Thánh Blase (Biagio)

Thánh Blase (Biagio)

 Trong tâm tình của ngày mùng 3 Tết là ngày cầu xin Chúa thánh hoá công ăn việc làm. Chúc Tết! Chúc Tết! Mời bạn hãy dâng lên Chúa tất cả những công việc sẽ làm trong năm mới này, cùng với những lao nhọc cực khổ bạn sẽ gặp.

* Xin Chúa giúp bạn có việc làm để nuôi sống bản thân và gia đình.

* Xin Chúa giúp bạn cảm thấy hạnh phúc trong công việc của mình.

* Xin Chúa mở rộng con tim của bạn để bạn biết chia sẻ cho những người túng thiếu.

* Nhất là, xin Chúa giúp bạn được nên thánh trong công việc hằng ngày—bằng cách khi làm việc, bạn không quên Chúa, nhưng luôn nhớ đến Chúa và cậy nhờ vào Ngài.

Cha Vương

Thứ 5: 03/02/2022

Hôm nay cũng là ngày Giáo hội mừng kính Thánh Blase (Biagio), mời Bạn suy niệm về đời sống nhân đức của Ngài nhé.

Chúng ta biết nhiều về sự sùng kính của Kitô Hữu đối với Thánh Blase hơn là tiểu sử của ngài. Trong Giáo Hội Ðông Phương, ngày lễ kính ngài được coi là một ngày lễ lớn. Công Ðồng Oxford, vào năm 1222 đã cấm làm việc xác trong ngày lễ Thánh Blase (hay còn gọi là Thánh Biagio). Người Ðức và người Ðông  Âu rất kính trọng thánh nhân, và trong nhiều thập niên, người Công Giáo Hoa Kỳ thường chạy đến với thánh nhân để xin chữa bệnh đau cổ họng.

Chúng ta được biết Ðức giám mục Blase chịu tử đạo năm 316 ngay trong giáo phận của ngài ở Sebaste, Armenia. Mãi cho đến 400 năm sau mới có huyền thoại viết về ngài. Theo đó, Thánh Blase là một giám mục tốt lành, làm việc vất vả để khuyến khích giáo dân sống lành mạnh về tinh thần cũng như thể xác.

Mặc dầu chỉ dụ Toleration, năm 311, đã cho phép tự do tôn giáo ở Ðế Quốc Rôma hơn năm năm, nhưng ở Armenia, việc bách hại vẫn còn dữ dội. Hiển nhiên là Thánh Blase buộc phải rời bỏ giáo phận và sống trong rừng núi. Ở đó ngài sống trong cô độc và cầu nguyện, làm bạn với thú rừng.

Một ngày kia, có nhóm thợ săn đi tìm thú dữ để dùng trong đấu trường và tình cờ họ đã thấy hang động của Thánh Blase. Từ kinh ngạc cho đến sợ hãi, họ thấy vị giám mục đi lại giữa đám thú dữ một cách điềm tĩnh để chữa bệnh cho chúng. Nhận ra ngài là giám mục, họ bắt ngài về để xét xử. Trên đường đi, ngài ra lệnh cho một con sói phải thả con heo nó đang cắn giữ vì đó là của người đàn bà nghèo. Khi Thánh Blase bị giam trong tù và bị bỏ đói, người đàn bà này đã đền ơn ngài bằng cách lẻn vào tù cung cấp thức ăn cho thánh nhân.

Ngoài ra, truyền thuyết còn kể rằng, một bà mẹ có đứa con trai bị hóc xương đã chạy đến ngài xin cứu giúp. Và sau lời truyền của Thánh Blase, đứa bé đã khạc được chiếc xương ra khỏi cổ.

Agricolaus, Thủ Hiến xứ Cappadocia, tìm mọi cách để dụ dỗ Thánh Blase bỏ đạo mà thờ tà thần. Lần đầu tiên từ chối, ngài bị đánh đập. Lần kế tiếp, ngài bị treo trên cây và bị tra tấn bằng chiếc lược sắt cào vào thân thể. Sau cùng ngài bị chém đầu năm 316. Người được tôn kính như quan thầy các thợ chải len, những người bị đau cuống họng. (Nguồn: Người Tín Hữu online)

Sau đây là Kinh cầu Thánh Blase được dùng để khẩn cầu cho những ai mang bệnh của cổ họng: “Qua lời cầu bầu của Thánh Blase, là giám mục và là vị tử đạo, xin Thiên Chúa chữa con khỏi bệnh tật của cổ họng và khỏi mọi sự dữ. Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần” (Kinh cầu Thánh Blase). Xin Thánh Blase, cầu cho chúng con!

From: Đỗ Dzũng

Thánh Gio-an Bốt-cô (1815 – 1888), linh mục

Thánh Gio-an Bốt-cô (1815 – 1888), linh mục

Hôm nay 31/01 Giáo Hội mừng kính Thánh Gio-an Bốt-cô (1815 – 1888), linh mục. Mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé. Ước mong bạn một ngày thật tốt lành để chuẩn bị đón Chúa Xuân, hãy bỏ qua những chuyện bất an nhọc nhằn của con Trâu để đón lấy tính quyền uy, mạnh mẽ, nhanh nhẹn và đầy bản lĩnh của con Cọp mà sống một Năm Mới thánh thiện hơn năm cũ nhé.

Cha Vương

Thánh Gio-an Bốt-cô (John Bosco) chào đời năm 1815 tại Cát-ten-nô-vô, giáo phận Tô-ri-nô, Gio-an đã trải qua thời thơ ấu trong hoàn cảnh khó khăn, vì thế khi làm linh mục, người dấn thân lo việc giáo dục thanh thiếu niên. Người lập dòng các tu sĩ Sa-lê-diêng và dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu để huấn luyện thanh thiếu niên về nghề nghiệp và đời sống đạo. Người qua đời năm 1888. Ngài qua đi nhưng hình ảnh của người cha hiền còn sống mãi trong lòng nhân thế. Lòng nhiệt thành và từ tâm của Ngài đối với bầy trẻ côi cút phải là bài học sáng ngời soi dẫn tâm hồn con người trong muôn thế hệ. Sau đây là những bài học quý giá mà ngài để lại cho Giáo Hội. Bài học này do Lm. Giuse Đinh Tất Quý viết và được đăng trên mạng TGPSG:

  1. Bài học đầu tiên đó là việc quan tâm đến việc giáo dục các trẻ em mồ côi và những trẻ “bụi đời”. Đây là lời khuyên cho những ai làm công tác giáo dục: “Hãy coi những trẻ em dưới quyền ta như con cái. Hãy đặt mình xuống phục vụ chúng, như Đức Giêsu đã đến không phải để chỉ huy, nhưng để phục vụ; hãy sợ cái gì có vẻ muốn điều khiển, và hãy điều khiển chỉ vì muốn phục vụ đắc lực hơn mà thôi. Đức Giêsu đã xử như thế với các tông đồ. Người chịu đựng sự dốt nát, tính cứng cỏi và cả đến lòng kém tin của họ. Người tiếp đón tội nhân cách tử tế và thân mật đến nỗi lắm kẻ ngạc nhiên, lắm kẻ khó chịu, nhưng lại khiến nhiều người hy vọng được ơn tha thứ. Chính vì vậy, Người đã bảo ta học cùng Người mà ở hiền lành và khiêm nhượng trong lòng . Lòng ta đừng rối lên, đừng khinh bỉ nhìn ai và đừng nói lời nguyền rủa bao giờ. Hãy có lòng nhân từ đối với hiện tại, hy vọng đối với tương lai: như vậy, các con sẽ thực sự là những người cha của tuổi trẻ và thực sự chu toàn được phận sự giáo dục”.
  2. Bài học 2 là lòng yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể: Thánh Don Bosco có lòng yêu mến phép Thánh Thể nồng nàn. Hằng ngày ngài dành nhiều thời giờ để viếng Chúa, cả khi tuổi đã già, sức đã yếu ngài vẫn giữ nguyên thói quen ấy. Chân ngài bị đau nên ngài phải cố gắng lắm mới qùy được. Ngài rất sốt sắng cầu nguyện. Mặt ngài lúc bấy giờ sáng láng như một thiên thần. Mỗi lần đi qua nhà thờ, ngài đều giở mũ ra chào. Ngài khuyên các linh mục nên đọc kinh thần tụng trước Thánh Thể. Ngài luôn cổ vũ các thanh thiếu niên mến mộ Mình Thánh Chúa. Ngài nói:

❦  Nếu bạn muốn Chúa ban cho bạn nhiều ân sủng, hãy năng đến viếng Thánh Thể.

❦  Nếu muốn ma quỉ xa lánh, bạn hãy siêng viếng Chúa.

❦  Nếu muốn chiến thắng ma quỷ, hãy trú ngụ dưới chân Chúa Giêsu.

❦  Không yêu mến việc viếng Chúa, ấy là dấu chỉ sẽ thua ma qủy.

❦  Bạn thân mến, siêng năng viếng Thánh Thể là một phương thế hữu hiệu để chiến thắng ma quỷ.

❦  Hãy cố gắng siêng năng viếng Chúa Thánh Thể và ma qủy không thể chiến thắng bạn được.

  1. Bài học cuối cùng là lòng sùng kính Đức Mẹ: Năm 1862, Chúa cho Don Bosco thấy một thị kiến. Ngài trông thấy chiếc thuyền của Thánh Phêrô bị nhiều tàu bè của địch đe dọa trên biển cả. Khi trận chiến đến hồi ác liệt Ngài thấy có hai trụ cột hiện ra. Một trụ thứ nhất có hình phép Thánh Thể và dòng chữ “Salus Credentium” (sự cứu rỗi các kẻ tin). Còn trụ kia thì có hình Đức Mẹ Maria và dòng chữ “Auxilium Christianorum” (Đấng phù hộ người công giáo). Ánh sáng tỏa ra từ hai trụ cột ấy làm cho binh lính Đức Giáo Hoàng thêm sức mạnh, niềm tin và làm cho quân thù phải kiếp sợ. Tàu thuyền quân địch chạy nhốn nháo, hỗn độn, bị chìm hoặc phải chạy đi nơi khác. Có hai thứ tình yêu- yêu Chúa trong phép Thánh Thể và yêu mến Đức Bà- là bảo chứng của mọi vị thánh. Đó là những Đấng phù hộ chính của Giáo Hội công giáo, là ánh sáng trong đại dương cuộc đời, là ngọn đèn soi chiếu con đường đi của người tín hữu, và làm mù mắt những kẻ chống đối Giáo hội.

Coi vẻ cuộc sống của Thánh Gio-an Bốt-cô cũng chứa đựng tính quyền uy, mạnh mẽ, nhanh nhẹn và đầy bản lĩnh của con Cọp năm nay đấy. Để kính nhớ Ngài, mời bạn hãy đưa áp dụng 3 bài học được nêu trên vào cuộc sống hằng ngày của mình để sống đúng với ơn gọi làm con Chúa của mình nhé.

Thánh Tôma Aquinô (1225-1274), Tiến Sĩ Hội Thánh

Thánh Tôma Aquinô (1225-1274), Tiến Sĩ Hội Thánh

Chúc bình an! Hôm nay ngày 28/01, Giáo hội mừng kính Thánh Tôma Aquinô (1225-1274), Tiến Sĩ Hội Thánh. Mừng quan thầy đến những ai chọn Thánh Tôma làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Mọi người đều đồng ý rằng Thánh Tôma Aquinô  là tiếng nói trổi vượt của truyền thống Công Giáo về lý lẽ và về sự mặc khải của Thiên Chúa. Ngài là một bậc thầy vĩ đại của Giáo Hội Công Giáo thời trung cổ, và được vinh danh với tước vị Tiến Sĩ Hội Thánh và Tiến Sĩ Thiên Thần.

Sinh hạ năm 1225 trong một gia đình quí phái ở Roccasecca gần Aquinô trong vương quốc Napples. Lúc năm tuổi, ngài được cha mẹ cho vào tu viện Biển Ðức ở Monte Cassino với hy vọng ngài sẽ thích lối sống ấy và trở nên một tu viện trưởng. Trong tu viện, các thầy giáo đều ngạc nhiên về sự tiến bộ của ngài, và mọi bạn cùng lớp đều thua kém ngài về việc học cũng như việc trau dồi nhân đức.

Khi đến tuổi khôn được lựa chọn con đường cho chính mình, Thánh Tôma đã khước từ mọi sự của thế gian và quyết tâm chọn Dòng Ða Minh trái với ý định của cha mẹ. Năm 1239, lúc mười bảy tuổi, ngài gia nhập Dòng Ða Minh ở Naples. Theo lệnh của bà mẹ, ngài bị các anh em bắt cóc và giam ở nhà trên một năm trời. Gia đình còn đi xa hơn nữa bằng cách dùng một cô gái điếm đến dụ dỗ ngài. Nhưng tất cả mọi cố gắng đều vô hiệu, Thánh Tôma vẫn kiên trì với ơn gọi. Như một phần thưởng cho sự trung tín này, Thiên Chúa đã ban cho ngài ơn thanh sạch tuyệt đối, mà nhờ đó ngài xứng đáng được tước vị là “Tiến Sĩ Thiên Thần.”

Sau khi tuyên khấn ở Naples, ngài theo học ở Cologne với vị thầy nổi tiếng là Thánh Albert Cả. Ở đây ngài có biệt danh là “bò câm”, vì ngài to con và thường im lặng, nhưng thực sự ngài là một người rất giỏi. Vào năm hai mươi hai tuổi, ngài được bổ nhiệm để dạy học tại hai thành phố. Ðồng thời ngài cũng bắt đầu công bố các sáng tác của ngài. Bốn năm sau, ngài được gửi đến Balê. Vào năm ba mươi mốt tuổi, ngài đậu bằng tiến sĩ.

Ở Balê, ngài được vinh dự làm bạn với Vua Louis (sau này được phong thánh). Năm 1261, Ðức Urbanô IV gọi ngài về Rôma để dạy học, và ngài nhất quyết từ chối mọi vinh dự của một chức sắc trong giáo hội. Không những Thánh Tôma có tài viết, mà ngài còn có tài giảng thuyết với nhiều kết quả tốt đẹp.

Sự đóng góp lớn lao của ngài cho Giáo Hội Công Giáo là các trước tác. Sự đồng nhất, sự hài hòa và sự liên tục của đức tin và lý lẽ, của mặc khải và khiến thức loài người, được thấy đầy dẫy trong các văn bản của ngài.

Tập “Summa Theologica” là công trình sau cùng của ngài, nhưng không may chưa được hoàn tất, đề cập đến toàn thể thần học Công Giáo. Ngài ngưng sáng tác sau khi cử hành Thánh Lễ vào ngày 6 tháng Mười Hai, 1273. Ðược hỏi lý do, ngài trả lời, “Tôi không thể tiếp tục… Tất cả những gì tôi viết, đối với tôi dường như chỉ là cọng rơm so với những gì tôi được thấy và những gì tôi được mặc khải.” Ngài từ trần ngày 07 tháng 3 năm 1274 tại Fossanuova gần Terracina và được chôn cất tại nhà thờ Saint Servin, Toulouse, nước Pháp; thánh tích được chuyển về nhà thờ thánh Jacobins, Toulouse ngày 22 tháng 10 năm 1274

Thánh Tôma Aquinô là một trong những thần học gia vĩ đại và ảnh hưởng đến mọi thời đại.  Ngài được Đức Giáo Hoàng Joannes XXII phong thánh ngày 18 tháng 7 năm 1323 tại Avignon, nước Pháp và được Ðức Giáo Hoàng Pius V tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 11 tháng 4 năm 1567. Đức Giáo Hoàng Leo XIII đặt Ngài làm quan thầy các trường và các đại học Công Giáo ngày 04 tháng 8 năm 1880. Lễ kính thánh nhân được cử hành vào ngày 28 tháng 01 hàng năm là ngày kỷ niệm cải táng thay vì ngày 07 tháng 3 là ngày kỷ niệm qua đời. (Nguồn: Người Tín Hữu online)

Sau đây là những câu nói và lời khuyên của Thánh Nhân:

❦ Yêu mến Chúa thì cao trọng hơn nhận biết Ngài.

❦ Không có hy sinh nào giải cứu linh hồn Luyện ngục bằng hy sinh của Thánh lễ Misa.

❦ Chỉ cần chạm một cái rất nhẹ, rất mong manh vào lửa Luyện ngục thì còn rùng rợn hơn tất cả những cực hình đau đớn chết người trên trái đất này.

❦ Đừng tọc mạch muốn biết công chuyện riêng tư của người khác.

❦ Hãy giữ lương tâm tinh tuyền.

❦ Đừng bỏ qua việc cầu nguyện.

❦ Tránh bàn tán những chuyện nhảm nhí.

❦ Hãy gắng bắt chước gương tốt của những bậc thánh hiền.

Câu nào đánh động Bạn nhất? Hãy đọc lại và dùng câu đó để làm hướng đi cho Bạn trong ngày nhé.

Thánh nhân qua đời ngày 7 tháng 3 năm 1274 tại đan viện Xitô ở Phốtxanôva. Ngày 28 tháng Giêng là ngày thi hài thánh nhân được cải táng đưa về Tuludơ năm 1369.

From: Đỗ Dzũng

Thánh An-giê-la Mê-ri-si (Angela Merici ),Trinh nữ

Thánh An-giê-la Mê-ri-si (Angela Merici ),Trinh nữ

Tạ ơn Chúa đã ban cho bạn một ngày mới để mang chữ “NHÂN” vào những mảnh đời đang đau khổ. Hôm nay Giáo Hội mừng kính thánh An-giê-la Mê-ri-si, Trinh nữ. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thánh nhân sinh ngày 21 tháng 3 năm 1474 tại Desenzano, xứ Lombardie, Ý Đại Lợi. An-giê-la mồ côi cha mẹ và ở với các anh và cậu. Vào lúc 56 tuổi, An-giê-la Mê-ri-si (Angela Merici) từ chối lời yêu cầu của Ðức Giáo Hoàng. Ngài biết Ðức Clementê VII muốn ban cho ngài một vinh dự lớn lao và một cơ hội vĩ đại để phục vụ khi đức giáo hoàng yêu cầu ngài nhận trách nhiệm lãnh đạo một dòng nữ tu chuyên về điều dưỡng. Nhưng An-giê-la biết công việc điều dưỡng không phải là điều Thiên Chúa muốn mời gọi ngài thi hành.

     Ngài mới từ Ðất Thánh trở về. Khi trên đường đến đó ngài bị bệnh nặng và bị mù. Tuy nhiên, ngài nhất quyết tiếp tục cuộc hành hương và thăm viếng các thánh địa với tất cả lòng sùng kính hơn là muốn chiêm ngưỡng bằng cặp mắt. Trên đường về ngài được chữa lành và được sáng mắt. Ðiều ấy chắc chắn đã nhắc nhở ngài rằng không thể nhắm mắt trước nhu cầu của những người chung quanh, và đừng đóng cửa lòng trước lời mời của Thiên Chúa.

     Ở khắp nơi trong thành phố, đâu đâu ngài cũng thấy các em gái nghèo nàn, không có học vấn và cũng không có tương lai. Trong thế kỷ mười lăm và mười sáu của Thánh Angela, vấn đề giáo dục phụ nữ là dành cho người giầu và cho các nữ tu. An-giê-la là người có học thức. Cha mẹ ngài chết sớm khi ngài mới mười tuổi và sau đó ngài phải sống với người chú. Ngài thực sự bối rối khi thấy chị của ngài từ trần mà không được lãnh nhận các bí tích. Trong một thị kiến ngài được đảm bảo là chị của ngài được an toàn trong bàn tay Thiên Chúa — và cũng qua thị kiến ấy ngài tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa.

     Khi chú ngài từ trần, trở về nhà ngài nhận thấy các em gái trong vùng không có một chút học vấn. Nhưng ai sẽ dạy các em? Thời ấy thật khác biệt. Phụ nữ không được phép làm nghề giáo và các cô chưa chồng thì không được tự ý đi ra ngoài — dù để phục vụ người khác. Nữ tu là các phụ nữ có kiến thức nhưng họ không được phép bước chân ra khỏi tu viện. Thời đó không có dòng nữ tu chuyên về giáo dục như ngày nay.

     Ðể giúp đỡ các em, An-giê-la nghĩ ra một phương cách mới. Ngài quy tụ một nhóm các cô thuộc dòng Ba Phanxicô, đi ra đường phố và tụ tập các em gái lại để dạy học cho các em. Các cô không có tiền cũng như không có quyền thế, họ chỉ có tấm lòng tận tụy cho việc giáo dục và cho Ðức Kitô. Sống trong chính nhà của mình, họ gặp gỡ để cầu nguyện và dạy học. Họ thành công đến nỗi An-giê-la được yêu cầu đưa sáng kiến ấy để thực hiện ở các thành phố khác, và đã làm nhiều người kinh ngạc, kể cả đức giáo hoàng.

     Mặc dù ngài từ chối đức giáo hoàng, nhưng có lẽ thỉnh cầu của đức giáo hoàng đã gợi ý cho ngài thấy rằng cần phải chính thức hóa tổ chức của ngài. Mặc dù chưa bao giờ là một nữ tu, Hội Thánh Ursula của An-giê-la là nhóm nữ tu đầu tiên hoạt động ngoài khuôn khổ nhà dòng và là dòng nữ đầu tiên chuyên lo giáo dục.

      Thánh An-giê-la Mê-ri-si từ trần ngày 27 tháng 1 năm 1540 tại Brescia, khi ngài khoảng bảy mươi tuổi. Mộ phần trở nên một nơi hành hương. Thánh tích còn tại thánh đường Thánh Afra, Brescia Ý Đại Lợi. Ngay sau khi qua đời, nữ tu Angela đã được dân chúng thành phố ca tụng như một đấng thánh. Họ đến kính viếng thi hài của chị thánh đông đảo đến độ phải hoãn lễ an táng đến 30 ngày sau.

     Thánh nữ được tôn phong Chân Phước năm 1768 do Đức Giáo Hoàng Clement XIII và đến ngày 27 tháng 5 năm 1807 Đức Giáo Hoàng Pius VII đã ghi tên thánh nữ vào sổ bộ các thánh của Giáo Hội. (Nguồn: Dòng Tên) Mời bạn suy niệm 2 câu nói của ngài hôm nay nhé:

1/ Chúng ta phải làm phúc bố thí. Đức bác ái chinh phục và lôi kéo các linh hồn đến với nhân đức.

2/ Hãy nhớ rằng ma quỷ không ngủ đâu nhưng luôn tìm đủ mọi cách để huỷ hại chúng ta.

3/ Hãy làm ngay bây giờ những gì mà bạn ao ước làm khi giờ lâm tử của bạn đến.

Câu nào đánh động bạn nhất?

Theo mình thì câu 3

Lạy Thiên Chúa nhân từ, Chúa đã cho thánh An-giê-la trinh nữ nên gương bác ái và khôn ngoan; vì lời thánh nữ cầu thay nguyện giúp, xin cho chúng con cũng noi theo Người mà trung thành tuân giữ lời Chúa dậy, và tuyên xưng đức tin trong cuộc sống hằng ngày.  (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh nữ An-giê-la Mê-ri-si).

From: Đỗ Dzũng

 Thánh Timôtêo và Thánh Titô, tông đồ

 Thánh Timôtêo và Thánh Titô, tông đồ

Chúc bình an! Hôm nay Giáo Hội mừng kính 2 vị thánh Timôtêo và thánh Titô, tông đồ, mừng quan thầy đến những ai chọn các ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Mời bạn nghe bài nhạc tân cổ, hay quá! Tình Chúa tình người nối nhịp con tim…, Gai càng nhọn lời ca càng thánh thót…

Qua Tân Ước, những gì chúng ta biết được về cuộc đời Thánh Timôtê thì giống như của một giám mục bận rộn ngày nay. Ngài được vinh dự tháp tùng Thánh Phaolô, và cả hai đều được ưu tiên rao giảng phúc âm và chịu đau khổ.

***

❦ Thánh Timôtê có cha là người Hy Lạp và mẹ là người Do Thái tên là Eunice. Là kết quả của một hôn nhân “hỗn hợp”, nên ngài bị người Do Thái coi là bất hợp pháp. Chính bà ngoại thánh nhân, bà Lois, là người đầu tiên trở lại Kitô Giáo. Sau đó, Timôtê được Thánh Phaolô rửa tội khoảng năm 47, và sau đó cùng tiếp tay với ngài trong công cuộc tông đồ. Chính ngài và Thánh Phalô cùng sáng lập Giáo Hội Côrintô. Trong 15 năm làm việc với Thánh Phaolô, Timôtê trở nên người bạn trung tín nhất của Phaolô. Ngài được Thánh Phaolô gửi đi truyền giáo — thường phải đương đầu với những xáo trộn trong các giáo đoàn mà Thánh Phaolô thành lập.

     Khi Timôtê đang ở với Phaolô thì bị bắt tại Rôma. Trong một thời gian, chính Timôtê cũng bị tù (Do Thái 13:23). Và Thánh Phaolô đã bổ nhiệm Timôtê làm đại diện cho ngài ở Êphêsô. Timôtê quá trẻ so với trách nhiệm nặng nề phải đảm trách. (“Ðừng để ai coi thường anh vì sự trẻ trung” Thánh Phaolô viết trong thư I gửi Timôtê 4:12a). Một vài đoạn khác cho chúng ta biết dường như Timôtê hay bẽn lẽn. Và một trong những câu của Thánh Phaolô thường được trích dẫn là câu viết cho Timôtê: “Ðừng chỉ uống nước lã, nhưng hãy dùng thêm chút rượu, vì anh đau dạ dày và ốm yếu luôn” (1 Tim 5:23).

❦ Thánh Titô có nét đặc biệt là người bạn thân và là môn đệ của Thánh Phaolô cũng như tiếp tay trong công cuộc truyền giáo. Ngài là người Hy Lạp, hiển nhiên xuất thân từ Antiôkia. Mặc dù ngài là dân ngoại, Thánh Phaolô đã không để ngài phải chịu cắt bì ở Giêrusalem. Titô được coi như người hòa giải, người quản đốc, người bạn rất tốt. Trong lá thư thứ hai gửi giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô cho chúng ta thấy tình bạn sâu đậm giữa ngài với Titô, và tình đồng đội giữa hai người khi rao giảng Tin Mừng: “Khi tôi đến Troas, tinh thần tôi không được khuây khỏa vì không được gặp Titô, người anh em của tôi. Do đó tôi từ giã họ và tiếp tục đến Macedonia. Ngay cả khi đến Macedonia, thể xác chúng tôi cũng chưa được yên, mà phải chịu đau khổ đủ mọi cách — xung đột bên ngoài, lo sợ bên trong. Nhưng Thiên Chúa, Ðấng an ủi những kẻ yếu hèn, đã an ủi chúng tôi bằng cách sai Ti-tô đến” (2 Côrintô 2:12a, 13; 7:5-6).

     Trong thư  gửi Titô, lúc ấy Titô được coi như quản đốc của cộng đồng Kitô Giáo trên đảo Crete, có trách nhiệm tổ chức, chấn chỉnh những lạm dụng và bổ nhiệm các giám mục phụ tá.

     Qua đời sống của Thánh Titô, chúng ta có được chút hiểu biết về đời sống Giáo Hội thời tiên khởi: hăng say trong việc tông đồ, kết hợp mật thiết với Ðức Kitô, triển nở tình bạn. Tuy nhiên, luôn luôn có những vấn đề của bản tính con người và những chi tiết không hấp dẫn chút nào trong đời sống hàng ngày: cần phải sống bác ái và kiên nhẫn trong “sự cãi cọ với người khác, lo sợ trong tâm hồn”. Qua tất cả những điều ấy, tình yêu của Ðức Kitô đã gìn giữ họ. (Nguồn: Người Tín Hữu)

From: Đỗ Dzũng

Thánh Phaolô trở lại…

 Thánh Phaolô trở lại…,

Chúc một ngày an lành mọi sự tốt đẹp trong bàn tay quan phòng của Chúa. Hôm nay 25/1 Giáo Hội mừng kính Lễ Thánh Phaolô trở lại, ta hãy xin cho được sự hoán cải trong tâm hồn. Xin một hy sinh nhỏ để cầu nguyện cho những người tội lỗi được ăn năn trở lại.

Cha Vương

Toàn thể cuộc đời của Thánh Phaolô có thể nói hệ tại ở một biến cố — ngài được gặp Ðức Giêsu trên đường đi Damascus. Ngay khoảng khắc đó, mọi sự hăng say của một người nhiệt huyết như ngài đều trở nên vô ích, như quả đấm ngàn cân của một tay quyền anh bị hụt hẫng. Có lẽ ngài chưa bao giờ được gặp Ðức Giêsu, mặc dù chỉ lớn hơn Ðức Giêsu vài tuổi. 

Nhưng ngài ghét cay ghét đắng những gì Ðức Giêsu chủ trương khi ngài bắt đầu bắt bớ Giáo Hội: “đi vào từng nhà và bắt bỏ tù những người đàn ông cũng như đàn bà” (CVTÐ 8:3b). Bây giờ, chính ngài được “đi vào”, được chiếm ngự, mọi năng lực của ngài được khai thác cho một mục đích — trở nên một người nô lệ cho Ðức Kitô trong sứ vụ hòa giải, thành một khí cụ giúp người khác cảm nhận được Ðấng Cứu Thế.

Câu nói sau đã xác định lập trường đức tin của ngài: “Ta là Giêsu, người mà ngươi đang bách hại” (CVTÐ 9:5b). Một cách huyền nhiệm Ðức Giêsu đã đồng hóa với dân của Ngài – là những người mà Thánh Phaolô trước đây đã từng săn đuổi như các tội nhân. Ngài nhìn thấy nơi Ðức Giêsu, sự hoàn tất một cách huyền nhiệm những gì ngài đang theo đuổi cách mù quáng.

Từ đó trở đi, công việc của ngài là “giúp mỗi người trở nên hoàn thiện trong Ðức Ki-tô. Vì đó mà tôi phải vất vả chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi” (Colossê 1:28b-29). “Vì tin mừng được loan báo cho anh chị em không chỉ bằng lời nói, mà còn trong quyền năng và trong Thánh Thần và với niềm xác tín sâu xa (1 Thess. 1-5a).

Cuộc đời Thánh Phaolô trở nên sự rao truyền không mệt mỏi và ngài sống sứ điệp thập giá: qua sự rửa tội, người Kitô chết cho tội lỗi và được mai táng với Ðức Kitô; họ là người chết đối với những gì sai trái và không giúp đưa đến sự cứu chuộc của thế gian. Họ được tạo thành một tạo vật mới, được chia sẻ vinh quang của Ðức Kitô và một ngày nào đó họ sẽ được sống lại từ cõi chết như Người. Qua Ðức Kitô phục sinh, Thiên Chúa Cha tuôn đổ Thánh Thần trên họ, biến họ trở nên hoàn toàn mới.

Do đó thông điệp vĩ đại của Thánh Phalô cho thế giới là: Bạn đã được Thiên Chúa cứu chuộc, không do bởi bất cứ gì bạn thi hành. Ðức tin cứu độ là món quà tặng cho những ai tận hiến cho Ðức Kitô một cách tuyệt đối, tự nguyện và cá biệt, mà sự tận hiến ấy mang lại kết quả trong “công việc” nhiều hơn là những gì luật lệ mơ tưởng. (Nguồn: Người Tín Hữu)

❦  “Tình yêu thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Tình yêu tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Côrintô 13:4-7).

Lạy Chúa, xin hãy dẫn dắt con đi từ cõi chết đến sự sống, từ lầm lạc đến chân lý. Xin hãy dẫn dắt con đi từ thất vọng đến hy vọng, từ sợ hãi đến tín thác. Xin hãy dẫn dắt con đi từ ghen ghét đến yêu thương, từ chiến tranh đến hòa bình. Xin hãy đổ đầy bình an trong trái tim chúng con, trong thế giới chúng con, trong vũ trụ chúng con. (Nguồn:TGP Saigon)

From: Đỗ Dzũng

Thánh Phanxicô De Sales (Francis de Sales)

Thánh Phanxicô De Sales (Francis de Sales)

Chúc bình an! Hôm nay 24/01 Giáo Hội mừng kính Thánh Phanxicô De Sales. Mừng quan thầy đến những ai chọn Thánh Phanxicô De Sales là quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 24/01/22

Thánh Phanxicô De Sales (Francis de Sales) sinh năm 1567 trong một vùng biên giới nước Pháp, là con ông chúa vùng Boisy, một gia đình thượng lưu quyền qúy nhà Savoia. Sống giữa hai thế kỷ XVI-XVII. Thánh nhân quy tụ nơi mình cái tinh túy của các giáo huấn và các chinh phục văn hóa thời đó, bằng cách hòa giải gia tài của thuyết nhân bản với sự thúc đẩy hướng tới cái tuyệt đối của các trào lưu thần bí. Lối sống của Ngài được đặt trên nền tảng của Lời Chúa: “Hãy học cùng tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường thật.” (Mt 11:29) Vào lúc tột đỉnh của một cuộc thử thách, Phanxicô đến nhà thờ các cha dòng Đaminh ở Paris, rộng mở con tim cho Chúa và cầu nguyện như sau: ”Lạy Chúa là Đấng nắm giữ mọi sự trong tay, và các con đường của Ngài là công lý và sự thật, bất cứ sự gì xảy ra, bất cứ gì Chúa đã thiết định cho con… Chúa luôn luôn là thẩm phán công bằng và là Cha thương xót, con sẽ yêu Chúa, lạy Chúa… Con sẽ yêu Chúa ở đây và sẽ luôn luôn hy vọng nơi lòng thương xót Chúa và sẽ luôn luôn lập lại lời ca ngợi Chúa… Ôi lậy Chúa Giêsu, Chúa sẽ luôn mãi là niềm hy vọng và ơn cứu độ của con trên cõi đất của các kẻ sống” (I Proc. Canon., Vol I, art 4).

Vậy hôm nay mời Bạn hãy đọc đi đọc lại lời cầu nguyện của Thánh Phanxicô De Sales, noi gương thánh nhân để lại, và biết hết lòng phục vụ anh em, để làm chứng lòng yêu thương nhân hậu của Chúa trong mọi hoàn cảnh.

***

Phanxicô De Sales, cầu cho chúng con.

httpv://www.youtube.com/watch?v=JbzneFXgFaY

Con thuộc về Ngài – Gia Ân (phuda.net)

From: Đỗ Dzũng

Thánh Annê, trinh nữ tử đạo, Người Ý (chết khoảng 304)

Thánh Annê, trinh nữ tử đạo, Người Ý (chết khoảng 304)

Chúc bình an! Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Annê (Agnes), trinh nữ tử đạo. Mừng quan thầy đến những ai chọn Thánh nữ làm quan thầy nhé. 

Cha Vương

Thứ 6: 21/01/22

Thánh Annê, trinh nữ tử đạo, Người Ý (chết khoảng 304)

  1. Đẹp nhưng thuộc về Chúa: Agnes là con một gia đình quý phái ở Roma, sống vào thời đang bắt đạo dữ dội. Chỉ mới 12 tuổi, cô đã chọn Chúa làm người yêu duy nhất và đem hết tâm tình yêu mến Chúa.

            Tục truyền rằng Agnes rất xinh xắn, nên nhiều chàng trai muốn xin cưới, trong đó có một thanh niên ngoại giáo, con Tổng Trấn Roma xin cầu hôn. Lúc ấy ngài mới 13 tuổi.  Ngài trả lời:

            – Tôi đã kết hôn với người trên trời, đã hiến trọn trái tim cho người, sống chết tôi cũng trung thành với người. Ngài chính là Chúa Giêsu vua cả, trời đất đều đáng khâm phục.

  1. Không nao núng trước cám dỗ, không sợ chết: Chàng thanh niên theo đuổi không được, nên đem lòng ghen tức, tố cáo cô là người Công Giáo. Giữa lúc cơn bắt đạo dữ dằn, thế là thánh nữ bị bắt và bị tra tấn. Agnes nhìn những dụng cụ tra tấn cách bình tĩnh.

        Sau đó, tổng trấn cho dẫn cô tới nhà điếm để bị cám dỗ. Lạ lùng, tất cả những người đàn ông trong nhà đó trông thấy cô đều sợ hãi không dám lại gần. Một người nhìn cô với lòng ham muốn, liền bị mù ngay. Agnes cầu xin Chúa cho hắn, và hắn được khỏi mù. Tổng trấn thấy không chinh phục nổi cô bé, liền ra lệnh chém đầu. Thánh Ambrosio viết: “Agnes tiến ra pháp trường, còn vui hơn người ta đi ăn cưới”.

        Hài cốt thánh nữ đã được an táng trong biệt thự của gia đình. Năm 321 công chúa của hoàng đế Constantinô được thánh nữ chữa lành bệnh, nên đã xây nhà thờ trên mộ thánh nữ. Thánh Ambrosio đã viết:”Hôm nay là ngày sinh nhật của trinh nữ, chúng ta hãy noi gương thánh nữ, quyết giữ hồn xác thanh sạch vì lòng mến Chúa, và dù có phải gian nan bắt bớ, chúng ta cũng hãy xin ơn trung thành bền đỗ tin yêu Chúa suốt đời”.

            Người ta vẽ hình thánh nữ bế con chiên, vì tên Annê (Agnes) có nghĩa là chiên. (Nguồn: Dân Chúa)

        Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã chọn những gì thế gian cho là yếu kém để hạ nhục những gì hùng mạnh, hôm nay chúng con mừng kỷ niệm ngày thánh nữ Annê tử đạo về trời, xin cho chúng con hằng noi gương thánh nữ mà giữ vững đức tin. Chúng con cầu xin nhờ danh Chúa Kitô Chúa chúng con. (Kinh Thần Vụ)

From: Đỗ Dzũng

Thánh Xê-bát-ti-a-nô (St. Sebastian) (+263-304), tử đạo.

Thánh Xê-bát-ti-a-nô (St. Sebastian) (+263-304), tử đạo.

Đúng là thời tiết Texas rất thất thường, chỉ có ông trời mới biết thôi, hôm qua gần 80ºF hôm nay rớt xuống 40ºF có thể xuống thấp hơn nữa tối nay… Tự phòng thân, mặc đủ ấm nhé.

Cha Vương,

Hôm nay 20/01/2022 Giáo Hội mừng kính Thánh Xê-bát-ti-a-nô (St. Sebastian) (+263-304), tử đạo. Mừng quan thầy đến những ai nhận thánh Sebastian làm quan thầy nhé.

Về phương diện lịch sử, không có gì chắc chắn về Thánh Sebastian, ngoại trừ ngài là một vị tử đạo Rôma, được sùng kính ở Milan ngay trong thời của Thánh Ambrôsiô và được chôn cất ở Appian Way, có lẽ gần Ðền Thánh Sebastian ngày nay. Việc sùng kính ngài lan rộng nhanh chóng, và ngài được nhắc đến trong vài sổ tử đạo ngay từ năm 350.

Truyền thuyết về Thánh Sebastian góp phần quan trọng cho nghệ thuật, có rất nhiều tranh ảnh về thánh nhân. Chỉ có một truyền thuyết mà các học giả ngày nay đồng ý là việc thánh nhân gia nhập quân đội La Mã và được Hoàng Ðế Diocletian giao cho việc chỉ huy đội vệ binh, sau này khi Diocletian đi sang miền Ðông thì Hoàng Ðế Maximian kế vị cũng giao công việc này cho thánh nhân. 

Không một hoàng đế nào biết Thánh Sebastian là một Kitô Hữu và ngài đã bí mật giúp đỡ các vị tử đạo. Sau cùng, ngài bị bắt gặp, bị đánh đập trước mặt Hoàng Ðế Maximian và được giao cho các cung thủ của Mauritanian để hành hình. 

Thân thể ngài ghim đầy những mũi tên và bị bỏ mặc cho chết dần mòn. Nhưng khi bà quả phụ Castulus đến tìm xác ngài để đem chôn thì thấy ngài còn sống và bà đã săn sóc, giúp ngài bình phục. Sau khi khoẻ mạnh, thay vì hèn nhát trốn tránh, ngài đã đứng chờ ở chỗ hoàng đế hay đi qua và lớn tiếng lăng mạ ông vì sự tàn nhẫn đối với Kitô Hữu. Lần này thánh nhân bị kết án tử hình, và bị đánh đập bằng gậy cho đến chết. Xác người được một bà khác chôn cất tại nghĩa trang Ad Catacumbas trên đường Appienne. Một ngôi thánh đường được xây lên tại đó để kính thánh nhân. 

Người được tôn kính cùng với Thánh Giáo Hoàng Fabianô, tuy vị này chết vì đạo nửa thế kỷ trước, được mừng kính cùng một ngày. (Nguồn: (Trích Gương Thánh Nhân – ns Người Tín Hữu)

Để thể hiện sự thán phục trước ơn can đảm của thánh nhân, mời bạn hãy làm một việc hy sinh đau đau nho nhỏ hôm nay nhé.

  From: Đỗ Dzũng

Thánh An-tôn, Viện Phụ, Thế kỷ IV

Thánh An-tôn, Viện Phụ, Thế kỷ IV

Chúc bình an! Hôm nay 17/1 Giáo Hội mừng kính thánh An-tôn, Viện Phụ, Thế kỷ IV. Mời bạn đọc hành trình nên thánh của ngài nhé, lý thú lắm!

Cha Vương

Thánh Antôn chào đời năm 250 tại Corma, gần Hieraclens, miền thượng Ai cập. Cha mẹ Ngài nổi danh giàu có lẫn đạo đức, đã lo lắng dạy dỗ Ngài sống đạo ngay từ nhỏ. Khi được 18 tuổi thì cha mẹ Ngài qua đời. Sáu tháng sau ngày mất cha mất mẹ, tại một giáo đường, thánh nhân đã nghe đọc lời sách thánh: “Nếu con muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải và đem phân phát cho kẻ nghèo khó rồi theo Ta” (Mt 19,21). Tưởng như Thiên Chúa nói riêng với mình đã về bán hết của cải và đem phân phát cho người nghèo khó.

Sau khi lo lắng gửi gấm em gái của mình cho một nữ tu viện, Ngài lui vào sa mạc để làm việc và cầu nguyện, Ngài theo đuổi một cuộc sống rất khắc khổ, chỉ ăn bánh với muối và uống nước ngày một lần sau khi mặt trời lặn. Để giữ được sự cô tịch trọn vẹn, Ngài còn ẩn thân vào một ngôi mộ bỏ trống. Thỉnh thoảng một người bạn mang bánh đến cho Ngài bánh đến cho Ngài nhưng ma quỉ đã tìm cách quấy phá để trục Ngài ra khỏi “căn phòng” và cuộc sống khắc khổ, chúng thường hay la hét và hiện hình kỳ quái. Phản ứng lại, thánh nhân thường cầu nguyện nhiều hơn và tăng gấp những việc hãm mình. Giận dữ vì các mưu mô bị thất bại, ma quỉ còn công khai hành hạ Ngài nữa.

        Một ngày kia người bạn mang bánh đến, bỗng thấy thánh nhân nửa sống nửa chết, mình đầy thương tích. Nhưng khi vừa bừng tỉnh, thánh nhân liền chỗi dậy và la lớn: – Tôi còn sẵn sàng chiến đấu. Lạy Chúa, không, không gì có thể tách lìa con khỏi lòng yêu mến Chúa được. Giữa những đau đớn vì các cuộc tấn công của ma quỉ, Ngài khinh bỉ trả lời: – Ồn ào vô ích. Dấu thánh giá và lòng tin tưởng vào Chúa là những thành trì kiên cố.

    Thánh nhân luôn tin tưởng nơi Chúa. Ngày kia, được an ủi trong tâm hồn và cảm thấy là ma quỉ đã lùi bước, Ngài cầu nguyện: -Ôi, lạy Chúa, Chúa ở đâu? Sao Chúa không ở đây lau sạch nước mắt và thoa dịu những dày vò của con?

    Tiếng Chúa trả lời: – Cha ở gần con, cha giúp con chiến đấu. Bởi vì con đã chống trả lại ma quỉ, cha sẽ bảo vệ quãng đời còn lại của con. Cha sẽ làm cho tên con rạng rỡ trên trời.

        Tràn đầy nghị lực, thánh nhân chỗi dậy tạ ơn Chúa. Muốn xa mọi người hơn nữa, Ngài vượt sông Nil đến trú ngụ trong một pháo đài hoang phế đầy những rắn rết. Nhưng sự thánh thiện của Ngài như một sức nam châm, vẫn thu hút nhiều người đến xin làm môn đệ. Thế là một phong trào ẩn tu nổi lên mạnh mẽ. Sa mạc mọc lên những mái tranh, từ đó không ngừng vang lên những lời kinh ca khen Chúa. Thánh nhân trở nên vị thủ lãnh của nếp sống ẩn tu.

        Dầu vậy, thánh An tôn đã hai lần từ giã sa mạc. Vào năm 311 khi có cuộc bách hại của Alaximiô, Ngài nói: – Nào ta cùng đi chiến đấu với anh em ta.

        Ngài lên đường đi Alexandria. Người ta thấy thánh nhân khích lệ các tù nhân nơi các trại giam, theo họ tới trước quan tòa và khuyên nhủ họ can đảm chết vì đạo, Ngài còn xuống hầm trú để an ủi các linh mục. Ngài thoát chết là một điều lạ lùng.

        Cuộc bách hại chấm đứt được một năm, thánh nhân lại tìm về sa mạc. Số các môn sinh ngày càng tăng thêm đông. Sợ bị cám dỗ thành kiêu căng, và thấy gương các thánh tử đạo, thánh Antôn khao khát sống khắc khổ để đền tội. Ngài tiến sâu hơn nữa vào sa mạc. Sau ba ngày đi theo đoàn người buôn bán, Ngài dừng lại gần biển Đỏ, dưới chân núi Kolzim và dựng một căn lều vừa đủ để nằm để ở. Dân Bê-đu-anh (Bédouins) cho Ngài bánh ăn. Về sau các môn sinh tìm tới và mang cho Ngài một cái xuổng với một ít hạt giống, đây là nguồn gốc của tu viện thánh Antôn hay là Deir-el-Arat, một tu viện theo nghi lễ Cốp (Copte) ngày nay vẫn còn.

        Lần thứ hai, thánh nhân trở lại Alexandria theo lời mời của đức giám mục Athanasiô, để chống lại lạc giáo. Dân chúng cả thành chen lấn nhau đi đón Ngài. Các lương dân cũng bảo nhau : – Chúng ta đi gặp người của Thiên Chúa.

        Nhiều người cảm động vì những bài diễn thuyết và những phép lạ Ngài làm, đã xin lãnh bí tích rửa tội, người ta tưởng sẽ gặp một lão già tám mươi hoang dại, nhưng đã ngạc nhiên khi thấy Ngài rất lịch thiệp, xử dụng ngôn ngữ văn hóa và diễn tả tư tưởng rất uyên thâm. Các triết gia ngoại giáo ngạc nhiên hỏi Ngài:

– Ngài làm gì được trong sa mạc không có sách vở chi hết? Thánh nhân trả lời: Thiên nhiên đối với tôi là một cuốn sách mở rộng.

    Và người ta ngỡ ngàng về những điều thánh nhân đã khám phá được trong cuốn sách vĩ đại này của Đấng Tạo hóa.

Điều đáng kể dường như không phải những nhiệm nhặt Ngài theo đuổi, mà là tâm hồn trong trắng Ngài kết hiệp mật thiết với Chúa, Ngài nói: – Hư danh là kẻ thù nguy hiểm nhứt của chúng ta.

Danh tiếng của thánh Antôn lan rộng đến nỗi vua Constantinô và con cái ông đã viết thư tham khảo ý kiến Ngài, Môn sinh của Ngài hãnh diện lắm. Nhưng Ngài bảo họ: Đừng ngạc nhiên lắm khi thấy nhà vua là một con người viết thư cho một con người. Đáng ngạc nhiên là chính Thiên Chúa đã muốn viết luật cho loài người, và đã nói với chúng ta qua đức Giêsu Kitô.

    Và trả lời cho lớp người vương giả ấy, Ngài dùng những lời cao thượng để khuyên họ biết khinh chê danh vọng mà nhớ tới cuộc chung thẩm.

    Khi Ngài đã quá 90 tuổi, Thiên Chúa qua một thị kiến đưa ngài đến thăm thánh Phaolô ẩn tu trong sa mạc. Ngài còn được cho biết là sẽ sống tới tuổi 105.

    Biết sắp tới giờ từ giã trần gian, Ngài đi thăm anh em Ngài lần chót. Ngài nói với họ về sự chết với niềm vui của người hồi hương. Họ đã khóc ròng, nhưng Ngài khuyên nhủ họ: – Hãy sống như phải chết mỗi ngày. Hãy cố gắng noi gương các thánh.

    Thánh nhân trở lại núi với hai môn sinh. Trong căn phòng nghèo nàn của mình, Ngài đã phó linh hồn trong tay Chúa lúc 105 tuổi. Chúng ta biết được ân sủng giai thoại quý báu của đời thánh An tôn là nhờ thánh Athanasiô kể lại. (Nguồn: Mạng Vui Học Thánh Kinh)

Chết là từ bỏ cái tôi cái ích kỷ để được sống tự do với Chúa. “Hãy sống như phải chết mỗi ngày.” Mời bạn hãy cố “chết” đi một tí hôm nay nhé.

From: Đỗ Dzũng

Thánh Hi-la-ri-ô, giám mục, (315-368), tiến sĩ Hội Thánh

Thánh Hi-la-ri-ô, giám mục, (315-368), tiến sĩ Hội Thánh.

Dù bạn đang ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, nơi nào, lúc nào, chúc bạn có được một cảm thức sống động về sự hiện diện của Thiên Chúa đang nói với bạn: Ta biết con… It’s OK! Con đừng sợ, đã có Thầy đây…”

Cha Vương

Hôm nay 13/1 Giáo Hội mừng kính Thánh Hi-la-ri-ô, giám mục, (315-368), tiến sĩ Hội Thánh. Thánh Hilariô được đánh động bằng một lời Cựu Ước: “Ta là Ðấng tự hữu”. Từ khi được Chúa Thánh Thần soi sáng và tác động mạnh mẽ, thánh nhân đã quyết tâm tìm gặp Chúa và quyết đi theo Chúa.

MỘT CUỘC ÐỜI: Thánh nhân sinh tại Aquitaine nước Pháp vào năm 315 trong một gia đình thế giá và giầu có, danh tiếng. Thánh nhân đã được hấp thụ một nền giáo dục tốt và đầy đủ. Chính vì thế, Ngài đã có một đức tính cương trực, ngay thẳng và trong sạch. Thánh nhân ham mê và thích văn chương, triết lý ngay từ thuở thiếu thời. Mặc dầu ngoại giáo nhưng sự đắm chìm vào những suy tư sâu sắc, Hilariô đã sớm giác ngộ và tìm về chân lý. Ngài đã xin trở lại đạo và xin rửa tội làm con Chúa và con của Giáo Hội. Trở về với Chúa, thánh nhân đã nêu gương một đời sống thánh thiện và đạo đức. Nhờ tài ăn nói lưu loát, thánh nhân đã mau chóng trở thành chứng nhân của Chúa Giêsu. Vào năm 350, thánh nhân được chọn làm giám mục poitiers. Ngài nhiệt thành với sứ vụ mới Chúa trao. Ngài hăng say chống lại bọn lạc giáo Ariô. Ngài đã triệu tập công đồng các giám mục để ra vạ tuyệt thông cho Ursace và Valens vì bọn lạc giáo được hoàng đế Constance che chở. Tuy nhiên, bọn lạc giáo đã cấu kết với nhau để đầy Ngài qua đảo Phrygie. Dù tù tội, thánh nhân không nao núng, Ngài đã viết bộ tổng luận 12 cuốn trình bầy về Thiên Chúa Ba Ngôi để chống lại bè rối Ariô. Bốn năm tù đầy, thánh nhân luôn hướng về địa phận của Ngài và viết nhiều thư luân lưu, động viên giáo dân của Ngài giữ vững niềm tin. Hoàng đế Constance đã cho triệu tập công đồng tại Séleucide, tại đây thánh Hilariô cũng được mời tham dự. Thánh nhân với tác động của Chúa Thánh Thần đã hăng say bênh vực Hội Thánh và thuyết phục được toàn bộ các giám mục tin vào Giáo Hội, tin vào giáo lý chân chính của Chúa Giêsu và các tông đồ. Tại công đồng Séleucide, bọn lạc giáo bị thất bại chua cay, nên đã bàn với hoàng đế Constance tha cho Ngài được hồi hương. Ngày trở về địa phận của thánh nhân đã làm cho mọi người hân hoan, vui mừng Chúa đã làm một phép lạ minh chứng quyền năng của Ngài qua bàn tay của thánh nhân: một em bé đã chết chưa kịp rửa tội, được Ngài làm cho sống lại.

CHÚA THƯỞNG CÔNG THÁNH NHÂN: Mặc dầu tuổi già, sức yếu, thánh Hilariô vẫn hăng say chu toàn sứ mạng mục tử và tiếp tục viết nhiều sách rất có giá trị. Thánh nhân được Chúa gọi về ngày 13/01/369. Tại Bordeaux, các giám mục đã thỉnh cầu Ðức Thánh Cha Piô IX ban cho thánh Hilariô tước vị tiến sĩ Hội Thánh ngày 10/01/1852.

Lạy thánh Hilariô, xin cầu thay nguyện giúp cho chúng con trước tòa Chúa để chúng con luôn hăng say nhiệt thành loan báo Chúa Kitô và Tin Mừng cứu độ của Chúa. (Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)

Mời bạn đọc chậm và suy niệm Kinh Tin Kính, nhất là đến câu: “Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu Kitô là con một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi; bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà người xuống thai, sinh bởi Bà Maria Đồng Trinh…” “Như trong Kinh Tin Kính trong ngày lễ Giáng Sinh bạn quỳ gối để tôn thờ mầu nhiệm Nhập Thể này. Thiên Chúa đã trở nên xác phàm. Ngài đã trở thành thịt và máu: Ngài tự hạ mình đến nỗi trở thành như chúng ta, chịu nhục đến nỗi mang lấy những đau khổ và tội lỗi của chúng ta, và vì vậy, Ngài xin chúng ta hãy tìm kiếm Ngài, không phải bên ngoài cuộc sống và lịch sử mà trong mối tương quan với Chúa Kitô và với anh chị em. Hãy tìm kiếm Chúa trong cuộc sống, trong lịch sử, trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Và đây là con đường để gặp gỡ Thiên Chúa: là sống mối tương quan với Chúa Kitô và với anh chị em. (Lời huấn dụ của ĐTC Phanxicô)

From: Đỗ Dzũng

Thánh Andre Bessette (1845-1937)

Thánh Andre Bessette (1845-1937)

Chúc bình an, hôm nay 6/1 Giáo Hội mừng kính Thánh Andre Bessette (1845-1937). Đối với những ai đã từng đến thăm viếng Đền Thánh Giu-se ở Montréal (Quebec), Canada, thì họ không thể nào không nghe đến tên vị thánh đơn sơ nhỏ bé này. Xin thánh nhân chuyển cầu cho chúng con.

Cha Vương

Alfred Bessette sinh ngày 09 tháng 8 năm 1845 tại Québec, là con thứ tám trong một gia đình 12 anh em. Mồ côi cha mẹ sớm, Alfred phải trải qua nhiều đói khổ và bệnh tật, làm bánh mì, làm thợ giày, thợ rèn, lại mắc bệnh yếu bao tử không làm được việc nặng mà Alfred phải mang suốt đời. Ðiều làm cho anh vượt thắng là sự cậy trông vào Chúa quan phòng và Thánh Cả Giuse.

Khi Alfred Bessette đến tu hội Các Thầy Thánh Giá vào năm 1870, anh mang theo tờ giấy giới thiệu của cha xứ viết rằng, “Tôi gửi đến các thầy một vị thánh.” Thật khó để các thầy dòng ở đây tin nổi. Bệnh đau bao tử kinh niên đã khiến Alfred không thể đảm nhận được công việc nào lâu dài, ngay từ khi còn nhỏ Alfred đã lang thang từ nông trại này sang nông trại khác, tiệm này sang tiệm khác, ở ngay trên quê hương Gia Nã Ðại hoặc ở đất Hoa Kỳ, mà chỉ được có vài hôm là chủ nhân phải sa thải vì anh không thể làm được việc nặng nhọc. Công việc của các thầy dòng Thánh Giá là dạy học và dù đã 25 tuổi, Alfred vẫn chưa biết đọc biết viết. Dường như anh đến nhà dòng vì sự tuyệt vọng hơn là vì ơn gọi đi tu.

Alfred thật tuyệt vọng, nhưng anh cũng là người siêng năng cầu nguyện và rất thành tâm với Thiên Chúa cũng như sùng kính Thánh Giuse. Có lẽ anh chẳng còn nơi nào để nương tựa, nhưng anh tin rằng đây là nơi anh phải sống trong suốt cuộc đời.

Nhà dòng nhận anh vào đệ tử nhưng sau đó không lâu họ thấy đúng như những gì trong quá khứ – dù Alfred, bây giờ là Thầy Andre, rất muốn làm việc, nhưng sức khỏe không cho phép. Họ yêu cầu thầy rời nhà dòng, nhưng trong sự tuyệt vọng, thầy đã xin đức giám mục sở tại can thiệp để được ở lại và được giao cho công việc khiêm tốn là gác cổng trường học Notre Dame ở Montreal, cùng với các nhiệm vụ phụ là dọn lễ, giặt giũ và đảm trách việc thư từ. Thầy Andre khôi hài rằng, “Khi tôi gia nhập cộng đoàn này, cha bề trên chỉ cho tôi cánh cửa ấy, và tôi ở đó suốt 40 năm.”

Trong căn phòng nhỏ bé của ngài ở gần cổng trường, hầu như suốt đêm ngài quỳ gối cầu nguyện. Trên thành cửa sổ, trông ra đồi Royal, là bức tượng Thánh Giuse nhỏ, là người mà thầy hằng sùng kính ngay từ khi còn nhỏ. Khi được hỏi về điều ấy thầy trả lời, “Một ngày nào đó, Thánh Giuse sẽ được tôn kính một cách đặc biệt trên đồi Royal!”

Khi biết có ai bị đau yếu, ngài đến thăm để cổ võ tinh thần cũng như để cầu nguyện với họ. Ngài cũng thường thoa lên bệnh nhân chút dầu lấy từ chiếc đèn luôn cháy sáng trước tượng Thánh Giuse trong nguyện đường của trường học. Từ đó tiếng đồn về sức mạnh chữa lành bắt đầu lan tràn.

Khi bệnh dịch bùng nổ từ một trường kế cận, Thầy Andre đã xung phong đến đó chăm sóc bệnh nhân. Không một ai bị thiệt mạng. Số người bệnh đến với thầy ngày càng gia tăng. Cha bề trên cảm thấy bối rối; giới thẩm quyền địa phận nghi ngờ; các bác sĩ gọi ngài là lang băm. Thầy thường lập đi lập lại rằng “Ðâu có phải tôi chữa mà là Thánh Giuse.” Sau cùng thầy phải cần đến bốn người thư ký để trả lời 80,000 lá thư ngài nhận được hàng năm.

Ðã nhiều năm Tu Hội Thánh Giá cố nài nỉ để mua lấy miếng đất trên ngọn đồi Royal nhưng không thành công. Thầy Andre và một vài người khác đã leo lên đó để đặt một tượng Thánh Giuse. Bỗng dưng, chủ đất đồng ý. Thầy Andre quyên góp được $200 để xây một nhà nguyện nhỏ và dùng làm nơi tiếp khách thập phương mà ở đó lúc nào thầy cũng tươi cười để thoa dầu Thánh Giuse trên bệnh nhân. Có người được khỏi bệnh, có người không. Số nạng, gậy chống cũng như xe lăn người ta bỏ lại để minh chứng cho sức mạnh chữa lành của Thánh Giuse ngày càng gia tăng.

Nguyện đường cũng cần được nới rộng thêm. Vào năm 1931, một thánh đường to lớn được khởi công xây cất, nhưng tài chánh bị thiếu hụt vì đó là thời kỳ đại suy thoái. “Hãy đặt tượng Thánh Giuse vào trong ấy. Nếu ngài muốn có mái che trên đầu thì ngài sẽ giúp cho.” Sau cùng, Vương Cung Thánh Ðường Thánh Giuse nguy nga trên đồi Royal đã hoàn thành sau 50 năm xây cất.

Nhưng Thầy Andre đã không được chứng kiến ngày huy hoàng đó, và đã từ trần ngày 06 tháng 01 năm 1937 khi thầy 92 tuổi. Mặc dầu trời giá lạnh tuyết băng, hơn một triệu người đã tham dự  tang lễ của thầy. Mộ phần của thầy nằm sau bàn thờ chính trong nguyện đường Thánh Giuse tại Montreal, Canada.

Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã công nhận các nhân đức anh hùng của Đấng Đáng Kính Andre Bessette ngày 12 tháng 6 năm 1978 và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong Chân Phước cho thầy Andre Bessette ngày 23 tháng 5 năm 1982. Ngài được Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI nâng lên bậc hiển thánh vào ngày 17.10.2010. (Nguồn: Người Tín Hữu)

Sau đây là những câu nói của ngài hy vọng nói đưa bạn đến gần với Chúa hơn qua lời chuyển cầu của Thánh Giu-se:

1/ Anh André có một tình yêu đặc biệt đối Thánh Thể và khuyến khích mọi người rước lễ thường xuyên. Anh nói với giọng buồn “Nếu bạn chỉ dùng một bữa một tuần, bạn có sống sót không? Linh hồn bạn cũng vậy”.

2/ Anh thường nói: “Bạn không được buồn”. “Thật là tốt để cười lớn một chút”.

3/ Hãy đặt bạn vào trong tay Chúa; Ngài không bỏ rơi ai cả.

4/ Chính cây cọ nhỏ bé đã giúp nghệ nhân hoàn thành bức họa tuyệt mỹ.

5/ Khi bạn cầu nguyện, Lạy Cha chúng con,  thì tai của Chúa có ngay bên cạnh môi bạn rồi.

6/ Khoảng cách giữa trời và đất rất là gần, gần đến nỗi Chúa luôn nghe chúng ta, giống như là không có gì ngoài chỉ là một bức màn mỏng ngăn cách chúng ta với Chúa.

Câu nào gần gũi với bạn nhất? Đối với mình thì câu 2 và 4 (mình chỉ xin là một cây cọ nho nhỏ được đặt trong bàn tay của Chúa thôi)

From: Đỗ Dzũng