Thánh Catarina ở Genoa

Ngày 24 Tháng 3

Thánh Catarina ở Genoa
(1447 – 1510)

Khi Thánh Catarina chào đời thì nhiều nhà quý tộc ở Ý lúc bấy giờ hỗ trợ các văn nghệ sĩ thuộc phong trào Phục Hưng. Các nhu cầu của người nghèo và người bệnh tật thường bị lu mờ bởi cái đói khát giầu sang và lạc thú.

Cha mẹ của Catarina thuộc dòng họ quý tộc ở Genoa. Lúc 13 tuổi, ngài muốn đi tu nhưng không được nhận vì còn quá trẻ. Năm 16 tuổi, bởi sự thúc giục của cha mẹ, Catarina kết hôn với ông Guiliano Adorno, một người quý tộc nhưng đó là một hôn nhân bất hạnh. Ông Guiliano là một người không có đức tin, cọc cằn, hoang phí và không chung thủy. Trong một thời gian, Catarina muốn quên đi những chán chường của đời sống bằng cách hòa đồng với xã hội.

Một ngày kia, khi đi xưng tội, ngài được ơn Chúa cho thấy tội lỗi của mình và tình thương của Thiên Chúa. Ngài thay đổi lối sống và làm gương cho chồng, mà không lâu sau đó, chính ông Giuliano cũng đã từ bỏ đời sống ích kỷ, hoang đàng. Cả hai quyết định sống trong khu nhà thương ở Genoa để chăm sóc bệnh nhân, thi hành đức bác ái. Sau khi ông Giuliano qua đời năm 1497, bà Catarina đứng trông coi bệnh viện.

Những thị kiến bà được cảm nghiệm từ khi hai mươi sáu tuổi cho đến lúc chết, được cha giải tội ghi nhận lại trong hai cuốn “Những Ðối Thoại của Linh Hồn và Thân Xác,” và “Luận Về Luyện Ngục“. Trong Luận Về Luyện Ngục, bà coi toàn thể cuộc đời Kitô Hữu là sự thanh luyện. Nếu sự thanh luyện ở đời này chưa hoàn tất thì sẽ phải tiếp tục sang đời sau. Những gì chúng ta phải đền bù vì tội lỗi của chúng ta ở đời này thì quá nhỏ so với những gì phải đền bù ở Luyện Tội. Ðời sống với Thiên Chúa ở thiên đàng là một tiếp nối của đời sống đã được hoàn thiện được khởi sự từ trần gian.

Kiệt quệ vì sự hy sinh, bà từ trần ngày 15 tháng Chín, 1510, và được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê XII phong thánh năm 1737.

Lời Bàn

Xưng tội và rước lễ thường xuyên có thể giúp chúng ta nhìn thấy con đường hướng về Thiên Chúa. Những người có cảm nhận thực tế về tội lỗi của mình và sự cao cả của Thiên Chúa thường là những người sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của tha nhân. Thánh Catarina bắt đầu công việc ở bệnh viện với lòng nhiệt thành, và trung thành với công việc ấy qua những thời kỳ khó khăn bởi vì ngài được khích động bởi tình yêu Thiên Chúa, và tình yêu ấy được canh tân qua Kinh Thánh và các bí tích.

Lời Trích

Trước khi từ giã cõi đời, Thánh Catarina nói với cô con gái đỡ đầu: “Tomasina! Ðức Giêsu trong tâm hồn con! Vĩnh cửu trong tâm trí con! Thánh ý Thiên Chúa trong hành động của con! Nhưng trên hết mọi sự, hãy sống bác ái, Thiên Chúa là tình yêu, hoàn toàn tình yêu!

Trích từ NguoiTinHuu.com

…………………………………………………………………………………………………….

Vững Niềm Tin

Vào năm 1856 các nhà khảo cổ đã thực hiện một cuộc khám phá đầy thú vị tại đồi Palatino tại thành phố Roma. Khi đào bới những lớp đất bao phủ một trại lính Roma cổ, trên vách một bức tường, họ tìm thấy một cây thập giá được một người lính nào đó dùng đinh hay mũi dao khắc vụng về vào tường. Bên cạnh là hình một chàng thanh niên giơ tay chào kính cây thập giá. Trên cây thập giá có vẽ hình một người, nhưng đầu người ấy là hình một con lừa. Dưới hai hình vẽ, người ta thấy có viết hàng chữ: Alexamenos thờ lạy Chúa của hắn.

Các nhà khảo cổ cho rằng: Có thể bức tranh đã được thực hiện vào những năm 123 đến năm 126. Nếu sự phỏng đoán về niên hiệu này là đúng thì đây có lẽ là hình vẽ thập giá cổ nhất, nhưng lại là hình thập giá bị nhạo báng, chê cười: Nếu Thiên Chúa lại chết trên thập giá thì đây là hành động yếu hèn, khờ dại như hành động của một con lừa và cả những người thờ lạy Thiên Chúa trên thập giá cũng thế.

Vào năm 1870, các nhà khảo cổ lại tìm được câu trả lời mà họ nghĩ là của một chàng thanh niên mang niềm tin Kitô tên là Alexamenos. Ở một cột trụ bằng đá  dựng hình thần Mars tức là vị thần chiến tranh, người ta khám phá thấy được khắc vào đó dòng chữ: “Alexamenos vẫn vững tin”.

Vâng, hình ảnh Thiên Chúa chết treo trên thập giá là một hình ảnh khủng khiếp, yếu đuối, dại khờ.Nhưng Thánh Phaolô đã biện hộ cho hành động có thể gọi được là điên rồ của Thiên Chúa như sau:

“Tiếng nói của thập giá đối với những kẻ hư hỏng là điên dại, còn đối với các người được cứu rỗi, tức là chúng ta, thì là sức mạnh của Thiên Chúa. Thật vậy, người Do Thái đòi hỏi phép lạ, người Hy Lạp tìm kiếm sự khôn ngoan. Còn chúng tôi thì giảng về Chúa Kitô chịu đóng đinh vào thập giá. Người Do Thái cho điều đó là xấu xa, còn các người ngoại giáo thì cho là dại dột. Song với tất cả được Thiên Chúa tuyển chọn thì Chúa Kitô chịu đóng đinh là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa”.

Trích sách Lẽ Sống

Anh chị Thụ & Mai gởi

Các phép lạ mới và ít được biết đến của cha Thánh Piô

Các phép lạ mới và ít được biết đến của cha Thánh Piô

“Cha Piô”, tên gọi đơn giản nhưng thân thuộc mà tín hữu khắp nơi trên thế giới dùng để gọi cha Thánh Piô thành Pietrelcina. Cha Piô sinh ngày 25 tháng 5 năm 1887, với tên Francesco Forgione, trong một gia đình Công giáo đạo hạnh ở Pietrelcina, Italia.

Vào năm 15 tuổi, cha gia nhập dòng capuchinô và trở thành Linh mục. Trong suốt cuộc đời, cha Piô được biết đến như là một nhà huyền bí, được mang 5 dấu thánh của Chúa Giêsu trong suốt 50 năm – các vết thương ở chân tay và cạnh sườn như Chúa Giêsu đã bị đóng đinh. Nhiều phép lạ và dấu lạ đã được thực hiện bởi cha Piô như các vụ chữa lành, đọc được nội tâm, bay lên và thậm chí xuất hiện ở hai nơi khác nhau trong cùng thời gian. Ngài là một trong những vị thánh vẫn đang thực hiện nhiều phép lạ trong Giáo hội cho đến ngày nay, cho những ai xin ngài khấn cầu.

Còn cha John Paul Zeller là một thừa sai dòng Phanxicô Ngôi lời vĩnh cửu và là một thừa sai Lòng thương xót đến từ thành phố Birmingham, tiểu bang Alabama, Hoa kỳ. Cha đang giữ một thánh tích hạng nhât của cha Piô và đã tận mắt chứng kiến những lần chữa lành qua lời cầu bầu của cha Piô với thánh tích cầm trên tay. Đối với cha Zeller, cha Piô là một vị thánh bầu cử rất quyền thế. Cha Zeller kể lại rằng ban đầu cha không có lòng kính mến đặc biệt đối với cha Piô.

Cha luôn tưởng tượng ra cha Piô rất là nghiêm khắc và sợ xin ngài cầu bầu vì sợ cha Piô cũng nghiêm khắc với cha. Nhưng vào năm 2004, sau khi cha Pio được Thánh Giao hoàng Gioan Phaolô II tuyên phong hiển thánh, cha Zeller đã hành hương đến thành phố San Giovanni Rotondo, nơi cha Pio đã phục vụ trong thánh chức Linh mục phần lớn thời gian ởđó, và lòng yêu kính đối với cha thánh Piô đã gia tăng từ đó. Cha Zeller đột nhiên cảm thấy mình có mối liên hệ với cha Piô, vì thánh nhân đã chọn ngài chứ không phải ngài chọn thánh nhân. Giờ đây cha nhận ra cha Piô thật sự là một tu sĩ vui vẻ. Cha nghĩ là cha Piô có vẻ nghiêm khắc là vì “thánh nhân biết khi nào người ta không ăn năn hoán cải.” Người ta nói là Cha Piô có thể ngửi được mùi của tội. Cha lo lắng cho ơn cứu độ của các linh hồn và mang lòng thương xót và tha thứ của Chúa đến cho các linh hồn của dân chúng.

Sau khi học biết về cuộc đời của cha Piô, cha Zeller được đánh động và lấy hết can đảm để xin các bề trên tu viện ở San Giovanni cho cha một thánh tích của cha Piô. Cha bề trên đã đồng ý và tặng cho cha Zeller không chỉ một, nhưng tới hai mảnh băng thấm máu mà cha Piô buộc quanh vết thương của các dấu thánh. Sau khi nhận được thánh tích của cha Piô, cha đã tặng cho cộng đoàn của cha, được Mẹ Angelica, người sáng lập mạng lưới truyền  hình Công giáo thành lập và được phép giữ cho mình thánh tích còn lại. Cha mang thánh tích này theo mình mọi lúc. Là giám đốc hành hương của trung tâm Mạng lưới truyền hình Lời vĩnh cửu, cha có nhiều cơ hội cầu nguyện với nhiều người. Cha cầu nguyện với các tín hữu hành hương và có những trường hợp, theo cha, có sự chữa lành nhờ lời cầu bầu của cha Piô.

Một trường hợp xảy ra vào gần giữa năm ngoái (2016), trong một buổi cử hành chữa lành ở đền thánh Thánh Thể ở Hanceville vào ngày lễ Đức Mẹ Fatima, khi cha và 2 Linh mục khác đã dùng hai băng vải thánh tích của cha Pio để cầu nguyện trên dân chúng. Khi họ đang cầu nguyện, một phụ nữ bị đau thần kinh tọa tiến lên và cha đã cầu nguyện cho bà. Sau  đó, phụ nữ này trở lại và cho cha biết là sau khi trở về chỗ ngồi, cơn đau của bà đã biến mất. Một trường hợp khác, không lâu sau khi nhận được thánh tích, cha Zeller đang trò chuyện với vài người bạn thì nhận ra đứa con gái 12 tuổi của một người bạn đang đau đớn vì bị viêm tai và dường như không thể lành.

Cha Zeller hỏi đứa bé xem ngài có thể cầu nguyện trên cô với thánh tích không. Cô bé trả lời được. Cha Zeller cho người mẹ và cô gái thấy thánh tích. Khi cha vừa đặt thánh tích đụng tai của cô gái và bắt đầu cầu nguyện, cô bé trượt khỏi tay cha và ngã xuống đất. Cha Zeller không kịp đỡ cô bé vì nghĩ có chuyện gì xảy ra với cô. Khi cha đang lo sợ thì mẹ cô bé rất bình tĩnh, bà tin đó là hoạt động của Chúa Thánh Thần. Nhưng từ lúc đó cô bé không còn bị viêm tai nữa. Một trường hợp của một phụ nữ bị bệnh tim đã 40 năm cũng được chữa lành sau khi được cha đặt thánh tích của cha Pio trên bà và cầu nguyện. Cha Zeller nhấn mạnh rằng không phải là cha, nhưng việc chữa lành là nhờ lời cầu bầu của cha thánh Piô. (CNA 22/09/2016)

Hồng Thủy

Anh chị Thụ & Mai gởi

Thánh Gioan Bosco

Thánh Gioan Bosco
(1815 – 1888)

Chính nguyên tắc giáo dục của Thánh Gioan Bosco đã được sử dụng rộng rãi trong các trường học ngày nay. Ðó là một hệ thống ngăn ngừa, loại bỏ các hình phạt thể xác và đưa các học sinh vào một môi trường lành mạnh ít có cơ hội phạm tội. Ngài cổ võ việc thường xuyên lãnh nhận bí tích Hòa Giải và Thánh Thể. Ngài pha trộn phương cách dạy giáo lý và sự hướng dẫn của một người cha, nhằm kết hợp đời sống tâm linh và công việc, việc học và việc chơi đùa.

St John Bosco

Ðược khuyến khích đi tu để có thể giúp cho các trẻ em, Gioan thụ phong linh mục năm 1841. Công việc phục vụ giới trẻ của ngài khởi sự khi ngài gặp một em mồ côi và giúp em chuẩn bị Rước Lễ lần đầu. Sau đó ngài quy tụ các người trẻ lại và chỉ dạy họ về giáo lý.

Sau thời gian làm tuyên uý cho một trại tế bần của các thiếu nữ, Cha Gioan mở nhà trường Thánh Phanxicô “de Sales” cho các em trai. Một vài người bảo trợ giầu có và quyền thế đã giúp đỡ tài chánh, nên ngài có thể mở hai trường dạy nghề cho các em trai, trường dạy đóng giầy và dạy may quần áo.

Vào năm 1856, số các em theo học tại hai trường đã lên đến 150 em, và có thêm một máy in để xuất bản các tài liệu giáo lý. Sự quan tâm của ngài đến việc giáo dục và xuất bản khiến ngài xứng đáng là quan thầy của các người tập sự trẻ tuổi và các nhà xuất bản Công Giáo.

Tiếng tăm của Cha Gioan ngày càng lan rộng và, vào năm 1850, ngài phải tự huấn luyện các người trẻ muốn theo đuổi con đường của ngài vì lúc ấy thật khó để duy trì ơn thiên triệu. Năm 1854, một cách bán chính thức, Cha Gioan và những người theo ngài đồng ý đứng dưới tên tổ chức Thánh Phanxicô “de Sales”.

Với sự hỗ trợ của Ðức Giáo Hoàng Piô IX, Cha Gioan quy tụ 17 người và thành lập dòng Salesian vào năm 1859. Hoạt động của dòng nhắm đến việc giáo dục và công cuộc truyền giáo. Sau này, ngài tổ chức dòng Salesian nữ để giúp đỡ các thiếu nữ.

Ngài từ trần năm 1888 lúc bảy mươi hai tuổi.

 Lời Bàn

Thánh Gioan Bosco giáo dục toàn thể con người — thể xác và linh hồn. Ngài tin rằng tình yêu Ðức Kitô và sự tin tưởng của chúng ta vào tình yêu ấy phải thấm nhập vào tất cả sinh hoạt của chúng ta — học hành, chơi đùa, làm việc. Ðối với Thánh Gioan Bosco, là một Kitô Hữu có nghĩa phải luôn luôn nỗ lực, không chỉ một tuần một lần, xem lễ ngày Chúa Nhật là đủ. Chính khi tìm kiếm Thiên Chúa trong sinh hoạt hàng ngày, hãy để tình yêu ấy hướng dẫn chúng ta. Tuy nhiên, Thánh Gioan nhận ra được tầm quan trọng của sự huấn nghệ và giá trị con người cũng như sự tự trọng do bởi tài nghệ và khả năng làm việc, do đó ngài cũng huấn luyện các người trẻ trong các ngành nghề.

    Lời Trích

“Mọi sự giáo dục đều dạy một triết lý sống; nếu không bởi lời nói thì bởi sự đề nghị, sự gợi ý, và bởi môi trường. Mỗi một phần của giáo dục đều có liên hệ với nhau. Nếu tất cả sự tổng hợp ấy không đem lại một cái nhìn tổng quát về đời sống, thì đó không phải là giáo dục” (G.K. Chesterton, The Common Man).

    Trích từ NguoiTinHuu.com

Tôi Tớ Thiên Chúa Juan de Padilla

  Tôi Tớ Thiên Chúa Juan de Padilla

23 Tháng Giêng
(1492 – 1542)

Khi rao giảng Tin Mừng của Ðức Kitô, Cha Juan không biết mình sẽ đến đâu, nhưng ngài tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ ban cho ngài sức mạnh để chu toàn ơn gọi của một nhà thừa sai. Ơn gọi của ngài đã dẫn đến cái chết vì đạo ở Kansas, là một phần của Tân Thế Giới được khám phá vào năm ngài chào đời.

Cha Juan xuất thân từ một thành phố thuộc phía nam Tây Ban Nha, là nơi ngài gia nhập dòng Phanxicô. Năm 1526, ngài đến Mễ Tây Cơ để hoạt động truyền giáo trong các tiểu bang Hidalgo và Jalisco. Năm 1540, ngài tháp tùng Coronado trong chuyến thám hiểm New Mexico. Năm kế đó, ngài đi với đoàn thám hiểm đến Kansas, ở đây ngài gặp gỡ người thổ dân Quivira. Sau khi đoàn thám hiểm trở về Mễ Tây Cơ, Cha Juan vẫn tiếp tục ở lại hoạt động. Ngài bị một vài người Quivira giết chết chỉ vì ngài muốn đến truyền giáo cho người Kaws, là kẻ thù truyền kiếp của người Quivira. Ngài là người đầu tiên trong số tối thiểu 79 tu sĩ Phanxicô tử vì đạo ở Hoa Kỳ.

    Lời Bàn

Suy nghĩ về những người tử đạo vì đức tin đôi khi làm chúng ta bồn chồn. Làm sao họ có thể làm như vậy được? Họ có bình thường không? Ao ước loan truyền phúc âm của Cha Juan de Padilla thì lớn hơn nỗi lo sợ cái chết. Ngài nhắc nhở cho chúng ta biết không ai có thể lựa chọn cái chết, nhưng chúng ta có thể lựa chọn lối sống của chúng ta.

    Trích từ NguoiTinHuu.com

THÁNH ANTÔN VIỆN PHỤ (Thế kỷ IV)

THÁNH ANTÔN VIỆN PHỤ (Thế kỷ IV)

THANH ANTONE

Thánh Antôn chào đời năm 250 tại Corma, gần Hieraclens, miền thượng Ai cập.  Cha mẹ Ngài nổi danh giàu có lẫn đạo đức, đã lo lắng dạy dỗ Ngài sống đạo ngay từ nhỏ.

Khi được 18 tuổi thì cha mẹ Ngài qua đời.  Sáu tháng sau ngày mất cha mất mẹ, tại một giáo đường, thánh nhân đã nghe đọc lời sách thánh: “Nếu con muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải và đem phân phát cho kẻ nghèo khó rồi theo Ta” (Mt 19,21).  Tưởng như Thiên Chúa nói riêng với mình đã về bán hết của cải và đem phân phát cho người nghèo khó.

Sau khi lo lắng gửi gấm em gái của mình cho một nữ tu viện, Ngài lui vào sa mạc để làm việc và cầu nguyện, Ngài theo đuổi một cuộc sống rất khắc khổ, chỉ ăn bánh với muối và uống nước ngày một lần sau khi mặt trời lặn.  Để giữ được sự cô tịch trọn vẹn, Ngài còn ẩn thân vào một ngôi mộ bỏ trống.  Thỉnh thoảng một người bạn mang bánh đến cho Ngài nhưng ma quỉ đã tìm cách quấy phá để trục Ngài ra khỏi “căn phòng” và cuộc sống khắc khổ, chúng thường hay la hét và hiện hình kỳ quái.  Phản ứng lại, thánh nhân thường cầu nguyện nhiều hơn và tăng những việc hãm mình.  Giận dữ vì các mưu mô bị thất bại, ma quỉ còn công khai hành hạ Ngài nữa.

Một ngày kia người bạn mang bánh đến, bỗng thấy thánh nhân nửa sống nửa chết, mình đầy thương tích.  Nhưng khi vừa bừng tỉnh, thánh nhân liền chỗi dậy và la lớn: “Tôi còn sẵn sàng chiến đấu.  Lạy Chúa, không, không gì có thể tách lìa con khỏi lòng yêu mến Chúa được.”

Giữa những đau đớn vì các cuộc tấn công của ma quỉ, Ngài khinh bỉ trả lời: “Ồn ào vô ích.  Dấu thánh giá và lòng tin tưởng vào Chúa là những thành trì kiên cố.”

Thánh nhân luôn tin tưởng nơi Chúa.  Ngày kia, được an ủi trong tâm hồn và cảm thấy là ma quỉ đã lùi bước, Ngài cầu nguyện: “Ôi, lạy Chúa, Chúa ở đâu?  Sao Chúa không ở đây lau sạch nước mắt và thoa dịu những dày vò của con?”  Tiếng Chúa trả lời: “Cha ở gần con, cha giúp con chiến đấu.  Bởi vì con đã chống trả lại ma quỉ, cha sẽ bảo vệ quãng đời còn lại của con. Cha sẽ làm cho tên con rạng rỡ trên trời.”

Tràn đầy nghị lực, thánh nhân chỗi dậy tạ ơn Chúa.  Muốn xa mọi người hơn nữa, Ngài vượt sông Nil đến trú ngụ trong một pháo đài hoang phế đầy những rắn rết.  Nhưng sự thánh thiện của Ngài như một sức nam châm, vẫn thu hút nhiều người đến xin làm môn đệ.  Thế là một phong trào ẩn tu nổi lên mạnh mẽ.  Sa mạc mọc lên những mái tranh, từ đó không ngừng vang lên những lời kinh ca khen Chúa.  Thánh nhân trở nên vị thủ lãnh của nếp sống ẩn tu.

Dầu vậy, thánh An tôn đã hai lần từ giã sa mạc.  Vào năm 311 khi có cuộc bách hại của Alaximiô, Ngài nói: “Nào ta cùng đi chiến đấu với anh em ta.”

Ngài lên đường đi Alexandria.  Người ta thấy thánh nhân khích lệ các tù nhân nơi các trại giam, theo họ tới trước quan tòa và khuyên nhủ họ can đảm chết vì đạo, Ngài còn xuống hầm trú để an ủi các linh mục.  Ngài thoát chết là một điều lạ lùng.

Cuộc bách hại chấm đứt được một năm, thánh nhân lại tìm về sa mạc.  Số các môn sinh ngày càng tăng thêm đông.  Sợ bị cám dỗ thành kiêu căng, và thấy gương các thánh tử đạo, thánh Antôn khao khát sống khắc khổ để đền tội.  Ngài tiến sâu hơn nữa vào sa mạc.  Sau ba ngày đi theo đoàn người buôn bán, Ngài dừng lại gần biển Đỏ, dưới chân núi Kolzim và dựng một căn lều vừa đủ để nằm để ở.  Dân Bê-đu-anh (Bédouins) cho Ngài bánh ăn.  Về sau các môn sinh tìm tới và mang cho Ngài một cái xuổng với một ít hạt giống, đây là nguồn gốc của tu viện thánh Antôn hay là Deir-el-Arat, một tu viện theo nghi lễ Cốp (Copte) ngày nay vẫn còn.

Lần thứ hai, thánh nhân trở lại Alexandria theo lời mời của đức giám mục Athanasiô, để chống lại lạc giáo.  Dân chúng cả thành chen lấn nhau đi đón Ngài.  Các lương dân cũng bảo nhau: “Chúng ta đi gặp người của Thiên Chúa.”

Nhiều người cảm động vì những bài diễn thuyết và những phép lạ Ngài làm, đã xin lãnh bí tích rửa tội, người ta tưởng sẽ gặp một lão già tám mươi hoang dại, nhưng đã ngạc nhiên khi thấy Ngài rất lịch thiệp, xử dụng ngôn ngữ văn hóa và diễn tả tư tưởng rất uyên thâm.  Các triết gia ngoại giáo ngạc nhiên hỏi Ngài:

–  Ngài làm gì được trong sa mạc không có sách vở chi hết?  Thánh nhân trả lời:

–  Thiên nhiên đối với tôi là một cuốn sách mở rộng.

Và người ta ngỡ ngàng về những điều thánh nhân đã khám phá được trong cuốn sách vĩ đại này của Đấng Tạo hóa.

Điều đáng kể dường như không phải những nhiệm nhặt Ngài theo đuổi, mà là tâm hồn trong trắng Ngài kết hiệp mật thiết với Chúa, Ngài nói: “Hư danh là kẻ thù nguy hiểm nhứt của chúng ta.”

Danh tiếng của thánh Antôn lan rộng đến nỗi vua Constantinô và con cái ông đã viết thư tham khảo ý kiến Ngài, môn sinh của Ngài hãnh diện lắm.  Nhưng Ngài bảo họ: “Đừng ngạc nhiên lắm khi thấy nhà vua là một con người viết thư cho một con người.  Đáng ngạc nhiên là chính Thiên Chúa đã muốn viết luật cho loài người, và đã nói với chúng ta qua Đức Giêsu Kitô.”

Và trả lời cho lớp người vương giả ấy, Ngài dùng những lời cao thượng để khuyên họ biết khinh chê danh vọng mà nhớ tới cuộc chung thẩm.

Khi Ngài đã quá 90 tuổi, Thiên Chúa qua một thị kiến đưa ngài đến thăm thánh Phaolô ẩn tu trong sa mạc.  Ngài còn được cho biết là sẽ sống tới tuổi 105.

Biết sắp tới giờ từ giã trần gian, Ngài đi thăm anh em Ngài lần chót.  Ngài nói với họ về sự chết với niềm vui của người hồi hương.  Họ đã khóc ròng, nhưng Ngài khuyên nhủ họ: “Hãy sống như phải chết mỗi ngày.  Hãy cố gắng noi gương các thánh.”

Thánh nhân trở lại núi với hai môn sinh.  Trong căn phòng nghèo nàn của mình, Ngài đã phó linh hồn trong tay Chúa lúc 105 tuổi.  Chúng ta biết được ân sủng giai thoại quý báu của đời thánh An tôn là nhờ thánh Athanasiô kể lại.

Giáo hội thưởng công cho thánh nhân

Với một lòng yêu mến Chúa dạt dào, thánh Antôn đã làm gương cho nhiều người về đời sống thánh thiện và các nhân đức siêu việt của Người.  Thánh nhân qua đời ngày 17/01/356 .  Vào năm 561, xác thánh nhân được cải táng trong nhà thờ kính thánh Gioan tiền hô tại Alexandria.  Các Giáo Hội Trung Ðông đã sùng kính thánh Antôn đầu tiên, tràn qua Âu Châu và Giáo Hội đã chính thức tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh.

Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh Antôn, viện phụ, sống một đời phi thường trong sa mạc để phụng sự Chúa.  Xin Chúa nhận lời người nguyện giúp cầu thay, cho chúng con biết quên mình để một niềm yêu mến Chúa trên hết mọi sự (lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Antôn, viện phụ).

 Nguồn: Tổng hợp

Langthangchieutim gởi

Thánh Gioan Neumann

5 Tháng Giêng

 Thánh Gioan Neumann
(1811 – 1860)

Thánh Gioan Neumann sinh trưởng ở Bohemia. Vào năm 1835, ngài trông đợi để được thụ phong linh mục nhưng đức giám mục sở tại quyết định không phong chức thêm. Thật khó để ngày nay chúng ta tưởng tượng rằng Bohemia dư thừa linh mục, nhưng thực sự là như vậy. Gioan viết thư cho các giám mục khắp Âu Châu, nhưng câu trả lời ở đâu đâu cũng giống nhau. Tin rằng mình có ơn thiên triệu nhưng mọi cơ hội dẫn đến sứ vụ ấy dường như đều đóng kín.

stjohnneumann

Không nản chí, và nhờ biết tiếng Anh khi làm việc trong xưởng thợ của người Anh, ngài viết thư cho các giám mục ở Mỹ Châu. Sau cùng, vị giám mục ở Nữu Ước đồng ý truyền chức linh mục cho ngài. Ðể theo tiếng Chúa gọi, ngài phải từ giã quê nhà vĩnh viễn và vượt đại dương ngàn trùng để đến một vùng đất thật mới mẻ và xa lạ.

Ở Nữu Ước, Cha Gioan là một trong 36 linh mục trông coi 200,000 người Công Giáo. Giáo xứ của ngài ở phía tây Nữu Ước, kéo dài từ Hồ Ontario đến Pennsylvania. Nhà thờ của ngài không có tháp chuông nhưng điều đó không quan trọng, vì hầu như lúc nào Cha Gioan cũng di chuyển, từ làng này sang làng khác, lúc thì lên núi để thăm bệnh nhân, lúc thì trong quán trọ hoặc gác xếp để giảng dạy, và cử hành Thánh Lễ ngay trên bàn ăn.

Vì sự nặng nhọc của công việc và vì sự đơn độc của giáo xứ, Cha Gioan khao khát có một cộng đoàn, và đã ngài gia nhập dòng Chúa Cứu Thế, là một tu hội chuyên giúp người nghèo và những người bị bỏ rơi.

Vào năm 1852, Cha Gioan được bổ nhiệm làm giám mục Philadelphia. Việc đầu tiên khi làm giám mục là ngài tổ chức trường Công Giáo trong giáo phận. Là một nhà tiên phong trong việc giáo dục, ngài nâng số trường Công Giáo từ con số đơn vị lên đến 100 trường.

Ðức Giám Mục Gioan không bao giờ lãng quên dân chúng — đó là điều làm giới trưởng giả ở Philadelphia khó chịu. Trong một chuyến thăm viếng giáo xứ ở thôn quê, cha xứ thấy ngài ngồi trên chiếc xe bò chở phân hôi hám. Ngất ngưởng ngồi trên mảnh ván bắc ngang trên xe, Ðức Gioan khôi hài, “Có bao giờ cha thấy đoàn tùy tùng của một giám mục như vậy chưa!”

Khả năng biết tiếng ngoại quốc đã đưa ngài đến Hoa Kỳ thì nay lại giúp Ðức Gioan học tiếng Tây Ban Nha, Pháp, Ý, và Ðức để nghe giải tội bằng sáu thứ tiếng. Khi phong trào di dân người Ái Nhĩ Lan bắt đầu, ngài lại học tiếng Gaelic và sành sõi đến nỗi một bà Ái Nhĩ Lan cũng phải lầm, “Thật tuyệt chừng nào khi chúng ta có được vị giám mục là người đồng hương!”

Trong chuyến công tác mục vụ sang nước Ðức, đến nơi ngài ướt đẫm dưới cơn mưa tầm tã. Khi gia chủ đề nghị ngài thay đôi giầy sũng nước, ngài trả lời, “Tôi chỉ có cách đổi giầy từ chân trái sang chân phải thôi. Chứ có một đôi giầy thì làm gì được.”

Ðức Gioan từ trần ngày 5-1-1860 khi mới 48 tuổi. Ngài nổi tiếng về sự thánh thiện và sở học cũng như các trước tác tôn giáo và bài giảng, do đó ngài được phong chân phước ngày 13-10-1963, và ngày 19-6-1977 ngài được phong thánh.
   

Lời Bàn

Thánh Neumann coi trọng lời Chúa là “Hãy đi rao giảng cho muôn dân.” Từ Ðức Kitô, ngài nhận được các huấn lệnh và cũng nhờ Ðức Kitô mà ngài có thể thi hành sứ mệnh ấy. Vì Ðức Kitô không chỉ trao cho chúng ta sứ mệnh mà còn cung cấp phương tiện để hoàn thành. Ơn sủng mà Thiên Chúa ban cho Thánh Gioan Neumann là biệt tài tổ chức của ngài để qua đó ngài loan truyền Tin Mừng.

Giáo Hội ngày nay rất cần đến sự hy sinh của mọi người trong công cuộc rao giảng Tin Mừng. Những trở ngại và những bất tiện thì có thật và tốn kém. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết chạy đến Ðức Kitô, Ngài sẽ cung cấp cho chúng ta những khả năng cần thiết để đáp ứng với các nhu cầu ngày nay. Thần Khí Ðức Kitô tiếp tục hoạt động qua các trung gian là sự quảng đại của Kitô Hữu.
   

Lời Trích

“Vì mọi người thuộc bất cứ chủng tộc nào, điều kiện nào và thế hệ nào đều có phẩm giá của một con người, nên họ có quyền được giáo dục tùy theo số phận của họ và thích hợp với khả năng bẩm sinh, với phái tính, với văn hóa và di sản của tổ tiên họ để lại. Ðồng thời, việc giáo dục này phải dẫn đến tình huynh đệ với các dân tộc khác, để sự bình an và sự hợp nhất đích thực có thể thực hiện được ở trần gian. Vì sự giáo dục đích thực nhắm đến việc đào tạo con người đối với lợi ích của xã hội mà trong đó họ là một phần tử, và họ phải chia sẻ trách nhiệm của phần tử ấy như một người trưởng thành” (Tuyên Ngôn Về Giáo Dục Kitô Giáo, 1).

    Trích từ NguoiTinHuu.com

Anh chị Thụ & Mai gởi

Thánh Phanxicô Xaviê

3 Tháng Mười Hai

Thánh Phanxicô Xaviê
(1506-1552)

phanxicoxavie

Đức Kitô hỏi, “Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?” (Mt. 16:26a). Câu hỏi trên đã trở thành lời tâm niệm của một giáo sư triết trẻ tuổi, với một tương lai đầy hứa hẹn trong giới kinh viện mà sự thành công, uy tín và vinh dự đang chờ đón.

Vào lúc đó, Phanxicô Xaviê mới 24 tuổi, đang sinh sống và giảng dạy ở kinh thành Balê. Ngài không thay đổi ngay lập tức khi nghe những lời ấy, nhưng tất cả là nhờ ở người bạn tốt, Cha Ignatius ở Loyola, đã liên lỉ thuyết phục và sau cùng đã chiếm được người thanh niên ấy cho Ðức Kitô. Sau đó, Phanxicô tập luyện đời sống tâm linh dưới sự hướng dẫn của Cha Ignatius, và năm 1534 ngài gia nhập cộng đoàn nhỏ bé của Cha Ignatius (là Dòng Tên thời tiên khởi). Tại Montmartre, các ngài khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và hoạt động tông đồ dưới sự hướng dẫn của đức giáo hoàng.

Từ Venice, là nơi ngài thụ phong linh mục năm 1537, Cha Phanxicô Xaviê đến Lisbon và từ đó ngài dong buồm đến Ấn Ðộ, cập bến làng Goa ở bờ biển phía tây nước Ấn. Trong vòng 10 năm tiếp đó, ngài đã tích cực hoạt động để đem đức tin đến cho rất nhiều dân tộc, trong đó có người Ấn Ðộ, Mã Lai và Nhật Bản.

Bất cứ chỗ nào ngài đến, ngài đều sống với người nghèo, chia sẻ thức ăn và các phương tiện thô sơ với họ. Ngài dành rất nhiều thời giờ để chăm sóc người đau yếu, nghèo khổ, nhất là người cùi. Rất nhiều khi ngài không có thời giờ để ngủ hoặc ngay cả để đọc kinh nhật tụng, nhưng, qua các thư từ ngài để lại chúng ta được biết, ngài luôn luôn tràn ngập niềm vui.

Cha Phanxicô đến các quần đảo ở Mã Lai, và Nhật Bản. Ngài học tiếng Nhật và rao giảng cho các người dân chất phác, dạy giáo lý và rửa tội cho họ, cũng như thành lập các trụ sở truyền giáo cho những người muốn giúp đỡ công cuộc của ngài. Từ Nhật Bản, ngài mơ ước đến Trung Hoa, nhưng dự tính này không bao giờ thực hiện được. Ngài đã từ trần trước khi đặt chân đến phần đất này.

Năm 1622, ngài được Ðức Giáo Hoàng Piô X phong thánh và đặt làm quan thầy các công cuộc truyền giáo nước ngoài.

 Lời Bàn

Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi để “ra đi và rao giảng cho muôn dân” (x. Mátthêu 28:19). Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người cùng làm việc với chúng ta. Và sự rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hàng ngày. Chính nhờ sự hy sinh, từ bỏ tất cả những gì của riêng mình, mà Thánh Phanxicô mới có tự do để đem Tin Mừng đến cho người khác. Hy sinh là quên đi cái tôi của mình vì lợi ích cao cả hơn, lợi ích của sự cầu nguyện, lợi ích khi giúp đỡ người có nhu cầu, lợi ích khi lắng nghe người khác. Món quà lớn nhất của chúng ta là thời giờ, và Thánh Phanxicô đã hy sinh thời giờ của ngài cho người khác.

Trích từ NguoiTinHuu

Anh chị Thụ & Mai gởi

THÁNH LUCA, THÁNH SỬ

THÁNH LUCA, THÁNH SỬ

luca

Theo các nhà Kinh Thánh học, thánh Luca đã hiến cho chúng ta hai tác phẩm: một là cuốn Tin Mừng thứ ba và hai là sách Tông Đồ Công Vụ.

Qua các tông đồ, nhất là Mẹ Maria và thánh Phaolô, thánh Luca đã ghi lại tiểu sử của Chúa Giêsu bằng những nét đặc sắc.  Ngài đã hết lòng ca tụng ơn cứu độ và lòng từ bi của Thiên Chúa.  Qua những truyện như: Người con phung phá, người Samaritanô nhân hậu, ông Giakêu, người trộm lành…  chúng ta thấy đuợc phần nào chủ ý của thánh nhân khi ngài muốn trình bày cho chúng ta thấy một cách cụ thể về lòng từ bi của Thiên Chúa.

Tin Mừng thánh Luca cũng là Tin Mừng về đời sống cầu nguyện.  Ngài đặt trước mắt chúng ta gương cầu nguyện của Chúa Giêsu trước khi Chúa chịu phép rửa, trước khi khi chọn môn đệ, trước khi biến hình sáng láng, lúc hấp hối trong vườn Giêtsimani và cả trên thánh giá.

Tin Mừng của ngài là Tin Mừng cho những người bị áp bức.  Không Tin Mừng nào làm cho chúng ta có thể thấy được một sự lưu tâm đáng yêu mà Chúa dành cho những người thu thuế và tội lỗi như trong Tin Mừng thánh Luca: Chúa đến để tìm kiếm những gì đã mất… một người nữ ngoại tình, một người thu thuế thống hối, một tên trộm ăn năn…  Không một Tin Mừng nào diễn tả được tấm lòng tha thiết của Chúa dành cho những người bơ vơ nghèo đói cho bằng dưới ngòi bút điêu luyện của Luca.

Tin mừng của thánh Luca là Tin Mừng của niềm vui vì ngay từ đầu, và bàng bạc trong Tin Mừng của ngài, có rất nhiều chỗ nói về niềm vui như loan báo tin vui cho Zacharia, truyền tin cho Maria.  Những niềm vui liên tục khi Thánh Gioan chào đời, lúc Chúa giáng sinh…  Những niềm vui trong chương 15 khi tìm thấy con chiên lạc, tìm được đồng tiền mất, gặp lại người con hoang và niềm vui nân hoan của các tông đồ khi trở lại Giêrusalem.  Ðúng như Harnack đã nói: “Có những nét vui tươi, can trường và chiến thắng âm vang trong toàn bộ cuốn Tin Mừng của Thánh Luca từ trang đầu cho tới trang chót.”

Tin Mừng của thánh Luca còn được gọi là Tin Mừng của những người phụ nữ bởi vì không Tin Mừng nào vai trò của người phụ nữ được nhắc tới với một lòng kính trọng như Tin Mừng của thánh Luca.  Những câu chuyện về những người phụ nữ đặc biệt như những chị em phụ nữ đi theo phục vụ Chúa Giêsu và tông đồ đoàn chỉ có thể tìm thấy trong Tin Mừng của thánh Luca.

Sau hết, khi trình bày, thánh Luca như cố ý cho chúng ta thấy những điều kiện cần thiết để tin theo Chúa cũng như để đuợc gia nhập Nước Trời.  Những điều kiện đó là đức tin, lòng khiêm nhường, thống hối, dám chấp nhận những khó khăn, biết sống bác ái và kiên trung trong đau khổ.

Cũng như Tin Mừng, cuốn Tông Đồ Công Vụ của thánh Luca là một bằng chứng sống động về việc Chúa Thánh Thần hoạt động trong đời sống truyền giáo của các tông đồ và đời sống của Giáo Hội lúc sơ khai.  Đây cũng là cuốn lịch sử đầu tiên của Giáo hội.  Đọc sách Công vụ chúng ta không thể không cảm thấy một nguồn vui thanh cao và sống động đuợc bùng phát lên từ sự nhận biết Thiên Chúa của các tín hữu đầu tiên, và rồi kết quả sau đó là một cuộc sống được định hướng bằng tình bác ái chân thực, bằng tinh thần hy sinh xả kỷ, cũng như bằng bầu khí cầu nguyện, bằng sự hiệp nhất cao độ, lòng hợp lòng, với một đức tin, và một tình yêu duy nhất để hình thành nên những cộng đoàn thánh thiện giữa các tông đồ và những người tin Chúa của Giáo hội sơ khai.

Mặc dầu lịch sử không cho chúng ta những tài liệu chính xác về gia thế và đời sống của thánh Luca, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng: thánh Luca thuộc gia đình nề nếp và giàu sang tại Antiokia.  Khi còn bé, Ngài được giáo dục chu đáo về cả đức tính, văn hóa và nghề nghiệp.  Ngài theo học các khoa cổ điển của nền văn minh Hy lạp và chuyên nghề lương y.  Từ buổi đầu, thánh Luca vẫn chưa biết Chúa.  Cho đến một ngày kia thánh Phaolô đến Troa giảng đạo Chúa Giêsu.  Luca vào nghe và sau khi suy nghĩ, cân nhắc cẩn thận và nhận thấy giáo thuyết thánh Phaolô giảng rất thâm trầm hợp lý, Ngài liền tin theo.  Ngài chịu phép rửa tội và theo làm môn đệ thánh Phaolô, ngày đêm học hỏi Kinh Thánh và làm thư ký cho thánh Tông đồ.  Quãng năm 49, nghĩa là khi khởi sự truyền giao lần thứ hai, thánh Phaolô cùng mang thánh Luca đi theo.  Nhưng rồi hai thầy trò lại chia lìa nhau một thời gian.  Có lẽ kỳ này thánh Luca trở về sinh quán làm nghề lương y.  Đến sau hai thầy trò lại gặp nhau tại Philipphê.  Từ đây thánh Luca cùng đi giang đạo với thánh Phaolô.  Nhưng đến khi thánh Phaolô bị người Lamã bắt cầm tù, thì thánh Luca cũng từ giã đế đô, và chúng ta không biết gì về quãng cuối đời của Ngài nữa.

Đọc Tin Mừng thứ ba và Công vụ tông đồ, chúng ta thấy thánh Luca rất lỗi lạc về văn chương Hy lạp.  Ngài quả là một nhà văn học kỳ tài, luôn thay đổi từ ngữ và dùng những danh từ thích hợp với đặc tính văn chương của người Hy lạp thời bấy giờ.  Thánh nhân tỏ ra rất nghệ thuật trong việc bố cục câu chuyện thế nào cho rõ ràng, hấp dẫn, gợi nhiều ý tưởng và tâm tình, chẳng hạn dụ ngôn người con người phung phá và câu chuyện hai người du khách trên đường Emmau phải là hai kiệt tác văn chương, có nhiều giá trị nghệ thuật không kém gì những áng văn hay nhất của người Hy lạp thời ấy.

Hơn thế, thánh Luca còn là một người rất sành tâm lý.  Thánh nhân đã mặc cho mỗi nhân vật trong Tin Mừng cũng như trong các dụ ngôn những tâm tình, cử điệu và lời lẽ phù hợp với điạ vị riêng của họ.  Phải chăng nhờ tài nghệ này, thánh Luca đã đề cao đến chữ trọn hảo địa vị Cứu thế của Chúa Giêsu: Chúa nhân lành tự trời đến với loài người lầm than tội lỗi.  Chúa tự hiến mình trên thập giá để tẩy xóa mọi tội trần và thông ban ơn sủng đời sống mới cho các tâm hồn.

Với một sự hiểu biết sâu xa về sứ mệnh Cứu thế của Chúa như vậy, hẳn thánh Luca đã nhiệt thành với nhiệm vụ phổ biến Tin Mừng cứu thế không kém gì thánh Phaolô.  Nhưng Ngài giảng đạo tại đâu và chết như thế nào thì theo một tài liệu tìm thấy ở Constantinople, thánh Luca đã giảng đạo tại Achaie và Beotie.  Và sau cùng làm giám mục thành Thèbes.  Trong bài thực hành cuốn chú giải Tin Mừng thánh Matthêô, Thánh Hiêrônimô nói rõ thánh Luca đã viết Tin Mừng thứ ba tại Achaie và Beotie, sau cùng thánh Gaudence de Brescia quả quyết thánh Luca cùng chịu tử đạo với thánh Andrê tại Patras một tỉnh nhỏ thuộc vùng Achaie.

Ngày nay thánh Luca là quan thầy của các lương y và bác sĩ.  Ngài cũng là bổn mạng các nhà họa sĩ, vì theo một truyền thuyết thì thánh nhân đã họa bức ảnh chân dung Đức Mẹ đầu tiên mà nay chúng ta quen gọi là ảnh “Đức Mẹ hằng cứu giúp”.

Ngay từ đầu, Giáo hội vẫn kính lễ thánh Luca vào ngày 18.10 mỗi năm.

Kính xin thánh Luca thánh sử phù trợ cho chúng ta được lòng tin mạnh mẽ và hăng hái như người để chúng ta đem tin lành cứu độ đến cho những người còn chưa nhận biết Chúa.

LM Giuse Đinh Tất Quý

http://suyniemhangngay.net/

TIỂU SỬ THÁNH NỮ FAUSTINA

TIỂU SỬ THÁNH NỮ FAUSTINA

Thánh nữ maria faustina kowalska ngày nay được khắp thế giới biết đến với tước hiệu “Tông Đồ Lòng Thương Xót Chúa” là một vị thánh được các nhà thần học kể vào số những nhà thần bí trổi vượt trong Giáo Hội.

thanh-nu-faustina

Chị là người thứ ba trong số mười người con của một gia đình nông dân nghèo khó nhưng đạo đức tại Glogowiec, một làng quê nằm giữa đất nước Ba Lan.  Khi được rửa tội tại nhà thờ giáo xứ Swinice Warckie lân cận, chị đã được nhận tên “Helena.”  Ngay từ thời thơ ấu, Helena đã nổi bật với đời sống đạo hạnh, yêu thích cầu nguyện, chăm chỉ, vâng lời, và hết lòng thương cảm trước nỗi khổ đau của tha nhân.  Helena được đi học trong thời gian chưa đầy ba năm, và đến năm 14 tuổi, chị đã phải rời bỏ mái ấm gia đình để mưu kế sinh nhai, giúp đỡ cha mẹ bằng công việc phụ giúp việc nhà tại thành phố Aleksandrow và Lodz kế cận.

Khi mới lên bảy tuổi (hai năm trước khi rước lễ lần đầu), Helena đã cảm nhận trong tâm hồn lời mời gọi theo đuổi đời sống tu trì.  Sau đó, chị đã ngỏ ý muốn với cha mẹ, nhưng hai vị đều dứt khoát không đồng ý cho chị vào sống trong tu viện.  Trước hoàn cảnh như thế, Helena đã cố bóp nghẹt lời mời gọi trong tâm hồn.  Tuy nhiên, quá xao xuyến vì một thị kiến về Chúa Kitô tử nạn và những lời trách cứ của Người: “Cha còn phải chịu đựng con cho đến bao giờ, con còn phụ rẫy Cha cho đến bao giờ nữa đây?” (NK 9), Helena bắt đầu tìm cách để xin vào một tu viện.  Chị đã gõ cửa không ít tu viện, nhưng không được nơi nào đón nhận.  Cuối cùng, vào ngày 1 tháng 8 năm 1925, Helena đã được bước qua ngưỡng cửa của dòng Đức Mẹ Nhân Lành ở phố Zytnia tại Warsaw.  Trong Nhật Ký, chị có viết: “Dường như tôi đã bước vào cuộc sống thiên đàng.  Một lời kinh đã trào dâng từ tâm hồn tôi, một lời kinh tạ ơn” (NK 17).

Tuy nhiên, vài tuần lễ sau đó, chị bị cám dỗ mãnh liệt, muốn chuyển sang một dòng khác để có nhiều thời giờ hơn cho việc cầu nguyện.  Chính lúc ấy, Chúa Giêsu đã tỏ cho chị thấy các thương tích và thánh nhan tử nạn của Người và phán: “Chính con gây cho Cha nỗi đau đớn này nếu như con rời bỏ tu viện.  Đây là nơi Cha đã gọi con, chứ không phải một nơi nào khác; và Cha đã dọn sẵn nhiều ơn thánh cho con” (NK 19).

Khi vào dòng, Helena được nhận tên Maria Faustina.  Chị đã sống thời kỳ năm tập tại Cracow, và cũng tại đây, trước sự chứng kiến của đức giám mục Stanislaus Rospond, chị đã tuyên lời khấn tạm lần đầu, và năm năm sau, tuyên giữ trọn đời ba lời khấn thanh tịnh, khó nghèo và vâng phục. Chị được cắt cử làm một số công tác tại các tu viện của dòng; hầu hết thời gian là ở Cracow, Plock, và Vilnius, với các công tác làm bếp, làm vườn, và coi cổng.

Tất cả những cái vẻ bên ngoài ấy không làm hiện lộ một cuộc sống thần hiệp phong phú ngoại thường nơi chị dòng Faustina.  Chị sốt sắng chu toàn các phận sự, trung thành giữ trọn luật dòng, sống đời sống nội tâm và giữ thinh lặng, trong khi đó vẫn sống trong sự tự nhiên, vui tươi, đầy nhân ái và yêu thương người chung quanh một cách vô vị lợi.

Tất cả đời sống của chị được tập trung vào việc liên lỉ cố gắng đạt đến một cuộc kết hiệp ngày càng mật thiết hơn với Thiên Chúa và quên mình cộng tác với Chúa Giêsu trong công cuộc cứu rỗi các linh hồn.  Chị đã viết trong Nhật Ký, “Chúa biết ngay từ những năm đầu tiên, con đã muốn trở nên một vị đại thánh; tức là yêu mến Chúa bằng một tình yêu vĩ đại như chưa từng có linh hồn nào đã yêu mến Chúa như thế” (NK 1372).

Chính quyển Nhật Ký của chị đã cho chúng ta thấy được những chiều sâu trong đời sống thiêng liêng của chị.  Những tư liệu này – nếu được đọc chăm chú – sẽ làm hiện lên một bức tranh diễn tả mối thân tình hợp nhất cao độ giữa linh hồn chị với Thiên Chúa: sự khắng khít lạ lùng giữa Thiên Chúa với linh hồn chị, cũng như những nỗ lực và chiến đấu của chị trên con đường hoàn thiện Kitô Giáo.  Chúa đã ban cho chị nhiều hồng ân phi thường: ơn chiêm niệm, ơn hiểu biết sâu xa về mầu nhiệm Lòng Thương Xót Chúa, các thị kiến, mặc khải, những dấu thánh tiềm ẩn, ơn nói tiên tri, ơn đọc được tâm hồn người khác, và ơn quí trọng bậc nhiệm hôn.  Tuy được hoan hưởng những hồng ân ấy rất dồi dào, nhưng chị đã viết: “Không phải các ân sủng, các mặc khải, các lần ngất trí, hoặc các ân huệ làm cho linh hồn nên hoàn hảo, nhưng chính là sự kết hợp mật thiết giữa linh hồn với Thiên Chúa…  Sự thánh thiện và hoàn hảo của tôi hệ ở việc kết hợp mật thiết giữa ý chí tôi với ý chí Thiên Chúa” (NK 1107).

Nếp sống khổ hạnh và những lần chay tịnh đến kiệt sức ngay cả trước khi vào dòng của chị đã làm suy sụp yếu nhược thể trạng của chị, đến nỗi ngay trong thời gian thỉnh tu, chị đã được đưa đi Skolimow gần Warsaw để phục hồi sức khỏe.  Gần cuối năm đầu tiên trong thời kỳ nhà tập, chị còn phải trải qua những kinh nghiệm thần bí đớn đau lạ thường của giai đoạn vẫn được gọi là đêm tối giác quan, và sau đó là các đau khổ tinh thần và luân lý liên quan đến việc hoàn thành sứ mạng mà chị được nhận lãnh từ Chúa Kitô.  Thánh nữ Faustina đã hy hiến cuộc đời cho các tội nhân, vì thế, chị đã chịu đựng những khổ đau tư bề để trợ giúp các linh hồn.  Trong những năm tháng cuối đời của chị thánh, các đau khổ nội tâm của cái gọi là đêm thụ động của linh hồn và những bệnh nạn phần xác càng trở nên dữ dội hơn nữa.  Căn bệnh lao của chị lan dần, tấn công những lá phổi và phần ruột non.  Vì vậy, hai lần chị đã phải trải qua nhiều tháng điều trị ở bệnh viện phố Pradnik tại Cracow.

Tuy kiệt quệ về thể lý, nhưng chị Faustina đã đạt đến mức trưởng thành sung mãn trong đời sống thiêng liêng.  Chị đã từ giã cõi trần khi chưa trọn 33 tuổi đời, giữa tiếng thơm thánh thiện, và được kết hiệp muôn đời với Thiên Chúa vào ngày 5 tháng 10 năm 1938, sau 13 năm trong cuộc sống tu trì.  Thi hài của chị được an nghỉ tại ngôi mộ chung trong nghĩa trang tu viện tại Cracow-Lagiewniki.  Năm 1966, trong khi thủ tục điều tra tôn phong chân phúc đang được xúc tiến, thi hài nữ tu Faustina đã được cải táng vào nhà nguyện của tu viện.

Chúa Giêsu đã ủy thác cho chị nữ tu đơn sơ, kém học, nhưng can trường và tín thác vô hạn này một sứ mạng cao cả là rao truyền sứ điệp Lòng Thương Xót của Chúa cho thế giới, Người đã phán với chị, “Cha sai con đem tình thương của Cha đến cho toàn thế giới.  Cha không muốn đoán phạt, nhưng muốn chữa lành và ghì chặt nhân loại đau thương vào Trái Tim thương xót của Cha” (NK 1588).  “Con là thư ký của Lòng Thương Xót Cha.  Cha đã tuyển dụng con làm nhiệm vụ ấy trên đời này và ở đời sau” (NK 1605)…  “Nhiệm vụ và công tác suốt đời con là tiếp tục làm cho các linh hồn được biết về Lòng Thương Xót lớn lao của Cha dành cho họ, và kêu gọi họ tín thác vào Lòng Thương Xót vô tận của Cha” (NK 1567).

(Trích Nhật Ký Lòng Thương Xót Chúa)

Nguồn: http://www.xuanha.net/

Đam mê của thánh Phanxicô Assisi

Đam mê của thánh Phanxicô Assisi

 Dongten.net

thanh-fanxico

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Khi nói đến thánh Phanxicô, chúng ta nghĩ ngay đến Kinh Hòa Bình và Bài Ca Tạo Vật. Có thể nói, từ những tư tưởng này, ngài được mệnh danh là Sứ giả hòa bình bởi vì chúng là điểm qui chiếu cho đời sống an hòa nơi ngài.

Thiên thời, địa lợi và nhân hòa, cả ba chiều kích này được thánh nhân sống rất triệt để. Chính thái độ sống hòa đồng và hòa điệu với mọi chiều kích mà thánh nhân đáng được gọi là Sứ giả hòa bình.

Năm 1979, ĐGH Gioan Phaolô II đã công bố: Thánh Phanxicô là quan thầy của những người bảo vệ môi sinh. Chắc hẳn, đây không phải là một quyết định dựa trên tình cảm nhất thời, nhưng dựa vào đời sống của ngài được thể hiện cụ thể trong Bài ca Tạo Vật. Trong đó, chim trời mây nước và cả vũ trụ này đều có chỗ đứng và giá trị nào đó trong cuộc đời của ngài; tất cả nên chị nên anh, cả đến cái chết như là sự dữ tuyệt đối cũng được ngài gọi bằng một tên thân thương: chị chết. Như thế, không một thực tại nào mang màu sắc u tối, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống thánh nhân. Chính sự huyền đồng này (hòa điệu một cách huyền nhiệm) đã giúp ngài chinh phục cả những kẻ thù giết hại. Xin đơn cử giai thoại kể về cuộc gặp gỡ giữa ngài và con chó sói hung bạo tại Agodio Gubio.

Khi thánh nhân cư ngụ tại Agodio thì có một con chó sói hung dữ đã xuất hiện, nó quấy nhiễu và gieo rắc tại họa cho mọi người. Mỗi lần đi ra ngoài, ai ai cũng trang bị khí giới sẵn sàng chuẩn bị giao chiến với con thú dữ; có người sợ đến nỗi không dám ra khỏi nhà. Thấy vậy, ngày nọ ngài quyết định đến chạm trán với con thú, ngài làm dấu Thánh giá, đặt tất cả tin tưởng vào Chúa, rồi tiến thẳng đến trước mặt con vật. Vừa thấy thánh nhân, con vật nhe răng và chuẩn bị tấn công, nhưng ngài không lùi bước, ngài tiến lại gần, làm dấu Thánh giá và gọi nó lại. Ngài nói cùng nó với tất cả sự trân trọng vì nó cũng là một tạo vật của Chúa: “Này anh sói, anh lại đây, nhân danh Chúa Kitô, tôi truyền cho anh đừng hãm hại ai nữa”. Như một phép lạ, con chó sói hung dữ giờ đây ngoan ngoãn khép miệng lại và quấn quýt bên ngài, ngài lại tiếp tục nói như sau: “Này anh sói, anh đã gây không biết bao nhiêu thiệt hại cho vùng này, anh giết hại những tạo vật của Chúa mà không có phép Ngài. Anh không những sát hại súc vật mà còn giết hại cả loài người là hình ảnh Thiên Chúa nữa; anh đáng phạt vì những tội ấy… Nhưng tôi muốn giàn hòa giữa anh và họ để anh không còn hãm hại ai nữa”.

Thánh nhân vừa nói xong những lời đó thì con chó sói vặn mình ra điều biết lỗi và chấp nhận đề nghị của ngài. Ngài nói tiếp: “Này anh sói, hẳn anh thích làm hoà với mọi người, tôi hứa rằng: bao lâu còn sống, anh sẽ không bị đói khát nữa, anh có hứa với tôi là sẽ không hãm hại bất cứ người và vật nào nữa không ?”. Con vật cúi đầu như đoan hứa, thánh nhân đặt tay trên nó và đại diện cho thị dân Agodio long trọng cam kết những lời ngài vừa hứa với con sói. Giai thoại kể tiếp rằng: con vật tiếp tục sống hai năm tại đó, ngày ngày ra vào bất cứ nhà nào cũng như chính nhà của nó. Nó không làm hại ai và cũng không ai hãm hại nó, cuối cùng, con vật chết đi giữa tiếng khóc của dân làng.

Theo thánh nhân, chúng ta cần tỏ ra bất bạo động với thiên nhiên, với chim trời núi rừng, với không khí nước non. Chỉ với một tâm hồn thanh thản và hài hoà như thế, con người mới có thể xây dựng hoà bình trên thế giới.

Sự hoà giải này không dừng lại với tương quan thú vật nhưng còn mở ra với người khác. Chính ý hướng ngay lành này góp phần hoán cải các tâm hồn đối nghịch. Chúng ta thấy nỗi đam mê hoà giải không chỉ được phát huy lúc thời trai trẻ mà ngay cả lúc trên giường bệnh ngài vẫn dấn thân phục vụ hoà bình vì ích chung.

Điều này được cha Nguyễn Hồng Giáo [1] biên soạn khi ghi lại lịch sử cuộc đời thánh nhân: Năm 1226, vào những ngày cuối đời nằm trên giường bệnh, thánh nhân rất đau lòng khi nghe tin Đức giám mục và ông trị trưởng ở Assisi kình địch nhau. Vị Giám mục thì ra vạ tuyệt thông cho ông thị trưởng, còn ông này thì cấm không cho ai được mua bán và ký kết khế ước gì với Đức Cha.

Thánh nhân nói với anh em trong dòng: “Thật xấu hổ cho chúng ta, những người làm tôi Chúa, vị Giám mục và ông thị trưởng thù ghét nhau như thế mà chẳng ai đứng ra hoà giải”.

Chúng ta cũng có thể hỏi: thế bản thân ngài làm được gì khi mắt đã gần mù và thân xác kiệt quệ phải nằm một chỗ ? Có chứ ! Thánh nhân đã làm một việc quá sức tưởng tượng của mọi người, và có thể nói “rất Phanxicô”, đó là thêm vào Bài ca tạo vật mà ngài đã sáng tác trước đó ít lâu, một phiên khúc ca ngợi hoà bình và tha thứ, rồi cử anh em đi mời ông thị trưởng tới Tòa Giám mục. Khi ông tới nơi và hai người gặp nhau, các môn đệ nhân danh ngài, cất tiếng hát Bài ca tạo vật cùng với phiên khúc mới. Khi tiếng hát vừa dứt, hai người nắm tay nhau nói lời hoà giải và ôm hôn tỏ tình thân mật.

Chắc hẳn, thánh nhân không bao giờ tự coi mình có khả năng hoà giải nhưng luôn là khí cụ bình an của Chúa. Điều này được chứng thực trong lời Kinh Hoà Bình.

Lạy Chúa, xin hãy dùng con

Như khí cụ bình an của Chúa

Để con đem yêu thương vào nơi oán thù

Đem thứ tha vào nơi lăng nhục

Đem tin kính vào nơi nguy nan

Đem trông cậy vào nơi thất vọng

Dọi ánh sáng vào nơi tối tăm

Đem niềm vui đến chốn ưu sầu.

Lạy Chúa, xin hãy dạy con

Tìm an ủi người hơn được người ủi an

Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết

Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu

Vì hiến thân chính là nhận lãnh

Tha thứ cho người chính là được thứ tha

Cam lòng chịu chết là được sống muôn đời.

Thật ra, nhiều nhà chuyên môn nhìn nhận rằng kinh này không do thánh nhân trước tác nhưng được gán cho ngài vì tinh thần hoà bình của tác giả theo chủ trương của thánh nhân vào thời bấy giờ. Nhưng dù sao, chúng ta cũng có thể rút ra một kết luận tác giả đã khôn khéo khi truyền đạt điểm giáo lý này với một văn phong hết sức đạo đức trong bầu khí cầu nguyện. Thật vậy, tác giả ý thức hoà bình không phải là hoa trái của riêng nỗ lực cá nhân người nào mà có được nhưng phát xuất ơn hoán cải tâm hồn đến từ Thiên Chúa. Như thế, bầu khí cầu nguyện của lời kinh giúp mọi người ý thức sự yếu đuối của bản thân, từ đó, trông chờ ơn Chúa giúp. Ở đây chúng ta cảm nhận một thái độ sống đam mê xây dựng hoà bình, nhờ ơn Chúa và khởi đi từ chính bản thân sẽ mang lại hoa trái tốt đẹp cho các linh hồn. Khi chúng ta đặt lời kinh này trong bối cảnh thời ấy, mới nhận ra sự tranh chấp quyền lợi, tranh giành quyền bính… đã huỷ hoại bầu khí hoà bình; đồng thời, xác định tầm quan trọng về sự hiện diện của thánh nhân và sự quan phòng tốt đẹp của Chúa nhằm tái lập tinh thần Kitô giáo trong thời Trung cổ.

Ở đây, chúng ta cần xác tín lại điều đã khẳng định từ trước, môi trường là một trong những yếu tố làm phát sinh đam mê. Cụ thể hơn, chính môi trường rối loạn tranh chấp, bất hoà làm phát sinh niềm đam mê xây dựng hoà bình nơi thánh nhân và những người thiện chí đương thời. Bài ca tạo vật và Kinh hoà bình là những bằng chứng sống động cho một thời đen tối trong xã hội và Giáo hội.

Chúng ta vừa bàn qua tương quan giữa thánh nhân với thiên nhiên và tha nhân, xét cho cùng, hai chiều kích này chỉ là hệ quả tất yếu, hoa trái của một thực tại cao sâu hơn. Thiết nghĩ, chính tương quan giữa ngài với Thiên Chúa mới tạo nên nhựa sống trào tràn nuôi dưỡng cây sinh trái là hoà bình.

ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận kể lại giai thoại về thánh Phanxicô rằng[2]: Vào dịp thánh nhân qua Toà thánh để xin phê chuẩn luật dòng anh em hèn mọn, ĐTC thân mật hỏi ngài:

– Con có bao giờ thấy Chúa chưa?

+ Con vừa thấy đêm qua.

– Người có nói gì với con không?

+ Người và con bên nhau suốt đêm không nói gì. Tuy nhiên, cứ mỗi lúc con nói “Cha” với Người thì Người trả lời lại với con: “Con của Ta”. Cứ thế, chẳng có gì hơn cho đến lúc trời sáng.

Qua đó, chúng ta thấy thánh nhân có những khoảnh khắc nên Một với Chúa; thao thức của Chúa cũng là thao thức của ngài, đam mê của Chúa cũng là đam mê của ngài. Chúa đã chịu đóng đinh và chịu chết khả dĩ giao hoà nhân loại với Thiên Chúa. Qua thánh nhân, Chúa tiếp tục thân hành lên đường tìm kiếm những con chiên lạc để đưa về ràn. Có thể nói, qua thánh nhân, Chúa tiếp tục chịu đóng đinh và chết cho con người. Sự chia rẽ của con người cách nào đó in đậm 5 dấu thánh trên thân thể ngài. 5 dấu thánh là dấu chỉ sống động cụ thể thay cho lời mời gọi nhân loại: Hãy sống và xây dựng hoà bình, hãy sống và đam mê hoà bình vì bạn sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

EYMARD An Mai Đỗ, O.Cist.

(Bài viết được tác giả gửi đến dongten.net)

[1] X. Nguyệt san Công giáo và dân tộc, số 58.

[2] X. ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Những người lữ hành trên đường Hy vọng, tr.44.

Thánh GIÊRÔNIMÔ

Thánh GIÊRÔNIMÔ
Linh mục, tiến sĩ Hội Thánh (Ngày 30/9)

  1. Đôi dòng lịch sử

Giêrônimô sinh vào khoảng 347 trong xứDalmatia.

Lớn lên Giêrônimô du học ở Roma, học chuyên về sử và triết lý.

Giêrônimô có công tìm kiếm và mua sắm nhiều sách rất quí giá.

Lúc học ở Roma, Giêrônimô sống hơi buông thả một chút nhưng lúc nào cũng giữ được lòng kính sợ Thiên Chúa.

Chính Đức Giáo Hoàng Liberrio rửa tội cho ngài.

Sau khi học xong, Giêrônimô có đi một vòng qua nước Pháp đến thành Trèves.

Cuối cùng thì Giêrônimô sang và ở luôn tại Antioche trong xứ Syria. Thời gian ở đây đánh dấu một bước ngoặc rất quan trọng trong việc hình thành ơn gọi nơi ngài. Ngài đã được chịu chức linh mục tại đây. Một đêm kia người mơ thấy Chúa hiện ra với mình.

Chúa hỏi:

– Giêrônimô, con là ai vậy?

Ngài trả lời:

– Con là con của Chúa, con là người có đạo.

Chúa trả lời lại:

– Nói láo! Phải nói con là của Cicêrô mới đúng.

Giêrônimô hiểu là ý Chúa muốn trách mình quá say mê Cicêrô – Cicêrô vừa là một nhà văn vừa là một nhà hùng biện rất nổi tiếng ở Roma – nên Giêrônimô quyết tâm sửa mình lại.

Ngay sau đó Giêrônimô bắt đầu học tiếng Hy lạp và Do thái với một mụch đích duy nhất để có đủ khả năng dịch sánh Kinh Thánh từ tiếng Hy Lạp ra tiếng Latinh.

Trong thời gian này Giêrônimô được Đức Thánh Cha Damsus gọi Ngài về Roma một thời gian để làm thư ký riêng cho Ngài. Và cũng chính ở đây mà Ngài đã bắt đầu một công trình có một tầm vóc hết sức quan trọng cho Giáo hội: Ngài bắt đầu dịch Kinh Thánh bằng tiếng Hy Lạp sang tiếng Latinh.

Ở Roma được một thời gian, có lẽ vì cảm thấy Roma không phải là chỗ thích hợp cho công việc quá đặc biệt này cho nên Ngài đã trở lại xứ Palestine, vào sống một cuộc đời thầm lặng trong một tu viện ở Belem. Ngài sống tại đây suốt 34 năm trời… vừa tiếp tục học hỏi, tra cứu thêm để phục vụ Chúa trong các tác phẩm chống lạc giáo và nhất là để hoàn thành việc chuyển ngữ toàn bộ bộ Kinh Thánh sang tiếng Latinh.

Sau này chính Công Đồng Triđentinô đã tu sửa bản dịch này và đến nay vẫn được coi là văn bản chính thức của Giáo hội Công giáo Rôma.

Ngài là bạn rất thân của thánh Augustino. Chính thánh Augustinô cũng đã có nhiều lần nhắc đến Ngài như một người bạn và như một bậc thầy.

Theo cuốn niên sử ông Prosper thì thánh Giêrônimô qua đời quãng năm 420, hưởng thọ 92 tuổi tại Bethlehem.

Mặc dầu qua đời ở Palestina vào thời hỗn chiến, thánh Giêrônimô đã được toàn thể thế giới công giáo tôn sùng ngay từ mấy năm sau khi ngài tạ thế. Ở Rôma, người ta kính thánh nhân đặc biệt tại Đại Giáo Đường Đức Bà Cả. Dưới đời Đức Giáo Hoàng Bônifaciô VIII (1294-1303), thánh nhân được suy tôn bậc tiến sĩ ngang hàng với thánh Grêgôriô cả, thánh Âutinh và thánh Ambrôsiô, tức bốn vị giáo phụ ở Tây phương.

  1. Bài học
  2. Dám hy sinh vì Chúa.

Bỏ cả sở thích riêng của mình. Khi được Chúa “cảnh cáo” dù chỉ là trong một giấc mơ, Giêrônimô đã sửa lại lỗi lầm của mình ngay. Đây là một điều rất khó nhưng Giêrônimô đã làm được.

Hy sinh cả cuộc đời cho Lời của Chúa. Chúng ta hãy cứ tưởng tượng xem một công trình lớn – là công trình chuyển ngữ Kinh Thánh tử tiếng Hy Lạp sang tiếng La tinh- như vậy mà hầu như chỉ có một mình ngài thực hiện thì thời giờ và công sức phải bỏ ra lớn đến mức độ như thế nào.

Để có một chút so sánh thì chúng ta hãy nhìn vào Giáo hội Việt Nam của chúng ta. Giáo hội công giáo Việt Nam đã tạm gọi là đã có hơn 4 thế kỷ nay. Vậy mà chỉ mới đây chúng ta mới có một tin vui là nhóm Phụn Vụ Giờ Kinh cho ra đời trọn bộ Kinh Thánh bằng tiếng Việt đầu tiên. Trước đây đã có một số bản những bản này có quá nhiều hạn chế và thiếu sai sót.

Phải đợi nhiều năm trời Giáo Hội Việt Nam mới có được bộ Kinh Thánh có tầm cỡ và xứng đáng như thế.

Vậy mà một mình Thánh Giêrônimô đã làn được công việc vĩ đại đó. Giáo hội dùng bản dịch của Ngài suốt từ thời đó cho đến nay. Điều đó đã tự khẳng định về tầm quan trọng và chỗ đứng cũa nó trong lịch sử Giáo hội.

  1. Tiếp đến Thánh Giêrônimô đã biết chọn thật đúng nhu cầu của Giáo hội và đã làm hết sức mình để đáp ứng lại nhu cầu đó.

Vào hoàn cảnh lúc bấy giờ, người ta đã thấy thời đại của văn hóa Hy lạp đang suy tàn và thời đại văn minh Tây phương đi lên.

Phải nói Giêrônimô là một con người rất thức thời. Hiểu được những nhu cầu của Giáo hội và đáp ứng lại một cách hết sức tốt đẹp. Đây là bài học chung cho cả Giáo hội. Công đồng Vaticanô khi cho chuyển ngữ các bàn văn Phụng vụ bằng tiếng Latinh sang tiến địa phương cũng nhắm chiều hướng này.

Hơn nữa ngày từ năm 1933 dưới triều Đức Giáo Hoàng Piô XI mà thánh Giêrônimô đã nghi đến việc phát động phong trào nghiên cứu và tìm hiểu Kinh thánh thì phải coi đây là sáng kiến và công việc hết sức mới mẻ mà mãi về sau Giáo Hội mới thấy sự cấn thiết của công việc này. Bởi vậy, khi nhắc đến huân công và thiên tài dịch bộ Kinh Thánh của ngài, giáo sư M.J. Lagrange, một nhà nghiên cứu và chú giải Thánh kinh nổi tiếng của Giáo Hội hôm nay đã viết rằng: “Đó là một trong những sự nghiệp đáng thán phục nhất của trí óc nhân loại”

Lạy thánh Giêrônimô, xin mở miệng chúng con để chúng con luôn ca ngợi và nói lời Chúa vì chỉ lời Chúa mới làm cho chúng con đi đúng đường và hạnh phúc.

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Anh chị Thụ Mai gởi

TIỂU SỬ CHA PADRE PIO, NGƯỜI Ý (1887-1968)

TIỂU SỬ CHA PADRE PIO, NGƯỜI Ý (1887-1968)

  1. Cậu Phanxicô con ông bà Horace làm nghề nông nghèo khó, sinh tại Pietrelcina, tỉnh Benevento, miền nam nước Ý, ngày 25.05.1887.  Ông bà có 8 con, chết 3 còn 5 (2 trai 3 gái).

Vì không muốn Phanxicô vất vả nơi đồng áng, ông Horace đã sang New York, Hoa kỳ làm việc để kiếm tiền cho con đi học, đi tu.

Ngày lễ Ba Vua năm 1903, Cậu vào Nhà Tập Dòng Phanxicô nhánh Cappucins tại Morcone, nhận tên Dòng là Piô.  Nhánh Capucins là nhánh không ngặt cũng không rộng.  Nhánh ôn hòa này cũng có Bề trên Cả như hai nhánh kia.  Nhánh Capuchins có khác chút ít bên ngoài như cho tu sĩ để râu và mặc áo dòng màu đen.  (Dương Liên Mỹ, ofm, Padre Pio, Sài gòn 1968, tr 16-19).

cha-pio

Trong thời gian Tập, vì hãm mình quá, 3 tuần không ăn uống gì, nhà Dòng tưởng thầy sẽ chết, nên cho về nhà ba má bổ dưỡng, không bao lâu thầy phục sức.  Trở về nhà dòng học thần học, nhiều lần anh em gặp thầy Pio quì gối để học bài.

Năm 15 tuổi vào Dòng Capucins.  Ngày 10.08.1910, (23 tuổi) thầy Piô được thụ phong linh mục trong nhà nguyện của nhà thờ chính tòa Benevento.  Bảy ngày sau khi chịu chức linh mục, cha Piô được in 5 Dấu Thánh ẩn kín (chưa xuất hiện).

Tháng 9 năm 1916, Cha Pio được thuyên chuyển về Tu Viện Ðức Mẹ Ban Ơn (Santa Maria delle grazie), ở San Giovanni Rotondo, trong giáo phận Foggia.

Năm 31 tuổi (ngày 20.09.1918), sau khi Rước Mình Máu Thánh Chúa, các dấu thánh xuất hiện.  Cha đã chịu đau đớn mang 5 dấu thánh trong 50 năm.  Sau khi cha tắt thở, các dấu thánh này liền biến mất, không để lại vết tích nào.

  1. Tôn sùng Đức Mẹ: Lần hạt suốt ngày:

Cha Piô rất sùng kính Đức Mẹ và ngài thường lần chuỗi hàng ngày.
Trong tu viện, một thầy hỏi ngài:
– Cha lần bao nhiêu chuỗi kinh Mân côi mỗi ngày?
– Khoảng 40.
– 40 lần 50 mươi, nghĩa là 2 ngàn kinh Kính Mừng mỗi ngày sao?
– Sao?  Chuỗi Mân côi chỉ có 5 chục thôi sao?  Một chuỗi Mân côi đầy đủ phải gồm 150 kinh Kính mừng và 15 kinh Lạy Cha.

Có lần ngài nói với một người con thiêng liêng:

“Luôn luôn nắm chặt lấy vũ khí của Đức Mẹ trong tay, nó sẽ giúp con chiến thắng kẻ thù.”
– Vũ khí đó là gì?
– Nó trên áo dòng của cha.
– Con đâu có thấy vũ khí nào đâu?  Con chỉ thấy xâu chuỗi Mân côi.
– Đó không phải là vũ khí sao? (Cuộc đời cha Piô, Người Tín hữu xb, 2000, tr 267)

Khi được hỏi di sản ngài muốn trối lại cho các con thiêng liêng của ngài là gì, Cha Thánh Piô đã trả lời:

“Lần chuỗi Mân Côi!”  Ngài cho rằng việc Đức Mẹ hiện ra ở mọi nơi kêu mời người ta đọc kinh Mân Côi là điều chắc chắn khiến ta phải chuyên cần đọc Kinh Mân Côi mỗi ngày.

Ngài còn nói: “Còn kinh nguyện nào đẹp hơn Kinh Mân Côi, kinh chính Mẹ dạy ta.  Hãy luôn lần chuỗi Mân Côi.”

Hai ngày trước khi qua đời ngài còn nói: “Hãy yêu Đức Mẹ và làm cho Đức Mẹ được yêu.  Hãy lần chuỗi Mân Côi và lần luôn luôn và lần càng nhiều càng tốt.”

Một lần Đức Mẹ cũng nói với thánh nữ Mectinđa rằng: “Khi sống con đọc bao nhiêu kinh Kính Mừng, khi chết con được bấy nhiêu ơn”.

Nhờ chuyên chăm sốt sắng lần chuỗi Mân Côi, Cha Thánh Piô đã kéo được biết bao ơn xuống cho bản thân ngài và cho những ai đến với ngài.

Hãm mình cao độ: Năm 1925, cha bị bệnh sa ruột, thường làm cha đau buốt, khi bước lên bàn thờ cha phải gắng hết sức để khỏi ngất đi, ngã xuống đất.  Bác sĩ Festa đã quyết định mổ ngay cho ngài tại Tu viện, vì trong thời gian này Tòa thánh hiểu lầm những báo cáo về ngài, nên  không cho ngài ra ngoài, không được liên lạc với người ngoài và không cho ai coi 5 dấu, cũng không được cử hành thánh lễ nơi công cộng.

Bác sĩ muốn đánh thuốc mê cho khỏi đau, nhưng ngài không đồng ý, sợ ông ta lén coi 5 dấu thánh. Cha bằng lòng mổ sống.  Cuộc mổ kéo dài 1 giờ 45 phút, mà cha không kêu ca.  Tới lúc gần xong, cha mới tràn nuớc mắt và kêu: “Xin Chúa Giêsu tha cho con, vì con không biết chịu khó như con phải chịu.”  Sau đó cha ngất đi vì kiệt sức.

Năm 1935, nhân dịp mừng kỷ niệm 25 năm thụ phong linh mục, Đức Piô 11 cho cha được trở lại giúp các linh hồn.

Cha thức dậy từ 3 giờ sáng để dọn mình dâng lễ tại phòng riêng để khỏi phiền anh em, Ngài dâng lễ cách sốt sắng như diễn lại cuộc tử nạn của Chúa trên núi Calvê xưa.  Thánh Lễ kéo dài từ 1g30 phút tới 2 giờ.  Có khi Thánh Lễ kéo dài đến 4 tiếng vì xuất thần, Sau lễ là giải tội từ sáng đến tối.

Ăn uống không bao nhiêu.  Người ta nói, ngài ăn không hơn một em bé đang trong nôi.

  1. Giải tội cho người thập phương:

Ngài giải tội tùy theo tình trạng mỗi tâm hồn, chỉ cốt sao cho họ thành thực, được ơn tha thứ và cải thiện đời sống, nên nhiều khi ngài có những cư xử khác thường:

1/ Một người viết báo ở Rôma kể: Trước khi cha Piô ban phép giải tội, ngài nói với tôi cách gắt gỏng là hãy cẩn thận với vài khuyết điểm.  Lời ngài nói như xuyên qua linh hồn tôi.  Trong một dịp khác, ngài vạch rõ những khuyết điểm ăn sâu trong lòng, và tôi dần dà cải đổi.  Lần thứ ba, ngài hỏi: từ bấy lâu nay có xưng tội không?  Tôi mỉm cười và trả lời tự tin: Ngày nào con cũng dự lễ và rước lễ mà. Cha Piô nhăn mặt và gay gắt nói:

– Con đến đây để xưng tội chứ không để ca ngợi mình.  Thế con có nóng giận với các em gái con không?
– Dạ có.
– Đó là điều con phải xưng.  Và đừng làm thế nữa.

2/ Một bà kia xưng tội phạm đức trong sạch.  Bà biết rõ khi trở về bà sẽ bị cám dỗ và sa ngã lại.  Cha Piô từ chối ban phép giải tội.  Lần sau bà đến nữa, ngài cũng không giải tội.  Lần thứ 5, khi xếp hàng, bà nghĩ: Tôi thà chết không phạm tội này nữa.  Khi bà xưng, cha Piô lắng nghe, và ngài đã ban phép giải tội cho bà.  Ngài biết được nội tâm người ta.

3/ Một bà khác xưng rằng:
– Con đọc sách báo xấu.
– Con có xưng tội này rồi phải không?
– Dạ phải.
– Cha giải tội nói gì với con?
– Cha giải tội bảo con không được phạm tội này nữa.
– Không nói một lời, cha Piô đóng sầm cửa sổ, quay sang giải tội cho người bên kia.  Người phụ nữ ấy khóc lóc và đi xưng tội với một linh mục khác, sau đó rước lễ từ tay cha Piô.  Trước khi ra về bà khóc lóc, nói: “Tôi muốn đốt hết tất cả những sách báo xấu xa trên toàn thế giới.”
Cha Piô thật hài lòng, ngài muốn tội nhân thay đổi khi ra khỏi tòa giải tội.

4/ Ngày kia, có một anh thanh niên đến xin xưng tội với cha Piô.  Ngài nhìn anh với đôi mắt nghiêm nghị, ngài la lên “đồ con heo!”  Mọi người quay về phía anh, thật nhục nhã, anh ta vội vã rời phòng giải tội.  Một linh mục kinh ngạc, đăm đăm nhìn cha, nói:
– Sao cha dùng những lời lẽ thậm tệ đến thế?

– Cha Piô nhún vai: nếu tôi không la vào mặt hắn, hắn sẽ phải án phạt đời đời.  Hắn sống với vợ lẽ, và đây là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa.  Sự nhục nhã đó có lợi cho hắn, vài ngày nữa hắn sẽ trở lại. Nếu tôi ban phép giải tội cho hắn bây giờ, hắn sẽ không sám hối và không sửa đổi.

Anh ta đã không thể ngủ nghỉ, ăn uống khi nghĩ tới mối liên hệ bất chính.  Anh ta đã trở lại, quì gối xuống ăn năn khóc lóc trước mặt cha Piô.  Ngài cúi xuống khoác tay lên người anh, ngài ôn tồn nói:

– Con thấy không, bây giờ Chúa Cứu Thế rất hài lòng về con.

5/ Một hôm, ngài đang nói chuyện với một bà có ông chồng vừa qua đời.  Trước đây chồng bà đã bỏ bà và 2 con nhỏ để sống với một phụ nữ khác trong 3 năm.  Bất thình lình ông bị bệnh ung thư.  Trước khi ông chết, bà vợ này khẩn khoản xin ông lãnh nhận các Bí tích cuối cùng.  Ông nhận lời.

Người đàn bà nhỏ nhắn và đơn sơ này đưa tay sửa lại chiếc khăn vuông trên đầu và hỏi cha Piô:
– Thưa cha, linh hồn chồng con bây giờ ở đâu?
– Cha Piô nhìn bà ta với đôi mắt lo ngại.  Hình như ngài cảm được nỗi buồn phiền trong tâm hồn của bà, Ngài nói khẽ:
– Linh hồn chồng bà đã bị án phạt đời đời.

Người đàn bà lắc đầu khổ sở, nước mắt tuôn tràn.

Cha Piô nói tiếp cách buồn bã:
– Khi nhận các Bí tích sau cùng, ông ta đã giấu nhiều tội.  Ông không ăn ăn hối hận, cũng không quyết tâm chừa cải.  Ông vẫn là tội nhân đối với lòng thương xót Chúa, vì ông muốn hưởng hết lợi lộc của cõi đời này, rồi sau đó mới quay về ăn năn, thống hối…, nhưng không còn thì giờ cho ông nữa!

Trước khi bà ra về, ngài hết sức an ủi bà, nhưng suốt ngày những điều ấy chờn vờn trong tâm trí ngài, vì một người đã bị hư mất.

(Cuộc đời Cha Piô, Người Tín Hữu xb, 2000, trang 188).

Năm 1956, Cha khánh thành một Trung Tâm Xã Hội có tên gọi là “Nhà an ủi kẻ đau khổ,” và nay là bệnh viện lớn và tối tân, thuộc quyền Tòa Thánh.

Cha Pio qua đời lúc 2:30 sáng ngày 23.09.1968.

Tháng 11 năm sau, tức năm 1969, Tổng Cáo Thỉnh Viên của Dòng Cappucin xin phép làm án phong Chân Phước và Hiển Thánh cho Cha Pio.  Giai đoạn làm án phong thánh cho cha ở cấp giáo phận, đã được hoàn tất năm 1990 và tất cả các hồ sơ được chuyển đến Bộ Phong Thánh Roma.  Trong khoảng thời gian từ năm 1983 đến năm 1990, Tòa Án giáo phận đã thu lượm các tài liệu đóng thành 23 pho sách.

Yếu tố nổi bật trong linh đạo của Cha Pio chắc chắn là đời sống bí tích: các tín hữu tham dự các cuộc hành hương tại San Giovanni Rotondo hầu hết đều đến tòa giải tội lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, tham dự thánh lễ và rước lễ.

Sau khi ngài qua đời ngày 23/9/1968, (81 tuổi) có đến hơn một 100,000 người tham dự lễ an táng của ngài.  Ba vị Giáo Hoàng đã kết án cha là người giả hình đóng kịch.  Nhưng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng cất nhắc cha lên hàng Hiển Thánh.  Lễ phong thánh cho ngài vào đúng Ngày của Cha (Father’s Day) 16/06/2002 là một lễ phong thánh có đông người tham dự nhất xưa nay, với con số gần nửa triệu người!  Thi hài thánh Padre Piô hiện quàn tại San Giovanni Rotondo, miền nam nước Ý.

Sưu tầm

From: Langthangchieutim