S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Buồn

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Người Việt rất hay buồn. Họ buồn đủ chuyện, đủ thứ, đủ cách, đủ kiểu, đủ loại và buồn dài dài: buồn chồng, buồn vợ, buồn con, buồn chuyện gia đình, buồn chuyện nước non, buồn chuyện tình duyên, buồn trong kỷ niệm, buồn tình đời, buồn nhân tình thế thái, buồn thế sự đảo điên, buồn tàn thu, buồn tàn canh gió lạnh …  Đó là chưa kể những nỗi buồn buồn lãng xẹt: buồn trông con nhện giăng tơ, buồn trông cửa bể chiều hôm, buồn trông nội cỏ rầu rầu, buồn trông con nước mới sa …

Lúc nào và ở đâu dân Việt cũng đều có thể buồn được cả (ngoại ô buồn, thành phố buồn, đô thị buồn) và họ luôn luôn buồn quá mạng, buồn dữ dội, buồn thê thảm, buồn da diết, buồn thảm thiết, buồn tê tái, buồn miên man, buồn mênh mông, buồn man mác, buồn nát tâm tư, buồn rười rượi, buồn nẫu ruột, buồn muốn chết, buồn muốn khóc, buồn thấy mẹ, buồn tận mạng, buồn quá xá, buồn quá trời, buồn thỉu buồn thiu, buồn hết biết luôn …

Nói tóm lại là người Việt buồn muôn thuở, buồn quanh năm, buồn suốt tháng, bất kể ngày đêm: ngày buồn tênh, đêm buồn tỉnh lẻ, khuya phố thị buồn, chiều chủ nhật (cũng) buồn … Toàn là những nỗi buồn ngang, buồn bất chợt, buồn vô cớ, buồn vào hồn không tên, buồn mà không hiểu vì sao mình buồn nhưng họ đều buồn thiệt và buồn lắm lận.

Chỉ có nỗi buồn về mùa màng thời tiết thì dân Việt mới nêu rõ nguyên do và ghi khá rõ – từ lâu – qua những câu lục bát rất nhịp nhàng, và khá điệu đàng:

Buồn về một nỗi tháng giêng
Con chim, cái cú, nằm nghiêng thở dài
Buồn về một nỗi tháng hai
Đêm ngắn, ngày dài, thua thiệt người ta
Buồn về một nỗi tháng ba
Mưa rầu, nắng lửa, người ta lừ đừ
Buồn về một nỗi tháng tư
Con mắt lừ đừ cơm chẳng muốn ăn
Buồn về một nỗi tháng năm
Chửa đặt mình nằm gà gáy, chim kêu

Riêng tôi thì vì đã quá già (có ngủ nghê gì được mấy đâu) nên đêm dài lắm. Nghe tiếng “gà gáy, chim kêu” còn mừng là đằng khác. Bởi thế, tôi chả hề phiền hà gì “về nỗi tháng năm”. Có buồn chăng – chả qua – chỉ vì chút dư âm của tháng tư (thôi) nhưng cứ buồn hoài và buồn quá.

Ngoài chút phiền lòng vì “nắng lửa, lừ đừ, cơm chẳng muốn ăn”, tôi còn buồn lòng không ít vì cả nước chợt ồn ào và náo nhiệt một cách giả tạo và gượng gạo. Khắp nơi bỗng đều đỏ rực một mầu, ngó mà ớn chè đậu:

Thiên hạ, xem ra, không được “sôi nổi” gì cho lắm:

  • Thái Hạo: “Anh em trong nhà, đánh nhau một trận, năm mươi năm sau’ còn ăn mừng chiến thắng. Đó là tiểu khí của người nhỏ nhen”.
  • Nguyên Tống: “Cùng là anh em nòi giống Việt, đánh nhau đến tan cửa nát nhà rồi ăn mừng mãi cái ngày đó thì làm sao mà hoà giải dân tộc được?!”
  • Nguyễn Hữu Vinh: “Quan sát hiện tượng này, người ta có cảm giác rằng đảng giống như một con nghiện. Nhân tố gây nghiện ở đây là bạo lực, là hình ảnh của sự tàn bạo, sự giết chóc để thỏa mãn bản chất bạo lực của Đảng của Giai cấp vô sản chuyên nghề lật đổ và cướp từ chính quyền cho đến lợi ích, tài sản.”
  • Nguyễn Thông: “Kiểu kỷ niệm, diễu hành, phô trương như này, xưa chỉ thấy ở đám phát xít Đức, về sau rõ nhất ở Triều Tiên … Hãy sống với thế giới văn minh chứ đừng mãi man rợ cờ phướn như thế.”
  • Phạm Quang Trung“Anh em đánh nhau một trận rồi thôi, cười khì…đàng này đã 50 năm rồi mà vẫn tiệc tùng ăn mừng chiến thắng! Vậy là sao ta!?”

Câu hỏi thượng dẫn khiến tôi nhớ đến chuyến viếng thăm tiểu bang Hawaii của TT Nhật bản Shinzo Abe, và bài diễn văn ông đọc vào ngày hôm sau (26 tháng 12 năm 2016) tại Trân Châu Cảng. Xin trích dẫn đôi đoạn, theo bản văn của dịch giả Nguyễn Quốc Vương:

Đấy là nơi tôi đã cúi đầu mặc niệm. Nơi đang khắc tên những người lính đã mất… Mỗi người lính đều có bố có mẹ lo lắng cho mình. Họ cũng có người vợ yêu thương và người yêu. Và có lẽ họ cũng có cả những đứa con mà họ đang háo hức với sự lớn lên từng ngày của chúng.

Tất cả những tâm tư ấy đã bị cắt đứt. Khi nghĩ đến sự thật nghiêm trọng ấy và cảm nhận sâu sắc nó, tôi đã không thể thốt nên lời. Hỡi những linh hồn, xin hãy ngủ yên! Tôi, với tư cách là đại diện cho quốc dân Nhật Bản đã thả hoa xuống biển nơi những người lính đang an nghỉ với cả tấm lòng thành…

Tôi, với tư cách là thủ tướng Nhật Bản, xin được gửi lời chia buồn chân thành mãi mãi tới linh hồn của những người đã bỏ mạng ở mảnh đất này, tới tất cả những người dũng cảm đã bỏ mạng bởi cuộc chiến tranh bắt đầu từ đây và cả linh hồn của vô số người dân vô tội đã trở thành nạn nhân của cuộc chiến tranh.

Tấn thảm kịch của chiến tranh sẽ không bao giờ được lặp lại.Chúng tôi đã thề như thế. Và rồi sau chiến tranh, chúng tôi đã xây dựng nên quốc gia tự do, dân chủ, tôn trọng pháp trị và duy trì lời thề bất chiến một cách chân thành.

Khi chiến tranh kết thúc, lúc Nhật Bản trở thành cánh đồng cháy trụi mênh mông và khổ sở trong tận cùng của nghèo đói, người đã không hề ngần ngại gửi đến thức ăn, quần áo là nước Mĩ và quốc dân Mĩ. Nhờ những tấm áo ấm và sữa mà quý vị gửi đến mà người Nhật đã giữ được sinh mệnh tới tương lai…

Và rồi nước Mĩ cũng đã mở cho Nhật Bản con đường trở lại cộng đồng quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của nước Mĩ, chúng tôi, với tư cách là một thành viên của thế giới tự do đã được hưởng thụ hòa bình và sự phồn vinh.

Tấm lòng khoan dung rộng lớn, sự giúp đỡ và thành ý như thế của quý vị đối với người Nhật chúng tôi, những người đã từng đối đầu quyết liệt như kẻ địch đã khắc sâu trong lòng ông bà, bố mẹ chúng tôi. Cả chúng tôi cũng sẽ ghi nhớ điều đó. Cả con cháu chúng tôi cũng sẽ kể mãi và không thể nào quên…

Đã 75 năm sau trận “Trân Châu cảng”. Nhật Bản và nước Mĩ, những nước đã tham dự cuộc chiến tranh tàn khốc trong lịch sử, đã trở thành hai nước đồng minh gắn bó với nhau mạnh mẽ và sâu sắc hiếm có trong lịch sử…  Thứ gắn kết chúng ta chính là “sức mạnh của hòa giải”, the power of reconciliation, thứ do lòng khoan dung mang lại.

Người Nhật và người Mỹ không đợi đến ngày nay mới quyết định “bỏ đi sự thù hận và nuôi dưỡng tình bạn”. Ngay sau khi Thế Chiến Thứ II vừa chấm dứt, họ (kẻ thắng/người thua) đã nắm tay nhau để tạo nên “sức mạnh của tinh thần hòa giải” và sự “khoan dung” gần trăm năm nay.

Chiến tranh VN cũng đã chấm dứt 49 năm (rồi) nhưng không biết đến bao giờ thì Bên Thắng Cuộc ở đất nước này mới thôi việc đình đám/cờ xí/tiệc tùng ăn mừng chiến thắng, thôi kỳ thị, và thôi kích động hận thù để hòa giải và hòa hợp với Bên Bại Cuộc?

Trương Nhân Tuấn trả lời: “Tôi có thể kết luận (mà không sợ sai lầm) rằng đảng và nhà nước CSVN chưa bao giờ có chủ trương về hòa giải (hay HG&HH DT). Hòa giải-réconciliation” là hành vi chỉ có ở những dân tộc văn minh”.

Nghe thế có buồn không?

Buồn chớ và buồn muốn khóc luôn, buồn như chưa bao giờ buồn thế, buồn như không còn ai có thể buồn hơn được nữa. Buồn từ ngãy bẩy, ngã ba buồn về.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Cô Thảo & chú Lâm

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Ngày đầu tháng 11 năm 2021, giới truyền thông VN đồng loạt (và hớn hở) đi một tin vui lớn:

  • Một trường của ĐH Oxford cam kết đổi tên thành ‘Thao College’
  • Linacre College muốn đổi tên theo tỉ phú Nguyễn Thị Phương
  • Một trường của ĐH Oxford đổi tên thành Thao College
  • Trường đại học tại Anh Linacre muốn đổi tên tri ân CEO Nguyễn Thị Phương
  • ĐH Linacre có thể đổi tên thành ĐH Thao theo tên tỉ phú Nguyễn Thị Phương

Những ngày vui, tiếc thay, thường ngắn. Qua hôm sau, T.S Vũ Thị Phương Anh ái ngại cho hay:

Không có trường đại học Linacre. Sứ mạng của Linacre là… nội trú – tức cung cấp nơi ăn chốn ở, điều kiện học tập và sinh hoạt cho những người đang học tại các chuyên khoa của đại học Oxford…

Trường này sẽ đổi tên thành Thao College theo tên của bà Nguyễn Thị Phương Thảo, người sáng lập kiêm Tổng Giám đốc hãng hàng không Vietjet. Việc này diễn ra sau khoản quyên góp đến 155 triệu bảng Anh (hơn 4.800 tỷ đồng) của bà cho trường này…

Phó Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục và Đào tạo giáo viên – Đại học Quốc tế Hồng Bàng, tiến sĩ Vũ Thị Phương Anh cho biết Linacre College là một trường nội trú thuộc đại học Oxford. Đại học này có đến 45 “residential colleges”, có thể dịch là “trường nội trú” hoặc “khu nội trú” trên khuôn viên rộng rãi và rất đẹp của đại học này.

 Và đã là một trường nội trú thì sứ mạng của Linacre là… nội trú. Tức là cung cấp nơi ăn chốn ở, điều kiện học tập và sinh hoạt cho những người đang học tại các chuyên khoa của đại học Oxford… Tóm lại, nếu muốn cho người Việt có thể hiểu thì cứ dịch nó là ký túc xá là đúng nhất, mặc dù tất nhiên là nó cũng rất khác.

T.S Vũ Thị Phương Anh khiến tôi nhớ đến “điều kiện học tập” (cùng “nơi ăn chốn ở”) của đám “học sinh vùng cao” tại Việt Nam, theo tường trình – “Bám Lớp Mùa Giáp Hạt” – của nhóm phóng viên Tuổi Trẻ Online:

“Những ngày tháng tư, hàng chục học sinh ở xã Mường Lý, huyện vùng cao Mường Lát (Thanh Hóa) thường xuyên phải nhịn đói đứt bữa đến trường học chữ tại trung tâm xã… Hơn 12g trưa, chúng tôi bước vào căn lều của ba em Vàng A Sự (học lớp 6B), Vàng A Tu (học lớp 8B) và Vàng A Chua (học lớp 9), đều là dân tộc Mông, trú tại bản Sài Khao, cách trường hơn 20km, khi ba em đang ăn cơm.

Nhìn vào mâm cơm trưa Sự, Tu, Chua, ngoài giá cơm chỉ có bát măng rừng luộc và bát muối trắng. Chua nhìn tôi nhoẻn miệng cười gượng: ‘Hôm nay các em còn có măng để ăn, chứ mọi hôm chỉ ăn cơm với muối trắng chan nước lạnh thôi.”

T.S Trần Đăng Tuấn, người khởi xướng chương trình “Bữa Cơm Có Thịt” cho học sinh miền núi, cũng nói y như thế: “Khi bạn lên vùng cao, bế các cháu bé sẽ thấy chúng nhẹ bỗng.” Thảo nào mà sự hào phóng của bà Nguyễn Thị Phương Thảo, xem chừng, không được dư luận đồng tình (hay tán thưởng) nồng nhiệt gì cho lắm:

FB Nguyễn Phú Yên băn khoăn:

“Thử nhìn hình ảnh sinh viên của trường Linacre rồi so sánh với hình ảnh các em học sinh VN phải đu dây, phải đi cầu khỉ, chui vào bọc ni lông qua sông để vào ngồi trong các lớp học rách nát, chúng ta sẽ thấy xót xa biết chừng nào? Cũng lớn lên từ trong lòng đất nước, cùng máu đỏ da vàng sao không biết xót thương đất nước, đồng bào, thương các em nhỏ cùng cực, không ‘lá lành đùm lá rách’ theo truyền thống đạo lý của dân tộc? Có phải là ‘bòn nơi khố rách đãi nơi quần hồng’ chăng? Buồn thật!”

Tôi hoàn toàn tôn trọng “nỗi buồn” của ông Nguyễn Phú Yên, tất nhiên. Tuy nhiên, vấn đề cũng có thể nhìn ở một góc cạnh khác – đỡ buồn hơn chút xíu – theo quan điểm của FB Nguyễn Ngọc Chu:

“Có nhiều nguyên nhân giúp cho người ta giàu. Trong số đó có nguyên nhân là bởi người giàu biết tiêu tiền. Mỗi đồng tiền của người giàu chi ra đều phải sinh lời. Người giàu không bao giờ tiêu tiền vô ích. Không biết tiêu tiền thì không thể giàu. Vì thế ở đây không bàn về cách tiêu tiền của người giàu. Chỉ nhớ về cách tiêu tiền của người giàu.”

Về cách “tiêu tiền của người giầu” ở VN thì báo chí ở xứ sở này đâu có bao giờ thiếu thông tin. Họ thuộc về một giai cấp mới, và được G.S Nguyễn Văn Tuấn gọi là bọn (nouveau riche) giầu xổi:

Nếu có người “chơi” một con tép giá “nghìn đô” và con chó “triệu đô” (hay “chiếc lá cảnh nửa tỷ đồng”) thì việc hiến tặng vài trăm triệu cho một cơ sở giáo dục đâu có phải là chuyện lớn. Bách nhân bách tính mà. Mỗi người có một kiểu tiêu xài khác chớ, miễn đừng có xài tiền của bá tánh là tốt rồi.

Chút “miễn trừ” này, tiếc thay, rất ít khi được giới quan chức VN lưu tâm. Họ cứ chơi xả láng sáng về sớm bằng mồ hôi nước mắt của thiên hạ nên vẫn thường gây điều tiếng tùm lum.

Vụ lùm xùm mới nhất, vừa xẩy ra hôm 5 tháng 11 vừa qua, liên quan đến việc ông Bộ Trưởng Công An Việt Nam (“đớp thịt bò vàng giá hơn ngàn Mỹ Kim”) khiến cho bàn dân thiên hạ xôn xao. RFA tường thuật: “Tờ The Sun, nhật báo xuất bản tại Vương quốc Anh, Bắc Ireland và Cộng hoà Ireland, gọi bữa ăn của Bộ trưởng Tô Lâm là ‘Bò Cộng sản’… một loạt trang mạng và các tờ báo khác trên thế giới cũng đều đăng bài về bữa ăn này của Tô Lâm như BBC, VOA, Bangkok Post, The Straits Times, Yahoo News….”

Còn dân Việt thì (ôi thôi!) rủa xả không ngớt:

  • Phạm Đình Trọng: “Tận cùng bất lương, tận cùng giả dối.”
  • Phạm Minh Vũ: “Ăn trên xương máu đồng bào.”
  • Thái Hạo: “Hoang phí bằng lối sống xa hoa phè phỡn là biểu hiện của sự tha hóa nhân tính. Đối với một triều đại thì đó là dấu hiệu của suy tàn và diệt vong.”
  • Nguyễn Ngọc Già: “Thiên hạ, với hàng ngàn lời bình phẩm chát chúa pha lẫn mặn đắng, có lẽ làm cho đầu lưỡi của ông Tô Lâm và ông Tô Ân Xô cùng hơn 5 triệu đầu lưỡi của đảng viên ĐCSVN và đặc biệt là 18 cái lưỡi của thành viên Bộ Chính trị, gần như bị tê cứng hơn cả ướp muối.”
  • Trần Trung Đạo: “Trong suốt 47 năm qua, các thế hệ Việt Nam đã đổ mồ hôi, nước mắt và cả máu để nuôi dưỡng giai cấp thống trị hoàn toàn không làm một việc gì hữu ích cho xã hội ngoài hút máu dân tộc Việt.”

Sao mà nặng lời dữ vậy, mấy cha?

Có vị còn phát biểu (cứ y thật) rằng vụ này sẽ lôi thôi lớn, và lôi thôi lắm, chứ chả phải chuyện đùa đâu. Sự nghiệp chính trị của chú Lâm – tới đây – kể như là chấm hết.

Hổng dám hết đâu!

Chơi tới bến như Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Hà Giang (Nguyễn Trường Tô)       mà vẫn hạ cánh an toàn thì chỉ ăn (có mỗi một miếng thịt bò) thôi nào phải là chuyện lớn. Hồi năm 2018, chú Lâm còn làm một vụ dại dột hơn nhiều (khiến cả Âu Châu sửng sốt, sau khi bắt cóc Trịnh Xuân Thanh) mà cũng có sao đâu.

Bỉnh bút Nguyễn Trường Sơn (VNTB) trấn an: “… phía sau ngài Tô Lâm là thể chế độc đảng, là 95 triệu dân răm rắp tuân lệnh, là Bộ Chính trị đứng trên hiến pháp, là nền báo chí một chiều, là nền tư pháp luật là tao, tao là luật, là một quốc hội có 95% là đảng viên của một đảng chính trị.” Đảng và Nhà Nước, chắc chắn, sẽ không bao giờ đụng chạm gì tới “cái lá chắn” của chế độ này cả. Khỏi có lo đi.

Tuy thế, nếu tôi là chú Lâm thì tôi sẽ nhẩy cầu Long Biên cho nó xong đời. Chớ sống gì nổi nữa, hả Trời!

TNT – 11/21


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Dang

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Tên đúng của ông có thể là “Đăng,” “Đặng,” “Đằng,” hay “Đáng,” hoặc “Đang” (người Việt không mấy ai tên “Dang”) nhưng tôi không dám chắc vì chỉ được biết qua một bài báo bằng tiếng nước ngoài (“Han ble smuglet inn i Norge i et bagasjerom. Et halvt år senere ble han pågrepet på en hasjplantasje”) đăng tải trên tờ Aftenposten, phát hành từ Na Uy, vào ngày 27 tháng 8 năm 2021.

Bản tiếng Việt (gồm 4371 từ) của dịch giả tên Trang, xuất hiện trên FB Nhân Văn Việt – Na Uy mấy hôm sau đó. Xin được tóm lược :

“Dang” cho biết quê anh là làng chài Đô Thành, thuộc miền Trung Việt Nam. Từ nơi đây, nhiều thanh niên Việt Nam đã đi lậu trong các xe container xuyên qua Trung Quốc, rồi vượt biên giới vào Nga (Russland), trước khi trở thành nhân công lao động giá bèo hoặc gái mại dâm ở các thành phố Châu Âu.

 Trên hành trình dài 11.660 km đến Na Uy, “Dang” trốn trong một thùng container sau xe tải. Đến ngày hôm nay, anh vẫn còn ám ảnh trong giấc mơ về những điều khủng khiếp mà anh đã thấy trên tuyến đường đó…

 Ô nhiễm môi trường, đánh bắt cá quá mức và bất hợp pháp, công nghiệp hóa ngày càng phát triển đã dẫn đến tình trạng rất khó khăn cho ngành ngư truyền thống ở Việt Nam. Đối với đại gia đình của “Dang”, giải pháp cuối cùng là gửi cậu con trai lớn nhất trong một chiếc container đến Tây Âu. “Dang” cho biết gia đình đã phải thế chấp căn nhà và bán tất cả những gì đáng giá để trả tiền cho nhóm buôn người.

 Tôi ra đi để tìm một cuộc sống tốt hơn. Nhưng nếu tôi biết trước kết quả thế này, tôi thà chọn cuộc sống một ngư dân nghèo. Theo “Dang” biết, gia đình đã thỏa thuận giá 25.000 USD với nhóm buôn người. Và đã trả trước một nửa.

“Dang” – người đàn ông 25 tuổi – kể lại cuộc hành trình phải đi xuyên qua Trung Quốc, Nga, Latvia, Belarus (Hviterussland) và Ba Lan. Theo “Dang”, chiếc container mà đoàn của anh đi chỉ có hai lỗ thoát khí nhỏ. Họ phải tiểu tiện và đại tiện trong một túi nhựa lớn.

 Tháng 2/2021, “Dang” bị kết án 2 năm tù và phải bồi thường gần 100.000 kroner cho một công ty điện lực của Na Uy vì đã ăn cắp điện để trồng 649 cây cần sa. Bản án được giữ nguyên tại Tòa Phúc Thẩm Eidsivating vào tháng 6/2021, nhưng được giảm xuống còn 1 năm 9 tháng.

 Ngày 19 tháng 8/2021, Tòa Án Tối Cao Høyesterett đã bác đơn kháng cáo của “Dang”. Luật sư biện hộ Audun Helgheim nói rằng họ sẽ kháng cáo vụ việc lên Tòa Án Nhân Quyền Châu Âu. Câu hỏi chánh và gây tranh cãi ở đây là: “Dang” là tội phạm hay nạn nhân!?

 Tòa án quận Gjøvik viết trong bản án từ tháng 2: Tòa án căn cứ theo yếu tố bị cáo, sau khi đến Na Uy, ít nhất là bởi bị lạm dụng hoàn cảnh bí thế của mình, đã bị buộc phải trồng cần sa. Điều này dẫn chứng cho thấy bị cáo là nạn nhân của nạn buôn người”…

 UDI (UtlendingsDIrektorate) đã xét đơn theo lời khai của “Dang”. Trong giấy phép cấp cho anh được cư trú tạm thời tại Na Uy (midlertidig oppholdstillatelse), viết là họ tin rằng có thể lý giải được là anh đã bị hại trong vụ buôn người.

 Rosa, một tổ chức hỗ trợ những người có thể là nạn nhân tệ nạn buôn người, cũng tích cực trong vụ án của “Dang”. Mildrid Mikkelsen của hội Rosa cho rằng việc bỏ tù một người cùng lúc với việc điều tra xem người đó có phải là nạn nhân buôn người là điều chúng ta cần phải suy ngẫm…

 Điều “Dang” lo sợ là anh sẽ bị trả về Việt Nam. Luật sư biện hộ Audun Helgheim cho biết: Về Việt Nam, anh có nguy cơ bị thủ phạm ám hại, do những gì anh đã khai… Tương lai ở Việt Nam của người đàn ông trẻ Việt Nam này, là một sự mịt mù. Nếu tôi về nhà, có lẽ tôi sẽ bị giết. Và ở đó, tôi cũng không còn gì. Trong cuộc thẩm vấn với cảnh sát vào ngày 22 tháng 6 năm nay, “Dang” nói anh như một người đã chết: Tôi không còn gì để sống nữa. Tôi chỉ ước ao có thể gặp lại mẹ một lần.

 Câu nói thượng dẫn bỗng khiến tôi nhớ mấy câu thơ của Huyền Chi, và bản nhạc Thuyền Viễn Xứ của Phạm Duy: Nhìn về đường cố lý cố lý xa xôi/ Đời nhịp sầu lỡ bước bước hoang mang rồi …/ Mẹ già ngồi im bóng mái tóc tuyết sương/ Mong con bạc lòng …

Không biết có bao nhiêu bà mẹ Việt Nam vẫn đang ngồi tựa cửa mỗi chiều, và bao nhiêu thanh niên thiếu nữ từ xứ sở này đã “lỡ bước hoang mang” trên con đường lưu lạc. Điều an ủi duy nhất cho những kẻ tha phương cầu thực là không hề có một lời lẽ, cử chỉ, hay thái độ miệt thị nào từ người dân (cũng như từ những cơ quan hữu trách) ở nước ngoài.

Sáng sớm hôm 23 tháng 10 năm 2019, dân Anh vừa mở mắt dậy đã nhận được thông tin khiến ai cũng phải bàng hoàng: cảnh sát mới phát hiện ra 39 thi thể người Việt nằm chết trong một cái container tại khu công nghiệp Waterglade!

Họ phản ứng ra sao?

Không một lời than phiền, không một câu trách móc. Sau khi biết rõ sự việc, họ bầy tỏ sự thương cảm bằng cách lặng lẽ mang hoa tưởng niệm đến nơi đặt xác nạn nhân. Ngay sau đó, họ tổ chức cầu nguyện cho linh hồn của người quá cố. Rồi họ sắp xếp những chuyến bay để đưa tất cả thi hài của những kẻ xấu số trở về quê quán, và đích thân vị đại sứ Anh ở Việt Nam – ông Gareth Ward – đã đến tận nơi để chia buồn.

Người Na Uy bây giờ cũng thế. Từ luật sư, toà án, nha ngoại kiều, và các cơ quan thiện nguyện của họ đều chia sẻ một nỗi băn khoăn chung:“Dang” là tội phạm hay nạn nhân!?”

Có lẽ cả hai nhưng đồng bào của nạn nhân, tiếc thay, chỉ nhìn ra ông là một tên tội phạm :

  • Kieu Ninh Vaagen: “Nhìn mặt biết gian.”
  • Hoang Nguyen Van: “Nhìn mặt là biết lưu manh, là trùm du đảng, không là nạn nhân.”
  • Cuong Le: “Xứ này luật pháp văn minh và nhân bản nên các lão cứ thoải mái lợi dụng quyền làm người rồi khai ra làm sao cho thật đáng thương để được khoang hồng…”

Cá nhân “Dang” thì không hề có một lời biện minh, biện hộ hay biện bạch nào cả. Trong cuộc thẩm vấn với cảnh sát vào ngày 22 tháng 6 năm nay, ông chỉ nói: “Tôi không còn gì để sống nữa. Tôi chỉ ước ao có thể gặp lại mẹ một lần.”

Nỗi “ước ao” nhỏ bé này lại khiến tôi liên tưởng đến đôi câu đối thoại (giữa hai người đồng cảnh, từ hai phòng giam sát cạnh nhau, tại nhà tù nào đó ở Âu Châu) trong truyện ngắn của một nhà văn Việt Nam ở Na Uy:

Tuyết ho, tôi xót ruột. Ho xong, nó nói:“Em mơ còn nằm trong cái xe thùng chở em sang đây. Ðứa con gái nằm ngay bên cạnh em chết ngạt.”

 “Chết!?”

“Chết. Bị nhốt trong thùng xe hai ngày hai đêm. Khi bọn đầu gấu mở cửa xe ra, thấy bốn người chết từ bao giờ. Con ấy thân với em nhất. Chúng em đã từng chia phiên nhau kề mũi vào cái lỗ nhỏ để thở.

Thương hại nó hay nhường cho em thở lâu hơn. Dọc đường nó cứ đòi về, không muốn đi nữa. Nhưng em biết về thế nào được với bọn đường dây. Nó mà sống sót cũng bị đường dây hành tới chết về cái tội đòi về… Anh có nghe không đấy?”

“Nghe rõ cả.”

“Nó nói khổ đều quanh năm chịu được, dồn vào một ngày thì chết. Anh nghĩ có đúng không?”

“Chắc đúng.”

“Mẹ nó bán ruộng, bán vườn để chung tiền cho nó đi, cứ mong nó mang đôla về chuộc đất, xây nhà như những người có thân nhân Việt kiều. Bây giờ nó chết, chưa kịp nhìn thấy tờ đôla xanh. Trước khi chết nó tựa vai em lầm bầm ‘Mẹ ơi! Con không muốn làm Việt kiều. Con muốn về nhà. Con muốn cơ cực ở nhà với mẹ suốt đời.’ Giọng nó như đứa trẻ con ba tuổi.” (Tâm Thanh. “Người Rơm”. Thế Kỷ 21, Jul. 2010).

Đối với nhiều người dân Việt thì muốn sống như một ngư dân nghèo nơi vùng biển quê hương (như ông Dang) hay mong “muốn cơ cực ở nhà gần mẹ suốt đời” (như cô Tuyết) e đều chỉ là thứ ước mộng rất xa vời trong chế độ hiện hành.


 S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Nguyễn Tất Thành

 Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Dù sống cùng thời nhưng khác nơi nên tôi không gặp Nguyễn Tất Thành lần nào ráo. Giao lưu, tương tác, chit chat …  (qua không gian mạng) cũng không luôn. Bởi vậy, tôi chỉ đoán già/đoán non rằng con đường học vấn của ổng không dài và (dường như) cũng không được suôn sẻ gì cho lắm.

Trăm năm trong cõi người ta

Cái gì không biết thì tra gu gồ !

Tôi rà rà chút xíu thì thấy Quân Đội Nhân Dân Online có loạt bài (“Thời Trai Trẻ Tìm Đường Cứu Nước Của Bác Hồ”) với những đoạn sau:

Năm 1909, Nguyễn Tất Thành theo cha, lúc đó là Phó bảng vào huyện Bình Khê thuộc tỉnh Bình Định nhậm chức tri huyện. Sau đó Người được cha gửi vào Quy Nhơn học tiếng Pháp. Những tưởng việc học hành sẽ thuận lợi nhưng chẳng bao lâu, tháng 1 năm 1910, cha Người bị triều đình bãi chức và triệu hồi về Huế. Việc học tập của Nguyễn Tất Thành nguy cơ dang dở…

Cuối năm Canh Tuất (1910), Nguyễn Tất Thành rời Trường Dục Thanh về Sài Gòn tiếp tục con đường đã định… Năm 1960, tập sách Bác Hồ do nhiều tác giả viết in tại Hà Nội đã được Bác Hồ xem. Khi đọc, Bác nói với đồng chí thư ký: Bác không có ý định dừng lại Phan Thiết song đến đó thì tiền lộ phí đã cạn mới quyết định ở lại tìm việc làm để có tiền đi tiếp cuộc hành trình …

Đến Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành xin vào học một trường kỹ thuật do Pháp quản lý, dạy về hàng hải. Sau này, đồng chí Hà Huy Giáp kể lại, có lần Bác nói: “Bác đâu có ý định học thợ, nhưng trong lúc lang thang để tìm cách sang phương Tây, mà có nơi cho mình học, có cái ăn là mình vô thôi”.

Cũng với cách suy nghĩ tương tự (“có cái ăn là mình vô thôi”) năm 1911, Nguyễn Tất Thành  nộp đơn xin “vô” Trường Thuộc Địa nhưng không lọt. Về sự kiện này, trong một cuộc phỏng vấn dành cho tạp chí Hợp Lưu (số phát hành vào tháng 11 năm 2020) T.S Vũ Ngự Chiêu cho biết:

Đầu tháng 2/1983, khi làm việc trên kho tài liệu trường Ecole coloniale, tức học hiệu huấn luyện các viên chức thuộc địa Pháp, trên đường Oudinot, quận 7, Paris, tôi vô tình khám phá ra nhiều hồ sơ học viên người Việt tại học hiệu này, như Bùi Quang Chiêu, Đèo Văn Long, Phan Kế Toại, Trần Trọng Kim, Lê Văn Miễn, v.. v…

Thật vô tình, tìm thấy tập hồ sơ xin nhập học nhưng không được chấp nhận của Nguyễn Tất Thành, tức HCM sau này … Trong biên khảo tam ngữ Một ngôi trường khác cho Nguyễn Tất Thành (Paris: 1983) tôi đã trình bày khá rõ: Người mà chúng ta biết như HCM sau này đã rời nước không vì muốn tìm đường cứu nước, mà chỉ vì những tao ngộ bản thân (cha bị cách chức, tống giam, nên phải bỏ học nửa chừng, v.. v…). Từ cổng hậu đóng kín của trường Thuộc Địa, HCM sẽ tìm thấy cánh cửa mở rộng của Đại Học Phương Đông của Liên Sô Nga 12 năm sau.

Tập tài liệu mỏng, viết bằng ba thứ tiếng (Một ngôi trường khác cho Nguyễn Tất Thành – Another school for young Nguyễn Tất Thành –  Une autre école pour le jeune Nguyễn Tất Thành) của Vũ Ngự Chiêu và Nguyễn Thế Anh đã đặt ra một câu hỏi hơi nhậy cảm: “Hồ Chí Minh ra đi cứu nước hay kiếm cơm?

Theo tôi thì cả hai và không có cái nào sai cả. Có thực mới vực được đạo chứ. Hơn nữa, cứu cánh (vẫn) biện minh cho phương tiện cơ mà. Nguyễn Tất Thành học ở Paris hay Moskva đều ça va tuốt.

Tôi chỉ hơi có chút lăn tăn không hiểu là vì do ảnh hưởng nền giáo dục Đại Học Phương Đông của Liên Sô, hay vì do con đường học vấn (không được êm xuôi lắm) của chính mình mà kể từ khi Nguyễn Tất Thành lãnh đạo thành công cuộc cách mạng vô sản ở VN thì xẩy ra một hiện tượng hơi bị bất thường. Nhà tù ở đất nước này bỗng mọc lên khắp nơi còn nhà trường thì thưa thớt hẳn.

Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1945 – 1976) đã có người ta thán: Trại lính, trại tù, người đi không ngớt/ Người về thưa thớt dăm ba. (“Nguyễn Chí Thiện – 1965)

Qua đến thời Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thì đúng là giai đoạn hoàng kim của nhà tù. Đỉnh điểm có thể lấy ngày 4 tháng 10 năm 2019 làm dấu mốc. Ngày hôm đó, báo Công An Đà Nẵng hớn hở loan tin: “Khánh thành nhà tạm giữ của Công An Quận Hải Châu với tổng mức đầu tư là hơn 9,8 tỷ đồng trên thửa đất có diện tích 2.064 m2.”

Trời! Bộ tính bắt nhốt hết cả huyện hay sao mà làm nhà tạm giam cấp quận “bao la” dữ vậy, mấy cha?

Cổ kim – có lẽ – không có xứ sở nào tổ chức lễ khánh thành nhà tù như thế cả, và cũng không nơi đâu mà thiên hạ lại đổ xô đến nơi để xây trường tấp nập như ở VN:

Mọi công trình xây cất, giúp đỡ, viện trợ đều được chấp nhận với không ít e dè, và rất nhiều nghi ngại – theo như tường thuật của nhạc sỹ Tuấn Khanh :

“Tháng 8-2022, Lính thủy trên tàu bệnh viện Mercy của Hải quân Hoa Kỳ vừa khánh thành công trình phúc lợi là một trường học cho trẻ em ở Phú Yên. Toàn bộ chi phí được phía Mỹ tài trợ và sức lao động của lính thủy Mỹ nhằm ghi dấu cho một công trình mang tính hữu nghị và giáo dục.…

Nhưng những chuyện nói trên cũng không quan trọng bằng chuyện một chương trình giao lưu và hoàn toàn thiện nguyện từ một quốc gia khác, mà không hiểu sao phía truyền thông dư luận viên pro (ủng hộ) nhà nước tổ chức rất công phu những ngôn luận phủ nhận những hoạt động này, và nói rằng đây chỉ là những thứ mua chuộc để phá hoại Việt Nam, hay là giả dối để âm thầm tổ chức diễn biến hòa bình.”

Ôi! Tưởng gì chớ “những thứ mua chuộc để phá hoại Việt Nam” (“hay là giả dối để âm thầm tổ chức diễn biến hòa bình”) thì nghi kỵ hay dè bỉu như thế là phải giá. Cái “giá” này chỉ hơi bị hớ, bị hố (hay bị lố) sau khi trang Vnexpress đi tin:

“Cậu bé gốc Việt quyên tiền xây trường ở Quảng Nam… Nam Harrison, 12 tuổi, kết hợp với một chuỗi cửa hàng bán sandwich quyên góp được 10.000 USD để xây một ngôi trường cho trẻ em ở tỉnh Quảng Nam. Nam được vợ chồng bà Maria Cina Harrison nhận nuôi từ năm một tuổi tại một trại trẻ ở ngoại thành Hà Nội và hiện sống tại khu Sherman Oaks, quận Los Angeles, bang California.

Hai năm trước, khi lần đầu trở về thăm Việt Nam, cậu bé được bố mẹ nuôi đưa đến thăm vùng núi ở tỉnh Quảng Nam, nơi vợ chồng Harrison đang kết hợp với tổ chức từ thiện Children of Vietnam để xây dựng một trường học. Sự nghèo khó ở đây đã khiến Nam bị sốc.”

Giản dị rứa thôi: “Sự nghèo khó ở đêy đã khiến Bé Nam bị sốc” rồi quyên góp, gây quỹ xây trường cho những đứa trẻ bất hạnh cùng tuổi với mình thôi, chớ em không hề có ý “mua chuộc Việt Nam” hay “âm thầm diễn biến hòa bình” (hay “bình hòa”) cái con bà gì sất.

Nỗi bất hạnh của lũ trẻ con không trường học (hay “trường không có nhà vệ sinh”) khiến tôi chạnh lòng nhớ đến tiếng thở dài (cố nén) của nhà báo Huy Đức: “Lịch sử không có chữ NẾU. Nhưng, đôi khi tôi vẫn cứ không cầm lòng được, suy nghĩ vẩn vơ, Việt Nam sẽ ra sao, nếu từ tháng 8-1945 vẫn là Chính phủ Trần Trọng Kim”.

Tôi lại “suy nghĩ vẩn vơ” theo kiểu khác, giản dị hơn: Nếu đơn xin vào học Trường Thuộc Địa của Nguyễn Tất Thành không bị trả về thì dân Việt, có thể, đã không vướng họa (họa cộng sản) từ bấy lâu nay!”


 

 S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Thầu Chín

 Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Cuối năm rồi, tôi được nghe T.S Mạc Văn Trang giới thiệu về một nhân vật (nghe) hơi kỳ lạ:

“Cụ K. cán bộ lão thành chuyên làm công tác tuyên huấn, rồi dạy lý luận Mac- Lê ở trường Đảng của tỉnh, cho đến lúc nghỉ hưu. Cụ vừa tổ chức mừng thọ 80 tuổi khá hoành tráng. Cụ có nguyên tắc bất di bất dịch là : chỉ đọc báo Nhân dân, Tạp chí Cộng sản, nghiên cứu sách kinh điển, xem VTV, không bao giờ nghe tin ngoài luồng…”

Cụ K. khiến tôi chợt nhớ đến những vị đồng hương mà mình đã gặp ở Nong Khai, Nakhom Phanom, Sakon Nakhon và Udon Thani – thuộc miền Bắc Thái. Việt Kiều tại vùng này, bây giờ, đa số là hậu duệ của những người di cư (từ Lào) vào thập niên 1940.

Lớp tiên phong đều đã qui tiên, đám cháu chắt thì không mấy đứa nói sõi tiếng mẹ đẻ (và cũng chả quan tâm hay tha thiết gì đến VN) còn lũ con cái thì nay đều đã bước vào tuổi xế chiều. Trước kia, những người này thường là đảng viên cộng sản hay thành viên (tích cực) của Hội Việt Kiều Yêu Nước. Nay, tuy không ai đọc báo Nhân Dân hay Tạp Chí Cộng Sản – như cụ K. ở Hà Nội – nhưng cũng chỉ đều “xem VTV và không bao giờ nghe tin ngoài luồng” cả!

Khoẻ!

Cũng như ông Nguyễn Thiện Nhân, tôi tuy sinh ở trong Nam nhưng nói giọng Bắc.  Có lẽ nhờ thế nên tôi được các cụ ở Bắc Thái chấp nhận dễ dàng, và tiếp đãi khá thân mật, dù là người lạ mặt.

  • Thế ra ông mới từ Hà Nội sang à?
  • Vâng ạ. Tôi “vâng/dạ” cho qua chuyện, chứ thật ra thì chưa bao giờ có dịp được đặt chân đến Mảnh Đất Ngàn Năm Văn Vật lần nào.
  • Đã đi thăm Nhà Bác chưa đấy?
  • Dạ đã.
  • Thấy thế nào?
  • Ý nghĩa và quí hóa lắm ạ.

Tôi lại khen (đại) cho vui lòng người đối thoại, chứ mấy cái nhà (thổ tả) của Bác mà tôi đã ghé qua chả thấy có gì là hay ho cả. Chúng đều giống như những cái chùa (trá hình) nho nhỏ, vậy thôi. Nói là “trá hình” vì xây chùa mà không thờ Phật mà lại thờ ông Thầu Chín (nào đó) thì e người dân địa phương bất bình nên mới phải “giả danh” là “Khu Tưởng Niệm” hay còn gọi giản dị (và “thân thương” hơn) là Nhà Bác!

Ở Việt Nam thì Hồ Chí Minh, đôi khi, được lôi tuột lên ngồi ké trên bàn thờ Phật. Còn nơi đây (quỷ lộng chùa hoang) Bác một mình một chợ trên án thờ, với lư hương nhang đèn và trước mặt, cùng hạc đứng chầu ở hai bên.

Thiệt là quá đã và quá đáng!

Từ khi bước vào tuổi thuận nhĩ (lục thập nhi nhĩ thuận) tôi trở thành đằm tính, không còn hay buột miệng phát biểu (“linh tinh”) nữa nên chả làm ai bị phật lòng. Bởi vậy, ai cũng nở nụ cười mãn nguyện khi bất ngờ gặp được một kẻ đồng hương (và lại đúng người “đồng điệu” nữa) nơi đất khách.

Miếng trầu là đầu câu chuyện. Rượu bia cũng thế. Vốn tính Nam Kỳ (đi đâu gặp vịt cũng lùa/ gặp duyên cũng kết/ gặp chùa cũng tu) nên xà vào chỗ nào tôi cũng  mời mọc tất cả ngồi vào chung bàn, và ân cần cụng ly không sót một ai. Sau khi cạn ly đầy (rồi lại đầy ly cạn) vài lần là chúng tôi đều nói cười rôm rả, sôi nổi nhất là khi mọi người đều hào hứng kể lại những hoạt động (“vào sinh ra từ”) từ những ngày tháng cũ.

Có vị đã từng dắt đường cho bộ đội ta tấn công vào căn cứ Ubon của Mỹ hồi năm 1970. Nhân vật này may mắn thoát chết trong khi có đến 5 chiến sỹ đặc công bị lính canh phòng Thái bắn hạ ngay tại chỗ. Nói chung, phần đời tuổi trẻ của họ ở Thái đều rất gian truân và phải trải qua nhiều khó khăn cũng như thua thiệt. Tất tần tật đều bị đối xử phân biệt, bị kỳ thị vô cùng khắc nghiệt.

Dân Thái tương đối phóng khoáng. Chính phủ Thái cũng không hay “ganh ghét” gì với tình cảm mà đám kiều dân dành cho cố quốc. Cộng đồng người Hoa sống “chùm gửi” trên đất nước này rất là ổn thoả, an bình, và phú túc.

Tập thể người Việt tị nạn ở Thái Lan, tiếc thay, đã không có được sự ưu ái tương tự. Họ bị coi là những phần tử nguy hiểm (phá rối trị an) nên bị nhà cầm quyền Thái sách nhiễu, cấm đoán đủ điều (*).

Tất nhiên, đây không phải là chuyện hoàn toàn vô cớ. Hồ Chí Minh đã từng đến đất nước này, và đã reo rắc mầm mống cộng sản trong đám dân Việt tha hương:

  • “Từ châu Âu trở về Xiêm, lấy bí danh là Thầu Chín, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc không quản ngại khó khăn, vất vả, hiểm nguy tìm cách tiếp cận với cộng đồng người Việt tại Xiêm để vận động, tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lê nin, kêu gọi tinh thần đoàn kết, yêu nước, và vận động đồng bào, đồng chí Việt Kiều tại Xiêm sẵn sàng cho cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc.” (H.H. “Thầu Chín ở Xiêm và hành trình thành lập tổ chức Đảng gian khó.” Dân Trí – 03/02/2015).
  • “Trong khoảng thời gian hơn 1 năm (1928-1929), Bác Hồ thận trọng và kiên trì mở rộng hoạt động tuyên truyền cách mạng tới bà con Việt kiều đang sinh sống tại nhiều địa phương thuộc Đông Bắc Thái Lan như Phi Chit, U Đon, Nakhon Phanom, Sa Kol, Nong Khai, Mucdahan.” (Nguyễn Tiến. “Bác Hồ Truyển Lửa Cách Mạng Cho Việt Kiều Thái Lan.” Dân Vận – 18/05/2020)

Những “hoạt động tuyên truyền cách mạng” của Người đã gây ra cớ sự và hậu họa khôn lường cho mấy thế hệ kế tiếp. Mãi đến thập niên 1990 – sau khi Chủ Nghĩa Cộng Sản đã chuyển qua từ trần – nhà nước Thái mới hết lo ngại về những “quả bom nổ chậm” do Hồ Chí Minh gài lại, và bắt đầu nới tay với đám Việt Kiều. Từ đó, họ mới ngóc đầu lên được.

Đến nay thì trên những đường phố chính ở Nong Khai, Nakhom Phanom, Sakon Nakhon và Udon Thani… đã có không ít những căn nhà khang trang ̣(cùng với những cửa hàng Việt Nam) xuất hiện, bên cạnh Hoa Kiều.

Nếu Thầu Chín không lò mò đến Thái để “tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lê” thì cuộc sống của đám dân Việt ở xứ này đã dễ thở hơn nhiều, và đã khá giả từ lâu. Hồ Chí Minh đúng là một tên phá thối (trouble maker) rất vô duyên, và là một tay xách động (agitator) vô cùng ngu xuẩn.

Sự xuẩn động của Bác đã được nhà đương cuộc Hà Nội “thăng hoa” qua phim Thầu Chín Ở Xiêm. Cuốn phim “cúng cụ” (đối thoại nghe cứ như kịch nói, cùng với nhiều tình tiết rất cường điệu và lố bịch) này, dù đã công chiếu nhiều lần nhưng ngay cả đám nhi đồng Việt Nam cũng không đứa nào để mắt. Khán giả mộ điệu – có chăng – chỉ là mấy cụ cao niên, vẫn còn đang sống sót ở (tận) bên Xiêm.

Họ hãnh diện về Thầu Chín, cũng như hãnh diện về những “hoạt động” cách mạng của chính mình – vào những năm tháng xa xưa cũ – bất chấp đúng/sai và hậu quả.

Đủ chân thật để có thể nhìn nhận cả một quãng đời thanh xuân bị lừa gạt không phải là chuyện dễ dàng chi (đối với rất nhiều người) nên trong đoàn quân tiến về Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 – dường như – chỉ có mỗi mình nhà văn Dương Thu Hương đã “ngồi xuống vỉa hè ôm mặt khóc như cha chết, một cảm giác vô cùng hoang mang và cay đắng.”

Bởi thế, tôi không ngạc nhiên lắm khi biết ra rằng quí vị nhân sỹ VN ở Thái cũng  “chỉ xem VTV và không bao giờ nghe tin ngoài luồng” cả. Tôi cũng hoàn toàn chia sẻ và thông cảm với cái tâm trạng “dễ hiểu” này nên chưa bao giờ dám “đặt vấn đề” với bất cứ ai.

Chỉ đôi lần, khi chén chú/ chén anh/ chén tôi/ chén bác thân tình (và tưng bừng nhất) tôi mới dám đặt một câu hỏi nhỏ với tất cả chân thành :

  • Có khi nào các bác nghĩ đến chuyện về sống hẳn ở quê mình không?

Sau vài giây phút tần ngần của những người đối ẩm (rồi) tôi cũng nhận được câu trả lời, cũng giản dị và chân tình không kém:

  • Chúng tôi ở đây nó cũng quen rồi, về Việt Nam sợ cũng có nhiều điều bất tiện.

Nhiều vị Việt Kiều ở bên Tây cũng thế, theo như lời kể của đạo diễn Song Chi: “Nhớ có lần sang Paris được ‘hân hạnh’ gặp một nhóm người, toàn dân ‘trí thức văn nghệ sỹ’ chống Mỹ, thân Cộng ở MN trước kia, nay đã sống mấy chục năm ở Pháp, nhìn chế độ độc tài do ĐCS lãnh đạo ở VN nhưng vẫn không thấy không hiểu ra, sung sướng khi được đăng được in một cuốn sách gì đó ở VN, tiếp tục hăng hái bênh vực chế độ này, nhưng lạ một cái là vẫn cứ sống ở Pháp, bảo về VN sống thì không về…”

Thế mới biết là Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc chưa chắc đã hợp với cái “tạng” của tất cả mọi người nên kính nhi viễn chi (cho nó chắc ăn) là chuyện không có gì đáng trách, hay đáng để phàn nàn. Dù giữa kinh đô ánh sáng Paris hay ở tận những tỉnh vùng ngược, thuộc miền thượng du Bắc Thái (giáp giới với Lào) những kẻ “khôn ngoan” và “thức thời” đều xử sự y như nhau cả.

(*) Thái thành lập Sở Quản Lý Việt Kiều, một bộ phận riêng trực thuộc tổng nha cảnh sát và nhiều luật cấm được ban hành:

  1. Mọi công chức, cảnh sát, binh sĩ, không được lập gia đình với Việt kiều, nhất là người trong quân đội: phải giải ngũ hoặc ly dị.
  2. Việt kiều chỉ được phép định cư tại 9 tỉnh qui định và không được ra khỏi quận mình cư ngụ. Ra khỏi quận phải có giấy phép để trình tại các trạm kiểm soát dọc đưòng (để kiểm soát VK và cộng sản Thái), nếu không muốn bị bắt tù.
  3. Cấm hội họp, cấm dạy Việt ngữ (sợ cán bộ CSVN dạy lý thuyết CS, tuyên tuyền chống chính quyền).
  4. Không được học đại học.
  5. Cấm làm một số nghề dành cho người Thái hay ngoại kiều hợp pháp.
  6. Cấm mua đất đai, cấm mua xe, cấm xuất ngoại.
  7. Cấp sổ gia đình và giấy chứng minh riêng cho Việt kiều. (Paulle. “Thân Phận Việt Kiều Tại Thái Lan.” Nghiên Cứu Lịch Sử – 09/13/2016).

 

  S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Chùa xưa người cũ

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Tôi không có duyên lắm với những người phụ nữ cầm bút, đặc biệt là những cô hay những bà làm thơ, kể cả Bà Huyện Thanh Quan. Vấn đề hoàn toàn chả phải vì lý do cá nhân, hay tư riêng gì ráo. Điều không may chỉ vì tôi gặp nữ sỹ hơi quá sớm, thế thôi!

Thuở ấy, thuở mười ba mười bốn, tôi mới bước chân vào trung học mà đã giáp mặt với nàng thơ rồi. Có hôm, tôi vừa hối hả rời sân bóng đá (chạy vào phòng học) mồ hôi chưa kịp ráo lưng, đã nghe vị thầy phụ trách môn Việt Văn trầm giọng đọc bài Thăng Long Hoài Cổ:

Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn 
trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn chau mặt với tang thương…

Tôi vừa cắm cúi ghi chép, vừa khuých tay thằng ngồi cạnh :

– Cuộc hý trường là cuộc gì?
– Không biết.
– Thăng Long ở đâu?
– Không biết luôn.

Thằng bạn chung bàn của những ngày xưa thân ái đã xa xôi và phôi pha ấy (nay) chả hiểu đã lưu lạc phương nào, sống chết ra sao? Còn tôi, sau cái cuộc hý trường (1975) thì lâm vào cảnh đời tha phương cầu thực và tha hương cho mãi đến bây giờ. Chiều qua, ở một góc trời xa, tôi tình cờ đọc lại một truyện ngắn (“Mái Chùa Xưa”) của Võ Hồng và mới chợt hiểu (thấm thía) thế nào là nỗi niềm hoài cổ :

Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm…, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua xóm.

Ngoại trừ cái áo nâu dài mặc đi ra đường là tươm tất, còn khi ở chùa thì thầy mặc áo vải thô vạt hồ màu xám có nhiều mụn vá nơi vai hoặc nơi cùi chỏ. Cái vạt áo nhọn làm cho dáng thầy từ mảnh mai trở nên gầy gò… Đi ra đường thì thầy mang guốc sơn, còn ở chùa thì mang guốc bằng gỗ cây sầu đông tự thầy đẽo lấy. Quai guốc là một mảnh da trâu cứng.

Một cảnh chùa nghèo nàn như vậy không thể ban phát lợi lộc vật chất cho ai hết, nhưng nhờ đó mà nó trở nên thân mật với mọi người. Ai muốn ghé chơi chùa cũng được, ghé vào giờ nào cũng được, cửa Tam quan gần như không bao giờ đóng. Nhà chùa không phải coi chừng kẻ trộm cắp vì chẳng có chi đáng để trộm cắp…

Trải qua cuộc chiến giằng co, ấp Quảng Đức của tôi đã thành bãi chiến trường. Đồng bào bỏ nhà cửa ruộng vườn lũ lượt gồng gánh ra đi. Ngôi chùa xưa chắc còn tịch liêu tàn phế hơn xưa, những con chim chào mào chìa vôi chắc cứ ngang nhiên làm tổ ngay ở chái sau, hiên trước.

Cuối cùng “cuộc chiến giằng co” rồi cũng đến lúc kết thúc, hoà bình được tái lập. Chùa chiền nhiều nơi được trùng tu với qui mô lớn, đạt kỷ lục thế giới bởi những quần thể tu viện mênh mông và những pho tượng phật khổng lồ. Đây đều là những công trình tập thể, đòi hỏi sự kết hợp của nhiều thành phần xã hội – theo nhận xét của T.S. Nguyễn Xuân Diện :

“Để tạo thành được những Chùa Bái Đính, Chùa Ba Vàng, Chùa Tam Chúc, Chùa Yên Tử như hiện nay, phải hội đủ ba mặt: Chức sắc Phật giáo + Chính quyền huyện đến tỉnh sở tại + Đại gia. Thiếu một trong ba thì không thể nào vẽ ra được các khu kinh doanh như vậy.”

Sau khi đã “vẽ” xong “các khu kinh doanh như vậy” thì vấn đề kế tiếp là điều hành, quản lý. Đây là giai đoạn cần sự “can thiệp” của Chính Quyền Trung Ương và Bộ Nội Vụ, với những ban ngành “có nhiệm vụ đào tạo sư sãi để ‘yểm’ Hội Phật Giáo Việt Nam, để trấn giữ hệ thống chùa toàn quốc.”

Phương thức tổ chức này được nhập khẩu (nguyên con) từ nước bạn Trung Hoa Vỹ Đại :

“Tất cả các nhóm tôn giáo dựa trên đức tin ở Trung Quốc, bao gồm 41 viện nghiên cứu Phật giáo trên toàn quốc, đều được Ban Tôn giáo Chính phủ [State Administration of Religious Affairs] giám sát.” (“The decline and fall of Chinese Buddhism: how modern politics and fast money corrupted an ancient religion.” South China Morning Post, Sep. 21, 2018 translated by Hoàng Kim Bảo).

Chỉ có điều hơi khác là ta “can thiệp” rất vụng về và “giám sát” quá sống sượng nên đã gây rất nhiều điều tiếng :

Từ Thức: “Qua cửa BOT của chùa VN ngày nay, người ta bước vào thế giới ma quái của oan hồn, của ‘vong’ ngất nghểu, ra rả đòi tiền như nặc nô đòi nợ.”

Nguyễn Văn Tuấn: “Thuở đời nay nhà sư đã xuất gia mà ăn thịt chó, uống tiết canh, hút thuốc lào, uống rượu Tây, say xỉn bí tỉ. Đó không phải là nhà sư nữa (chưa nói đến bậc chân tu), mà là dân ‘giang hồ’ rồi.”

Đặng Văn Sinh: “Có những hòa thượng vốn là nhân viên công lực hàm cấp cao tót vời, khoác áo cà sa trụ trì ở những chùa lớn theo dõi nhất cử nhất động của giới tăng ni phật tử.”

Mạnh Kim : “Những gì đang diễn ra khiến diện mạo Phật giáo ngày càng bi thảm là kết quả của chính sách ‘nhuộm đỏ’ Phật giáo, trong lớp áo ‘Đạo pháp và Dân tộc’ ra đời từ đầu thập niên 1980.”

Vương Trí Nhàn: “Ngày Phật đản… Sao ở giữa cảnh đèn nhang nghi ngút của chùa Quán Sứ, giữa bao nhiêu cụ bà thành tâm cúng vái, lại thấy một vị sư tuổi còn thanh niên, có nét mặt trông như một trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng nào đó, mà tôi từng thấy ở các mặt trận.”

Những vị sư “có nét mặt trông như một trung đoàn trưởng nào đó” – đôi lúc – vẫn tưởng rằng mình đang ở giữa mặt trận nên đã phát biểu như một chiến sĩ (thực thụ) khiến công luận không khỏi bàng hoàng: “Chúng ta phải quyết tâm xây dựng quân đội nước ta mạnh như là quân đội của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.

Ảnh: vietnamnet

Bây giờ thì còn tìm đâu ra một ngôi chùa nhỏ bé, nghèo nàn nhưng thân thiết như chùa Châu Lâm trong ký ức tuổi thơ của Võ Hồng :

“Ai muốn ghé chơi chùa cũng được, ghé vào giờ nào cũng được, cửa Tam quan gần như không bao giờ đóng. Nhà chùa không phải coi chừng kẻ trộm cắp vì chẳng có chi đáng để trộm… Sự liên hệ giữa dân xóm và nhà chùa là một liên hệ tinh thần, dầu không sâu đậm thiết tha nhưng mà lúc nào cũng sẵn sàng hiện diện. Khi có niềm đau nỗi buồn quá sức giải quyết của người thì về chùa để tìm sự an ủi và hy vọng. Nhà có tang mời thầy tụng kinh siêu độ, nhà có người đau ốm trầm kha mời thầy tụng kinh cầu an.

Mười năm một lần, ban trị sự Ấp tổ chức đàn tràng mời thầy hành lễ, làm chay múa lục cúng suốt ba ngày đêm để cầu an cho dân chúng cả Ấp. Người lớn trẻ con, thanh niên thiếu nữ dập dìu tới dự, áo quần tươm tất mặt mày tươi vui khiến tôi nghĩ rằng đây vừa là lễ Tạ Ơn cho mười năm đã qua vừa là Lễ Cầu An cho mười năm sẽ tới. Cỗ bàn dọn ra, ai có mặt cũng được mời ngồi và cầm đũa thọ trai, không phân biệt kẻ lớn người nhỏ kẻ sang người hèn. Y như trong những ngày lễ lớn làm chay ở chùa vậy.”

Những vị tu sĩ “mặc áo vải thô vạt hồ màu xám có nhiều mụn vá nơi vai hoặc nơi cùi chỏ, mang guốc bằng gỗ cây sầu đông tự thầy đẽo lấy” cũng đều đã biệt tăm/biệt tích. Những người muôn năm cũHồn bây giờ ở đâu?

 


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Quà biếu mẹ già

 Ba’o Dan chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Đời về chiều, tôi mới (chợt) để ý tới ca dao:

Buồn vì một nỗi tháng Giêng
Con chim cái cú nằm nghiêng thở dài
Buồn vì một nỗi tháng Hai
Đêm ngắn ngày dài thua thiệt người ta
Buồn vì một nỗi tháng Ba
Mưa dầu nắng lửa người ta lừ đừ
Buồn vì một nỗi tháng Tư
Con mắt lừ đừ cơm chẳng muốn ăn
Buồn vì một nỗi tháng Năm …

Tháng này, ở Việt Nam, hay có những buổi chiều mưa – mưa đầu mùa – khiến không ít người bâng khuâng nhớ mẹ, nhất là vào Ngày Hiền Mẫu. Theo Wikipedia tiếng Anh:

Mother’s Day is a celebration honoring the mother of the family, as well as motherhood, maternal bonds, and the influence of mothers in society. It is celebrated on various days in many parts of the world, most commonly in the months of March or May. (Ngày của Mẹ là ngày vinh danh người mẹ, cũng như tình mẫu tử, và ảnh hưởng của họ trong xã hội. Lễ hội này được tổ chức ở nhiều nơi, khắp toàn cầu, vào những ngày khác nhau, và thường vào tháng Ba hoặc tháng Năm.)

Wikipedia tiếng Việt còn ghi chép thêm rằng ngoài mấy bà mẹ bình thường (hoặc tầm thường) và “đám mẹ ngụy,” xứ sở này còn có những bà mẹ phi thường – super mom – được vinh danh là Mẹ Việt Nam Anh Hùng:

Đây là danh hiệu mà nhà nước Việt Nam tặng hoặc truy tặng những phụ nữ Việt Nam có nhiều cống hiến, hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế…

Tiêu chuẩn đạt danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” (kể cả là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam) dành cho những phụ nữ đạt một trong những tiêu chuẩn sau:

  • Có hai con trở lên là liệt sĩ
  • Có hai con mà một con là liệt sĩ, một con là thương binh với thương tật từ 81% trở lên.
  • Chỉ có một con mà người đó là liệt sĩ;
  • Có một con là liệt sĩ, chồng hoặc bản thân là liệt sĩ.

Người con là liệt sĩ bao gồm con đẻ và con nuôi của Bà mẹ được pháp luật thừa nhận, và đã được Chính phủ tặng Bằng Tổ Quốc Ghi Công…

Từ tháng 12 năm 1994 đến hết năm 2001, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phong tặng và truy tặng danh hiệu cao quý “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” cho:

Cả nước: 44.253 người

– Miền Bắc: 15.033 người

– Miền Nam: 29.220 người

Riêng miền Trung – tôi đoán – chắc số lượng Mẹ Việt Nam Anh Hùng quá đông, đếm không xuể, thống kê cũng không hết nên đành cho mấy bả qua một bên luôn.

Để độc giả, nhất là quí vị sinh sau đẻ muộn, có thể hình dung ra cuộc đời của một bà MVNAH, xin ghi lại đây toàn văn bài viết (“Người Mẹ Ở Cao Nguyên Lâm Viên”) của hai nhà báo An Nhiên và Hoàng Yên:

“Trong một dịp đến với cao nguyên Lâm Viên, chúng tôi được gặp và trò chuyện với Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Tất, quê Quảng Nam trong ngôi nhà tình nghĩa đơn sơ ở thôn Xuân Sơn, xã Xuân Trường, TP. Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Mẹ Tất 85 tuổi, quê Điện Bàn. Tuổi cao, sức yếu, không còn đi lại được, nên khi chúng tôi đến, có người để nói chuyện, mẹ vui lắm. Mẹ kể những câu chuyện của cuộc đời mẹ, của chiến tranh, với những hy sinh, mất mát không bao giờ quên.

Năm 1962, mẹ Tất cùng chồng con vào thôn Xuân Sơn, xã Xuân Trường, định cư. Trước đó, ở Điện Bàn, gia đình mẹ làm cơ sở nuôi giấu cán bộ, vừa tiếp tế vừa làm giao liên. Vào thôn Xuân Sơn, vợ chồng mẹ tiếp tục hoạt động cách mạng. Mẹ có 8 người con (4 trai, 4 gái), đều tham gia hoạt động cách mạng. Chồng mẹ – ông Trần Cương, ngày đi làm vườn, làm thợ mộc kiếm tiền mua lương thực, thực phẩm trữ giấu trong nhà nuôi cán bộ; ban đêm đi hoạt động cách mạng.

Đêm 7.7.1968, chồng mẹ và con gái là Trần Thị Minh Rê đi tiếp tế cho bộ đội gặp địch càn quét, chúng phát hiện hai cha con và bắn chết tại rừng Xuân Sơn. Sáng sớm hôm sau, bà con khiêng thi thể cha con về thôn, mẹ như điên dại. Dân trong thôn cứ ngỡ mẹ không qua khỏi cơn đau này, khi trước đó 2 tháng, mẹ mất đứa con út (5 tuổi) do bị bệnh. Vết thương lòng chưa kịp lành thì năm 1971 mẹ nhận hung tin người con trai đầu Trần Quang Vinh (19 tuổi) hy sinh ở vùng rừng đoạn sông La Bá.

Vì Tổ quốc, mẹ bước qua nỗi đau, cùng các con tiếp tục hoạt động cách mạng. Người con tiếp theo của mẹ, anh Trần Minh Quang trở thành thương binh, con gái Trần Thị Minh Xuân theo mẹ đi rải truyền đơn, con gái út tuổi còn nhỏ cũng đã biết giúp mẹ nấu cơm tiếp tế, làm giao liên cho cách mạng. Rồi mẹ bị địch bắt giam ở Đà Lạt 3 năm (sau này mẹ được công nhận là chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày), bị tra tấn chết đi sống lại nhưng mẹ một mực cương quyết không khai tổ chức, cơ sở của cách mạng. Ngày 30.4.1975, miền Nam giải phóng, mẹ Tất cùng các chiến sĩ bị địch giam cầm phá nhà lao Đà Lạt trở về.

Cả cuộc đời của mẹ Tất trải qua biết bao sự hy sinh mất mát. Sưởi ấm lòng mẹ những năm tháng tuổi già là người con gái út luôn gắn bó kề bên. Chị Trần Thị Minh Sơn – con gái út của mẹ Tất nói rằng: ‘Bây giờ chị đã 52 tuổi, trừ 3 năm mẹ đi tù, còn lại là quãng thời gian chị ở bên mẹ và sẽ suốt đời bên mẹ’.

Chúng tôi rời căn nhà nhỏ, mẹ dặn khi nào rảnh lại ghé nhà mẹ chơi. Lời mời của mẹ làm lòng chúng tôi dấy lên cảm giác khó tả. “Dạ. Chúng con có cơ hội sẽ lại về. Về với mẹ để lòng thêm vững chãi”

Nhị vị tác giả của bài báo thượng dẫn thiệt là vô tâm, nếu chưa muốn nói là đểnh đoảng. Thăm một bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng đã gần đất xa trời (tới nơi) rồi mà không có quà cáp chi ráo trọi. Những cán bộ tỉnh đoàn hay thành đoàn của Đảng thì hoàn toàn khác, họ chu đáo hơn nhiều – theo tường thuật của phóng viên (Hoà Hội) báo Tiền Phong:

Ngày 20/5, Tỉnh Đoàn Hậu Giang tổ chức trao tặng 600 bộ cờ Tổ quốc và ảnh Bác Hồ cho các gia đình Mẹ Việt Nam anh hùng, nhân kỷ niệm 126 năm ngày sinh của Bác.

Mẹ Việt Nam anh hùng Đinh Thị Sa ở xã Vĩnh Viễn (Long Mỹ, Hậu Giang) vui mừng nói: “Tôi rất vui vì được các bạn trẻ đem đến nhà tặng cờ và ảnh của Bác. Việc làm có ý nghĩa lớn đối với bản thân tôi và người dân vì không cần phải đi đâu xa mà trong nhà hằng ngày đều được gặp hình ảnh của Bác Hồ vĩ đại.”

Má Đinh Thị Sa thiệt là dễ vui, và dễ tính. Công luận – xem chừng – có vẻ khó khăn (và xét nét) hơn chút xíu:

  • Yên Vũ: “Đồ đểu”!
  • Phung Tran: “Mẹ VN anh hùng cần ăn hơn cần hình”!
  • Phan Anh: “Sao không tặng các mẹ cá gỗ để các mẹ ngắm ăn cơm với mắm”?
  • Hieu Thai: “Moá nó, tiền thì đi mua xe sang để chạy còn tiền đâu để tặng cho các mẹ, tặng mỗi người 10 tấm để các mẹ chùi đít”.
  • Dìm Hàng: “Hậu Giang là tỉnh nghèo, việc cung cấp giấy là việc bình thường”.
  • Trương Vĩnh Phúc: “Kiên định lập trường xem pháo hoa, ngắm ảnh quên đói”!

Riêng nhà báo Trương Duy Nhất thì chỉ buông (duy nhất) có mỗi một câu thôi:

“Không biết tự bao giờ, người ta nghĩ ra được những món quà khốn nạn đến thế.”


 

 S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ăn quỵt

 Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Theo Wikipedia Hà Nội, tác phẩm Tuổi Hai Mươi Yêu Dấu của Nguyễn Huy Thiệp “vốn hoàn thành vào tháng 1/2003, đã được dịch ra tiếng Pháp và xuất bản từ năm 2005, cũng như được phát hành ở nhiều nước như Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ, Canada. Vì ngôn ngữ nhạy cảm, cuốn tiểu thuyết phải chờ đợi 15 năm trước khi phát hành trong nước vào năm 2018.”

Mà “nhậy cảm” thiệt, và “nhậy cảm” lắm. Tác giả viết như vậy đây: “Thời của tôi đang sống là thời chó má. Tin tôi đi, một trăm phần trăm là như thế đấy!”

Trời! Sao giữa Thời Đại Hồ Chí Minh Quang Vinh (cái thời mà mọi người đều rón rén khi ăn, cũng như khi nói, để tránh vạ miệng) mà ông nhà văn lại nói năng linh tinh thế nhỉ?

What’s wrong?

Có điều gì sai trái hoặc bất ổn lắm chăng?

Câu trả lời có thể tìm được qua trong một tác phẩm khác (“Lịch Sử Thời Đại Tường Thuật Bởi Một Người Lưu Vong”) của một tác giả khác, nhà thơ Phan Nhiên Hạo:

Đây là thời chủ nhân ăn mày ăn nhặt
trong khi đầy tớ nhân dân ăn ngập mặt, ngập mũi
ăn hớt, ăn bẩn, ăn tục, ăn lận, ăn chặn, ăn cướp, ăn gian,
ăn tham, ăn lường, ăn bịp, ăn suông, ăn ké, ăn chia, ăn sống
ăn lạnh, ăn nóng, ăn theo, ăn chực, ăn vạ, ăn lẻ,
ăn tất tần tật chỉ trừ ăn năn
ăn không sợ trả miếng.

Thì ra là thế! Thế thì “chó má” thật (và chó má lắm lận) và không chỉ có thế thôi đâu. Ngoài cái thói “ăn cướp, ăn gian, ăn tham, ăn lường, ăn bịp” ra, bọn “đầy tớ nhân dân” còn có cái tật là ưa … “ăn mày dĩ vãng” nữa kìa. Thấy họ hào hứng, bận bịu chuẩn bị lễ nghi cho tiệc tùng mà ái ngại:

Dĩ vãng, tất nhiên, không nuôi được hiện tại và hiện tại thì không còn gì để vơ vét thêm được nữa nên đám “đầy tớ nhân dân” bèn “ăn chận tương lai,” mặc cho bao nhiêu lời can ngăn hay cảnh báo:

Đây là một hình thức ăn chịu. Ăn trước, trả sau. Mai mốt trả. Còn ăn vào tương lai của con cháu mình thì không phải là ăn chịu nữa mà là ăn quỵt.

Báo Thanh Niên vừa mới la làng: “Từ thành phố tới nông thôn, từ quốc lộ tới cao tốc, từ vùng cao cho tới biển đảo… mưa lũ, ngập lụt đang đe dọa hầu khắp các địa phương trên cả nước. Ám ảnh hễ mưa là ngập.”

Ngập là phải. Hệ thống cống rãnh do Pháp thiết lập từ hơn trăm năm qua có mấy khi được nhìn nhõ tới. Ngân sách dành cho việc bảo trì, tu bổ – nếu có – đều bị nuốt sạch rồi. Cứ mưa lớn mà phố phường ở Việt Nam không biến thành sông thì mới là chuyện lạ!

Điều may mắn là nạn ngập lụt nơi đô thị ở xứ sở này (thường) chỉ là chuyện nhỏ. Nó chả mấy khi gây ra thiệt hại nhân mạng hay kéo dài lâu. Chỉ sau vài giờ, hoặc chậm lắm thì vài ngày, là nước rút. Rồi đâu lại vào đó thôi. Ăn xổi ở thì mà. Không có chi để phải rầm rỹ cả.

Hệ thống đường sắt, đường hầm cũng thế, cũng được người Pháp thiết lập từ đầu thế kỷ trước (và được khai thác tận tình cho mãi đến nay) nhưng chả bao giờ được bảo trì hay tu bổ gì sất cả nên đã rệu rã là chuyện tất nhiên. Blogger Trân Văn (VOA) mới ái ngại cho hay:

“Chiều 12/4/2024 hầm Bãi Gió bị sụp khoảng 20 mét ở đoạn cách đầu hầm phía Bắc khoảng 85 mét. Sáng 13/4/2024, hầm tiếp tục bị sụp và tối cùng ngày lại sụp nữa… Đó là lý do việc di chuyển bằng xe lửa từ Bắc vào Nam và ngược lại bị gián đoạn. Tổng Công ty ĐSVN phải dùng các phương tiện vận tải đường bộ đưa hàng chục ngàn hành khách qua phía bên kia hầm Bãi Gió để họ có thể tiếp tục hành trình bằng xe lửa …”

Về sự kiện này, nhà báo Nguyễn Thông đã có lời bàn (nghe) không được lạc quan cho lắm:

Một nước dài thoòng như nước ta, cả 3.000 cây số, thì đường sắt liên vận là quan trọng nhất, kinh tế nhất. Chính vì thế người Pháp đã bắt tay làm đường sắt ngay sau khi đã tạm ổn định cuộc chinh phục. Những đoạn đường, tuyến đường cuối cùng họ làm cũng đã có tuổi cả thế kỷ. Đường sắt là thứ công trình kỳ vĩ số 1 mà người Pháp đã xây dựng và để lại cho xứ An Nam. Nói chính xác, không có “thực dân Pháp” thì không có đường sắt Việt Nam.

 Vậy nhưng, sau khi đánh đuổi được đế quốc to Pháp, người cộng sản hầu như chỉ biết tiếp thu sử dụng sản phẩm có sẵn ấy, khai thác triệt để, chứ không làm thay đổi, phát triển được bao nhiêu. Nói ngay cái khổ/cỡ đường, cho tới giờ, sau cả trăm năm, vẫn hẹp như cũ. Các toa tàu vẫn phần lớn kiểu cũ, vệ sinh xả thải ngay xuống nền đường ray. Tốc độ thậm chí còn chậm hơn tàu thời Pháp. Mua được cái vé xe lửa để xuyên Việt, để về quê dịp lễ tết còn khổ hơn bị trời hành, v.v..

 Công trình giao thông vĩ đại như thế, cái hầm qua đèo Cả vừa bị sụp chẳng hạn, rồi hầm Hải Vân, hầm đèo Ngang… cả thế kỷ bị khai thác tối đa mà không nghĩ tới bồi bổ gia cố nó, thì nó phải sụp thôi. Tất nhiên họ sẽ đổ cho trời, tại địa chất này nọ.

Đường sắt lộ thiên bị sụp, bị ngập lụt, dù hư hỏng cách mấy cũng dễ khắc phục trong thời gian ngắn, nhưng ở hầm hẹp khó bề xoay trở thì đừng nghĩ cứ có quyết tâm và tinh thần cách mạng tiến công là được. Hầm Bãi Gió (đèo Cả) là ví dụ.

 Mấy ngày rồi, cũng chưa biết khi nào mới xong, xong rồi có dám chạy lại không. Mà khi nó đã rệu rã sau trăm năm bị lợi dụng mà không bồi bổ thì chẳng riêng đoạn sụp ấy đâu, nhiều đoạn khác đang chờ tới lượt. Rồi những hầm khác nữa cũng đang xếp hàng chờ an nghỉ sau trăm năm phục vụ. Bóc lột chúng mãi, tất nhiên tới lúc chúng phải đình công bằng cách… sụp.

Nhóm “dân kỹ thuật công trình giao thông vận tải và Bách Khoa” tiên liệu với không ít bi quan:

 Nếu sụp cái hầm này thì các hầm khác có khả năng cũng ở tình trạng tồi tệ tương tự. Cho nên giải pháp tối ưu nhất là xóa toàn bộ các hầm cũ từ thời Pháp, khoan mới xây mới toàn bộ các hầm, hoặc bỏ hầm làm đường đi bên ngoài nếu có thể.

Công cuộc này xem như làm mới. xây mới lại toàn bộ hệ thống đường sắt Việt Nam theo khổ đường quốc tế 1,435 m gì đó. Còn tuyến đường sắt cũ chỉ khai thác loanh quanh các khu vực không có hầm. Công cuộc này nghe đâu tốn kém mấy trăm tỷ đô la mà đâu có thu tiền ngay được như các hầm đường bộ cho xe hơi.

Chả việc gì mà phải lo âu như thế. Không có tiền thì đi vay. Nợ công cứ để cho con cháu nó lo. Vả lại, có xây mới có cất; có làm mới có ăn chứ. Ăn quỵt mà!


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Thế hệ Trần Vàng Sao

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Cách đây chưa lâu, Tần Hoài Dạ Vũ và Nguyễn Đông Nhật đã cho xuất bản cuốn Phác Hoạ Chân Dung Một Thế Hệ. Theo báo chí nhà nước đây là “một hồi ký đậm chất văn chương của hai con người đã từng sống, từng viết và từng tranh đấu trong các đô thị miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ” và tác phẩm đã “đưa giấc mơ đẹpcủa một thế hệ đến những thế hệ tiếp nối.”

“Giấc mơ đẹp” này của hai nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ và Nguyễn Đông Nhật, chả may, lại là ác mộng của một thi nhân khác – cùng thời:

… mả cha cuộc đời quá vô hậu
cơm không có mà ăn
ngó lui ngó tới không biết thù ai
những thằng có thịt ăn thì chẳng bao giờ ỉa vất

lâu ngày tôi thấy quen đi
như quen thân thể của mình
tiếng ho gà nửa đêm của những đứa bé chưa đầy hai tuổi
buổi chiều không có cơm ăn
những con ruồi ăn nước mũi khô trên má…
hai mắt tôi mở to
đầu tôi cúi thấp
miệng tôi há ra
những lá khoai nhám và rít mắc vài hột cơm
dồn cứng chật cuống họng

(Trần Vàng Sao – Người Đàn Ông 43 Tuổi Nói Về Mình)

Toàn bản bài thơ thượng dẫn đã được đăng lại trên trang Quà Tặng Xứ Mưa, với đôi lời giới thiệu (rất buồn) về tác giả :

“Nhà thơ Trần Vàng Sao (tên thật là Nguyễn Đính) ở Đường Tuy Lý Vương, Phường Vỹ Dạ, Huế là nhà thơ nổi tiếng với bài thơ ‘Bài thơ người yêu nước mình’. Giữa lúc phong trào ‘xuống đường’ ở Huế những năm 1965-1968 đang rầm rộ mà dám lấy bút danh ‘Trần Vàng Sao’ là rất ghê gớm. Thế mà, năm 1988, ông có bài thơ ‘ Người đàn ông 43 tuổi nói về mình’ in ở Tạp chí Sông Hương đã gây nên cuộc cãi vã náo loạn ở Huế. Cán bộ chính trị, các ‘nhà văn đỏ’ đua nhau suy diễn chính trị, phán xét. Đài phát thanh, báo đảng địa phương đăng nhiều bài viết chửi rủa nhà thơ, họ ‘phỏng vấn’ cả các bà tiểu thương chợ Đông Ba để tố cáo nhà thơ. Trên diễn đàn họ gọi Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ (Tổng biên tập TC Sông Hương) là ‘bọn tay sai của địch…”

Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia cho biết chi tiết hơn :

“Trần Vàng Sao sinh ở Thừa Thiên – Huế, năm 1961 ông thi đỗ tú tài rồi vào Đại học Huế, tham gia các phong trào đấu tranh của sinh viên cùng thế hệ với Hoàng Phủ Ngọc TườngTrần Quang LongNgô Kha. Từ 1965 đến 1970, ông lên chiến khu và công tác tại Ban Tuyên huấn Thành uỷ Huế, viết báo với các bút danh Nguyễn Thiết, Lê Văn Sắc, Trần Sao.

Năm 1970 ông được đưa ra miền Bắc an dưỡng, chữa bệnh. Ở nơi đây, ông có viết nhật ký gồm những suy nghĩ của ông về cái gọi là ‘hậu phương xã hội chủ nghĩa’ đó và sau đó bị tố cáo, đấu tố và cô lập đến nỗi ông có cảm giác ông không còn được coi là con người mà đã thành ‘một con vật, một con chó’ – theo như Hồi ký ‘Tôi bị bắt (Nhớ lại những năm tháng tôi bị bắt rồi được thả ra và sống như tù)’ sau này của ông.”

Tập hồi ký này có thể đọc được ở diễn đàn talawas. Xin trích dẫn lại vài đoạn ngắn:

Thứ Ba, ngày 31.10.1978

Mong có một bữa cơm không, ăn với cá, cá vụn, với muối và một chút ớt.

Thứ Hai, 22.07.1979

Nhà cứ không có gạo hoài. Có nửa lon, một lon dành cho Bồ Câu. Phải bới sắn non, nhưng chỉ vài ba bữa, còn thì quá non. Hay chưa có được gạo. Giấy trả về làm việc từ 1.6. Chúng mày không có gạo thì chúng mày đói chứ tao có đói đâu …

Và không ai dám nói ra những suy nghĩ của mình về chế độ, thậm chí những suy nghĩ của mình về một người thứ ba cho một người thứ hai nghe. Người ta phải nói láo hoặc nói nhỏ. Kinh khủng thật. Thành ra có một không khí chính trị giả dối trong dân chúng. Nhưng mà chưa ai chết ngay cho. Có người nói: không chết tươi ngay mà chỉ chết mòn, chết dần…

Phần đời (“vô hậu”) này của Nguyễn Đính gần giống như hoàn cảnh sống cơ cực của Nguyễn Hữu Đang, sau 15 năm tù, qua cảm nhận của Phùng Cung : Gót nhọc men về thung cũ/ Quì dưới chân quê/ Trăm sự cúi đầu/ Xin quê rộng lượng/ Chút thổ phần bò xéo cuối thôn.

Cớ sao mà “cách mạng” lại “chiếu cố” Nguyễn Hữu Đang tận tình (và tuyệt tình) như thế? Một trong những nguyên do – có thể nhìn thấy được – là vì ông đã không chịu chấp nhận sự “xộc xệch” trong hiến pháp của nước VNDCCH :

“Do pháp trị thiếu sót mà Cải cách Ruộng đất hỏng to đến thế. Do pháp trị thiếu sót mà quân đội chưa có chế độ binh dịch hợp lý, công an hỏi giấy giá thú đôi vợ chồng ngồi ngắm cảnh trăng lên ở bờ hồ, hộ khẩu rình bên cửa sổ khiến người ta mất ăn, mất ngủ, cán bộ thuế tự tiện vào khám nhà người kinh doanh, ở khu phố có chuyện đuổi nhà lung tung hoặc ép buộc người ở rộng phải nhường lại một phần nhà cho cán bộ hay cơ quan ở. Do pháp trị thiếu sót mà nhiều cơ quan bóc xem thư của nhân viên và một ngành rất quan trọng nọ đòi thông qua những bài báo nói đến mình, làm như một bộ phận của Nhà nước lại có quyền phục hồi chế độ kiểm duyệt mà chính Nhà nước đã bãi bỏ. Do pháp trị thiếu sót, người ta đã làm những việc vu cáo và đe doạ chính trị trắng trợn…” (Nhân văn số 4, phát hành ngày 5.11.1956).

Sáu năm sau, vào năm 1961, “người ta đã trắng trợn vu cáo” Nguyễn Hữu Đang là gián điệp. Mười hai năm sau nữa thì đến lượt Nguyễn Đính bị vu cáo là CIA – theo như ghi nhận của chính nhà thơ, qua cuốn hồi ký thượng dẫn: :

“Khi ra Bắc, ai giao nhiệm vụ cho anh? Nhiệm vụ đó là nhiệm vụ gì? Anh đã gặp ai, ở đâu, bao giờ? Anh đã tổ chức họ như thế nào? Công việc của anh hiện nay đã tiến hành đến đâu? Anh phải nói thật, nói hết, không được giấu giếm. Sinh mạng của anh là do nơi sự thành khẩn của anh quyết định đó…”

Nguyễn Hữu Đang và Nguyễn Đính đều đã trải qua nhiều năm tháng não nề, ê chề, và cay đắng. Họ bị chôn sống nhưng nhất định không chịu chết. Hai ông, nói nào ngay, chỉ là hai nạn nhân tiêu biểu – của hai thế hệ kế tiếp nhau – đã dấn thân vào cuộc cách mạng vô sản (và vô hậu) ở Việt Nam.

Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Đào Duy Anh, Nguyễn Bính, Hoàng Cầm, Phùng Cung, Trần Dần, Trần Duy, Phan Khôi, Dương Bích Liên, Hữu Loan, Phùng Quán, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu… đều không còn nữa nhưng tâm cảm trân trọng và quí mến của mọi người dành cho họ chắc chắn sẽ còn lâu. Thế hệ của Nguyễn Đính (e) khó có mà nhận được tình cảm tương tự.

Sự nông nổi, ồn ào và lố bịch của nhiều người trong bọn họ khiến cho thiên hạ cảm thấy khó gần! Dù vở kịch cách mạng đã hạ màn từ lâu, lắm kẻ vẫn làm bộ như không có chuyện gì đáng tiếc xẩy ra, vẫn cứ xưng xưng coi đó như Một Thời Để Nhớ, vẫn kịch cỡm viết sách tự phác hoạ Chân Dung của thế hệ mình và xem là tác phẩm đã “đưa giấc mơ đẹp’ của một thế hệ đến những thế hệ tiếp nối.”

Họ cố tình quên rằng chính hiến pháp của hai chế độ đệ I và đệ II Cộng Hoà của miền Nam Việt Nam, tuy non trẻ và yếu ớt, vẫn là đồ thật (chớ) không phải đồ sơn. Nó đã bảo vệ cho họ được sống như những con người, với những quyền tự do tối thiểu, để có được “những hình ảnh khí phách” và “những tháng ngày sục sôi” – thay vì bị đạp vào mặt chỉ vì đi tuần hành biểu lộ lòng yêu nước. Họ đã được chế độ hiện hành choàng vào người những vòng hoa (giả) nhưng cứ thế mà đeo mãi cho đến cuối đời.

Tội!


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Hồ Chí Minh & lời ai điếu

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

Chương mở đầu Hồi Ký Tống Văn Công có đoạn :

Ông nội tôi có ba người con, nhưng chỉ có cha tôi là trai. Sau khi cha tôi bị bắt vì tội “làm cộng sản”, ông nội tôi sốt ruột chuyện “nối giòng”. Có người mai mối má tôi là Nguyễn Thị Thâm ở làng Giồng Tre (xã An Ngãi Trung) cho cha tôi…

Sau lễ ra mắt, hai họ quyết định các bước kế tiếp theo tập tục. Cha tôi phải tới “ở rể” tại nhà ông bà ngoại tôi. Trong bữa cơm đầu tiên, ông ngoại tôi cầm chai rượu lên hỏi: “Con có biết uống rượu không”? Cha tôi đáp: “Dạ, có chút đỉnh”. Ông ngoại tôi rót đầy ly nhỏ, đưa cho cha tôi. Cha tôi cầm lấy, cám ơn và uống cạn. Ông ngoại tôi cười lớn nói bỗ bã: “Tao thích mày!”

Tui thì thích hết hai ông: ông ngoại và ông cha của nhà báo Tống Văn Công bởi cả hai đều vui tính, hảo rượu, và (chắc) đều là những trang hảo hớn. Bởi tui cũng sinh trưởng ở trong Nam nên nói như vậy (nghe) cũng kỳ kỳ, và e có điều tiếng eo sèo là mình hơi nhiều máu địa phương hay phân biệt vùng/miền.

Để tránh dị nghị, tôi xin mạn phép mượn đôi lời của một nhân vật khác – từ một vùng đất khác – ghi nhận về những nét “dễ thương” của nơi mà mình chôn rau cắt rún :

Về tính cách ham vui của người dân Nam Bộ, tôi có nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Ở cùng phố với tôi, có anh bạn một hôm đến rủ tôi đến nhà anh ăn mừng sinh nhật Bác Hồ ngày 19-5. Đương nhiên là tôi đi. Đúng một tháng sau, anh lại đến rủ tôi đi liên hoan. Tôi hỏi, dịp gì thế? Anh ta bảo, hôm nay “đầy tháng” Bác Hồ!

Chưa hết, anh rủ tôi đến nhà ăn giỗ bà già. Đúng một tháng sau anh lại đến rủ tôi, nói: hôm nay giỗ bà già tôi! Nghe vậy tôi ngạc nhiên quá, vì vừa ăn giỗ tháng trước. Anh hiểu sự ngạc nhiên này nên giải thích ngay: năm nay nhuận hai tháng tám phải giỗ hai lần!

Vẫn chưa hết. Ngày Phật Đản, anh rủ tôi rồi đến ngày Noel mừng Thiên Chúa Giáng Sinh anh cũng đến mời tôi đi ăn mừng. Tôi thắc mắc vì anh theo đạo Phật cơ mà, anh cười, nói tôi đa tôn giáo! Thế nên hèn chi, ca dao Nam Bộ mới có câu: “Ra đường thấy vịt cũng lùa. Thấy duyên cũng kết, thấy chùa cũng tu!” (Lê Phú Khải. Lời Ai Điếu, Westminster, CA: Người Việt, 2016).

Theo T.S Nguyễn Văn Tuấn, tác giả cuốn hồi ký thượng dẫn sinh năm 1942 tại Hà Nội, học văn khoa tại trường ĐH Sư Phạm Hà Nội 1967, làm việc cho đài Tiếng Nói Việt Nam và sau này bị/được ‘lưu đày’ vào Nam. Ông đã nghỉ hưu, nhưng vẫn còn viết cho truyền thông… lề trái.”

Dù ở hoàn cảnh “lưu đày” nhưng Lê Phú Khải yêu quí và rành rẽ Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long ít ai sánh kịp. Ngoài gần chục tác phẩm viết về miền đất này, ông còn tìm ra được hằng trăm từ kép mà người dân hai miền Nam/Bắc “chia nhau” (trước/sau hay sau/trước) một cách vô cùng độc đáo :

“… ô dù, ốm đau, buồn rầu, bơi lội, bóc lột, cố gắng, co kéo, chọc ghẹo, chán ngán, chặt đốn, cưng chiều, chén bát, chờ đợi, chửi rủa, chậm trễ, cần thiết, cạn kiệt, chia xớt, đưa rước, dạy bảo, dòm ngó, dọn dẹp, dụ dỗ, đùa giỡn, đùi vế, đau ốm, đĩ điếm, khờ dại, điên khùng, dư thừa, giỡn chơi, đui mù, dòm ngó, dọa nạt, đe dọa, hư hỏng, hao tốn, hăm dọa, hối thúc, hù dọa, hung dữ, ham thích, hoảng sợ, hèn nhát … Ví dụ như đui mù thì người Nam nói đui, người Bắc nói mù.”

Thiệt là bất ngờ và thú vị!

Hèn chi mà giáo sư Nguyễn Văn Tuấn không tiếc lời ca ngợi: “Đây là một cuốn sách cần phải có trong tủ sách gia đình. Một cuốn sách bổ sung tuyệt vời cho các tác phẩm của Vũ Thư Hiên, Bùi Tín, Xuân Vũ, Dương Thu Hương, Trần Đĩnh, Huy Đức …”

Tôi rất tán thành với nhận định (“một cuốn sách tuyệt vời”) thượng dẫn, và chỉ hơi lấy làm tiếc là đã không hoàn toàn chia sẻ được với nhà báo Lê Phú Khải về vài đoạn văn (ngăn ngắn) trong hồi ký của ông.

Xin đơn cử một thí dụ:

“Đó là vào năm 1992, một đoàn nhà báo, gồm toàn những nhà báo có ‘máu mặt’, tổ chức lên Đà Lạt nhằm bênh vực chị Đặng Việt Nga, kiến trúc sư và anh Phương cũng kiến trúc sư, hai chủ nhân của ‘Ngôi nhà trăm mái’ đang bị địa phương bắt tháo dỡ vì nhiều lý do không chính đáng.

Đường xa, hết chuyện bàn, tôi nêu câu hỏi: Nếu bây giờ phải chọn hai gương mặt tiêu biểu cho Việt Nam thế kỷ qua thì các vị chọn ai? Mọi người đều chọn nhân vật số một là Hồ Chí Minh. Vậy còn người thứ hai? Cả xe im lặng. Có vị nói: Võ Nguyên Giáp! Tôi phản đối và đưa ra nhân vật thứ hai là Dương Thu Hương! Cả xe nhao nhao phản đối. Có người hỏi: Dương Thu Hương là cái quái gì mà ông lại cho là nhân vật thứ hai sau Hồ chí minh?

Tôi trả lời: chẳng là cái quái gì mà tự cho mình có quyền đứng ngang hàng và dám vỗ vai nhắc nhở các vị đang cai trị dân chúng, thì đó là dân chủ, là xã hội công dân chứ còn gì nữa! Độc lập và dân chủ là hai phạm trù lớn nhất, được cả dân tộc nhắc đến nhiều nhất trong thế kỷ qua. Độc lập thì Hồ Chí Minh là hình tượng, còn dân chủ thì đến Đại Tướng cũng không dám đối thoại với tổng bí thư Lê Duẩn, Dương Thu Hương là thảo dân mà lại tự cho mình quyền ăn nói ngang hàng với các vị đang đứng trên đầu dân, thì đó là hình tượng của dân chủ. Sau hình tượng của dân tộc phải là hình tượng của dân chủ… Chẳng thấy ai trên xe nói gì nữa!”

Tôi không có mặt trong chuyến xe lên Đà Lạt vào năm 1992, và cũng không có khả năng tranh luận nên xin phép được mượn lời của nhà bình luận thời cuộc Vũ Quang Thuận và bác sĩ Phạm Hồng Sơn để góp ý thêm về ông Hồ Chí Minh – nhân vật mà theo nhà báo Lê Phú Khải là “một hình tượng độc lập tiêu biểu của nước Việt Nam” trong thế kỷ vừa qua.

  • Vũ Quang ThuậnThằng đó nó khốn nạn lắm. Nó lừa dân mình. Dân mình ngu si không biết lại còn tung hô, dựng nó lên thành thánh.
  • Phạm Hồng SơnTheo tôi, hiện nay nếu muốn đất nước có tiến bộ, có dân chủ thực sự hay thậm chí là chỉ muốn chính quyền phải cương quyết hơn với sự đe dọa, xâm lấn từ Trung Quốc thì chúng ta rất không nên lấy “cụ Hồ” ra làm tấm gương, trừ khi chúng ta không có đủ thông tin hoặc chỉ muốn có tiến bộ giả dối, nửa vời và chỉ muốn chính quyền vẫn lệ thuộc Trung Quốc. Chỉ cần xem lại một chút lịch sử chúng ta sẽ thấy điều này rất rõ.

Lãnh tụ nào và chính thể nào đã đưa vòng lệ thuộc, cống triều phương Bắc trở lại Việt Nam gần 80 năm sau khi sự phụ thuộc đó đã bị hủy bỏ hoàn toàn kể từ Hiệp ước Patenôtre 1884? Còn lãnh tụ nào và chính quyền nào nếu không phải là chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bắc những cây cầu “răng môi”, “núi liền núi sông liền sông” cho sự lệ thuộc, cống triều (kiểu mới) phương Bắc trở lại Việt Nam từ năm 1950?

Ai là người vừa là Chủ tịch nước kiêm Chủ tịch đảng cầm quyền trong lúc ông Thủ tướng Phạm Văn Đồng hạ bút ký một công hàm công nhận lãnh hải Trung Quốc bao phủ cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa? Chắc chắn 54 năm chưa phải là thời gian quá lâu để mọi người quên mất người đó là Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tại miền Bắc Việt Nam), kiêm chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam và là một chí hữu, một “người thầy vĩ đại” đương thời của Thủ tướng Phạm Văn Đồng…

Cái đau xót và đau buồn chính là việc những người bị trị, những người đang mất tự do, bị áp bức, những người không muốn đi theo cái ác lại vẫn quì lạy, sùng kính một con người đã đưa họ từ những xiềng xích thô kệch, rỉ sét sang những gông xiềng êm ả, tinh vi, bền chắc hơn, đã khai sinh ra một chế độ suy đồi mà họ đang ta thán, đã là một ông trùm của các thủ đoạn dân chủ giả hiệu vẫn được duy trì cho tới hôm nay, đã là một chuyên gia về các kỹ thuật mị dân lão luyện tới mức khiến cho cả một dân tộc đa phần vẫn cứ an tâm, ngáo ngác, trông đợi tự do trong gông cùm và thờ kính chính kẻ đã quàng vào họ bộ gông cùm mới.

Tôi không hề có dụng ý mượn lời của Vũ Quang Thuận và Phạm Hồng Sơn để chỉ trích nhà báo Lê Phú Khải. Tôi chào đời trước hai nhân vật này, và sinh sau tác giả của cuốn hồi ký Lời Ai Điếu. Giữa ba ông tôi chỉ (tình cờ) là một độc giả thuộc thế hệ bắc cầu nên thấy cần ghi lại quan điểm của cả ba để rộng đường dư luận!

Courage sometimes skips a generationLòng dũng cảm đôi khi bỏ qua cả một thế hệ.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Sông cạn

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Năm 1979, nhà văn Nguyên Ngọc được bè bạn ở Cambodia mời xuống thuyền đi dạo chơi và thưởng thức một bữa cháo cá no cành hông luôn. Ra về, ông nói chắc như bắp: “Cá Biển Hồ, cứ vục tay xuống nước, túm lên ngay được một con, to tướng, béo ngậy.”

  • Bộ thiệt vậy sao?
  • Vâng, quả là có đúng như thế thật!

Chả thế mà cái hồ nước ngọt mênh mông này đã từng nuôi sống mấy triệu ngư dân, và là nguồn cung cấp chất đạm chính cho hai phần ba người dân ở Cambodia. Sở dĩ được vậy là nhờ vào dòng Mê Kông, chứ không phải là gì khác.

Bắt đầu từ Tây Tạng nó chảy qua Trung Hoa, Miến, Lào, Thái rồi khi vào đến Xứ Chùa Tháp thì “đụng” Tonlé Sap. Vào mùa nước lớn, áp lực của Mê Kông khiến cho con sông nhỏ bé hơn phải chảy ngược dòng làm tăng thể tích lẫn diện tích Biển Hồ. Tonlé Sap Lake biến thành nơi sinh sống lý tưởng của rất nhiều loài cá nên “cứ vục tay xuống nước, túm lên ngay được một con, to tướng, béo ngậy” không phải là chuyện nói khi vui miệng.

Hai mươi năm trước, một ngư dân ở Bắc Thái còn bắt được một con catfish nặng tới 292 ký ở sông Mê Kông. Tuy thế, dường như, cũng chả mấy ai coi đây là chuyện lạ lùng hay đáng để ngạc nhiên. Có ngạc nhiên chăng là tất cả những điều vừa kể (nay) đều đã trở thành huyền thoại.

Bây giờ thì mấy con giant catfish (và đủ loại cá “khủng” khác nữa) chỉ còn thấy ở … trên bờ. Chúng được người dân địa phương đúc hình bằng xi măng, rồi đặt dọc theo bờ sông  để (coi chơi) làm kỷ niệm – những kỷ niệm buồn!

Bữa nay mà Nguyên Ngọc thò tay xuống Biển Hồ thì chỉ còn … bốc được nước thôi vì hằng trăm cái đập lớn/nhỏ xây trên dòng Mê Kong đã chận đường sinh sản của vô số chủng loại di ngư, và khiến chúng đang dần tuyệt chủng.

Năm 2014, lần đầu tiên vào Biển Hồ, tôi đã thấy đồng bào mình nuôi cá thay vì đi lưới. Cùng lúc, những lúc rảnh rỗi, họ cũng bắt ốc (mỗi ký bán được 4000 riels – cỡ một Mỹ Kim) để kiếm thêm thu nhập. Tết rồi, tôi trở lại nhưng không thấy ai chống ghe loanh quanh giữa những bè lục bình để tìm ốc nữa. Hỏi thăm thì nhận được câu trả lời ráo hoảnh: “Còn đâu nữa mà bắt!”

Khi còn ở Thái Lan, có bữa, đang ngồi lơ tơ mơ hút thuốc lá vặt trên ban công của một cái khách sạn ở Nông Khai thì tôi chợt thấy một con cò trắng giữa sông. Nó đang đứng trên dề lục bình chăng? Không, có thấy bình/bát gì đâu. Hoá ra đoạn sông trước mặt có chỗ cạn gần trơ đáy nên chú cò mới đứng được tỉnh queo trên cát như vậy đó.

Bên Lào cũng không khác. Trụ sở Ủy Ban Sông Mê Kông (Mekong River Commission – MRC) của nước này nằm sát cạnh bờ. Mấy năm trước, mỗi khi đi ngang qua toà nhà này – vào mùa nước lớn – tôi vẫn nghĩ vui rằng: Nếu đứng từ đây mà quăng cần câu máy, dám bắt được cá lắm nha, gẩn xịt thôi mà. Bữa nay thì đất bồi đã xa ra cả cây số rồi, chiều ngang con sông (cũng là ranh giới thiên nhiên của Thái và Lào) đã thu hẹp lại chỉ còn khoảng còn đôi ba trăm mét là cùng. Giữa trưa, đứng bên bờ này nghe rõ tiếng gà gáy (xao xác) bên kia nước láng giềng mà không khỏi có thoáng chút cảm hoài.

Thảo nào mà tổ chức Save the Mekong cảnh báo: “Chúng ta có lẽ là thế hệ cuối cùng có thể chèo thuyền trên dòng sông này, hoặc thậm chí là có thể tưởng nhớ về sự hùng vỹ và rộng lớn một thời của nó.”

Thượng điền tích thủy hạ điền khan! Lào, Thái mà còn khô hạn đến như vậy thì VN – tất nhiên – phải thê thảm hơn nhiều :

Nhà nước VN “đối phó với nguy cơ xoá sổ” này bằng cách nào?

Bằng … nghị quyết, quyết định và chỉ thị!

N.Q 20/NQ-CP, ban hành ngày 17 tháng 11 năm 2017: “Đưa ra những chiến lược có tầm nhìn mới, định hướng chiến lược, các giải pháp toàn diện, căn cơ, đồng bộ, huy động tối đa các nguồn lực và sự tham gia của các thành phần kinh tế để phát triển bền vững ĐBSCL.”

Qua năm 2018, VTC NEWS (đọc được vào hôm 20 tháng 6) ái ngại cho hay: “1,7 triệu người đã rời khỏi đồng bằng Sông Cửu Long.” Thế là Thủ Tướng ký thêm cái Quyết Định 417/QĐ-TTg để ban hành chương trình hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thích ứng với biến đổi khí hậu.”

Đến năm 2020, sau khi nghe báo cáo nhiều hồ chứa, hồ thủy điện, thủy lợi xuống mức tích trữ chỉ đạt được 20-40 phần trăm (so với mức dự tính) thì nhà nước ra “chỉ thị hỏa tốc về việc triển khai các giải pháp cấp bách phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn.”

Nhà Nước quyền biến và linh động (tới) cỡ đó thì kể như là hết biết luôn rồi!

Chả những thế, sau N.Q 2017 và QĐ 2018, cả thế giới đều bàng hoàng khi biết: “Việt Nam trở thành đối tác với Lào trong dự án thủy điện Luang Prabang.” Bỉnh bút Phú Lộc của Tạp Chí Luật Khoa hốt hoảng đặt câu hỏi: “Đầu tư thuỷ điện ở Lào, Việt Nam chung tay huỷ hoại sông Mekong?”

Câu hỏi này được hồi đáp tức thì:

  • S Lê Anh Tuấn, Phó Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Về Biến Đổi Khí Hậu: “Các quan chức Việt Nam đồng lõa với quyết định hợp tác xây dựng dự án thủy điện Luang Prabang phải chịu trách nhiệm lịch sử và chính trị với nhân dân Việt Nam.”
  • S Ngô Thế Vinh, tác giả Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng: “Từ nay Việt Nam sẽ chẳng thể còn một tiếng nói chính nghĩa và thuyết phục nào đối với cộng đồng 70 triệu cư dân sống trong lưu vực sông Mekong và trước cả thế giới.”
  • Giám Đốc Chương Trình Đông Nam Á, Trung Tâm Nghiên Cứu Stimson, Brian Eyler: “Việc một công ty Việt Nam tìm cách xây dựng đập Luang Prabang trên dòng chính sông Me Kong ở Lào, theo tôi, Việt Nam đang phạm sai lầm lớn… làm điều đó chẳng khác nào Việt Nam tự bắn vào chân mình.”

Nói thế thì e rằng tác giả Brian Eyler đã vô tình đồng hoá cái đám lãnh đạo CSVN hiện nay với cả đất nước và dân tộc này rồi. Chúng tôi chả có lý do gì để “tự bắn vào chân mình” hết. Còn bọn họ thì có thể rót luôn súng đại bác vào di sản của tổ tiên, nếu ra tiền, chứ có quan tâm hay đếm xỉa gì đến vài ba (trăm) con đập ở thượng nguồn.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Chùm thơ uất hận

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

 Nhà thơ Trần Vàng Sao từ trần hồi đầu thế kỷ này. Tuy thế, những lời nguyền rủa/mạt sát của ông dành cho những kẻ đồng thời (và cũng có lúc đã từng là đồng chí) chắc sẽ còn gây âm hưởng cho đến … mấy thế kỷ sau:

tau chưởi ngày chưởi đêm

mới bét con mắt ra tau chưởi

chập choạng chạng vạng tau chưởi

nửa đêm gà gáy tau chưởi

giữa trưa đứng bóng tau chưởi

bây có là thiền thừ mười tám con mắt tau cũng chưởi

mười hai nhánh họ bây

cao tằng cố tổ bây

tiên sư cha bây …

 Tác giả Nam Đan, người giới thiệu bài thơ thượng dẫn trên trang Tiền Vệ, đặt câu hỏi: “Điều gì làm cho tâm hồn con người – thi sĩ – phải đau đớn, quằn quại, căm hận, phẫn nộ đến vậy?”

Câu trả lời, có lẽ, không thể tìm được nếu chỉ xét cuộc đời bầm dập của riêng Trần Vàng Sao (TVS) hay bất cứ một trường hợp cá biệt nào. Nỗi phẫn uất dồn nén trong từng câu thơ của tác giả, dường như, cũng là nỗi uất ức đang ngập ứ trong lòng bao người dân Việt.

Tôi sống kiếp tha hương, ở ngoài nỗi đau thương (chung) của đồng bào mình nên không khỏi lăn tăn: sao một nhà thơ lại có thể thốt lên những lời cay nghiệt thế này:

tau chưởi cho cha mẹ bây có chết cũng mồ xiêu mả lạc

đoạ xuống ba tầng địa ngục bị bỏ vào vạc dầu

tau chưởi cho cha mẹ bây có còn sống cũng điên tàn

đui què câm điếc làm cô hồn sống lang thang đầu đường xó chợ

bốc đất mà ăn xé áo quần mà nhai cho bây có nhìn ra

cũng phải tránh xa

tau chưởi cho con cái bây đứa mới đi đứa đã lớn

sa chân sẩy tay đui què sứt mẻ nửa đòi nửa đoạn

chết không được mà sống cũng không được

tau chưởi cho dứt nọc dòng giống của bây cho bây chết sạch hết

không bà không con

không phúng không điếu

không tưởng không niệm

không mồ không mả

tuyệt tự vô dư

tau chưởi cho bây chết hết

chết sạch hết

không còn một con

không còn một thằng

không còn một mống

chết tiệt hết

hết đời bây

Trải nghiệm đớn đau của TVS ra sao tôi không tường tận lắm nhưng tin tức tự quê nhà, trong mấy ngày qua, cũng khiến cho một kẻ xa quê (dù vô tâm đến mấy) vẫn phải cảm thấy băn khoăn:

  • Hôm 1 tháng 9, Giáo Dục Thời Đạicho biết: “Phụ huynh bất ngờ vì giá hơn 800 nghìn đồng một bộ sách giáo khoa”.
  • Hôm 8 tháng 9, Tiền Phongloan tin: “Cổng trường đổ sập 6 trẻ thương vong trụ cổng không có cốt thép”.
  • Hôm 9 tháng 9, Công An Nhân Dânthông báo: “Viện kiểm sát nhân dân TP.Hà Nội đã luận tội, đề nghị mức án đối với 29 bị cáo trong vụ án Đồng Tâm (H.Mỹ Đức) trong đó có 2 mức án tử hình, 1 mức án chung thân về tội giết người”.

Trước đó, trước khi VKSND “luận tội” thì giới truyền thông cũng đã “kết tội” xong xả cả rồi:

  • VTC: Phải có bản án thích đáng cho những kẻ sát nhân ở Đồng Tâm
  • Tuổi Trẻ: Xét xử vụ án giết người, chống người thi hành công vụ tại Đồng Tâm
  • Dân Trí: Xét xử vụ án “Giết người” và “Chống người thi hành công vụ” tại xã Đồng Tâm
  • Người Lao Động: Vụ án Đồng Tâm: Những đối tượng nào đã nhiều lần đổ xăng thiêu chết 3 cảnh sát?

Không riêng chi giới truyền thông, qúi vị dân biểu cũng hăng hái nhập cuộc và đứng hẳn về phía cường quyền. ĐBQH Phạm Văn Hoà lên tiếng: “Việc cố ý giết người của nhóm Lê Đình Kình là hành vi không thể dung thứ và phải có bản án thích đáng cho những kẻ sát nhân ở Đồng Tâm.

Bơ vơ giữa một bầy qủy dữ, những nông dân thấp cổ bé miệng chỉ còn có thể trông chờ vào những luật sư biện hộ. Tuy thế, chính giới người này cũng bị sách nhiễu và đe dọa nặng nề.

Blogger Pham Doan Trang cảnh báo:

“Sự táo tợn, manh động của cơ quan chấp pháp hôm nay tiếp tục được nâng lên một ngưỡng mới khi một số kẻ có hành động đe dọa và xúc phạm các luật sư bào chữa trong vụ Đồng Tâm… Việc công an, côn đồ gây sự và đe dọa các luật sư có lẽ xuất phát từ ý muốn kiểm soát và ngăn chặn, không để các luật sư tiếp tục truyền tải thông tin; hoặc là để cướp tài liệu, phá hồ sơ, cản trở công việc bào chữa của họ.”

Blogger Phạm Thanh Nghiên cho biết thêm:

“Trước khi phiên toà này diễn ra, một số người bạn của tôi (xin phép không nêu danh) đã bị công an triệu tập dài ngày và yêu cầu không được phép viết về vụ Đồng Tâm. Tất nhiên là không chỉ đe doạ… xuông mà còn kèm theo những sức ép kinh khủng khác. Bản thân tôi cũng nhận được những lời cảnh báo nhưng ở mức độ nhẹ hơn.

Và sắp tới, sự bắt bớ có thể sẽ được nhà cầm quyền… khởi động lại. Một, hai, ba hoặc nhiều người nữa sẽ phải bước chân vào vòng lao lý, vào chốn ngục tù không phải vì họ có tội. Mà vì họ dám đứng về lẽ phải, dám đối đầu với thế lực tà ác, và dám viết về vụ án lịch sử Đồng Tâm – điều mà bọn cầm quyền không muốn.

Ôi cái thời chúng ta không chỉ viết bằng những cái gõ phím, mà viết bằng MÁU. Luật sư bảo vệ sự thật, bênh vực lẽ phải cũng phải trả bằng MÁU.”

Bây giờ thì tôi thấu hiểu tại sao mà TVS đã lớn tiếng thoá mạ:

bây là rắn

rắn

toàn là rắn

như cú dòm nhà bệnh

đêm bây mò

ngày bây rình

dưới giường

trên bàn thờ

trong xó bếp

bỏ tên bỏ họ cha mẹ sinh ra

bây mang bí danh

anh hùng dũng cảm vĩ đại kiên cường

lúc bây thật lúc bây giả

khi bây ẩn khi bây hiện

lúc người lúc ma

……

hỡi cô hồn các đảng

hỡi âm binh bộ hạ

hỡi những kẻ khuất mặt đi mây về gió

trong am trong miếu giữa chợ giữa đường

đầu sông cuối bãi

móc họng bóp cổ móc mắt bọn chúng nó

cho bọn chúng nó chết tiệt hết cho rồi

bây giết người như thế

bây phải chết như thế

ác lai thì ác báo

tau chưởi ngày chưởi đêm

mới bét con mắt ra tau chưởi

chập choạng chạng vạng tau chưởi

nửa đêm gà gáy tau chưởi

giữa trưa đứng bóng tau chưởi

bây có là thiền thừ mười tám con mắt tau cũng chưởi

mười hai nhánh họ bây

cao tằng cố tổ bây

tiên sư cha bây

tau chưởi cho bây ăn nửa chừng mẻ chai mẻ chén

xương cá xương thịt mắc ngang cuống họng

tau chửi cho nửa đêm oan hồn yêu tinh ma quỷ

mình mẩy đầy máu hiện hình vây quanh bây đòi trả đầu trả chân trả tay trả hòm trả vải liệm

Ngoài việc nguyền rủa, dân Việt có lẽ cũng không ai quên làm cù nèo và mài dáo mác. Với sự bạo ngược của đám cường hào ác bá hiện nay – ở xứ sở này – thì cái ngày mà chúng bị móc ra khỏi ống cống ̣(chắc) cũng không còn xa lắm nữa.