THÁNH PHAOLÔ & EPHÊSÔ (EPHESUS)

THÁNH PHAOLÔ & EPHÊSÔ (EPHESUS)

THÁNH PHAOLÔ & EPHÊSÔ (EPHESUS)

Hien Quang

Mang danh nghĩa là người có…đạo, và đã nhiều chục năm đi lễ – từng nghe thư Thánh Phaolô gởi tín hữu thành Corintô, Ephêsô, Roma v.v… nhưng chỉ khi đến Ephesô trong chuyến du thuyền theo “Dấu Chân Thánh Phaolô” ở duyên hải Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ gần đây, người viết mới hình dung được một phần nào công cuộc truyền giáo của Thánh Nhân cách nay 2000 năm!

Ephesus nằm trên trục đường truyền giáo từ Jerusalem sang Châu Âu


Ephêsô
Êphêsô (Ephesus) nằm sát thành phố Selcuk và cách hải cảng Kusadasi của Thổ Nhĩ Kỳ 45 phút lái xe, là một một thành phố cổ hình thành từ 1100 năm trước khi Chúa Giêsu ra đời, bị đế quốc Roma cai trị từ năm 190 BC – phồn thịnh sung túc trong khoảng thời gian 1-4 AD – (ngang hàng với Roma thời bấy giờ) và là một trong các điểm đến trong 12 năm truyền giáo của Thánh Phaolô.  Ephêsô ngày xưa từng có đến 250 ngàn cư dân – ngày nay là một khu bảo tàng ngoài trời toàn các phế tích đổ nát hoang tàn.  Nếu không có các đoàn xe buýt  lui tới di chuyển khách du lịch đa số từ Châu Âu và Châu Mỹ đến xem các hàng cột trơ trụi và các đống gạch đổ nát do thiên tai và thời gian tàn phá, khu vực này sẽ trở nên hoang vắng.

Những điểm chánh ở thành phố Ephêsô

Con người Thánh Phaolô
Thánh nhân là người Do Thái thuộc chi tộc Benjamin.  Khi chịu phép cắt bì Ngài được đặt tên là Saolô.  Theo một số học giả, vào năm 171 BC, để phát triển thương mại tại Tarsus (ngày nay thuộc về Thổ Nhĩ Kỳ), Roma hứa cho người Do Thái nhập tịch nếu di dân đến nơi này.  Đó là lý do tại sao Thánh Phaolo có quốc tịch Roma (Cv 22:26–28)­­.
Thánh nhân là người phái Pharisêu, nói rành các ngôn ngữ, Aramic, Hêbrơ, Hy Lạp và biết cả tiếng Latin – có nghề làm lều do cha truyền dạy.  Thuở thiếu thời đã được gởi đến Jerusalem học lề luật Do Thái. Có thể nói Thánh nhân là người trí thức rất nhiệt thành trong việc giữ gìn tập tục cha ông (Gl 1:14).

Hình Thánh Phaolô do chuyên gia của LKA NRW (Đức Quốc) tạo dựng


Bối cảnh thành Êphêsô thời Thánh Phaolô
Là một trung tâm tri thức, tôn giáo và thương mại, phồn thịnh và giàu có, Êphêsô có nhiều thành phần dân chúng cũng như nhiều hạng tư tế thuộc các tôn giáo khác nhau, cộng với các pháp sư, thầy cúng, lang băm v.v…Niềm kiêu hảnh của Êphêsô là Đền thờ Artemis vốn là 1 trong 7 kỳ quan của thế giới cổ đại. Ngày nay đền thờ này chỉ còn lại duy nhất một cây cột!

Những gì còn lại của đền thờ Artemis và tượng thần Artemis


Giàu có, quyến rủ và nhiều tà giáo – Êphêsô là nơi có nhiều cơ hội cũng như thách đố cho thánh Phaolô.


Cơ hội
Trong chuyến truyền giáo lần thứ ba, khoảng năm 53 đến năm 57, Thánh Phaolô đã ở tại Ephêsô ít là 2 năm 3 tháng. Chuyến đi này được kể rỏ trong Tông Đồ Công Vụ chương 18 câu 23 đến chương 21 câu 26.  Riêng đoạn 19 nói về những gì xảy ra tại Ephêsô.


Ông Phao-lô vào hội đường, và trong vòng ba tháng, ông mạnh dạn rao giảng, thảo luận về Nước Thiên Chúa và cố gắng thuyết phục họ. Nhưng có một số người cứng lòng, không chịu tin, lại còn nói xấu Đạo trước mặt cộng đoàn, nên ông tuyệt giao với họ, tách các môn đệ ra ; ngày ngày ông thảo luận trong trường học của ông Ty-ran-nô. Cứ như thế trong vòng hai năm, khiến mọi người ở A-xi-a, Do-thái cũng như Hy-lạp, đều được nghe lời Chúa. (Cv 19, 8-10)


Giờ sinh hoạt chính ở Ephêsô là buổi sáng, lúc nhiệt độ ít nóng bức.  Sau 11 giờ là thời gian nhàn rỗi.. Có thể dung để giải trí, thể thao hay văn nghệ v.v… Có vẽ như thánh Phaolô được cho mượn, một phòng lớp để sử dụng từ sau 11 giờ trưa đến chiều khoảng 4 giờ chiều.  Hãy tưởng tượng dạy giáo lý 5 tiếng mỗi ngày và trong vòng 2 năm – Như thế không ngạc nhiên khi mọi người ở A-xi-a, Do-thái cũng như Hy-lạp, đều được nghe lời Chúa. Thời nay chắc hiếm có ai dạy giáo lý, hay nói về Đức Giêsu 5 tiếng mỗi ngày!


Thiên Chúa dùng tay ông Phao-lô mà làm những phép lạ phi thường, đến nỗi người ta lấy cả khăn cả áo đã chạm đến da thịt ông mà đặt trên người bệnh, và bệnh tật biến đi, tà thần cũng phải xuất. (Cv 19, 11-12)


Như thế thiên hạ đi theo thánh nhân là phải rồi – vì có ai làm được bệnh tật biến đi, tà thần cũng phải xuất. Đến nỗi có những thày pháp thày bùa thấy thế nên làm theo kiểu hàng nhái “cáo mượn oai hùm” cũng nhân danh thần Giêsu để trừ quỷ. Nhưng các con quỷ này – rất bực tức và bẽ mặt sau khi bị thánh Phaolô qua uy quyền của Đức Giêsu bắt xuất ra khỏi các người bị ám – rất … tiểu nhân, lợi dụng cơ hội các thầy bùa tay non hay múa máy, bèn phản pháo bằng cách chất vấn lại: “Cho tụi tao xem thẻ chứng nhận chúng bây là ai – Giêsu và Phaolô chúng tao biết rồi, còn đồ giả danh như tụi bây thì hãy xem đây…”  Vừa dứt lời các tà thần hô biến xông vào lũ thày bùa ăn theo đánh đấm tơi bời hoa lá đến nỗi áo sống rách toang phải bỏ nhà mà chạy mình mẩy trần truồng thương tích tùm lum tà la!


Họ nói : “Nhân danh Đức Giê-su mà ông Phao-lô rao giảng, ta truyền lệnh cho các ngươi !” Ông Xi-kêu-a nọ, thượng tế Do-thái, có bảy con trai thường làm như vậy. Nhưng tà thần đáp : “Đức Giê-su, tao biết ; ông Phao-lô, tao cũng tường ; còn bay, bay là ai ?” Rồi người bị tà thần ám xông vào họ, đè cả bọn xuống đánh túi bụi, khiến họ phải bỏ nhà ấy mà chạy trốn, trần truồng và đầy thương tích. Mọi người ở Ê-phê-xô, Do-thái cũng như Hy-lạp, đều biết chuyện ấy ; ai cũng sợ hãi, và thiên hạ tán dương danh Chúa Giê-su. (Cv 19, 13-17)


Thử tưởng tượng thành phố Ephêsô thời đó khoảng 250 ngàn dân cư đều biết chuyện này – cộng với dân chúng ở Do Thái và Hy Lạp … Có thể nói được là thánh Phaolô đã rất nổi tiếng ở Ephêsô và số người từ bỏ tà thần để tin vào Đức Giêsu rất nhiều!  Còn các tay pháp sư sau khi lành lặn thương tích đã tuyên bố giải nghệ, đốt toàn bộ cách sách cẩm nang trừ quỷ và có lẽ từ đó tin vào Đức Giêsu – là Đấng các quỷ thần phải run sợ!


Khá đông người làm nghề phù thuỷ đem gom sách vở mà đốt trước mặt mọi người ; tổng cộng số sách ấy trị giá tới năm mươi ngàn đồng bạc. (Cv 19, 19)


Thách Đố
Tuy nhiên lớn thuyền lớn sóng.
Khi số lượng bỏ tà thần tin theo lời thánh Phaolô giảng dạy ngày càng nhiều – lập tức ảnh hưởng đến – không phải các tôn giáo khác – nhưng đến nồi cơm của các tay thợ bạc! Như đã nói ở trên – Ephêsô hảnh diện vì đền thờ Artemis. Khách thập phương đến đây khấn cầu và mua các ảnh tượng có hình đền thờ và thần Artemis.  Nhưng từ khi thánh Phaolô giảng về Đức Giêsu, tại trung tâm thương mại nhu cầu mua hình tượng sụt giảm nhiều khiến cho thu nhập của các tay thợ bạc tuột dốc như lúc thị trường chứng khoán lao đao!  Trong số đó cay cú nhất là Demitrius!  Ông này tụ tập nhiều người trong đó có các  đồng nghiệp và nhân công thợ bạc.  Khuyến cáo họ không phải vì nồi cơm đang bể nhưng dưới chiêu bài tôn giáo rằng nữ thần Artemis đang bị hạ bệ và rồi đền thờ sẽ vắng như chùa bà Đanh – không ai cúng bái và thần sẽ hết linh thiêng.

Đền thần Artemis


Vào thời kỳ ấy, xảy ra một vụ rối loạn khá trầm trọng liên quan đến Đạo. Số là có một người thợ bạc tên là Đê-mết-ri-ô, chuyên làm mô hình đền nữ thần Ác-tê-mi bằng bạc, và nhờ đó đem lại cho các người thợ một nguồn lợi không nhỏ. Ông ta tập hợp họ và những người làm nghề tương tự, và nói : “Thưa các bạn, các bạn thừa biết là nhờ việc làm ăn này mà chúng ta phát tài. Thế mà, như các bạn thấy và nghe biết : không những ở Ê-phê-xô này, mà gần như trong khắp cả A-xi-a, tên Phao-lô ấy đã thuyết phục và làm cho một đám đông đáng kể thay lòng đổi dạ, khi hắn nói rằng thần linh do tay người làm ra không phải là thần. Như vậy, có nguy cơ là không những ngành nghề của chúng ta bị chê bai, mà cả đền thờ đại nữ thần Ác-tê-mi cũng bị người ta coi chẳng ra gì, và rốt cuộc vị nữ thần mà toàn A-xi-a và cả thiên hạ tôn thờ cũng chẳng còn gì là vĩ đại nữa.” (Cv 19, 23-27)


Kết quả là đám đông kéo đến hí trường, có nhiều người không biết tại sao mình đến đó.  Và toàn hí trường 25 ngàn chổ vang dội tiếng hò hét: “Vĩ đại thay thần Artemis của người Ephêsô – Vĩ đại thay thần Artemis của người Ephêsô…” liên tục trong 2 tiếng đồng hồ. Sau đó vì sợ bị kết án gây bạo loạn trong thành phố, và lúc đó sự hung hãn cũng giảm bớt phần nào, đám đông được giải tán êm thắm! Trong vụ này Thánh Phaolô bình an vô sự vì nghe theo lời khuyên không đến hý trường.

Hý trường nơi đám đông hò hét phản đối Thánh Phaolô suốt 2 tiếng


Cả thành đầy hỗn loạn, người ta ùn ùn kéo đến hí trường, lôi theo ông Gai-ô và ông A-rít-ta-khô là những người Ma-kê-đô-ni-a, bạn đồng hành của ông Phao-lô. Ông Phao-lô muốn ra trước đại hội toàn dân, nhưng các môn đệ không cho. Có mấy vị chức sắc tỉnh A-xi-a, là bạn của ông Phao-lô, cũng sai người đến khuyên ông đừng liều mình đến hí trường. Dân chúng hò la, kẻ thế này, người thế nọ, đại hội trở nên hỗn loạn và phần đông không biết mình họp nhau để làm gì .(Cv 19, 29-32)

Sau vụ lộn xộn đó thánh Phaolô rời Ephêsô qua Hy Lạp tiếp tục rao giảng về Đức Kytô

Ngày nay – tại Ephêsô người ta có thể đến đi dọc theo con đường chính Curetes (hình dưới) sau khi qua khu trung tâm hành chính (State Agora) từ cổng Magnesian.

 

Dọc theo hai bên đường là di tích các đền thờ, tượng đài và các kiến trúc trang trí cho thành phố cổ xưa. Cuối đường Curetes là thư viện Celsus có 2 tầng, được coi là trung tâm thành phố.

Có lẽ với quan niệm thư viện là nơi lưu trữ kiến thức và sự khôn ngoan của nhân loại nên kiến trúc này được đặt ở trung tâm. Một điều khá thú vị là đối diện với thư viện là khu…nhà thổ. Tại sao biết được: tượng thần Priapus được tìm thấy trong khu vực được ngăn chia thành nhiều phòng nhỏ này!

Trong khu nhà thổ nhìn ra thư viện

Gần đó khoa khảo cổ còn tìm thấy khu vệ sinh công cộng

Kế bên thư viện Celsus là cổng vào khu trung tâm thương mại, một khu vực vuông vức mỗi cạnh 110 m.  Hãy hình dung tại đây mỗi sáng tay thợ bạc Demitrius rao bán các hình tượng thần và đền thờ Artemis cho khách thập phương đến cúng bái vị thần này – giống như các cửa hàng lưu niệm hay các người bán dạo chung quanh các khu du lịch.  Và cũng tại đây thánh Phaolô có thể đã có một chổ buôn bán hay chế tạo lều bạt để mưu sinh (Thánh Phaolô có nghề làm lều).

Hý trường Ephesô phía sau trung tâm thương mại (commercial agora)

Một địa điểm khác có liên quan trực tiếp đến Thánh Phaolô: khu hý trường. Đây là nơi theo truyền thống được tin là Thánh Phaolô đã giảng cho dân chúng là không được thờ phượng tà thần. Và vụ nổi loạn xách động do các tay thợ bạc vì kinh tế bị ảnh hưởng. Việc này có đề cập trong sách Tông Đồ Công Vụ như đã nói trên.

Có 2 địa điểm được đề cập trong sách TĐCV nhưng hiện nay khoa khảo cổ chưa tìm ra: Hội đường Do Thái và trường Tyrannus! Đây là nơi Thánh Phaolô đã rao giảng về Đức Giêsu. Đầu tiên là ở Hội Đường Do Thái 3 tháng nhưng sau đó tách ra và sử dụng trường học Tyrannus trong 2 năm.

Có thể suy ra trong 2 năm 3 tháng ở Ephêsô, Thánh Phaolô đã tiếp xúc với rất nhiều người và đã thiết lập một Hội Đồng Giáo Xứ để quản nhiệm cộng đoàn.

Trong chuyến trở về từ Hy Lạp, thay vì ghé Ephêsô, Ngài đã ghé vào Miletus nằm về hướng Nam cách Ephêsô 80 km (đường xe hiện nay) và cho người mời các “quới chức” từ Ephêsô tới để nói lời giả biệt rất thống thiết (Cv 20, 17-38).

Chương trình tour có sẳn diễn viên đóng vai Thánh Phaolô nói tiếng Anh

Hý trường Miletus nơi Thánh Phaolô giả biệt các trưởng lão Ephêsô

Đường vào hý trường phế tích Miletus

Video Thánh Phaolô giả biệt các trưởng lão Ephêsô (4′ 53″)

httpv://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=A6AFWMXmsWU

Từ Miletus, Thánh Phaolô trở về Giêrusalem sau khi ghé qua Tyrô và Caesarea. Tại Giêrusalem, để tránh âm mưu ám sát của các kỳ mục Do Thái, chính quyền Roma giải Thánh Phaolô về Caesarea. Từ đó Ngài kháng cáo lên Hoàng Đế César và bị giải về Roma.

Từ việc ngã quỵ lần thứ nhất trên đường đi Damascus (Cv 9:3), tại Roma Thánh Nhân gục ngã lần thứ hai để từ đó Tin Mừng Chúa Ky-tô được tiếp tục rao giảng đến ngày nay.

Hien Quang


Tham khảo

THIÊN ĐẠO CHÍ CÔNG

THIÊN ĐẠO CHÍ CÔNG

Lm. Mai Đức Vinh

6/18/2013   nguồn: Vietcatholic.net

Trong bài giảng trên núi, cũng gọi là Tám Mối Phúc Thật hay Hiến Chương Nước Trời, Chúa Giêsu long trọng tuyên bố với những người vây quanh Ngài rằng: ‘Phúc cho anh chị em là những kẻ bị người ta nói xấu, vu khống và bách hại vì danh Ta. Anh chị em hãy vui mừng vì phần thưởng dành cho anh chị em ở trên trời thật lớn lao’ (Mt 5,11-12). Đọc lịch sử truyền giáo tại Việt Nam, cách riêng, đời sống và cuộc tử đạo của các tiền nhân, chứng nhân Tin Mừng, trên Quê Hương chúng ta vào thời điểm 1583-1886, chúng ta thấy lời chúc phúc của Chúa trên đây đã ứng nghiệm thật rõ nét: các ngài bị hiểu lầm và vu oan đủ điều, bị hành hạ và giết chết đủ dạng thức vì danh Chúa. Chúa rất trân trọng lòng hy sinh chịu oan ức và đau khổ, cũng như cái chết đắt giá của các Thánh Tử Đạo… Và Chúa không để các ngài bị thua thiệt, Chúa đã ân thưởng các ngài nhãn tiền ngay tại thế qua những dấu lạ thật diệu huyền.

Từ điều suy nghĩ trên đây, tôi lần đọc lại những lời dạy của tổ tiên được trao truyền lại cho người Việt Nam qua những câu ca dao tục ngữ, những truyện cổ tích, và những lời hay ý đẹp của cổ nhân, tôi sung sướng nhận ra những tia sáng tương hợp. Quả vậy, tuy không mang chất liệu siêu nhiên, nhiều câu ca dao tục ngữ, nhiều câu truyện cổ tích và nhiều lời hay ý đẹp của cổ nhân là những dấu chứng hùng hồn về phong thái của các Đấng Tử Đạo: Vì Chúa, vì Đức Tin Công Giáo, nhưng cũng vì những xác tín tôn giáo và luân lý cổ truyền, vì những đức tính bao gồm trong tam cương ‘Thiên Địa, Quân Thần, Phụ Mẫu’ và ngũ thường ‘Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín’ mà các thánh tiền nhân đã bình thản chấp nhận và can tràng chịu đựng mọi vu khống, mọi hành hạ, mọi án tử… đồng thời hân hoan được Trời thương nâng đỡ, ban sức mạnh và cho nhiều dấu lạ làm vinh danh Thiên Chúa và dân tộc… Tóm lại, các Thánh Tử Đạo không chỉ làm chứng về tình yêu dâng lên cho Thiên Chúa, nhưng còn biểu dương các tinh túy tôn giáo, luân lý và văn hóa của dân tộc.

Từ những gợi ý trên đây, tôi sẽ trình bày năm điểm trong bài viết mang tên là ‘Thiên Đạo chí công’ nghĩa là ‘Đạo Trời thật công bằng’: 1) Những lời dạy của tổ tiên. 2) Những hiểu lầm đáng tiếc 3) Những vu oan ác nghiệt. 4) Những hành nhục và tử nhục. 5) Những dấu lạ ân thưởng.

I. NHỮNG LỜI DẠY CỦA TỔ TIÊN

1. Trong ca dao tục ngữ

• Ai cũng biết: ‘Trời không đóng cửa đuổi ai’, ‘Trời nào có phụ ai đâu’, ‘Trời sinh Trời chẳng phụ nào’, ‘Khi nên Trời giúp công cho’. ‘Ở hiền gặp lành, những người nhân đức trời dành phúc cho’. ‘Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong’. ‘Thiên đạo hảo hoàn’.

• Bởi vì ‘Thiên đạo chí công’, ‘Thiên bất dung gian’, ‘Lưới trời lồng lộng thưa mà khó lọt’. ‘Cứ trong nghĩa lý luân thường, làm người phải giữ kỷ cương mới mầu; Đừng cậy khoẻ chớ cậy giàu, Trời kia còn ở trên đầu còn kinh’. ‘Đạo trời báo phục chẳng lâu, hễ là thiện ác đáo đầu chẳng sai’.

• Cho nên khi gặp gian nan, không thất vọng, không thù oán, nhưng xác tín ngửa mặt lên mà ‘van trời’, ‘vái trời’, ‘có trời biết’, ‘xin trời xét’, ‘xin trời phù hộ’, ‘mong trời biết cho’, ‘vì trời đã định’, ‘xin theo ý trời’… ‘Cóc kêu ba tiếng thấu trời, huống lọ lời cầu của người hiếu trung’…

2. Trong những câu chuyện cổ:

• Sự tích dưa hấu: Anh Mai An Tiêm, vì tin vào thuyết luân hồi, nên tuyên bố rằng ‘mọi vật trong nhà đều là tiền thân của tôi cả’. Nghe vậy, Hùng Vương và các cận thần phản đối cho là vô ơn với Trời và với Vua, nên bắt đi đầy cả gia đình. Tại đảo đi đày, thấy vợ buồn bã, thất vọng vì bị vu oan, nên lâm kiếp đầy ải, Mai An Tiêm đã nói an ủi: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ. Trời luôn có mắt, cứ phấn chấn lên, đừng sợ’… Rồi khi trồng được dưa hấu thơm ngon, Mai An Tiêm ôm lấy vợ mà nói: “Trời nuôi sống và thưởng công chúng ta thật” (1).

• Truyện tấm cám: Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm ở với dì ghẻ là mẹ của Cám. Tấm bị Cám và dì ghẻ lường gạt và đày đọa đủ điều… Nhưng Tấm luôn được Trời phù hộ… Cấu trúc của câu truyện đầy nét thần thoại, tuy nhiên làm nổi bật ý nghĩa: Người đơn thành bao giờ cũng được Trời giúp đỡ, chở che và cho mọi may mắn. Đúng là ‘ở hiền gặp lành’ (2).

• Truyện Quán Tử. Quán Tử là chàng trai nghèo, sống độc thân… nhưng rất hiếu thảo với cha mẹ và tổ tiên, lại nhân hậu đối với mọi người, kể cả loài vật… Nhờ đó mà luôn được đền bù, tránh được mọi rủi ro và được ân thưởng bội hậu. Quả là ‘những người nhân đức, Trời dành phúc cho’ (3).

• Truyện bốn người bạn: Ất, Bính, Đinh, Giáp là bạn thân lâu năm. Nhưng Giáp đã làm nhiều truyện động trời phản bội Ất: cướp vợ của Ất, giết vợ của mình rồi vu khống cho Ất, vu oan cho Ất muốn cướp vợ của Giáp… Vì thế, Ất bị bắt và bị tòa án xử tử. Bính và Đinh biết rõ tính trung thực của Ất, đã đến xin Giáp là người bạn giàu có nhất, cứu nguy cho Ất. Giáp từ chối thẳng thừng và còn vu oan thêm cho Ất… May, vừa lúc đao phủ giơ gươm chém đầu Ất, thì cô đầy tớ của Giáp, cô biết rõ câu chuyện, đã chạy ra xin đao phủ ngưng tay, và cô kể cho mọi người hiện diện biết rõ sự thật của câu chuyện… Nhờ đó Ất được tha, tìm lại được vợ. Còn Giáp phải mất nhiều tiền mua chuộc quan tòa, nên cũng được tha. Nhưng lúc Giáp từ tòa án ra về, bị sét đánh chết. Khi người ta khiêng xác của Giáp đi chôn, một con cọp không biết từ đâu nhảy tới và công mất xác của Giáp… Mọi người bảo nhau: ‘Thiên bất dong gian’ (4).

• Truyện Quan Âm Thị Kính: Thị Kính là vợ của Thiện Sĩ. Hai vợ chồng luôn tâm đồng ý hợp. Thế nhưng một hôm Thiện Sĩ đang ngủ ngon, Thị Kính thấy chồng có một cái râu độc, nàng muốn cắt cái râu độc ấy đi. Vừa cầm kéo lên, Thiện Sĩ giật mình dậy hô lớn lên rằng: ‘Nàng cầm kéo muốn giết tôi’. Mẹ chồng nghe vậy cũng ùa vào kết án Thị Kính… Thị Kính bị hành hạ đủ điều và sau cùng bị đuổi ra khỏi nhà… Từ đó, mỗi khi có những vụ oan ức lớn, người ta thường nói: ‘oan như oan Thị Kính’. Vì thế mới có câu ca dao: ‘Chỉ Trời mới thấu tâm can, trước bao oan nghiệt chỉ than với Trời’ (5).

• Trong truyện Kim Vân Kiều: Vào thế kỷ XVIII, ông Nguyễn Du (1765-1820) tác giả của cuốn ‘Đoạn Trường Tân Thanh (Kim Vân Kiều) không ngại viết lên những trường hợp người ta bịa đặt điều ác cho nhau, vu oan cho nhau để thỏa mãn dục vọng tham lam hay trả thù, trả oán. Đây, ông Nguyễn Du nói đến một trường hợp điển hình của một lời vu cáo:

Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,

Rụng rời khung dệt, tan tành gối mai.

Đồ tế nhuyễn của riêng tây,

Sạch-sành-sanh vét cho đầy túi tham!

Điều đâu ai buộc, ai làm?

Này ai dan-dập, giật giàm bỗng dưng?

Hỏi ra sau mới biết rằng:

Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ!

Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ,

Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây.

Không những chỉ có đoàn tham quan ô lại đến phá phách nhà Vương-Ông trong dịp oan ức này mà có thể ở mọi thời, lúc nào cũng có vô số người sung vào đoàn ruồi xanh như thế! (6).

3. Những lời khuyên của tiền nhân.

• ‘Muốn giữ được lương tâm, nuôi được linh tính, cần phải chịu khổ, chịu phiền thì con người mới thuần thục’ (Lưu Trực Trai).

• ‘Lửa bốc cao, nước chảy xuống thấp, thế mà lửa bao giờ cũng thua nước’ (Văn Trung Tử).

• ‘Lấy oán báo oán thì oán chồng chất, lấy đức báo oán thì oán tiêu tan’ (Phật Thích Ca).

• ‘Một bên là quần chúng, một bên là bản thân, hai bên đều trọng cả. Nhưng gặp trường hợp cần, thì phải hy sinh bản thân để cứu giúp quần chúng’ (Khuyết danh).

• ‘Cắn chặt răng để chịu thiệt, đứng vững gót để làm người’ (Cổ ngữ).

• ‘Vật trong thiên hạ chẳng gì mềm bằng nước, thế mà to vô hạn, sâu vô cùng, mạnh không sức nào địch nổi’ (Hoài Nam Tử).

• ‘Độ lượng to lớn bao nhiêu thì phúc trạch cũng to lớn bấy nhiêu. Có mưu sâu độc bao nhiêu thì tai vạ cũng sâu độc bấy nhiêu’ (Minh Tâm Bửu Giám).

• Người biết ‘đạo’ tất không khoe, người biết ‘nghĩa’ tất không tham, người biết ‘đức’ tất không thích tiếng tăm lừng lẫy (Trương Cửu Thành).

II. NHỮNG HIỂU LẦM ĐÁNG TIẾC

1. Bầu khí hiểu lầm.

Những cuộc bách hại ác nghiệt đối với đạo Công Giáo từ 1583 đến 1838 bắt đầu từ những hiểu lầm. Tôi trích lại đây một đoạn trong cuốn ‘Lịch Sử Đạo Thiên Chúa tại Việt Nam’, tác giả Hồng Lam ghi rằng: ‘Người Việt Nam ta xưa nay vốn tính tình hòa nhã, trung hậu, không hề có ác cảm với người ngoại quốc, như các giáo sĩ và với người Tây phương đầu tiên đã công nhận. Vì thế mà giáo sĩ mới vào nước ta, đều được dân chúng tỏ vẻ hoan nghênh. Cả đến vua quan trong nước vào thời bấy giờ cũng có ý muốn thân thiện với người ngoại quốc, để bắt chước việc buôn bán trong nước, và có khi cũng để lợi dụng sức mạnh và sự tài giỏi của người vào công việc của mình’. Nhưng tiếc thay, về sau, chỉ vì nhiều sự hiểu lầm đáng tiếc mà gây nên những mối nghi kỵ giữa người ngoài và người Việt Nam ta, rồi giữa đồng bào Công Giáo với đồng bào lương. Hồi đó các giáo sĩ và các nhà buôn Tây phương thường bị coi là những kẻ do thám, hoặc những người dọn đường cho các nước thực dân Âu châu có ý dòm ngó nước ta. Đạo Thiên Chúa bị coi lầm là một tà đạo có thể làm hại đến thuần phong mỹ tục và những tập quán cổ truyền trong nước. Còn những kẻ theo đạo thì bị coi là đi ngược với luân thường đạo lý, có thể làm đảo lộn trật tự cựu truyền, và lay chuyển cả nền tảng luân lý, và có thể đẩy nước nhà đến sự suy vong. Một ít việc bất ngờ xảy ra, và một số người ghen ghét, đố kỵ hoặc cạnh tranh về vấn đề tôn giáo lại càng giúp cho mối ngờ vực đó tăng thêm’ (7). May thay, giữa bầu khí ngột ngạt vì hiểu lầm như vậy, cũng nổi lên những vì sao muốn xóa tan những vòm mây hiểu lầm. Đó là những vua chúa hay quan quyền ngỏ lời bênh vực hay ca tụng đạo Thiên Chúa, như vua Gia Long (DMAH 2, tr.7), tướng Lê Văn Duyệt (DMAH 2, tr.26) (8), chí sĩ Phan Đình Phùng với khẩu hiệu ‘Lương Giáo thông hành’ (DMAH 3,339)… Nhưng đặc biệt là bản tấu của quan thượng Nguyện Đăng Giai dâng lên vua Tự Đức. Ông nhận xét: “Cách thức của đạo này (Công Giáo) chinh phục lòng người như sau: trước hết họ chinh phục một người, đàn ông cũng như đàn bà, rồi trở thành một gia đình, một xóm đạo. Họ nuôi ăn những người đói kém, cho quần áo những người bị lạnh lẽo, giúp đỡ những người bất hạnh, an ủi những người sầu khổ, họ tụ họp đông để tiễn đưa những người quá cố. Họ không phân biệt quốc gia mà coi mọi người như một, như thân thuộc vậy… Như thế thì làm sao khuyên nhủ họ theo đường lối của chúng ta được? Các sách vở của họ tuy không viết bằng chữ đẹp như của chúng ta, nhưng không chứa đựng những điều gì sai trái nguy hại cho loài người. Các lời giảng dạy của họ chỉ có một mục đích là làm cho con người trở nên đức hạnh và làm ích cho người khác. Họ sống bằng lòng với tình trạng, đóng thuế rất sòng phẳng, không có trộm cướp hay làm loạn. Sáng chiều họ đọc kinh, cố gắng trở nên tốt hơn, hầu được hạnh phúc trên trời… Tôi nghĩ cứ để người Công Giáo sống an bình. Nếu đây là tà đạo, thì ‘sự thật khó hủy diệt còn cái dối trá tự nó sẽ tiêu tan. Chúng ta hãy thực hành đạo chúng ta một cách rầm rộ, để người ta sẽ thấy đạo lý giả trá xấu xa tan biến đi như tuyết tan dưới ánh mặt trời’ (DMAH 3, tr.59-61).

2. Đạo Hoa Lang:

Theo cuốn ‘Để tìm hiểu Lịch Sử Đạo Thiên Chúa ở Việt Nam đầu thế kỷ XVII, thì ‘Vào lúc đầu, giáo sĩ chưa biết tiếng, người thông dịch mới hiểu lờ mờ và nói bập bẹ vài ba tiếng Bồ, vì thế việc diễn giảng gặp rất nhiều khó khăn. Người ta cũng chưa biết phải gọi đạo mới này là đạo gì. Thế là người ta đã gọi đạo do người Bồ đưa tới là đạo người Bồ. Gaspar Louis viết: “Thực ra họ cũng nhận đức tin, nhưng chỉ tin theo cách đại khái rằng đạo người Bồ tốt hơn đạo của họ”. Borri kể lại câu chuyện nực cười, khi người ta hỏi xem có muốn theo đạo Kitô không, thì người ta đã nói: “Con nhỏ muốn vào lòng Hoa Lang chăng?” với ý nghĩa là ‘muốn vào đạo Hoa Lang’ tức là đạo người Bồ. Về sau, nhiều người căn cứ vào đó mà hiểu lầm đạo Thiên Chúa là ‘đạo quái gở’, là ‘đạo tà’, là ‘đạo ngoại quốc’. Khi thông thạo tiếng Việt, và nhờ có chữ quốc ngữ, các thừa sai mới cắt nghĩa được cho người ta hiểu: không phải ‘đạo Hoa Lang’ hay ‘đạo của người Bồ’, nhưng là ‘Đạo chung của mọi người, tức là đạo Công Giáo’. Cha A. de Rhodes, trong cuốn ‘Phép Giảng tám ngày’, ngài để nguyên chữ la tinh ‘Ecclesia catholica apostolica’ (9). Thời Chúa Trịnh Sâm, nhiều tín hữu bị khắc trên trán ba chữ ‘Hoa Lang Đạo’ (10). Để đánh tan sự hiểu lầm này, thày giảng Inhaxiô đã thưa cùng chúa Thượng Vương: ‘Kính thưa chúa thượng, đạo hạ thần theo không phải là đạo Bồ Đào Nha, nhưng là đạo của Chúa Trời Đất’ (DMAH 1, tr.37).

3. Không thờ cúng Tổ Tiên:

Đây là một hiểu lầm lớn nhất, tai hại nhất, đánh vào con tim và tâm não của người Việt Nam hơn cả. Câu ‘đi đạo Thiên Chúa là bỏ cha bỏ mẹ’ đã phổ biến từ đó. Không phải chỉ là một sự hiểu lầm của giới bình dân, nhưng cả của giới trí thức và quan quyền, vua chúa. Nhất là sau khi công bố Hiến chế Ex quo sungulari providentia (1742) của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XIV, cấm mọi hình thức tôn kính người đã mất (11). Hầu hết trong các sắc lệnh cấm đạo đều ‘coi việc không thờ kính tổ tiên là lý do chính yếu’. Chẳng hạn vua Nguyễn Nhạc đã tuyên bố năm 1785 rằng: “Trẫm muốn tiêu diệt đạo Âu Châu, vì nó đã lan tràn trong nước. Đó là giáo phái không thờ kính tổ tiên…” (DMAH 1, tr. 211). Nguyễn Ánh tức vua Gia Long, tuy rất thiện cảm với đạo Thiên Chúa, nhưng không theo đạo, vì đạo cấm thờ kính Tổ Tiên (DMAH 3, tr.3-4). Mở đầu sắc lệnh cấm đạo năm 1833, vua Minh Mệnh tuyên bố: “Ta, Hoàng Đế Minh Mệnh, truyền lệnh cấm các người Tây Phương đến truyền đạo Giatô, vì chúng… không thờ kính Tổ Tiên…” (DMAH 3, tr.34). Rồi đại diện cho giới Nho Sĩ và phong trào Văn Thân, ông Nguyễn Đình Chiểu đã chửi xéo người Thiên Chúa giáo bằng câu thơ:

Thà mù mà giữ đạo nhà,

Còn hơn có mắt ông cha không thờ.

Quả thật, từ các vua chúa, quan quyền và đa số dân chúng chưa hiểu được rằng ‘Hiếu thảo là giới răn thứ IV trong 10 điều răn của Thiên Chúa truyền dạy, cũng như cách thức bề ngoài tuy khác nhưng cốt lõi vẫn là một. Đạo hiếu hay cách thế tôn kính đối với người quá cố mà đạo Công Giáo dạy người tín hữu phải giữ, phải sống còn nghiêm túc và sâu xa hơn… đức hiếu thảo cổ truyền và việc thờ kính Tổ Tiên hiện có’. Sự hiểu lầm này cũng có một phần đáng tiếc về phía các linh mục truyền giáo Phanxicô, Đaminh và Thừa Sai Ba Lê thiếu sự phân biệt nghi thức với niềm tin và vội coi mọi lễ nghi cúng bái là dị đoan, trái tín lý. Hầu hết các vị tử đạo đều bị chất vấn ‘tại sao các ngươi lại bất kính tổ tiên, đó là một tội nặng’. Chúng ta hãy nghe linh mục Laurensô Nguyễn Văn Hưởng trả lời: ‘Thưa quan, nói rằng bên đạo chúng tôi không thờ kính tổ tiên là điều vu khống và bỏ vạ. Người lương lấy cơm, cá thịt, trái cây mà cúng ông bà cha mẹ đã qua đời, còn chúng tôi không dùng những thức ăn mà cúng, vì biết ông bà cha mẹ đã chết rồi, thì không ai ăn được nữa, không còn hưởng nhờ các thức ăn đó. Nhưng chúng tôi nhớ đến ông bà cha mẹ tối sáng. Hằng ngày cầu xin cho các ngài được hạnh phúc trên thiên đàng. Hơn nữa, chúng tôi tuân giữ các lời ông bà cha mẹ răn dạy hầu giữ luật luân lý và làm vinh danh cho các ngài’ (DMAH 3 tr. 114).

4. Một số quan điểm về tôn giáo và phong tục.

Người ta ác cảm với đạo Thiên Chúa vì cho rằng đạo mới này đảo lộn trật tự xã hội và vi phạm tục lệ quốc gia:

• ‘Trời-Phật’ Vì xưa kia Việt Nam nội thuộc nước Tàu nên chịu ảnh hưởng cả Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo. Đến thời Việt Nam độc lập, thì theo sử chép, vua Đinh Tiên Hoàng là người làm cho đạo Phật lớn mạnh và trở thành như ‘quốc giáo’, đặc biệt về sau vào các triều nhà Lý, nhà Trần. Từ đó người Việt Nam quen miệng kêu ‘Trời Phật’ muốn đồng hóa Phật với Trời hay đặt Phật ngang với Trời. Đến khi đạo Thiên Chúa được rao giảng ở Việt Nam thì quan điểm tôn giáo như trên thay đổi: Trời là Thượng Đế, Tạo Hóa là Thiên Chúa tối cao, duy nhất. Phật không phải là Trời, không thể đồng hàng với Trời, không được coi là Thượng Đế hay Thiên Chúa. Điểm này làm cho nhiều vua quan, nhiều chức sắc Phật giáo và nhiều người dân hiểu lầm và sinh ghét đạo Thiên Chúa.

• ‘Trời-Đất’. Trong thời Bắc thuộc, tức thời nhà Hán đô hộ nước Việt Nam, hai quan thái thú Tích Quang và Sĩ Nhiếp đã du nhập đạo Nho vào nước ta. Đạo Nho phát triển mạnh và đã tạo nên cho nước ta ‘một giới trí thức’ trong đó có vua chúa, quan quyền và nho sĩ. Thời nhà Lê, Nho giáo được coi như quốc giáo. Vì thế quan niệm Trời-Đất (Thiên-Địa, Dương-Âm) được đề cao: Mặc dầu Trời là đấng tối cao chỉ huy mọi vật trong vũ trụ, mọi vật đều có một cha mẹ chung sinh ra là Trời và Đất. Trời sinh ra các ‘loài đực’, đất sinh ra các ‘loài cái’. Đang khi đó đạo Thiên Chúa dạy: Trời hay Thượng Đế duy nhất dựng nên hết mọi vật, kể cả Đất (trong Nho giáo) cũng do Thượng Đế hay ông Trời (trong Nho giáo) dựng nên. Đây là điểm làm cho giới trí thức thời xưa hiểu lầm và chống đối đạo Thiên Chúa.

• ‘Quân-thần, Phụ-tử’: Theo Nho giáo, vua có quyền tuyệt đối trên quần thần và dân chúng. Cũng vậy người cha có quyền tuyệt đối trên con cái, như lời ghi của sử gia Trần Trọng Kim: “… Con phải theo cha, tôi phải theo vua, ai trái với cái đạo ấy, thì mang tội nặng, đáng chém giết” (12). Đạo Thiên Chúa thay đổi quan niệm: chỉ mình Thiên Chúa có quyền tuyệt đối trên mọi người, mọi vật. Tuy nhiên, Ngài kính trọng tự do lương tâm của mỗi người.

• + ‘Đa thê’: Phong tục Việt Nam cho phép người đàn ông cưới nhiều vợ, tục đa thê. Đạo Thiên Chúa dạy ‘chỉ một vợ một chồng’. Chính Nguyễn Ánh đã nói với Đức Cha La Mothe: ‘Đạo của Đức Cha là một đạo tốt lành, nhưng nghiêm khắc quá, ai mà có thể giữ được? Tôi không thể nào chỉ cưới một vợ’ (DMAH 2, tr.5).

• ‘Nộp tiền cúng tế’. Khi chưa có những làng Công Giáo thuần nhất, mà còn tình trạng người Công Giáo thiểu số trong một làng, thì vấn đề đặt ra là người Công Giáo có buộc phải góp tiền tổ chức các lễ cúng tế theo phong tục quốc gia nữa hay không? Hai Đức Cha Labarette và La Mothe đã xin với Nguyễn Ánh miễn chuẩn cho người Công Giáo khỏi giữ nhiệm vụ này. Nguyễn Ánh để cho các quan cứu xét. Các quan từ chối và để quyền đó cho các hương chức, vì đây là tục lệ quốc gia (DMAH 2, tr.5).

III. NHỮNG VU OAN ÁC NGHIỆT

Những hiểu lầm đáng tiếc chúng ta vừa nêu lên nhiều khi đã biến thành hay tạo nên những vu oan ác nghiệt. Chẳng hạn:

1. Móc mắt’: Khi thấy Nguyễn Ánh bao dung đạo Thiên Chúa và còn trao hoàng tử Cảnh cho Đức Cha Bá Đa Lộc huấn luyện, nhiều quan trong triều tức giận và muốn bày cớ vu khống đạo Thiên Chúa. Vậy, có một quan lại tố cáo rằng: các thừa sai lấy mắt người chết làm hạt ngọc rồi nhét bông vào mắt thay thế. Vị quan còn nói: ông thấy trong nhà thờ có nhiều hạt ngọc như thế. Nghe vậy, Nguyễn Ánh nói: “Nếu quả có thật như vậy, thì người Công Giáo sẽ bị trừng phạt; ngược lại, nhà ngươi sẽ bị chém đầu”. Ông quan thú nhận là chỉ nghe như thế. Nguyễn Ánh bèn ra lệnh chém đầu vị quan vu cáo này. Nhưng nhờ sự can thiệp của Đức Cha Bá Đa Lộc, ông quan được khoan hồng (DMAH 2,3-4). Thế nhưng, trong đầu óc các quan vẫn còn coi điều vu khống quái ác trên đây là thật. Bằng chứng là năm 1826, Bộ Lễ đã làm kiến nghị dâng lên vua Minh Mạng xin trừ diệt đạo Giatô, trong đó có câu: “…Những người rao giảng khuyến dụ dân theo đường hư hỏng, những người móc mắt người ốm, nếu bị bắt sẽ bị phạt theo trọng tội” (DMAH 2, tr.22). Đến năm 1835, ngay lúc sắp xử lăng trì cha Giuse Marchand Du, quan còn hỏi cha: “Vì lý do gì bên đạo móc mắt người chết?’. – Cha trả lời vắn gọn: “Không bao giờ tôi thấy như vậy” (DMAH 2, tr.82). Mãi tới năm 1856, trong phiên tòa xử cha Laurensô Nguyễn Văn Hưởng (bị trảm quyết 27.4.1856), quan đầu tỉnh Hà Nội còn hỏi cha: “Tại sao khi người ta đau ốm, các đạo trưởng đến khoét mắt đem về làm thuốc cho người ta mến và theo đạo? Cha Hưởng thưa: “Bẩm quan lớn, điều ấy không đúng. Bên Phật giáo họ ghét đạo nên bỏ vạ chúng tôi như vậy. Những người kẻ liệt thì cũng một nửa còn sống, nếu khoét mắt thì họ mù làm sao còn xem được nữa. Vì khi còn khỏe, người ta hay dùng ngũ quan mà phạm tội, nên khi họ ốm đau, chúng tôi đến xức dầu thánh nơi con mắt và chân tay để trừ tội và ma quỷ chứ không làm sự gì khác” (DMAH 3, tr.113-114).

2. Từ vu cáo móc mắt đến các vu cáo quái đản khác.

• Năm 1836 các quan đã làm kiến nghị dâng lên vua Minh Mệnh và vu cáo đạo Công Giáo như sau: “Các thừa sai dùng bánh nhiệm mầu để mê hoặc dân chúng và làm cho họ cố chấp giữ đạo. Các thừa sai còn lấy mắt người chết pha lẫn vào hương để làm thuốc chữa bệnh. Trong khi cử hành hôn phối, đạo trưởng bắt làm những điều đồi bại” (DMAH 2,86).

• Năm 1837 Quan tổng Hào nói với thầy giảng Phanxicô Xaviê Cần (bị xử giảo 1837) như sau: “Ta nghe nói các linh mục thường móc mắt đàn bà ốm yếu bỏ vào chum nước có chó ngao, rồi lấy nước làm bùa mê rảy trên dân chúng, có thật vậy không?” – Thầy Cần thưa: “Thưa quan, đó là điều bịa đặt vu khống hoàn toàn. Các đạo trưởng rất thành thật và không bao giờ nói dối” (DMAH 2, tr.102).

• Năm 1838, Dưới thời Tây Sơn, tổng đốc Lê Văn Đức đã hạch hỏi thày giảng Phaolô Mĩ: “Tại sao đã có lệnh vua cấm theo đạo mà ngươi còn theo? Trong đạo có những chuyện móc mắt, làm bùa mê, rồi các đạo trưởng thông gian với phụ nữ…”. – Thầy Mĩ trả lời: “Thưa quan lớn, chúng tôi xả thân cầu đạo, nếu có khoét mắt người nào thì anh em con cái họ để chúng tôi sống chăng? Nếu trong đạo chúng tôi có chuyện đồi tệ như quan tố cáo, thì chúng tôi dạy bảo ai được. Mà nếu chúng tôi đi tu, lại ăn ở thể ấy thì vợ chồng người ta để chúng tôi đến nhà mình nữa chăng? (DMAH 2, tr.273).

• Hơn thế, chính vua Minh Mệnh, trong sắc lệnh ra ngày 29.7.1839, còn mạt sát đạo Công Giáo: “Đạo này không tuân giữ luật nước, đầy rẫy sự giả dối, rao giảng những điều phi lý như thiên đàng, nước thánh… các đạo trưởng móc mắt người chết và dụ dỗ đàn bà con gái…” (DMAH 2, tr.289).

3. Vấn đề chính trị.

Từ sự hiểu lầm ‘đạo Thiên Chúa là đạo ngoại quốc, đạo do người ngoại quốc du nhập vào’, triều đình làm sao khỏi nghi ngờ và nghi kỵ? Xưa cũng như nay, nhiều kẻ thù của Giáo Hội vẫn cố tìm cách ghép buộc ‘công trình truyền giáo với việc nước Pháp thôn tính đất nước Việt Nam dưới chiêu bài đòi tự do buôn bán và tự do tôn giáo’ (DMAH 3, tr.124). Tôi nghĩ họ cần có cái nhìn đứng đắn của ông Toan Ánh. Ông viết: “Nhiều người thường quan niệm sai lầm rằng đạo Thiên Chúa cùng tới Việt Nam với thực dân Pháp. Sự thật, đâu có phải. Đạo Thiên Chúa đã truyền sang Việt Nam từ lâu, trước hồi Pháp thuộc, từ đầu thế kỷ XIV, nhưng sự truyền giáo đã gặp khó khăn, nên sự phát triển không được mạnh mẽ lắm. Thực dân Pháp tới Việt Nam, mục đích của họ cốt để thôn tính đất nước, nô lệ hóa nhân dân, còn công việc khai thông đạo giáo, đó là công việc của các tu sĩ truyền giáo… Và tình thương đã quảng bá đạo Chúa… Tóm lại, Thiên Chúa giáo đã tới Việt Nam trước thực dân và trải nhiều thế kỷ đã lan rộng để ngày nay trở nên một tôn giáo quan trọng tại Việt Nam” (13).

Từ sự hiểu lầm ‘đạo Chúa là đạo ngoại quốc, đạo do người ngoại quốc du nhập vào Việt Nam’, triều đình và giới Nho sĩ đã nghi ngờ các thừa sai và khối Công Giáo, nhất là khi ‘dã tâm của người Pháp muốn thôn tính nước Việt Nam mỗi ngày một hiển hiện’. Tuy nhiên, đọc lại các sắc lệnh, các chỉ dụ cấm đạo của các chúa, các vua cũng như các kiến nghị của các quan triều thần, chúng tôi không thấy một lý do chính trị nào được nêu lên, ngoại trừ khẩu hiệu ‘bình tây sát tà’ của phong trào Văn Thân: ý đồ của họ là cho rằng ‘Nước Việt Nam bị Pháp thôn tính là vì đạo Công Giáo’; ‘Đạo Công Giáo là tả đạo, cần tàn sát và tiêu diệt’. Và họ đã dấy quân thi hành, gây nên bao nhiêu tang tóc trong thời gian 1864-1883 (14). Trước cảnh ‘nước mất nhà tan’ này, chính vua Tự Đức đã ca tụng lòng trung thành của người Công Giáo và công nhận người Công Giáo đã bị vu oan (15) Sau đây là hai vụ vu oan chính trị đáng chú ý:

• Vụ cha Giuse Marchand Du bị nghi là có liên hệ với giặc Lê Văn Khôi. Năm 1833, dân tình chán ghét vua Minh Mệnh, nhiều cuộc nổi loạn bùng nổ. Đáng quan tâm nhất là tại tỉnh Gia Định, Lê Văn Khôi nổi loạn vì uất ức trước thái độ của quan lớn đối với Lê Văn Duyệt. Kể từ tháng 7.1833, giặc Lê Văn Khôi chiếm trọn vùng Nam Kỳ và ông nghĩ rằng: nếu có một thừa sai tây phương ở trong thành thì sẽ nắm phần thắng. Nên ông cho quân đi bắt cha Du lúc ấy đang ở xứ Mặc Bắc. Khi quan Đội Miêng cho lính ập tới, cha Du trả lời: “Tôi chỉ lo giảng đạo mà thôi, việc chiến tranh tôi không biết chi. Nếu Chúa sai tôi đi đánh giặc thì một mình tôi một tỉnh, tôi cũng không sợ”. Đội Miêng bảo: “Trong Thành có đông người Công Giáo lắm. Nếu cha không đi ông Khôi sẽ chém đầu những người Công Giáo”. Vì thế, cha Du để họ bắt dẫn đi… Về sau, cha Du bị bắt và ra trước tòa các quan triều đình. Các quan hỏi cha: “Người ta thấy cha ở trong thành, vậy cha có làm gì giúp giặc không?”. – Cha Du trả lời: “Tôi chỉ giảng đạo và biết có việc giảng đạo mà thôi”. Lần khác các quan lại hỏi: “Ông có giúp Khôi làm giặc không?”. – Cha Du thưa: “Không. Ông Khôi cho quân đi bắt tôi đem về Sàigòn. Việc chiến tranh tôi không biết gì, tôi chỉ giảng đạo, cầu nguyện và làm lễ thôi”. – “Có phải ông đã giúp tên Khôi viết thơ xin quân Xiêm và giáo dân Đồng Nai đến giúp y không?”. – “Ông Khôi ép tôi viết thơ song tôi không chịu và nói cho ông biết, đạo cấm làm chuyện chính trị. Tôi cũng nói: thà chết chứ tôi không làm như thế được. Ông Khôi còn đem mấy thơ đến xin tôi ký vào. Tôi không chịu và xé thơ trước mặt ông”. Sau cùng các quan làm án tâu lên vua Minh Mệnh, xin ‘xử bá đao về hai tội: Là đạo trưởng, không chịu đạp ảnh Thánh Giá, và có dính líu với nghịch tặc’. Vua Minh Mệnh chấp thuận và cho đi xử bá đao ngày 30.11.1835. Đầu cha Du bỏ vào thùng đem rêu rao khắp nơi, sau cùng đem về Huế, bỏ vào cối xay nát ra và bỏ xuống biển (DMAH 2, tr. 73-84).

• Vụ liên quân Pháp và Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng: Thánh Hồ Đình Hy là một quan chức được vua Tự Đức tín nhiệm, trao cho nhiều công tác và thăng quan tiến chức đều, đến tước thái bộc và làm quan tam phẩm. Vì thế nhiều quan triều ghen ghét, tìm cách hãm hại quan Hồ Đình Hy. Vậy, nhân vụ liên quân Pháp và Tây Ban Nha ở ngoài khơi cửa Hàn, lăm le xâm chiếm Đà Nẵng. Các quan triều xấu bụng đã làm đơn dâng lên vua Tự Đức buộc tội quan Thái Bộc là liên lạc với người Pháp, họ xin vua bóc chức quan Hồ Đình Hy và trừng trị xứng đáng. Trong bản án còn nêu lên hai tội: cả gan tin theo tà đạo, lại liên lạc với nhiều đạo trưởng và còn nhờ linh mục Oai cho con đi học ở Singapore. Mặc dầu đã bị tra khảo nhiều lần, Hồ Đình Hy vẫn một mực chối không có liên lạc gì với quân Pháp. Vua Tự Đức tin theo những lời vu khống ác độc của các quan triều, đã y án: quan thái Bộc Hồ Đình Hy bị trảm quyết ngày 22.5.1857 (DMAH 3, tr.150-160).

• Văn Thân vu khống và bày trò gian ác để gây thù oán giữa dân lương với đạo Công Giáo (DMAH 3, tr.331-332):

+ Văn Thân đồn thổi: ‘Đức Cha Sohier đã mang về 400 cân thuốc độc để triệt hại các vua và các quan hầu đem người Công Giáo lên làm vua. Lúc đó, dân lương nào không theo đạo sẽ giết hết’.

+ Đức Cha Theurel địa phận Tây Bắc cho biết: ‘Văn Thân vu cáo người Công Giáo bỏ thuốc độc vào các giếng nước’.

+ Đức Cha Cezon địa phận Trung cho biết: ‘Văn Thân thuê người đi bỏ thuốc độc vào các ao hồ và giếng nước và nếu bị bắt thì nói rằng ‘người Công Giáo thuê’. Đã có 100 người bị bắt và khai rằng ‘Văn Thân đã thuê họ’.

+ Đức Cha Gauthier địa phận Vinh báo động: ‘Văn Thân giả mạo một lá thư mang tên ngài, ra lệnh cho hai họ đạo Hội Yên và Phủ Lý phải cử năm người đi đốt phá và bỏ thuốc độc vào giếng của các làng bên cạnh… Kết quả là hai họ đạo Hội Yên và Phủ Lý bị chính Văn Thân đến đốt cháy’.

+ Văn Thân còn phao lên rằng ‘các thày lang Công Giáo làm thuốc độc bán cho dân. Vì thế một ông lang Công Giáo đã buộc phải uống một lúc hết các thuốc ông bán… Kết quả, ông bị chết vì thuốc hành’.

4. Những vụ khác do các sư sãi, thày phù thủy vu khống và xúi dân khiếu nại:

• Năm 1625, hai nhà sư đã kiện lên chúa Sãi rằng: người Công Giáo bỏ bê tổ tiên và tục lệ quốc gia. Vịn vào đó, chúa Sãi ra lệnh ‘không ai, dù là Công Giáo, được bỏ bê các lễ lạy trong làng’ (DMAH 1, tr.12).

• Năm 1627, các thày cúng và sư sãi lại tố cáo với Trịnh Tráng: các lễ nghi bên đạo là một phù phép giết người, và xin chúa Trịnh canh chừng kẻo các thừa sai phù thủy giết hết các nhân tài và tướng giỏi để chuẩn bị nổi loạn dễ dàng. Họ cũng vu khống là các thừa sai liên lạc với nhà Mạc và chúa Nguyễn trong Nam. Đặc biệt cha Đắc Lộ là một phù thủy cao tay. Vì thế chúa Trịnh ra lệnh cấm dân chúng không được liên lạc với các đạo trưởng tây phương và không được theo đạo Giatô giả dối… (DMAH 1, tr.107-108).

• Năm 1663 các sư sãi lại vu khống và khiếu nại lên chúa Trịnh: người Công Giáo phá chùa, bẻ tượng… Sự hiện diện của đạo Công Giáo là nguyên cớ gây nên tai ương mưa lụt, hạn hán… Nghe vậy, vua Cảnh Trị ra lệnh cho các quan đi các làng, thấy có ảnh đạo phải tịch thu và bắt dân Công Giáo phải tuân giữ các tục lễ cúng bái của làng xã và của quốc gia (DMAH 1, tr. 122-123).

• Năm 1698 các thày phù thủy và sư sãi lại xúi dân làng Thương Lo làm đơn tố cáo lên chúa Minh Vương: Người Công Giáo bẻ gãy tượng phật, phá chùa và lấy các đồ thờ. Minh Vương cho người đi điều tra thì, chùa không hư hại gì và tượng Phật đã gãy tay từ hai chục năm trước (DMAH 1, tr.70-71).

IV. NHỮNG HÀNH NHỤC VÀ TỬ NHỤC

Hệ quả của những hiểu lầm và vu cáo như trên là các cuộc bắt đạo cứ từ từ bùng nổ, các chúa, các vua, các quan chức đều nuôi lòng ghen ghét, hoài nghi, và tìm mọi lý do, mọi hoàn cảnh khả dĩ để tiêu diệt đạo Công Giáo, nhất là thời vua Minh Mệnh, Tự Đức và phong trào Văn Thân. Trong nước dần dần thành hai khối ‘một bên là lương dân, quan quyền và vua chúa, một bên là dân Công Giáo với các thừa sai và thày giảng’. Một bên có quyền, có quân, một bên chỉ có niềm tin để chịu đựng mọi thua thiệt, mọi đàn áp, mọi hành nhục và tử nhục với tinh thần hiền lành, kiên nhẫn, can tràng… vẫn một lòng kính vua chúa, quan quyền, thương cha mẹ, yêu đồng bào… nhưng thờ Chúa là trên hết…. Thánh Philippê Phan Văn Minh đã diễn bầu khí bách hại đó như sau:

Lừng lẫy oai hùng tiếng đã rân,

Chỉ truyền cấm đạo khắp xa gần.

Thánh đường chốn chốn đều tiêu triệt,

Giáo hữu người người chịu khổ tân.

Linh mục giảo lưu, hình giảm khốc,

Cận thần trảm quyết, lính đồ thân.

Há rằng vương đế làm nhân chánh,

Sao nỡ phiền hà hại chúng nhân.

(Bắt đạo thơ)

Như trên chúng ta thấy, hơn ba trăm năm đạo Công Giáo, hay các linh mục, thày giảng và giáo dân nam nữ, già trẻ, đều sống trong bầu khí ‘nghi ngờ, vu oan và bách hại’. Ít có thời gian được ‘tương đối bình an’. Tuy có một vài tiếng nói của vua chúa hay quan quyền bênh vực khen lao đạo Công Giáo, vì quyền lợi hay vì thời cơ, đều èo ẹt như một tia sáng nhỏ giữa đêm khuya mịt mù. Ai bảo vua Gia Long hay Nguyễn Ánh là người bênh vực đạo? (xem DMAH 2, tr.3-6). Ai bảo tiếng nói của quan triều Lê Văn Duyệt (DMAH 2, tr.26), hay Nguyễn Đăng Giai (DMAH 3, tr.59) được lắng nghe và xoay chiều tình thế có lợi cho đạo Công Giáo?…

Mọi người Công Giáo sống trong ‘bản án tập thể’ là theo đạo ngoại quốc, đạo ‘hoa lang’, đạo ‘Bồ Đào Nha’; mang trên má hai cụm từ ‘hoa lang đạo’ hay ‘tả đạo’; bị coi như những người khờ dại, đần độn, để người ta quyến dũ và mê hoặc, ‘bỏ đạo quốc gia đi theo đạo Giatô dạy điều giả dối, điên rồ và phi lý…’. Khiếu nại cùng ai, khi nhà bị cướp, bị đốt, bị chiếm? Nuối tiếc chi được khi bó buộc ra khỏi nhà, đi sống ‘phân sáp’ hay lưu đày… Đúng như lời thánh Phaolô nói: “đành chịu mọi thua thiệt để được Chúa Giêsu!”. Nếu là linh mục hay thày giảng, các ngài phải ẩn tránh, lén lút, trốn hết nhà này qua nhà khác, tránh mọi dòm ngó của quan quyền, lính tráng hay ‘những người dân ghét đạo’. Nhiều khi phải trốn ẩn dưới hầm, ngoài đồng, trong rừng…

Khi bị bắt, lập tức mang gông, ngồi cũi, dẫn bộ về nộp cho quan huyện, quan tỉnh… để vào tù đợi ngày ra xử. Nhiều trường hợp các quan đòi tiền mua chuộc. Ngày ra tòa trước mặt các quan là ngày bị hỏi cung, bị dụ dỗ, bị nguyền rủa, bị buộc tội, bị những trận đòn 50, 100, 150 roi, tuỳ theo là roi mây, roi trượng, roi đuôi trâu, roi móc thịt… Bị đánh nhừ tử, và trở lại tù… Sau hai, ba lần hỏi cung và tra tấn, các quan lập biên bản, tức làm bản án, nộp lên hoàng đế. Khi hoàng đế ‘y án’, các quan sẽ thi hành bản án. Có nhiều loại án, hoặc đánh đòn và nộp tiền phạt rồi tha về đặc biệt đối với thường dân và phụ nữ; có khi bị bỏ chết đói trong tù; có khi thả vào chuồng voi cho voi giẫm chết, có khi bị lưu đày xa quê hương và làm công dịch, có khi bị lưu đày hay phát vãng đến tận miền xa xôi, nước độc…. Hầu hết các vị tử đạo, nhất là các giám mục, linh mục, thày giảng, quan chức hành chánh, sĩ quan hay binh lính thuộc quân đội và các chức sắc trong họ đạo, đều bị xử tử. Xử tử bằng hình thức xử giảo, chém đầu, xử trảm, lăng trì, bá đao, xử tử bêu đầu ba ngày, xử tử ném xác xuống sông sâu hoặc biển khơi, có trường hợp còn bỏ đói, chôn sống hay thiêu sống!

Có lẽ tử đạo đau đớn nhất và nhục nhã nhất là trường hợp của thánh linh mục Giuse Marchand Du: Ngài bị xử bá đao ngày 30.11.1835 tại họ Thọ Đúc (Huế). Ngài bị trói vào thập tự, miệng ngậm đầy đá sỏi và khóa lại bằng tre, để khi chịu đau kêu không ra tiếng. Vào giờ xử, lý hình tháo cha Du ra khỏi thập tự, trói vào cọc. Hai tên lý hình một người cầm kìm, một người cầm dao để xẻo ra từng miếng thịt. Hai tên lý hình khác đứng bên đếm từng miếng thịt lắt ra và ghi vào sổ. Sau hồi trống lệnh, lý hình xẻo trán cha Du trước để da phủ xuống che kín mắt của cha, sau đó lấy kìm lôi hai vú ném xuống đất. Lần lượt lý hình lấy kìm bấm và lôi thịt ra từ hai bên mông, cắt đứt ném xuống đất. Lúc ấy cha Du không còn sức nữa, gục đầu xuống và linh hồn về với Chúa. Thấy cha đã chết, tên lý hình cầm đao sắc, kéo đầu lên và chém đứt cổ, bỏ đầu vào thúng vôi. Lý hình xô xác cha xuống đất và tiếp tục cắt thân thể cha ra thành trăm mảnh, hết bổ dọc đến bổ ngang như bổ xẻ một khúc cây. Vì cha Du sống khắc khổ, chịu hành hạ nhiều nên không còn máu chảy ra. Khi xong xuôi tất cả, lý hình gom các miếng thịt vụn lại bỏ vào mấy thúng rồi đem nộp cho quan để vất xuống sông. Còn đầu bỏ vào thùng đem bêu khắp nơi trên đất nước. Đầu cha Du tới Hà Nội ngày 02.01.1836. Sau cùng đầu cha Du được đưa về Huế bỏ vào cối xay nát ra và ném xuống biển. Không ai giữ được một di tích nào của cha Du (DMAH 2, tr.84).

Đọc lại cái chết tử đạo của tiền nhân, đặc biệt cái chết đau thương của cha Du, ai lại không thấy hữu tình, hữu lý, những lời Thánh Thi của Kinh Chiều lễ các Thánh Tử Đạo:

Muôn thử thách, vì Chúa đâu xá kể,

Không hé một lời oán trách thở than,

Chẳng xôn xao, lòng thơ thới yên hàn,

Trước sau vẫn hiền hòa luôn kiên nhẫn.

Hay lời thơ của thánh linh mục Phlippê Phan Văn Minh:

Dĩ nhược thắng cương minh chứng rõ,

Kiếp sau hiện hữu sống muôn đời

V. NHỮNG DẤU LẠ ÂN THƯỞNG

‘Phúc cho anh chị em, là những kẻ bị người ta gièm pha, vu khống đủ điều và bách hại vì danh Ta. Anh chị em hãy vui mừng phấn khởi, vì phần thưởng dành cho anh chị em thật lớn lao’ (Mt5, 11-12). Vâng, các thánh Tử Đạo tiền nhân của chúng ta đã thấu hiểu lời chúc phúc của Chúa Giêsu hơn ai hết. Các ngài cũng nằm lòng những lời dạy của tổ tiên chúng ta nêu lên ở trên (số I). Lời chúc phúc của Chúa Giêsu và những lời dạy của tổ tiên đã ăn sâu vào xương tủy máu huyết của các ngài, nên các ngài can tràng chấp nhận mọi hy sinh vì đức tin, mặc ai gièm pha, nghi kỵ, vu khống và bách hại. Những trận đòn nhừ tử, những cái chết đau thương không làm các ngài suy giảm đức hiền hoà và nhẫn nhục. Các ngài ý thức rõ các ngài chết cho ai, chết vì ai. Tất cả vì Chúa, vì quê hương, vì dân tộc, vì đồng lúa của Giáo Hội hoàn vũ và Giáo Hội Việt Nam, vì phần rỗi của mình và của đồng bào… Các Thánh Tử đạo là những người bỏ mọi sự đi theo Chúa đến tận cùng. Các ngài đáng được Chúa thưởng bội hậu trên thiên đàng, và ngay ở trần thế. Phần thưởng bội hậu của các thánh trên trời, chúng ta chỉ biết hân hoan chúc mừng theo lời Chúa dạy ‘thật bội hậu, thật lớn lao’, và theo mức độ cảm nghiệm hạn chế của chúng ta hay như lời Giáo Hội thường hát:

Thật khôn tả, nguồn vinh quang vô tận,

Chúa dành cho bậc tử đạo anh hùng:

Áo huy hoàng thắm đỏ máu tôi trung,

Đây rực rỡ mũ triều thiên chiến thắng…

(Thánh thi kinh chiều 2 lễ Tử Đạo)

Còn những phần thưởng Thiên Chúa ban cho các thánh Tử Đạo tại Việt Nam ngay ở trần gian, thì ngoài đời sống gương mẫu, ngoài tinh thần can đảm chịu đựng mọi gian lao vì đức tin, và dũng lực chấp nhận cái chết đau thương vì danh Chúa mà chúng ta có thể nhận ra nơi mỗi vị, chúng ta cũng có thể dựa vào những điều lịch sử ghi lại để nêu lên như những dấu chứng tiêu biểu về ‘phần thưởng bội hậu’ mà Thiên Chúa dành để cho các tôi trung của Chúa. Quả vậy, đọc lịch sử truyền giáo tại Việt Nam, đọc truyện mỗi vị tử đạo, đã được phong thánh hay chưa, là người bản xứ hay người ngoại quốc, chắc chắn không ai dám phủ nhận: ‘những dấu chứng về phần thưởng bội hậu ngay ở trần gian, thật phong phú dưới nhiều dạng thức’. Chúng ta không thể nêu lên hết, dưới đây chỉ là những dấu chứng độc đáo nơi một số vị tử đạo mà thôi:

1. Năm 1663: Ông Alexi Đậu là con trai của một thương gia Nhật, và bà mẹ, người Việt Nam Công Giáo. Bà bị voi dày chết vì đạo. Khi đi ra Pháp trường với người bạn tên là Toma Nhuệ, ông mặc áo lụa trắng mới, bình tĩnh vui vẻ lạ thường. Khi lý hình chém đầu ông Toma, ông Alexi Đậu còn nói vui vẻ: “Bạn tôi đã đi hết đoạn đường và đoạt chiến thắng. Bây giờ đến lượt tôi đi theo”. Rồi ông đưa đầu cho lý hình và hỏi xem đã đúng cách chưa. Khi lý hình đã chém đứt cổ và tung đầu lên, người ta còn nhìn thấy vẻ mặt tươi vui suốt hai ngày liền. Hơn thế, ông Alexi Đậu còn hiện ra với người lính đã chém đầu mình, trong đoàn ngũ các thánh hân hoan, và cám ơn người lính đã giúp mình đạt được ước nguyện (DMAH 1, tr.51).

2. Năm 1658, thời chúa Trịnh Tráng, ông Phanxicô là người Công Giáo tử đạo đầu tiên của Giáo Hội miền Bắc. Ông đã đổ máu ra để làm cho công việc truyền giáo của các thừa sai trổ sinh nhiều kết quả phong phú. Đặc biệt Chúa đã làm nhiều phép lạ thưởng công ngài và các thừa sai không thể kể hết. Sách vở còn ghi: Nhờ khấn nguyện với ông Phanxicô, một giáo dân đã chữa lành 30 người bị quỷ ám. Nhờ khấn nguyện với ông Phanxicô, một cô gái tỉnh nghệ an đã cứu người mẹ hấp hối hồi tỉnh và khoẻ lại bình thường. Một người khác đi trong rừng, gặp một cụ già nằm liệt sắp chết, đã cầu khấn với ông Phanxicô, rồi lấy nước làm phép cho cụ già uống, cụ liền khoẻ lại và trở về nhà (DMAH 1, tr.110).

3. Năm 1723, thời chúa Trịnh, cha Bucharelli bị bắt với 9 giáo dân. Cả 10 người bị giam trong chuồng voi. Ngày 11.10, các ngài bị dẫn ra pháp trường. Cha Bucharelli khích lệ giáo dân: “Chỉ còn ít giờ nữa, chúng ta sẽ được tự do, thoát khỏi đời sống trần thế khổ cực này, Thiên Chúa sẽ dắt đưa chúng ta lên trời”. Đoàn người anh hùng bước ra pháp trường cách vui vẻ giữa tiếng kêu của xiềng xích và tiếng cầu kinh. Lương dân, quân lính và lý hình rất bỡ ngỡ về thái độ bình tĩnh vui tươi của các ngài. Tới Đồng Mơ, nơi hành quyết, cha Bucharelli quì xuống đất, cất lời cầu nguyện sốt sắng, 9 giáo dân cũng làm theo: hai tay đưa ra sau, nghển cổ lên cho lý hình làm việc bổn phận. Từng cái đầu một rơi xuống, máu nóng tuôn chảy chan hòa tưới đỏ khu đất. Trời tối sụp lại. Các lý hình vội vã đi về, để lại cho dân chúng tự do thấm máu và tôn kính các anh hùng tử đạo. Những người lương dân chứng kiến vụ việc, nói với nhau: “Đạo Công Giáo là một đạo thánh, không sớm thì muộn, Trời sẽ báo oán cho những người thánh này” (DMAH 1, tr. 158).

4. Năm 1745, thời chúa Trịnh Doanh, cha Tế và cha Đậu dòng Đaminh, bị lính dùng gươm chém đầu ngày 22.1.1745. Dân chúng chen nhau thấm máu đào của hai cha. Tối hôm ấy, xác hai cha được tắm rửa và an táng tại xứ Kẻ Bùi. Nhưng hai xứ Trung Linh và Trung Lễ đòi quyền được chôn cất xác của hai cha. Vì thế, một tuần sau, Đức Giám Mục cho phép đào xác hai cha lên để đưa về Trung Linh mai táng trong nhà thờ. Lạ thay, xác các ngài không bốc mùi thối, nhưng mọi người đều ngửi thấy một hương thơm lạ lùng thoát ra… (DMAH 1, tr.179). Chứng kiến cái chết của cha Tế và cha Đậu, một tên lý hình đã thốt lên: “Rồi đây đói kém và thiên tai sẽ đổ xuống trên chúng ta. Tại sao cứ phải giết các đạo trưởng không hề trộm cắp giết người? Chúng ta đều biết rõ họ là đấng thánh”. Lòng tôn kính các đấng anh hùng tử đạo đã lôi kéo nhiều người đến mộ các ngài để cầu nguyện… Nhiều người đã được ơn lạ. Như trường hợp sau đây mà ông Giuse Can đã thề là chuyện có thật: “Thầy già Khiêm đã kể lại cho tôi nghe truyện lý hình Chân Nhuệ đã bắt cha Đậu trước đây, bị đau ốm lâu dài. Sau khi nghe biết cha Đậu đã chết vì đạo thánh, thì ông ta hối cải cầu xin với cha Đậu phù hộ, ông ta được khỏi bệnh cách lạ lùng. Ông ta đã từ bỏ thần phật đã theo đạo do cha Đậu rao giảng trước đây”. Một trường hợp khác được kể lại là người giữ chùa bị đau nặng, dù đã cầu đảo các thần phật và chạy chữa thuốc men nhưng vẫn không khỏi. Một người Công Giáo đến thăm, lặng lẽ nhúng miếng vải đã được thấm máu đào của cha Đậu vào ly nước rồi cho bệnh nhân uống mà không nói gì cả. Bệnh nhân vừa uống hết ly nước thì khoẻ mạnh lại. Ông từ giã chùa và sau xin trở lại đạo (DMAH 1, tr.188-189).

5. Năm 1798, cha Gioan Đạt, người Thanh Hóa, bị trảm quyết và được Chúa cho nhiều dấu lạ xảy ra nhờ lời cha Đạt bầu cử. Nghe vậy, Đức Cha Monger coi sóc địa phận Tây Đàng Ngoài, đã ra lệnh tìm nhân chứng tường thuật lại cuộc tử đạo của cha Đạt. Có ba bài tường thuật đầy đủ. Một bài của y sĩ Huyền Trang, một bài của thày Tăng cùng bị giam với cha, và một bài của thày Benoit Huy. Ngoài ra có nhiều nhân chứng kể lại những phép lạ Chúa ban cho cha Đạt làm, như trường hợp sau đây: Ông Phêrô Vũ Văn Thang kể lại “Cháu trai của tôi bị chứng bệnh đau bụng kinh niên, nhiều khi đau kinh khủng, không thuốc nào chữa được. Tôi liền đi đến mộ cha Đạt đọc năm kinh Lạy Cha, năm kinh Kính Mừng, rồi nhổ vài ngọn cỏ trên mộ ngài đem về nấu nước cho cháu uống. Vừa uống xong bát nước, cháu khỏi bệnh ngay, không đau lại nữa”. Một người khác cũng làm chứng “Tất cả nhà tôi đều tin chắc rằng cậu Đam được chữa khỏi là do lời bầu cử của cha Đạt” (DMAH 1, tr.244).

6. Năm 1833, thời vua Minh Mệnh, cha Phêrô Tùy bị xử trảm tại Thanh Trì (Hà Nội). Ngay khi đến nơi hành quyết, trời bỗng nhiên u tối vì mây đen bao phủ. Những người lý hình nói với nhau: “Ông này có phải là một vị thần không mà trời bỗng dưng ra tối tăm làm vậy?” Thày Bernard Thu làm chứng về đời sống và cuộc tử đạo của cha Tùy như sau: “Nhiều lần tôi nghe kể lại những phép lạ do lời bầu cử của cha thánh nhưng chưa ai viết ra. Tuy nhiên, riêng tôi, tôi tin chắc chắn rằng nhiều lần khi tôi chữa trị cho các bệnh nhân nan y, tôi thường cầu khấn với cha Tùy, chính ngài đã chữa họ lành. Tôi cũng biết chắc một sự kiện khác là đang khi lương dân không làm sao ngăn chặn được sâu phá hoại mùa màng, tôi liền chạy đến cầu nguyện với cha Tùy và rảy nước thánh trên ruộng lúa. Lời cầu nguyện của tôi được chấp nhận. Mọi người sửng sốt thấy ruộng của họ bị sâu phá hoại còn ruộng của tôi thì trổ bông. Tôi cho họ biết lý do và họ ca ngợi Đấng Tử Đạo… Mấy năm sau người ta cải táng và đem xác cha về Pháp. Khi mở mộ ra, người ta ngửi thấy mùi thơm tho dịu ngọt tỏa ra và nước trong bao quanh xác ngài. Nhiều bệnh nhân uống nước này và được khỏi bệnh lập tức. Một số người khác giữ nước này để khi đau sẽ dùng tới” (DMAH 2, tr.50-51).

7. Năm 1837, cha Tân bị xử lăng trì tại Sơn Tây. Khi tiếng chiêng nổi dậy, năm người lý hình tiến ra, chặt đầu cha Tân và phân thây làm bốn miếng. Họ vất ra xa từng miếng một, trừ miếng bụng, họ mổ ra lấy gan của ngài chia nhau mà ăn. Vì họ nghĩ rằng: ‘ăn gan của người chết vì đạo, họ sẽ được thừa hưởng lòng can đảm’. Khi cuộc xử đã bế mạc, một y sĩ Công Giáo, hai người lính và hai chị nữ tu ở lại lượm nhặt các phần thân thể của cha Tân đem về chôn ở làng Chiêu Ẩn. Qua năm 1838, giáo dân xứ Bách Lộc mới cải táng đưa xác cha Tân về chôn trong nhà kho của nhà dòng Mến Thánh Giá. Từ đó giáo dân quen đến viếng và gọi là nhà mồ. Người ta kể rằng: dân chúng tranh nhau thấm máu cha Tân, vì họ nghĩ: ‘Máu bên đạo thiêng lắm, đem về nhà thì quỷ không dám quấy phá nữa’. Người ta còn thuật lại hai phép lạ đã xảy ra do lời cha Tân bàu cử. Một lần có quan quân lùng bắt, nhà dòng mang đồ đạo chạy lên rừng trốn, đêm về nhà thì thấy nhà sáng trưng như có người thắp đèn. Lần khác, có đám nhà cháy, các bà chạy đến cầu nguyện tại mồ cha Tân, lập tức đám cháy ngưng lại, lửa lụi xuống (DMAH 2, tr. 97-98).

8. Năm 1838, cha Phêrô Nguyễn Văn Tự bị trảm quyết tại Nam Định. Khi lý hình vung gươm chém đầu lìa khỏi cổ và tung lên ba lần cho mọi người thấy như tục lệ vốn có, thì dân chúng, Công Giáo và bên lương, chen nhau thấm máu của cha Tự. Người ta chen lấn nhau đến nỗi một số người ngã trên vũng máu và làm cho cả đám người dấy máu của đấng Tử Đạo. Nhiều phép lạ đã xảy ra, chứng tỏ Thiên Chúa muốn cho mọi người ta hiểu của lễ hy sinh mà cha Tự đã dâng lên cho Thiên Chúa, đẹp lòng Ngài biết bao nhiêu. Vừa khi cha được dẫn tới nơi xử, thì trời bỗng dưng tối sầm lại và có ba tràng sấm vang dội. Rồi khi đầu cha rơi khỏi xác, một đoàn chim sẻ từ đâu bay tới đậu chung quanh như để chào đón linh hồn thánh thiện của cha. Một người Công Giáo lấy khăn tay thấm máu cha, lạ lùng thay, ông thấy ba hình in trên vải: một hình cha Tự, một hình tên đao phủ và một hình bối cảnh của pháp trường. Một em bé ngoại đạo mắc bệnh đau bao tử đã lâu năm, người ta cho em uống một ly nước có hòa thêm máu của cha, tự nhiên em được khỏi bệnh hẳn. Cậu Thanh con quan Tuần đã lấy được một miếng vải của cha thánh, nhiều người muốn mua lại, nhưng cậu không bán. Cậu quen nói: ‘Từ khi tôi có miếng vải này, tôi hết bị ma quỷ quấy nhiễu’. Theo lời thày giảng Tín, một tên lính ăn xôi cúng, bị quỷ nhập, thầy lấy nước thánh rảy lên, nó chỉ cười. Ông Loan nhớ ra mình còn giữ được cái kiếm lý hình đã chém cha Tự. Ông ta lấy ngay thanh kiếm ép vào cổ người bị quỷ ám, lập tức anh ta được lành. (DMAH 2, tr.229-230).

9. Năm 1838, y sĩ Giuse Lương Hoàng Cảnh bị xử trảm tại Bắc Ninh. Tới nơi xử, người ta tháo gông của cụ ra, bắt cụ quỳ cúi đầu xuống. Một hồi chiêng vang dội, lý hình chém đầu cụ rơi khỏi cổ. Lương dân xô nhau thấm máu và xâu xé tấm áo cụ mang trên mình, đến nỗi quan và lính không sao cản ngăn nổi. Sau đó người ta chôn tạm xác cụ ở bên sườn đồi. Hai người lương đã ăn cắp xác cụ Cảnh và đòi người Công Giáo phải trả 36 quan tiền mới trả lại. Trên đường đi đến nghĩa trang, người ta bó buộc phải có đò mới qua sông được. Thế mà hôm nay, khi tới sông Câu, đò đã không có, nước lại dâng cao. Những người Công Giáo hộ tống xác cụ Cảnh quỳ xuống sốt sắng xin Chúa cho có đò hay phương thế nào để đưa xác cụ Cảnh qua sông. Lạ thay, nước xuống thật nhanh chưa từng có. Người ta có thể đi qua sông dễ dàng, đem được xác cụ Cảnh tới nơi họ muốn an táng cụ. Mọi người hân hoan cám ơn Chúa và coi đó như một phép lạ Chúa làm để ân thưởng người tôi trung của Ngài (DMAH 2, tr. 234).

10. Năm 1838, cha Vinhsơn Nguyễn Thế Điểm bị xử giảo tại Đan Sa. Nếu trong bản án của cha Điểm quan tỉnh vu cáo là ‘ngài đã dùng phù phép kín đáo để dụ dỗ người ta theo đạo’, thì khi ngài vừa bị xử giảo, Thiên Chúa đã cho ngài làm nhiều phép lạ vinh danh Chúa. Khi cải táng cha Điểm về Hướng Phương có xảy ra một sự lạ: một cậu học sinh ăn cắp một miếng xương đốt ngón tay của cha Điểm đem về nhà chơi. Không bao lâu, cậu lên cơn đau bụng kinh khủng. Cha Tự biết chuyện, liền bảo cậu phải đem trả lại đốt xương. Cậu học trò vâng lời đem để trên mộ cha Điểm. Lập tức cơn đau bụng chấm dứt và không bao giờ trở lại nữa. Hai chuyện khác: một gia đình Công Giáo ở gần mộ của cha Điểm. Họ sợ khi có bắt đạo, họ sẽ bị liên lụy. Vì thế một đêm khuya, họ cả gan ra san bằng mộ của cha Điểm. Chỉ hai hôm sau, người chồng bị tai nạn chết cách đau thương. Người vợ hối hận, nhận tội và cầu nguyện xin cha Điểm thứ tha. Cũng tương tự, một nông phu dám dắt trâu đến ăn cỏ và đạp lên mộ của cha Điểm. Trâu của ông bỗng nhiên liệt hai cẳng sau. Ông sợ quá, vội khấn xin cùng cha Điểm, trâu của ông mới đặng khỏi (DMAH 2, tr. 268-269).

11. Năm 1839, ông Toma Nguyễn Đệ bị xử giảo tại Cổ Mễ. Sau khi quân lính buộc dây vào cổ ông Đệ và kéo cho chết nghẹt, dân chúng ùa vào thấm máu và lấy các di tích của ngài. Giữa nửa đêm, một người Công Giáo chạy vào vác xác thánh Đệ đưa về Kẻ Mốt. Ông kể lại câu chuyện xảy ra trong khi ông vác xác thánh như sau: “Tôi vác xác thánh vào lúc nửa đêm. Bất chợt xác ngài tỏa ra ánh sáng chỉ đường cho tôi phải đi về đâu. Khi tới bờ sông tôi rất lo lắng vì tôi biết chắc chắn không có đò vào giờ đó, thì làm sao tôi qua được bờ bên kia? Nhưng trái với ý nghĩ của tôi, lúc đó nước rút xuống rất thấp đến nỗi tôi có thể lội qua bờ bên kia cách dễ dàng. Hơn nữa, khi tôi đến làng Kẻ Mốt, tôi thấy cổng làng đã mở, dù cổng làng luôn đóng chặt vào lúc ban đêm. Tôi vác xác thánh vào nhà thờ và đặt trên bàn thờ. Lúc đó không có đèn sáng trong nhà thờ, nhưng có ánh sáng phát ra lạ lùng từ xác của vị thánh. Thật là một dấu lạ!” (DMAH 2, tr. 372).

12. Năm 1840, thày Toma Toán bị kết án ‘bỏ đói tới chết’. Khi quan biết thày Toma đã chết thật, quan truyền chôn xác thày cùng một chỗ quen chôn xác tù nhân. Ông Phêrô Dần và hai giáo dân khác đã đút tiền để lấy xác thày cho vào quan tài và chôn cất tử tế. Sắp sửa chôn thì có hai người đàn bà đã giúp thày trong tù, chạy đến xin được nom thấy mặt thày lần cuối cùng. Nắp quan tài được mở ra, mọi người kinh ngạc khi thấy mặt thày chiếu sáng với một vẻ đẹp siêu thoát. Họ liền cắt lấy một ít tóc của thày và chia nhau giữ làm kỷ niệm. Thày được chôn cất lại như cũ (DMAH 2, tr. 437).

13. Năm 1842, cha Phêrô Khanh bị xử trảm tại Hà Tĩnh. Người ta kể: hôm xử án cha Khanh trời nắng đẹp khắp nơi. Thế nhưng, lúc 10 giờ sáng, cha Khanh vừa quỳ xuống cầu nguyện trên pháp trường thì tự nhiên trời sập tối, rồi đến khi cha Khanh bị chặt đầu, thì trời lại đổ mưa thật lớn trong vòng ba phút. Người lương đi coi rất đông, thì thầm với nhau: ‘Tại sao trời nắng mọi chỗ, chỉ có nơi xử là mưa?’ Hoặc: ‘Xử cụ đạo có mưa làm vậy là sự lạ!’. Ngay khi cha bị chém đầu, đồng bào ùa vào thấm máu. Tính ra có tới 500 tờ giấy thấm máu cha Khanh. Dù là mùa hè, thân xác của cha Khanh vẫn thơm tho, không mùi hôi thối, nét mặt vẫn tươi tốt, máu chảy ra vẫn đỏ đến nỗi nhiều người tưởng cha Khanh chưa chết. Khi cha Nghiêm hỏi: “Tại sao xác cha Khanh vẫn mềm hè?”. Dân chúng thưa: “Bẩm vì xác thánh thì mềm!”. Xác cha Khanh được an táng trong nhà thờ họ đạo. Một số ơn lạ được ban xuống cho người kêu xin, nhất là việc được sinh con dễ dàng, nhờ lời bầu cử của cha Khanh (DMANH 3, tr. 37-38).

14. Năm 1857, cha Phaolô Lê Bảo Tịnh bị xử chém tại Nam Định. Trong thời gian từ 1831 đến 1838, khi còn là thày giảng, nhiều lần thầy Phaolô được Đức Giám Mục sai đi Macao đón các thừa sai và lấy đồ về cho nhà chung. Lần cuối cùng đồ hàng bị cướp, thày Phaolô phải lưu lại Macao một năm để thưa kiện và lấy lại đồ đã bị cướp. Rồi trong một đêm Đức Mẹ đã hiện ra nói với thầy: “Phaolô, Phaolô, khi về Việt Nam, con sẽ phải chịu khổ vì đạo”. Thầy không tin, thày tưởng một mỹ nhân nào đến cám dỗ, nên thầy hỏi lại bằng tiếng latinh, tiếng việt, tiếng trung hoa. Hỏi tiếng nào, Đức Mẹ trả lời bằng tiếng ấy: “Ta là Đức Bà Maria”. Dầu vậy thầy Tịnh vẫn không tin cho tới khi bị bắt ở Thạch Tổ năm 1841 (DMAH 3, tr.131).

15. Năm 1858, cha Đaminh Mầu bị chém đầu tại Hưng Yên. Cha nổi tiếng về lòng yêu mến kinh Mân Côi, cha luôn đeo chuỗi Mân Côi bên ngoài cổ. Xác cha Mầu được giáo dân đem về an táng trong nhà thờ Mai Lĩnh tỉnh Hưng Yên. Trước tòa án điều tra năm 1864, nhiều người đã làm chứng được ơn lạ nhờ lời bầu cử của cha Mầu: Ông Đaminh Đỗ thuộc họ Đức Bà Thượng Lạc, xứ Kẻ Điền quyết đáp mình đã được khỏi bệnh đau bụng nguy kịch; bà Thị Chi, 50 tuổi, thuộc làng Lập Bái, cũng tuyên chứng mình được khỏi quỷ ám cách lạ lùng năm 1884; Ông Cai Thìn, người lương, cũng quả quyết mình được khỏi bị quỷ ám nhờ cầu khấn trên mộ cha Mầu (DMAH 3,tr.197).

16. Năm 1861, ba Đức Cha Vọng (Liêm), Đức Cha Tuấn và Đức Cha Vinh cùng bị trảm quyết một ngày tại Hải Dương. Bản án cấm không một ai được vào thấm máu các ngài. Nhưng khi hành quyết ba đấng xong, các quan đi về hết, dân chúng tự do ùa vào thấm máu của ba Đức Cha và họ được chứng kiến nhiều phép lạ, xảy ra ngay từ lúc hành quyết, như trời tối sập lại, hương thơm tỏa ra từ thân xác của các ngài, những đàn bướm trắng đến đậu trên xác các ngài. Riêng đầu của ba Đức Cha, sau ba ngày bị bêu nắng, đã được giáo dân bày mưu chiếm lại: Giáo dân đãi lính canh ăn một bữa cơm thật thịnh soạn. Trong lúc lính ăn vui vẻ, giáo dân lợi dụng trời đã nhá nhem tối, lấy ba củ chuối thế vào ba cái đầu bọc trong bao bố. Lính không ngờ, họ đem ba củ chuối ném xuống sông. Còn giáo dân, đứng đầu là ông tổng Oánh, lấy áo gói ba cái đầu của ba Đức Cha đem về an táng trong nhà thờ thánh Gioan ở Yên Dật. Các bà dòng xin cái áo quý đó để giữ làm kỷ niệm, nhưng ông tổng Oánh không chịu. Ông đã dùng chiếc áo này cứu được nhiều bệnh nhân nhờ phúc đức của các Đấng tử đạo: Ba đứa con ông lên đậu mùa, ông tổng Oánh lấy chiếc áo phủ lên chúng, cả ba đứa được khỏi bệnh. Ông cũng giữ được một tấm vải thấm máu Đức Cha Vọng: Hễ soi ra ánh sáng, người ta nhìn thấy cây thánh giá. Còn thân xác ba Đức Giám Mục, sau này, người Công Giáo đã chuộc về với giá 100 quan tiền. Đêm cải táng, nhiều luồng sáng tỏa ra từ thân xác các ngài, thật lạ lùng. Hơn thế, dù đã chôn hơn ba tháng rồi, khi đào lên, cả ba thân xác vẫn còn nguyên vẹn, tươi tốt và tỏa hương thơm ngào ngạt (DMAH 3, tr.290).

17. Thời gian 1883-1886, phong trào Văn Thân và Cần Vương nổi lên tàn sát đạo Công Giáo cách dã man nhất trong lịch sử, từ Hà Nội, Hải Dương, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Huế… đổ vào miền Nam. Nhưng thiệt hại nhất là Bình Định: có 8 thừa sai, 7 linh mục, 270 nữ tu, 24.000 giáo dân bị giết chết. Ngoài ra toà giám mục, 2 chủng viện, 10 tu viện, 17 nhà mồ côi, đều bị tàn phá. Các họ đạo cũng chung số phận, chỉ có hai họ đạo thoát nạn. Chính trong cuộc tàn sát này, Đức Mẹ đã hiện ra cứu chữa dân làng Trà Kiệu (DMAH 3, tr. 336-338)

* * * * *

Đức Giáo Hoàng Gregoriô XVI (1834-1846) được nhiều sử gia như Goyau và Schmidlin tặng khen là ‘vị giáo hoàng truyền giáo của thế kỷ XIX’. Ngay khi vừa lên ngôi, ngài đã quan tâm đến những cuộc bắt đạo đẫm máu tại Việt Nam và Trung Hoa. Riêng với Giáo Hội non trẻ tại Việt Nam, đức Grêgoriô XVI đã phát động một chiến dịch có tầm mức hoàn vũ, xin mọi Kitô hữu cầu nguyện đặc biệt cho giáo dân được kiên trì trong mọi thử thách. Đồng thời, năm 1840, ngài viết thư yên ủi và khích lệ tinh thần can đảm sống đức tin, tuyên chứng đức tin và chết vì đức tin của các linh mục, tu sĩ và giáo dân Việt Nam. Ngài viết “Các con thân yêu, các con là những người đã can đảm không chối đạo, các con đừng bao giờ nản lòng vì những khốn khổ, hãy ngước mắt trông lên trời nơi dành cho những người chiến thắng đạt được triều thiên bất tử. Ngày gian khổ thì vắn vỏi, nhưng theo sau bao nhiêu an ủi và phần thưởng dồi dào và hạnh phúc trường sinh đang chờ đợi chúng con. Các con sẽ không phải chịu bắt bớ hành hạ tàn nhẫn mãi như vậy đâu. Sẽ có ngày, các con được lau sạch nước mắt, được thoát khỏi cơn bão táp khủng khiếp và sẽ được an bình phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật”. Lời của Đức Thánh Cha Gregoriô XVI đã tóm tắt những gì chúng ta trình bày trong chương sách này. Ngài cũng mở ra cho chúng ta một viễn tượng tương lai ‘sau cơn giông trời lại sáng’, ‘sau gian lao thử thách sẽ có trời mới đất mới’ hay như lời Chúa chúc phúc: “Phúc cho anh chị em khi bị người ta gièm pha, vu khống, bắt bớ và giết hại vì danh Ta. Anh chị em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh chị em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,11-12). Nói một cách khác sát với chủ đề của bài viết: tiếp theo những gièm pha, vu khống, hình nhục và chết nhục là những dấu lạ ân thưởng tại thế, báo hiệu ‘phần thưởng bội hậu trên trời’. Cũng có thể nói vắn gọn theo văn hóa Việt Nam: “Thiên Đạo chí công”, Đạo Trời thật công bằng!.

——————

(1) Nguyễn Đồng Chi, ‘Kho tàng truyện Cổ Tích’ 1, tr. 7-13.

(2) Nguyễn Đồng Chi, sd 4, tr. 211-223.

(3) Nguyễn Đồng Chi, sd 5, tr.12-15.

(4) Nguyễn Đồng Chi, sd 5, tr. 148-154

(5) Nguyễn Đồng Chi, sd 5, tr. 105-110.

(6) Phạm Đình Tân, ‘Tâm Hồn Việt Nam’ (1988), bài ‘Nguyễn Du, thi sĩ đau khổ’, tr.54.

(7) Hồng Lam, ‘Lịch sử đạo Thiên Chúa tại Việt Nam’, 1944, Đại Việt xuất bản, Huế, tr.23-24. Đoạn này được Trịnh Việt Yên trưng lại trong cuốn ‘Máu Tử Đạo Trên Đất Việt Nam’. 1949, tr. 19-20. Có hai việc đáng tiếc to lớn và tai hại là ‘tranh dành vấn đề quyền hành và cãi nhau về vấn đề nghi lễ thờ cúng tổ tiên’ xem Phan Phát Huồn, ‘Việt Nam Giáo Sử’ I, tr. 188-200.

(8) Vũ Thành, Dòng Máu Anh Hùng ba cuốn 1, 2, 3. Trong bài này tôi trưng dẫn nhiều và viết tắt là (DMAH, 1, 2, 3, tr….). Chúng tôi trích dẫn hoặc dựa theo bộ sách của cha Vũ Thành, vì đọc các chú giải hay thư mục ở phần cuối của mỗi cuốn, chúng tôi yên tâm về nguồn liệu lịch sử liên hệ đến Giáo Hội Việt Nam mà cha đã nghiên cứu và xử dụng.

(9) Nguyễn Khắc Xuyên, ‘Để Hiểu Lịch Sử Đạo Thiên Chúa ở Việt Nam đầu thế kỷ XVII’ C.A. 1994, tr. 52-54.

(10) Trịnh Việt Yên, sd, tr. 26.

(11) Đỗ Quang Chính sj, ‘Hòa mình vào xã hội Việt Nam’, nxb Tôn Giáo, 2008, tr.222. Cao Kỳ Hương, ‘Đạo Hiếu của người Công Giáo’, Hà Nội, 2010, tr. 42+48-54. Phan Phát Huồn, sd, tr. 196-200.

(12) Trần Trong Kim, ‘Việt Nam Sử Lược’, 2, tr.186. xem Phan Thiết, ‘Đất Việt, Người Việt, Đạo Việt’ 1995, tr.345.

(13) Toan Ánh, ‘Tín Ngưỡng Việt Nam’ quyển hạ, tr. 17-18.

(14) Xem: Vũ Thành, sd 3, tr.330-339, Phan Phát Huồn, sd 2, tr.512-519. Chúng ta có thể đọc lời nhận định của sử gia Trần Trọng Kim: “Nước ta mà không chịu khai hóa ra như các nước khác là cũng bởi bọn sĩ phu cứ giữ thói cũ, không chịu theo thời thế mà thay đổi. Nay sự suy nhược của mình sờ sờ ra đấy, thế mà vẫn cứ không chịu mở mắt ra mà nhìn, lại vì sự tức giận một lúc mà việc nông nổi càn dở, để cho thiệt hại thêm, như thế thì cái tội trạng của bọn sĩ phu đối với nước nhà chẳng to lắm ru?” (sd 2, tr.289).

(15) Phan Phát Huồn, sd 2, tr.513

Thánh Anê Lê Thị Thành

Mẹ gia đình (+1841)

Tiểu sử Thánh Nữ Maria MARGARITA

Tiểu sử Thánh Nữ Maria MARGARITA

và Mạc khải của Thánh Tâm Chúa Giêsu

(Dịch từ nguyên bản Pháp ngữ của Tu Viện Visitation Sainte-Marie)

 

 

 

 

 

 

 

Thánh Nữ Maria
MARGARITA
1647-1690
Paray-le-Monial
Những Năm Tháng đầu

Margarita Alacoque sinh ngày 22 tháng 7 năm 1647,  tại Vérosvres, trong một ngôi làng dân số khoảng sáu trăm người thuộc vùng Bourguignon, miền trung nước Pháp. Thánh nữ là con thứ năm trong một gia đình có bảy người con, trong đó có một người đã mất. Bố Margarita là công chứng viên Hoàng gia, chức vụ rất quan trọng thời đó, nên địa vị trong xã hội khá cao, trong khi những người trong gia tộc đều là nông gia. Thánh nữ nhanh chóng được rửa tội vào ngày 25 tháng 7 năm 1647.

Tuổi thơ của Thánh nữ hầu như rất hạnh phúc, mặc dù Margarita mất đi một người em gái kế. Bé Margarita được Bố Mẹ gởi ở với Mẹ đỡ đầu một thời gian, trong lâu đài ở Corcheval. Có lẽ đó là dự định của đấng Toàn năng, vì chính tại đây, Bé Margarita được sớm nghe nói đến đời sống tu trì, do con gái của Mẹ đỡ đầu Margarita là một nữ tu của dòng Thăm Viếng, và Bé cũng khám phá ra Tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa và sự hiện hữu đích thực của Ngài. Cũng tại đây, Bé được học những bài giáo lý vỡ lòng.

Năm 1655, Bé Margarita bắt đầu nếm trải những nỗi đau khổ của gia đình với sự ra đi vĩnh viễn của Bố. Và ngay sau đó không lâu, Mẹ đỡ đầu, là goá phụ, cũng đi đến một nơi rất xa để tái hôn….Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu của những đau khổ sâu sắc kế tiếp. Vì rằng, bà quả phụ Alacoque, đã quá chán ngán bởi những biến cố vừa xảy ra trong đời, đôi lúc nhục nhã, mất thể diện với những vụ kiện tụng hay những cuộc tịch thu của cải, nên Bà tiến thêm bước nữa, và Bé Margarita thấy xuất hiện trong nhà mình một gia đình mới, mà người đứng đầu (Cha dượng) dần dần trở thành kẻ lộng quyền. Bé Margarita được gởi vào sống nội trú trong một tu viện, nhưng điều đó không làm cho Bé phật lòng chút nào khi phải xa gia đình, vì từ lúc được ở Corcheval, Bé Margarita đã ấp ủ trong thâm tâm của mình một niềm ao ước thầm kín, là được dâng hiến trọn đời mình cho Thiên Chúa. Vì thế, lòng thành tâm và sự sốt sắng sùng đạo của Bé Margarita đã làm cho mọi người ngạc nhiên. Chưa đầy mười tuổi, Bé Margarita được xưng tội rước lễ lần đầu, và được thánh hóa trong tình yêu của Thiên Chúa hoàn toàn.

Nhưng vài tháng sau khi rước lễ lần đầu, Bé Margarita lâm trọng bệnh, bắt buộc phải trở về với gia đình. Bé nằm liệt giường gần bốn năm, mình đầy dẫy thương sẹo, đau đớn nhưng Bé vẫn kiên trì chịu đựng và phó thác mọi sự cho Thiên Chúa. “Những cạnh xương đâm thấu qua da con từ mọi phía”, sau này Thánh nữ đã viết lại như thế. Lúc đó, vào tuổi mười ba, Bé Margarita nguyện hứa cùng Đức Trinh Nữ Maria, sẽ dâng hiến trọn cuộc đời mình nếu được lành bệnh. Và như có một phép mầu, Bé được lành bệnh mau chóng. Trọn cuộc đời mình, Thánh nữ sùng kính và tôn thờ Đức Mẹ một cách mạnh mẽ, Đức Trinh Nữ Maria cũng đã hiện ra với Ngài.

Thời niên thiếu.

Sức khoẻ bình phục trở lại, Margarita cảm thấy yêu đời hơn và trở thành một thiếu nữ tràn đầy sức sống, nàng cũng cảm thấy yêu cuộc sống và thế giới mọi người chung quanh hơn, hơn nữa, Mẹ và bốn anh em nàng lúc nào cũng lo lắng và chăm sóc cho đứa con mà họ nghĩ là cuộc sống không còn kéo dài bao lâu nữa! Cũng chính vì thế mà Margarita lưỡng lự giữa cuộc sống trần tục vui nhộn và một cuộc sống thánh thiện, tất cả cho Thiên Chúa…Họ hàng bên nội luôn ở bên cạnh để giúp đỡ và hướng dẫn nàng trên con đường lựa chọn trước sự độc đoán trong gia đình của Mẹ và những anh em trai, Margarita lớn lên trong Đức tin và lòng Bác ái, nối kết với lòng kiên nhẫn và can đảm trong đau khổ của chúa Giêsu: Margarita gọi đó là “Những người bạn rất tốt của Linh hồn con”

Một năm, vào tháng mười hai, Mẹ Thánh nữ ngã bệnh: đầu bà sưng to với một cục bướu nhọt ung mủ. Bác sĩ trong làng nói rằng bà khó qua khỏi, và chỉ khơi vết nhọt cho ra hết mủ mà thôi, chứ không chữa trị gì thêm. Ngày đầu năm, theo như thông lệ, Margarita lánh mình vào trong vòng tay thân yêu của Chúa và Đức Trinh Nữ Maria, tìm hiểu Thánh ý xem nàng phải làm gì. Sau khi trở về, nàng thấy vết ung nhọt của Mẹ vỡ toét ra, làm thành một vết lở loét rộng, trông thật ghê tởm làm cho nhiều người không dám đến gần. Margarita thì lại thấy đây là một dấu hiệu của Chúa, với dáng vóc mảnh khảnh bẩm sinh, nàng tận tình chăm sóc cho Mẹ, và giống như có một phép lạ, Bà được lành bệnh nhanh chóng.

Nhưng sự đau khổ của Margarita chưa dừng lại: lúc nàng được khoảng 16 tuổi, anh trai cả qua đời. Hai năm sau, người anh thứ hai, cũng nối tiếp ra đi…
Margarita lúc này được 18 xuân xanh. Đó là một thiếu nữ thích nô đùa, vui vẻ, bản tính rất ngây thơ, vô tư. Và không phải là nàng không có nét quyến rũ, hấp dẫn: nàng lúc nào cũng được xem như một người “tình lý tưởng”, điều đó rất vừa ý Mẹ nàng, vì bà thấy nơi đây sẽ có một cuộc hôn nhân, và đó là phương thế duy nhất đưa bà thoát khỏi gia đình chồng, bằng cách về sống với con gái. Thế nhưng, Margarita đã không quên niềm ao ước sống đời tận hiến, và trong vòng sáu năm kể từ khi được lành bệnh, nàng vẫn đứng trước ngưỡng cửa sự lựa chọn: sống yêu thương giữa thế giới hay tận hiến trong tình yêu Thiên Chúa, lúc thì tưởng mình không thể nào chịu đựng nổi cuộc sống tu hành, nhất là Đức Vâng Lời, lúc thì nhớ lại lời hứa cùng Đức Trinh Nữ Maria, và đôi khi Thiên Chúa cũng nhắc nhở cho nàng lời hứa xưa…Thấy chưa thể tự quyết định một mình trước con đường phải lựa chọn, Margarita chuyển sang dành nhiều thì giờ hơn cho tha nhân: giúp đỡ những bệnh nhân, dạy giáo lý cho trẻ em. Và nhất là chấp nhận sống đau khổ một cách dũng cảm và tự nguyện dưới sự bạo hành của cha dượng.

Hướng về dòng Đức Bà Viếng thăm

Lúc 20 tuổi, Margarita quyết định nói ra ước mơ sống đời tận hiến của mình. Ý định này của Nàng đã làm dấy lên một cơn bão chống đối từ những người thân trong gia đình; ngay cả Cha xứ trong làng cũng khuyên ngăn, điều đó đã làm cho nàng rất bối rối!

Thế nhưng, Thiên Chúa nhân từ đã ở cạnh bên để soi sáng cho nàng: năm 22 tuổi, Margarita quyết định con đường Tận hiến cho mình, và chọn thêm tên Thánh Maria vào với tên Thánh rửa tội của mình. Và một vị Linh mục khi đến thuyết giảng trong một ngày Lễ của gia đình, đã thuyết phục họ từ bỏ những chống đối lại ơn gọi của nàng.

Từ lúc này, Margarita trở thành Maria-Margarita, vững vàng trong sự lựa chọn của mình. Thấy sự quyết tâm không chùn bước của Margarita, gia đình muốn lựa chọn tu viện cho nàng, qua những người quen biết và trong dòng họ. Nhưng không thành: Margarita đã bị quyến rũ bởi Dòng Đức Bà Viếng Thăm, vì nhìn thấy trong tên gọi của nhà dòng, biểu hiện của lời hứa khi xưa.

Margarita-Maria chọn dòng Đức Bà Viếng Thăm ở Paray-le-Monial. Và nàng biết ngay là mình đã chọn đúng nơi, vì vừa bước qua ngưỡng cửa Tu viện, nàng nghe tiếng nói của Thiên Chúa trong tận thâm sâu của cõi lòng: “Chính nơi đây, Cha muốn Con đến”. Nàng xin được vào dòng làm tập sinh với lòng tràn đầy niềm sung sướng đã có sẵn!  Năm đó là năm 1671.
Margarita được nhận vào nhà tập, và mở cõi lòng một cách thành thật với Mẹ linh hướng của tập sinh. Mẹ linh hướng này, cũng như Mẹ bề trên đều thấy rõ rằng Thiên Chúa đã tác động đặc biệt trên Margarita, nhưng lo ngại rằng sự nhiệt tâm của Margarita hơi đi quá đà. Và các Bà đã làm cho Margarita hiểu rõ rằng những sự nhiệt tâm quá đà đó không nằm trong tinh thần của nhà Dòng, và nên trở về con đường nhỏ hẹp như nhiều người đã đi qua!

Thấy Margarita quá sâu sắc và âm thầm chịu đựng, hầu như là quá tốt, như thể một nữ tu đã khấn dòng, và để thử xem có thật là Margarita tốt đến như vậy không, người ta áp dụng phương cách hạ thấp nàng xuống, nhưng không vì thế mà Margarita-Maria bị nản lòng, nàng không khó chịu và làm chu tất các công việc, đúng theo những điều được sai bảo. Sự bền chí của nàng làm cho nhiều người kinh ngạc, nhưng đồng thời cũng làm nhiều người bực mình, chướng mắt. Họ nghĩ là Margarita giả bộ “diễn trò thánh thiện” để được người khác khâm phục. Thế là lại có thêm lý do mới nữa để Margarita phải chịu sự sỉ nhục và làm việc nhiều hơn. Người ta còn nghĩ rằng không biết nàng có được khấn trọn đời không và loan truyền rằng “tính đặc biệt” như thế không thể là một mẫu mực tốt. Chính vì thế, ngày khấn dòng của nàng bị hoãn lại hai tháng để chịu thử thách thêm!

Nhưng rồi, Margarita cũng được khấn trọn đời ngày 6 tháng 11 năm 1672. Và nữ tu Margarita kết hôn từ giờ phút đó với Chúa Kitô đau khổ, Chúa Kitô đang hấp hối.

Ba lần “Hiện ra chính”

Cho đến lúc đó, Maria Margarita vẫn thường văng vẳng nghe được tiếng nói của Chúa trong thâm tâm. Nhưng vào ngày 27 tháng 12 năm 1673, Chúa Kitô đã hiện ra với Thánh nữ bằng hình dáng con người thực, cho Thánh nữ thấy Trái Tim cực Thánh Ngài tỏa sáng như ánh mặt trời, mang dấu vết của ngọn giáo và vòng gai quấn quanh đâm sâu, phía trên là một cây Thánh giá. Ngài ban cho Thánh nữ thông điệp đầu tiên: “Thánh Tâm Cha tràn đầy niềm say mến  nhân loại, và đặc biệt cho riêng con, không thể chứa hết ngọn lửa khao khát tình thương mến này, nên phải được tưới ra cho mọi người, qua khả năng của con”. Đức Kitô đã kết hợp trái tim của Thánh nữ vào Thánh tâm Ngài, và từ giờ phút đó trở đi, Maria Margarita phải chịu một sự đau đớn liên lỉ bên cạnh sườn. Sứ mệnh được giao phó cho Thánh nữ không phải nhỏ: rao truyền cho mọi người về Tình Yêu không bờ bến của Thiên Chúa… Đó là lần đầu tiên trong ba lần “hiện ra chính”, còn những lần hiện ra khác nữa.

Lần hiện ra chính thứ hai là vào năm kế tiếp, vào một ngày thứ sáu đầu tháng. Đức Kitô biểu lộ cho Thánh nữ một lần nữa Trái Tim cực Thánh của Ngài, “tỏa sáng ánh vinh quang với năm vết thương lóng lánh giống như năm mặt trời”. Đức Kitô phàn nàn sao nhân loại quá xa tình Thương Yêu của Ngài, và đáp trả lại tình thương yêu của Ngài quá ít… Ngài nói cùng Thánh nữ như sau: “Con sẽ rước lễ […] vào mỗi thứ sáu đầu tháng. Và, mỗi đêm thứ năm rạng ngày thứ sáu, Cha sẽ cho Con được dự phần vào sự đau buồn chết chóc mà Cha đã cảm thấy khi xưa ở vườn Cây Dầu  […] Và, để cho con được cùng đồng hành với Ta […] Con sẽ chỗi dậy giữa 11 giờ và nửa đêm để quỳ gối cùng cầu nguyện với Ta”. Hơn thế nữa, Đức Kitô cũng nhắc lại cho Thánh nữ tính chất quan trọng của Đức Vâng Lời, vì ma quỷ “không có quyền hạn gì trên Đức Vâng Lời”.

Trong tuần bát nhật kính Thánh Thể, năm 1675, đó là lần hiện ra chính thứ ba, và có thể là lần được biết đến nhiều nhất. Thêm một lần nữa, Đức Kitô cho Thánh nữ thấy Trái Tim cực Thánh, và huấn dạy bằng những lời này:”Đây là Trái Tim đã yêu thương nhân loại không bờ bến, không quản ngại một thứ gì cho đến hơi thở cuối cùng để làm chứng cho Tình yêu, nhưng bù lại, Ta chỉ nhận được từ nhiều người, một bội bạc qua sự thiếu tôn kính và lòng xúc phạm, qua sự lạnh nhạt và đôi khi cả sự khinh thường […] Nhưng điều làm Ta cảm thấy đau nhói hơn, đó là ngay cả những người mà trái tim đã dâng hiến cho Ta, cũng làm như thế”. Ngài yêu cầu Thánh nữ thiết lập một lễ Thánh Tâm Chúa, nghi lễ chung cho mọi người! Maria Margarita, một nữ tu nhỏ bé thuộc dòng Viếng Thăm trong một thành phố nhỏ, dĩ nhiên là không biết phải làm cách nào để đáp lại lời yêu cầu của Ngài!

Những năm tháng khó khăn

Huống chi Sơ lại không được sự hỗ trợ của ai cả: Maria Margarita cảm thấy nhiều Sơ linh hướng còn cho mình là người cuồng tưởng và cho đó là do tác động của ma quỷ. Và Sơ rất thận trọng trong công việc, trong khi đó, các Sơ khác vì không biết rõ những Mạc khải của Thiên Chúa đã làm cho Sơ Margarita nên tỏ ra khó chịu, thậm chí còn tỏ ra khinh miệt Sơ. Đó là một sự đau khổ ghê gớm cho Sơ, vì không ai chịu hiểu cho mình, nhưng có lẽ đó cũng là phương cách Thiên Chúa dùng để Thánh hoá con người Sơ Margarita. Rồi thì, vào tháng 3 năm 1675, Cha Giám đốc linh hướng đã đến với Sơ, đó là Cha Claude de Colombière, còn trẻ thuộc dòng Tên. Trong vòng một năm rưỡi, Ngài luôn ở bên cạnh để trợ lực cho Sơ trên con đường của Thiên Chúa.

Có được một người ở bên cạnh để động viên và hỗ trợ tinh thần thật là một điều may mắn, vì cuộc sống của Sơ Maria Margarita không phải không bị dao động, có đôi khi những mối nghi ngờ đã lóe lên đằng sau những thiện chí và lòng nhiệt thành của mình. Ngưòi ta có thể hiểu đó là vì Thiên Chúa muốn chia sẻ cùng Thánh nữ những nỗi đau khổ của trần thế, để qua đó Sơ sẽ được tận hưởng hoàn toàn Tình yêu của Người. Và Maria Margarita đã biết chắc chắn như thế:  “Không có sự đau khổ cho những ai khát khao yêu mến chân thành, vì những gì có vị đắng sẽ làm thay đổi Tình yêu”. Và đây, cũng là con đường để Thánh hoá chung cho con người.

Vào tháng 11 năm 1677, Thiên Chúa làm cho Sơ phải tiến thêm một bước nữa, Ngài đòi hỏi Sơ một sự dũng cảm. Trước sự hiện diện của các chị em trong dòng, Sơ Maria Margarita, thay mặt cho Thiên Chúa, tuyên bố rằng Ngài rất bất mãn trước sự thiếu lòng kính Chúa và thương người đang tồn tại trong nhà dòng và Ngài đòi hỏi phải sửa đổi ngay! Dĩ nhiên, người ta có thể hình dung ra những phản ứng: có vài Sơ lui về phòng một cách lặng lẽ, xúc động một cách chân thành, nhưng phần lớn thì vây quanh Thánh nữ, đối xử tàn nhẫn với ngài một cách gay gắt bằng những lời lẽ xúc phạm, cho rằng ngài bị quỷ ám…Đó là một sự thử thách gay go, và Sơ đã chấp nhận vâng theo Thánh ý Chúa.

Người ta dễ dàng tưởng tượng rằng những tháng kế tiếp đều trôi qua một cách không tốt đẹp, tình hình lúc nào cũng ở trong trạng thái căng thẳng. Nhưng Sơ Maria Margarita vẫn làm những công việc bình thường như Bề trên chỉ dạy và sai bảo, hoàn thành tốt mọi công việc được giao phó. Tất cả những gì Sơ làm, Sơ đều làm với sự hỗ trợ của Thiên Chúa, và không có gì có thể dứt Sơ ra khỏi sự cầu nguyện triền miên. Sơ Maria Margarita phải trải qua tất cả mọi công việc trong nhà dòng, ngoại trừ công việc gác cửa và làm Mẹ bề trên.
Năm 1684, trong lần tĩnh tâm một mình hàng năm, Maria Margarita kết hôn với Thiên Chúa thêm một lần nữa, bằng một cách nhạy cảm hơn. “Ngài kết hôn với linh hồn con, hơn cả Tình yêu mến của Ngài”,  Sơ bình luận một cách ngắn gọn sau này.

Tiến đến một nghi lễ về Thánh Tâm Chúa

Vào năm 1685 và 1686, Sơ Maria Margarita trở thành Sơ giám quản coi sóc các Tu sinh. Sơ có thể bắt đầu nói về Thánh Tâm Chúa cho các Tu sinh. Trong một dịp nói chuyện nhỏ với các Tu sinh, Sơ thấy một bức hình Thánh Tâm Chúa được vẽ bằng lông chim treo giữa phòng! Với niềm vui mừng khôn tả, Sơ Maria Margarita liền mời gọi cả Tu viện liên kết cùng Sơ để tôn vinh Thánh Tâm Chúa, nhưng không thành. Ngược lại, thêm một lần nữa, một số đông các Sơ khác đã liên kết lại với nhau để chống lại, cho rằng cái tham vọng đưa ra một nghi lễ mới là chưa đúng lúc.

Và Sơ Maria Margarita vẫn chưa ra khỏi con đường hầm đau khổ. Sau khi gởi trả về đời sống thường một thiếu nữ mà Sơ cho là bị ép phải đi tu, Sơ làm cho người cha của cô ta, một nhân vật có thế lực trong vùng, tức giận cực độ, ông cho Sơ là một người điên rồ và bất tài. Nhưng vị giám quản các tu sinh vẫn bất khuất không xiêu lòng, và trong sự nhẫn nhục, tinh thần được vững mạnh hơn.

Một sự thử thách khác lại đổ xuống trên Sơ. Cha Colombière đã mất trước đó ba năm. Thế mà, bây giờ lại có một vài Cha dòng Tên quyết định xuất bản một tập sách, nội dung dựa trên những ghi chép của Cha Colombière, với tựa đề:  ”Sự Tĩnh Tâm”  (Cấm phòng cho tâm hồn). Và trong buổi đọc tập sách này ở nhà ăn tập thể, các Sơ được nghe với cả một sự ngạc nhiên, về câu chuyện hiện ra của Thiên Chúa với Maria-Margarita, mặc dù tên của Sơ Maria Margarita không được nêu ra rõ ràng.

Tiếng tăm của Sơ Maria Margarita bắt đầu được truyền qua khỏi bốn bức tường của Tu viện. Người ta thúc đẩy Sơ viết, kể lại cuộc đời mình, và những lần gặp gỡ với Đấng Cứu Thế. Nhưng Sơ không muốn phơi bày và nhất là không bao giờ thích những gì Sơ vừa mới viết ra. Phải chính Thiên Chúa yêu cầu Sơ không được khước từ, và Cha giải tội riêng, Cha Rollin, đã ra lệnh cho Sơ phải bắt đầu viết quyển tự truyện này. Thấy Sơ lúc nào cũng xé bỏ sau khi đọc lại những gì Sơ vừa mới viết ra, Cha Rollin phải cấm Sơ không được đọc lại những điều vừa mới viết ra! Dù sao thì đây cũng là một bằng chứng sống, và là một dấu chỉ sâu sắc tột bậc về giá trị tinh thần của Ngài.

Ngày 21 tháng 6 năm 1686, Tu viện nhất trí hoàn toàn mừng lễ Thánh Tâm Chúa, với sự khởi xướng của một trong những Sơ mà lúc đầu phản đối mạnh mẽ nhất. Sơ Maria Margarita biết là từ hôm nay mình đã đạt được mục đích: ”Bây giờ con sẽ ra đi bình an, bởi vì Thánh Tâm của Đấng Cứu Chuộc con bắt đầu được biết đến”. Từ đó, lễ Kính Thánh Tâm được phát triển mạnh mẽ, nhiều cuộc vận động được thực hiện ngay tại Roma để được công nhận chính thức.

Vào năm 1689, Sơ Maria Margarita nhận được một sứ mệnh cuối cùng từ Thiên Chúa: Sơ phải làm cho Vua Louis XIV biết, là Vua phải dành phần lớn thì giờ cho Thánh Tâm, và tất cả quần thần cũng phải làm như thế và Vua phải xây ngay một nơi để thờ phượng Thánh Tâm Chúa. Lời truyền đạt có đến được người nhận hay không ? Không ai biết, chỉ biết rằng không có điều gì đã xảy ra sau đó.

Vào tháng 10 năm 1690, Maria Margarita thông báo cùng các chị em trong dòng, trước vẻ hoài nghi của các chị em, rằng Thiên Chúa sẽ gọi Sơ về với Ngài. Và quả nhiên, vài ngày sau đó, ngày 17 tháng 10 năm 1690, Sơ Maria Margarita trút linh hồn một cách Thánh Thiện trong tay Chúa.

Nguồn:  http://gdpttt.com/MAGARITA/Magarita.html

 

SỐNG ẨN KÍN THEO GƯƠNG CHÚA GIÊSU VÀ MẸ MARIA

SỐNG ẨN KÍN THEO GƯƠNG CHÚA GIÊSU VÀ MẸ MARIA

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Thánh nữ Bernadette Soubirous (1844-1879) được diễm phúc trông thấy Đức Mẹ MARIA hiện ra 18 lần trong vòng 5 tháng tại Lộ Đức, từ
ngày 11 tháng 2 đến ngày 16 tháng 7 năm 1858.

9 năm sau những ngày hồng phúc ấy, Chị Bernadette tuyên khấn lần đầu trong dòng
các Nữ Tu Bác Ái thành Nevers (Trung Pháp). Hôm đó là ngày 30-10-1867. Chị
Bernadette – tên dòng là Marie Bernarde – tròn 23 tuổi.

Theo tục lệ trong dòng, vào buổi chiều ngày tuyên khấn, các nữ tu khấn tạm tập
họp lại để nhận bài-sai từ Mẹ Bề Trên và Đức Giám Mục bản quyền. Chiều hôm ấy,
Chị Bernadette cũng có mặt cùng với 44 khấn sinh khác. Đến lượt mình, Chị đến
quỳ trước mặt Đức Cha Laurence Fourcade và đợi bài-sai.

Đức Giám Mục quay sang hỏi Mẹ Bề Trên:

– Bà chỉ định cho Chị này làm công việc gì?

Thoáng điểm nụ cười trên môi Mẹ Bề Trên Joséphine Imbert trả lời:

– Thưa Đức Cha, con trẻ này không biết làm một cái gì hết! Chị đi đến đâu sẽ
trở thành gánh nặng cho nơi đó!

Mọi người im lặng như tờ. Đức Cha chăm chú nhìn Chị nữ tu trẻ tuổi, đang khiêm
tốn quỳ dưới chân ngài. Rồi như được ơn trên soi sáng, Đức Giám Mục ứng khẩu
ban bài-sai:

– Cha chỉ định cho con nhiệm vụ cầu nguyện!

Cùng lúc đó, Đức Cha sực nhớ Chị Bernadette đang ở trong Dòng hoạt động chứ
không phải Dòng chiêm niệm. Vì thế Đức Giám Mục hỏi lại:

– Con quả thật không biết làm một cái gì hết sao?

Chị Bernadette khiêm tốn đáp:

– Thưa Đức Cha, Mẹ Bề Trên thật không sai lầm! Quả đúng như vậy!

Đức Giám Mục tiếp lời:

– Vậy thì, thật tội nghiệp cho con! Phải làm gì với con bây giờ? Mà tại sao con
lại vào Dòng?

Chị Bernadette đơn sơ thưa:

– Hồi còn ở Lộ Đức, con đã trình bày điều đó với Đức Cha và Đức Cha bảo không
sao hết!

Vị Giám Mục hơi lúng túng, không biết giải quyết ra sao. Sau cùng, Đức Cha hỏi:

– Nhưng ít ra là con cũng biết mang thức ăn, lặt rau chứ?

Chị Bernadette đáp:

– Con sẽ cố gắng!

Quay sang Mẹ Bề Trên, Đức Cha nói:

– Chúng ta sẽ giữ Chị này ở lại đây ít lâu. Sau đó, nếu thấy là Chị hữu dụng
trong một số công việc nhỏ nhặt nào đó, thì sẽ gửi Chị đi giúp xứ!

Hẳn Chị Bernadette phải thật khiêm tốn để chấp nhận lời nhận xét của Mẹ Bề Trên
và của Đức Giám Mục! Nhưng đó là chuyện không thành vấn đề đối với Chị! Người
ta đọc trong sổ tay tĩnh tâm của Chị hàng chữ:

– Ơn chính phải xin: sống thật ẩn kín theo gương Đức Chúa GIÊSU KITÔ và Đức Mẹ
MARIA.

Chị Bernadette đã xin và đã sống ơn ẩn kín này. Trong Thánh Lễ an táng Chị,
trước linh cữu Chị, Đức Cha Lelong lớn tiếng tung hô nhân đức khiêm nhường của
Chị Bernadette:

– Hỡi các nữ tu, các Chị là những người biết rõ rằng không phải người ta tìm
cách dấu kín Chị, nhưng chính Chị tự ẩn mình đi, và Chị càng ẩn mình bao nhiêu
thì càng tốt bấy nhiêu.. Chị không thích gợi lại quá khứ, nhưng tìm cách quên
đi, hay ít là, làm cho người khác quên đi!

Một nữ tu cùng dòng, 40 năm sau, đã nói về nhân đức khiêm nhường của Chị
Bernadette:

– Người ta dạy con khiêm nhường là quên mình đi. Vậy thì nơi Chị, khiêm nhường
quả là như thế đó. Chị không bao giờ nói về mình, lo lắng chăm sóc cho mình.
Khiêm nhường là nhân đức thật cao cả nơi Chị. Con nghĩ, chính Đức Mẹ MARIA đã
thông truyền nhân đức này cho Chị khi Đức Mẹ hiện ra với Chị.

Một ngày, một nữ tu hỏi Chị Bernadette xem Chị có cảm thấy bị hạ thấp trong
cuộc sống ẩn kín nơi tu viện, sau khi được mọi người biết đến vì những cuộc
hiện ra của Đức Mẹ MARIA tại Lộ Đức không, Chị trả lời:

– Sao Chị hỏi thế, Chị nghĩ gì về em? Chị không biết là em hiểu rõ rằng nếu Đức
Mẹ chọn em, chính vì em là người dốt nát nhất. Nếu Đức Mẹ tìm được người nào
khác dốt nát hơn, hẳn là Đức Mẹ sẽ chọn người ấy!

Một ngày, hai thanh nữ từ Lộ Đức đến nhập dòng. Hai cô đưa cho Chị Bernadette
xem tấm hình chụp hang đá Lộ Đức, với ước mơ thầm kín sẽ nghe Chị nói về các
cuộc hiện ra. Chăm chú nhìn tấm hình chụp hang đá Lộ Đức thân yêu, Chị buông
câu nói bâng quơ:

– Chà, mấy cây bạch-dương bữa nay cao ghê!

Một lần khác, một nữ tu cũng đưa cho Chị xem tấm hình chụp hang đá Lộ Đức với
dụng ý dò xem phản ứng của Chị. Đang chăm chú nhìn tấm hình, Chị Bernadette
bỗng ngước mắt hỏi Chị kia:

– Chổi dùng để làm gì?

– Để quét dọn!

– Rồi sau đó?

– Sau đó thì người ta dựng nó vào xó cửa!

Chị Bernadette điềm nhiên nói:

– Đó cũng là câu chuyện cuộc đời em. Đức Mẹ MARIA đã dùng em. Giờ đây xong công
việc, người ta đặt em lại chỗ cũ của em. Em thật sung sướng và cứ ở nguyên
trong tình trạng ẩn kín này!

… Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Chúa GIÊSU hớn hở vui mừng và nói: “Lạy CHA là Chúa Tể trời đất, Con ngợi khen CHA, vì CHA đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Nhưng lạy CHA, vì đó là điều đẹp ý CHA .. CHA Thầy đã giao phó mọi sự cho Thầy. Và không ai biết Người Con là Ai, trừ CHÚA CHA, cũng như không ai biết CHÚA CHA là Ai, trừ Người Con, và kẻ mà Người Con muốn mặc khải cho” (Luca 10,21-22).

(Mgr.Francis Trochu, ”SAINTE BERNADETTE, LA VOYANTE DE LOURDES”, Emmanuel Vitte, 1954, trang 420 + 471-477)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

CUỘC ĐỜI GIOAN BOSCO, VỊ THÁNH ĐÃ SỐNG VÀ CHẾT CHO CÁC EM THIẾU-NHI

CUỘC ĐỜI GIOAN BOSCO, VỊ THÁNH ĐÃ SỐNG VÀ CHẾT CHO CÁC EM THIẾU-NHI

Biển-Đức Đỗ Quang-Vinh (Toronto, Canda)

chuyển-ngữ từ bài viết của Benoît Fidelin trong tạp-chí Pèlerin Magazine.

No. 5495, 25 Mars 1988.

Cậu bé vùng Piémont đã trở nên linh-mục của các trẻ em bị bỏ rơi. Ngài tạ thế cách đây hơn 100 năm (nguyên-bản là 100 năm, viết năm 1988, kỷ-niệm giỗ 100 năm vị thánh qua đời). Đời Ngài là cả một tình thương trải rộng bao-la do Tin Mừng Đức
Kitô thúc đẩy, và noi gương Ngài, hàng ngàn người đã và đang dấn thân phục-vụ
giới trẻ, tại Pháp cũng như trên toàn thế-giới.

Đó là GIOAN, con của gia-đình Bosco, cậu bé có nụ cười trong sáng, vầng trán bướng-bỉnh, đôi mắt đen nhánh, tóc rối bù như lông chiên. Thuở mới lớn lên, ngày ngày Gioan Bosco dắt đàn bò đi vào các vùng núi đồi miền Piémont, nước Ý. Cậu tập cuốc đất, phát cỏ, sử-dụng liềm, mác, và tập vắt sữa bò. Từ thuở đó cậu đã hiểu thế nào là đói khát và đã từng chứng-kiến cảnh chết-chóc ly-biệt.

Nạn đói hoành-hành năm 1817, lúc Gioan vừa mới lên hai tuổi, khi sương giá mùa xuân và những cơn hạn-hán khủng-khiếp tàn phá tất cả mùa màng. Nông-dân phải giết gia-súc để ăn thịt. Người ta gặp thấy trong các mương rãnh, xác những kẽ hành-khất chết đói, miệng còn ngậm
cỏ…

Và cả cái chết nữa, như cha cậu đã ngã qụy xuống vì chứng sưng phổi vào một buổi chiều tháng năm rất đẹp trời nhưng cũng thật buồn thảm.

Mẹ cậu, bà Ma-ga-ri-ta, mới 29 tuổi đã góa chồng. Nhưng bà sống thắt lưng buộc bụng, vỡ đất làm rẫy, nuôi dạy con cái cách dịu-dàng mà nghiêm nhặt. Bà ở trong ngôi nhà gạch tồi-tàn vừa là chỗ ở, vừa làm kho lẫm, vừa làm chuồng bò. Hai bao bắp để trong bếp và hai con bò cái nằm sau liếp vách ngăn. Phòng ngủ ngay dưới mái nhà và nệm lót bằng lá bắp. Nhưng chính ở đó, ngay trong cảnh nghèo nàn trơ-trụi ấy, cuộc đời bé Gioan Bosco đã bừng sáng lên.

Chỉ một giấc mơ bình-thường đã khiến cậu tin rằng trọn cuộc đời mình được Chúa Giêsu Kitô mời gọi để chăm lo cho các trẻ em bị ruồng bỏ. Năm lên 9, bé Gioan mơ thấy mình đứng giữa một đám trẻ bụi đời ngổ-ngáo. Chúng chửi thề, văng tục, và Gioan đã trả đũa lại bằng những cú đấm ngoạn-mục. Nhưng một người với diện-mạo sáng ngời đã gọi tên Gioan và bảo: “Con phải chinh-phục chúng, không phải bằng tay chân như thế, mà là bằng khổ đau và lòng yêu mến”. Gioan hỏi: “Ngài là ai mà đòi con phải làm những việc không thể nào làm nổi như vậy?”; và người lạ mặt đã trả
lời: “Ta là Con của Bà mà mẹ con vẫn dạy con cầu nguyện với Bà mỗi ngày
ba lần”.
Cũng trong giấc mơ đó, Ðức Trinh-Nữ Maria đã hiện ra với cậu.
Bằng những hình-ảnh khác, Người loan báo cho cậu cũng một sứ-mạng ấy: chăm
sóc các trẻ em bị bỏ rơi.

 

Thế là bắt đầu cuộc phiêu-lưu! Từ lúc còn rất nhỏ, Gioan đã nói rằng cậu ao-ước trở thành linh-mục. Trong thời-gian đợi chờ, cậu tụ-tập bạn-bè ở ngoài đồng để diễn-thuyết, làm hề và biểu-diễn cả ảo-thuật nữa. Nhưng lúc nào cũng thế, trước khi tới màn cuối, “ông bầu” lại lôi cỗ tràng hạt trong túi ra, qùy xuống và mời cả đám trẻ cùng cầu-nguyện.

Gioan say mê đọc sách và nuôi chim. Ngồi dưới bóng cây im mát, cậu ngấu-nghiến đọc những cuốn sách mượn được của một vị linh-mục ở một xứ đạo hẻo-lánh. Rồi trèo lên cây, cậu gỡ tổ chim và bắt những con sáo nhỏ, đem về nuôi trong lồng làm bằng cành cây dương-liễu, rồi dạy chúng hót. Chuyện học-hành ư? Chỉ khi nào ngoài đồng ruộng hết bóng người thì cậu mới  tới trường. Cậu không chịu học-hành đến độ đã gây-gổ với người anh cả và đã phải bỏ nhà đến làm việc tại một làng kế bên. Sau bao năm lao-động ròng-rã, cuối cùng mới gặp được dịp may: một vị linh-mục già thấy cậu thông-minh thì yêu mến, nhận nuôi và dạy cho cậu học tiếng La-tinh. Sau khi Cha qua đời, được mẹ giúp đỡ và cũng được nhiều ân-nhân tiếp tay, cậu theo học tại trường trung-học ở tỉnh bên. Hằng ngày đi bộ mười cây số, bất kể mưa gió hay nóng bức bụi-bặm. Tất cả chỉ để làm linh-mục! Gioan sẽ không bao giờ quên điều ấy. Và rồi sau sáu năm học ở chủng-viện, năm 1941, cậu đã trở thành linh-mục DON BOSCO!

Người ta mau chóng trao cho Ngài những công việc của một linh-mục tuyên-úy. Nhưng Ngài chỉ muốn một điều là các trẻ em. Thời-kỳ ấy là thời-kỳ cách-mạng kỹ-nghệ, thành-phố Turin là nơi hấp-dẫn đã lôi kéo hàng ngàn người di-dân đến kiếm sống. Các thanh, thiếu-niên làm việc ngắn hạn ở các xưởng đóng tàu, rổi lang-thang thất-thểu dọc bờ sông Pô, không một đồng xu dính túi. Những em khác vào tù. Don Bosco đi gặp họ tất cả, và Ngài được sự giúp đỡ của Cha Don Cafasso, vị linh-mục của “giới bần cùng”. Ngài dám trèo lên các xe bò chở tử-tội để an-ủi họ suốt lộ-trình cho đến pháp-trường.

Ngài lôi kéo được Don Bosco đi vào trại giam; ở  đó vị linh-mục trẻ tuổi người vùng Piémont buồn rầu đảo mắt nhìn cảnh tù đày, cái nhìn đó cũng ngăn đe mấy cậu bé đang chen-chúc trong các xà-lim hôi-hám, chúng tiều-tụy đi vì nạn chí rận, ăn toàn bánh mì đen và uống nước lã. Thật vô cùng khủng-khiếp! Don Bosco bàng-hoàng kinh-hãi, Ngài gào lên trong cổ họng:  Quá nhiều thanh-niên bị nhốt ở đây, bởi chẳng có ai săn-sóc đến họ. Tôi phải giúp-đỡ, dạy-dỗ họ. Tôi muốn cứu giúp những kẻ bất hạnh này”. Và Ngài sẽ làm như Ngài đã nói thế!

Ít lâu sau, có một lần kia khi Ngài chuẩn-bị  dâng thánh-lễ tại nhà thờ Thánh Phan-xi-cô Át-si-gi-ô, Chúa đã dẫn đến cho Ngàimột cậu bé tên là Ba-tô-lô-mê-ô Ga-ren-li, em mới từ xa đến thành-phố này kiếm sống. Đầu cạo trọc-lóc, áo dính đầy vết vôi. Don Bosco qùy xuống và dạy em cầu nguyện. Sau đó Ga-ren-li trở lại, dẫn theo năm đứa, mười đứa, rồi tới một trăm đứa, bạn bè của nó, đứa nào cũng bị Don Bosco chinh-phục bằng tình yêu thương Ngài dành cho chúng. Ngài giảng dạy về Thiên-Chúa cách cụ-thể, nhờ những sự-kiện hấp-dẫn và những chi-tiết lý-thú làm chúng say mê.

Họ quấn-quýt và không rời bỏ nhau nữa. Trong các nhà nguyện cũ, trên những bãi đất trống vùng ngoại-ô, và trong các vựa lúa, các em kéo đến ngày một đông hơn để nghe Ngài giảng, để được Ngài dạy-dỗ huấn-luyện nên người và nên con cái Chúa.

 

Vì lo-lắng cho tương-lai các em, Don Bosco mở các xưởng dạy nghề. Ngài nghĩ ra việc ký giao-kèo lao-động để kiếm việc cho các em, trước khi lao mình vào việc viết lách và xuất-bản, nhằm mục-đích giáo-dục và phát-triển đức tin Công-Giáo nơi các em. Công-trình lớn mạnh. Nhờ có các ân-nhân tài-trợ nên Ngài đã xây-dựng được nhiều nhà cho các em. Don Bosco đặt trọn niềm tin nơi Chúa Quan-Phòng.

Chẳng bao lâu, một “Tổ Ấm” hình-thành với 15, 20, rồi 600 em nội-trú. Vì không muốn cho tương-lai các em quá tồi-tệ, Cha Don Bosco cho dựng thêm nhà cửa, mở một lớp học tối, rồi mời các linh-mục và những người thiện-nguyện đến dạy cho các em. Họ làm việc trong nhà bếp, trong phòng mặc áo lễ ở gian bên của cung thánh. Trên hết mọi sự, họ rất mực yêu thương nhau, vì sư-phạm của Cha Gioan là Sư-Phạm Của Tình Thương. Lý-thuyết mà làm gì? Ngài không mong xây-dựng một “kiểu” giáo-dục lỗng-lẫy. Ngài nói: “Hệ-thống giáo-dục của tôi ư? Chính tôi, tôi cũng chẳng biết nữa.”…”Tôi chỉ có công này, là tiến về phía trước theo sự dẫn-dắt của Chúa, rồi tùy hoàn-cảnh mà xử-trí”.

Quả thế, Ngài chủ-trương một đường lối sư-phạm “ngay tại chỗ”, đặt tin-tưởng vào bản-chất của con người đã được Thiên-Chúa cứu-độ và tin vào sự hiện-diện hữu-hiệu của nhà giáo-dục. Don Bosco ước-đoán được những nỗi cùng khổ và âu-lo của từng em một. Ngài biết rằng tuổi thanh thiếu-niên là tuổi đầy-dẫy những nghi-ngờ, những phiền-muộn, tuổi của phẫn-nộ và thất vọng. Thế là Ngài đến với chúng, nói một câu khôi-hài, kiên-trì mời gọi chúng đối-thoại, cũng như vui-vẻ, thành-thực, cởi mở thoải-mái, một sự thoải mái tự-nhiên không hề bó-buộc vẫn là đặc-điểm nổi bật nhất trong tình yêu giáo-dục của Ngài. Ngài đã sống câu châm-ngôn sau đây, dựa theo lời thánh
Phao-lô: “Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn” (Un saint triste est un triste saint).

Và Ngài đã nên thánh. Ngài được phong thánh năm 1934, sau khi sống
một cuộc đời luôn luôn bận-bịu lo-lắng cho các em thiếu-nhi và sáng lập ra
tu-hội Sa-lê-giêng để tôn-kính thánh Phan-xi-cô Sa-lê-gi-ô. Cũng như vị thánh
này, Ngài đã tìm được sức sống cho đời mình qua tình yêu thương con người và
qua Tin Mừng của Đức Kitô, ở đó Ngài khám phá ra dung-mạo một Thiên-Chúa có thể chia sẻ mọi yếu-hèn của chúng ta.

Ngay cả đến cuối đời, sau khi được Ðức Thánh Cha tiếp-kiến, trong các cuộc hành-trình khắp năm châu bốn bể để kiếm tiền in những tác-phẩm Ngài viết, Ngài cũng rất gần-gũi các trẻ em vất-vưởng của mình. Lúc nhắm mắt lìa đời, rạng sáng ngày 31 tháng giêng năm 1888, Ngài nói với các tu-sĩ Sa-lê-giêng đang săn-sóc Ngài rằng:

“Hãy làm tốt cho mọi người,

đừng gây điều xấu cho ai cả!

Hãy nói với các bạn trẻ của Cha rằng:

Cha đợi họ trên Thiên-Đàng!

Biển-Đức Đỗ Quang-Vinh (chuyển-ngữ)

nguồn: conggiaovietnam.net

CHÂN PHÚC ANRÊ PHÚ YÊN: HÃY LẤY TÌNH YÊU ĐỂ ĐÁP LẠI TÌNH YÊU

CHÂN PHÚC ANRÊ PHÚ YÊN: HÃY LẤY TÌNH YÊU ĐỂ ĐÁP LẠI TÌNH YÊU

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Chúa Nhật 5-3-2000 trong khung cảnh Đại Năm Thánh
2000, Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng Thầy Giảng Anrê Phú Yên lên hàng Á Thánh. Trong tập sách nhỏ về nghi thức tôn phong chân phước được phân phát dịp này có phần Việt ngữ sơ lược tiểu sử vị Tôi Tớ Chúa tử
vì đạo như sau.

THẦY GIẢNG ANRÊ,

VỊ TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI CỦA GIÁO HỘI VIỆT NAM

Thầy Giảng Anrê, gốc tỉnh RanRan (Phú Yên), là con út của
một phụ nữ tên thánh là Gioanna. Tuy góa bụa nhưng bà đã giáo dục con
cái với tất cả lòng tận tụy và khôn ngoan. Anrê là một cậu bé mảnh khảnh, nhưng
tư chất rất thông minh, có óc phán đoán tốt và tâm hồn hướng chiều về sự thiện.
Do lời năn nỉ của bà mẹ, cha Đắc Lộ, vị Linh Mục thừa sai dòng Tên nổi tiếng,
đã nhận cậu Anrê vào số các môn sinh của ngài. Anrê chăm chỉ học chữ Nho và
chẳng bao lâu trổi vượt các bạn đồng môn.

Anrê được lãnh nhận bí tích Rửa Tội cùng với mẹ ba năm trước khi bà qua đời,
tức là năm 1641, khi Anrê được 15 tuổi. Anrê sinh năm 1625 hay 1626, không rõ
ngày tháng, và lúc chịu chết năm 1644, Thầy trạc độ 19 hay 20 tuổi.

Một năm sau khi chịu phếp Rửa Tội, tức năm 1642, Anrê được cha Đắc Lộ nhận vào
nhóm cộng sự viên thân tín của ngài, và sau một năm huấn luyện thêm về tôn giáo
và văn hóa, Anrê được gia nhập Hội Thầy Giảng gọi là ”Nhà Đức Chúa Trời” mà Cha
Đắc Lộ đã khôn ngoan thành lập: các thành viên Nhà Đức Chúa Trời cam kết, bằng
lời hứa chính thức và công khai, suốt đời phụng sự Giáo Hội trong việc giúp các
linh mục và truyền bá Tin Mừng.

Lòng hăng say của Thầy Anrê sống trọn điều quyết tâm khi chịu phép Rửa đã chuẩn
bị cho Thầy can đảm đương đầu với cuộc tử đạo và ngoan ngoãn đón nhận ơn tử đạo
Thiên Chúa rộng ban cho Thầy.

Trước cuối tháng 7 năm 1644, quan Nghè Bộ trở lại tỉnh nơi Thầy Giảng Anrê sinh
sống. Quan mang theo sắc lệnh của chúa Nguyễn cấm truyền bá Đạo Kitô trong
nước: vì thế quan quyết định hành động trước tiên chống lại các thầy giảng.

Cha Đắc Lộ không hề hay biết ý định này của quan, nên tới thăm quan vì xã giao,
nhưng ngay sau đó cha được biết chúa Nguyễn rất giận dữ khi thấy vì cha mà có
đông người dân bản xứ theo Đạo Kitô. Vì thế cha phải bỏ xứ Đàng Trong để trở về
Macao và không được phép dạy giáo lý cho dân nữa. Còn các tín hữu theo đạo thì
bị trừng phạt rất nặng nề.

Rời dinh quan Nghè Bộ, cha Đắc Lộ đi thẳng xuống nhà tù nơi giam giữ một Ông
Trùm, cũng tên Anrê, đã 73 tuổi, mới bị bắt hai ngày trước đó. Trong khi ấy,
quan ra lệnh cho lính tới nhà cha lùng bắt một thầy giảng khác tên là Ignatio.
Nhưng thầy Ignatio đã đi làm việc tông đồ. Lính chỉ tìm thấy Thầy Giảng Anrê.
Để khỏi trở về dinh quan Bộ tay không, lính đánh đập Thầy Anrê, trói Thầy lại,
rồi giải xuống thuyền đem về dinh quan trấn thủ. Chiều ngày 25 tháng 7 năm
1644, Thầy được dẫn tới trước mặt quan. Lính thưa với quan rằng họ không tìm
thấy thầy Ignatio, nhưng đã bắt được một ”thầy giảng khác giống như vậy, vì
suốt cuộc hành trình, anh ta luôn nói về Đạo Kitô và khuyến khích họ theo Đạo”.

Nghe vậy quan tìm mọi cách làm cho Thầy Anrê ”từ bỏ cái đạo điên rồ đó và bỏ
lòng tin”.

”Nhưng thanh niên can trường ấy trả lời quan rằng mình là Kitô hữu, và
rất sẵn sàng chịu mọi khổ hình chứ không từ bỏ Đạo mình tuyên xưng: vậy xin quan cứ tùy ý chuẩn bị các hình cụ, chàng vui lòng đón nhận, với xác tín rằng, vì đức tin, càng chịu khổ đau chừng nào thì càng chết vinh quang chừng ấy”.

Tức giận vì sự bất khuất của Thầy Anrê không hề sợ hãi trước những lời đe dọa,
quan truyền đóng gông và giải Thầy vào ngục, cùng nơi giam giữ Ông Trùm Anrê.

Cha Đắc Lộ và một vài thương gia Bồ Đào Nha tới thăm hai thầy: Thầy Giảng Anrê
thanh thản và vui mừng vì được chịu khổ đau vì Chúa Kitô đến độ những người đến
thăm Thầy bịn rịn không rời Thầy được, và nước mắt tràn bờ mi, họ xin Thầy nhớ
đến họ trong lời cầu nguyện. Thấy vậy, Thầy tự nhạo cười mình và xin họ cầu
nguyện cho Thầy, để Chúa ban cho Thầy ơn trung thành với Chúa cho đến chết, ”dâng hiến mạng sống trong tình yêu trọn vẹn, hầu đáp trả tình yêu thương vô biên của Chúa, Đấng đã hiến mạng sống vì loài người .. Những lời Thầy luôn lập lại cho
đến khi trút hơi thở cuối cùng là:
Chúng ta hãy lấy tình yêu để đáp lại
Tình Yêu của Chúa chúng ta, hãy lấy mạng sống đáp lại mạng sống
.

Sáng hôm sau, 26 tháng 7 năm 1644, hai tín hữu Kitô cùng tên Anrê, Ông
Trùm Anrê 73 tuổi và Thầy Giảng Anrê, cổ mang gông, bị dẫn qua các đường phố
đông người qua lại nhất trong thành, băng qua chợ Kẻ Chàm, đến dinh quan trấn
thủ để bị tra hỏi công khai. Quan trấn triệu tập một vài quan khác, lôi kéo họ
về phía mình và tuyên án tử cho Thầy Giảng Anrê, rồi ra lệnh dẫn Thầy về ngục
thất. Còn Ông Trùm Anrê thì được tha vì lý do tuổi tác, nhờ lời xin của cha Đắc
Lộ và các thương gia Bồ Đào Nha.

Vào khoảng 5 giờ chiều, một viên chỉ huy cùng với 30 người lính vào nhà tù, nơi
vị Tôi Tớ Chúa bị giam giữ, và ra lệnh cho Thầy phải đi theo tới nơi hành
quyết. Thầy Anrê cảm tạ Chúa vì giờ hiến tế đã tới, và sau khi chào mọi người
hiện diện trong tù, Thầy nhanh nhẹn bước đi. Quân lính vây chặt chung quanh và
dẫn Thầy Anrê đi qua các đường phố ở Kẻ Chàm, tới một cánh đồng ngoài thành.
Cha Đắc Lộ, nhiều Kitô hữu Bồ Đào Nha và Việt Nam cũng như nhiều người lương đã
đi theo và chứng kiến cuộc xử tử vị Tôi Tớ Chúa.

Theo thói quen tại đây, cha Đắc Lộ xin và được phép trải một tấm chiếu dưới
người Thầy Anrê để hứng lấy máu Thầy, nhưng Thầy không muốn nhận điều ấy. Thầy
muốn máu mình rơi xuống đất, như trường hợp Máu Cực Trọng Chúa Kitô đã đổ ra.
Trong khi đó, Thầy Anrê nhắn nhủ các Kitô hữu hiện diện hãy luôn kiên vững
trong Đức Tin, đừng buồn phiền vì cái chết của Thầy, và hãy giúp lời cầu cho
Thầy được trung thành tới cùng.

Cuộc hành quyết Thầy Giảng Anrê được thi hành bằng mấy nhát lao đâm thấu cạnh
sườn bên trái, và sau cùng khi một người lính sắp dùng đao chém đầu, Thầy lớn
tiếng kêu lên ”GIÊSU”.

Cho tới hơi thở cuối cùng, Thầy Giảng Anrê đã chứng tỏ lòng kiên trung trong
việc chấp nhận dâng hiến tế cuộc sống vì lòng tin yêu Chúa Kitô.

… Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc của chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi CHA Thầy, Thầy đã cho anh em biết
(Gioan 15,13-15).

(BEATIFICAZIONE, Piazza San Pietro, 5 Marzo 2000, Ufficio delle
Celebrazioni Liturgiche del Sommo Pontefice, trang 83-86)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 

Việc phong thánh Chân Phước Gioan Phaolô II sắp xẩy ra

 
Việc phong thánh Chân Phước Gioan  Phaolô II sắp xẩy ra

Bùi Hữu Thư
 
1/11/22013

nguồn: Vietcatholic.net

Chân Phước Gioan Phaolô II

Hồng Y Re cho rằng điều này sẽ được công bố trong năm 2013 hay 2014

ROME, ngày 11, tháng 1, 2013 (Zenit.org) – Bộ trưởng về hưu của Thánh Bộ Giám  Mục nói Chân Phước Gioan Phaolô II có lẽ sẽ được phong thánh trong năm nay  hay năm tới.

Đức Hồng Y Giovanni Battista Re tiên đoán như vậy khi giới thiệu trong tuần
này tác phẩm “Il Papa e il Poeta” (Đức Giáo Hoàng và Thi Sĩ, do một chuyên gia Vatican viết là ông Mimmo Muol.

Đức Hồng Y nói: “Nếu không được trong năm nay thì sẽ trong năm tới . Ngài giải thích là đã có thêm một phép lạ được gán cho sự cầu bầu của Đức  Giáo Hoàng người Ba Lan, “chắc chắn là có một phép lạ có giá trị cho  việc phong thánh cho ngài.”

Các chuyên gia của Bộ Phong Thánh đang duyệt xét các phép lạ này.

Đức Hồng Y nói: “Thời gian duyệt xét có thể rất ngắn ngủi,” thánh  bộ phong thánh đang nghiên cứu ba hay bốn phép lạ “để đánh giá xem phép  lạ nào vững vàng nhất.”

Hồng Y Re giải thích: “Các vụ chữa lành đang được định giá bới một ủy  ban gồm bẩy bác sĩ, là thành viên của một cơ quan y khoa chuyên về nội khoa,
có trách vụ xem xét tất cả mọi chi tiết.”

Giới chức Vatican đã về hưu cho hay các bác sĩ này được xếp hạng là “rất  cứng rắn và tỉ mỉ”, họ sẽ không coi một vụ chữa lành là một phép lạ nếu  có một bệnh tật tương đương có thể được trị liệu bình thường cũng có hiệu  quả.

Ngài nói: “Bẩy bác sĩ của uỷ ban này phải đồng ý đây là một trường hợp  không thể giải thích được, về phương diện nhân loại và khoa học.”

“Những xác Thánh không hư nát”,

Cuốn sách “Những xác Thánh không hư nát“, có tiểu sử và hình chụp,
Có những thi thể không bị rữa nát qua thời gian dù không trải qua bất cứ sự can thiệp kỹ thuật nào. Hiện tượng có vẻ đi ngược với quy luật tự nhiên này được gọi là nhục thân bất hoại (incorruptible body).
Thánh Bernadette (Lourder, Pháp) là một ví dụ điển hình. Bà qua đời ở tuổi 35. Và 30 năm sau đó (1909), vì một nghi lễ tôn giáo, nhà thờ đã khai quật mộ. Đại diện nhà thờ, bác sĩ phẫu thuật và những người chứng kiến đã vô cùng kinh ngạc khi thấy thi thể của bà vẫn nguyên vẹn, dường như đang trong một giấc ngủ dài.
Thánh Bernadette trong quan tài pha lê
Bác sĩ phẫu thuật Tourdan đã ghi lại những gì ông quan sát được: “Cỗ quan tài
của bà được mở ra dưới sự chứng kiến của mọi người trong đó có tôi. Di hài của
Thánh Bernadette trong trang phục yêu thích của bà không hề có mùi xú uế. Khuôn
mặt, bàn tay và cẳng tay lộ ra bên ngoài. Đầu của bà nghiêng sang một bên,
miệng hé mở có thể nhìn thấy hàm răng trắng. Hai tay đặt trên ngực, vẫn giữ
được lớp da hoàn hảo”. Gia đình của Thánh Bernadette đã làm lễ tắm rửa, thay
quần áo và quan tài cho bà. Di hài của bà được đặt vào một vị trí mới sâu trong
nhà mồ.
Vào năm 1913, Đức Giáo Hoàng Pius X phong Chân Phước cho Bernadette. Điều này
đồng nghĩa với việc mộ của bà được mở ra một lần nữa. Việc này bị gián đoạn đến
năm 1919 vì cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Điều kinh ngạc là ở lần khai
quật này, di hài của bà vẫn nguyên vẹn.
Năm 1925, Thánh nữ Bernadette được Đức Giáo hoàng Pius XI phong Thánh. Lần thứ
ba, mộ bà được mở ra. Di hài được đưa vào một quan tài bằng pha lê cho mọi
người chiêm ngưỡng và quàn tại nhà nguyện ở Nhà thờ Lourder cho đến tận ngày
nay vẫn còn, nếu có dịp xin mời các bạn đến thăm để được tận mắt chứng kiến.
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII (Đấng triệu tập Thánh Công Đồng Chung Vatican II năm 1962). Ngài qua đời ngày 03/06/1963 khi Công Đồng vẫn đang diễn ra, và sau đó Đức Hồng Y Montini lên ngôi với hiệu triều Đức Thánh Cha Phaolô VI tiếp tục Thánh Công Đồng.
Thi hài của ĐTC John XXIII được đặt ngay bên dưới chân bàn thờ chính của Đền thờ thánh Phêrô để dân chúng chiêm ngắm
38 Năm sau ngày ngài băng hà, Tòa Thánh tiến hành các thủ tục tôn phong Chân
Phước cho ngài, khi mở quan tài để kiểm tra thì phát hiện xác chết của ngài
không hề mảy may hư nát và thối rữa. Thời gian sau, ngài được tôn phong Chân
Phước (Beautification) .
Hiện nay, thi hài của ĐTC Gioan XXIII đã được đưa lên đặt trong 1 quan tài bằng
pha lê bên dưới bàn thờ chính của Đền thờ Thánh Phêrô để dân chúng có thể kính
viếng và chiêm ngắm. Nét mặt ngài vẫn giữ nguyên sức sống và cơ thể không hề bị
tẩm ướp bằng bất cứ loại hóa chất nào. Hầm mộ cũ trước đây nơi đặt quan tài của
ngài bây giờ đã được thế chỗ bằng quan tài của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II.
Thi hài Đức Thánh Cha John XXIII
THÁNH JOHANNES MARIA VIANNEY – Pfarrer von Ars ( Cha Xứ thành Ars)
Thánh „Cha xứ thành  Ars“ sinh ngày 8.5. 1786 tại làng bên cạnh thành phố Lyon. Ngài sông vào thời gian cách mang Pháp. Ngài đã đón nhận buổi rước lễ vỡ lòng tại tư gia Cha mẹ là một tiệm đã bị đóng cửa. Ban đầu Ngài đã làm việc phụ giúp Cha mẹ trong nông trại. Ngài bắt đầu vào chủng viện để học ra linh mục khi 19 tuổi. Mặc dù không phải là không có khả năng, nhưng luôn luôn bị khó khăn, thất bại trong đường
học vấn. Mặc dù thế Ngài vấn được thụ phong Linh mục, vì lòng rất ngoan đạo
(1815).
Cha Xứ thành Ars sống đời sống rất khó nghèo. Ngài đã biến Giáo xứ bê bối thành một giáo xứ đạo đức. Ngài đã giải tội, giảng dạy, chăm sóc các linh hồn ngày và đêm. Dân chúng vô kể đã dến tìm Ngài để xin cố vấn và giúp đỡ.
Mặc dù Ngài rất kính trọng thiên chức Linh mục, nhưng vẫn cảm thấy không khó
vượt qua được nhiều cám giỗ, nếu hội đồng giáo xứ không yêu cầu, Ngài đã vào
dòng kín. Ngài mất vào ngày 4.8.1859 và được an táng tại thành Ars.
Đức giáo hoàng Pius XI đã phong thánh và tuyên bố Ngài là Thánh quan thầy của
các Linh Mục.
Thánh Francis Xavier [Phanxicô Xaviê] (1506-1552) được chôn cất tại
một đảo ở Trung Quốc trong quan tài bằng gỗ. Khoảng 2 tháng rưỡi sau, người ta
khai quật mộ ngài để di chuyển, thấy thánh thể vẫn như lúc sống. Hiện nay di
hài 400 năm tuổi của ngài vẫn còn nguyên và được lưu giữ tại thành Goa (Ấn Độ).
Di hài Thánh Francis Xavier [Phanxicô Xaviê]
Di hài Thánh Vincent de Paul [Vinhsơn Phaolô]
Katharina Labouré
1947 Bà đã được phong thánh. Thân xác của bà không hề hư hỏng và đang nghỉ ngơi trong lồng kính tại nhà nguyện Đức Mẹ hiện ra ở Rue du Bac , Paris. Bà chết ngày 31.12.1876.
Katharina sinh ngày 2.5.1806 tại Fain les Moutiers, trong một làng nhỏ thuộc Burgund, cách thành phố Dijon 60 km. Sr. Katharina là người con thứ 8 trong tổng số 10 anh chị em. Sau khi bà mẹ mất lúc 12 tuổi, Sr. đã đảm trách nông trại.
Dấu hiệu Chúa gọi từ từ tỏ ra, 1830 Katharina đã gia nhập nữ chủng viện Vinh-Sơn (Vinzentinerinnen) , 140 đường Rue du Bac ở Paris lúc 24 tuổi. Tại đây Sr. có nhiều kinh nghiệm về cõi siêu hình, thiêng liêng huyền bí. Từ khi còn nhỏ, Sr. đã chọn Đức Trinh nữ  Maria làm mẹ, giờ đây chính Đức mẹ đã hiện ra với Sr.
Nhà Nguyện nơi Đức mẹ đã hiện ra với Sr. Katharina, bên tay trái là xác Sr. Katharina. Trong đêm18 rạng 19.7.1830 Sr. đã đối thoại với Đức Mẹ hơn 2 tiếng đồng hồ: „Con hãy đến chân của bàn thờ“ và Đức Mẹ đã giải thích về ý nghĩa của cầu nguyện và Thánh  lễ Misa.
Ngày 17.9 cùng năm đó, vào lúc 17 giờ 30, là giờ suy niệm chung ở trong nhà
nguyện, Đức Mẹ Maria đã tín nhiệm giao cho mệnh lệnh loan tin cho thế giới. Đó
là một huy hiệu với dòng chữ: “Lạy Mẹ Maria, vô nhiễm nguyên tội, xin cầu
xin và che chở chúng con“.
Di hài Thánh Catherine Laboure (1806-1876)
Nữ thánh Klara của thành phố Assisi

Bà Thánh thành Assisi, sinh năm 1194. Khấn trọn đời lúc 18 tuổi. Lập dòng Klarissinen khó nghèo,và khiêm nhường. Sau này Mẹ và em gái của bà cung vào tu tại đây. Ngay khi còn sinh tiền nhà dòng của bà đã được phát triển khắp mọi nơi trong và ngoài nước ý. Bà mất ngày 11.8.1253. Thân xác vẫn còn tồn tại yên nghỉ tại nhà thờ của thành Assisi.
Nữ Á Thánh Anna Maria Taigi
Sinh Ngày 29.5.1769 tai Siena (Italy)
Mất ngày 9.6.1837 tại Rôma
Anna Maria Taigi đã được nhận ơn tiên tri của chúa 25 năm liền. Bà mẹ của 7
người con đã thị kiến thấy một vòng hào quang quanh mặt trời, trong tâm điểm
của mặt trời bà thấy được mọi chuyện quá khứ, vị lai của nhân
Trong cuộc sống của bà, bà sống cuộc đời ăn năng đền tội và chay tịnh
Anna Maria Taigi mất khi 68 tuổi tại Rôma và được Đức Giáo Hoàng Benedikt XV
phong á thánh vào ngày 30.5.1920.
Thánh Johannes Bosco (Don Bosco)
Tên thật là Giovanni Bosco, sinh ngày 16.08.1815 tại Becchi ở Piemont (Norditalien) , thụ phong Linh mục năm 1841.
Lúc sinh tiền Ngài đã thành lập nhà dòng Salêsiêng (Salesianer) 1859, chuyên chăm sóc các thanh thiếu niên bụi đời, huấn nghệ và học hỏi Lời Chúa.Ngài có ơn tiên tri, và được coi như thánh sống.
Năm 1866 xây nhà thờ Salesianer và mộ ngài cũng nằm tại đây (31.01.1888) . Hiện nay xác Ngài được bỏ vào lòng kính để mọi người có thể thăm viếng cầu nguyện.
Có rất nhiều trường hợp các Thánh khác xác không thối rữa và hư nát, ngược lại
còn bốc mùi của hương hoa hồng như thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Thánh Martinô
de Porrés…nhưng không liệt kê ra ở đây vì chưa kiếm thấy tài liệu hình ảnh.
SAN GIOVANNI ROTONDOMột trong những vị thánh đương thời được coi là thi hành nhiều phép lạ nhất là Padre Pio. Sau 40 năm hôm qua xác ngài lại được trưng bầy cho những người ngưỡng mộ khắp thế giới được đến kính viếng tại nơi ngài đã từng sống và cầu nguyện.

Lớp sáp phủ lên mặt thánh Piô hiện tại

Hai mắt nhắm lại và trên khuôn mặt thoát ra một vẻ thanh thản dịu dàng như đang ngủ. Tuy nhiên, Padre Piô đã qua đời từ năm 1968 hưởng thọ 81 tuổi, và kể từ hôm qua, 24.4.2008, thi hài thánh nhân lại được quàn công khai tại vương cung thánh
đường San Giovanni Rotondo (miền Nam nuớc Ý) cho dân chúng kính viếng.
Hôm qua có tới 15,000 người tham dự thánh lễ do ĐHY Jose Saraiva Martins cử
hành khi xác của thánh Piô được đưa ra trưng bầy. Xác của Cha thánh Piô được
khai quật hôm 3/3/2008 cho thấy còn trong tình trạng “vừa phải” sau 40 năm chôn
cất. Từ ngày có đến nay một nhóm chuyên gia gồm bác sĩ và chuyên ngành hóa chất
đã làm việc tận tình đễ duy trì và tái thiết xác ngài hầu giữ xác lâu dài và
bảo tồn để cho dân chúng đến kính viếng.
Khi còn sinh thời, Padre Piô từng là vị thánh sống của đại chúng người Ý và là
một Thầy Dòng lạ lùng của thế kỷ XX:
– cha được in năm dấu đanh (Stigmata) tương tự như Chúa Giêsu khi chịu đóng
đanh trên thánh giá, nghĩa là ngực, hai bàn tay và hai bàn chân bị đâm thủng
qua, và hằng ngày máu từ các vết thương đó chảy nhỉ ra làm ướt đẫm các khăn
băng và cả áo quần, khiến ngài vô cùng đau đớn;
– cha có thể hiện diện một lúc trong nhiều địa điểm khác nhau: Nhiều lần cha
vừa có mặt tại Milanô (miền Bắc Ý), vừa có mặt tại Rôma (miền Trung Ý) để cứu
vớt những người tự tử, và đồng thời cha lại ngồi giải tội ở Tu Viện của cha tại
miền Nam Ý.

Thi hài thánh Padre Piô hiện quàn tại San Giovanni Rotondo

Ba vị Giáo Hoàng đã kết án cha là người giả hình đóng kịch. Nhưng năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng cất nhắc cha lên hàng Thánh Nhân.
Theo lời Đức Giám Mục D’Ambrôsiô thì “thi hài thánh Padre Piô hầu như không bị hủy hoại… Tuy nhiên năm dấu đanh trên mình thánh nhân đã hoàn toàn biến mất.”
Nhưng trước khi được đưa trưng bày công khai cho các tín hữu kính viếng khuôn mắt thánh Padre Piô đã được sửa sang lại bằng chất Silikon như chúng ta thấy trong hình kèm đây, và thi hài thánh nhân cũng đã được xức thuốc. Hiện người ta chỉ nhìn thấy đầu các ngón tay của thánh nhân hơi bị đen. Còn hai chân được mang tất che kín lại.
Cho đến nay đã có khoảng 800.000 tín hữu từ khắp mọi nơi kéo về kính viếng và cầu nguyện bên thi hài thánh Padre Piô.
Anh Nguyễn V Thập gởi

Thánh Silvestrê I,

Thánh Silvestrê I,

Giáo Hoàng (270-335)

Ngày 31/12

 

Thánh Silvestrê sinh vào khoảng năm 270 tại La Mã.

Năm 314, sau khi vua Constantinô trở lại, Giáo Hội được tự do và chấm dứt cơn bách hại kéo dài suốt hai thế kỷ trong toàn đế quốc La Mã, linh mục Silvestrê được bầu lên ngôi Giáo Hoàng (314).

Ngài đảm trách cai quản Hội Thánh giữa thời thuận tiện, ngài đã nỗ lực hoạt động để tổ chức lại Giáo Hội cho có quy củ.Ngài sửa đổi luật lệ, đặt nền móng cho lâu đài phụng vụ Kitô Giáo bằng cách ban nhiều sắc lệnh và cách thức cử hành các nghi lễ. Ngoài ra, ngài còn khuyến khích việc xây cất nhiều thánh đường, trong đó có đại thánh đường Phêrô tại Rôma và thánh đường Chúa Cứu Thế tại Latran. Nhưng việc vĩ đại nhất dưới triều đại của ngài là đã triệu tập công đồng chung lần đầu tiên cho toàn thể Giáo Hội ở Nicée vào năm 326 để kết án bè rối Ariô và bệnh vực thiên tính của Chúa Giêsu.

Sau 22 năm chèo lái con thuyền Hội Thánh, ngài ngã bệnh và qua đời ngày 21/12/335.

Maria Thanh Mai gởi

Lễ Các Thánh Anh Hài

Lễ Các Thánh Anh Hài

28 Tháng Mười Hai

Hêrôđê “Ðại Ðế”, là vua xứ Giuđêa nhưng không được dân chúng mến chuộng vì ông làm việc cho đế quốc La Mã và ông rất dửng dưng đối với tôn giáo. Vì lý do đó ông luôn cảm thấy bất an và lo sợ bất cứ đe dọa nào đối với ngai vàng của ông. Ông là một chính trị gia giỏi và là một bạo chúa dám thi hành những việc tàn bạo. Ông giết chính vợ ông, anh của ông và hai người chồng của cô em, đó chỉ là sơ khởi.

Phúc Âm theo Thánh Mátthêu 2:1-18 kể cho chúng ta câu chuyện sau: Hêrôđê “thật bối rối” khi các nhà chiêm tinh đến từ đông phương hỏi về “vị vua mới sinh của người Do Thái,” mà họ đã thấy ngôi sao của người. Và các vị chiêm tinh được cho biết
trong Sách Thánh Do Thái có đề cập đến Bêlem, là nơi Ðấng Cứu Tinh sẽ chào đời.
Một cách xảo quyệt, Hêrôđê dặn họ là hãy báo cho ông biết sau khi tìm thấy vị
vua ấy để ông cũng “đến thần phục.” Các nhà chiêm tinh đã tìm thấy Hài Nhi Giêsu, họ dâng Ngài các lễ vật, và được thiên thần báo mộng về ý định thâm độc của Hêrôđê và khuyên họ hãy thay đổi lộ trình trên đường về. Sau đó Thánh Gia trốn sang Ai Cập.

Hêrôđê vô cùng tức giận và “ra lệnh tàn sát tất cả các con trai từ hai tuổi trở xuống ở Bêlem và vùng phụ cận.” Vì Bêlem là một thành phố nhỏ, số trẻ bị giết có lẽ khoảng 20 hay 25. Sự kinh hoàng của việc thảm sát và sự tuyệt vọng của các cha mẹ đã
khiến Thánh Mátthêu trích dẫn lời tiên tri Giêrêmia: “Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Raken khóc thương con mình…” (Mt 2:18). Bà Raken là vợ của ông Giacóp. Bà than khóc ở Rama là nơi người Do Thái bị tập trung lại sau khi bị người Assyria bắt làm tù binh.

Lời Bàn

Hai mươi trẻ em thì chỉ là số ít, so với sự diệt chủng và sự phá thai trong thời đại chúng ta. Nhưng dù đó chỉ là một người, chúng ta cũng phải nhớ đến tạo vật quý trọng nhất mà Thiên Chúa đã dựng trên mặt đất — đó là con người, được tiền định để sống đời đời và được chúc phúc nhờ sự chết và sự sống lại của Ðức Giêsu.

Lời Trích

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự sống ngay cả trước khi chúng con có thể hiểu biết” (Lời Nguyện Trên Lễ Vật, Lễ Các Thánh Anh Hài).alt

Maria Thanh Mai gởi

 

Thánh Gioan Tông Ðồ

Thánh Gioan Tông Ðồ

27 Tháng Mười Hai

Chính Thiên Chúa là người mời gọi, và nhân loại đáp lời. Trong Phúc Âm, lời mời gọi
ông Gioan và ông Giacôbê (James), người anh của ông, được bắt đầu rất đơn giản,
cũng như lời mời gọi ông Phêrô và Anrê: Ðức Giêsu gọi họ; và họ theo Ngài. Sự
đáp ứng mau mắn được miêu tả rõ ràng. Các ông Giacôbê và Gioan “đang ở
trên thuyền, cùng với người cha là ông Zêbêđê vá lưới. Ðức Kitô gọi họ, và ngay
lập tức họ bỏ thuyền và từ giã người cha mà theo Ngài” (Mátthêu 4:21b-22).

Ðức tin của ba ngư dân — Phêrô, Giacôbê và Gioan — đã được phần thưởng, đó là được làm bạn với Ðức Giêsu. Chỉ ba vị này được đặc ân là chứng kiến sự Biến Hình, sự
sống lại của con gái ông Giairút, và sự thống khổ trong vườn Giệtsimani của Ðức
Giêsu. Nhưng tình bằng hữu của ông Gioan còn đặc biệt hơn nữa. Truyền thống coi
ngài là tác giả cuốn Phúc Âm Thứ Tư, dù rằng hầu hết các học giả Kinh Thánh
thời nay không cho rằng vị thánh sử và tông đồ này là một.

Phúc Âm Thánh Gioan đề cập đến ngài như “người môn đệ được Ðức Giêsu yêu quý”
(x. Gioan 13:23; 19:26; 20:2), là người được ngồi cạnh Ðức Giêsu trong bữa Tiệc
Ly, và là người được Ðức Giêsu ban cho một vinh dự độc đáo khi đứng dưới chân
thánh giá, là được chăm sóc mẹ của Ngài. “Thưa bà, đây là con bà… Ðây là
mẹ con” (Gioan 19:26b, 27b).

Vì ý tưởng thâm thuý trong Phúc Âm của ngài, Thánh Gioan thường được coi như con đại bàng thần học, cất cánh bay cao trong một vùng mà các thánh sử khác không đề cập đến. Nhưng các cuốn Phúc Âm thật bộc trực ấy cũng tiết lộ một vài nét rất nhân
bản. Ðức Giêsu đặt biệt hiệu cho ông Gioan và Giacôbê là “con của sấm sét.” Thật khó để hiểu được ý nghĩa chính xác của biệt hiệu này, nhưng chúng ta có thể tìm thấy chút manh mối trong hai biến cố sau.

Biến cố thứ nhất, như được Thánh Mátthêu kể lại, bà mẹ của hai ông Giacôbê và Gioan xin cho hai con của bà được ngồi chỗ danh dự trong vương quốc của Ðức Giêsu — một người bên trái, một người bên phải. Khi Ðức Giêsu hỏi họ có uống được chén mà Ngài sẽ uống và chịu thanh tẩy trong sự đau khổ mà Ngài sẽ phải chịu không, cả
hai ông đều vô tư trả lời, “Thưa có!” Ðức Giêsu nói quả thật họ sẽ được chia sẻ chén của Ngài, nhưng việc ngồi bên tả hay bên hữu thì Ngài không có quyền. Ðó là chỗ của những người đã được Chúa Cha dành cho. Các tông đồ khác đã phẫn nộ trước tham vọng sai lầm của người anh em, và trong một dịp khác Ðức Giêsu đã dạy họ về bản chất thực sự của thẩm quyền: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người” (Mt 20:27-28).

Một dịp khác, những “người con của sấm sét” hỏi Ðức Giêsu rằng họ có thể
khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt những người Samaritan lạnh nhạt không, vì họ
không đón tiếp Ðức Giêsu đang trên đường đến Giêrusalem. Nhưng Ðức Giêsu đã
“quay lại và khiển trách họ” (x. Luca 9:51-55).

Vào ngày đầu tiên của biến cố Phục Sinh, bà Mađalêna “chạy đến ông Simon Phêrô và
người môn đệ mà Ðức Giêsu yêu dấu, và bà bảo họ, ‘Người ta đã đem Chúa ra khỏi
trong mộ; và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu?” (Gioan 20:2). Gioan
nhớ rằng, chính ngài và Phêrô cùng đi cạnh nhau, nhưng “người môn đệ kia
chạy nhanh hơn ông Phêrô nên đến mộ trước nhất” (Gioan 20:4b). Ông không
bước vào mộ, nhưng đợi ông Phêrô và để ông này vào trước. “Sau đó người
môn đệ kia mới bước vào, và ông đã thấy và đã tin” (Gioan 20:8).

Sau biến cố Sống Lại, ông Gioan đang ở với ông Phêrô thì phép lạ đầu tiên xảy ra — chữa một người bị tật từ bẩm sinh — và việc đó đã khiến hai ông bị cầm tù. Cảm
nghiệm kỳ diệu của biến cố Sống Lại có lẽ được diễn tả hay nhất trong sách Công
Vụ Tông Ðồ: “Nhận thấy sự dũng cảm của ông Phê-rô và ông Gio-an và biết
rằng hai ông là những người bình dân, không có học thức, nên họ rất ngạc nhiên,
và họ nhận ra rằng hai ông là những người theo Ðức Giêsu” (CVTÐ 4:13).

Thánh Sử Gioan đã viết cuốn Phúc Âm vĩ đại, cũng như các lá thư và Sách Khải Huyền. Cuốn Phúc Âm của ngài là một công trình độc đáo. Ngài nhìn thấy sự vinh hiển và thần thánh của Ðức Giêsu ngay trong các biến cố ở trần gian. Trong bữa Tiệc Ly, ngài diễn tả Ðức Giêsu với những lời phát biểu như thể Ðức Giêsu đã ở thiên đàng. Ðó là cuốn Phúc Âm về sự vinh hiển của Ðức Giêsu.

Lời Bàn

Quả thật, đó là một hành trình thật dài để thay đổi từ một người khao khát muốn có uy quyền và muốn sai lửa từ trời xuống thiêu đốt, cho đến một người đã viết những
dòng chữ sau: “Phương cách để chúng ta biết được tình yêu là Ngài đã hy
sinh mạng sống vì chúng ta; do đó, chúng ta cũng phải hy sinh mạng sống mình vì
anh em
” (1 Gioan 3:16).

Lời Trích

Có câu chuyện người ta thường kể, là “các giáo dân” của Thánh Gioan quá chán
chường với bài giảng của ngài vì ngài luôn luôn nhấn mạnh rằng: “Hãy
yêu thương nhau.
” Dù câu chuyện này có thật hay không, đó là nền tảng
của văn bút Thánh Gioan. Những gì ngài viết có thể được coi là tóm lược của
Phúc Âm: “Chúng ta đã biết và đã tin vào tình yêu mà Thiên Chúa dành
cho chúng ta. Thiên Chúa là tình yêu, và ai ở trong tình yêu thì ở trong Thiên
Chúa, và Thiên Chúa ở trong họ
” (1 Gioan 4:16).

alt

Maria Thanh Mai gởi

Thánh Stêphanô

Thánh Stêphanô
(c. 36?)
26 Tháng Mười Hai

Những gì chúng ta biết về Thánh Stêphanô thì được viết trong sách Công Vụ Tông Ðồ 6 và 7. Ðiều đó đã đủ để biết về con người của ngài.
“Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do-thái theo văn hoá Hy-lạp kêu trách những tín hữu Do-thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: ‘Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. Vậy, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy thần khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng
tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa.’ Ðề nghị trên
được mọi người tán thành. Họ chọn ông Stêphanô, một người đầy lòng tin và đầy
Thánh Thần,…” (CVTÐ 6:1-5)
Sách Công Vụ kể tiếp Stêphanô là một người đầy ơn sủng và sức mạnh, đã làm nhiều việc phi thường trong dân chúng. Một vài người Do Thái thời ấy, là thành viên của hội đường nhóm nô lệ được giải phóng, tranh luận với Stêphanô nhưng không thể địch nổi sự khôn ngoan  và thần khí của ngài. Họ xúi giục người khác lên án ngài là lộng ngôn, xúc phạm đến Thiên Chúa. Ngài bị bắt và bị đưa ra trước Thượng Hội Ðồng.


Trong phần trình bày, ngài nhắc lại sự dẫn dắt của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, cũng như việc thờ tà thần và bất tuân phục Thiên Chúa của dân này. Sau đó ngài cho rằng những người bách hại ngài cũng giống như vậy. “Cha ông các ông thế nào, thì các ông cũng vậy” (CVTÐ 7:51b).
Lời ngài nói đã làm họ tức giận. “Nhưng [Stêphanô], tràn đầy Thánh Thần, đăm đăm nhìn lên trời và thấy vinh hiển của Thiên Chúa và Ðức Giêsu Kitô đứng bên hữu Thiên Chúa, và thánh nhân nói, ‘Kìa, tôi nhìn thấy thiên đàng mở ra và Con Người đang đứng bên hữu Thiên Chúa.’… Họ đưa ngài ra ngoài thành và bắt đầu ném đá ngài… Trong khi họ ném đá ngài, thánh nhân kêu lớn, ‘Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con… Lạy Chúa, xin đừng nhớ tội của họ'” (CVTÐ 7:55-56, 58a, 59, 60b).

Lời Bàn
Thánh Stêphanô đã chết như Ðức Kitô: bị kết tội cách sai lầm, bị kết án cách bất công vì ngài dám nói lên sự thật. Ngài chết trong khi mắt nhìn lên Thiên Chúa, và với lời xin tha thứ cho kẻ xúc phạm. Một cái chết “sung sướng” lúc nào cũng giống nhau, dù chết âm thầm như Thánh Giuse hay chết đau khổ như Thánh Stêphanô, đó là cái chết với sự can đảm, sự tín thác hoàn toàn và với tình yêu tha thứ.
nguồn: Maria Thanh Mai gởi