Thánh Gioan Kim Khẩu

Mến chúc Bạn và gia đình một ngày an lành. Nào cùng hít thở sâu 10 lần để lấy sinh lực của Chúa Thánh Thần mà vui tươi hăng say phục vụ nhé.

Cha Vương

Thứ 4: 13/09/2023

Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Gioan Kim Khẩu. Thánh nhân sinh tại nước Thổ nhĩ Kỳ vào năm 349 tại Antiokia. Người ta gọi Ngài là Gioan thành Antiokia, được mệnh danh là Kim Khẩu: Chrysostome. Miệng tuôn toàn những lời quí như vàng. Thánh nhân có tài hùng biện và trí khôn ngoan minh mẫn hiếm có. Gioan thành Antiokia ngay từ khi còn nhỏ đã được mẹ Ngài giáo dục với một lòng nhân ái bao la, truyền đạt cho Ngài một đức tin sắt đá và lòng hy sinh hào hiệp. Năm 373, thánh nhân được tuyển vào chức đọc sách, nhưng tài lợi khẩu, hoạt bát của Ngài đã làm say mê bao người, từ đó danh tiếng Ngài vang dội khắp nơi. Vì danh tiếng lẫy lừng nổi bật do lòng đạo đức thánh thiện và tài hùng biện có sức thuyết phục nhiều người trở về với chúa, người ta nhất loạt tôn thánh nhân lên chức giám mục, nhưng Ngài khiêm tốn khước từ và chỉ thích ẩn mình, ăn chay, cầu nguyện. Ý Chúa lạ lùng không ai hiểu thấu, sau bốn năm sống khắc khổ, Ngài lâm bệnh dạ dầy nặng, buộc Ngài phải trở về Antiokia. Năm 386, thánh nhân lãnh nhận sứ vụ linh mục và trong cương vị linh mục, suốt 12 năm, thánh nhân đã làm say mê dân thành Antiokia nhờ lòng sốt sắng, tài ăn nói thuyết phục, miệng tuôn những lời quí như vàng và đưa rất nhiều người quay về với Chúa do lời giảng dậy của Ngài.

Thánh nhân đả phá những cổ tục mê tín, cuộc sống hào phóng, xa hoa, trụy lạc của những người giầu và kêu gọi mọi người lưu tâm đến những người nghèo. Chính thánh nhân nêu gương sáng sống nghèo và giúp đỡ người nghèo. Năm 397, Ngài được bầu làm giám mục thành Constantinople, thánh nhân lưu tâm nghiên cứu về thánh Phaolô tông đồ, cải tổ hàng giáo sĩ, thiết lập một số qui chế để thánh hóa bản thân, hủy bỏ tận căn mọi tập tục xa xỉ gây tốn phí tiền bạc, của cải, vật chất. Ngài chống đối kịch liệt các bè rối Ariô, Novatio vv.

(Nguồn: Hạnh Các Thánh)

Thánh nhân qua đời vào ngày 14/9/407, Chúa thưởng công Ngài bằng vô số phép lạ sau khi Ngài chết. Ðức Thánh cha Piô X đã nâng Ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh và đặt Ngài làm bổn mạng của những nhà giảng thuyết.

Mời Bạn suy niệm những câu nói vàng ngọc của Ngài sau đây nhé:

(1) Nếu bạn không tìm thấy Chúa Kitô nơi người ăn mày này, thì bạn sẽ không tìm thấy Ngài nơi chén thánh.

(2) Tội lỗi là một vết thương. Ăn năn là thuốc chữa.

(3) Cầu nguyện cho chính mình là bản năng tự nhiên; cầu nguyện cho người khác là bản năng của ân sủng.

(4) Yêu tiền bạc là một điều kinh khủng! Nó làm cho con mắt và lỗ tai không còn nghe thấy gì, khi đó con người tệ như con thú hoang dã.

(5) Tình yêu của người chồng và người vợ là sức mạnh gắn bó toàn xã hội.

(6) Dù lời của bạn có đúng cách nào, nó sẽ mất tất cả hiệu lực nếu bạn nói khi bạn giận.

Câu nào đánh động bạn nhất? (Câu 3 & 6 đánh động mình nhất)

Lạy thánh Gioan Kim Khẩu, xin ban cho chúng con biết dùng miệng lưỡi để ca tụng và cảm tạ tri ân Thiên Chúa.

From: Đỗ Dzũng

Gia Ân – Con Luôn Cần Chúa 

Thánh Peter Claver, Linh Mục dòng Tên

Tạ ơn Chúa đã ban cho những giọt mưa ở Houston. Chúc bạn và gia đình một cuối tuần an lành trong Tình Yêu của Thiên Chúa. Đừng quên cầu nguyện cho nhau nhé.

Cha Vương

Thứ 7: 09/09/2023

Hôm nay 09/09, Giáo hội mừng lễ nhớ Thánh Peter Claver, Linh Mục dòng Tên, truyền giáo tại nước Colombia,Nam Mỹ Tâybanha-Columbia (1580-1654). Sau khi  tốt nghiệp  tại đại học Barcelona nước Tâybanha, cậu quyết định theo ơn gọi Dòng Chúa Giêsu. Dưới sự giám hộ của thánh Alphonsô Rodriguez cậu được huấn luyện làm chiến sĩ truyền giáo cho Nam Mỹ.

Người Tâybanha truyền giáo tại Colombia: Khấn dòng rồi, thầy được gửi đi Cartagena nước Colombia năm 1610, được chịu chức linh mục năm 1615.   Làm việc truyền giáo tại một trung tâm mua bán người nô lệ da đen. Mỗi tháng có tới hàng ngàn nô lệ được đổi chác.

Tự nhận mình là “nô lệ của những người nô lệ”, cha đã dành hầu cả cuộc đời mình (40 năm) để phục vụ người nô lệ.  Mỗi khi nghe có tàu  Âu châu cập bến, cha đem quần áo,  thực phẩm, thuốc và nước uống cho họ,  vì thế mà cha chinh phục được nhiều người trở lại với Chúa.  Ngài đã rửa tội được 300,000 người nô lệ tại Cartagena.

Cha Peter khi cầu nguyện, thường mở cuốn sách “Đời sống Chúa Giêsu “, nhìn vào hình ảnh Chúa trong đó mà cầu nguyện theo lối thánh Ignatio chỉ dạy.  Ngài mở nhiều đến nỗi sách rách và cũ mèn. Hình coi cũ nhất là hình Chúa Giêsu đau khổ cầu nguyện trong vườn Giêtsimani, Chúa bị đánh đòn, đội mũ gai, và chết trên thánh giá. Nhớ tới Chúa Giêsu tử nạn làm tăng sức cho cha Peter thương những người da đen cùng khổ.

Nguyên tắc nên thánh: Cha Peter viết trong tập sổ tay 4 nguyên tắc hướng dẫn đời ngài, những nguyên tắc giúp ngài nên thánh:

(1)Tìm Chúa trong mọi sự,

(2) vâng lời các bề trên như vâng lời Chúa,

(3) làm mọi sự cho vinh danh Chúa hơn,

(4) vui lòng đón nhận bất cứ đau khổ nào, hoặc việc làm nào có thể cứu các linh hồn.

Năm 1650, cha Peter bị bệnh dịch, mệt mỏi vì công việc, ngài nằm liệt giường 4 năm. Ngài chết tại Cartagena ngày lễ Sinh nhật Đức Mẹ  8 tháng 9 năm 1654.  Ngài được phong thánh năm 1888.  Năm 1896,  Đức Giáo Hoàng Lêô 13 đã tôn ngài làm quan thầy các xứ truyền giáo da đen.

(Nguồn: Dân Chúa, Hạnh các thánh)

Sau đây là những câu nói của thánh nhân:

❦  Chúng ta phải nói với họ bằng đôi tay rộng lượng trước khi nói với họ bằng miệng lưỡi của chúng ta.

❦ Tìm kiếm Chúa trong mọi sự và bạn sẽ tìm thấy Chúa ở bên cạnh bạn.

❦ Để làm theo ý muốn của Thiên Chúa, chúng ta phải từ bỏ chính mình: càng chết cho chính mình, thì càng sống cho Thiên Chúa. (Thánh Peter Claver)

Hôm nay mời Bạn hãy nói gương thánh nhân để nên thánh trong mọi hoàn cảnh của mình nhé.

From: Đỗ Dzũng

Sống cho tình yêu -tinmung.net


Tiểu sử thánh Peter Claver theo Ngọn Lửa Catholic và các báo khác.

Thánh Phêrô Claver: Bổn mạng cho công lý giữa các chủng tộc

 

 

Là con trai của một nông dân người Catalonia, Peter sinh ra ở Verdu, Tây Ban Nha vào năm 1581. Ông lấy bằng đầu tiên tại Đại học Barcelona. Ở tuổi hai mươi, ông vào tập viện Dòng Tên và được thụ phong linh mục năm 1615.

Trong khi Phêrô đang học triết học tại Majorca, ông đã gặp Thánh Alphonsus Rodriguez, người gác cửa của trường đại học, người đã được Chúa truyền viễn kiến về sứ mạng tương lai của một người bạn  trẻ, đó chính  là Peter. Do đó, Thánh Alphonsus đã khuyến khích Phêrô đến Nam Mỹ để làm việc với những nô lệ Châu Phi. Peter vâng lời, và vào năm 1610 cập cảng tại Cartagena, nơi ông là “Tông đồ của nô lệ châu Phi” trong 44 năm.

St Peter Claver – Spanish Missionary (1580–1654) | Archdiocese of ...

Cartagena trở thành chợ nô lệ chính của Tân Thế giới, nơi hàng nghìn nô lệ châu Phi bị đổ xuống cảng sau khi vượt đại dương trong điều kiện vô nhân đạo, rồi bị nhốt như những con thú chờ làm thịt. Một nghìn nô lệ đổ bộ vào đó mỗi tháng. Có lợi nhuận khổng lồ trong việc buôn bán nô lệ. Mặc dù những người buôn bán nô lệ dự kiến ​​​​ít nhất một phần ba số hàng hóa nô lệ sẽ chết, nhưng lợi nhuận vẫn đáng kể. Hết vị giáo hoàng này đến vị giáo hoàng khác đã viết thư, lên án và rút phép thông công những người buôn bán nô lệ, nhưng số tiền quá hấp dẫn. Các nhà truyền giáo không thể đàn áp chế độ nô lệ mà chỉ làm giảm bớt nó, và không ai làm việc can đảm hơn Peter Claver.

Nguyện làm “nô lệ của nô lệ mãi mãi”, cuộc đời của Peter Claver được đánh dấu bằng lòng bác ái anh hùng. Dù nhút nhát và thiếu tự tin, nhưng nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, ông đã trở thành một nhà tổ chức dũng cảm và tài giỏi. Hàng tháng khi tàu chở  nô lệ đến bến cảng, Peter gặp họ trên thuyền của người hoa tiêu, mang theo thức ăn và các món ngon khác cho họ, Ngài chỉ ngủ rất ít, không mệt mỏi chăm sóc các nô lệ, rửa và chăm sóc vết thương cho họ, cho họ ăn những thức ăn mà ông đã xin trong thành phố, chôn cất họ.

Ông đã hết sức an ủi họ. Ông thậm chí còn bảo vệ họ chống lại những kẻ áp bức. Ông hướng dẫn người lớn thông qua thông dịch viên và các hình ảnh, và trong suốt 40 năm phục vụ, ông đã rửa tội cho hơn 300.000 nô lệ.

Ông đã chiến đấu không sợ hãi để thực thi luật quy định hôn nhân Thiên Chúa Giáo dành cho nô lệ và ngăn cản việc chia cắt gia đình nô lệ.

 Khi bệnh dịch tấn công thành phố vào năm 1650, Peter là một trong những nạn nhân đầu tiên. Trong bốn năm, ông nằm liệt giường trong căn buồng nhỏ, không thể làm việc và gần như bị lãng quên. Tuy nhiên, khi ông tuyên bố sắp qua đời, đám đông đã đến hôn tay và chân ông. Ông được chôn cất công khai, và danh tiếng về chủ nghĩa anh hùng, sự thánh thiện và những phép lạ của ông nhanh chóng lan rộng khắp thế giới. Đức Leo XIII tuyên bố ngài là đấng bảo trợ cho mọi công việc truyền giáo cho người da đen.

Trích dẫn lời thánh Peter:

“Để yêu mến Thiêd Chúa như Người đáng được yêu, chúng ta phải tách rời khỏi mọi tình yêu trần thế. Chúng ta không được yêu mến gì ngoài Ngài, hoặc nếu chúng ta yêu bất cứ điều gì khác, chúng ta phải yêu điều đó chỉ vì Ngài mà thôi.”

“Chúng ta phải nói chuyện với họ bằng tay trước khi nói chuyện với họ bằng môi.”

Cầu Nguyện Thánh Phêrô Claver:

Lạy Vị Thánh của thời hiện đại của chúng ta, Chúa đã thấm nhuần lòng thương xót đối với những người bị áp bức, đối với những con người bị bán làm nô lệ và bị đối xử như những con thú có thể bị tiêu diệt. Trong khi làm giảm bớt những căn bệnh tự nhiên của họ, bạn cũng loại bỏ những căn bệnh tâm linh của họ và dạy họ kiến ​​thức siêu việt về Đấng Christ.

Xin thánh Peter Claver hãy truyền cảm hứng cho nhiều người cùng thời với chúng con để trở thành những nhà truyền giáo quên mình như các Ngài. Amen.

 

Peter Claver được Đức Giáo hoàng Leo XIII phong thánh vào năm 1896, ĐGH đã tuyên bố Thánh Nhân là người bảo trợ cho tất cả các sứ mệnh Công giáo La Mã đến các dân tộc Châu Phi. Thánh Phêrô cũng là vị thánh bảo trợ của những người nô lệ và Nước Cộng hòa Colombia .

Thánh Mẹ Tê-rê-sa Calcutta (1910-1997)

Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Mẹ Tê-rê-sa Calcutta (1910-1997) và cũng là ngày Labor Day. Happy Labor Day!  Xin Mẹ Tê-rê-sa cầu bầu cùng Chúa cho bạn và gia đình hôm nay nhé. Nếu bạn muốn tìm hiểu về ý nghĩa của ngày Labor Day của nước Hoa Kỳ thì hãy bấm vào link sau đây:

https://www.voatiengviet.com/a/le-lao-dong-hoa-ky/5571162.html

Cha Vương

Thứ 2: 04/09/2023

Mẹ Têrêsa sinh ngày 26/8/1910 tại Skopje, Macedonia, Yugoslavia (Nam Tư); Mẹ có tên thật là Agnes Gonxha Bojaxhiu; con út trong một gia đình có ba người con; cha làm nghề xây dựng và qua đời khi Mẹ mới được 8 tuổi. Ngày 27/8/1910 lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Mẹ Têrêsa thường tâm sự, ngày Rửa Tội chính là ngày sinh nhật chính thức trong cuộc đời của Mẹ.

Ðủ 18 tuổi, Mẹ Têrêsa gia nhập Dòng Nữ Vương Ðức Bà Loreto ở Ái Nhỉ Lan (Ireland). Tu học tại nhà mẹ của Dòng Loreto ở Dublin. Mẹ Têrêsa chọn cho mình tên gọi là Sơ Têrêsa để luôn tưởng niệm Thánh Nữ Têrêsa Lisieux. Tháng 12 năm 1928, Sơ Têrêsa bắt đầu một cuộc hành trình dài đến Ấn Ðộ, rồi tiếp tục đến Darjeeling, khu vực gần Dãy Núi Hy Mã Lạp Sơn (Himalayan Mountains), nơi Sơ Têrêsa tiếp tục tu học cho đến ngày khấn. Không lâu sau đó, vào ngày 6/1/1929 Sơ Têrêsa đến Calcutta, thủ đô Bengal, Ấn Ðộ, để dạy học tại một trường Nữ Trung Học. Trong thời gian tại Calcutta, điều đánh động Sơ Têrêsa nhiều nhất đó là tận mắt trông thấy các bệnh nhân ốm liệt, nghèo đói và hấp hối đầy trên các đường phố.

Năm 1946, sau khi đã chứng kiến những nạn nhân khốn khổ đầy thương tích và chết chóc, các trẻ em bơ vơ trên đường phố, kết quả của những biến cố nổi loạn giữa Hồi Giáo và Ấn Giáo, ngày 10/9/1946, trên một chuyến xe lửa đi về Darjeeling để điều trị bệnh lao mới phát, Sơ Têrêsa nhận ra được tiếng mời gọi của Chúa thúc dục Sơ phục vụ cho những người nghèo đói khốn khổ. Mẹ Têresa kể lại: “Tôi bắt đầu nhận ra tiếng gọi của Chúa kêu mời tôi săn sóc cho những người bệnh tật và nghèo đói, những kẻ rách rưới và lang thang – thúc dục tôi ban phát tình yêu của Chúa cho các người khốn khổ và bơ vơ. Sự kiện nầy đã mở cửa cho bước đầu phục vụ Bác Ái của đời tôi.”

Mẹ Têrêsa không chần chờ, đắn đo, và bắt đầu xin phép rời Hội Dòng Loreto để thiết lập một nhà Dòng mới. Ðược Ðức Giáo Hoàng Piô XII cho phép. Và năm 1948, Mẹ Têrêsa, với chiếc áo dòng củ kỷ và một vài đồng lẻ trong túi đã đến sống giữa những người Ấn Ðộ như một người Ấn Ðộ. Ðương nhiên Mẹ Têrêsa cũng chọn màu áo xanh xám có những viền xanh (biểu hiệu cho Thánh Ý của Thiên Chúa) giống như áo Hội Dòng của Mẹ.

Năm 1952 Mẹ Têrêsa cùng với Hội Dòng Nữ Tu Bác Ái của Mẹ đã bắt tay vào việc. Hội Dòng của Mẹ đã được bản quyền Calcutta cho phép xử dụng ngôi đền Kali đã bị bỏ hoang của Ấn Giáo. Mẹ Têrêsa đã biến nó trở thành Hội Quán Kalighat cho những người nghèo đói đau khổ. Mẹ đã cùng với các cộng tác viên tìm kiếm những người bệnh tật, hấp hối thất thểu ngoài đường phố, đem về săn sóc cho đến ngày họ qua đời. Ðối với những người bệnh tật, Mẹ đã tìm kiếm thuốc thang săn sóc cho họ, đối với những người khổ đau, Mẹ là một nguồn ủi an đem bình an và tình yêu của Chúa đến với họ…

Năm 1962, Mẹ được giải thưởng đầu tiên về công việc Nhân Ðạo của Mẹ. Năm 1979, được giải thưởng Nobel Hòa Bình. Năm 1985, được trao Huy Chương Tự Do, huy chương dân sự cao quý nhất của Hoa Kỳ. Mẹ đã dùng tất cả những số tiền giải thưởng này để thiết lập thêm nhiều trung tâm khác.

Ngày 5/9/1997, Mẹ Têrêsa đã được Chúa gọi về, hưởng thọ 87 tuổi. Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nâng Mẹ lên hàng chân phước ngày 19 tháng 10 năm 2003, chỉ 6 năm sau ngày qua đời. Mẹ Teresa đã được phong thánh vào ngày 4 tháng 9 năm 2016 do Đức Giáo Hoàng Phanxicô chủ sự.

Sau đây là những câu nói đầy thách thức của Mẹ để lại cho nhân loại trong thời đại hôm nay:

(1) Bạn có thể làm gì để xây dựng hòa bình thế giới? Hãy về nhà và yêu thương gia đình bạn.

(2) Dễ để yêu thương người ở xa, nhưng không dễ yêu thương người xung quanh chúng ta. Dễ cho người đói chén cơm để đỡ cơn đói hơn là làm giảm bớt nỗi cô đơn và đau khỗ của người thân trong gia đình. Hãy mang tình yêu thương về nhà vì đây chính là nơi tình yêu thương nên phát xuất.

(3) Niềm vui chính là sức mạnh.

(4) Cuộc sống nếu như không sống vì người khác thì đó không còn là cuộc sống nữa.

(5) Nếu bạn phán xét người khác, bạn chẳng còn thời gian để yêu thương họ nữa.

(6) Mỗi khi bạn cười với ai đó, đó là một hành động của yêu thương, một món quà, một điều đẹp đẽ.

(7) Hãy tận tâm với những điều nhỏ nhặt, bởi điểm mạnh của bạn nằm ở đó.

Mời bạn chọn 1 câu làm châm ngôn sống cho mình hôm nay nhé.

YouTube player

Thánh Augustine (354-430)

28 Tháng Tám

Là Kitô Hữu lúc 33 tuổi, làm linh mục lúc 36 tuổi, được tấn phong giám mục lúc 41 tuổi: ai ai cũng quen thuộc với tiểu sử tóm lược của Thánh Augustine Hippo, một tội-nhân-trở-thành-thánh-nhân. Nhưng có thực sự biết về cuộc đời thánh nhân thì điều đó mới có giá trị.

Dù khi xa cách Thiên Chúa hay hướng về Thiên Chúa, đời sống của ngài mau chóng đạt đến mức độ mãnh liệt. Nước mắt của mẹ ngài, những lời huấn đức của Thánh Ambrôsiô và, trên hết mọi sự, chính Thiên Chúa nói với ngài qua Kinh Thánh đã thay đổi tính đam mê thế gian của Augustine thành một cuộc đời đầy bác ái.

Từng đắm chìm trong sự cao ngạo về cuộc đời mình trong thời niên thiếu và từng say sưa cặn bã cay đắng của cuộc đời, nên người ta không ngạc nhiên khi thấy Augustine, khi quay trở về, ngài đã phải chống trả với sự tấn công của ma quỷ bằng sự thánh thiện quyết liệt. Thời đại của ngài thực sự sa sút — về chính trị, xã hội và luân lý. Người ta vừa sợ và vừa mến ngài, giống như Thầy Giêsu. Ngài bị chỉ trích không bao giờ cùng: là bản tính khắt khe của loài người.

Cuộc đời ngài, do thiên ý, ngài đã chu toàn nhiệm vụ của một ngôn sứ. Như ngôn sứ Giêrêmia và các vị đại ngôn sứ khác, ngài bị bó buộc nhưng không thể giữ im lặng. “Tôi tự nhủ, tôi sẽ không nhắc đến Người, tôi sẽ không nhân danh Người mà lên tiếng nữa. Nhưng rồi như lửa bừng cháy trong tim, giam hãm thân thể tôi; và tôi cầm hãm không nổi, chịu đựng không thấu” (Giêrêmia 20:9).

Lời Bàn

Trong thời đại chúng ta, Thánh Augustine vẫn còn được xưng tụng và vẫn còn bị kết án. Ngài là vị ngôn sứ của thời đại ngày nay, thúc giục chúng ta phải từ bỏ khuynh hướng thoát ly thực tế và can đảm đối diện với trách nhiệm và phẩm giá của mỗi một người.

Lời Trích

“Thật quá trễ để con yêu mến Ngài, ôi Ðấng Tuyệt Mỹ của ngày xa xưa ấy, nhưng mới lạ hơn bao giờ hết! Thật quá muộn để con yêu mến Ngài! Và đây, Ngài ở bên trong, con ở bên ngoài, và con đi tìm Ngài; con bị méo mó, đắm chìm trong những hình dáng đẹp đẽ mà Ngài đã dựng nên. Ngài ở với con, nhưng con không ở với Ngài. Nhiều thứ đã giữ con xa Ngài – những thứ mà nếu chúng không ở trong Ngài, thì chẳng là gì cả. Ngài kêu lớn và gào thét vào sự ngơ điếc của con. Ngài lấp lánh và chiếu sáng vào sự mù quáng của con. Ngài thở hương thơm và con bị lôi cuốn – và con khao khát Ngài. Con đã nếm thử, và con đói khát. Ngài chạm đến con, và con đã bừng cháy vì sự bình an của Ngài” (Tự Thú của Thánh Augustine).

Trích từ NguoiTinHuu.com

Thánh Gioan Tẩy Giả Bị Chém Ðầu

29 Tháng Tám

Thánh Linh.Net

Lời thề khi say sưa của một vị vua coi thường danh dự, một điệu vũ mê hoặc và một con tim hận thù của hoàng hậu đã đưa đến cái chết của Gioan Tẩy Giả. Vị ngôn sứ vĩ đại nhất đã chịu chung số phận như nhiều ngôn sứ khác trong Cựu Ước: bị tẩy chay và tử đạo. “Tiếng kêu trong sa mạc” không ngần ngại lên án kẻ có tội, và dám nói lên sự thật. Tại sao ngài làm như vậy? Ngài được gì khi hy sinh mạng sống mình?

Nhà cải cách tôn giáo này đã được Thiên Chúa sai đến để chuẩn bị dân chúng đón nhận Ðấng Thiên Sai. Ơn gọi của ngài là một hy sinh cách vị tha. Chỉ có một quyền năng mà ngài công bố là Thần Khí Thiên Chúa. “Tôi làm phép rửa cho các người với nước để giục lòng sám hối, nhưng Ðấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi. Tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các ngươi trong Thánh Thần và lửa” (Mátthêu 3:11). Phúc Âm kể cho chúng ta biết có nhiều người theo Gioan để tìm kiếm hy vọng, có lẽ vì nóng lòng chờ đợi Ðấng Thiên Sai. Gioan không bao giờ tự nhận cho mình cái vinh dự giả dối khi dân chúng tuốn đến với ngài. Ngài biết ơn gọi của mình là sự chuẩn bị. Khi đã đến lúc, ngài dẫn các môn đệ đến với Chúa Giêsu: “Hôm sau, ông Gioan lại có mặt ở đó với hai môn đệ của ông và khi thấy Ðức Giêsu đi ngang qua, ông nói: ‘Ðây là Chiên Thiên Chúa.’ Hai môn đệ nghe nói, liền đi theo Ðức Giêsu” (Gioan 1:35-37)

Chính Gioan Tẩy Giả là người đã chỉ đường đến Ðức Kitô. Ðời sống và cái chết của Gioan là để hy sinh cho Thiên Chúa và loài người. Lối sống đơn giản của ngài thực sự là lối sống tách biệt khỏi vật chất thế gian. Tâm hồn của ngài đặt trọng tâm ở Thiên Chúa và lời mời gọi ngài nghe được từ Thần Khí Thiên Chúa đã đánh động tâm hồn ngài. Tin tưởng ở ơn Chúa, ngài đã can đảm nói những lời kết tội hoặc kêu gọi sám hối, vì sự cứu độ.

Lời Bàn

Mỗi người đều có một ơn gọi mà họ phải lắng nghe. Không ai có thể lập lại sứ vụ của Thánh Gioan, và tất cả chúng ta đều được kêu gọi đến một sứ vụ riêng biệt. Ðó là vai trò làm chứng nhân cho Ðức Giêsu của mỗi một Kitô Hữu. Bất cứ hoàn cảnh nào trong đời sống, chúng ta được mời gọi để trở nên môn đệ của Ðức Kitô. Qua hành động và lời nói, người khác sẽ nhận thấy chúng ta đang sống trong niềm vui khi tin nhận Ðức Giêsu là Chúa chúng ta. Chúng ta không bị gò bó bởi sức mạnh hạn hẹp của chính chúng ta, nhưng chúng ta có thể tìm thấy sức mạnh từ ơn cứu độ bao la của Ðức Kitô.

Lời Trích

Họ đến gặp Gioan và nói: ‘Thưa thầy, người đã ở với thầy bên kia sông Giođan, và được thầy chứng thực, bây giờ ông ấy đang làm phép rửa, và mọi người đều đến với ông ấy.” Gioan trả lời: ‘Không ai có thể nhận được gì mà không do trời ban. Chính anh em làm chứng là tôi đã nói: tôi không phải là Ðấng Thiên Sai, mà chỉ là kẻ được sai đến trước Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chàng rể; người phù rể đứng ở đó thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng rể. Như vậy niềm vui của tôi đã được trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Gioan 3:26-30).

Trích từ NguoiTinHuu.com

Thánh Batôlômêô (thế kỷ thứ 1) tông đồ

Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé. Hôm nay 24/8, Giáo hội mừng kính trọng thể Thánh Batôlômêô (thế kỷ thứ 1) tông đồ. Mừng Bổn mạng đến những ai chọn thánh nhân làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 24/8/2023

Trong Tân Ước, Thánh Batôlômêô chỉ được nhắc đến trong danh sách các tông đồ. Một số học giả cho rằng ngài là Natanien, người Cana xứ Galilê được Philípphê mời đến gặp Ðức Giêsu. Và Ðức Giêsu đã khen ông: “Ðây đích thực là người Israel. Lòng dạ ngay thẳng” (Gioan 1:47b). Khi Natanien hỏi Ðức Giêsu làm sao Ngài biết ông, Ðức Giêsu trả lời “Tôi thấy anh ở dưới cây vả” (Gioan 1:48b). Ðiều tiết lộ kinh ngạc này đã khiến Natanien phải kêu lên, “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa; chính Thầy là Vua Israel” (Gioan 1:49b). Nhưng Ðức Giêsu đã phản ứng lại, “Có phải anh tin vì tôi nói với anh là tôi thấy anh đứng dưới cây vả? Anh sẽ được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa!” (Gioan 1:50)

Quả thật Natanien đã được nhìn thấy những điều trọng đại. Ngài là một trong những người được Ðức Giêsu hiện ra trên bờ biển Tiberia sau khi Phục Sinh (x. Gioan 21:1-14). Lúc ấy các ngài chài lưới cả đêm mà không được gì cả. Vào buổi sáng, họ thấy có người đứng trên bờ dù rằng không ai biết đó là Ðức Giêsu. Ngài bảo họ tiếp tục thả lưới, và họ bắt được nhiều cá đến nỗi không thể kéo lưới lên nổi. Sau đó Gioan nói với Phêrô, “Ðó chính là Thầy.”

Khi họ dong thuyền vào bờ, họ thấy có đám lửa, với một ít cá đang nướng và một ít bánh. Ðức Giêsu bảo họ đem cho mấy con cá tươi, và mời họ đến dùng bữa. Thánh Gioan kể rằng mặc dù họ biết đó là Ðức Giêsu, nhưng không một tông đồ nào dám hỏi ngài là ai. Thánh Gioan cho biết, đó là lần thứ ba Ðức Giêsu hiện ra với các tông đồ.

Sổ Tử Ðạo Rôma viết rằng Thánh Batôlômêô đã rao giảng ở Ấn và Armenia, là nơi ngài bị lột da và bị chém đầu bởi vua Astyages. Người được đặt làm quan thầy của các người làm nghề buôn thịt hoặc làm nghề thuộc da.

(Nguồn: Nhóm Tinh Thần & Người Tín Hữu)

Giống như Natanien, có khi nào bạn nghi ngờ rằng Chúa Giêsu chính là người mà bạn đang tìm kiếm và khao khát không? Nhưng Chúa Giê-su không ngần ngại ra tay trước. Trước khi kêu gọi bạn, Chúa Giêsu đã biết bạn là ai rồi. Đây là điều bạn cần mở lòng và đặt hết niềm tin tưởng vào quyền năng của Ngài.

Lạy Chúa, xin ban cho con một lòng tin vững mạnh, để con thật tình gắn bó với Đức Ki-tô, Con Một Chúa, như thánh Ba-tô-lô-mê-ô tông đồ. Xin Chúa cũng nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà cho con sống thế nào, để muôn dân nhận biết Hội Thánh chính là bí tích cứu độ.

From: Đỗ Dzũng

Ánh mắt Ngài yêu thương (Lm. Nguyên Hòa – Khắc Dũng) 

Thánh Rôsa-Lima (1586 -1617)  

Một ngày đầy nhiệt huyết để yêu Chúa và phục vụ tha nhân nhé bạn. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Rôsa-Lima, mừng Bổn Mạng đến những ai chọn Thánh Rôsa làm quan thầy.

Cha Vương

Thứ 4: 23/08/2023

Thánh Rôsa-Lima (1586 -1617) là Nữ Tu Đa-minh người Pê-ru, và là người sáng lập một Đan Viện chiêm niệm đầu tiên tại Pê-ru. Không chỉ là Nữ Bổn Mạng của Mỹ Châu La-tinh, Thánh Nữ còn được đặt làm Bổn Mạng của đất nước Pê-ru, của thủ đô nước này là Li-ma, của Tây Ấn-độ và của Philippine. Ngài sinh vào ngày 20 tháng 04 năm 1586 tại Li-ma, Pê-ru, với tên trong giấy khai sinh là Isabel de Flores. Cha mẹ Ngài là một cặp vợ chồng nghèo túng người Tây-ban-nha, nhưng lúc đó đã di cư sang Pê-ru, Nam Mỹ, và sống ngay tại thủ đô Lima của nước này. Nàng một mực vâng lời cha mẹ, nàng làm tất cả với một nụ cười thật tươi trên môi do bởi tình yêu Chúa Giêsu. Nàng luôn cố gắng để giúp đỡ mọi người. Rôsa rất xinh đẹp. Mẹ nàng muốn con gái mình mặc áo quần đẹp, nhưng Rôsa thưa với Mẹ: “Mẹ à, chỉ có cái đẹp của tâm hồn mới quan trọng”. Một chàng trai trẻ tuổi, giàu có muốn cưới Rôsa, Chàng xin dâng một căn nhà đẹp và nhiều tôi tớ phục vụ cho nàng, nhưng nàng từ chối. Nàng đã yêu chúa với tất cả con tim và chỉ muốn phục vụ Thiên Chúa mà thôi. Khi cha mẹ lâm cảnh nghèo túng, Rôsa đi làm việc mỗi ngày, ban đêm phải may thêm để giúp cha mẹ. Rôsa đến thăm nhà của những người nghèo và mang cho họ thức ăn. Nàng dâng mọi nỗi khó nhọc và làm những công việc tốt lành để cầu xin cho những người tội lỗi quay về với Chúa. Thiên Chúa thường hiện ra với thánh nữ dưới dạng một em bé nhỏ để nói chuyện với nàng là ngài thật hài lòng về những việc làm tử tế của Thánh nữ. Rôsa qua đời khi nàng mới 31 tuổi. Thánh nữ là vị thánh tiên khởi của miền Nam Mỹ châu.

(Hạnh Các Thánh, Lm Lovasik SVD)

Sau đây là những câu nói của ngài:

(1) Nếu mọi người biết ơn thánh là gì, họ sẽ muốn được chịu đau khổ, sẽ đón tìm cực khổ, bắt bớ để chiếm hữu cho được, bởi vì ơn thánh là cái giá khôn sánh đáp đền cho lòng nhẫn nại.

(2) Thiếu gánh nặng đau khổ thì không thể đạt đến đỉnh cao ơn thánh. Những tặng ân ơn thánh gia tăng khi các cuộc giao chiến gia tăng.

(3) Khi chúng ta phục vụ người nghèo và người bệnh, là chúng ta phục vụ chính Chúa Giê-su. Chúng ta không được lơ là trong việc giúp đỡ tha nhân, vì chúng ta phục vụ Chúa Giê-su trong anh em.

(4) Không có đau khổ thì không thể đạt tới đỉnh cao của sự thánh thiện.

(5) Lạy Chúa xin gia tăng đau khổ cho con—cùng với các đau khổ, xin tăng bội Tình yêu cho trái tim con.

Hôm nay bạn hãy tìm cách bắt chước một nhân đức của thánh nhân, sống đơn sơ và kiên nhẫn hơn nhé.

 Lạy Thánh nữ Rosa Lima xin cầu bầu cho con trước ngai tòa Chúa để con biết sống bác ái như thánh nữ mà không đắn đo hơn thiệt.

From: Đỗ Dzũng

Tình con yêu Chúa – Cẩm Ly

Thánh Pi-ô X, giáo hoàng (1835-1914)

Một tuần mới, một ngày mới, một giây phút mới… một cơ hội để sống yêu thương hơn… Hôm nay Giáo Hội mừng Kính Thánh Pi-ô X, giáo hoàng (1835-1914). Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 21/08/2023

Thánh nhân sinh năm 1835 tại Ri-ê-sê, nước Ý. Sau khi làm linh mục, người dấn thân thi hành việc mục vụ. Người làm giám mục Man-tô-va, rồi làm thượng phụ giáo chủ Vê-nê-xi-a và cuối cùng, năm 1903, được chọn làm giáo hoàng. Người chu toàn bổn phận của mình theo khẩu hiệu người đã chọn: “Canh tân mọi sự trong Chúa Ki-tô” với lòng đơn sơ, đời sống thanh bần và can đảm. Cùng với những đức tính ấy, người đã giúp các tín hữu sống đạo nhiệt thành và đối phó với những sai lầm đang lan tràn trong Hội Thánh. Khi Đại Thế Chiến thứ nhất bùng nổ, thánh giáo hoàng Piô X đã phải đau khổ nhiều. Ngài biết nhiều người sẽ bị giết chết. Thánh Piô X nói: “Cha sẽ vui mừng dâng hiến mạng sống cha để cứu những em nhỏ đáng thương khỏi nỗi đau kinh khủng này!” Về cuối đời, thánh nhân cũng nói: “Cha đã sống nghèo, và cha ao ước cũng được chết nghèo!” Piô X chẳng bao giờ giữ lại cho mình bất cứ của gì cho tới ngày về gặp Thiên Chúa. Người qua đời ngày 20 tháng 8 năm 1914.

Ngài là vị giáo hoàng của bí tích Thánh Thể, đã khuyến khích mọi người hãy rước Chúa Giêsu Thánh Thể cách thường xuyên. Ngài cũng hạ thấp mức tuổi cho trẻ em để chúng được phép rước Chúa Giêsu vào lòng sớm hơn.

Truyền thuyết ghi rằng ngài có một cuộc sống tình nghĩa rất nặng với gia đình nhất là với mẹ của ngài. Đức Giáo Hoàng Piô X khi còn là cậu bé ở làng Riese mỗi ngày phải đi bộ 7 cây số để đến trường, sáng đi 7 chiều về 7. Bà mẹ, bà Magarita dù nghèo song cũng ráng mua cho con một đôi giày cho con đỡ đau chân. Đứa con tốt lành này cũng rất thương cha mẹ cho nên sáng ra khỏi nhà thì mang giày vào chân kẻo mẹ rày, sau khi xa nhà thì cởi giấy quảy trên vai cho tới khi tới trường mới mang vào để chúng bạn khỏi cười chê. Ra khỏi trường lại cởi ra, về gần tới mới xỏ vào sợ mẹ buồn. Cậu bé Sartô làm như thế vì sợ mòn đôi giày và tốn kém cho cha mẹ.

Khi được được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Mantua, một hôm, ngài về thăm mẹ. Mẹ con ngồi nói chuyện khá lâu, ngài tếu táo khoe với mẹ chiếc nhẫn Giám mục của mình: “Mẹ xem này, chiếc nhẫn Giám mục mới của con đây”. Mẹ ngài mỉm cười chìa bàn tay thô cộc cho thấy chiếc nhẫn cưới bình dị của mình và nói: “Không có chiếc nhẫn cưới nghèo nàn này của mẹ đây thì chẳng có chiếc nhẫn ấy đâu.”

Noi gương thánh nhân mời bạn hôm nay hãy làm mọi công việc của mình một cách vui vẻ trong Chúa Ki-tô nhé.

Thánh Pi-ô X, cầu cho chúng con.

From: Đỗ Dzũng

Sống Trong Niềm Vui | Hà Thanh Xuân 

Thánh Mác-xi-mi-li-a-nô Ma-ri-a Kôn-bê, linh mục, tử đạo (Maximilian Mary Kolbe) (1894-1941).

Chúc bình an, hôm nay 14/08 Giáo Hội mừng kính Thánh Mác-xi-mi-li-a-nô Ma-ri-a Kôn-bê, linh mục, tử đạo (Maximilian Mary Kolbe) (1894-1941). Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thánh Mác-xi-mi-li-a-nô chào đời vào ngày 7 thánh giêng năm 1894, tại Zund-Wola, thuộc nước Balan. Bố mẹ đặt tên là Raymond. Năm 1907, thánh nhân nhập dòng Phan sinh và lấy tên là tu huynh Maximilian. Ngài được gởi sang Rôma để học triết học và thần học. Kolbe thụ phong linh mục vào năm 1918. Sau khi trở về Ba lan, Ngài thành lập đội Đạo binh Đức Mẹ vô nhiễm. Năm 1927, Kolbe thành lập hội ”Thành Phố Đức Mẹ vô nhiễm”.  Hội này phát triển và lan rộng tại Ba Lan và nhiều nước khác.

Trở về Ba Lan năm 1936, cha phải chịu nhiều cuộc bách hại của Gestapo (mật thám Đức Quốc xã). Ngày 17 tháng 2 năm 1941, Maximiline bị bắt và giam vào trại Auschwitz, với số hiệu tù nhân: 16670.

Vào ngày 31 tháng Bảy 1941, có một tù nhân trốn thoát. Sĩ quan chỉ huy trại bắt 10 người khác phải chết thay. Hắn khoái trá bước dọc theo dãy tù nhân đang run sợ chờ đợi sự chỉ định của hắn như tiếng gọi của tử thần. “Tên này.” “Tên kia.” Có những tiếng thở phào thoát nạn. Cũng có tiếng nức nở tuyệt vọng. Trong khi 10 người xấu số lê bước về hầm bỏ đói, bỗng dưng tù nhân số 16670 bước ra khỏi hàng. “Tôi muốn thế chỗ cho ông kia. Ông ấy có gia đình, vợ con. “Cả một sự im lặng nặng nề. Tên chỉ huy sững sờ, đây là lần đầu tiên trong đời hắn phải đối diện với một sự can đảm khôn cùng. “Mày là ai?” “Là một linh mục.” Không cần xưng danh tính cũng không cần nêu công trạng. Và Cha Kolbe được thế chỗ cho Trung Sĩ Francis Gajowniczek.

Trong “hầm tử thần” tất cả bị lột trần truồng và bị bỏ đói để chết dần mòn trong tăm tối. Nhưng thay vì tiếng rên xiết, người ta nghe các tù nhân hát thánh ca. Vào ngày áp lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (14 tháng 8 năm 1941) chỉ còn bốn tù nhân sống sót. Tên cai tù chấm dứt cuộc đời Cha Kolbe bằng một mũi thuốc độc chích vào cánh tay. Sau đó thân xác của ngài bị thiêu đốt cũng như những tù nhân khác. Đức Thánh Cha Phaolô VI phong chân phước cho Ngài vào năm 1971. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh vào năm 1982. Mời bạn hãy noi gương thánh nhân qua việc suy gẫm những câu nói của ngài và can đảm làm một việc bác ái nho nhỏ hôm nay nhé.

(1) Thiên Chúa cho phép mọi việc xảy ra để nhắm đến một phúc lành lớn hơn.

(2) Chúng ta hãy để Mẹ hướng dẫn, hãy đưa tay cho Mẹ dắt dìu, hãy sống yên hàn dưới sự dẫn dắt của Mẹ; chính Mẹ sẽ chăm sóc và tiên liệu mọi sự cho chúng ta, sẽ mau mắn cứu giúp, đáp ứng những nhu cầu hồn xác, đẩy lùi những khó khăn phiền toái cho chúng ta.

(3) Chính sự vâng phục, và chỉ có sự vâng phục mà thôi, mới cho ta biết chắc ý muốn của Thiên Chúa.

(4) Chừng nào chúng ta phải hy sinh ý riêng, chừng đó lòng yêu mến đó được thể hiện rõ ràng hơn cả.

(5) Bạn đừng e sợ rằng: bạn dành cho Mẹ Maria quá nhiều tình yêu. Liệu tình yêu của bạn có hơn tình yêu Chúa Giêsu dành cho Mẹ.

❦ Câu nào đánh động bạn nhất?

From: Đỗ Dzũng

Con Chúa Hy Sinh – Hiệp Lễ 

Thánh Clara (St. Clare of Assisi, 1194-1253)

Chúc bình an, hôm nay 11/8, Giáo Hội mừng kính Lễ Thánh Clara, đồng trinh. Ngài là bổn mạng của Giáo Xứ mình đó. Xin bạn một lời cầu nguyện cho giáo dân của mình và cho công việc mục vụ trong giáo xứ. Mừng Bổn Mạng đến tất cả mọi người nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 11/08/2023

Thánh Clara (St. Clare of Assisi, 1194-1253) là thiếu nữ xinh đẹp của một gia đình giầu có ở Assisi. Khi mười tám tuổi, ngài được khích động bởi một bài giảng của Thánh Phanxicô Assisi, và cương quyết noi gương các tu sĩ Phanxicô, thề sống khó nghèo, tận hiến cho Thiên Chúa. Gia đình ngài hoảng sợ, dùng sức lực ép buộc ngài phải trở về nhà; nhưng một đêm kia, trong một hành động vừa có tính cách khôn khéo và ý nghĩa, ngài lẻn ra khỏi nhà qua “cánh cửa người chết” (cánh cửa nhỏ để khiêng người chết ra ngoài), và đến với các tu sĩ Phanxicô.

Trong một nhà nguyện nhỏ bé ở ngoại ô, Thánh Phanxicô đã cắt mái tóc của Clara và trao cho thánh nữ chiếc áo nâu thô kệch làm chiếc áo dòng. Sau đó, thánh nữ sống với các nữ tu dòng Bênêđíctô cho đến khi có thêm sự gia nhập của các phụ nữ khác, trong đó có cả người mẹ goá bụa của ngài và các phụ nữ thuộc gia đình quý tộc ở Florence.

Cộng đoàn nhỏ bé ấy dần dà được biết đến dưới tên Các Chị Em Hèn Mọn (các tu sĩ Phanxicô là Anh Em Hèn Mọn) hoặc dòng Clara Khó Nghèo. Khi tu hội được thành lập, Thánh Phanxicô đề nghị Clara làm bề trên, nhưng ngài từ chối cho đến khi được hai mươi mốt tuổi. Các nữ tu trong dòng tận tụy trong việc cầu nguyện, chăm sóc bệnh nhân và thi hành việc bác ái cho người nghèo và người bị ruồng bỏ.

Họ sống theo một quy luật khắc khổ hơn bất cứ tu hội phụ nữ nào khác trong thời ấy, và tuyệt đối khó nghèo, cả về phương diện cá nhân cũng như cộng đoàn. Họ đi chân đất, không có giường, mà nằm trên các khúc gỗ được đan lại và chăn mền là vỏ cây gai dệt thành. Gió mưa tha hồ lọt qua các vết nứt ở mái nhà cũng như vách gỗ. Họ ăn rất ít và không bao giờ ăn thịt. Thực phẩm của họ là tất cả những gì xin được. Bất kể sự khắc khổ của đời sống, những người theo Thánh Clara lại là những thiếu nữ xinh đẹp nhất Assisi và lúc nào họ cũng có niềm vui vì được sống gần Thiên Chúa.

Thật vậy, Thiên Chúa đã gìn giữ họ khỏi sự nguy hiểm khi bọn lính hung dữ đến tấn công Assisi và dự định bố ráp tu viện này trước hết. Lúc ấy, dù đang đau nặng, Thánh Clara đã gắng gượng quỳ xuống trước cổng, tay nâng Mình Thánh trong mặt nhật và ngài cầu xin, “Lạy Chúa, xin hãy gìn giữ các nữ tu mà con không thể nào bảo vệ nổi.” Sau đó, dường như có tiếng trả lời: “Ta sẽ luôn gìn giữ họ” và đồng thời ngay lúc ấy, quân lính cảm thấy vô cùng sợ hãi và họ chạy tán loạn.

Thánh Clara làm bề trên tu viện trong bốn mươi năm mà hai mươi chín năm ấy ngài trong tình trạng đau yếu. Nhưng lúc nào ngài cũng vui vẻ vì cho rằng đó là sự phục vụ Thiên Chúa. Nhiều người cho rằng các nữ tu đau yếu là vì quá khắc khổ. Ngài nói, “Họ nói chúng tôi quá nghèo khổ, nhưng một tâm hồn có được Thiên Chúa vĩnh cửu thì có thực sự nghèo không?”

Thánh Clara từ trần ngày 11 tháng Tám 1253. Chỉ hai năm sau, ngài đã được Ðức Giáo Hoàng Alexander IV tôn phong lên bậc hiển thánh.

Sau đây là những câu nói của Thánh Clara, mời Bạn đọc và suy niệm để noi gương yêu mến Chúa của ngài:

❦ Các Chị Em Hèn Mọn sống tuyệt đối khó nghèo… Nhiều người cho rằng các nữ tu đau yếu là vì quá khắc khổ. Ngài nói, “Họ nói chúng tôi quá nghèo khổ, nhưng một tâm hồn có được Thiên Chúa vĩnh cửu thì có thực sự nghèo hay không?”

❦  Yêu mến Chúa, phụng sự Chúa; mọi thứ đều ở trong đó.

❦  Yêu mến Người thì sẽ say mê, chiêm ngưỡng thì được thêm sức mạnh. Lòng nhân hậu của Người làm ta no thoả, sự dịu dàng của Người làm ta ngây ngất.

❦  Nỗi ưu phiền là thuốc độc đối với lòng sùng kính. Khi gặp thử thách, chúng ta cũng nên hân hoan hơn vì chúng ta đang được GẦN CHÚA hơn.

Thánh nữ Clara, cầu cho chúng con.

From: Đỗ Dzũng

Con Yêu Chúa. Ca sĩ: Khắc Thiệu

Thánh Đa Minh

Một ngày bình an và hạnh phúc nhé. Hôm nay 8/8 Giáo Hội mừng kính Thánh Đa Minh, chúc mừng Bổn Mạng đến các nam nữ tu sĩ, linh mục Dòng Đa Minh và những ai nhận thánh Đa Minh làm quan thầy. Chúc mừng! Chúc mừng!

Cha Vương

Thứ 3: 8/8/2023

Thánh Đa Minh sinh năm 1170 tại Caleruega, thuộc dòng tộc Guzman, nên được gọi là Đa Minh Guzman. Guzman là một dòng tộc vị vọng tại Tây ban nha vào thời trung cổ. Thân phụ ngài là ông Felix, một kiếm sĩ “tuyệt vời và dịu dàng.” Bà cố là Joanna d’Aza, xuất thân từ gia đình cao quý. Bà cố đạo đức và được đức giáo hoàng Leo XII tuyên phong chân phước. Bên cạnh Đa Minh, bà cố còn có một người con nữa cũng là chân phước dòng Đa Minh: Mannes. Thực là gia đình đạo hạnh: một thánh, hai chân phước. Theo thánh Jordan Saxony, vị ký lục về cuộc đời Đa Minh kể lại, thì khi đang mang thai, bà cố mơ thấy mình cho chào đời một con chó ngậm bó đuốc đang cháy sáng và mang lửa đến khắp thế giới. Rồi trong ngày thánh nhân rửa tội, mẹ đỡ đầu trông thấy trên trán chú bé một ngôi sao sáng, chiếu tỏa chung quanh. Do đó tại sao ngày nay khi tạc tượng thánh Đa Minh, người ta cũng tạc luôn tượng con chó đang ngậm đuốc sáng nằm dưới chân, còn trên trán ngài thì có ngôi sao sáng.

Dù được cưng chiều, thánh Đa Minh sớm sống đời khổ hạnh. Đến tuổi đi học, Đa Minh được gởi tới thụ giáo với ông cậu là linh mục ở Gumiel. Năm 14 tuổi, Ngài theo học tại đại chủng viện ở Palencia và đã tiến triển rất nhanh về hiểu biết lẫn nhân đức. Nạn đói lan tràn nước Tây Ban Nha, một người bạn đến thăm Đa Minh không thấy đồ dùng lẫn những pho sách quí đâu nữa. Ngài đã bán để giúp người nghèo khó rồi. Gương sáng này đã lôi kéo được nhiều sinh viên lẫn các giáo sư bắt chước.

Ngài là đấng sáng lập Dòng Anh Em Giảng Thuyết (Ordo Praedicatorum”, viết tắt: O.P.) về sau người ta thường gọi là Dòng Đa Minh. Vào năm 1206 thánh nhân lập hội dòng nữ Đa Minh đầu tiên tại Prouille, nước Pháp. Ngài chọn đường lối rao giảng Tin Mừng bằng cách lấy khó nghèo và cầu nguyện làm gương sáng thu hút mọi người. Cuộc đời của thánh Đa Minh được giáo hội ca tụng là ngài chỉ “nói với Chúa, về Chúa và trong Chúa.” Đem Chúa đến cho tha nhân, và nhờ sức mạnh của lời cầu nguyện, người dẫn đưa tha nhân về với Chúa. Chân phước Jordano ghi rằng: Cha thường cầu nguyện suốt đêm, Chúa đã ban cho cha ơn đặc biệt cầu nguyện cho các tội nhân, cho người nghèo và người sầu khổ. Cha cảm thông với những đau cổ của họ tận đáy lòng, và biểu hiện ra bên ngoài bằng những dòng nước mắt. Có khi giữa đêm thanh vắng. Ngài lớn tiếng kêu nài: Chúa ơi! Rồi đây các tội nhân sẽ ra sao? Một hôm Thánh Nhân rảo qua khắp nẻo trên đường giảng dạy, một thanh niên ngây ngất hỏi Ngài đã học cách nào, Ngài nói: Hỡi con trong sách đức ái đó, sách này hơn mọi sách dạy bảo tất cả.

(Nguồn: Hạnh Các Thánh)

Hôm nay mời Bạn hãy bắt chước Thánh Đa Minh, bằng chính đời sống cầu nguyện của mình, “đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Máccô 16:15), và qua việc cầu nguyện dẫn đưa tha nhân về với Chúa.

From: Đỗ  Dzũng

YouTube player

ĐaMinh Ngọn Đuốc Tin Mừng (Sáng tác: Sr. Clara Chu Linh.OP) – Vũ Phong Vũ