Lễ trọng thể kính Thánh Giuse (19/03)

Lễ trọng thể kính Thánh Giuse (19/03)

Mến chúc bình an đến bạn và gia đình, hôm nay 19/03 Giáo hội mừng lễ trọng thể kính Thánh Giuse, bạn Đức Trinh Nữ Maria. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 7: 19/03/2022h

Thánh Giuse Bạn Ðức Trinh Nữ Maria, Phúc Âm đã ca ngợi Thánh Giuse là người “công chính”. Ý nghĩa của chữ “công chính” rất sâu xa. Khi Phúc âm nói Thiên Chúa “công chính hóa” người nào, điều đó có nghĩa Thiên Chúa, là Ðấng cực thánh và “chính trực”, biến đổi người đó bằng cách cho họ được chia sẻ sự thánh thiện của Thiên Chúa, và bởi đó họ đáng được Thiên Chúa yêu mến. Khi nói Thánh Giuse “công chính”, Phúc Âm muốn nói rằng ngài hoàn toàn mở lòng cho tất cả những gì Thiên Chúa muốn làm cho ngài. Ngài trở nên thánh thiện vì tự mở lòng cho Thiên Chúa. Với những gì còn lại chúng ta dễ phỏng đoán. Hãy suy nghĩ về tình yêu mà ngài đã theo đuổi và dành được con tim của Ðức Maria, và sự sâu xa của tình yêu mà hai người đã chia sẻ cho nhau trong cuộc hôn nhân. Khi Thánh Giuse quyết định từ bỏ Ðức Maria khi thấy người có thai, điều này không trái với sự thánh thiện của Thánh Giuse. Phúc Âm có ghi lại một chữ quan trọng là ngài dự định thi hành việc này “cách âm thầm” vì ngài là “một người chính trực, nhưng không muốn tố giác bà để bị xấu hổ” (Mátthêu 1:19). Người công chính thì đơn sơ, vui vẻ, hết lòng vâng lời Thiên Chúa – khi kết hôn với Ðức Maria, khi đặt tên cho Hài Nhi Giêsu, khi săn sóc gia thất ở Ai Cập, khi đem gia thất về lại Nagiarét, khi sống âm thầm trong bao năm trường với đức tin và dũng cảm. Vì Thánh Giuse không xuất hiện trong cuộc đời rao giảng công khai của Ðức Giêsu, nhiều sử gia tin rằng có lẽ Thánh Giuse đã từ trần trước khi Ðức Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng.

Thánh Giuse là quan thầy của những người hấp hối, vì người ta cho rằng khi ngài từ trần có Ðức Giêsu và Ðức Maria ở bên cạnh, đó là điều mà tất cả chúng ta đều mong ước khi từ giã cõi đời.

Thánh Giuse còn là quan thầy của Giáo Hội hoàn vũ, của các người làm cha, các thợ mộc, và vấn đề công bằng xã hội. (Nguồn:  ns Người Tín Hữu online)

Kinh khấn Thánh Giuse Bảo trợ những vụ khó khăn

Lạy Thánh Giuse, xưa nay không ai kêu cầu Cha mà vô hiệu, Cha có thần thế trước mặt Đức Chúa Trời, đến nỗi người ta có thể nói rằng: “Trên trời, Thánh Giuse truyền lệnh hơn là van xin.” Lạy Cha hiền, xin cầu bầu cùng Chúa Giêsu cho chúng con. Khi ở thế gian này, Cha đã từng là Cha Nuôi và là vị bảo hộ trung thành của Chúa Con chí thánh, nay xin Cha bào chữa cho chúng con bên tòa Chúa. Chúng con trao phó cho Cha vụ khó khăn này (kể ra…). Xin Cha giải gỡ giúp chúng con, để thêm một vinh quang mới vào bao nhiêu vinh quang sẵn có của Cha. Lạy Thánh Giuse nhân từ, chúng con tin tưởng – vâng, chúng con tin tưởng, Cha có thể chấp nhận lời nguyện của chúng con, và giải thoát chúng con khỏi những khổ cực u sầu mà chúng con đang gặp phải. Hơn nữa, chúng con vững lòng trông cậy, Cha không bỏ qua điều gì giúp ích cho những người sầu khổ kêu cầu Cha, chúng con sấp mình dưới chân Cha, tha thiết nài xin Cha đoái thương đến những than van khóc lóc của chúng con. Xin Cha lấy tình thương như áo choàng che phủ chúng con, và chúc lành cho chúng con – Amen.

Chân Phước Angela Salawa (1881 – 1922)

Ngày 12 Tháng 3

Chân Phước Angela Salawa
(1881 – 1922)

Angela phục vụ Ðức Kitô và những người bé mọn của Ðức Kitô với tất cả sức mạnh của ngài.

Sinh ở Siepraw, gần Kraków, Ba Lan, ngài là người con thứ 11 của ông bà Bartlomiej và Ewa Salawa. Vào năm 1897, ngài đến Kraków để sống với người chị Têrêsa. Trong Thế Chiến I, ngài giúp đỡ các tù nhân chiến tranh bất kể quốc tịch hay tôn giáo. Ngài thích nghiền ngẫm các văn bản của Thánh Têrêsa Avila và Thánh Gioan Thánh Giá.

Cũng trong thời chiến, ngài đã hết mình chăm sóc các thương binh của Thế Chiến I. Sau năm 1918, vì lý do sức khoẻ ngài phải chấm dứt công việc tông đồ này. Trong nhật ký, ngài tâm sự với Ðức Kitô, “Con muốn Chúa được kính mến nhiều cũng như khi Chúa bị khinh miệt.” Ở chỗ khác, ngài viết, “Lạy Chúa, con sống bởi thánh ý Chúa. Chết hay sống là tùy thuộc ý Chúa muốn; xin gìn giữ con vì Chúa có thể làm điều ấy.

Trong lễ phong chân phước năm 1991 ở Kraków, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Chính trong thành phố này mà ngài đã hoạt động, đã chịu đau khổ và đã nên thánh. Trong khi sống theo tinh thần của Thánh Phanxicô, ngài vẫn đáp ứng một cách phi thường với tác động của Chúa Thánh Thần” (Báo L’Observatore Romano, tập 34, số 4, 1991)

Lời Bàn

Ðừng bao giờ lầm tưởng sự khiêm hạ với thiếu tự tin, thiếu ý chí và không có hướng đi. Chân Phước Angela đã đem Tin Mừng và sự giúp đỡ vật chất cho một số người “bé mọn” của Ðức Kitô. Sự hy sinh này phải khích động chúng ta hành động tương tự.

Lời Trích

Cha Henri de Lubac, dòng Tên, đã viết: “Các Kitô Hữu tốt lành nhất và đầy sức sống nhất thì không thể tìm thấy trong những người khôn ngoan hay tài giỏi, người trí thức hay có đầu óc chính trị, hoặc những người có địa vị xã hội. Bởi đó, những gì họ nói thì không được báo chí để ý đến; những gì họ làm thì công chúng không ai biết. Ðời sống của họ ẩn khuất dưới con mắt thế gian, và nếu họ có được chút gì nổi tiếng, điều đó thường xảy đến cách muộn màng, và rất ngoại lệ, và luôn luôn kèm theo nguy cơ bị bóp méo” (The Splendor of the Church [Sự Huy Hoàng của Giáo Hội], trang 187).

Trích từ NguoiTinHuu.com

Thánh Polycarp, Giám mục tử đạo (c. 69-155)

Thánh Polycarp, Giám mục tử đạo (c. 69-155)

Thứ 4 rồi bạn ơn, chỉ còn đúng 1 tuần nữa là đến ngày Thứ 4 Lễ Tro, chuẩn bị tâm hồn từ từ đi nhé. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Polycarp, Giám mục tử đạo (c. 69-155). Mừng quan thầy đến ai chọn ngài làm bổn mạng hôm nay.

Cha Vương

Thánh Polycarp là môn đệ của Thánh Gioan Tông Ðồ và là bạn của Thánh Ignatiô ở Antioch, Thánh Polycarp, Giám Mục của Smyrna (bây giờ là Izmir, Thổ Nhĩ Kỳ), là một vị lãnh đạo đáng kính của Kitô Giáo trong tiền bán thế kỷ thứ hai. Tuy nhiên các vị lãnh đạo Giáo Hội thuộc thế hệ thứ hai đã gặp những thử thách mà thế hệ trước không đề cập đến. Họ phải làm gì khi thế hệ chứng nhân thứ nhất ấy không còn nữa? Lời dạy dỗ xác thực của Chúa Giêsu phải truyền lại như thế nào? Phải trả lời thế nào với các câu hỏi chưa từng có? Khi các tông đồ không còn ở trần thế nữa, các lạc thuyết bắt đầu xuất hiện ngụy trang chính giáo, sự bách hại lại mạnh mẽ và bắt đầu xuất hiện các tranh chấp về vấn đề phụng vụ mà Ðức Giêsu không bao giờ nói đến.

Polycarp, một người thánh thiện và là giám mục của Smyrna, chỉ thấy có một câu trả lời – trung thành với đời sống Ðức Giêsu và bắt chước đời sống ấy. Thánh Ignatiô nói với Thánh Polycarp “tinh thần của anh đặt nền móng nơi Thiên Chúa như trên một tảng đá không thể nào lay chuyển nổi.” Khi đối diện với lạc giáo, ngài có “bộ mặt bộc trực” đến nỗi Thánh Ignatiô phải thán phục cũng như ngài đã bắt chước cách Ðức Giêsu trả lời người Pharisêu. Marcion, người lãnh đạo lạc thuyết nhị nguyên (Marcion chủ trương có hai Chúa. Một Chúa trong Cựu Ước thì khác với Chúa của Tân Ước, và Ðức Giêsu là Con của Thiên Chúa trong Tân Ước.) khi đối chất với Polycarp đã yêu cầu ngài thừa nhận họ, “Polycarp, hãy thừa nhận chúng tôi.” Polycarp trả lời, “Tôi thừa nhận ngài, phải, tôi thừa nhận ngài là đứa con của Satan.” Trái lại khi đối diện với các bất đồng của Kitô Hữu, ngài lại rất khoan dung và tôn trọng. Một trong những tương tranh thời ấy là việc cử hành lễ Phục Sinh. Ðông Phương, là xuất xứ của Thánh Polycarp, cử hành mầu nhiệm Vượt Qua như sự Thương Khó của Ðức Kitô tiếp theo sau bằng một Thánh Lễ vào ngày kế tiếp. Tây Phương cử hành lễ Phục Sinh vào ngày Chúa Nhật sau tuần lễ Vượt Qua. Khi Thánh Polycarp đến Rôma để thảo luận về vấn đề này với Ðức Giáo Hoàng Anicetus, họ bất đồng ý kiến. Nhưng các ngài cũng không thấy sự khác biệt trong đức tin Kitô Giáo. Và Ðức Anicetus đã yêu cầu Thánh Polycarp cử hành Thánh Lễ ngay trong nhà nguyện của đức giáo hoàng.

Thánh Polycarp đối diện với sự bách hại cũng như Ðức Kitô đã làm. Chính giáo đoàn của ngài phải thán phục ngài vì đã theo sát “gương phúc âm” – không tìm cách để tử đạo như một số người đã làm, nhưng trốn tránh sự bách hại cho đến khi thánh ý Chúa được thể hiện như Ðức Giêsu Kitô đã làm. Họ coi đó là “một dấu chỉ tình yêu nói lên sự khao khát không muốn chỉ cứu chuộc có một mình, nhưng còn cứu chuộc tất cả anh chị em Kitô Hữu.” Trong thời kỳ đẫm máu tử đạo của người Kitô trong đấu trường, dân chúng trở nên điên cuồng đòi hỏi phải tìm bắt Thánh Polycarp, vì ngài nổi tiếng thánh thiện. Thánh Polycarp thật điềm tĩnh nhưng giáo dân thúc giục ngài đi trốn trong một nông trại gần thành phố. Quân lính tìm ra ngài sau khi tra khảo hai đứa bé. Ngài thết đãi họ ăn và xin họ để ngài cầu nguyện trước khi điệu về đấu trường. Thấy đức tin vững vàng không lay chuyển của Thánh Polycarp, quan thống đốc ra lệnh thiêu sống, và khi quân lính châm lửa, nhiều người chứng kể lại họ được nhìn thấy một phép lạ. Lửa cháy thành một vòng cung chung quanh thánh nhân, bao bọc ngài như các cánh buồm, và thay vì bị đốt cháy, ngài lại rực sáng như vàng đang chảy trong lò lửa. Khi quân lính thấy ngài không hề hấn gì, chúng đã lấy dao đâm ngài. Máu ngài chảy ra đã dập tắt ngọn lửa. Quan thống đốc ra lệnh đốt xác thánh nhân mà không để giáo dân lấy xác, vì ông sợ họ sẽ thờ Thánh Polycarp mà không thờ tà thần của người Rôma. “Chứng từ” tử đạo của Thánh Polycarp là chứng từ được ghi nhận một cách xác thực về sự tử đạo của người Kitô ngay từ thuở ban đầu. Ngài chết vào khoảng năm 155. Trong nhiều lá thư của Thánh Polycarp, chỉ còn một lá ngài viết cho Giáo Hội Philippi, Macedonia là còn giữ được cho đến ngày nay.

Lời Bàn: Thánh Polycarp được công nhận là vị lãnh đạo Kitô Giáo bởi tất cả Kitô Hữu thuộc Giáo Hội Tiểu Á – một thành trì đức tin vững mạnh và trung thành với Ðức Giêsu Kitô. Sức mạnh của ngài là bởi tín thác vào Thiên Chúa, ngay cả khi các biến động của đời sống mâu thuẫn với sự tin tưởng này. Sống giữa những người ngoại giáo và dưới chế độ đàn áp một tôn giáo mới, ngài đã chăn dẫn đàn chiên của ngài. Cũng như vị Mục Tử Tốt Lành, ngài đã hy sinh mạng sống vì đàn chiên và gìn giữ họ khỏi bị bách hại thêm nữa. Sự tín thác vào Thiên Chúa của ngài được tóm lược trong câu nói trước khi chết: “Lạy Cha? Con ca tụng Ngài, vì đã giúp con xứng đáng cho đến ngày giờ này?” (Sổ Tử Ðạo, Chương 14).

Lời Trích: “Hãy vững vàng trong cách ăn ở và noi gương Chúa, ‘trung kiên trong đức tin, yêu thương anh chị em, đoàn kết trong chân lý,’ giúp đỡ lẫn nhau với sự dịu dàng của Chúa, đừng khinh miệt một ai” (Thánh Polycarp, Thư Gửi Tín Hữu Philippi). (Nguồn: Người Tín Hữu)

From: Đỗ Dzũng

Giáo Hội mừng kính Bảy Thánh Lập Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ

Giáo Hội mừng kính Bảy Thánh Lập Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ

Chúc bình an và mọi sự tốt đẹp đến bạn và gia đình nhé. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Bảy Thánh Lập Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ (Thế kỷ XIII), xin các thánh chuyển cầu cho chúng con.

Cha Vương

Thứ 5: 17/02/2022

Bảy thánh này là những thương gia tên tuổi miền Frorence. Không muốn chỉ là những người thế giá, các Ngài hướng tới đời sống thánh thiện và họp lại thành một nhóm huynh đệ đặc biệt tôn sùng Đức Trinh Nữ. Các Ngài được cảm hứng bởi một thi kiến để giã từ thế gian và hiến thân phụng sự một lý tưởng cao cả hơn. Trước hết các Ngài cư ngụ trên triền núi Seraniô và xây một nhà thờ tại đó.

Sau khi viếng thăm Đức Giám mục, các Ngài được khuyên nhủ nên nhận một luật sống. Các Ngài lại được một thị kiến khác của Đức Mẹ, nhưng đó Đức Mẹ khuyên nên nhận luật dòng của thánh Augustinô. Mẹ cầm nơi tay một y phục đen và thiên thần bên cạnh mẹ cầm một cuộn giấy với danh hiệu “tôi tớ Đức Mẹ”. Điều này xảy ra ngày 13 tháng 4 năm 1240 và từ nhóm tu sĩ này được biết đến dưới danh hiệu “Tôi tớ Đức Mẹ”. Hội dòng lo rao giảng Phúc âm và phổ biến bảy sự thương khó Đức Mẹ khằp vùng Toscanne.

Ở đây cũng nên ghi nhớ giai thoại thi vị kể lại một phép lạ đánh dấu sự chúc lành của trời cao dành cho hội dòng. Các tôi tớ Đức Mẹ hiến cuộc đời cho cả đất đai lẫn cho các linh hồn. Các Ngài canh tác một miếng đất khô chồi quanh nhà, nhưng các Ngài đã thành công để làm cho mọc lên những thân nho tươi tốt. Một đêm mùa đông vườn nho bỗng chĩu nặng những chùm trái mọng mướt.

Đức giám mục thấy đây là dấu chứng tỏ những phục vụ của các Ngài được Thiên Chúa chúc lành. Thực vậy, các tập sinh tuốn đến đông đảo và nhà dòng được thiết lập trên khắp Âu Châu.

Năm 1304 nhà dòng được tòa thánh phê chuẩn. Đến thế kỷ XIV đã đảm nhận việc truyền giáo tại Ấn Độ. Nhiều cơ sở khác cũng được thành lập tại Anh quốc và Mỹ Châu.

Lễ kính nhớ bảy anh em lập dòng được định vào ngày hôm nay. Ngày mà thánh Alexia Falconieri, một trong bảy anh em qua đời vào năm 1310. Bảy Đấng sáng lập sau một cuộc sống hiệp nhất trong nỗ lực nên thánh, đã được an táng chung trong cùng một ngôi mộ và Giáo hội đã trình bày cho các tín hữu kính nhớ. Tên các Ngài là: Bonfilius Menaldi, Benedictô Antella, Giêradô Sestegui, Barthôlômêô Amidei, Gioan Manetti, Ricôver Lippi, Alexis Falconieri. (Nguồn: GP Vĩnh Long)

Bảy vị Tôi Tớ của Mẹ, suốt đời đã phụng sự Mẹ và tôn thờ Chúa vì thế các Ngài đã được Chúa ban ơn cho các Ngài được kết thúc cuộc đời của mình một cách cũng hết sức tốt đẹp: Một vị được chết ngay tại chân bàn thờ khi đang cầu nguyện. Vị Bề trên Cả đầu tiên, thánh Bonfilius Monaldi, khi đang ở nhà nguyện, được chết đang khi nghe thấy tiếng dịu ngọt của Mẹ: “Hỡi con yêu quí, vì con đã trung thành nghe và tuân giữ lời Con của Mẹ. Bây giờ, con hãy lãnh nhận sự sống đời đời và lãnh nhận gấp trăm lần những gì con đã từ bỏ”. Vị Tôi Tớ khác khi chết, mọi người thấy có một khối lửa bốc cao từ giường lên trời. Hai vị khác, sau cuộc hành trình được trao phó, khi trở về, vì tuổi già sức yếu, đã chết cùng một lúc khi gắng gượng trèo lên dốc Núi Sanario lần chót. Vị tu sĩ khiêm hạ sau chót, cũng là tu sĩ duy nhất trong 7 Tôi Tớ, thánh Alexis. Khi thầy Alexis trên 100 tuổi, biết mình gần chết, thầy muốn đọc 100 lần kinh Kính Mừng dâng kính Đức Mẹ. Khi vừa đọc xong kinh thứ 100, thầy liền thấy Chúa Giêsu Hài Đồng hiện ra tay cầm triều thiên hoa hồng đội trên đầu thầy. Thầy liền kêu to cho mọi người biết: “Anh em, hãy quì xuống! Anh em không thấy Chúa sao? Chúa cũng sẽ đội triều thiên hoa cho những ai thành thực sùng kính Đức Nữ Trinh, noi gương trinh trong và khiêm nhượng của Đức Mẹ…” và thầy lên trời hưởng phúc muôn đời.

Mời bạn hãy hết lòng noi gương các thánh tôi tớ của Đức Mẹ, chạy đến với Đức Mẹ để tỏ lòng tôn kính và mến yêu Người chắc chắn Người sẽ cứu giúp bạn bây giờ và trong giờ lâm tử nữa.

From: Đỗ Dzũng

 Thánh Cô-lát-ti-ca (Scholastica), trinh nữ (480-543)

 Thánh Cô-lát-ti-ca (Scholastica), trinh nữ (480-543)

Chúc Bạn một ngày bình an và tràn đầy hy vọng nhé. 

Cha Vương

Thư 5: 10/02/2022

Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Cô-lát-ti-ca (Scholastica), trinh nữ (480-543). Ngài là quan thầy của các nữ tu và là đấng cầu giúp cho những ai chống lại bão và sấm sét.

        Anh em sinh đôi thường giống nhau về tính nết và tư tưởng cũng như nhiệt huyết. Do đó, người ta không ngạc nhiên khi Thánh Scholastica và người anh sinh đôi là Thánh Biển Ðức (Benedict), đều sáng lập các tu hội chỉ cách nhau có vài dặm.

        Sinh năm 480 trong một gia đình giầu có ở Norcia, Perugia, nước Ý. Scholastica và Benedict cùng lớn lên cho đến khi Benedict xa nhà đi học ở Rôma. Chúng ta không biết nhiều về thời niên thiếu của Thánh Scholastica. Sau này, ngài sáng lập dòng nữ tu ở Ý gần rặng Cassino, thuộc Plombariola, cách tu viện của anh ngài chỉ có năm dặm. Mỗi năm hai anh em chỉ gặp nhau có một lần, trong một nông trại, vì Scholastica không được phép vào tu viện. Cả hai dành thời giờ để thảo luận về các vấn đề tinh thần. Theo cuốn Ðối Thoại của Thánh Grêgôriô Cả, trong lần sau cùng hai anh em gặp nhau để cầu nguyện và truyện trò, Thánh Scholastica cảm thấy cái chết của mình gần kề nên nài xin anh Benedict ở với ngài cho đến ngày hôm sau. Thánh Benedict từ chối lời yêu cầu ấy vì ngài không muốn ở đêm bên ngoài tu viện, vì như thế chính ngài sẽ phá vỡ quy luật do ngài đặt ra. Thánh Scholastica xin Thiên Chúa cho phép anh mình ở lại, và một trận mưa lớn đổ xuống như thác khiến Benedict và các tu sĩ đi theo ngài không thể trở về tu viện. Thánh Benedict kêu lên, “Xin Chúa tha tội cho em. Em làm cái gì vậy?” Thánh Scholastica trả lời, “Em xin anh một ơn huệ và anh từ chối. Em xin Chúa, và Chúa nhận lời.” Ba ngày sau, ðang khi Thánh Benedict cầu nguyện trong tu viện thì ngài nhìn thấy linh hồn của em mình bay lên trời trong dạng chim bồ câu trắng. Thánh Benedict sai các tu sĩ đem xác của em mình về dòng và chôn trong chính ngôi mộ mà thánh nhân đã chuẩn bị cho mình. Thánh Scholastica từ trần vào khoảng năm 543, và sau đó không lâu Thánh Benedict cũng từ giã cõi đời. (Nguồn: Người Tín Hữu) 

Thánh Scholastica và Thánh Benedict đã giúp nhau đến gần Chúa hơn bằng cách họ đối xử với nhau. Theo gương các Ngài, những người thân yêu bạn hữu, thầy cô, v.v… của bạn đều có thể giúp Bạn trở nên gần với Chúa hơn mỗi ngày.

From: Đỗ Dzũng

Thánh Agata Sicilê (c. 235?-251), đồng trinh tử đạo

Thánh Agata Sicilê (c. 235?-251), đồng trinh tử đạo

Chúc một ngày thật ấm áp bên Chúa và người thân yêu nhé! Hôm nay 5/2, Giáo Hội mừng kính Thánh Agata Sicilê (c. 235?-251), đồng trinh tử đạo. Đặc biệt là qua lời chuyển cầu của thánh nhân nhiều bệnh nhân bị ung thư vú đã được chữa lành. Vậy hôm nay mời bạn hãy dành thời gian để cầu nguyện cho những ai đang mắc bệnh liên quan đến vú.

Cha Vương

Thứ 7: 05/02/2022

Cũng như trường hợp của Thánh Agnes, vị đồng trinh tử đạo thời Giáo Hội tiên khởi, chúng ta không có dữ kiện lịch sử chắc chắn về Thánh Agata, ngoại trừ sự kiện ngài chịu tử đạo ở Catania  trong thời kỳ cấm đạo của hoàng đế Rôma là Decius năm 251.

Theo truyền thuyết, ngài sinh trưởng năm 235 tại Catania, Sicily (nước Ý) trong một gia đình giầu có. Khi còn trẻ, ngài đã tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa, và từ chối bất cứ lời cầu hôn nào. Một trong những người say mê ngài là Quintian, là người có địa vị cao trong xã hội nên nghĩ rằng có thể ép buộc thánh nữ. Biết ngài là Kitô Hữu nên ông ra lệnh bắt giữ và đưa ra xét xử – bởi chính ông. Hy vọng rằng vì sợ hãi sự tra tấn và cái chết, thánh nữ sẽ đành phải trao thân cho ông, nhưng ngài nhất quyết tin tưởng vào Thiên Chúa, và cầu nguyện rằng: “Lạy Ðức Kitô Giêsu, là Chúa mọi sự! Ngài đã thấy lòng con, Ngài biết con muốn gì. Xin hãy làm chủ toàn thể con người của con – chỉ mình Chúa mà thôi. Con là chiên của Ngài; xin giúp con vượt qua sự dữ một cách xứng đáng.”

Sau đó, Quintian tống Agata vào nhà gái điếm lấy cớ ngài là người Công Giáo với hy vọng ngài sẽ thay đổi ý định. Sau một tháng bị đánh đập và xỉ nhục, Quintian lại đưa ngài ra xét xử, nhưng Agatha vẫn không lay chuyển, vẫn can đảm tuyên xưng rằng chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể ban cho ngài sự tự do. Quintian lại tống ngài vào ngục thay vì nhà gái điếm. Và khi ngài tiếp tục tuyên xưng đức tin nơi Chúa Giêsu, Quintian ra lệnh tra tấn. Ðể trả thù, bạo quan hạ lệnh nướng ngài trên giường sắt. Sau đó, người ta lại tống giam thánh nữ. Tương truyền thì trong đêm đó, thánh Phêrô đã hiện ra và chữa lành cho ngài. Dù bị quan trấn Quintian nhiều lần dụ dỗ, ngài vẫn một lòng trung kiên với đạo Chúa. Dù đau đớn lăn lộn trên than hồng và mảnh chai nhọn, ngài vẫn tin cậy vào Chúa, Ðấng sẽ cứu linh hồn ngài. Chính cử chỉ của thánh nữ khiến cả thành phố náo động, Quintian sợ dân nổi loạn nên truyền giam thánh nữ trong ngục.

Ngài đã chết rũ tù ngày 25 tháng 2 năm 251 tại Catania, Sicily. Trước khi chết, ngài cầu nguyện: “Lạy Chúa, là Ðấng dựng nên con, Ngài đã gìn giữ con từ khi còn trong nôi. Bởi tình yêu thế gian Ngài đã dẫn dắt con và ban cho con sự kiên nhẫn để chịu đựng đau khổ. Xin hãy nhận lấy hồn con.”

Thánh nữ đã làm nhiều phép lạ như che chở thành Catania khỏi hiểm họa núi lửa Etna. Ngay từ thời đó, người ta đã cầu khẩn và cậy trông vào sự cầu bầu của thánh nữ. Ngài được coi là quan thầy của xứ Palermo và Catania, và được chọn làm quan thầy các bà vú nuôi và cũng được cầu khẩn khi bị tai nạn vì lửa và vì bệnh nhủ bộ. (Trích Gương Thánh Nhân – ns Người Tín Hữu online & Nhóm Tinh Thần nhuận chính lại theo Patron Saints và Santi-Beati-Testimoni)

Lạy Chúa, thánh nữ A-ga-ta đã luôn luôn làm đẹp lòng Chúa, vì vừa sống cuộc đời kiên trinh, vừa can trường hy sinh tử đạo. Xin nhận lời thánh nữ chuyển cầu cho chúng con được ơn tha thứ. Chúng con cầu xin nhờ danh Chúa Ki-tô Chúa chúng con. A men. (Lời nguyện, Lễ nhớ)

From: Đỗ Dzũng

Thánh Blase (Biagio)

Thánh Blase (Biagio)

 Trong tâm tình của ngày mùng 3 Tết là ngày cầu xin Chúa thánh hoá công ăn việc làm. Chúc Tết! Chúc Tết! Mời bạn hãy dâng lên Chúa tất cả những công việc sẽ làm trong năm mới này, cùng với những lao nhọc cực khổ bạn sẽ gặp.

* Xin Chúa giúp bạn có việc làm để nuôi sống bản thân và gia đình.

* Xin Chúa giúp bạn cảm thấy hạnh phúc trong công việc của mình.

* Xin Chúa mở rộng con tim của bạn để bạn biết chia sẻ cho những người túng thiếu.

* Nhất là, xin Chúa giúp bạn được nên thánh trong công việc hằng ngày—bằng cách khi làm việc, bạn không quên Chúa, nhưng luôn nhớ đến Chúa và cậy nhờ vào Ngài.

Cha Vương

Thứ 5: 03/02/2022

Hôm nay cũng là ngày Giáo hội mừng kính Thánh Blase (Biagio), mời Bạn suy niệm về đời sống nhân đức của Ngài nhé.

Chúng ta biết nhiều về sự sùng kính của Kitô Hữu đối với Thánh Blase hơn là tiểu sử của ngài. Trong Giáo Hội Ðông Phương, ngày lễ kính ngài được coi là một ngày lễ lớn. Công Ðồng Oxford, vào năm 1222 đã cấm làm việc xác trong ngày lễ Thánh Blase (hay còn gọi là Thánh Biagio). Người Ðức và người Ðông  Âu rất kính trọng thánh nhân, và trong nhiều thập niên, người Công Giáo Hoa Kỳ thường chạy đến với thánh nhân để xin chữa bệnh đau cổ họng.

Chúng ta được biết Ðức giám mục Blase chịu tử đạo năm 316 ngay trong giáo phận của ngài ở Sebaste, Armenia. Mãi cho đến 400 năm sau mới có huyền thoại viết về ngài. Theo đó, Thánh Blase là một giám mục tốt lành, làm việc vất vả để khuyến khích giáo dân sống lành mạnh về tinh thần cũng như thể xác.

Mặc dầu chỉ dụ Toleration, năm 311, đã cho phép tự do tôn giáo ở Ðế Quốc Rôma hơn năm năm, nhưng ở Armenia, việc bách hại vẫn còn dữ dội. Hiển nhiên là Thánh Blase buộc phải rời bỏ giáo phận và sống trong rừng núi. Ở đó ngài sống trong cô độc và cầu nguyện, làm bạn với thú rừng.

Một ngày kia, có nhóm thợ săn đi tìm thú dữ để dùng trong đấu trường và tình cờ họ đã thấy hang động của Thánh Blase. Từ kinh ngạc cho đến sợ hãi, họ thấy vị giám mục đi lại giữa đám thú dữ một cách điềm tĩnh để chữa bệnh cho chúng. Nhận ra ngài là giám mục, họ bắt ngài về để xét xử. Trên đường đi, ngài ra lệnh cho một con sói phải thả con heo nó đang cắn giữ vì đó là của người đàn bà nghèo. Khi Thánh Blase bị giam trong tù và bị bỏ đói, người đàn bà này đã đền ơn ngài bằng cách lẻn vào tù cung cấp thức ăn cho thánh nhân.

Ngoài ra, truyền thuyết còn kể rằng, một bà mẹ có đứa con trai bị hóc xương đã chạy đến ngài xin cứu giúp. Và sau lời truyền của Thánh Blase, đứa bé đã khạc được chiếc xương ra khỏi cổ.

Agricolaus, Thủ Hiến xứ Cappadocia, tìm mọi cách để dụ dỗ Thánh Blase bỏ đạo mà thờ tà thần. Lần đầu tiên từ chối, ngài bị đánh đập. Lần kế tiếp, ngài bị treo trên cây và bị tra tấn bằng chiếc lược sắt cào vào thân thể. Sau cùng ngài bị chém đầu năm 316. Người được tôn kính như quan thầy các thợ chải len, những người bị đau cuống họng. (Nguồn: Người Tín Hữu online)

Sau đây là Kinh cầu Thánh Blase được dùng để khẩn cầu cho những ai mang bệnh của cổ họng: “Qua lời cầu bầu của Thánh Blase, là giám mục và là vị tử đạo, xin Thiên Chúa chữa con khỏi bệnh tật của cổ họng và khỏi mọi sự dữ. Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần” (Kinh cầu Thánh Blase). Xin Thánh Blase, cầu cho chúng con!

From: Đỗ Dzũng

Thánh Gio-an Bốt-cô (1815 – 1888), linh mục

Thánh Gio-an Bốt-cô (1815 – 1888), linh mục

Hôm nay 31/01 Giáo Hội mừng kính Thánh Gio-an Bốt-cô (1815 – 1888), linh mục. Mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé. Ước mong bạn một ngày thật tốt lành để chuẩn bị đón Chúa Xuân, hãy bỏ qua những chuyện bất an nhọc nhằn của con Trâu để đón lấy tính quyền uy, mạnh mẽ, nhanh nhẹn và đầy bản lĩnh của con Cọp mà sống một Năm Mới thánh thiện hơn năm cũ nhé.

Cha Vương

Thánh Gio-an Bốt-cô (John Bosco) chào đời năm 1815 tại Cát-ten-nô-vô, giáo phận Tô-ri-nô, Gio-an đã trải qua thời thơ ấu trong hoàn cảnh khó khăn, vì thế khi làm linh mục, người dấn thân lo việc giáo dục thanh thiếu niên. Người lập dòng các tu sĩ Sa-lê-diêng và dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu để huấn luyện thanh thiếu niên về nghề nghiệp và đời sống đạo. Người qua đời năm 1888. Ngài qua đi nhưng hình ảnh của người cha hiền còn sống mãi trong lòng nhân thế. Lòng nhiệt thành và từ tâm của Ngài đối với bầy trẻ côi cút phải là bài học sáng ngời soi dẫn tâm hồn con người trong muôn thế hệ. Sau đây là những bài học quý giá mà ngài để lại cho Giáo Hội. Bài học này do Lm. Giuse Đinh Tất Quý viết và được đăng trên mạng TGPSG:

  1. Bài học đầu tiên đó là việc quan tâm đến việc giáo dục các trẻ em mồ côi và những trẻ “bụi đời”. Đây là lời khuyên cho những ai làm công tác giáo dục: “Hãy coi những trẻ em dưới quyền ta như con cái. Hãy đặt mình xuống phục vụ chúng, như Đức Giêsu đã đến không phải để chỉ huy, nhưng để phục vụ; hãy sợ cái gì có vẻ muốn điều khiển, và hãy điều khiển chỉ vì muốn phục vụ đắc lực hơn mà thôi. Đức Giêsu đã xử như thế với các tông đồ. Người chịu đựng sự dốt nát, tính cứng cỏi và cả đến lòng kém tin của họ. Người tiếp đón tội nhân cách tử tế và thân mật đến nỗi lắm kẻ ngạc nhiên, lắm kẻ khó chịu, nhưng lại khiến nhiều người hy vọng được ơn tha thứ. Chính vì vậy, Người đã bảo ta học cùng Người mà ở hiền lành và khiêm nhượng trong lòng . Lòng ta đừng rối lên, đừng khinh bỉ nhìn ai và đừng nói lời nguyền rủa bao giờ. Hãy có lòng nhân từ đối với hiện tại, hy vọng đối với tương lai: như vậy, các con sẽ thực sự là những người cha của tuổi trẻ và thực sự chu toàn được phận sự giáo dục”.
  2. Bài học 2 là lòng yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể: Thánh Don Bosco có lòng yêu mến phép Thánh Thể nồng nàn. Hằng ngày ngài dành nhiều thời giờ để viếng Chúa, cả khi tuổi đã già, sức đã yếu ngài vẫn giữ nguyên thói quen ấy. Chân ngài bị đau nên ngài phải cố gắng lắm mới qùy được. Ngài rất sốt sắng cầu nguyện. Mặt ngài lúc bấy giờ sáng láng như một thiên thần. Mỗi lần đi qua nhà thờ, ngài đều giở mũ ra chào. Ngài khuyên các linh mục nên đọc kinh thần tụng trước Thánh Thể. Ngài luôn cổ vũ các thanh thiếu niên mến mộ Mình Thánh Chúa. Ngài nói:

❦  Nếu bạn muốn Chúa ban cho bạn nhiều ân sủng, hãy năng đến viếng Thánh Thể.

❦  Nếu muốn ma quỉ xa lánh, bạn hãy siêng viếng Chúa.

❦  Nếu muốn chiến thắng ma quỷ, hãy trú ngụ dưới chân Chúa Giêsu.

❦  Không yêu mến việc viếng Chúa, ấy là dấu chỉ sẽ thua ma qủy.

❦  Bạn thân mến, siêng năng viếng Thánh Thể là một phương thế hữu hiệu để chiến thắng ma quỷ.

❦  Hãy cố gắng siêng năng viếng Chúa Thánh Thể và ma qủy không thể chiến thắng bạn được.

  1. Bài học cuối cùng là lòng sùng kính Đức Mẹ: Năm 1862, Chúa cho Don Bosco thấy một thị kiến. Ngài trông thấy chiếc thuyền của Thánh Phêrô bị nhiều tàu bè của địch đe dọa trên biển cả. Khi trận chiến đến hồi ác liệt Ngài thấy có hai trụ cột hiện ra. Một trụ thứ nhất có hình phép Thánh Thể và dòng chữ “Salus Credentium” (sự cứu rỗi các kẻ tin). Còn trụ kia thì có hình Đức Mẹ Maria và dòng chữ “Auxilium Christianorum” (Đấng phù hộ người công giáo). Ánh sáng tỏa ra từ hai trụ cột ấy làm cho binh lính Đức Giáo Hoàng thêm sức mạnh, niềm tin và làm cho quân thù phải kiếp sợ. Tàu thuyền quân địch chạy nhốn nháo, hỗn độn, bị chìm hoặc phải chạy đi nơi khác. Có hai thứ tình yêu- yêu Chúa trong phép Thánh Thể và yêu mến Đức Bà- là bảo chứng của mọi vị thánh. Đó là những Đấng phù hộ chính của Giáo Hội công giáo, là ánh sáng trong đại dương cuộc đời, là ngọn đèn soi chiếu con đường đi của người tín hữu, và làm mù mắt những kẻ chống đối Giáo hội.

Coi vẻ cuộc sống của Thánh Gio-an Bốt-cô cũng chứa đựng tính quyền uy, mạnh mẽ, nhanh nhẹn và đầy bản lĩnh của con Cọp năm nay đấy. Để kính nhớ Ngài, mời bạn hãy đưa áp dụng 3 bài học được nêu trên vào cuộc sống hằng ngày của mình để sống đúng với ơn gọi làm con Chúa của mình nhé.

Thánh Tôma Aquinô (1225-1274), Tiến Sĩ Hội Thánh

Thánh Tôma Aquinô (1225-1274), Tiến Sĩ Hội Thánh

Chúc bình an! Hôm nay ngày 28/01, Giáo hội mừng kính Thánh Tôma Aquinô (1225-1274), Tiến Sĩ Hội Thánh. Mừng quan thầy đến những ai chọn Thánh Tôma làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Mọi người đều đồng ý rằng Thánh Tôma Aquinô  là tiếng nói trổi vượt của truyền thống Công Giáo về lý lẽ và về sự mặc khải của Thiên Chúa. Ngài là một bậc thầy vĩ đại của Giáo Hội Công Giáo thời trung cổ, và được vinh danh với tước vị Tiến Sĩ Hội Thánh và Tiến Sĩ Thiên Thần.

Sinh hạ năm 1225 trong một gia đình quí phái ở Roccasecca gần Aquinô trong vương quốc Napples. Lúc năm tuổi, ngài được cha mẹ cho vào tu viện Biển Ðức ở Monte Cassino với hy vọng ngài sẽ thích lối sống ấy và trở nên một tu viện trưởng. Trong tu viện, các thầy giáo đều ngạc nhiên về sự tiến bộ của ngài, và mọi bạn cùng lớp đều thua kém ngài về việc học cũng như việc trau dồi nhân đức.

Khi đến tuổi khôn được lựa chọn con đường cho chính mình, Thánh Tôma đã khước từ mọi sự của thế gian và quyết tâm chọn Dòng Ða Minh trái với ý định của cha mẹ. Năm 1239, lúc mười bảy tuổi, ngài gia nhập Dòng Ða Minh ở Naples. Theo lệnh của bà mẹ, ngài bị các anh em bắt cóc và giam ở nhà trên một năm trời. Gia đình còn đi xa hơn nữa bằng cách dùng một cô gái điếm đến dụ dỗ ngài. Nhưng tất cả mọi cố gắng đều vô hiệu, Thánh Tôma vẫn kiên trì với ơn gọi. Như một phần thưởng cho sự trung tín này, Thiên Chúa đã ban cho ngài ơn thanh sạch tuyệt đối, mà nhờ đó ngài xứng đáng được tước vị là “Tiến Sĩ Thiên Thần.”

Sau khi tuyên khấn ở Naples, ngài theo học ở Cologne với vị thầy nổi tiếng là Thánh Albert Cả. Ở đây ngài có biệt danh là “bò câm”, vì ngài to con và thường im lặng, nhưng thực sự ngài là một người rất giỏi. Vào năm hai mươi hai tuổi, ngài được bổ nhiệm để dạy học tại hai thành phố. Ðồng thời ngài cũng bắt đầu công bố các sáng tác của ngài. Bốn năm sau, ngài được gửi đến Balê. Vào năm ba mươi mốt tuổi, ngài đậu bằng tiến sĩ.

Ở Balê, ngài được vinh dự làm bạn với Vua Louis (sau này được phong thánh). Năm 1261, Ðức Urbanô IV gọi ngài về Rôma để dạy học, và ngài nhất quyết từ chối mọi vinh dự của một chức sắc trong giáo hội. Không những Thánh Tôma có tài viết, mà ngài còn có tài giảng thuyết với nhiều kết quả tốt đẹp.

Sự đóng góp lớn lao của ngài cho Giáo Hội Công Giáo là các trước tác. Sự đồng nhất, sự hài hòa và sự liên tục của đức tin và lý lẽ, của mặc khải và khiến thức loài người, được thấy đầy dẫy trong các văn bản của ngài.

Tập “Summa Theologica” là công trình sau cùng của ngài, nhưng không may chưa được hoàn tất, đề cập đến toàn thể thần học Công Giáo. Ngài ngưng sáng tác sau khi cử hành Thánh Lễ vào ngày 6 tháng Mười Hai, 1273. Ðược hỏi lý do, ngài trả lời, “Tôi không thể tiếp tục… Tất cả những gì tôi viết, đối với tôi dường như chỉ là cọng rơm so với những gì tôi được thấy và những gì tôi được mặc khải.” Ngài từ trần ngày 07 tháng 3 năm 1274 tại Fossanuova gần Terracina và được chôn cất tại nhà thờ Saint Servin, Toulouse, nước Pháp; thánh tích được chuyển về nhà thờ thánh Jacobins, Toulouse ngày 22 tháng 10 năm 1274

Thánh Tôma Aquinô là một trong những thần học gia vĩ đại và ảnh hưởng đến mọi thời đại.  Ngài được Đức Giáo Hoàng Joannes XXII phong thánh ngày 18 tháng 7 năm 1323 tại Avignon, nước Pháp và được Ðức Giáo Hoàng Pius V tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 11 tháng 4 năm 1567. Đức Giáo Hoàng Leo XIII đặt Ngài làm quan thầy các trường và các đại học Công Giáo ngày 04 tháng 8 năm 1880. Lễ kính thánh nhân được cử hành vào ngày 28 tháng 01 hàng năm là ngày kỷ niệm cải táng thay vì ngày 07 tháng 3 là ngày kỷ niệm qua đời. (Nguồn: Người Tín Hữu online)

Sau đây là những câu nói và lời khuyên của Thánh Nhân:

❦ Yêu mến Chúa thì cao trọng hơn nhận biết Ngài.

❦ Không có hy sinh nào giải cứu linh hồn Luyện ngục bằng hy sinh của Thánh lễ Misa.

❦ Chỉ cần chạm một cái rất nhẹ, rất mong manh vào lửa Luyện ngục thì còn rùng rợn hơn tất cả những cực hình đau đớn chết người trên trái đất này.

❦ Đừng tọc mạch muốn biết công chuyện riêng tư của người khác.

❦ Hãy giữ lương tâm tinh tuyền.

❦ Đừng bỏ qua việc cầu nguyện.

❦ Tránh bàn tán những chuyện nhảm nhí.

❦ Hãy gắng bắt chước gương tốt của những bậc thánh hiền.

Câu nào đánh động Bạn nhất? Hãy đọc lại và dùng câu đó để làm hướng đi cho Bạn trong ngày nhé.

Thánh nhân qua đời ngày 7 tháng 3 năm 1274 tại đan viện Xitô ở Phốtxanôva. Ngày 28 tháng Giêng là ngày thi hài thánh nhân được cải táng đưa về Tuludơ năm 1369.

From: Đỗ Dzũng

Thánh An-giê-la Mê-ri-si (Angela Merici ),Trinh nữ

Thánh An-giê-la Mê-ri-si (Angela Merici ),Trinh nữ

Tạ ơn Chúa đã ban cho bạn một ngày mới để mang chữ “NHÂN” vào những mảnh đời đang đau khổ. Hôm nay Giáo Hội mừng kính thánh An-giê-la Mê-ri-si, Trinh nữ. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thánh nhân sinh ngày 21 tháng 3 năm 1474 tại Desenzano, xứ Lombardie, Ý Đại Lợi. An-giê-la mồ côi cha mẹ và ở với các anh và cậu. Vào lúc 56 tuổi, An-giê-la Mê-ri-si (Angela Merici) từ chối lời yêu cầu của Ðức Giáo Hoàng. Ngài biết Ðức Clementê VII muốn ban cho ngài một vinh dự lớn lao và một cơ hội vĩ đại để phục vụ khi đức giáo hoàng yêu cầu ngài nhận trách nhiệm lãnh đạo một dòng nữ tu chuyên về điều dưỡng. Nhưng An-giê-la biết công việc điều dưỡng không phải là điều Thiên Chúa muốn mời gọi ngài thi hành.

     Ngài mới từ Ðất Thánh trở về. Khi trên đường đến đó ngài bị bệnh nặng và bị mù. Tuy nhiên, ngài nhất quyết tiếp tục cuộc hành hương và thăm viếng các thánh địa với tất cả lòng sùng kính hơn là muốn chiêm ngưỡng bằng cặp mắt. Trên đường về ngài được chữa lành và được sáng mắt. Ðiều ấy chắc chắn đã nhắc nhở ngài rằng không thể nhắm mắt trước nhu cầu của những người chung quanh, và đừng đóng cửa lòng trước lời mời của Thiên Chúa.

     Ở khắp nơi trong thành phố, đâu đâu ngài cũng thấy các em gái nghèo nàn, không có học vấn và cũng không có tương lai. Trong thế kỷ mười lăm và mười sáu của Thánh Angela, vấn đề giáo dục phụ nữ là dành cho người giầu và cho các nữ tu. An-giê-la là người có học thức. Cha mẹ ngài chết sớm khi ngài mới mười tuổi và sau đó ngài phải sống với người chú. Ngài thực sự bối rối khi thấy chị của ngài từ trần mà không được lãnh nhận các bí tích. Trong một thị kiến ngài được đảm bảo là chị của ngài được an toàn trong bàn tay Thiên Chúa — và cũng qua thị kiến ấy ngài tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa.

     Khi chú ngài từ trần, trở về nhà ngài nhận thấy các em gái trong vùng không có một chút học vấn. Nhưng ai sẽ dạy các em? Thời ấy thật khác biệt. Phụ nữ không được phép làm nghề giáo và các cô chưa chồng thì không được tự ý đi ra ngoài — dù để phục vụ người khác. Nữ tu là các phụ nữ có kiến thức nhưng họ không được phép bước chân ra khỏi tu viện. Thời đó không có dòng nữ tu chuyên về giáo dục như ngày nay.

     Ðể giúp đỡ các em, An-giê-la nghĩ ra một phương cách mới. Ngài quy tụ một nhóm các cô thuộc dòng Ba Phanxicô, đi ra đường phố và tụ tập các em gái lại để dạy học cho các em. Các cô không có tiền cũng như không có quyền thế, họ chỉ có tấm lòng tận tụy cho việc giáo dục và cho Ðức Kitô. Sống trong chính nhà của mình, họ gặp gỡ để cầu nguyện và dạy học. Họ thành công đến nỗi An-giê-la được yêu cầu đưa sáng kiến ấy để thực hiện ở các thành phố khác, và đã làm nhiều người kinh ngạc, kể cả đức giáo hoàng.

     Mặc dù ngài từ chối đức giáo hoàng, nhưng có lẽ thỉnh cầu của đức giáo hoàng đã gợi ý cho ngài thấy rằng cần phải chính thức hóa tổ chức của ngài. Mặc dù chưa bao giờ là một nữ tu, Hội Thánh Ursula của An-giê-la là nhóm nữ tu đầu tiên hoạt động ngoài khuôn khổ nhà dòng và là dòng nữ đầu tiên chuyên lo giáo dục.

      Thánh An-giê-la Mê-ri-si từ trần ngày 27 tháng 1 năm 1540 tại Brescia, khi ngài khoảng bảy mươi tuổi. Mộ phần trở nên một nơi hành hương. Thánh tích còn tại thánh đường Thánh Afra, Brescia Ý Đại Lợi. Ngay sau khi qua đời, nữ tu Angela đã được dân chúng thành phố ca tụng như một đấng thánh. Họ đến kính viếng thi hài của chị thánh đông đảo đến độ phải hoãn lễ an táng đến 30 ngày sau.

     Thánh nữ được tôn phong Chân Phước năm 1768 do Đức Giáo Hoàng Clement XIII và đến ngày 27 tháng 5 năm 1807 Đức Giáo Hoàng Pius VII đã ghi tên thánh nữ vào sổ bộ các thánh của Giáo Hội. (Nguồn: Dòng Tên) Mời bạn suy niệm 2 câu nói của ngài hôm nay nhé:

1/ Chúng ta phải làm phúc bố thí. Đức bác ái chinh phục và lôi kéo các linh hồn đến với nhân đức.

2/ Hãy nhớ rằng ma quỷ không ngủ đâu nhưng luôn tìm đủ mọi cách để huỷ hại chúng ta.

3/ Hãy làm ngay bây giờ những gì mà bạn ao ước làm khi giờ lâm tử của bạn đến.

Câu nào đánh động bạn nhất?

Theo mình thì câu 3

Lạy Thiên Chúa nhân từ, Chúa đã cho thánh An-giê-la trinh nữ nên gương bác ái và khôn ngoan; vì lời thánh nữ cầu thay nguyện giúp, xin cho chúng con cũng noi theo Người mà trung thành tuân giữ lời Chúa dậy, và tuyên xưng đức tin trong cuộc sống hằng ngày.  (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh nữ An-giê-la Mê-ri-si).

From: Đỗ Dzũng

 Thánh Timôtêo và Thánh Titô, tông đồ

 Thánh Timôtêo và Thánh Titô, tông đồ

Chúc bình an! Hôm nay Giáo Hội mừng kính 2 vị thánh Timôtêo và thánh Titô, tông đồ, mừng quan thầy đến những ai chọn các ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Mời bạn nghe bài nhạc tân cổ, hay quá! Tình Chúa tình người nối nhịp con tim…, Gai càng nhọn lời ca càng thánh thót…

Qua Tân Ước, những gì chúng ta biết được về cuộc đời Thánh Timôtê thì giống như của một giám mục bận rộn ngày nay. Ngài được vinh dự tháp tùng Thánh Phaolô, và cả hai đều được ưu tiên rao giảng phúc âm và chịu đau khổ.

***

❦ Thánh Timôtê có cha là người Hy Lạp và mẹ là người Do Thái tên là Eunice. Là kết quả của một hôn nhân “hỗn hợp”, nên ngài bị người Do Thái coi là bất hợp pháp. Chính bà ngoại thánh nhân, bà Lois, là người đầu tiên trở lại Kitô Giáo. Sau đó, Timôtê được Thánh Phaolô rửa tội khoảng năm 47, và sau đó cùng tiếp tay với ngài trong công cuộc tông đồ. Chính ngài và Thánh Phalô cùng sáng lập Giáo Hội Côrintô. Trong 15 năm làm việc với Thánh Phaolô, Timôtê trở nên người bạn trung tín nhất của Phaolô. Ngài được Thánh Phaolô gửi đi truyền giáo — thường phải đương đầu với những xáo trộn trong các giáo đoàn mà Thánh Phaolô thành lập.

     Khi Timôtê đang ở với Phaolô thì bị bắt tại Rôma. Trong một thời gian, chính Timôtê cũng bị tù (Do Thái 13:23). Và Thánh Phaolô đã bổ nhiệm Timôtê làm đại diện cho ngài ở Êphêsô. Timôtê quá trẻ so với trách nhiệm nặng nề phải đảm trách. (“Ðừng để ai coi thường anh vì sự trẻ trung” Thánh Phaolô viết trong thư I gửi Timôtê 4:12a). Một vài đoạn khác cho chúng ta biết dường như Timôtê hay bẽn lẽn. Và một trong những câu của Thánh Phaolô thường được trích dẫn là câu viết cho Timôtê: “Ðừng chỉ uống nước lã, nhưng hãy dùng thêm chút rượu, vì anh đau dạ dày và ốm yếu luôn” (1 Tim 5:23).

❦ Thánh Titô có nét đặc biệt là người bạn thân và là môn đệ của Thánh Phaolô cũng như tiếp tay trong công cuộc truyền giáo. Ngài là người Hy Lạp, hiển nhiên xuất thân từ Antiôkia. Mặc dù ngài là dân ngoại, Thánh Phaolô đã không để ngài phải chịu cắt bì ở Giêrusalem. Titô được coi như người hòa giải, người quản đốc, người bạn rất tốt. Trong lá thư thứ hai gửi giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô cho chúng ta thấy tình bạn sâu đậm giữa ngài với Titô, và tình đồng đội giữa hai người khi rao giảng Tin Mừng: “Khi tôi đến Troas, tinh thần tôi không được khuây khỏa vì không được gặp Titô, người anh em của tôi. Do đó tôi từ giã họ và tiếp tục đến Macedonia. Ngay cả khi đến Macedonia, thể xác chúng tôi cũng chưa được yên, mà phải chịu đau khổ đủ mọi cách — xung đột bên ngoài, lo sợ bên trong. Nhưng Thiên Chúa, Ðấng an ủi những kẻ yếu hèn, đã an ủi chúng tôi bằng cách sai Ti-tô đến” (2 Côrintô 2:12a, 13; 7:5-6).

     Trong thư  gửi Titô, lúc ấy Titô được coi như quản đốc của cộng đồng Kitô Giáo trên đảo Crete, có trách nhiệm tổ chức, chấn chỉnh những lạm dụng và bổ nhiệm các giám mục phụ tá.

     Qua đời sống của Thánh Titô, chúng ta có được chút hiểu biết về đời sống Giáo Hội thời tiên khởi: hăng say trong việc tông đồ, kết hợp mật thiết với Ðức Kitô, triển nở tình bạn. Tuy nhiên, luôn luôn có những vấn đề của bản tính con người và những chi tiết không hấp dẫn chút nào trong đời sống hàng ngày: cần phải sống bác ái và kiên nhẫn trong “sự cãi cọ với người khác, lo sợ trong tâm hồn”. Qua tất cả những điều ấy, tình yêu của Ðức Kitô đã gìn giữ họ. (Nguồn: Người Tín Hữu)

From: Đỗ Dzũng

Thánh Phaolô trở lại…

 Thánh Phaolô trở lại…,

Chúc một ngày an lành mọi sự tốt đẹp trong bàn tay quan phòng của Chúa. Hôm nay 25/1 Giáo Hội mừng kính Lễ Thánh Phaolô trở lại, ta hãy xin cho được sự hoán cải trong tâm hồn. Xin một hy sinh nhỏ để cầu nguyện cho những người tội lỗi được ăn năn trở lại.

Cha Vương

Toàn thể cuộc đời của Thánh Phaolô có thể nói hệ tại ở một biến cố — ngài được gặp Ðức Giêsu trên đường đi Damascus. Ngay khoảng khắc đó, mọi sự hăng say của một người nhiệt huyết như ngài đều trở nên vô ích, như quả đấm ngàn cân của một tay quyền anh bị hụt hẫng. Có lẽ ngài chưa bao giờ được gặp Ðức Giêsu, mặc dù chỉ lớn hơn Ðức Giêsu vài tuổi. 

Nhưng ngài ghét cay ghét đắng những gì Ðức Giêsu chủ trương khi ngài bắt đầu bắt bớ Giáo Hội: “đi vào từng nhà và bắt bỏ tù những người đàn ông cũng như đàn bà” (CVTÐ 8:3b). Bây giờ, chính ngài được “đi vào”, được chiếm ngự, mọi năng lực của ngài được khai thác cho một mục đích — trở nên một người nô lệ cho Ðức Kitô trong sứ vụ hòa giải, thành một khí cụ giúp người khác cảm nhận được Ðấng Cứu Thế.

Câu nói sau đã xác định lập trường đức tin của ngài: “Ta là Giêsu, người mà ngươi đang bách hại” (CVTÐ 9:5b). Một cách huyền nhiệm Ðức Giêsu đã đồng hóa với dân của Ngài – là những người mà Thánh Phaolô trước đây đã từng săn đuổi như các tội nhân. Ngài nhìn thấy nơi Ðức Giêsu, sự hoàn tất một cách huyền nhiệm những gì ngài đang theo đuổi cách mù quáng.

Từ đó trở đi, công việc của ngài là “giúp mỗi người trở nên hoàn thiện trong Ðức Ki-tô. Vì đó mà tôi phải vất vả chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi” (Colossê 1:28b-29). “Vì tin mừng được loan báo cho anh chị em không chỉ bằng lời nói, mà còn trong quyền năng và trong Thánh Thần và với niềm xác tín sâu xa (1 Thess. 1-5a).

Cuộc đời Thánh Phaolô trở nên sự rao truyền không mệt mỏi và ngài sống sứ điệp thập giá: qua sự rửa tội, người Kitô chết cho tội lỗi và được mai táng với Ðức Kitô; họ là người chết đối với những gì sai trái và không giúp đưa đến sự cứu chuộc của thế gian. Họ được tạo thành một tạo vật mới, được chia sẻ vinh quang của Ðức Kitô và một ngày nào đó họ sẽ được sống lại từ cõi chết như Người. Qua Ðức Kitô phục sinh, Thiên Chúa Cha tuôn đổ Thánh Thần trên họ, biến họ trở nên hoàn toàn mới.

Do đó thông điệp vĩ đại của Thánh Phalô cho thế giới là: Bạn đã được Thiên Chúa cứu chuộc, không do bởi bất cứ gì bạn thi hành. Ðức tin cứu độ là món quà tặng cho những ai tận hiến cho Ðức Kitô một cách tuyệt đối, tự nguyện và cá biệt, mà sự tận hiến ấy mang lại kết quả trong “công việc” nhiều hơn là những gì luật lệ mơ tưởng. (Nguồn: Người Tín Hữu)

❦  “Tình yêu thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Tình yêu tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Côrintô 13:4-7).

Lạy Chúa, xin hãy dẫn dắt con đi từ cõi chết đến sự sống, từ lầm lạc đến chân lý. Xin hãy dẫn dắt con đi từ thất vọng đến hy vọng, từ sợ hãi đến tín thác. Xin hãy dẫn dắt con đi từ ghen ghét đến yêu thương, từ chiến tranh đến hòa bình. Xin hãy đổ đầy bình an trong trái tim chúng con, trong thế giới chúng con, trong vũ trụ chúng con. (Nguồn:TGP Saigon)

From: Đỗ Dzũng