Thánh Phêrô Giu-li-a-nô Ema (Peter Julian Eymard)-Cha Vương

Thánh Phêrô Giu-li-a-nô Ema (Peter Julian Eymard)

Chúc Bạn một ngày bình an thật gần gũi với Chúa trong công việc hằng ngày nhé. Hôm nay Giáo Hội mừng lễ kính Thánh Phêrô Giu-li-a-nô Ema, đấng sáng lập hội chị em Thánh Thể và dòng Bí Tích Thánh Thể của các linh mục. Hãy tạ ơn Chúa đã nuôi dưỡng ta bằng Bánh Hằng Sống. 

Cha Vương

Thứ 3: 02/08/2022

Cuộc đời của Thánh Phêrô Giu-li-a-nô Ema (Peter Julian Eymard) nhắc nhở việc chúng ta làm ở đời này, hành hương trong thế giới này là khẩn thiết xin Bánh Hằng Sống: Bí Tích Thánh Thể. Phêrô sinh tại nước Pháp năm 1811 được thụ phong linh mục và sau 5 năm dùng thư từ, hình ảnh và mọi phương tiện truyền thông để truyền giáo, cha nhập dòng Marist Father, rồi làm giám đốc tiểu chủng viện và sau đó cha thuộc về địa phận Lyons. Năm 1856 cha dã lời khấn của dòng Marist và cha tổ chức phong trào linh mục tận hiến cho Bí Tích Thánh Thể họ đã say mê suốt đời để tôn thờ và tận hiến cho Thánh Thể. Cha Phêrô cũng thành lập hội chị em Thánh Thể và Bí Tích Thánh Thể của các linh mục nhằm liên kết trong cùng một tình anh em nhờ phép Thánh Thể.  Bằng ngòi bút và đặc biệt là nhờ gương sáng của mình cha Phêrô đã khám phá tìm tòi làm nên lễ Hy tế và tạ ơn cho chúng ta. Thiên chúa được mọi người biết hiểu hơn và yêu chúa nhiều hơn, công việc của cha Phêrô chứng tỏ rằng sự hiện diện của Bí Tích Thánh Thể trong đời sống chúng ta là một ngưỡng vọng kết hợp chúng ta với cha trên trời thành một. (Hạnh Các Thánh, Father Lovasik, SVD)

Mời Bạn suy niệm những lời Cha Phêrô nói để xét lại vai trò của mình đối với Bí Tích Thánh Thể:

(1) “Hỡi các Kitô hữu, hãy biết rằng Thánh Lễ là hành động thánh thiện nhất trong đạo chúng ta.  Không có gì vinh danh Chúa hơn, và hữu ích cho linh hồn hơn là sốt sắng tham dự Thánh Lễ, càng nhiều càng tốt.”  -(Thánh Phêrô Julian Eymard)

(2) “Cho đến khi nào chúng ta chưa có được một tình yêu thiết tha dành cho Đức Ki-tô trong Phép Thánh Thể thì chúng ta sẽ chẳng làm được việc gì trọn vẹn.” – (Thánh Phêrô Julian Eymard)

(3) “Chúa đã đeo bám tôi một thời gian lâu dài… nhưng tôi lại cứ quyến luyến với cái hão huyền để tránh né vực thẳm tình yêu Chúa Giêsu đã dành cho tôi.”- (Thánh Phêrô Julian Eymard)

(4) Thánh Phêrô Julian Eymard tin chắc rằng người ta càng gần Đức Mẹ thì càng được kéo đến gần Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể.

Câu nào đánh động Bạn nhất, tại sao? Đối với mình thì câu số 3…

Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con cách sống tôn thờ, xin dạy chúng con noi gương Mẹ tìm kiếm các mầu nhiệm và các ân sủng nơi Thánh Thể, sống Phúc   Âm, và đọc Phúc   Âm nơi cuộc đời của Chúa Giêsu Thánh Thể. Lạy Đức Mẹ Thánh Thể, xin hãy nhớ Mẹ là Mẹ của những người tôn thờ Thánh Thể. (Lời nguyện ngắn của Thánh Phêrô Eymard)

From: Đ Dzũng

Thánh Anphonsô, Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (1696-1787) – Cha Vương

 Thánh Anphonsô, Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (1696-1787) – Cha Vương

Chúc bình an đến Bạn và gia đình. Hôm nay 01/8 Giáo hội mừng kính Thánh Anphonsô, Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (1696-1787). Mừng Bổn Mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé. Xin một lời kinh cầu nguyện cho Lh Cha Phê-rô Thăng phó xứ Các Thánh Tử Vì Đạo mới qua đời hôm qua. Xin đa tạ. 

Cha Vương

Thứ 2: 01/08/222

Alphonso sinh ngày 27 tháng 9 năm 1696 tại Marianelli gần Naples, nước Ý Đại Lợi trong một gia đình quý phái đạo đức. Vào năm 16 tuổi, ngài lấy bằng tiến sĩ giáo luật và dân luật của Đại Học Naples, nhưng sau đó đã bỏ nghề luật sư để hoạt động tông đồ. Ngài được thụ phong linh mục năm 29 tuổi và dồn mọi nỗ lực trong việc tổ chức tuần đại phúc ở các giáo xứ, cũng như nghe xưng tội và thành lập các đoàn thể Kitô Giáo.

Ngài sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế (The Congregation of the Most Holy Redeemer “Liguorians; Redemptorists”) tại Scala, nước Ý năm 1732. Đó là một tổ chức của các linh mục và tu sĩ sống chung với nhau, tận tụy theo gương Đức Kitô và hoạt động chính yếu là tổ chức tuần đại phúc cho nông dân ở thôn quê. Như một điềm báo cho điều sẽ xảy ra sau này, sau một thời gian hoạt động, những người đồng hành với ngài ngay từ khi thành lập đã từ bỏ tu hội và chỉ còn lại có một thầy trợ sĩ. Nhưng tu hội cố gắng sống còn và được chính thức chấp nhận vào 17 năm sau, dù khó khăn vẫn chưa hết.

Sự canh tân mục vụ lớn lao của cha Anphong là cách giảng thuyết và giải tội – ngài thay thế kiểu hùng biện khoa trương, thùng rỗng kêu to, bằng sự giản dị dễ hiểu, và thay thế sự khắc nghiệt của thuyết Jansen bằng sự nhân từ. Tài viết văn nổi tiếng của ngài phần nào đã làm lu mờ công lao khó nhọc mà ngài đã ngang dọc vùng Naples trong 26 năm trường để tổ chức tuần đại phúc. Ngài được Đức Giáo Hoàng Clement XIII bổ nhiệm làm Giám Mục Giáo Phận Thánh Agata dei Gotti năm 1762. Ngay sau khi nhậm chức, ngài đã cải tổ toàn diện giáo phận.

Hạnh tích kể rằng một trong các linh mục của dòng có cuộc sống rất trần tục, và cưỡng lại mọi biện pháp nhằm thay đổi lối sống ấy. Vị linh mục được Đức Cha Anphong mời đến, và ngay ở lối vào phòng của ngài, thánh nhân cho đặt một tượng thánh giá thật lớn. Khi vị linh mục do dự không dám bước qua, Đức Cha Anphong ôn tồn nói, “Hãy bước vào đi, và nhớ đạp lên thánh giá. Đây không phải lần đầu tiên mà cha đạp Chúa dưới chân mình.”

Thánh Anphong nổi tiếng về nền tảng thần học luân lý, nhưng ngài cũng sáng tác nhiều trong lãnh vực tâm linh và thần học tín lý. Văn bản Các Vinh Danh của Đức Maria là một trong những công trình vĩ đại về chủ đề này, và cuốn Viếng Thánh Thể được tái bản đến 40 lần trong đời ngài, đã ảnh hưởng nhiều đến sự sùng kính Thánh Thể trong Giáo Hội.

Trong cuộc đời ngài, thánh nhân phải tranh đấu để giải thoát nền thần học luân lý khỏi sự khắc khe của chủ thuyết Jansen. Thần học luân lý của ngài, đã được tái bản 60 lần trong thế kỷ sau khi ngài từ trần, chú trọng đến các vấn đề thực tiễn và cụ thể của các cha xứ và cha giải tội. Nếu có thói vụ luật và giảm thiểu hóa luật lệ xen vào thần học luân lý, chắc chắn nó không thuộc về mô hình thần học tiết độ và nhân từ của ngài.

Vào năm 71 tuổi, ngài bị đau thấp khớp khủng khiếp. Ngài đau khổ trong 18 tháng sau cùng với “sự tăm tối” vì sự do dự, sợ hãi, bị cám dỗ đủ mọi khía cạnh đức tin và mọi đức tính. Ngài qua đời ngày 01 tháng 8 năm 1787 tại Nocera de’ Pagani, Salerno.

Đức Giáo Hoàng Pius VI công nhận các nhân đức anh hùng của Đấng Đáng Kính Alphongsus năm 1796. Đức Giáo Hoàng Pius VII tôn phong Chân Phước cho ngài ngày 15 tháng 9 năm 1816 và Đức Giáo Hoàng Gregory XVI đã nâng ngài lên bậc hiển thánh ngày 26 tháng 5 năm 1839. 

Đức Giáo Hoàng Pius IX đã tuyên xưng thánh Alphonsus Liguori là Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 07 tháng 7 năm 1871. Vào năm 1950, Thánh Anphong được Đức Piô XII tuyên xưng là quan thầy của các thần học gia luân lý. (Nguồn: Mạng Nhóm Tinh Thần)

Sau đây là những câu nói của Thánh nhân, mời Bạn suy niệm và tự hỏi ngài đang muốn nhắn nhủ Bạn điều gì nhé:

(1) Ai cầu nguyện, thì được cứu rỗi.

(2) Lạy Mẹ Maria, xin hãy nhận con, như của riêng Mẹ, và cho Mẹ, xin hãy chăm lo phần rỗi của con.

(3) Bất cứ sự bất an nào, cho dù có lý do tốt cách mấy, cũng không thể phát xuất từ Thiên Chúa.

(4) Khi một tư tưởng xấu xa hiện lên trong tâm trí, chúng ta phải cố gắng lập tức hướng tư tưởng về Thiên Chúa hoặc một đều trung lập nào đó. Nhưng qui luật trước tiên là phải lập tức kêu cầu thánh danh Chúa Giêsu và Mẹ Maria và tiếp tục kêu cầu cho đến khi cơn cám dỗ chấm dứt.

(5) Người không bỏ cầu nguyện thì chẳng thể kéo dài thói quen xúc phạm đến Thiên Chúa.

(6) Người nào tin tưởng vào bản thân sẽ hư mất. Người nào tin tưởng vào Thiên Chúa sẽ làm được mọi sự.

(7) Hôm nay Chúa mời bạn làm điều tốt; hãy làm ngay hôm nay. Ngày mai bạn có thể không có thời gian, hoặc Chúa có thể không còn kêu gọi bạn làm điều đó nữa.

(8) Chắc chắn trong tất cả mọi việc đạo đức đứng đầu, sau các Bí tích, là việc thờ lậy Mình Thánh Chúa. Nó rất được Thiên Chúa ưa thích và hữu ích cho chúng ta nhất… Ôi, dịu ngọt biết bao nhiêu, khi ở trước bàn thờ với đức tin… và dâng lên Chúa các nhu cầu riêng như một người bạn làm với một người bạn, với tất cả sự tín cẩn. 

Câu nào đánh động Bạn nhất? Đối với mình câu 4

From: Đỗ Dzũng

Thánh Inhaxiô (I Nhã) Loyola Đấng sáng lập dòng Tên-Cha Vương

Thánh Inhaxiô (I Nhã) Loyola Đấng sáng lập dòng Tên.

Chúc bình an, hôm nay giáo hội mừng kính Thánh Inhaxiô (I Nhã) Loyola Đấng sáng lập dòng Tên. Mừng lễ quan thầy đến những ai nhận Thánh Inhaxiô làm bổn mạng nhé. 

Cha Vương

CN: 31/7/2022

TIN MỪNG: Phải, đối với con người ấy, trọn cuộc đời chỉ là đau khổ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền! Ngay cả ban đêm, nó cũng không được yên lòng yên trí. Điều ấy cũng chỉ là phù vân! (Gv 2:23)

SUY NIỆM: Nếu bạn nhìn vào Sách Giảng Viên dưới một lăng kính tiêu cực thì cuộc đời chỉ là một quyển sách chứa đựng những khoảnh khắc bất mãn và thất vọng. Nhưng nếu bạn nhìn nó dưới góc độ tích cực thì những lời trên đây là một chân lý. Dù bạn là ai, một vị tổng thống hay quân nhân, giàu có hay nghèo hèn, khi giờ điểm đã tới thì tất cả chỉ là hai chữ “phù vân”. Không có gì trong cuộc đời là bền vững, là vĩnh cửu. Tất cả đều tàn phai theo thời gian. Tiền tài, danh vọng và sắc đẹp rồi cũng sẽ có một ngày vuột ra khỏi tầm tay của. Chính cả Vua Salomon đã hiểu ý nghĩa cuộc đời là phù vân này, nên ông đã thốt lên rằng: “Phù vân rất mực phù vân, khó nhọc vất vả thế rồi phải trao lại cho kẻ không vất vả hưởng”.

Khi ta nằm xuống…

Những gì ta xài… đã mất.

Những gì ta để lại… người khác xài.

Ta chỉ đem theo được… những gì ta đã cho.

Khi bạn cho đi thì bạn sẽ lãnh nhận. Nếu bạn muốn nhận nhiều thì bạn hãy cho nhiều đi. Nhạc Sĩ Duy Nhạc đã diễn tả được chân lý “cho đi” này trong bài hát, “Cho Đi Là Lãnh Nhận”: Cho đi một chút mến thương / Nhận về đại dương thắm tình / Cho đi một giọt sương đêm / Nhận về êm đềm cơn mưa. Cho đi một ánh nắng mai  / Nhận về ngày mai tươi nắng / Cho đi một nhịp khởi đầu / Nhận về đẹp mầu tương lai…

Tương lai của bạn không thuộc về thế gian này. (x. Ga 18:36) Nếu bạn muốn có một tương lại và đời sống vĩnh cửu hãy tìm kiếm Thiên Chúa qua đời sống dấn thân, hy sinh và phục vụ, tật dụng những tài năng và khả năng thời gian và tiền bạn Chúa ban để để “cho đi”. Thánh Gioan Phao-lô II nói: “Không ai giàu đến độ không có gì cần phải nhận. Không ai nghèo đến mức không có cái gì để cho”. Nếu không có tiền bạc, ít nhất bạn cũng có thể chia sẻ cho anh chị em nụ cười, sự quan tâm, lời khích lệ và sự cảm thông. Tất cả những điều này, được thực hiện đúng lúc, đúng nơi và với tâm tình trân trọng quý mến, sẽ có giá trị tuyệt vời đó.

LẮNG NGHE: Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.” (Lc 12:20-21)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, con chỉ xin Chúa ban cho con một tấm lòng quảng đại hôm nay thôi. 

THỰC HÀNH: Bạn đang tích trữ cho mình những gì vậy? Của cải thế gian hay tìm kiếm nước Thiên Đàng? Làm một việc thiện hôm nay nhé.

From: Đỗ Dzũng

Thánh Mácta – Cha Vương

Thánh Mácta  

Reng reng! Thức dậy đi chứ, chúc bạn một ngày đầy nhiệt huyết trong tinh thần phục vụ Chúa và tha nhân. Mừng quan thầy Mácta (Martha) đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 29/7/2022

“Ðức Giêsu yêu quý Mácta, Maria và Lagiarô.” Câu nói độc đáo này trong Phúc Âm của Thánh Gioan cho chúng ta biết về sự tương giao đặc biệt giữa Ðức Giêsu và Mácta, người em Maria, và người anh Lagiarô của ngài.

    Hiển nhiên, Ðức Giêsu là người khách thường xuyên đến nhà Mácta ở Bêtania, một ngôi làng nhỏ bé cách Giêrusalem chừng hai dặm. Chúng ta thấy ba lần đến thăm của Ðức Giêsu được nhắc đến trong Phúc Âm Luca 10:38-42, Gioan 11:1-53, và Gioan 12:1-9.

    Nhiều người dễ nhận ra Mácta qua câu chuyện của Thánh Luca. Khi ấy, Mácta chào đón Ðức Giêsu và các môn đệ vào nhà của mình, và ngay sau đó Mácta chuẩn bị cơm nước. Sự hiếu khách là điều rất quan trọng trong vùng Trung Ðông và Mácta là điển hình. Thử tưởng tượng xem ngài bực mình biết chừng nào khi cô em Maria không chịu lo giúp chị tiếp khách mà cứ ngồi nghe Ðức Giêsu. Thay vì nói với cô em, Mácta xin Ðức Giêsu can thiệp. Câu trả lời ôn tồn của Ðức Giêsu giúp chúng ta biết Người rất quý mến Mácta. Ðức Giêsu thấy Mácta lo lắng nhiều quá khiến cô không còn thực sự biết đến Người. Ðức Giêsu nhắc cho Mácta biết, chỉ có một điều thực sự quan trọng là lắng nghe Người. Và đó là điều Maria đã làm. Nơi Mácta, chúng ta nhận ra chính chúng ta – thường lo lắng và bị sao nhãng bởi những gì của thế gian và quên dành thời giờ cho Ðức Giêsu. Tuy nhiên, thật an ủi khi thấy rằng Ðức Giêsu cũng yêu quý Mácta như Maria.

    Lần thăm viếng thứ hai cho thấy Mácta đã thấm nhuần bài học trước. Khi ngài đang than khóc về cái chết của anh mình và nhà đang đầy khách đến chia buồn thì ngài nghe biết Ðức Giêsu đang có mặt ở trong vùng. Ngay lập tức, ngài bỏ những người khách ấy cũng như gạt đi mọi thương tiếc để chạy đến với Ðức Giêsu.

    Cuộc đối thoại của Mácta với Ðức Giêsu chứng tỏ đức tin và sự can đảm của ngài. Trong cuộc đối thoại, Mácta khẳng định rõ ràng là ngài tin vào quyền năng của Ðức Giêsu, tin vào sự phục sinh, và nhất là tin Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa. Và sau đó Ðức Giêsu đã cho Lagiarô sống lại từ cõi chết.

     Hình ảnh sau cùng của Mácta trong Phúc Âm đã nói lên toàn thể con người của ngài. Lúc ấy, Ðức Giêsu trở lại Bêtania để ăn uống với các bạn thân của Người. Trong căn nhà ấy có ba người đặc biệt. Lagiarô là người mà ai cũng biết khi được sống lại. Còn Maria là người gây nên cuộc tranh luận trong bữa tiệc khi cô dùng dầu thơm đắt tiền mà xức lên chân Ðức Giêsu. Về phần Mácta, chúng ta chỉ được nghe một câu rất đơn giản: “Mácta lo hầu hạ.” Ngài không nổi bật, ngài không thi hành những việc có tính cách phô trương, ngài không được hưởng phép lạ kỳ diệu. Ngài chỉ hầu hạ Ðức Giêsu.

    Có truyền thuyết nói rằng ba chị em làng Bêtania đã bị người Do thái bắt thả trôi trên một con thuyền không buồm không chèo không lái. Nhưng họ đã trôi dạt và cặp bến Marseille nước Pháp. Ladarô đã trở thành Giám mục tiên khởi Chúa thành này. Riêng Martha, Ngài đã rao giảng Tin Mừng ở Aix Avignon và Tarascon. 

Thánh Mácta được đặt làm quan thầy của các người hầu hạ và đầu bếp.

(Nguồn: Trích Gương Thánh Nhân – ns Người Tín Hữu online)

From: Đỗ Dzũng

Thánh Giacôbê (James) Tông Đồ – Cha Vương

Thánh Giacôbê (James) Tông Đồ

Chúc ngày đầu tuần zui zẻ, phẻ mạnh, và an lành trong Chúa và Mẹ nhé. Hôm nay 25/07 Giáo Hội mừng kính Thánh Giacôbê (James) Tông Đồ. Mừng quan thầy đến những ai chọn Thánh Giacôbê làm quan thầy hay có tên là James nhé.

Cha Vương

Thu 2: 25/07/2022

Thánh Giacôbê [Cả] là anh của Thánh Gioan Thánh Sử. Cả hai được Ðức Giêsu mời gọi khi họ đang trên thuyền đánh cá, làm việc với người cha ở biển Galilê. Trước đó, Ðức Giêsu đã gọi một đôi anh em khác cũng từ một hoàn cảnh tương tự, đó là Phêrô và Anrê. “Ði xa hơn một chút, Người thấy ông Giacôbê, con ông Zêbêđê, và người em là ông Gioan. Hai ông đang vá lưới ở trong thuyền. Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Zêbêđê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người” (Máccô 1:19-20).

Thánh Giacôbê là một trong ba người được ưu tiên chứng kiến Chúa Hiển Dung, được thấy con gái ông Giairút sống lại và có mặt trong giờ thống khổ của Ðức Giêsu trong vườn Giệtsimani.

Có hai biến cố trong Phúc âm diễn tả tính khí của thánh nhân và người em. Thánh Mátthêu kể rằng mẹ của hai ông đến để xin cho họ được chỗ ngồi vinh dự trong vương quốc (một bên phải, một bên trái Ðức Giêsu). “Ðức Giê-su bảo: ‘Các người không biết các người xin gì. Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?’ Họ đáp: ‘Thưa được’ (Mt 20:22). Sau đó Ðức Giêsu bảo, quả thật họ sẽ uống chén và chia sẻ sự thanh tẩy của Người trong sự đau khổ và cái chết, nhưng việc ngồi bên phải hay bên trái thì không phải là quyền của Ðức Giêsu – chỗ đó “được dành cho những người đã được Cha Thầy chuẩn bị” (Mt 20:23b).

Các tông đồ khác phẫn nộ khi thấy tham vọng của Giacôbê và Gioan. Sau đó Ðức Giêsu dạy họ bài học về sự khiêm tốn phục vụ: Mục đích của quyền bính là để phục vụ. Họ không được áp đặt ý muốn của mình trên người khác, hay sai bảo người khác. Ðây là vị thế của chính Ðức Giêsu. Ngài là tôi tớ của tất cả; sự phục vụ được giao phó cho Ngài là tuyệt đối hy sinh tính mạng mình.

Trong một trường hợp khác, Giacôbê và Gioan chứng minh rằng biệt hiệu mà Ðức Giêsu đặt cho họ – “con của sấm sét”- thì rất thích hợp với họ. Người Samaritanô không đón tiếp Ðức Giêsu vì Người đang trên đường đến Giêrusalem. “Thấy thế, hai môn đệ là ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng: ‘Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?’ Nhưng Ðức Giê-su quay lại quở mắng các ông…” (Luca 9:54-55).

Hiển nhiên Thánh Giacôbê là vị tông đồ đầu tiên chịu tử đạo. “Vào thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay ngược đãi một số người trong Hội Thánh. Vua cho chém đầu ông Giacôbê, anh ông Gioan, và khi thấy việc đó làm vừa lòng người Do-thái, nhà vua lại cho bắt cả ông Phê-rô nữa” (CVTÐ 12:1-3a).

Chúng ta đừng nhầm lẫn Thánh Giacôbê với Thánh Giacôbê con Alphê, Thánh Giacôbê hậu “anh em họ” của Đức Giêsu và sau này là Giám Mục Jerusalem cũng là tác giả Thư Thánh Giacôbê. (Nguồn: Nhóm Tinh Thần, Hạnh Thánh)

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã ban cho thánh Giacôbê vinh dự là tông đồ đầu tiên đã chết để làm chứng cho Tin Mừng. Xin cho Hội Thánh tìm được sức mạnh nhờ gương tử đạo của thánh nhân, và nhờ Người cầu thay nguyện giúp, Hội Thánh được luôn nâng đỡ phù trì (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Giacô-bê tông đồ).

From: Do Dzung

 Thánh Nữ Bridget nước Thụy Điển – Cha Vương

 Thánh Nữ Bridget nước Thụy Điển

Chúc bình an đến Bạn và gia đình, hôm nay 23/07 Giáo Hội mừng kính Thánh Nữ Bridget nước Thụy Điển (1303?-1373), mừng Bổn Mạnh đến những ai chọn thánh nữ làm quan thầy nhé. 

Cha Vương

Thánh Nữ Bridget nước Thụy Điển—từ lúc bảy tuổi trở đi, Thánh Bridget đã được thị kiến Ðức Kitô trên thánh giá. Các thị kiến ấy làm nền tảng cho đời sống của thánh nữ — luôn luôn chú trọng đến đức ái hơn là trông đợi các ơn huệ thiêng liêng.

     Thánh Bridget là một người trong hoàng gia Thụy Ðiển, được thừa hưởng sự đạo đức của cha mẹ, ngay từ nhỏ ngài đã yêu quý sự thống khổ của Ðức Kitô. Khi mười bốn tuổi, vâng lời cha, ngài kết hôn với vua Thụy Ðiển là Magnus II và có tám người con (người con thứ là Thánh Catarina ở Thụy Ðiển). Sau khi nhà vua từ trần ngài sống một cuộc đời rất khổ hạnh.

     Trong thời gian hôn nhân, Thánh Bridget cố gắng ảnh hưởng tốt đến vua Magnus. Dù chưa hoàn toàn thay đổi, nhà vua cũng đã ban cho ngài đất đai và cơ sở để thiết lập một đan viện cho nam giới và nữ giới. Tổ chức này sau đó phát triển thành một tu hội, được gọi là Tu Hội Thánh Bridget the Order of the Most Holy Savior (Bridgettines) và được Đức Giáo Hoàng Urban V chuẩn nhận năm 1370 hiện vẫn còn.

     Vào Năm Thánh 1350, Thánh Bridget bất chấp bệnh dịch đang lan tràn khắp  Âu Châu, ngài thực hiện cuộc hành hương đến Rôma. Ngài không bao giờ trở về Thụy Ðiển và những năm ở Rôma thật không sung sướng chút nào vì bị chủ nợ săn đuổi và bị chống đối bởi sự thối nát trong Giáo Hội thời bấy giờ.

     Chuyến hành hương sau cùng của ngài đến Ðất Thánh thì bị hỏng vì đắm tầu và cái chết của người con trai. Ngài qua đời ngày 23 tháng 7 năm 1373 tại Rome, nước Ý. Ngài được chôn cất tại tu viện Vadstena, Thụy Điển. Thánh nữ Bridget được Đức Giáo Hoàng Bonifacius IX tôn phong hiển thánh ngày 07 tháng 10 năm 1391 và đặt là quan thầy của Thụy Điển.

Lời Bàn: Các thị kiến của Thánh Bridget, thay vì cô lập ngài khỏi các sinh hoạt của thế gian, đã đưa ngài can dự vào nhiều vấn đề đương thời, dù đó là chính sách của hoàng gia hay của giáo triều Avignon. Ngài không thấy sự mâu thuẫn giữa các cảm nghiệm thần bí và các sinh hoạt trần tục, và cuộc đời ngài chứng minh rằng SỰ THÁNH THIỆN CÓ THỂ THỰC HIỆN ĐƯỢC GIỮA NƠI THƯƠNG TRƯỜNG.

Sau đây mời bạn suy niệm những câu nói của Thánh Bridget:

❦ Nếu Thiên Chúa chịu đựng những trận đòn và sự hành hạ, thì ta nhiều khi phải chịu đựng những lời nói và những sự nghịch lý. 

❦ “Tội lỗi của một người cho dù có nặng nề đến đâu đi nữa, nhưng nếu họ trở về với Mẹ với trọn con tim và quyết tâm sửa cải thực sự thì Mẹ lập tức sẵn lòng tiếp nhận họ, Mẹ sẽ không kể bao nhiêu tội lỗi họ  đã phạm trước, nhưng chỉ nhìn đến thiện chí và việc họ trở về mà thôi. Người ta xưng tụng Mẹ là Hiền Mẫu nhân lành, và thực sự lòng từ nhân của Con Mẹ đã làm cho Mẹ hết sức nhân lành; và chỉ có những ai có thể mà lại không chịu đến với lòng nhân lành mới thực sự là kẻ khốn nạn.” (Lời Mẹ phán với thánh nữ Bridget nước Thụy Điển)

From: Đỗ Dzũng

Thánh Maria Magdalen (thế kỷ thứ 1) – Cha Vương

Thánh Maria Magdalen (thế kỷ thứ 1)

Hôm nay 22/07 Giáo Hội mừng kính Thánh Maria Magdalen (thế kỷ thứ 1). Mừng Bổn mạng đến những ai chọn thánh Nữ làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 22/7/2022

Ngày trước, người ta lẫn lộn giữa Maria Magdalen với ba người phụ nữ được Phúc Âm nói đến là:

– Người đàn bà tội lỗi vô danh đã đến đổ thuốc thơm trên chân Chúa và lấy tóc lau (Lc 7,37-50)

– Maria ở Bethania, em của Mattha và Lazarius. Cô cũng đã xức thuốc thơm nơi chân Chúa và lấy tóc lau (Gio 11,1;12,3)

– Maria ở Magdala (Magdala là một làng nhỏ bên bờ hồ Tiberiade) người được Chúa Giêsu đuổi trừ bảy quỷ (Lc 8,2) và đã có mặt dưới chân Thánh Giá khi Chúa chết cùng với Mẹ Maria và Gioan. Cô dự vào việc mai táng Chúa, trở ra mộ Chúa hai hôm sau để xức xác, nhìn thấy ngôi mộ trống. Maria là người đầu tiên nhìn thấy Chúa sống lại và đi báo tin cho các tông đồ. Thì chỉ Maria Magdalen này được ghi trong niên lịch Phụng Vụ sau vụ cải tổ lịch Phụng Vụ Roma mới.

Cũng do sự nhầm lẫn lâu đời giữa ba nhân vật nên Maria Magdalen mới được coi như là quan thầy những phụ nữ hoàn lương, những người bán nước hoa và buôn găng tay.

Cũng do sự nhầm lẫn lâu ấy mà có những tương truyền khác nhau như việc Maria Magdalen đã đến xứ Gaules (có từ thế kỷ thứ XI) người ta kính thánh tích của bà ở Vezelay, trên con đường hành hương đến Compostelle; cũng tại Provence, từ thế kỷ thứ XIII có những cuộc hành hương lôi cuốn nhiều người đến Sainte Marie de la Mere, nơi mà người ta cho rằng Maria Magdalen đã đổ bộ với em là Lazarius cùng nhiều phụ nữ khác, có cả người tớ gái là Sarah, quan thầy của những người phiêu bạt Gitans. Cũng như tại Saint Baume nơi có bọng đá mà người đã ở qua và tại Saint Maximin có phần mộ của người.

Tại Đông Phương, tương truyền rằng Maria Magdalen chết và được chôn ở Êphêsô. Năm 899, hoàng đế Leon VI đã chuyển thánh tích của người hay là được coi như vậy, về một tu viện ở Constantinople. Từ Đông phương, việc sùng kính đến Tây phương từ thế kỷ thứ X.

Vậy chúng ta chỉ biết về những gì Phúc Âm nói đến về vị thánh nữ đặc biệt ấy và ngày nay hình như chỉ có Maria Magdalen này mới có tên trong lịch Phụng Vụ mới.  (Nguồn: Nhóm Tinh Thần, hạnh các Thánh)

Đức Giáo hoàng Benedict XVI nói: “Câu chuyện của Maria thành Mácđala nhắc nhở tất cả chúng ta một sự thật hiện hữu”… “Thánh nữ là một trong những môn đệ của Chúa Kitô, trong kinh nghiệm yếu đuối của con người, ngài đã khiêm nhường cầu xin Chúa thương xót, và đã được Chúa tha thứ, để rồi tiếp tục đi theo Chúa mà trở thành một nhân chứng về điều này: tình thương xót của Chúa mạnh hơn tội lỗi và sự chết”.

Hôm nay Bạn hãy xin cho được ơn hoán cải nhé. Xin thánh Maria Magdalen, cầu cho chúng con.

From: Đỗ Dzũng

Thánh Lawrence of Brindisi Linh Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (1559-1619)- Cha Vương

Thánh Lawrence of Brindisi Linh Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (1559-1619).

Chúc bình an. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Lawrence of Brindisi Linh Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (1559-1619).

Cha Vương 

Thứ 5: 21/07/2022

Thoạt nhìn qua tiểu sử, có lẽ đặc tính nổi bật của Thánh Lawrence ở Brindisi là ngài biết nhiều thứ tiếng. Ngoài kiến thức về tiếng mẹ đẻ là tiếng Ý, ngài còn có thể đọc và viết thông thạo tiếng Latinh, Do Thái, Hy Lạp, Ðức, Bohemia, Tây Ban Nha và tiếng Pháp.

Ngài sinh ngày 22 tháng 7 năm 1559, và từ trần đúng 60 năm sau cũng vào ngày sinh nhật năm 1619. Tên thật của ngài là Julius Caesare Rossi, sau khi cha mẹ mất sớm, ngài được người chú nuôi nấng và cho theo học trường Thánh Máccô ở Venice.

Khi mới 16 tuổi, ngài gia nhập Dòng Phanxicô Capuchin ở Venice và lấy tên là Lawrence. Ngài học triết thần, Kinh Thánh, và các ngôn ngữ ở Ðại Học Padua và được thụ phong linh mục năm 23 tuổi.

Với khả năng ngôn ngữ trổi vượt, ngài có thể nghiên cứu Phúc Âm bằng tiếng nguyên thủy. Theo lời yêu cầu của Ðức Giáo Hoàng Clêmentê VIII, ngài dành nhiều thời giờ để rao giảng cho người Do Thái ở Ý. Ngài thông thạo tiếng Hebrew đến nỗi các giáo sĩ Do Thái tin rằng ngài là người Do Thái trở lại Kitô Giáo.

Ngài rất nhạy cảm trước nhu cầu của người khác — đó là một đặc tính không ngờ nơi một học giả tài giỏi như vậy. Ngài được bầu làm bề trên tỉnh dòng Capuchin ở Tuscany khi mới 31 tuổi. Ngài là một con người tổng hợp của sự lỗi lạc, có lòng thương người và khả năng điều hành. Sau một loạt “thăng quan tiến chức”, ngài được các tu sĩ Capuchin chọn làm bề trên toàn Dòng vào năm 1602. Với chức vụ này, ngài góp phần lớn trong việc phát triển Dòng về phương diện địa lý.

Sau khi từ chối việc tái bổ nhiệm chức vụ bề trên vào năm 1605, ngài được đức giáo hoàng chọn làm sứ thần và sứ giả hòa bình cho một vài tranh chấp giữa các hoàng gia. Vào năm 1616, ngài giã từ mọi sinh hoạt trần tục để về sống trong tu viện ở Caserta.

Vào năm 1956, Dòng Capuchin đã hoàn tất việc biên soạn 15 tuyển tập của ngài. Trong các tuyển tập ấy, mười một tập là các bài giảng, mỗi bài giảng được ngài dựa trên một câu Kinh Thánh để dẫn giải. Một trong những bài giảng: “Thiên Chúa là tình yêu, và mọi hoạt động của Ngài xuất phát từ tình yêu. Một khi Ngài muốn thể hiện sự tốt lành ấy bằng cách chia sẻ tình yêu của Ngài ra cho bên ngoài, thì sự Nhập Thể là một thể hiện vượt bực về sự tốt lành và tình yêu và vinh quang của Thiên Chúa. Như thế, Ðức Kitô đã được tiền định trước tất cả mọi tạo vật và cho chính Ngài. Vì Người mà muôn vật được tạo thành, và đối với Người mà muôn vật phải quy phục, và Thiên Chúa yêu quý mọi tạo vật trong Ðức Kitô và vì Ðức Kitô. Ðức Kitô là trưởng tử của mọi tạo vật, và toàn thể nhân loại cũng như thế giới vật chất tìm thấy nền tảng và ý nghĩa của nó trong Ðức Kitô. Hơn thế nữa, điều này cũng sẽ xảy ra ngay cả nếu Adong không phạm tội” (Thánh Lawrence ở Brindisi, Tiến Sĩ Hội Thánh).

Thể theo lời yêu cầu của các nhà cầm quyền ở Naples, ngài đã đến Tây Ban Nha để can thiệp với Vua Philip III. Cái nóng bức oi ả của mùa hè trong chuyến đi ấy đã làm ngài kiệt sức, và vài ngày sau khi gặp gỡ nhà vua, ngài từ trần ở Lisbon, Bồ Đào Nha ngày 22 tháng 7 năm 1619 và được mai táng tại nghĩa trang của Dòng thánh Clare nghèo khó ở Villafranca.

Đức Giáo Hoàng Pius VI đã tôn phong Chân Phước cho ngài năm 1783 và Đức Giáo Hoàng Leone XIII đã nâng ngài lên hàng hiển thánh ngày 08 tháng 12 năm 1881. Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII tuyên xưng ngài là Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 19 tháng 3 năm 1959 với tước hiệu “doctor apostolicus – tiến sĩ tông đồ”.

(Trích Gương Thánh Nhân – ns Người Tín Hữu online & Nhóm Tinh Thần nhuận chính lại theo Patron Saint và Santi-Beati-Testimoni)

Thánh Lawrence ở Brindisi, cầu cho chúng con.

Thánh Bonaventura (1221-1274) – Cha Vương

 Thánh Bonaventura (1221-1274)

Thân chào bình an đến Bạn và gia đình nhé. Hôm nay 15/7, Giáo hội mừng kính Thánh Bonaventura (1221-1274), Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh. Mừng Bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy.

Cha Vương 

Thứ 6: 15/7/2022

Thánh Bonaventura sinh tại Bagnorea miền Toscane năm 1221. Ngài trải qua thời niên thiếu tại dòng thánh Phanxicô Khó Khăn thành Assise (1243). Dưới sự hướng dẫn của Alexandre de Hales, ngài theo học văn chương và cũng thâu lượm nhiều kiến thức khoa học. Bảy năm sau, ngài cho xuất bản cuốn sách nổi tiếng “Commentaire sur les 4 livres des sentences” và nhiều sách có giá trị khác.

Ngài có lòng dịu hiền tột bậc, lòng khiêm nhường sâu xa và lòng mộ mến cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Năm 35 tuổi, ngài được bầu làm Bề Trên của dòng Phanxicô (1257). Với trọng trách nặng nề này, ngài được mọi người biết đến, không những vì học thuyết và sự thánh thiện nhưng còn vì sự thông minh và khôn khéo của ngài nữa. Chính vì vậy, năm 1273, Ðức Giáo Hoàng Grêgoriô X đặt ngài làm Hồng Y coi địa phận Albanô. Ngài đã viết nhiều tác phẩm thần học rất có giá trị và sau cùng ngài chết tại Lyon (1274), hưởng thọ 53 tuổi.

Ðức Giáo Hoàng Sixtô IV nâng ngài lên bậc Hiển Thánh năm 1482 và Ðức Giáo Hoàng Sixtô V đặt ngài làm Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1588, vì ngài là cột trụ chống đỡ Giáo Hội, lưu tâm đến vấn đề hiệp nhất Hy Lạp và La Mã, đồng thời duy trì và củng cố dòng Phanxicô được lớn mạnh, vững vàng. (Nguồn: Nhóm Châu Kiên Long, Ðà Lạt, Vietnamese Missionaries in Asia)

Sau đây là những câu nói của Thánh Bonaventura:

(1) Vinh quang và danh dự chỉ dâng lên Thiên Chúa.

(2) Tất cả của Mẹ là của con và tất cả của con là của Mẹ.

(3) Hỡi linh hồn các tính hữu, anh chị em muốn chứng tỏ tình yêu thật đối với người đã qua đời không? Anh chị em muốn gửi cho họ món quà trợ giúp quý nhất và chìa khoá mở cửa Thiên đàng không? Hãy năng rước lễ cho các linh hồn được an nghỉ.

(4) Nếu ta kính chào Mẹ bằng kinh Kính Mừng thì Mẹ sẽ đáp lại ta bằng muôn ơn phúc.

(5) Thiên Chúa có thể tạo dựng một thế giới khác tốt đẹp hơn, nhưng không thể tạo dựng một người mẹ khác hoàn hảo hơn Mẹ Thiên Chúa được.

(6) Hạnh phúc cho những ai hiến dâng tâm hồn mình cho Mẹ! Hạnh phúc cho những ai thiết tình phụng sự Mẹ!

(7) Ôi tình thương lạ lùng của Chúa! Muốn một ngày kia khỏi phải tuyên án tống giam chúng con vào ngục tuyệt vọng đời đời, Chúa đã ban Mẹ là Mẹ Chúa, là Chủ tối cao kho tàng ân sủng, làm Trạng sư bầu chữa chúng con.

Câu nào đánh động Bạn nhất? Đối với mình thì câu số 3 và 4.

From: Đỗ Dzũng

Thánh Maria Goretti (1890-1902) – Cha Vương

Thánh Maria Goretti (1890-1902)

Chúc bạn và gia đình một ngày an lành! Hôm nay 06/7, Giáo Hội mừng kính Thánh Maria Goretti, mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm bổn mạng, xin cầu nguyện cho giới trẻ trong thời đại ngày nay nhé.

Cha Vương

Thánh Maria Goretti (1890-1902) sống ở trần thế có 12 năm, nhưng câu chuyện cuộc đời của thánh nữ đã xúc động biết bao tâm hồn. Maria Goretti sinh ngày 16 tháng 10 năm 1890 tại Corinaldo, Ancona, Ý Đại Lợi. Là con gái của ông Luigi Goretti và bà Assunta Carlini, một gia đình nghèo người Ý, ông Luigi Goretti chết sớm, chỉ còn người vợ tần tảo nuôi 6 con. Maria không có cơ hội để đi học, do đó cũng không biết đọc và biết viết. Khi rước lễ lần đầu, cô là một thiếu nữ to con so với cả lớp.

Trong buổi trưa hè oi ả vào tháng Bảy, Maria một mình ngồi may vá trên các bậc thang trong căn nhà lụp xụp. Lúc ấy, cô chưa đến 12 tuổi, nhưng thân thể cô đã phát triển. Một chiếc xe bò dừng ở bên ngoài, và người thanh niên hàng xóm là Alessandro Serenelli, 18 tuổi, chạy vào nhà, bước vội lên cầu thang. Hắn tấn công Maria và lôi cô vào phòng ngủ để hãm hiếp. Cô kháng cự và kêu cứu, trong hơi thở dồn dập cô cho biết thà chết còn hơn phạm tội. “Ðó là tội lỗi. Chúa không muốn như vậy. Anh sẽ xuống hỏa ngục vì tội này.” Như một con thú điên, Alessandro rút dao đâm túi bụi vào người Maria. Trong khi nằm ở bệnh viện, Maria đã tha thứ cho Alessandro trước khi qua đời ngày 06 tháng 7 năm 1902.

Kẻ sát nhân bị án tù 30 năm. Trong một thời gian dài, hắn vẫn không ăn năn sám hối và hay bực tức. Một đêm kia hắn mơ thấy Maria, tay cầm một bông hoa và trao cho hắn. Kể từ đó, cuộc đời Alessandro thay đổi. Sau khi được trả tự do, hành động đầu tiên của Alessandro là đến xin người mẹ của Maria tha thứ cho mình.

Câu chuyện của Maria Goretti ngày càng lan rộng và lòng sùng mộ vị tử đạo trẻ tuổi ngày càng gia tăng, nhiều phép lạ đã được ghi nhận và chưa đầy nửa thế kỷ, Maria Goretti đã được tuyên xưng á thánh. Trong buổi lễ tôn phong chân phước ngày 27 tháng 4 năm 1947, mẹ của Maria Goretti (lúc ấy 82 tuổi), hai cô em gái và một em trai cùng xuất hiện với Ðức Giáo Hoàng Pius XII ở bao lơn Công Trường Thánh Phêrô.

Ba năm sau, vào ngày 24 tháng 6 năm 1950, Ðức Giáo Hoàng Pius XII đã nâng Maria Goretti lên hàng hiển thánh. Trong đám đông khoảng 500,000 người tham dự lễ phong thánh có Alessandro Serenelli, lúc ấy đã 66 tuổi, đang quỳ gối với hai hàng nước mắt sung sướng lăn dài trên gò má.

   Thánh tích Thánh Maria Goretti: Thánh Maria Goretti được coi là vị tử đạo vì ngài đã chiến đấu chống trả hành động bạo lực của Alessandro. Tuy nhiên, khía cạnh quan trọng nhất của thánh nữ là sự tha thứ cho kẻ xúc phạm, mà ngài vẫn lưu tâm đến kẻ thù ngay cả sau khi chết. Thánh Maria Goretti được đặt làm quan thầy giới trẻ và các nạn nhân bị hãm hiếp. (Trích “Gương Thánh Nhân” – ns Người Tín Hữu Online & Nhóm Tinh Thần nhuận chính lại theo Patron Saints, Vatican Saints và Santi-Beati-Testimoni)

Sau đây là Lời Kinh Đức Thánh Cha Gioan Phaolo 2 dâng lên thánh nữ Maria Goretti: Hỡi Cô Bé của Thiên Chúa, Bé đã sớm biết thế nào là khổ cực, nhọc mệt, đau thương cùng những niềm vui ngắn ngủi của cuộc sống. Bé từng biết thế nào là nghèo đói và mồ côi. Bé đã không ngừng yêu mến tha nhân, tự làm người hầu hạ khiêm tốn và ân cần. Bé sống tốt lành, không khoe khoang, và đã yêu mến Tình Yêu trên mọi sự. Bé đã đổ máu đào để khỏi phản bội Thiên Chúa. Bé đã tha thứ cho người đã giết Bé và cầu mong hạnh phúc Thiên Đàng cho anh ta. Xin Bé hãy bầu cử và cầu nguyện cho chúng tôi bên tòa Thiên Chúa Cha, hầu chúng tôi cũng biết thưa vâng đối với chương trình Thiên Chúa định liệu trên chúng tôi. Hỡi Đấng là Bạn Hữu của Thiên Chúa, đang chiêm ngưỡng Chúa mặt giáp mặt, xin hãy khẩn cầu cùng Chúa ban cho chúng tôi ơn xin cùng ngài… (thêm vào ý chỉ cầu nguyện) Chúng tôi cảm tạ ngài, hỡi Marietta, vì tình yêu ngài dành cho Thiên Chúa và cho anh chị em đồng loại, mà ngài đã gieo vãi trong lòng chúng tôi. Amen.

Lạy Thánh Nữ Maria Goretti, xin cầu nguyện cho chúng con!

Thánh Germaine Cousin (1579-1601)

15 Tháng Sáu

Thánh Germaine Cousin (1579-1601)

Thánh Germaine là một thiếu nữ quê mùa ở làng Pibrac, gần Toulouse. ✝️Vì mẹ mất sớm nên ngài phải lớn lên trong hoàn cảnh đau khổ vì bị người cha ghét bỏ và người mẹ ghẻ thật tàn nhẫn. Vì không muốn Germaine chung đụng với con riêng của mình, bà mẹ ghẻ bắt Germaine phải ngủ trong chuồng súc vật hoặc dưới gầm cầu thang, lúc nào cũng phải làm việc trong khi ăn uống rất kham khổ. ✝️Ngay khi chín tuổi, Germaine đã phải đi chăn cừu. Bất kể những  lao nhọc và bất công trong đời sống, Germaine vui lòng chấp nhận mọi sỉ nhục. Cô thích đi chăn cừu, vì đó là cơ hội để cầu nguyện và truyện trò với Thiên Chúa.

✝️ Germaine rất đạo đức và siêng năng tham dự Thánh Lễ. Mỗi sáng nghe chuông đổ, dù đang chăn cừu, cô vội vã cắm cây gậy xuống đất và chạy đến nhà thờ, phó thác đàn cừu cho sự chăm sóc của các thiên thần. Chưa bao giờ đàn cừu bị nguy hại vì sói rừng khi vắng mặt cô, dù ở cạnh khu rừng.cây gậy xuống đất và chạy đến nhà thờ, phó thác đàn cừu cho sự chăm sóc của các thiên thần. Chưa bao giờ đàn cừu bị nguy hại vì sói rừng khi vắng mặt cô, dù ở cạnh khu rừng. Người ta kể rằng, có lần cô đã đi trên mặt nước, chạy băng qua sông để kịp dự lễ. Germaine quá nghèo để có thể chia sẻ vật chất cho người khác. Nhưng tình yêu tha nhân của cô luôn luôn được thể hiện qua sự giúp đỡ bất cứ ai cần đến cô, và nhất là các trẻ em trong làng, là những người được cô dạy họ biết kính sợ Thiên Chúa.Có lần vào mùa đông, bà mẹ ghẻ nghi ngờ cô giấu miếng bánh trong vạt áo, nhưng khi mở ra bà chỉ thấy những bông hoa thật đẹp của mùa hè rơi xuống. Gd bắt đầu nhận ra sự thánh thiện của cô và mời cô vào sống ở trong nhà, nhưng Germaine xin được tiếp tục cuộc sống như trước.Năm cô 22 tuổi, người ta tìm thấy cô nằm chết trên đống rơm dưới gầm cầu thang. Thi hài của cô được chôn trong nhà thờ ở Pibrac.

🔶Bốn mươi ba năm sau, khi tân trang nhà thờ, các người thợ vô tình khai quật mộ của cô và người ta tìm thấy mộ của cô và người ta tìm thấy xác …

 From: NguyenNThu

Thánh Antôn Padua (1195-1231) – Cha Vương 

Thánh Antôn Padua (1195-1231)

Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé, hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh An-tôn, mừng bổn mạng đến những ai nhận thánh Antôn làm quan thầy.

Cha Vương 

 Thứ 2: 13/06/2022

TIN MỪNG: Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. (Roma 12:1)

SUY NIỆM: Thánh Antôn Padua (1195-1231) người Bồ Đào Nha và là tu sĩ Dòng Phanxicô. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có ở Lisboa, Bồ Đào Nha nhưng mất tại Padua, Ý. Với kiến thức chuyên sâu về Kinh Thánh, ông đã rao giảng mạnh mẽ về đức tin Kitô giáo cho người khác, chính vì thế, ông được phong thánh rất sớm sau khi qua đời và được Giáo hội Công giáo Rôma phong làm tiến sĩ Hội thánh vào ngày 16 tháng 1 năm 1946. Antôn là một người người làm việc không biết mệt mỏi. Ông thường được nhiều người ta gán cho tên “Hòm Bia giao ước” hoặc “Cái búa của bọn lạc giáo”. Người ta thường gọi thánh Antôn Padua là “ông thánh hay làm phép lạ”. Tuy ngay lúc sinh thời Ngài đã làm rất nhiều phép lạ, nhưng Ngài một mực hạ mình khiêm nhu. Chính sự khiêm nhượng cùng với lòng mến Chúa yêu Ðức Mẹ say mê và thương người tha thiết của Ngài đã làm nên nhiều phép lạ…

Tại thành Tulu, nước Pháp, thầy Antôn tranh luận với nhóm rối đạo về mầu nhiệm Chúa Giêsu ngự thật trong Thánh Thể. Sau khi nghe thầy trình bày những luận cứ vững vàng, thì một người rối đạo nói:

– “Đã hay lời Chúa Giêsu thì rõ ràng lắm, song nếu con mắt tôi không tỏ tường, thì tôi không tin”.

Thầy Antôn liền hỏi:

– Vậy anh muốn tôi làm phép lạ nào?

– Tôi có một con ngựa. Ngày thứ bốn tôi sẽ dắt ra đây cùng một bó cỏ non. Còn thầy, thầy sẽ đưa Thánh Thể ra trước mặt nó. Nếu nó bỏ cỏ không ăn mà quỳ lạy Thánh Thể, thì tôi sẽ tin có Chúa Giêsu ngự thật trong đó.

Thầy Antôn nhận cuộc, rồi quay về tu viện ăn chay, cầu nguyện ba ngày ba đêm.

Đến ngày hẹn, từ sáng sớm, dân chúng đã tuôn đến đầy chợ. Ông chủ dắt ngựa đi trước, đầy tớ đội cỏ theo sau. Đồng thời, thầy Antôn cũng kiệu Mình Thánh Chúa đến và nói lớn: “Hỡi con vật vô tri, nhân danh Chúa Giêsu đã dựng nên mi, và đang ngự trước mặt mi, ta truyền cho mi phải quỳ gối thờ lạy Chúa, để thiên hạ biết rằng vạn vật trên trời, dưới đất phải thờ lạy Ngài”.

Đang khi thầy nói, thì đầy tớ vâng lời chủ vội đem sọt cỏ đặt ngay trước mõm ngựa, nhưng nó chẳng thèm để ý tới: chỉ vội vàng quỳ hai chân trước xuống thờ lạy Chúa; dù tên đầy tớ ra sức ấn cỏ vào mồm, nhưng ngựa vẫn không thèm ăn, cứ quỳ yên cho đến khi thầy Antôn kiệu Mình Thánh Chúa về mới đứng lên ăn. Phần người rối đạo nói trên cùng cả dòng họ thì đã trở lại đạo thật và sống đạo nên gương. Ông lại còn bỏ tiền của xây một đền thờ tôn kính thánh Phêrô tại thành Tulu, đến nay hãy còn.

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, vì lời cầu bầu của thánh Antôn, xin nâng đỡ chúng con, vì chúng con yếu đuối và bé mọn, trong cơn đau đớn phần hồn và xác,… (thinh lặng nói lên ý cầu xin) xin giúp chúng con trung thành với Chúa đến cùng. Lạy thánh Antôn hay làm phép lạ, cầu cho chúng con.

LẮNG NGHE: Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, vì có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh. (1 Phêrô 2:15-16)

THỰC HÀNH: Trong tuần này, thay vì chỉ đi lễ ngày Chủ Nhật,  Bạn hãy sắp xếp dành thời gian đi lễ ngày thường nữa. Nếu không thể được thì Bạn vào nhà thờ viếng Chúa 5/10 phút trước khi về nhà. Hay tâm sự với Chúa và để những khó khăn nơi công sở dưới chân Ngài thì Bạn về nhà sẽ được bình an hơn.

From: Đỗ Dzũng