Thánh Nữ Frances Xavier Cabrini (1850-1917)-Cha Vương

Chúc Bạn có một tâm hồn trong sạch để được thấy mặt Thiên Chúa nhé. Hôm nay 13/11 Giáo hội mừng kính Thánh Nữ Frances Xavier Cabrini, bổn mạng của những người tị nạn và di dân. Mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm bổn mạng nhé. Chúc mừng người Việt tị nạn định cư tại Mỹ!

Cha Vương

Thứ 4: 13/11/2024

Thánh Frances Xavier Cabrini là công dân Hoa Kỳ đầu tiên được phong thánh. Chính lòng tin tưởng mãnh liệt vào sự chăm sóc yêu thương của Thiên Chúa đã ban cho thánh nữ sức mạnh để trở nên một phụ nữ dũng cảm làm việc cho Ðức Kitô.

Francesca Cabrini sinh năm 1850 ở Sant’Angelo Lodigiano, Lombardi, nước Ý trong một gia đình có đến 13 người con. Khi 18 tuổi, ngài ao ước trở thành một nữ tu nơi ngài theo học sư phạm, nhưng vì sức khỏe yếu kém nên bị từ chối. Sau đó thánh nữ làm việc bác ái ở Cô Nhi Viện Ðấng Quan Phòng ở Cadogne, nước Ý. Vào tháng 9 năm 1877, ngài tuyên khấn và mặc áo dòng.

Khi đức giám mục đóng cửa cô nhi viện vào năm 1880, ngài đặt sơ Frances làm tu viện trưởng tu hội Nữ Tu Thánh Tâm Truyền Giáo (the Missionary Sisters ở the Sacred Heart) và bảy phụ nữ khác làm việc ở cô nhi viện cũng đã gia nhập tu hội này.

Ngay từ khi còn nhỏ, Thánh Frances đã có ý định đi truyền giáo ở Trung Cộng, nhưng theo sự khuyên bảo của Ðức Giáo Hoàng Lêo XIII, cùng với sáu nữ tu khác, ngài đến thành phố Nữu Ước để phục vụ hàng ngàn người Ý di dân đang sinh sống ở đây.

Ngài gặp nhiều chán nản và khó khăn trên bước hành trình. Khi đến thành phố Nữu Ước năm 1889, căn nhà được hứa để làm cô nhi viện đầu tiên ở Hoa Kỳ thì lại không có. Ðức tổng giám mục khuyên ngài trở về Ý. Nhưng Frances, một phụ nữ can đảm có thừa, đã rời bỏ tư dinh của đức Tổng và tự tay gầy dựng cô nhi viện. Và ngài đã thành công.

Trong 35 năm, mẹ Frances Xavier Cabrini đã thành lập 67 trung tâm để chăm sóc người nghèo, trẻ mồ côi, người ít học và bệnh nhân. Nhận thấy nhu cầu cần thiết của người di dân Ý trước viễn ảnh bị mất đức tin, ngài mở trường học và các lớp dạy giáo lý người lớn.

Mẹ Francesca Cabrini qua đời vì bệnh sốt rét ngày 22 tháng 12 năm 1917 tại Chicago, Illinois, USA . Thi hài của mẹ được chuyển về nhà thờ ở New York kế cận “Mother Cabrini High School” do mẹ sáng lập. Tu hội của Mẹ ngày nay đã có mặt tại các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ và Nam Mỹ.

Đức Chân Phước Giáo Hoàng Pius XI đã tôn phong Chân Phước cho mẹ Frances Xavier Cabrini ngày 13 tháng 11 năm 1938 liên quan đến một phép lạ chữa lành đôi mắt của một cậu bé do sự chuyển cầu của Đấng Đáng Kính Frances Xavier Cabrini.

Tám năm sau, Đức Giáo Hoàng Pius XII đã tuyên phong Mẹ Frances Xavier Cabrini lên hàng hiển thánh ngày 07 tháng 7 năm 1946 liên quan đến một phép lạ chữa lành căn bệnh lâu năm của một nữ tu và đặt Thánh Frances Xavier Cabrini là quan thầy của người di dân.

Trong nghi lễ phong thánh cho Mẹ Cabrini Ðức Giáo Hoàng Piô XII tuyên bố: “Mặc dù hiến pháp của tu hội ngài rất đơn sơ, nhưng ngài được ban cho một tinh thần phi thường đến nỗi, một khi tin rằng đó là ý Chúa, ngài không để bất cứ điều gì cản trở việc thực hiện mà những công trình ấy vượt quá sức lực của một phụ nữ.” (Nguồn: Người Tín Hữu)

Sau đây là những cầu nói của ngài:

(1) Xin cho con một trái tim rộng lớn như vũ trụ.

(2) Nếu bạn gặp nguy hiểm, nếu lòng bạn bối rối, hãy hướng về Mẹ Maria; Mẹ là niềm an ủi và sự giúp đỡ của bạn; hãy chạy đến Mẹ bạn sẽ được cứu.

(3) Nếu bạn sẵn lòng vác Thánh Giá thì Thánh Giá sẽ vác bạn.

(4) Chúng ta phải cầu nguyện không mệt mỏi, vì sự cứu rỗi của nhân loại không phụ thuộc vào thành công vật chất. . . nhưng trên một mình Chúa Giê-su mà thôi.

(5) Tôi sẽ đi bất cứ đâu và làm bất cứ điều gì để loan truyền tình yêu của Chúa Giê-su cho những người chưa biết Ngài hoặc đã quên Ngài.

***Câu nào đánh động bạn nhất? Đối với mình là câu số 3.

From: Do Dzung

*******************

Chúa sai tôi đi -tinmung.net 

2 thánh Simon và Giu-đê-Cha Vương

2 thánh Simon và Giu-đê

Hôm nay Giáo hội mừng kính trọng thể 2 thánh Simon và Giu-đê, uớc mong bạn là một người dũng cảm với một quả tim nhiệt thành trong mọi lãnh vực. Mừng quan thầy đến những ai chọn các ngài làm bổn mạng nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 28/10/2024

THÁNH SIMON được tất cả bốn Phúc Âm nhắc đến. Trong hai Phúc  am, ngài được gọi là “người Nhiệt Thành” (Zealot). Phái Zealot là một nhánh Do Thái Giáo, đại diện cho chủ nghĩa dân tộc Do Thái. Ðối với họ, lời hứa cứu tinh trong Cựu Ước, có nghĩa là người Do Thái sẽ được tự do và có được một quốc gia độc lập. Chỉ có Thiên Chúa là vua của họ, nên việc nộp thuế cho người La Mã – là người đang đô hộ – được coi là xúc phạm đến Thiên Chúa. Chắc chắn rằng, một số người Zealot là miêu duệ tinh thần của người Maccabee, muốn tiếp tục lý tưởng tôn giáo và tranh đấu cho độc lập. Nhưng nhiều người trong nhóm họ cũng giống như quân khủng bố ngày nay. Họ lùng bắt để giết những người ngoại quốc và người Do Thái “cộng tác với địch”. Họ là những người chủ chốt trong vụ nổi loạn chống La Mã, và kết thúc bằng việc tiêu hủy thành Giêrusalem vào năm 70.

THÁNH GIU-ĐÊ  (Jude) là một nhân vật được đề cập đến trong Phúc Âm theo Thánh Luca, cũng như trong Công Vụ Tông Ðồ Thánh Mátthêu và Thánh Máccô gọi ngài là Thadeus (Ta-đê-ô), có nghĩa là “người dũng cảm”.  Sau ngày phục sinh Ta-đê-ô hỏi Chúa Giêsu: “Vì sao Thầy tỏ cho chúng tôi và không cho thế gian?” Và Chúa trả lời cho ông rằng Ngài tỏ mình qua những ai yêu mến Ngài. Ngoài ra, ngài không được nhắc đến ở chỗ nào khác trong các Phúc  m, ngoại trừ, khi kể tên các tông đổ. Các học giả cho rằng ngài không phải là tác giả của các thư Thánh Giu-đa. Thực ra, Giu-đê cùng tên với Giu-đa Ítcariốt (Judas Iscariot). Do đó, vì sự bất xứng của tên Giu-đa (bán Chúa), nên người ta đã gọi tắt là “Giu-đê”. Tương truyền sau đó cho biết người giảng đạo ở xứ Mesopotamia và đã chết vì đạo tại đó. Thánh tích của người hiện ở đền thờ Thánh Phêrô – Rome, Rheims và Toulouse nước Pháp. Người ta tôn kính Thánh Giu-đê như quan thầy “những hoàn cảnh thất vọng”. Trong kinh kính người có câu: “Lạy thánh tông đồ Giuđa Taddeo được cầu khẩn như vị trạng sư của những hoàn cảnh đau thương, gần như thất vọng, xin nghe lời những kẻ đang gặp khó khăn…”

Có tương truyền khác cho rằng người chịu tử đạo cùng lúc với thánh Simon Tông Đồ tại Persia (Ba Tư). Cả hai cùng được mừng lễ kính chung trong một ngày. Hôm nay mời bạn hãy xin Chúa ban cho hai ơn:

(1) Ơn “nhiệt thành” để rao giảng Tin Mừng trong mọi hoàn cảnh,

(2) Ơn “dũng cảm” để minh chứng cho đức tin của mình trong một thế giới đang bị sa đọa.

From: Do Dzung

**********************

Giêsu Bên Đời (Sáng tác: Sr. Maria Tigon) – Gia Ân

THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II: NHẬN DIỆN SỰ THÁNH THIỆN

THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II: NHẬN DIỆN SỰ THÁNH THIỆN

Tổng Giám mục Angelo Comastri

22/10/2024

Đức Tổng Giám mục Angelo Comastri là Chủ tịch Văn phòng Quản lý Cơ sở kiêm Tổng Đại diện của Đức Thánh Cha ở Vatican. Bài viết được trích trong: Stanislaw Dziwisz, Czeslaw Drazek, SJ, Renato Buzzonetti; Angelo Comastri, Cứ để tôi đi về nha Cha (Học viện Đa Minh, 2014), tr. 99-118.

Tôi không có ý định dự đoán phán quyết của Giáo Hội về Đức Gioan Phaolô II, vì chỉ mình Giáo Hội mới có thể làm điều này mà thôi. Dưới đây đơn giản là một vài gợi ý của tôi rút ra từ những quan sát và suy tư về cuộc đời của ngài.

Trước hết là sự quan tâm của công chúng dành cho Đức Gioan Phaolô II. Theo dòng thời gian, nhiều người, bao gồm cả những nhân vật nổi tiếng đều bị quên lãng. Nếu các bạn muốn, một ngày nào đó, hãy cố gắng ngừng lại trước đống đổ nát ở Palatine (một lâu đài cổ xưa nguy nga, tráng lệ) ở Rôma. Đây từng là nơi sinh sống của những người tự cho mình là thần thánh, làm rung chuyển thế giới, những con người chỉ với một cử chỉ có thể buộc quân đội động binh và nhiều người phải thay đổi chỗ ở (ví dụ như cuộc kiểm tra dân số của Caesar Augustô thời Chúa Giêsu đã làm cho cả Đế quốc phải di chuyển). Ngày hôm nay, Palatine không còn gì hết, ngoại trừ đống hoang phế bị tàn phá bởi lịch sử và lãng quên của con người. Nhưng điều khác thường lại xảy ra với Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ngày tháng trôi qua, ký ức và tình cảm đối với ngài vẫn tiến triển, lòng ngưỡng mộ và thái độ biết ơn ngài vẫn gia tăng. Nhiều con đường và quảng trường được mang tên ngài. Trong khi ấy, các sử gia và chuyên viên lưu trữ văn thư nỗ lực hết sức để biên soạn một bản đánh giá, dù tạm thời và chưa đầy đủ, về cuộc đời của ngài. Từng đoàn tín hữu mộ mến vẫn lũ lượt kéo đến ngôi mộ khiêm tốn của ngài trong lòng đất trên đồi Vatican, giống như ngôi mộ của Đức Phaolô VI và của thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng đầu tiên. Những chuyện đang xảy ra ở đây không thể phủ nhận được.

Liệu chúng ta có thể phác hoạ những điểm nổi bật cho thấy sự thánh thiện của Đức Gioan Phaolô II hay không?

Theo tôi, Đức Giáo Hoàng là người cam đảm trong một thời đại đầy sợ hãi, và ngài phải được nhìn nhận vì nhân đức trổi vượt này. Luôn tỏ ra quyết đoán và kiên định giữa một kỷ nguyên đầy sự thoả hiệp và bất ổn trường kỳ, ngài thực sự noi theo giáo huấn của Đức Giêsu:

Điều Thầy nói với anh em trong bóng tối, thì hãy nói ra giữa ánh sáng; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy rao giảng trên mái nhà (x. Mt 10, 27). Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục. Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Phần anh em, ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, chính anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ. Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối bỏ Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối bỏ người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. (x. Mt 10, 27- 33)

Đức Giáo Hoàng là người can đảm bảo vệ hoà bình trước những sóng gió chiến tranh dồn dập. Ai lại không nhớ những lời lẽ tha thiết thường được Đức Gioan Phaolô II nhắc lại, bất kể người ta có chấp nhận lắng nghe hay không? Đôi khi, ngài giống như một ngôn sứ lên tiếng trong một sa mạc đầy dửng dưng. Tuy nhiên, Đức Giáo Hoàng không thoái chí, ngài vẫn tiếp tục lên tiếng như thể được Thần Khí của Chúa Giêsu thúc đẩy từ sâu thẳm tâm hồn.

Chúng ta không khỏi ngưỡng mộ và xúc động trước lời kêu gọi của Đức Thánh Cha ngày 16 tháng 03 năm 2003 khi ngài kết thúc kỳ tĩnh tâm vào đầu Mùa Chay. Từ cửa sổ phòng làm việc, ngài đã lớn tiếng kêu gọi, không chút sợ hãi:

Tôi biết! Tôi biết chiến tranh khủng khiếp dường nào! Do đó, bổn phận của tôi là phải nói cho những người [tin vào chiến tranh] rằng: chiến tranh làm tăng sự hận thù và không thể giải quyết được vấn đề.

Thật can đảm! Vào giây phút đó, cách thức phát biểu của Đức Thánh Cha đã đi ngược lại với một xu thế rất mạnh trong xã hội, nhưng Đức Gioan Phaolô II nhiều lần không ngại đi ngược với xu hướng của đám đông. Ngài luôn hiên ngang và trung thành với bổn phận với tư cách là người Tôi Tớ của Chân lý, Chân lý mà Chúa Giêsu trao lại cho Hội Thánh, và đặc biệt, cho người được mệnh danh là Đá Tảng.

Đã hơn một lần, khi nghe những lời nói của Đức Gioan Phaolô II, trong đầu tôi xuất hiện lời khẳng định từ vị Tông đồ Phaolô: “Vì chúng tôi không có thể làm gì chống lại sự thật, nhưng chỉ có thể hoạt động cho sự thật” (2 Cr 13, 8). Tôi cũng áp dụng cho triều đại giáo hoàng của Đức Gioan Phaolô II những điều mà vị tông đồ Dân Ngoại đã nói về những khó khăn trong sứ vụ:

Hành trình nhiều chuyến, nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, nguy hiểm trong sa mạc, nguy hiểm ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Vất vả mệt nhọc, thức đêm thường xuyên, đói khát, ăn chay thường xuyên, chịu rét mướt trần truồng. Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh! Có ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối? Có ai vấp ngã mà lòng tôi không cháy bừng? (x. 2 Cr 11, 26-29)

Đức Gioan Phaolô II là người can đảm bảo vệ gia đình trong một thời đại đã đánh mất ý thức về sự phối hợp không thể thay thế giữa vợ-chồng và cha-mẹ. Với cái nhìn ngôn sứ, Đức Wojtyla nhạy bén nhận ra rằng ngày hôm nay phẩm giá của gia đình đang bị đe doạ. Qua tình yêu thuỷ chung, người nam và người nữ làm thành một gia đình, trở thành chiếc nôi cho sự sống và là môi trường không thể thay thế để đời sống con người được lớn lên và phát triển.

Tôi nghĩ rằng Đức Gioan Phaolô II cảm thấy bị tổn thương sâu sắc khi được tin Nghị viện Châu Âu không đi đến được sự đồng thuận về giá trị của gia đình. Đây là một vấn đề rất nghiêm trọng, nó cho thấy thái độ mất nhận thức ở Châu Âu. Có lẽ được thúc đẩy bởi vấn đề khẩn cấp này, Đức Giáo Hoàng đã cho mọi người thấy ngài là vận động viên bảo vệ gia đình. Ngày Quốc tế các gia đình, Năm Thánh Gia đình, những thông điệp thường xuyên được gửi đến cho các cặp vợ chồng là hoa trái của tình yêu không gì lay chuyển ấy. Đồng thời, đây cũng là những cách thức nhằm tái thông truyền cho con người và chính phủ các quốc gia về những giá trị để hình thành một nền văn minh đích thực. Nếu gia đình tan vỡ, xã hội còn lại gì. Nếu gia đình biến mất, con đường nào sẽ hướng dẫn những đứa con trong hành trình cuộc đời của chúng?

Đức Gioan Phaolô II hiểu tất cả điều này, vì thế ngài kiên tâm giảng dạy và đào sâu những giá trị của gia đình. Có thể trong một vài năm hay nhiều thập kỷ, chúng ta mới có thể đánh giá rõ hơn công trình mà Đức Gioan Phaolô II đã thực hiện để phục hồi phẩm giá của gia đình giữa bóng tối của tâm thức hiện đại.

Đức Giáo Hoàng là người can đảm bảo vệ phẩm giá của sự sống. Mọi con người dù thuộc màu da nào – màu trắng, màu đen hay màu vàng, dù mạnh khỏe hay khiếm khuyết, dù giàu sang hay đơn nghèo, đều phải được bảo vệ từ lúc thụ thai cho đến khi lìa đời. Tông huấn Evangelium Vitae là một văn kiện đặc biệt về cả ý tưởng và lẫn tâm tình. Đức Gioan Phaolô II luôn luôn tìm mọi cách có thể để cho thấy bảo vệ sự sống không phải chỉ là nguyên tắc của tôn giáo, không phải là một sự can thiệp tôn giáo trong lĩnh vực hoạt động chính trị; nhưng là một lý lẽ tinh tế và chặt chẽ như là nền tảng cho sự đồng hiện hữu dân sự. Thêm nữa, nếu quyền sống không được đảm bảo, thì liệu rằng các quyền khác có được đảm bảo hay không? Đức Gioan Phaolô II đặc biệt chú trọng đến chủ đề này, và trái tim cao thượng của ngài luôn luôn sẵn sàng bảo vệ bất cứ khi nào quyền sống bị lâm nguy.

Chúng ta hẳn còn nhớ Đức Giáo Hoàng đã bất ngờ nổi giận tại Thung lũng Temple gần Agrigento[1]. Bằng lời lẽ đáng kính như Amốt, cung giọng hùng hồn như Hôsê và ngôn ngữ sống động như Isaia, ngài đã hô lớn trước sự kinh ngạc của đám đông đang hiện diện: “Hỡi những người Mafia, hãy sửa đổi lại cuộc sống của quý vị. Một ngày nào đó quý vị sẽ phải tính sổ trước mặt Thiên Chúa vì những việc mình làm.” Vào lúc đó, mọi người nhận ra rằng ngài đang đối diện với hiểm nguy; và có thể sẽ ảnh hưởng đến tính mạng. Nhưng Đức Gioan Phaolô II luôn sẵn sàng hy sinh mạng sống của ngài. Trong suốt triều đại giáo hoàng, ngài thường giẫm nát đầu rắn độc và thuồng luồng[2], nhưng hoàn toàn tín thác vào sự nâng đỡ và che chở của Chúa.

Cùng lúc, Đức Giáo Hoàng cũng lên tiếng bảo vệ sự sống huyền nhiệm và bất khả xâm phạm của con người. Ngài nhắc lại cho chúng ta rằng biện minh cho việc tấn công vào sự sống con người ngay từ khi chào đời hoặc khi chết là mở lối biện minh cho bất cứ một bạo lực nào trong mọi giây phút hiện hữu của con người.

Ngài hiểu rất rõ và thường lặp lại nhiều lần với cảm xúc đau xót: Sự xúc phạm ghê gớm đối với sự sống con người do chế độ độc tài thế kỷ XX gây ra là hậu quả của sự nhận thức sai lầm về bản chất con người. Điều này có nghĩa là các nhận thức này xuất phát từ những sai trái về giá trị nhân vị. Chính điều này dẫn đến phân biệt đối xử con người, quyết định ai nên sống hay phải chết, ai có nhiều nhân phẩm hay ít hơn bằng một cách thức hiểm ác và độc đoán. Cũng trong lĩnh vực này, chúng ta sẽ dần dần nhận ra hoạt động của Đức Thánh Cha thật sáng suốt và dưới sự quan phòng của Thiên Chúa.

Đức Giáo Hoàng là người can đảm tìm kiếm người trẻ và trò chuyện với họ. Khởi đầu triều đại giáo hoàng của ngài, dường như Giáo Hội không còn nói ngôn ngữ của giới trẻ và không tín nhiệm thế hệ trẻ nữa. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã không chấp nhận quan điểm này. Ngài biết rằng nếu không có Chúa Kitô, người trẻ sẽ không bao giờ tìm thấy ý nghĩa trong cuộc đời, và sẽ không bao giờ cảm nghiệm được thực tại quyến rũ của tình yêu vốn là hồng ân, chứ không phải là một ý tưởng thoáng qua buộc mỗi vật và mỗi người dành lấy cho riêng mình. Đức Giáo Hoàng tìm kiếm người trẻ, và các bạn trẻ nhận ra ngài là một người bạn, một người bạn đích thực và chân thành, không hy sinh những chuẩn mực nhằm mục đích lôi kéo người nghe, một người bạn không giảm thiếu thách đố của Tin Mừng để được người ta ưu thích, một người bạn không dùng thuật hùng biện để dành được những tràng vỗ tay tán thưởng của người trẻ.

Tuy nhiên, người trẻ lại luôn dành cho ngài những tràng vỗ tay tự phát và nồng nhiệt – một sự ủng hộ mạnh mẽ làm nhụt chí những người dự đoán về sự sụp đổ của Giáo Hội và biến mất của Kitô giáo.

Những người trẻ rất yêu mến Đức Giáo Hoàng. Họ xem ngài như một người cha luôn biết cách sửa dạy con cái vào những thời điểm thích hợp, bởi vì ngài biết cách yêu thương chân thật và trung tín.

Tôi thật ngây thơ khi lo lắng rằng làm thế nào ngài có thể chào đón những người trẻ đang có mặt tại quảng trường thánh Phêrô để khai mạc ngày Quốc tế Giới Trẻ giữa cái nóng tháng 8 năm 2000! Một giọng nói âm vang nội lực bất ngờ cất lên: “Các con tìm ai?” Tôi nhớ rằng cả những giám mục chúng tôi cũng ngạc nhiên và bị lôi cuốn bởi sức hút của vấn nạn đầy thách thức này. Đức Giáo Hoàng giải thích rằng ngài không muốn hạ thấp những chuẩn mực nhằm lôi kéo giới trẻ, nhưng mời gọi các bạn trẻ hãy vươn lên để theo đuổi những giá trị và ý nghĩa cao cả của cuộc sống.

Về phần họ, giới trẻ hiểu rằng con người cao niên này biết được bí quyết cho cuộc sống của tuổi trẻ và họ đã bắt đầu lưu tâm và suy nghĩ.

Vào buổi tối trong giờ canh thức cầu nguyện trên cánh đồng rộng lớn ở Tor Vergata, một điều khác nữa đã xảy ra sẽ không bao giờ bị quên lãng, bởi vì nó là một dấu hiệu về mối tương quan đặc biệt giữa Đức Giáo Hoàng và người trẻ. Trong khi bầu trời bình yên của Rôma vang lên những bài hát của những cộng đoàn giới trẻ đến từ khắp năm châu, thì một thanh niên bất ngờ nhảy qua hàng rào bảo vệ, thoát khỏi sự truy bắt của cảnh sát, và chạy nhanh tới Đức Giáo Hoàng. Cụ già và một người trẻ nhìn nhau hồi lâu, sau đó họ ôm chầm lấy nhau giống như người cha ôm lấy con mình. Một cảm xúc dâng trào trong tim mọi người ở đó – Tôi đã khóc.

Cuối cùng, Đức Giáo Hoàng là người can đảm trong lúc bệnh tật và cả khi cận kề cái chết. Trong lúc bệnh tật, Đức Giáo Hoàng mất dần đi phẩm chất xuất sắc của mình, nhưng ngài không bao giờ che giấu điều ấy. Chắc hẳn ngài sẽ phải trả giá rất nhiều, nhưng ngài không muốn được bảo vệ để tránh cái nhìn của người khác. Ngài sống bệnh tật cách công khai và biến nó thành một bài giảng gây xúc động trái tim nhân loại.

Từ nhiều nơi đã xuất hiện nhiều lời yêu cầu thiếu tôn trọng và cố chấp đòi Đức Thánh Cha phải từ chức, và tôi nghĩ điều này thực sự làm ngài bị tổn thương.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II quyết định không bước xuống khỏi thập giá; tuy nhiên, ngài phải sử dụng đến chút sức lực cuối cùng. Tôi còn có thể nhìn thấy Đức Thánh Cha xuất hiện tại cửa sổ phòng riêng vào ngày thứ Tư cuối cùng của cuộc đời ngài. Ngài cố gắng nhiều lần, tập trung sức lực để bộc bạch vài lời tâm tư, nhưng không có âm thanh phát ra từ đôi môi run rẩy. Tuy nhiên, trong triều Giáo Hoàng dài của ngài, thứ Tư đó lại là một trong những khoảnh khắc xúc động nhất, sâu sắc nhất, lay động lòng người nhất. Đức Thánh Cha đã nói với mọi người bằng ngôn ngữ thinh lặng đầy sức thuyết phục: Để nên giống Chúa Giêsu, chúng ta phải yêu thương cho đến giây phút cuối cùng, đến độ trao cả mạng sống cho Người, Đấng ban sự sống của Người cho chúng ta.

Đức Giáo Hoàng tìm ở đâu nguồn sức mạnh này?

Ngài tìm thấy trong một Đức tin luôn được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện liên lỉ. Người ta đã nói với tôi rằng trong những chuyến tông du đầy vất vả và thường xuyên trên khắp thế giới, Đức Gioan Phaolô II thường thức dậy sớm hơn mọi người và phủ phục cầu nguyện trước Nhà Tạm. Giống như ông Môsê, khuôn mặt của ngài toả ra ánh sáng.

Đức hồng y Andrea Deskur, một người bạn của Đức Giáo Hoàng từ thuở thiếu thời, đã từng nói với tôi rằng cần phải giúp đỡ Hồng y Wojtyla trong những chuyến thăm thường xuyên của vị này ở Roma, ngài cho rằng cần phải thay đổi sàn nhà nguyện. Thật vậy, Hồng y Andrea Deskur đã nhiều lần trông thấy vị Giáo Hoàng tương lai phủ phục cầu nguyện dưới sàn nhà lạnh lẽo. Để tránh ảnh hưởng sức khỏe cho con người đạo đức này, ngài đã thay thế đá lát cứng bằng chất liệu gỗ.

Tôi xin tóm kết bằng cách phải nói đến lòng sùng kính Đức Mẹ của Đức Gioan Phaolô II. Những năm 1965 – 1975 tựa như một “mùa đông lạnh lẽo” đối với Mẹ Maria. Dường như nhiều người đang cố làm sao đẩy Đức Mẹ ra bên lề, (theo cách họ nói) nhằm phục hồi vai trò trung tâm cho Đức Kitô. Lập luận này không đúng đắn, bởi vì Con và Mẹ không thể có tính loại trừ, nhưng luôn đi cùng nhau. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã làm sáng tỏ vai trò của Đức Maria trong Giáo Hội bên cạnh Đức Kitô. Thật vậy, chính bằng cách bắt đầu với Đức Giêsu mà người ta đến với Mẹ Maria. Chính bằng cách bắt đầu với Đức Giêsu mà người ta khám phá sự hiện diện của Mẹ và sứ vụ không thể nào thay thế của Mẹ. Đây không phải là thay chỗ cho Con, nhưng là sứ vụ mang chúng ta đến với Con của Mẹ.

Đức Gioan Phaolô II luôn tinh tế, thấu hiểu và có trực giác trong mối tương quan đối với sự hiện diện và sứ mệnh của Mẹ Maria.

Huy hiệu giám mục và giáo hoàng của ngài đã thể hiện lòng sùng kính này: chữ M nổi bật lên trên nền xanh, theo sau là tiếng thưa của người con đối với Mẹ: Totus tuus.

Thật là đẹp biết bao, đẹp theo cách nói của con người và đẹp theo cách nói của Kitô giáo.

Khi xem xét lại các hoạt động và cử chỉ của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, suy niệm những bài diễn văn và tài liệu của ngài, người ta nhận ra rằng tâm tình của ngài dành cho Mẹ Maria là nguồn cảm hứng đặc trưng cho cuộc hành trình của ngài theo Chúa Giêsu.

Ngày 04 tháng 06 năm 1979, khi thực hiện chuyến hành hương đầu tiên đến Jasna Góra, Đức Giáo Hoàng đã phó thác Giáo Hội cho Mẹ Maria. Với những lời đầy xúc động, ngài nói:

Có biết bao nhiêu vấn đề! Thưa Mẹ, chắc hẳn con phải dâng lên cho Mẹ trong cuộc gặp gỡ này, con xin liệt kê từng vấn đề một. Con phó thác tất cả cho Mẹ, bởi vì Mẹ biết rõ hơn chúng con và Mẹ có thể chăm nom tất cả.

Thưa Mẹ! Vì thế, con đã hiện diện trong nơi thánh thiêng này. Nơi đây ôm ấp không chỉ nước Ba Lan mà còn toàn thế giới, mở rộng đến mọi quốc gia và châu lục trong trái tim từ mẫu của Mẹ. Con xin dâng lên Mẹ toàn thể Giáo Hội mà trong ấy trước hết, con là tôi tớ đầu tiên, và con phó thác Giáo Hội cho Mẹ với một sự tin tưởng không hề lay chuyển!

Trong những chuyến tông du không mệt mỏi qua nhiều châu lục, Đức Giáo Hoàng luôn chiêm ngắm Đức Maria. Chính từ Mẹ mà ngài học biết và công bố vẻ đẹp của lòng trung tín với Chúa và với Tin Mừng của Người. Cũng từ nơi Mẹ, ngài học cách lắng nghe và chuyển trao niềm hy vọng của lời kinh Magnificat. Nhờ Mẹ, ngài học cách làm cho Chúa Kitô trở thành trung tâm điểm toàn bộ hoạt động mục vụ của ngài, bởi vì Đức Maria luôn nói với chúng ta: “Người bảo gì, thì hãy làm theo” (Ga 2, 5).

Chính lòng sùng kính này đã làm cho cử chỉ của Đức Giáo Hoàng thêm rõ ràng và cảm động khi ngài đã tới Fatima để tạ ơn Đức Maria sau vụ tấn công bi thương ngày 13 tháng 05 năm1981. Trong tâm tình ấy, ngài dâng lên Mẹ viên đạn đã không giết chết ngài. Tâm tình con thảo đối với Mẹ đã giải thích cho những cuộc hành hương thường xuyên của ngài đến những đền thánh của Mẹ Maria, nơi đó “chúng ta được kín múc Đức tin từ Mẹ” (Thư kỷ niệm 700 năm Đền thánh Loreto). Đồng thời, lòng sùng kính đó cũng phản ánh lý do Đức thánh Cha luôn nắm chặt chuỗi Mân côi trong tay như giúp ngài cảm thấy sự vững vàng và dịu hiền của Mẹ Maria. Lòng sùng kính làm rõ hơn cho sự trung tín của ngài với buổi đọc kinh Truyền tin, nhờ đó, lời kinh được đưa đến các đường phố, quảng trường và mọi vùng thôn quê trên toàn thế giới. Ngày 13 tháng 05 năm 2000, tôi đã hiện diện ở Fatima, và luôn ghi khắc trong tâm hồn mình khoảnh khắc Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tuyên phong chân phước cho hai trẻ chăn chiên ở Fatima là Jacinta và Francisco, trước sự hiện diện của Lucia, cô gái chăn chiên thứ ba và cùng với đám đông rất lớn (trong đó có nhiều người đi bộ) đến từ khắp nơi trong đất nước Bồ Đào Nha và những nơi xa xôi trên thế giới.

Lời kinh Magnificat lúc ấy thật tuyệt diệu. Lời ngợi khen trải qua bao thế hệ dường như đang trực tiếp có thể đụng chạm được và như mới tức thì. Trên cánh đồng rộng lớn Cova da Iria, muôn ngàn khuôn mặt được mặt trời chiếu sáng đang di chuyển như một con sóng được hơi thở thần khí của Thiên Chúa thổi vào. Đó là những con người nhỏ bé thuộc về Mẹ Maria và là những người bé nhỏ mà Mẹ nói đến trong lời kinh Magnificat. Họ là những người hèn mọn phải ngủ ngoài trời vì không đủ tiền vào khách sạn sang trọng. Trong giây phút đó, những người hèn mọn này cảm thấy họ là hiện thân trong lời kinh của Đức Mẹ.

Từ cảm xúc đổi thành ngạc nhiên khi cuối nghi thức tuyên phong chân phước cho hai mục đồng, Đức hồng y Angelo Sodano, Quốc Vụ Khanh Toà thánh, đã nhân danh Đức Giáo Hoàng phát biểu:

Như anh chị em đã biết, mục đích của chuyến viếng thăm Fatima là để phong chân phước cho hai trẻ mục đồng. Tuy nhiên, ngài cũng muốn chuyến hành hương này là một cử chỉ biết ơn đối với Đức Trinh Nữ Maria vì Mẹ đã bảo vệ ngài trong những năm trên cương vị giáo hoàng. Sự bảo vệ này dường như cũng được nối kết với phần ba của bí mật Fatima.

Bản văn chứa đựng một thị kiến tiên tri tương tự như những sự kiện được miêu tả trong Kinh Thánh. Tuy nhiên, bản văn không miêu tả rõ ràng, chi tiết các sự kiện trong tương lai, nhưng tổng hợp và cô đọng những sự kiện nền tảng thống nhất trải dài qua thời gian trong một sự tiếp nối, lâu dài và không rõ ràng. Kết quả là văn bản này phải được giải thích dưới khía cạnh biểu tượng.

Trước hết, thị kiến Fatima liên quan đến cuộc chiến tranh do hệ thống vô thần khơi lên nhằm chống lại Giáo Hội và Kitô giáo. Thị kiến miêu tả những đau đớn mà những chứng nhân của Đức tin đã phải chịu trong những năm cuối của thiên nhiên kỷ thứ hai. Đây chính là Đàng Thánh giá dài vô tận được hướng dẫn bởi các vị Giáo Hoàng thế kỷ XX.

Theo lời giải thích của những mục đồng mà sau này được xác định bởi sơ Lucia, “vị Giám Mục áo trắng” cầu nguyện cho các tín hữu chính là Đức giáo Hoàng. Khi ngài đem tất cả sức lực để đi con đường thập giá của mình trước những thi thể của các anh hùng tử đạo, thì chính ngài cũng đã ngã xuống đất, dường như đã chết, dưới loạt đạn nổ.

Sau vụ ám sát ngày 13 tháng 05 năm 1981, đối với Đức Thánh Cha, rõ ràng là cánh tay hiền mẫu đã hướng đường đi của viên đạn, bàn tay ấy có thể làm cho Đức Giáo Hoàng “đang gần kề cái chết” được dừng lại trước ngưỡng cửa cái chết[3]. Trong một dịp viếng thăm Rôma của một vị sau này là giám mục giáo phận Leiria Fatima, Đức Giáo Hoàng đã quyết định trao cho vị này viên đạn vẫn găm lại trong xe Jeep sau vụ tấn công, để được lưu giữ trong đền thánh. Theo lệnh của vị giám mục, sau này viên đạn đã được đính vào vương miện tượng Đức Mẹ Fatima.

Những sự kiện tiếp nối năm 1989 đã dẫn đến sự sụp đổ của chế độ cộng sản vốn chủ trương đẩy mạnh chủ nghĩa vô thần ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu. Vì điều này, Đức Thánh Cha thành tâm cảm tạ Đức Mẹ. Trong nhiều nơi khác trên thế giới, những vụ tấn công chống lại Giáo Hội, chống lại các Kitô hữu cùng với gánh nặng đau khổ vẫn tiếp diễn một cách bi thảm. Thậm chí nếu những biến cố liên quan đến phần ba bí mật Fatima bây giờ dường như là một phần của quá khứ thì lời kêu gọi ăn năn sám hối của Đức Trinh Nữ Maria vào đầu thế kỷ XX vẫn còn hợp thời và cấp bách cho đến ngày nay. Đức Trinh Nữ của sứ điệp dường như đã đọc dấu hiệu của thời đại chúng ta với một sự thấu hiểu đặc biệt. Lời mời gọi ăn năn khẩn thiết của Mẹ Maria Rất Thánh không là gì ngoài việc biểu lộ sự quan tâm hiền mẫu của Mẹ đối với số phận gia đình nhân loại, luôn cần phải ăn năn và xin ơn tha thứ.[4]

Để các tín hữu có thể biết rõ hơn sứ điệp của Đức Trinh Nữ Fatima, Đức Giáo Hoàng đã trao cho Bộ Giáo lý và đức Tin công bố phần ba bí mật Fatima kèm theo một lời giải thích hợp lý.

Vào lúc đó, tôi đã nhận thức rõ ràng biến cố Fatima không phải là lý do sùng kính Đức Trinh Nữ Maria của Đức Gioan Phaolô II. Thật là sai trái khi nghĩ điều này bởi vì chân lý đi theo một đường lối khác. Lòng sùng kính Đức Maria là lý do và là lời giải thích cho những sự kiện của Fatima. Bởi vì Đức Giáo Hoàng rất yêu mến Đức Maria và đã thưa với Mẹ Totus tuus. Qua biến cố Fatima, Mẹ đã làm cho ngài cảm thấy tất cả chân lý và sự dịu dàng từ mẫu của Mẹ.’

Vì thế, lòng sùng kính Đức Maria của Đức Gioan Phaolô II đã xuất hiện trước biến cố ngài bị tấn công và sứ điệp Đức Maria ban cho các mục đồng được nối kết với nhau; do đó, không phụ thuộc vào biến cố Fatima. Lòng sùng kính Đức Trinh Nữ hoàn toàn được đặt trên nền tảng Tin Mừng, trên Lời Chúa. Trong tông thư Tertio Millennio Adveniente – Ngàn năm thứ Ba đang tới, ngài viết:

Lời đáp của Mẹ Maria đối với Sứ thần không chút lưỡng lự: “Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: ‘Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời thiên sứ nói.’ Rồi thiên sứ từ biệt ra đi.” (Lc 1,38). Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại, lời đáp trả lại phụ thuộc vào lời đồng thuận của một thụ tạo đến như vậy (số 2).

Trong việc sùng kính Đức Trinh Nữ Maria, Đức Gioan Phaolô II đã cho thấy ngài là một người trung tín, một tôi tớ can đảm và đích thực của Chân lý như sách Khải Huyền đã nói.

Vì lý do này, lòng biết ơn của chúng ta ngày hôm này phải mạnh mẽ hơn và được bảo đảm hơn. Mỗi khi suy niệm kinh Mân côi và đọc kinh Kính mừng, một lời tung hô tự phát nảy ra từ tâm hồn của chúng ta: Totus tuus, Maria.

Đây chính là di sản về Đức Maria mà Đức Gioan Phaolô II đã để lại cho chúng ta.

Nguồn: daminhvn.net (22/10/2024)

_______

[1] Đảo Sicily, trung tâm hoạt động của Mafia.

[2] x. Tv 91, 13.

[3] Đức Gioan Phaolô II, Suy niệm với các giám mục Ý từ bệnh viện Gemelli (Insegnamenti, tập 17/1,1994, tr. 1061).

[4] Đức Gioan Phaolô II, Sứ điệp ngày Quốc tế Bệnh nhân 1997, số 1.

 

 

 

Thánh Gioan Capistranô (St. John of Capistrano) (1385-1456).-Cha Vương

Một ngày an lành nhé. Đừng quên đi bầu sớm hả. Hôm 23/10, Giáo Hội mừng kính Thánh Gioan Capistranô (St. John of Capistrano) (1385-1456). Ngài là quan thầy của các binh sĩ, luật sư và chánh án.

Cha Vương

Thứ 4: 23/10/2024

Thánh Gioan Capistranô Thánh Gioan sinh ở Capistrano, nước Ý năm 1385. Ngài là con của một cựu hiệp sĩ người Ðức sống trong thành phố. Ngài học luật ở Ðại Học Perugia và hành nghề luật sư ở các tòa án Naples. Khi 26 tuổi, ngài được Hoàng Ðế Ladislas của Naples bổ nhiệm làm thủ hiến xứ Perugia. Trong cuộc chiến tranh với người Malatestas ở lân cận, ngài bị phản bội và bị cầm tù. Sau khi được thả về, ngài quyết tâm thay đổi cuộc đời và gia nhập dòng Phanxicô ở Perugia năm ngài 31 tuổi.

Sau khi được thụ phong linh mục vào bốn năm sau, ngài đi rao giảng khắp các nước Ý, Ðức, Bohemia, Áo, Hungary, Ba Lan và Nga. Vào lúc người ta thờ ơ và nghi ngờ tôn giáo thì ngài đã lôi cuốn được nhiều người trở về với Giáo Hội. Các quốc gia miền trung Âu Châu đã tiếp đón ngài cùng với các tu sĩ Phanxicô như các thiên thần của Thiên Chúa. Họ là những khí cụ để hồi phục niềm tin đang dẫy chết.

Chính dòng Phanxicô cũng trong tình trạng xáo trộn về việc giải thích và tuân giữ quy luật của Thánh Phanxicô. Qua các nỗ lực không ngừng của Cha Gioan Capistrano và nhờ kinh nghiệm luật pháp của ngài, tà giáo Fraticelli bị cấm hoạt động và Tinh Thần Phanxicô tinh tuyền lại được nêu cao.

Khi vua Hồi Giáo là Mohammed II đe dọa tấn công Vienna và Rôma, Cha Gioan Capistrano, dù đã bảy mươi tuổi, được Ðức Giáo Hoàng Callistus II giao cho công việc rao giảng và chỉ huy thập tự quân chống với sự xâm lăng của người Thổ Nhĩ Kỳ. Cùng với đoàn quân bảy mươi ngàn Kitô Hữu, ngài đã chiến thắng người Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc chiến sau cùng ở Belgrade năm 1456.

Ba tháng sau ngài từ trần ở Villach, Hungary ngày 23 tháng 10 năm 1456. Trên mộ của ngài ở làng Villach, Hungary, quan đầu tỉnh đã cho khắc những hàng chữ sau: “Ngôi mộ này là nơi chôn cất Thánh Gioan, sinh ở Capistrano, một người đáng được ca tụng, người biện hộ và cổ võ đức tin, người bảo vệ Giáo Hội, người hăng say che chở nhà dòng, niềm vinh dự cho cả thế giới, người yêu quý sự thật và công bình, phản ánh đời sống, vững chắc trong giáo lý; được bao người đời ca tụng, ngài đang sung sướng ngự trên thiên đàng.”

Đức Giáo Hoàng Innocent X tôn phong Chân Phước cho ngài ngày 19 tháng 12 năm 1650 và Đức Giáo Hoàng Alexander VIII đã nâng Chân Phước Gioan ở Capistrano lên bậc hiển thánh ngày 16 tháng 10 năm 1690.  Ngài được đặt làm quan thầy của các luật gia. (Trích Gương Thánh Nhân – ns Người Tín Hữu online & Nhóm Tinh Thần nhuận chính lại theo Patron Saint và Santi-Beati-Testimoni)

*** Nếu bạn là công dân Hoa Kỳ, mời bạn hãy noi gương ngài, dùng vé phiếu của mình để biện hộ, cổ võ đức tin và bảo vệ quyền sống cơ bản của con người nhé.

From: Do Dzung

***********************

Con Tin Chúa Ơi | Sáng Tác: Lm. Duy Thiên | Trình Bày: Gia Ân

Thánh Gioan Phaolô đệ nhị, Giáo Hoàng-Cha Vương

Chúc bình an đến bạn và gia đình. Hôm nay 22/10 Giáo Hội mừng kính Thánh Gioan Phaolô đệ nhị, Giáo Hoàng. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

TÓM TẮT TIỂU SỬ: Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tên thật là Karol Józef Wojtyła sinh vào ngày 18 tháng 5 năm 1920 tại Wadowice, miền nam Ba Lan. Là con của một cựu sĩ quan trong quân đội Habsburg. Lúc nhỏ tuổi Ngài có tiếp xúc nhiều lần với nhóm người Do Thái tại Kraków. Trong thời Đức quốc xã chiếm Ba Lan trong Đệ nhị thế chiến, Ngài đã làm việc trong một mỏ đá và một nhà máy hóa học. Khi Ngài còn trẻ Ngài đã là một vận động viên, một diễn viên, một nhà soạn kịch, và một nhà ngôn ngữ học (Ngài biết đến 11 ngôn ngữ). Karol Wojtyła được phong chức linh mục vào ngày 1 tháng 11 năm 1946. Ngài dạy môn luân lý tại Đại học bách khoa Jagiellonian và sau này tại Đại học Công giáo Lublin. Vào năm 1958 Ngài được phong chức làm Giám mục Phụ tá Địa Phận Kraków và bốn năm sau Ngài làm Giám Quản Địa Phận (Vicar Capitular).

– Chịu Phép rửa tội ngày 20/6/1920. Ngài lớn lên với cha mẹ ngài ở Rynek. Sau đó gia đình dọn tới Krak Via Tyniecka.

– Ngài rước lễ lần đầu lúc 9 tuổi và lãnh phép Thêm Sức lúc 18 tuổi.

– Thụ phong linh mục năm 1946 tại Krakow lúc 26 tuổi.

– Làm Giám mục năm 1958 tại nhà thờ chính tòa Wavel lúc 38 tuổi.

– Làm Tổng Giám mục Krakow năm 1964, lúc 46 tuổi

– Được phong làm Hồng Y do Đức Giáo Hoàng Phaolô VI vào năm 1967, lúc 47 tuổi.

– Được bầu làm vị Giáo hoàng thứ 246 ngày 16/10/1978 lúc 5:15 chiều là vị thứ 263 kế vị Thánh Phêrô ở tuổi 58. -Ngài là vị giáo hoàng trị vì lâu thứ ba trong lịch sử Giáo Hội. (26 năm và 4 ngày)

❦ Phương châm Giáo Hoàng là: “Totus Tuus” (tất cả cho Chúa qua Mẹ Maria).

❦ “Câu nói bất hủ của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô Đệ Nhị trong lễ đăng quang đã đánh dấu cả triều đại của ngài: “Anh em đừng sợ !”. Câu nói đó đã vượt ra khỏi quảng trường Thánh Phêrô, ra khỏi Vatican để đến tận chân trời góc biển, đặc biệt là đến tận những nước còn bị thống trị bởi chủ nghĩa và các chế độ cộng sản, trong đó có quê hương Balan của ngài.”

❦ “Anh em đừng sợ! Hãy mở tung cánh cửa rộng ra cho Chúa Giêsu Kitô!“

❦ Ngày cuối đời của ngài, ngài nói: “Anh em hãy để tôi đi về nhà Cha.”

Câu nào đánh động bạn nhất?

Xin Thánh Gioan Phaolô đệ nhị cầu bầu cho người dân nước Việt được an cư lạc nghiệp và vui hưởng tự do.

From: Do Dzung

***************************

CON ĐỪNG SỢ || TCVPV

Thánh GIOAN BRÊBEUF, linh mục, thánh ISAAC JOGUES, linh mục, và các bạn tử đạo-Cha Vương

Thứ 7 Mùa Thu ấm ám và mạnh mẽ trong Chúa và Mẹ nhé. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh GIOAN BRÊBEUF, linh mục, thánh ISAAC JOGUES, linh mục, và các bạn tử đạo.

Cha Vương

Thứ 7: 19/10/2024

Thánh Isaac Jogues sinh năm 1607 tại thành phố Ôlins, nước Pháp. Thánh nhân gia nhập dòng Tên năm 1624. Là nhà thừa sai dòng Tên, Isaac Jogues tới Quêbéc, nước Canađa. Ở đó, thánh nhân làm việc giữa những người Huron, giải thích cho họ biết về sứ điệp Tin mừng của Đức Chúa Giêsu và rửa tội cho những người xin gia nhập Công giáo. Năm 1642, một số chiến binh thuộc bộ tộc Irôquơ đã bắt giữ ngài cùng với 5 tu sĩ dòng Tên người Pháp và 2 tông đồ giáo dân Pháp khác.

Trong suốt một năm, Thánh Isaac Jogues và các bạn của ngài đã bị tra tấn kinh khủng. Nhưng một người Hà Lan đã giúp Isaac Jogues trốn thoát và ngài đã trở về Pháp. Đến năm 1644, Isaac Jogues lại xin được tới Quêbéc. Đang lúc trên đường đến với những người Irôquơ, sau một hiệp ước hòa bình ngài đã ký với bộ tộc ấy, Isaac Jogues đã bị những người Mahawk bắt giữ và giết chết.

Thánh Gioan Brebeuf trở thành tu sĩ dòng Tên sau một cơn lao phổi dữ dội. Ngài và thánh Gabriel Lallơmông là những thành viên thuộc nhóm các tu sĩ dòng Tên can đảm bị những người Irôquơ bắt giữ và giết chết. Cha Antôn Đanien vừa mới cử hành xong thánh lễ cho những tân tòng thuộc làng Huron thì những người Irôquơ tới tấn công ngôi làng. Những người tín hữu Anhđiêng năn nỉ cha bỏ trốn, nhưng cha Đanien đã ở lại để rửa tội cho tất cả những người đang khóc lóc xin cha ban bí tích Thanh tẩy cho họ trước khi tất cả đều bị giết. Những người Irôquơ đã thiêu sống cha trong nguyện đường nhỏ bé của ngài. Thánh Carôlô Garniê, tuy bị bắn bởi phát súng hỏa mai Irôquơ trong một vụ tấn công đột xuất, vẫn cố gắng bò tới giúp một người bạn đang hấp hối. Sau đó, ngài bị chém chết bởi một nhát rìu. Cha Nôel Cabanel cảm thấy cuộc sống truyền giáo tại Tân Thế Giới thật khó khăn, nhưng cha đã thề nguyền sẽ ở lại Bắc Mỹ. Cha bị một kẻ phản bội thuộc bộ tộc Huron giết hại. Hai vị tông đồ giáo dân, Rênê Gupin và Gioan Laland, đều bị giết bởi những nhát rìu của người da đỏ. Tất cả các vị anh hùng của Chúa Kitô này đã can đảm hiến dâng mạng sống mình vì những người dân bản địa vùng Bắc Mỹ. Người ta thường gọi các ngài là các thánh tử đạo tại Bắc Mỹ. Các ngài được Đức Thánh Cha Piô XI tôn phong lên bậc Hiển thánh năm 1931.

Lược qua đôi dòng lịch sử của các ngài, mình thấy mình còn nhút nhát, hèn hạ quá bạn ạ. Các ngài can trường làm chứng, lấy máu đào của mình minh chứng rằng Chúa Kitô hôm qua, hôm nay, ngày mai còn mình thì chỉ tìm kiếm sự an toàn trong cái vỏ sò của năm ba kinh quen thuộc đọc đi đọc lại, ngủ gà ngủ gật. Các ngài đã để lại cho thế hệ mai sau một tấm gương sáng chói và lòng TRUNG THÀNH với niềm tin cho dù có phải đem cả mạng sống ra để đánh đổi, còn mình thì tìm cách bảo vệ mạng sống của mình bằng cách triệt hạ và chà đạp nhân phẩm của người khác.

Nguyện xin Thánh GIOAN BRÊBEUF, thánh ISAAC JOGUES, và các bạn tử đạo cầu bầu cho con và giúp con biết thăng tiến trong đời sống đức tin.

From: Do Dzung

*************************

Thánh Giá Đời Con – Ns. Thế Thông – Uyên Di

THÁNH LUCA TÔNG ĐỒ, Antiochia, Greece (thế kỷ I)- Cha Vương

Chào bình an! Hôm nay giáo hội mừng kính THÁNH LUCA TÔNG ĐỒ, Antiochia, Greece (thế kỷ I). Mừng quan thầy đến những ai chọn thánh Luca làm bổn mạng nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 18/10/2024

Thánh Luca là một người Hy lạp, ngoại giáo. Khi Thánh Phaolô loan báo Tin Mừng ở thành Troa, Luca đã tin, đã nhập đạo và đã đi theo làm môn đệ của thánh Phaolô nhiều năm.

Thánh Luca là một thầy thuốc. Người ta biết đến ngài vì ngài viết Tin Mừng Chúa Giêsu. Tin mừng theo ngài viết, qua cách diễn tả tài tình,  cách hành văn lưu loát và truyền cảm, cho ta thấy

-Chúa Giêsu nhân từ: cảm thương, tha thứ qua những truyện: người con phung phá, ông Giakêu thu thuế, người Samaritanô nhân hậu, người trộm lành.

-Chúa Giêsu thương người nghèo.

-Chúa Giêsu cầu nguyện và dạy cầu nguyện. Tin mừng theo Luca là  Tin mừng về niềm vui, Tin mừng về cứu rỗi, Tin mừng về Chúa Thánh Thần và Ðức Mẹ Maria. Nhờ ngài sưu tầm và viết lại mà người ta biết Ðức Mẹ khiêm tốn “Xin vâng” nhận làm Mẹ Con Chúa nhập thể trong ngày thiên thần truyền tin ngôi hai làm người. Ðức Mẹ đi thăm bà Isave, xướng kinh “Ngợi khen tuyệt vời”. Ðức Mẹ sinh Chúa Cứu thế, Ðức Mẹ dâng Chúa trong đền thánh, Ðức Mẹ tìm thấy Chúa trong đền thờ, Ðức Mẹ cầu nguyện với các tông đồ chờ Chúa Thánh Thần.

Thánh Luca còn viết sách Tông đồ Công vụ nói lên sự hiệp nhất, sinh hoạt của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Nhờ ngòi bút của Ngài, mọi người hiểu rằng Giáo Hội của Chúa ngay từ lúc ban đầu luôn có Chúa Thánh Thần luôn thúc đẩy mọi hoạt động.

Thánh Luca đã lãnh nhận triều thiên tử đạo lúc 84 tuổi cùng với thánh Tông đồ Anrê tại vùng Achai. Người ta vẽ con bò chỉ về người, con bò là một trong bốn con vật theo thị kiến của ngôn sứ Egiekien đã thấy. Tin mừng theo Luca bắt đầu bằng chuyện ông Giacaria dâng lễ vật trong đền thờ Giêrusalem.

(Nguồn: mạng Dân Chúa)

Thánh Luca là người tận tuỵ làm việc trong việc rao giảng Phúc  âm, đặc biệt là giúp đỡ Thánh Phaolô. Do đó, biểu tượng Con Bò thể hiện sức lao động của con bò trong Phúc  âm và sự chịu đau khổ vì danh Đức Giêsu Kitô.

Bạn đã và đang làm gì để công tác vào việc giao giảng Lời Chúa? Hôm nay mời Bạn hãy dùng những phương tiện truyền thông hiện đại sẵn có trong tầm tay để rao giảng Tin Mừng bằng mọi cách (Facebook, text, email…) gởi đi cho bạn bè và người thân những câu Kinh Thánh và bài suy niệm hàng ngày. Công việc tuy nhỏ bé nhưng nó cũng đóng một vai trò quan trọng trong công việc giao giảng Lời Chúa.

From: Do Dzung

*********************

LỜI CHÚA LÀ THẦN TRÍ VÀ SỰ SỐNG ( TV 18 ) | Quang Thái | Sáng tác : Tường Ân

Thánh Magarita Maria Alacoque, đồng trinh (1647-1690).- Cha Vương

Chúc bạn và gia đình một ngày bình an và hạnh phúc trong Trái Tim Chúa. Hôm nay Giáo hội mừng kính Thánh Magarita Maria Alacoque, đồng trinh (1647-1690). Mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm bổn mạng nhé.

***THÀNH THẬT CẢM ƠN BẠN NHIỀU LẮM LẮM ĐÃ CẦU NGUYỆN CHO MÌNH. MÌNH MỚI XUẤT VIỆN VÀ ĐANG NGHỈ DƯỠNG ĐỂ CHUẨN BỊ CHO KẾ HOẠCH ĐIỀU TRỊ.

Cha Vương

Thứ 4 / 16-10-2024

Magarita Maria sinh ngày 22 tháng 7 năm 1647 ở L’Hautecour, Burgundy, nước Pháp. Sau khi cha chết vào lúc tám tuổi, ngài được gửi vào trường nữ tu Thánh Clara Khó Nghèo ở Charolles. Ngài phải nằm liệt giường vì bệnh sốt thấp khớp cho đến năm mười lăm tuổi, và lúc ấy ngài đã có lòng sùng kính Thánh Thể đặc biệt.

Ngài từ chối việc lập gia đình và gia nhập dòng Thăm Viếng (the Order of the Visitation) ở Paray-le-Monial năm 1671 và khấn trọn vào năm tiếp đó. Một nữ tu dòng Thăm Viếng “không cần phải trở nên phi thường ngoại trừ là một người bình thường,” nhưng người nữ tu trẻ tuổi này thật khác lạ. Một đệ tử sinh (thích chỉ trích) cũng phải công nhận Magarita là người khiêm tốn, đơn sơ và thành thật, nhưng trên tất cả Magarita hiền lành và kiên nhẫn khi bị sửa sai và chỉ trích.

Khi hai mươi tuổi, ngài được thấy Ðức Kitô, và từ ngày 27 tháng 12 năm 1673, cho đến một năm rưỡi sau đó, ngài nhận được một chuỗi những thụ khải. Ðức Kitô nói với Thánh Magarita Maria: “Ðây là Trái Tim đã quá yêu thế gian đến nỗi không còn giữ lại chút gì, cho đến khi kiệt quệ và héo hon, để chứng minh tình yêu của trái tim Thầy. Ðền đáp lại, Thầy chỉ nhận được sự vô ơn bạc nghĩa, qua sự bất kính và phạm thượng của chúng, và qua sự lạnh nhạt và khinh miệt của chúng trong bí tích tình yêu này… Thầy đến trong trái tim mà Thầy đã ban cho con để qua sự nhiệt thành của con, con sẽ đền bù cho những xúc phạm đến Thầy vì những tâm hồn thờ ơ và lười biếng đã làm ô danh Thầy trong Bí Tích Thánh Thể” (lần thụ khải thứ ba).

Qua đó, Ðức Kitô cho biết thánh nữ được chọn làm khí cụ của Ngài để lan truyền việc sùng kính Thánh Tâm Chúa, và qua tình yêu của chính mình, thánh nữ sẽ đền bù cho sự lạnh nhạt và vô ơn của thế gian – qua sự thường xuyên và quý trọng việc Rước Lễ, nhất là trong các thứ Sáu đầu tháng, và qua một giờ cầu nguyện mỗi tối thứ Năm để tưởng nhớ sự thống khổ và cô đơn của Chúa khi trong vườn Cây Dầu. Chúa cũng yêu cầu thiết lập một ngày lễ để kính Thánh Tâm Chúa.

Như tất cả các thánh khác, sơ Magarita đã phải trả giá cho sự thánh thiện của mình. Một số các sơ trong dòng chống đối ra mặt. Các thần học gia được triệu tập để tuyên bố những gì ngài được thụ khải chỉ là ảo tưởng và họ đề nghị ngài ăn uống điều độ hơn. Sau này một cha giải tội của nhà dòng, Chân Phước Claude de la Colombiere, dòng Tên, nhận ra giá trị thực của điều thụ khải và đã hỗ trợ ngài. Bất kể sự chống đối mãnh liệt, Ðức Kitô kêu gọi ngài hãy hy sinh để đền bù cho những thiếu sót của các sơ trong dòng, và để sứ điệp của Chúa được lan rộng.

Cho đến năm 1683, sự chống đối chấm dứt khi Mẹ Melin được chọn làm Bề Trên và bổ nhiệm Sơ Magarita Maria làm phụ tá. Sau này sơ làm Giám Ðốc Ðệ Tử Viện, và được nhìn thấy lễ Thánh Tâm Chúa được nhà dòng cử mừng một cách riêng tư vào năm 1686, và hai năm sau, một nhà nguyện được xây cất ở Paray-le-Monial để kính Thánh Tâm Chúa.

Ngày 08 tháng 10 năm 1690, Magarita mang bệnh và ngày 17 tháng 10 năm đó Ngài từ trần, lúc 43 tuổi. Các nữ tu thấy Ngài trở nên xinh đẹp lạ lùng. Ngài được phong chân phước năm 1864 và tuyên thánh 1920.

Để mừng kính thánh nhân, mời bạn hãy dâng mình cho Rất Thánh Trái Tim Chúa hôm nay nhé:

Lạy Chúa Giêsu, con nhờ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Bà Maria mà dâng cho Trái Tim Chúa mọi lời con cầu xin, mọi việc con làm, mọi sự khó con chịu trong ngày hôm nay, cho được đền vì tội lỗi con và cầu nguyện theo ý Chúa, khi dâng mình tế lễ trên bàn thờ. Con lại dâng các sự ấy cho Trái Tim Chúa có ý cầu nguyện cách riêng theo ý Ðức Giáo Hoàng, cho Hội Thánh và các linh hồn trong lửa luyện ngục.

(Kinh Dâng Mình Cho Rất Thánh Trái Tim Chúa)

Xin cảm tạ Chúa vì những ơn sủng và phúc lành Chúa ban cho con. Xin gìn giữ con hồn an xác mạnh trong ngày hôm nay trong tình yêu và ơn thánh của Chúa, qua lời cầu bầu của Mẹ Maria, các thiên thần và các thánh. Amen.

From: Do Dzung

***************************

Trong Trái Tim Chúa – Phan Đình Tùng 

5 BÀI HỌC QUAN TRỌNG TỪ THÁNH NỮ TÊRÊSA AVILA

Lm. Roger Landry

 Sự thông thái vượt thời gian của vị nữ Tiến sĩ Hội Thánh đầu tiên.

Chúng ta đang tiến nhanh đến dịp kỷ niệm 400 năm ngày tuyên thánh ấn tượng nhất trong lịch sử Giáo Hội, sự kiện đã diễn ra vào ngày 12 tháng 3 năm 1622.

Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XV đã có được những vinh dự này.  Các cuộc tuyên thánh trong giai đoạn lịch sử này là những sự kiện tương đối hiếm.  Mặc dù Công đồng Trentô dạy rằng mẫu gương và lời chuyển cầu của các thánh là một sự trợ giúp đắc lực cho các tín hữu, nhưng phải mất 25 năm sau khi Công đồng kết thúc mới có một số người được tuyên thánh.  Trên thực tế, từ năm 1492 đến năm 1587, chỉ có ba người được tuyên thánh, mỗi thời mỗi khác.  Đức Giáo Hoàng Grêgôriô đã thay đổi điều đó, ngài đã tuyên thánh cùng một lúc cho bốn vị thánh vĩ đại của thời kỳ Phản Cải cách (hay còn gọi là thời kỳ Chấn hưng Công giáo), những người đã sống cùng thời với chính Đức Giáo Hoàng, những người không chỉ biểu trưng cho những gì Giáo Hội đang hướng tới mà còn đóng những vai trò quan trọng trong việc giúp Giáo Hội quay lưng lại với tội lỗi và trở nên trung thành với Tin Mừng.

Bốn người đó là Thánh Inhaxiô thành Loyola, nhà sáng lập Dòng Tên; người bạn cùng phòng thời đại học ngày xưa của Thánh Inhaxiô và nhà truyền giáo vĩ đại nhất mọi thời đại sau Thánh Phaolô, là Thánh Phanxicô Xaviê; người tái Phúc Âm hóa ở Rome vào thế kỷ 16 và người sáng lập Dòng Các Cha Diễn Thuyết (Oratory), là Thánh Philipphê Nêri; và nhà cải cách vĩ đại của đời sống tu trì và người sáng lập Dòng Cát Minh Chân Đất, là Thánh Têrêxa Avila.

Ý nghĩa của những gì đã xảy ra vào ngày 12 tháng 3 năm 1622 trở nên quan trọng đối với toàn thể Giáo Hội, vì gương mẫu của Thánh Inhaxiô, Thánh Phanxicô, Thánh Philipphê và Thánh Têrêsa tiếp tục truyền cảm hứng cho các tín hữu trong mọi bước đường cuộc sống, và các hội dòng mà các ngài và những đứa con tinh thần của mình đã thành lập – làm cho Giáo Hội có thể hiện diện khắp các quốc gia, các trường đại học, các tu viện và còn nhiều hơn thế nữa – đã trở thành nền tảng cho Giáo Hội kể từ đó.

Chúng ta có rất nhiều điều để học hỏi nơi từng người trong số các ngài.  Trong chừng mực ngày Thứ Sáu tới đây là Ngày Lễ của Thánh Têrêsa Avila, người đã qua đời vào ngày 15 tháng 10 năm 1582 (cũng chính ngày này, lịch Julius đổi thành lịch Gregory), nên việc tập trung vào vị thánh nữ này là điều phù hợp.

Mùa hè vừa qua, nhờ có một vài ngày nghỉ phép ở Madrid, tôi đã có cơ hội thực hiện một chuyến đi trong ngày với những người bạn linh mục đến Avila, nơi Thánh Têrêsa sinh ra và bước vào đời sống tu trì, và sau đó đến Alba de Tormes, nơi thánh nữ đã bước vào sự sống vĩnh hằng.  Vì một trong những người bạn đồng hành của tôi có những trách nhiệm đặc biệt trong Giáo Hội ở Tây Ban Nha, nên chúng tôi được đặc ân đi vào trong các khu vực hành lang của ba tu viện Cát Minh, nơi mà chúng tôi có thể đến gần để dõi theo những bước chân của Thánh Têrêsa và cầu nguyện tại chính những nơi mà ngài đã từng chiêm niệm, đã từng xưng tội, đã từng sống và chết.

Chúng tôi có thể tôn kính những thánh tích của thánh nữ, bao gồm cả trái tim không hư nát của ngài đã từng bị đâm thâu một cách mầu nhiệm – “được biến đổi” – bởi tình yêu Thiên Chúa.  Chúng tôi cũng có thể chứng kiến lòng nhiệt thành không phai nhạt của thánh nữ qua các cuộc trò chuyện với những người con thiêng liêng của ngài, có thể cảm nghiệm được tình yêu lớn lao và lời chuyển cầu của họ dành cho các nhu cầu của Giáo Hội, và cũng có thể chúc mừng họ vì dịp lễ kỷ niệm sắp tới.

Vào ngày 27 tháng 9 năm 1970, Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI đã phong ngài làm vị nữ tiến sĩ Hội Thánh đầu tiên.  Tôi muốn nêu bật năm bài học mà ngài dạy cho chúng ta.

Bài học đầu tiên là lòng khao khát thiên đàng mãnh liệt.  Tôi rất ấn tượng khi đến thăm tu phòng nơi thánh nữ qua đời ở Alba de Tormes, và đã nhìn thấy bức tranh tường được vẽ trên đầu giường của ngài về một khung cảnh xảy ra khi ngài 7 tuổi.  Ngài đã sớm xây dựng một ẩn thất nhỏ ở sân sau nhà mình.

Một ngày nọ ở đó, thánh nữ và em trai 5 tuổi Rodrigo bắt đầu chuyện trò về hạnh phúc của các vị thánh trên thiên đàng.  Họ đã sửng sốt bởi ý nghĩ về việc sống “đời đời.”  Rodrigo đã hỏi rằng làm thế nào họ có thể đến được với Thiên Chúa trên thiên đàng nhanh nhất, và Têrêsa đã trả lời rằng qua việc tử đạo.  Câu hỏi làm thế nào họ có thể trở thành những vị tử đạo và Têrêsa đã kể về những người Hồi giáo đang sát hại các Kitô hữu ở Marốc.

Và thế là họ bắt đầu tiến về phía nam để đến Marốc, quên đi sự phức tạp về địa lý của Địa Trung Hải nằm giữa Tây Ban Nha và Bắc Phi!  Họ đã đi ra ngoài các tường thành, đến tận Cầu Adaja theo phong cách Rôma cổ kính, nơi chú Francisco của họ, đang trở về sau một cuộc đi săn, đã nhìn thấy họ và hỏi họ sẽ đi đâu.  Khi họ nói với chú ấy rằng họ đang đến Châu Phi để chịu tử đạo dưới tay người Marốc, chú ấy đã khéo léo tình nguyện cho họ đi nhờ ngựa.  Sau khi nhảy lên ngựa, người chú đã phi nước đại đưa họ trở về nhà để chịu một kiểu tử đạo khác đang chờ đợi họ ở đó.

Đây là một câu chuyện đẹp nhất về tiểu sử của một vị thánh, minh chứng cho tình yêu giống như trẻ thơ mà chúng ta phải dành cho Thiên Chúa, cho thiên đàng, cho sự sống đời đời.  Tình yêu đó vẫn lan tỏa từ bên trong thánh nữ để rồi những hy vọng của ngài cuối cùng cũng đã được thực hiện vào năm 1582.

Bài học thứ hai là về tầm quan trọng và nghệ thuật của cầu nguyện.  Thánh nữ là một Tiến sĩ Hội Thánh chính vì, cùng với nhà cải cách Dòng Cát Minh là Thánh Gioan Thánh Giá, thánh nữ là một trong những người định hướng về đời sống nội tâm quan trọng nhất trong lịch sử Giáo Hội.

Thánh nữ sử dụng văn phong sống động và hình ảnh về một Lâu đài Nội tâm với bảy “tầng” (mỗi tầng gồm nhiều phòng) để truyền đạt những chân lý sâu sắc về đời sống cầu nguyện và đời sống thiêng liêng.  Thánh Têrêsa mời gọi tất cả các chị em của mình – và những người khác – đi qua từng chặng đường của tiến trình thiêng liêng này bằng cách mở lòng đón nhận công việc của Chúa Thánh Thần một cách trọn vẹn hơn.

Bài học thứ ba là về sự hoán cải liên tục.  Thánh nữ vào tu viện Cát Minh lúc 20 tuổi, nhưng cộng đoàn này lại đang ở trong tình trạng bất ổn về mặt thiêng liêng.  Một số nữ tu có nhiều dãy phòng, với cả người hầu và vật nuôi.  Cuối cùng, chính thánh nữ cũng đã từng đầu phục trước tình trạng thế tục, ngài đã dành rất nhiều thời gian để tiếp đãi những người đến thăm và bạn bè trong phòng khách, ngài còn dành cho mình những thỏa hiệp khác nhau với sự phù phiếm thế tục.  Khi thánh nữ 39 tuổi, Thiên Chúa đã thức tỉnh ngài một lần nữa khỏi đời sống nhạt nhẽo, nơi mà ngài đang phải chống chịu với những tội nhẹ, và làm sống lại nơi ngài khao khát về sự thánh thiện, về hạnh phúc.

Kinh nghiệm hoán cải đó dẫn đến bài học thứ tư, đó là sự hoán cải trong Giáo Hội.  Thánh nữ đã chứng kiến và nghiệm thấy những gì có thể xảy đến cho con người ngay cả ở những nơi mà họ thề hứa sẽ dâng hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa.  Thánh nữ đã nhận thức được rằng các cơ cấu của Giáo Hội, bắt đầu từ những người thuộc dòng Cát Minh, cần phải được cải tổ sâu sắc đến mức nào, và bất chấp những đau khổ cá nhân to lớn, thánh nữ đã dành phần đời còn lại của mình cho việc cố gắng trở thành một công cụ để đem những chị em cùng dòng Cát Minh trở về với mối tình đầu của mình, thông qua Giáo Hội.

Giáo Hội lúc nào cũng cần đến sự cải cách và cần đến những nhà cải cách thánh thiện, những người là công cụ của Thiên Chúa để đưa chúng ta trở lại điều mà Chúa Giêsu ở Bêtania đã gọi là “phần tốt hơn” và “một điều cần thiết” (x. Lc 10,41-42).

Cuối cùng, trong Năm của Thánh Giuse này, thánh nữ còn chỉ cho tất cả chúng ta cách để gia tăng lòng sùng kính đối với Người.  Tình yêu của Thánh Têrêsa dành cho Thánh Giuse, Đấng đã được Chúa Cha đã tuyển chọn để dưỡng dục Con của Người theo nhân tính và để bảo vệ và chăm lo cho Thánh Gia, đã bắt đầu khi thánh nữ được chữa khỏi một căn bệnh thể lý sau khi cầu nguyện với Thánh Giuse vào năm 26 tuổi.

Thánh nữ đã viết, “Nhận thấy mình thật khốn cùng trong khi các bác sĩ trần thế còn quá non trẻ đã không thể chữa khỏi được cho tôi.  Tôi đã nhờ đến Thánh Giuse vinh hiển làm người bênh vực và bảo vệ, và đã giao phó chính mình cho Người…  Sự cứu giúp của Người đã mang lại cho tôi nhiều điều tốt đẹp hơn những gì tôi có thể hy vọng.  Tôi không nhớ đã từng cầu xin với Người bất cứ điều gì mà lại không được nhậm lời.”

Thánh nữ đã cố gắng rao truyền về một tình yêu bao la dành cho bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ.

“Tôi ước mình có thể thuyết phục mọi người hết lòng với vị thánh vinh hiển này, vì kinh nghiệm lâu năm đã dạy cho tôi biết về những ơn lành mà Người có thể nhận được từ Thiên Chúa để dành cho chúng ta.  Trong tất cả những người tôi biết với một lòng mộ mến chân thành và một lòng sùng kính đặc biệt đối với Thánh Giuse, thì không ai lại không thăng tiến về mặt nhân đức; Người giúp sức cho những ai hướng về Người để đạt đến việc tiến bộ thực sự…  Tất cả những gì tôi mời gọi, vì tình yêu Thiên Chúa, là bất cứ ai không tin tôi thì hãy thử những gì mà tôi đã nói, và sau đó người đó sẽ tự nhận biết những lợi ích khi giao phó chính mình Thánh tổ phụ Giuse vinh hiển, và rồi người đó cũng sẽ có được một lòng mộ mến đặc biệt đối với Người.  Đặc biệt, những ai sống đời cầu nguyện nên yêu mến Người như một người cha.”

Khi chúng ta kỷ niệm ngày lễ của thánh nữ và chuẩn bị cho dịp kỷ niệm 400 năm ngày thánh nữ được tuyên thánh, chúng ta hãy cầu xin ngài cầu thay nguyện giúp để chúng ta có thể chia sẻ lòng khao khát của ngài dành cho thiên đàng, dành cho cầu nguyện, dành cho sự hoán cải liên tục, dành cho việc cải cách các cơ cấu của Giáo Hội và dành cho việc giao phó toàn thể Giáo Hội cho Thánh Giuse.

Lm. Roger Landry

Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên chuyển ngữ từ National Catholic Register (13.10.2021)

Nguồn: giaophanvinhlong.net


 

Thánh Gioan Lêônarđô (1541? – 1609), Linh mục- Cha Vương

Mến Chúa bạn và gia đình một ngày bình an và tràn đầy sức mạnh của Chúa Thánh Thần nhé. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Gioan Lêônarđô (1541? – 1609), Linh mục.  mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy.

Cha Vương

Thứ 4: 09/10/2024

“Tôi chỉ là một con người! Tại sao tôi phải làm mọi việc? Ðiều đó có ích gì cho tôi?” Ngày nay, cũng như bất cứ thời đại nào, người ta thường cảm thấy khó chịu khi rơi vào tình trạng khó xử vì bị liên lụy. Nhưng Thánh Gioan Leonardi đã trả lời những câu hỏi trên trong một phương cách độc đáo. Ngài chọn trở nên một linh mục.

Thánh Gioan Leonardi sinh ở Diecimo, nước Ý. Ngài làm phụ tá thầy thuốc ở Lucca, đi tu và thụ phong linh mục năm 1572. Sau khi chịu chức, ngài rất tích cực hoạt động tông đồ, nhất là ở bệnh viện và nhà tù. Sự tận tụy và gương mẫu đời sống của ngài đã thu hút vài người trẻ, và họ bắt đầu tiếp tay với ngài. Sau này chính họ cũng trở thành linh mục.

Phấn khởi với luồng gió cải cách mà Công Ðồng Triđentinô đề ra, Cha Gioan và các linh mục bạn đề nghị một tổ chức cho các linh mục triều. Ðề nghị này bị chống đối dữ dội, nhưng vào năm 1583, tổ chức của ngài được đức giám mục Lucca công nhận với sự phê chuẩn của Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô XIII (vào năm 1621, tổ chức này được chính thức đặt tên là Các Tu Sĩ Chuyên Nghiệp của Mẹ Thiên Chúa). Cha Gioan được sự trợ giúp của Thánh Philíp Nêri và Thánh Giuse Calasanctius, và vào năm 1595, tổ chức này được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê VIII công nhận, và đức giáo hoàng đã giao cho Cha Gioan công việc chấn chỉnh các tu sĩ ở Vallombrosa và Monte Vergine.

Ngài chết khi mới 68 tuổi vì bị lây bệnh dịch khi chăm sóc các bệnh nhân ở Rôma. Ngài được sùng kính vì những phép lạ và lòng đạo đức nhiệt thành của ngài, và được coi là một trong những sáng lập viên của Thánh Bộ Truyền Bá Ðức Tin. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Piô XI phong Thánh năm 1938.

Lời Bàn: Mỗi người có thể làm được những gì? Theo ý định và hoạch định của Thiên Chúa cho mỗi người, điều chúng ta có thể làm thì ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Mỗi người, như Thánh Gioan Leonardi, có một nhiệm vụ phải chu toàn trong hoạch định của Thiên Chúa cho thế gian. Mỗi người chúng ta thì độc đáo, và được ban cho các khả năng để phục vụ anh chị em chúng ta trong việc xây dựng Nước Trời.

Lời Trích: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban nước Trời cho anh em. Hãy bán của cải mình và bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không bao giờ mục nát và một kho tàng vô tận ở trên trời, là nơi kẻ trộm cắp không thể bén mảng, mối mọt không thể đục phá” (Luca 12,32-33). (Trích từ mạng NguoiTinHuu)

From: Do Dzung

*************************

Mai Thảo, Thanh Sử – Hãy Theo Thầy 

Thánh Phanxicô Átxidi (Assisi) (1181- 4.10.1226)-Cha Vương

Hôm nay 04/10 Giáo Hội mừng kính thánh Phanxicô Átxidi (Assisi). Mừng lễ Bổn Mạng đến những ai nhận thánh Phanxicô làm quan thầy nhé. Nguyện cho bình an của Chúa toả lan trên khắp thế giới hôm nay.

Cha Vương

Thứ 6: 04/10/2024

Thánh Phanxicô sinh khoảng năm 1181, tại thành phố Átxidi nước Ý. Thánh Phanxicô Átxidi chỉ sống cuộc đời trần thế có 45 năm. Nhưng cuộc đời của Ngài là cả một bài ca. Một bản nhạc với những dòng nhạc,với những cung bậc, hòa nên một bản trường ca tình yêu tuyệt vời. Người ta trong nhiều thế kỷ đã không ngớt ca ngợi thánh nhân vì con người lạ lùng của thánh nhân giữa cuộc đời. Ngay anh em trong Dòng cũng không nhận ra Ngài có gì đặc biệt mà sao lạ lùng thu hút mọi người. Thánh nhân đã rất khiêm nhượng,sự khiêm tốn của một tâm hồn thánh thiện đã nhìn ra con người đầy khiếm khuyết, đầy tội lỗi của mình và có làm được gì là do ân huệ nhưng không của Chúa, đã biến cái tầm thường nên cái phi thường,đã biến cái đơn sơ,nhỏ bé nên cái vĩ đại khôn lường. Vì thế, tình yêu của Phanxicô Átxidi là một tình yêu mang tính cụ thể, thánh nhân yêu mọi người, mọi vật, Ngài biến mọi sự vật,mọi thụ tạo nên sinh động và có nhân tính. Ngài yêu tất cả vì Ngài thấy Thiên Chúa nơi tất cả mà trung tâm là Chúa Giêsu. Thánh nhân yêu thương mọi người với tất cả con tim của mình, với cả cuộc đời mình vì chính Chúa đã chết cho nhân loại trong đó có cả Phanxicô Átxidi. Tình yêu của Phanxicô Átxidi là tình yêu mang tính vui tươi, thoải mái,  Ngài sống trong niềm vui vì lúc nào Ngài cũng mang Chúa trong con người của mình, Ngài đồng hóa mọi sự và nhân cách hóa tất cả để tất cả ca ngợi Chúa trong niềm vui.

Thánh nhân sinh ở Átxidi khoảng năm 1182. Cha Ngài là ông Bênađô là một thương gia tơ sợi nổi tiếng và mẹ Ngài là bà Pica, một người đạo đức, thánh thiện đã hun đúc Ngài nên một vị thánh thời danh. Cuộc nổi loạn của những người lê dân chống lại những nhà quí tộc. Thánh nhân bị bắt và bị giam cầm trong suốt một năm trời ròng rã. Ngài bị một căn bệnh hiểm nghèo và được Chúa cứu chữa, Ngài được khỏi bệnh và Chúa đã cảm hóa Ngài với câu:” Lạy Cha chúng tôi ở trên trời “. Năm 1206, thánh nhân quyết định rũ bỏ bụi trần,từ bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu,dù rằng bị người cha già hết sức phản đối, thánh nhân rất thương cha nhưng không dám làm trái ý Chúa. Thánh nhân phân phát tất cả của cải mình có cho những người nghèo, Ngài chỉ giữ lại một chiếc áo choàng cũ kỹ, rồi ra đi rao giảng Tin Mừng. Ðược Chúa thúc đẩy, soi sáng, thánh nhân đã lập Dòng anh em hèn mọn. Thời gian sau đó, Ngài lui về Alverne, một nơi thật cô liêu phía Bắc Átxidi để ăn chay, cầu nguyện và sống tình thân với Thiên Chúa. Chúa yêu thương Ngài cách đặc biệt, nên trong lúc Ngài xuất thần, Ngài nhìn thấy Tổng Lãnh Thiên Thần Séraphim và một ảnh chuộc tội. Tỉnh dậy, Ngài đã được Chúa in năm dấu thánh trên người lúc đó là năm 1224. Chỉ hai năm sau đó, Ngài lâm trọng bệnh. Trước khi ra đi về với Chúa, thánh nhân khuyên nhủ anh em trong Dòng giữ đức khó nghèo tuyệt đối và trung thành với Giáo Hội Chúa Kitô. Thánh nhân qua đời vào ngày 4.10.1226. Ðức Thánh Cha Grêgoriô đã tôn Ngài lên bậc hiển thánh.

(Nguồn: SimonDalat)

Nói đến Thánh Phanxicô thì chúng ta nghĩ ngay đến Kinh Hòa Bình. Có thể nói, từ những tư tưởng này, ngài được mệnh danh là Sứ giả hòa bình bởi vì chúng là điểm qui chiếu cho đời sống an hòa nơi ngài. Vậy hôm nay mời Bạn dành thời gian để suy niệm Kinh Hòa Bình nhé:

Lạy Chúa, xin hãy dùng con / Như khí cụ bình an của Chúa / Để con đem yêu thương vào nơi oán thù / Đem thứ tha vào nơi lăng nhục / Đem tin kính vào nơi nguy nan / Đem trông cậy vào nơi thất vọng / Dọi ánh sáng vào nơi tối tăm / Đem niềm vui đến chốn ưu sầu. / Lạy Chúa, xin hãy dạy con / Tìm an ủi người hơn được người ủi an / Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết / Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu / Vì hiến thân chính là nhận lãnh / Tha thứ cho người chính là được thứ tha / Cam lòng chịu chết là được sống muôn đời. 

Câu nào đánh động bạn nhất?

Mời bạn hãy đưa câu đó áp dụng vào trong cuộc sống hàng ngày. Đối với mình thì câu, “Đem yêu thương vào nơi oán thù.”

From: Do Dzung

**********************

KINH HÒA BÌNH – Thánh Phanxico thành Assisi – Nhạc: Lm Kim Long

Thánh Têrêxa Hài Đồng Giê-su (1/10)-Cha Vương

Nguyện xin bình an và xin ân sủng và bình an của Thiên Chúa ở cùng bạn và gia đình hôm nay và mãi mãi. Hôm nay 1/10 Giáo Hội mừng kính Thánh Têrêxa Hài Đồng Giê-su, mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 3: 01/10/2024

Thánh Têrêxa là người con thứ năm của một gia đình Công giáo trung lưu thánh thiện và đạo đức. Mẹ của Bà qua đời khi Bà mới bốn tuổi, Bà cùng bốn người chị được người cha thánh thiện nuôi nấng dạy dổ. Cha của Bà là ông Martin và năm người con gái dọn về định cư tại Lisieux để được gần gủi với gia đình. Một thảm cảnh thứ hai lại xẩy đến với Bà là các chị Pauline và Maria mà Bà xem như người mẹ đều vào tu Dòng kín Carmel…

Trong một đêm Noen, với một ân sủng lạ lùng và cao cả, Bà tìm lại được niềm vui cho tuổi trẻ và trong niềm hy vọng tràn trề với Tình Yêu Thiên Chúa mà Bà được nhận lảnh. Một cô bé nhút nhát yếu ớt trở nên bạo dạn và cương quyết, Bà cùng với cha mình đến Roma, trong buổi triều kiến ngày 9 tháng 4 năm 1888, Bà đã vượt qua mọi người và lính gác đến quì duới chân Đức Giáo Hoàng và xin phép được vào tu Dòng Carmel dù Bà mới 15 tuổi. Với lòng trung kiên tuyệt đối Bà tiến tới trên con đường nên thánh.

Bà bị bệnh lao phổi trầm trọng và kinh niên, Bà phú thác mọi sự trong tay Chúa Kitô. Trong sự đau khổ triền miên, Bà hiến dâng lên Chúa để cầu xin cho những người tội lỗi trở lại với Đức Tin. Bà qua đời vào năm 1897 lúc mới 24 tuổi. Bà hứa sẽ làm “mưa hoa hồng” xuống trần thế và lên Thiên đàng bằng “con đường nhỏ”là làm những việc thiện dưới trần thế này.

Chỉ vài năm sau khi Bà lìa đời, câu chuyện cuộc đời của Bà “Câu chuyện một linh hồn”, viết theo lệnh của Bề trên Dòng được phát hành và mọi tầng lớp dân chúng đã đón nhận nồng nhiệt. Nhiều người hành hương đến viếng tu viện Lisieux, họ đã nhận được những phép lạ và những ân sủng lạ lùng khi cầu xin cùng Thánh Têrêxa. Bà được phong hiển thánh năm 1928, và tuyên xưng là Đấng Bảo trợ các nhà truyền giáo. Đến năm 1997 thì Đức Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II tấn phong Tiến sĩ Hội Thánh. (Phó Tế J.B. Huỳnh Mai Trác)

Sau đây là những câu nói của thánh nhân, mời bạn hãy lắng nghe coi ngài đang muốn nhắn nhủ bạn điều gì:

(1) Xin nhớ rằng không có điều gì là nhỏ bé dưới mắt Thiên Chúa. Hãy làm mọi việc với tình yêu.

(2) Vẻ rực rỡ của bông hồng và màu trắng của bông huệ không tước mất hương thơm của bông hoa tím hay lấy đi vẻ hấp dẫn mộc mạc của bông cúc dại. Nếu mỗi bông hoa nhỏ cứ muốn làm một bông hồng, mùa xuân hẳn sẽ mất vẻ yêu kiều.

(3) Hẳn là bạn cũng biết rằng Chúa chúng ta không quan tâm nhiều đến vẻ lớn lao hay sự khó khăn của các hành vi chúng ta làm, nhưng là tình yêu chúng ta có khi làm.

(4) Không có tình yêu, các hành vi, dù sáng chói nhất, cũng không đáng kể gì.

(5) Tin tưởng và chỉ tin tưởng mới dẫn chúng ta đến tình yêu.

(6) Không nên bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào mà không làm một hy sinh nhỏ, ở đây bằng gương mặt tươi cười, ở kia bằng một lời khả ái, luôn luôn làm việc đúng đắn dù nhỏ bé nhất và làm vì tình yêu.

(7) Đối với em, cầu nguyện là một sự trào dâng của con tim; cầu nguyện đơn giản là một cái nhìn hướng về trời, là một tiếng kêu nhận biết và yêu thương, ôm lấy cả thử thách lẫn niềm vui.

(8) Một lời nói hay một nụ cười thường cũng đủ để đưa sự sống tươi mát vào trong một tâm hồn thất vọng.

(9) Bây giờ em biết rằng bác ái chân thật hệ tại gánh lấy tất cả những khuyết điểm của người thân cận – không ngạc nhiên trước sự yếu đuối của họ, nhưng vui sướng về những nhân đức nhỏ nhất của họ.

(10) Con cầm lấy quyển Kinh Thánh. Thế là mọi sự dường như sáng ra với con; chỉ một chữ thôi cũng mở ra cho con những chân trời vô biên, sự hoàn thiện tỏ ra đơn giản với con.

(11) Điều duy nhất con thực sự ước muốn… là yêu cho đến chết vì yêu.

Câu nào đánh động bạn nhất?

Xin Thánh Têrêxa Hài Đồng Giê-su, cầu cho chúng con.

From: Do Dzung

*************************

Yêu Người Như Chúa Yêu