chân phước năm 1988.
Lời Bàn
Chân Phước Honoratus đã làm việc hăng say để phục vụ Giáo Hội, một phần qua việc thiết lập các tu hội nhằm đáp ứng với hoàn cảnh đặc biệt của Ba Lan thời bấy giờ. Ngài đã có thể rút lui một cách cay đắng và oán hờn khi đường hướng các tu hội ấy bị tước đoạt khỏi tầm tay; nhưng ngài đã coi đó là những “niềm vui tuyệt đối.”
Ngài khuyên các thành viên hãy sẵn sàng và vui vẻ vâng phục, đem khả năng của
mình để phục vụ Tin Mừng của Ðức Giêsu Kitô.
Lời Trích
Khi Giáo Hội lấy đi quyền điều khiển các tu hội của ngài và thay đổi đường hướng các tu hội ấy, Chân Phước Honoratus viết: “Ðấng Ðại Diện Ðức Kitô đã cho chúng ta biết thánh ý của Thiên Chúa, và tôi lãnh nhận mệnh lệnh này với đức tin& Anh chị
em thân mến, hãy nhớ rằng đây là cơ hội để anh chị em chứng tỏ sự tuân phục một
cách quả cảm đối với Giáo Hội.”
Maria Thanh Mai gởi
Thánh Gioan Đamas, Tiến sĩ Hội Thánh
Thánh Gioan Đamas, Tiến sĩ Hội Thánh
Ngày 4/12

Thánh Gioan Đamas sinh tại Đamas vào khoảng năm 675. Cha ngài giữ một chức vị quan trọng trong triều đình và chính ngài lúc đầu cũng theo đuổi những vinh quang trần thế trước khi theo tiếng gọi trời cao (710). Ngài bỏ mọi sự, lên đường tìm một cuộc đời trầm lặng trong tu viện thánh Sabas tại sa mạc Giuđa và ngài đã sống ở đó cho đến mãn đời. Là thầy dòng, rồi linh mục, ngài đã chuyên tâm nghiên cứu thần học và giảng thuyết. Những suy tư của ngài đã tạo được một ảnh hưởng lớn tại Tây Phương cũng như Ðông Phương. Nhưng tác phẩm danh tiếng nhất của ngài là ba tập Minh Giáo (726-730) bênh vực việc tôn kính ảnh tượng, chống lại những ngăn cấm của hoàng đế Léon Isaurien và Constantin V. Ngoài ra, chúng ta còn lưu giữ được những bài giảng của ngài về Ðức Mẹ và ngài xứng đáng với danh hiệu “Tiến sĩ thần học về Ðức Maria”. Ngài chủ trương: Là Mẹ Thiên Chúa hằng sống, Ðức Maria cũng phải
được đưa về trời… Hơn nữa, ngài còn là một thi sĩ, và những sáng tác của ngài thường được dùng trong phụng vụ Ðông Phương. Tư tưởng của ngài là những chất liệu giúp chúng ta suy nghĩ về mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa yêu thương loài người.
Nguồn: Vietnamese Missionaries in Asia
Maria Thanh Mai gởi

